Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

Thuật giả kim của việc thở hỗn loạn

Người hỏi: một nhà huyền môn người Nga, George
Gurdjieff đã viết bản kí sự về cuộc phiêu lưu tâm
linh của ông ấy được biết như những cuộc gặp gỡ
với những người xuất sắc. Trong cuốn sách này ông
ấy nói rằng ông ấy rất bị ấn tượng bởi cuộc thảo
luận với một tu sĩ Sufi về pranayam và asanas yoga.
Tu sĩ này đã cảnh báo ông ấy đừng làm mọi loại
luyện tập thở, bởi vì bất kì thay đổi nào trong hệ
thống thở tự nhiên cũng sẽ đem tới những mất trật
tự trong cuộc sống với kết quả thảm hoạ. Thầy nói
gì về điều đó?

Có chân lí nào đó trong điều ông ấy nói về
pranayam và những bài tập thở khác. Trong thực tế,
không có lời nói dối nào mà không chứa một mẩu chân
lí; điều đó không thể khác được. Mọi dối trá đều có chút
ít chân lí trong nó. Và chính yếu tố chân lí nhỏ bé này
gây ấn tượng cho người ta. Nhưng cùng với nó, lời dối
trá đi tiếp và tìm ra sự tín nhiệm; bằng không người ta
sẽ không biết về điều đó.
Bây giờ đúng là chúng ta không thể can thiệp và cản
trở những con đường tự nhiên của cuộc sống mình;
bằng không sẽ có rắc rối. Sẽ là tốt nếu chúng ta không
cản trở vận hành tự nhiên của thân thể mình; chúng ta
không nên can thiệp vào cách chúng ta thở, cách chúng
ta bước, đứng hay ngồi. Bởi vì ngay khi chúng ta đặt ra
những cản trở trên con đường của chúng, thì thay đổi
bắt đầu xảy ra.
Nhớ rằng bất kì loại mất nào cũng đều có nghĩa thay
đổi, và việc được cũng có nghĩa thay đổi. Cả mất lẫn
được đều là những thay đổi. Cho nên nếu bạn muốn vẫn
còn như bạn đang thế, thì đúng là bạn đừng nên can
thiệp vào việc thở của mình. Nhưng nếu bạn có chỗ nào
đó để đi, nếu bạn muốn đem tới thay đổi, biến đổi trong
cuộc sống của mình, thế thì bạn sẽ phải nhận lấy nguy
cơ. Nguy cơ là nếu bạn đem tới thay đổi trong hình mẫu
thở của mình, nó sẽ làm thay đổi toàn thể phong cách
sống của bạn. Nếu bạn được thoả mãn với việc là bạn
như hiện thời, nếu bạn cho rằng như bạn hiện tại thế là
được, bạn không cần làm gì cả. Nhưng nếu bạn cảm
thấy rằng như bạn hiện tại là không đủ, thế thì bạn sẽ
phải tạo ra thay đổi.
Và thế thì thay đổi trong việc thở của chúng ta trở
thành quan trọng với chúng ta, quan trọng nhất. Và
ngay khi các bạn tạo ra khác biệt trong cách thở của
mình, nhiều điều trong các bạn sẽ bắt đầu gắn lại với
nhau. Bây giờ, sau hàng nghìn kinh nghiệm, người ta phát hiện ra cái gì là cái sẽ bị bỏ đi khỏi bạn và cái gì là
cái sẽ được gắn lại và được thêm vào cho bạn. Chính
bây giờ là tốt khi vấn đề được giải quyết - một khoa học
thực sự.
Vài điều cần được biết đối với tất cả chúng ta từ
những kinh nghiệm hàng ngày của mình. Chẳng hạn,
khi bạn giận dữ, việc thở của bạn trải qua thay đổi; nó
không còn như cũ nữa. Và việc thở thay đổi ngay cả khi
bạn cảm thấy yên tĩnh và im lặng; nó sẽ không là cái nó
vẫn thường là vậy. Và nếu bạn biết cách thở trong trạng
thái im lặng, thế thì bạn có thể tạo ra trạng thái đó bằng
việc điều chỉnh việc thở của mình theo cách tương ứng
với im lặng.
Cả tâm trí và việc thở đều được liên nối với nhau.
Khi tâm trí bị khuấy động về dục, hình mẫu của
việc thở lập tức trải qua thay đổi. Cho nên trong trạng
thái khuấy động dục bạn không cho phép hình mẫu thở
của mình thay đổi, dâm dục sẽ biến mất ngay. Ham
muốn dục sẽ dừng lại; nó không thể kéo dài lâu được.
Để bất kì cái gì xảy ra, mọi thứ trong bộ máy thân thể
đều cần ở vào một trạng thái đặc biệt liên kết với mọi
thứ khác. Cho nên nếu bạn bắt đầu thở chậm khi một
con sóng giận dữ mạnh tấn công bạn, giận dữ sẽ bay
hơi; bởi vì nó sẽ thấy không có chỗ trong việc thở chậm
để ở lại như nó vẫn thế.
Do đó kỉ luật của việc thở có ý nghĩa lớn lao. Thay
đổi trong việc thở ảnh hưởng tới thay đổi tương ứng
trong tâm trí bạn. Và không có nguy hiểm gì được bao
gồm khi nó đã được thiết lập - và được thiết lập rất khoa
học - cách tâm trí cư xử trong những trạng thái thở khác
nhau. Có nguy hiểm tất nhiên trong những giai đoạn
khởi đầu của thực nghiệm này. Trong thực tế, nguy
hiểm có đó ngay cả bây giờ trong giai đoạn thực nghiệm
của mọi cuộc tìm kiếm phiêu lưu mới trong Cuộc sống.
Nhưng khi thực nghiệm này thành công nó biến thành
qui luật khoa học. Chẳng hạn, không thể làm cho một
người giận dữ được nếu người đó giữ việc thở vững
chắc và bình thản của mình. Cả hai việc thở giận dữ và
bình thản không thể đi đôi với nhau được. Điều ngược
lại cũng là có thể. Nếu bạn bắt đầu thở theo cách bạn
thở trong giận dữ, bạn sẽ thấy ngay việc phát sinh cơn
giận trong tâm trí mình.
Pranayam, hay kỉ luật của việc thở, đã khám phá ra
nhiều phương pháp để làm biến đổi tâm trí bạn.
Cũng tốt để hiểu khác biệt giữa điều chúng ta gọi là
thở nhân tạo và điều chúng ta gọi là thở tự nhiên. Điều
các bạn biết như thở tự nhiên không phải là cái tự nhiên
đó. Nếu các bạn hiểu nó đúng, các bạn sẽ biết rằng nó
tất cả đều là thở nhân tạo mà các bạn đã trở nên quen
thuộc. Bởi vì các bạn đã từng thở theo cách này trong
thời gian rất dài, ngay từ thời thơ ấu của mình, nên các
bạn đã trở nên quen với nó. Nó đã trở thành thói quen
của bạn - bản tính thứ hai. Thực sự bạn không biết việc
thở tự nhiên là gì.
Các bạn thở theo cách này ban ngày, và ban đêm
các bạn thở theo cách hoàn toàn khác. Việc thở ban
ngày của các bạn là nhân tạo. Ban đêm trong khi ngủ,
thở tự nhiên chiếm lĩnh - quá trình này, cái vẫn vận
hành trong giấc ngủ của bạn, là tự nhiên hơn thở ban
ngày của bạn.
Chúng ta đã lâm vào một thói quen thở nào đó trong
giờ làm việc, cái không tự nhiên, và có lí do cho nó.
Nếu bạn có chút ít tỉnh táo về cách thở của mình khi bạn
trong đám đông và khi bạn một mình, bạn sẽ thấy rằng chúng hoàn toàn khác lẫn nhau. Các bạn cũng thấy rằng
cách thở của các bạn thay đổi ngay khi bạn một mình
sau khi đã rời bỏ đám đông.
Bạn thở theo một cách thức nào đó trong khi bạn
đang ở cùng đám đông, và bạn thở hoàn toàn khác khi
một mình. Bị bao quanh bởi đám đông, tâm trí bạn căng
thẳng và hơi thở bạn ngắn và nông; nó không đi sâu.
Nhưng khi bạn ngồi một mình và thảnh thơi, việc thở
của bạn trở lại sâu. Và khi bạn lên giường ban đêm, nó
trở thành hoàn toàn sâu trong giấc ngủ của bạn. Bạn
chưa bao giờ thở sâu thế lúc ban ngày; khi thức dậy, bạn
chưa bao giờ thở tự nhiên và sâu đến mức nó to và bạn
nghe thấy nó.
Điều được biết là việc thở tự nhiên của chúng ta
không phải là tự nhiên; nó chỉ là việc thở được huấn
luyện và nhân tạo. Nó bị nắn theo hình mẫu đến mức nó
đã biến thành thói quen.
Trẻ con thở theo cách hoàn toàn khác. Đưa một đứa
trẻ vào giấc ngủ và rồi quan sát nó; nó thở bằng bụng,
và khi nó thở chính bụng của nó dâng lên và hạ xuống.
Nhưng người lớn thở bằng ngực của mình, và do vậy
chính ngực của họ chuyển động lên và xuống cùng việc
thở. Trẻ con thở bằng bụng một cách tự nhiên. Và nếu
bạn bắt đầu thở theo cách trẻ con thở, tâm trí bạn sẽ dần
đi vào trong cùng trạng thái như của đứa trẻ đó; tâm trí
bạn sẽ hồn nhiên như tâm trí đứa trẻ. Hay ngược lại, nếu
bạn trở nên hồn nhiên như đứa trẻ hồn nhiên, bạn sẽ bắt
đầu thở bằng bụng của mình.
Đó là lí do tại sao tượng Phật được làm ở Nhật Bản
và Trung Quốc hoàn toàn khác với tượng được làm ở
Ấn Độ. Ở Ấn Độ, hình ảnh của Phật có bụng nhỏ và
ngực lớn. Điều đó hoàn toàn khác ở Nhật Bản và Trung
Quốc; tất cả hình ảnh của ông ấy ở những nước này đều
có bụng lớn và ngực nhỏ. Với chúng ta, tượng Phật của
Nhật Bản và Trung Quốc trông có vẻ kì dị; chúng ta có
thể cho rằng chúng méo mó và xấu xí. Nhưng trong
thực tế, đó là điều phải; bởi vì khi một người của im
lặng như Phật thở, thì người đó thở bằng bụng mình -
cách thở tự nhiên.
Một người hồn nhiên như Phật không thể thở bằng
ngực được, điều phi tự nhiên và nhân tạo. Và khi người
ta thở bằng bụng, bụng nhất định phải to và phình ra.
Cho nên bụng lớn của tượng Phật là mang tính biểu
tượng. Thực tế nó có thể không to đến vậy, nhưng nó
phải được miêu tả theo cách nó đã được miêu tả. Và lí
do là ở chỗ một người như Phật thở bằng bụng, và ông
ấy hồn nhiên như trẻ con.
Khi chúng ta hiểu điều này, chúng ta có thể tiến
thêm các bước nữa tới việc thở tự nhiên. Như nó đấy,
việc thở của chúng ta là phi tự nhiên, nhân tạo. Tu sĩ
Sufi kia là sai khi bảo các bạn đừng thở kiểu nhân tạo.
Trong thực tế, việc thở của chúng ta đã đủ nhân tạo, đủ
phi tự nhiên rồi. Nhưng khi việc hiểu của chúng ta về nó
được sâu sắc hơn, chúng ta sẽ thở tăng dần tính tự
nhiên. Và khi việc thở của chúng ta hoàn toàn tự nhiên,
khả năng lớn nhất của cuộc sống chúng ta sẽ bắt đầu
hiện thực hoá và hiển lộ bản thân nó từ bên trong.
Cũng tốt mà biết rằng việc thực hành thở nhân tạo
bất thần là có ích lợi.
Tại đây, một điều nên được hiểu cho rõ ràng: rằng
chỗ mà có được thì cũng có cả mất nữa. Người quản lí
cửa hàng được lợi nhuận và bị tổn thất nữa theo cùng
một mức độ. Và người khác đánh bạc cũng là người
được và là người mất theo cùng mức độ. Tỉ lệ được và mất bao giờ cũng như nhau. Cho nên tu sĩ Sufi này đang
nói rằng điều nguy hiểm là can thiệp vào việc thở của
người ta. Nhưng điều đó chỉ là chân lí một nửa. Nó có
đầy các khả năng nữa. Nó là việc đánh bạc.
Cho nên nếu đôi khi chúng ta thở chút ít theo cách
thức hoàn toàn phi tự nhiên - phi tự nhiên theo nghĩa
chúng ta chưa bao giờ thở theo cách này - chúng ta sẽ
bắt đầu nhận biết về những trạng thái rất mới, những
tình huống mới bên trong mình. Đây là những tình
huống trong đó chúng ta có thể phát điên, và chúng ta
cũng có thể được giải thoát trong những tình huống như
vậy. Chúng ta có thể điên và chúng ta cũng có thể trở
nên tự do trong những tình huống như vậy. Cả hai khả
năng đều có đó. Và vì nó có đó nên chúng ta những
người tạo ra những tình huống này trong mình, chúng ta
có thể kiểm soát rất tốt và hoàn tác lại chúng khi chúng
ta nghĩ nó là cần thiết. Cho nên không có nguy hiểm.
Nguy hiểm là có thể chỉ nếu chúng ta không thể hoàn
tác lại được chúng. Nhưng bởi vì chúng ta đã đem
chúng vào sự hiện hữu, chúng ta có thể chấm dứt chúng
ngay khi chúng ta muốn.
Những tình huống như vậy là trong tay bạn, bởi vì
mọi khoảnh khắc bạn đều biết bạn đang chuyển đi đâu,
liệu bạn có đang di chuyển tới phúc lạc hay bạn đang di
chuyển tới khổ, liệu bạn đang di chuyển tới an bình hay
tới nguy hiểm. Tại mọi bước bạn đều biết rõ ràng điều
gì đang xảy ra. Cho nên không có nguy hiểm về bất cứ
cái gì.
Và nếu hình mẫu của việc thở bị thay đổi rất bất
thần và mạnh mẽ, thế thì toàn thể trạng thái bên trong
của bạn trải qua thay đổi hoàn toàn. Chúng ta không bao
giờ có thể biết, theo cách thở quen thuộc của mình, rằng
chúng ta tách rời khỏi thân thể. Thói quen đã trở thành
ăn sâu trong chúng ta đã bắc cầu qua hai điều này; nó có
tác dụng như chiếc cầu bắc giữa thân thể và tâm trí, và
chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc là một của
chúng.
Điều đó cũng giống như bạn về nhà mọi ngày, và
mọi ngày khi bạn về tới nhà bạn tự động quay xe và
thấy mình đứng trên hành lang. Bạn không phải nghĩ về
nó - chẳng bao giờ. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một tối
khi bạn quay xe sang trái như bạn vẫn thường làm mọi
ngày, chiếc xe quay sang phải, và con đường quen
thuộc của bạn biến mất, và thay vào đó là một con
đường hoàn toàn khác xuất hiện trong tầm nhìn? Bạn
bỗng nhiên đâm ra phân vân và hoang mang và thấy
mình ở trong trạng thái tâm trí rất kì lạ và không thể tin
nổi. Lần đầu tiên bạn sẽ trở nên hoàn toàn nhận biết.
Sự kì lạ của một việc lập tức làm rung chuyển bạn
ra khỏi lối mòn của vô thức; nó đặt dấu chấm hết cho
giấc ngủ tâm lí của bạn. Vô thức của bạn có thể chẳng
bao giờ chấm dứt trong một thế giới được tổ chức và ổn
định tốt, và nơi mà mọi thứ cứ tự lặp lại nó một cách
máy móc mọi ngày. Vô thức của bạn cứ diễn ra khi điều
gì đó bất ngờ, kì lạ và đáng ngạc nhiên xảy ra, và xảy ra
một cách bất thần.
Chẳng hạn, tôi đang nói với các bạn ở đây. Điều
này sẽ không đem bạn ra khỏi trạng thái vô ý thức.
Nhưng nếu bỗng nhiên cái bàn này bắt đầu nói, thì
không người nào có thể vẫn còn vô ý thức ở đây được.
Bạn sẽ không thể vẫn còn vô ý thức được nếu cái bàn
này bắt đầu nói. Ngay cả một nghìn lời của tôi cũng
không đủ; bạn sẽ nghe chúng một cách vô ý thức.
Nhưng một lời từ cái bàn này và tất cả các bạn sẽ đạt tới trạng thái nhận biết mà các bạn chưa bao giờ biết trước
đây. Tại sao? Bởi vì nó kì lạ, nó kì quái, nó ra ngoài con
đường. Chính cái kì lạ này làm đảo lộn trạng thái bên
trong của bạn và phá vỡ những hình mẫu hành vi đã
được thiết lập.
Cho nên khi các kinh nghiệm về việc thở đẩy bạn
vào một tình huống rất kì lạ, thế thì những khả năng
mới của sự phát triển tâm linh mở ra trước bạn; bạn đạt
tới nhận biết, và thế rồi bạn thực sự thấy điều gì đó.
Và nếu ai đó có thể phát điên một cách có ý thức,
điều đó sẽ là kinh nghiệm lớn; không kinh nghiệm nào
khác có thể lớn hơn thế này. Nhưng người đó phải điên
và vậy mà vẫn còn nhận biết. Trong thiền động tôi phát
minh ra, một không gian như vậy có thể được tạo ra, nơi
bạn vẫn còn tràn đầy nhận biết bên trong, và bạn cứ
phát điên hoàn toàn bên ngoài. Bạn phát điên đến mức
nếu ai đó khác mà ở vào chỗ bạn thì bạn sẽ không ngần
ngại gọi người đó là điên. Cho nên bạn rất có thể gọi
bản thân mình là điên. Nhưng đồng thời bạn nhận biết
và quan sát rằng mình đang múa may và quay tròn. Cho
nên cả hai điều xảy ra đồng thời: nhận biết của bạn và
phát điên của bạn.
Nhưng vì bạn nhận biết, làm sao bạn có thể thực sự
phát điên được? Vậy mà điều đang xảy ra cho bạn hệt
như với người điên. Chính trong tình huống như vậy mà
một cảm giác về sự kì lạ hoàn toàn tràn ngập bạn, và
bạn tách bản thân mình khỏi thân thể. Không phải là
bạn làm điều đó, sự tách bạch xảy ra theo cách riêng của
nó. Bạn bỗng nhiên thấy rằng tất cả mọi mối nối, tất cả
mọi trao đổi giữa bạn và thân thể đã gãy ra, rằng tất cả
mọi cây cầu đã gãy, và mọi điều chỉnh đã sụp đổ. Bạn
thấy rằng mọi thứ liên quan đã trở thành không liên
quan; sự thích hợp hàng ngày của mọi thứ tất cả đều bị
mất đi. Mọi thứ đang xảy ra theo cách riêng của chúng.
Tay bạn đang di chuyển mà không có ý muốn của bạn
để di chuyển chúng. Mắt bạn trào nước mắt mà không
có việc muốn khóc của bạn. Bạn muốn dừng tiếng cười,
nhưng nó cứ tiếp tục mặc bạn.
Việc tạo ra khoảnh khắc của sự kì lạ như vậy là rất
quan trọng cho nhận biết. Và chúng được tạo ra nhanh
chóng thông qua việc thở hơn là thông qua bất kì cái gì
khác. Nơi các kĩ thuật khác cần tới hàng năm, việc thở
sẽ làm điều đó trong mười phút. Điều này là vì việc thở
được gắn sâu sắc với bản thể chúng ta đến mức ngay cả
một cú chạm khẽ vào nó cũng làm vang động toàn bộ
bản thể chúng ta.
Chúng ta đã có những kĩ thuật rất có giá trị về việc
thở, nhưng tôi không đánh giá cao pranayam hay bất kì
cách thở có phương pháp nào. Bởi vì ngay khi bạn hệ
thống hoá việc thở, nó mất đi khả năng tạo ra tình
huống của sự kì lạ cho bạn. Khi một người thực hành
việc thở theo phương pháp - hít vào bằng lỗ mũi này,
giữ nó lại một chốc và thế rồi thở nó ra bằng lỗ mũi kia
- điều đó trở thành mang tính phương pháp, nó trở thành
một phần của thói quen người đó. Và nó là việc thở theo
thói quen, nó là việc thở có huấn luyện mà đến lượt nó,
lại bắc cầu cho bạn với thân thể.
Việc thở mà tôi dạy đây tuyệt đối là không phương
pháp; nó không có qui tắc nào; nó là ngớ ngẩn. Nó
không phải là vấn đề thở ra, thở vào và giữ lại hơi thở
theo cách thức có phương pháp. Nó là cách tạo ra cảm
giác kì lạ trong bạn - để đặt bạn ra ngoài cơ cấu, đặt bạn
vào trong sự lẫn lộn và hỗn loạn hoàn toàn đến mức bạn
không thể đưa nó lại về trật tự. Nếu bạn tạo ra một trật tự trong cái mất trật tự này, tâm trí bạn - cái tinh ranh
thế - sẽ chẳng mấy chốc chấp nhận nó và tự điều chỉnh
mình theo nó. Việc thở theo bất kì cách thức có phương
pháp nào cũng sẽ biến thành hệ thống. Nhưng nó sẽ mất
đi tất cả mọi điều kì lạ về nó.
Điều tôi muốn là ở chỗ một khoảnh khắc phải tới
khi tất cả mọi gốc rễ của bạn, tất cả mọi liên kết của bạn
bị bẻ gãy trong một nhát quét. Một ngày phải tới khi
bạn bỗng nhiên thấy rằng bạn không có gốc rễ, không
danh tính, không liên kết với bất kì cái gì; rằng bạn
không có cha mẹ, không anh chị em, rằng bạn thậm chí
không có thân thể cho mình. Tôi muốn các bạn hiện hữu
trong trạng thái ngớ ngẩn đó nơi người ta dường như
mất trí.
Nhớ rằng nếu các bạn đi vào trong trạng thái vô
nhận biết và không có nỗ lực của mình, các bạn sẽ thực
sự phát điên. Nhưng nếu các bạn đạt tới nó qua nỗ lực
của mình với nhận biết, các bạn không thể phát điên
được. Bởi vì thế thì nó sẽ trong tay các bạn, và các bạn
có thể theo dõi nó từ bất kì khoảnh khắc nào.
Theo cách nhìn của tôi, nếu một người bị chứng rối
loạn tinh thần mà được khuyên tập thiền động, có mọi
khả năng khôi phục được sự lành mạnh và mạnh khoẻ
cho người đó. Bởi vì một khi người đó thấy rằng mất trí
là điều bản thân người đó tạo ra, người đó cũng sẽ biết
cách mình có thể chữa nó. Trong quá khứ, mất trí đã tự
nó nắm bắt người đó; người đó không nắm nó trong tay.
Việc thiền này sẽ chỉ ra cho người đó cách người đó có
thể nắm trong tay việc tạo ra nó và thế rồi gạt bỏ nó. Tất
nhiên, kĩ thuật này có rủi ro của nó - nhưng rủi ro này
xứng đáng nhận lấy; nó tràn đầy các khả năng. Cho nên
một người có thể được chữa khỏi chứng mất trí thông
qua thiền động. Nó có thể được dùng để trị liệu các ốm
yếu tinh thần một cách có kết quả.
Với người bình thường khi tập cách thiền này, có
thể nói có bảo đảm rằng người đó sẽ không bao giờ
thành con mồi cho mất trí - bởi vì bây giờ người đó tự
mình biết mất trí được tạo ra như thế nào. Cho nên
người đó rất có thể tắt đi điều người đó đã bật lên. Bây
giờ sẽ không thể nào làm người đó thành điên được, bởi
vì bây giờ người đó bao giờ cũng sẽ còn là người chủ
riêng của mình. Bây giờ người đó biết bí mật của mất trí
và lành mạnh.
Việc thở mà tôi đang nói tới đây là không theo nhịp
điệu và không phương pháp. Các bạn không thể lặp lại
nó ngày hôm nay theo cách các bạn đã làm nó ngày
hôm qua, bởi vì nó không có bất kì phương pháp nào.
Không chỉ bạn không thể lặp lại việc trình diễn của
mình ngày hôm qua - thậm chí hôm nay bạn cũng
không thể chấm dứt nó theo cách bạn sẽ bắt đầu. Nó sẽ
là điều nó sẽ là.
Và ý định duy nhất của nó là để thấy rằng những
ước định của tâm trí bạn, những thói quen của nó,
những hình mẫu đã thiết lập của nó đều bị chùng ra.
Ông tu sĩ Sufi kia là phải khi nói rằng những chi tiết cần
thiết của cấu trúc thể chất và tinh thần của bạn sẽ bị
chùng ra; thực tế chúng phải bị làm chùng ra. Tại
khoảnh khắc này, cấu trúc này - với những ước định của
nó, những hình mẫu và thói quen đã được thiết lập - vẫn
còn chặt tới mức bởi vì nó, việc tách linh hồn ra khỏi
thân thể là không thể được. Chỉ khi nó hoàn toàn bị làm
chùng lại bạn mới biết rằng có cái gì đó còn hơn nữa
bên trong bạn, cái được nối với thân thể và đã không bị
tách ra.

Nhưng kể từ khi việc làm chùng này xảy ra qua việc
thở, chính là qua một loại thở đặc biệt mà nó trở thành
chặt lại; các bạn không phải làm gì để thắt chặt nó.
Không cần phải làm cái gì đó để điều chỉnh nó; tự nó
điều chỉnh rồi. Tất nhiên, nếu việc thở làm phát sinh ra
một loại mất trí nào đó bên trong bạn mà lọt ra ngoài sự
kiểm soát của bạn - nếu nó trở thành sự ám ảnh và liên
tục cho phần còn lại của ngày - thế thì nó thực sự sẽ là
điều xấu.
Nhưng nếu ai đó làm nó chỉ trong một giờ và thế rồi
bỏ nó, thế thì mọi thứ rơi trở lại vị trí riêng của nó. Sau
đó chỉ kí ức về kinh nghiệm này là còn lại với bạn. Bạn
sẽ nhớ cách bạn đã trở thành tách rời khỏi thân thể, và
cách bạn đã được nối liền với nó theo cách thức có trật
tự. Nhưng bây giờ bạn biết, thậm chí sau khi được nối
với thân thể, rằng bạn là tách biệt. Bạn biết rằng bạn là
tách biệt mặc cho việc thống nhất trở lại với thân thể
sau khi việc thiền đã hết.
Do đó, cách thở này là không thể thiếu được; chúng
ta không thể thực hành mà thiếu nó.
Cho nên ông tu sĩ Sufi kia là phải khi nói rằng việc
can thiệp vào việc thở là nguy hiểm. Nó có nguy hiểm
của nó, quả vậy. Nhưng nếu chúng ta đang tìm kiếm
một cuộc sống dư thừa, thì chúng ta phải được chuẩn bị
để đối diện với nguy hiểm lớn như mục đích của chúng
ta. Nhưng có nguy hiểm và có nguy hiểm. Có nguy
hiểm bất chợt đương đầu với chúng ta theo cách riêng
của nó, và chúng ta không thể thoát khỏi nó được. Và
có nguy hiểm chúng ta mời tới và tạo ra, và điều đó
chúng ta có thể thu được vào bất kì lúc nào chúng ta
muốn.
Chẳng hạn, trong quá trình thiền này các bạn trải
qua đủ mọi loại chuyển động và hành động. Ai đó la
hét, ai đó khác đang nhảy múa và ca hát. Nhưng nếu họ
được yêu cầu dừng mọi thứ lại, họ có thể làm như vậy
ngay lập tức. Họ sẽ dừng lại, bởi vì mọi thứ đều là việc
làm riêng của họ - đây là một điều. Và điều đó hoàn
toàn khác nếu những việc như khóc lóc và nhảy múa
xảy ra cho bạn một cách không cố ý, không có sự hợp
tác của bạn. Một người điên đang nhảy múa trên đường;
việc nhảy múa của người đó là bị cưỡng bách. Người đó
không biết điều gì về việc đó cả, cho nên người đó
không thể làm gì để dừng lại việc đó.
Hiểu biết của tôi là ở chỗ chẳng chóng thì chầy,
việc thiền này mà tôi đang trao cho các bạn sẽ là cách
trị liệu có ý nghĩa lớn, và điều tất yếu là nó sẽ trở thành
một cách điều trị bệnh tinh thần và phục hồi sức khoẻ
cho họ. Và nếu có thể, mọi đứa trẻ đến trường cũng trải
qua việc thiền này, thì nó sẽ được cứu khỏi bị mất trí
trong cả đời mình. Nó sẽ không bao giờ phát điên; nó sẽ
được miễn nhiễm khỏi bệnh này, bởi vì thế thì nó sẽ là
người chủ riêng của mình, người chủ của tâm trí thân
thể mình.
Ông tu sĩ Sufi này, mà với ông ấy Gurdjieff đã có
cuộc thảo luận về việc thở, là một lữ khách trên một con
đường khác. Ông ấy chưa bao giờ thực hành việc thở,
và ông ấy đã kinh nghiệm tình huống của sự kì lạ qua
cách khác nào đó. Và đây là rắc rối - rắc rối là ở chỗ
người biết này về một con đường mất thời gian trong
việc gọi các con đường khác là sai. Nhưng một điều là
đúng hay sai đều trong hoàn cảnh của một con đường
đặc biệt. Điều là sai với con đường này có thể hoàn toàn
đúng cho con đường khác.


Chẳng hạn, có cái chốt trong bánh của chiếc xe bò
kéo. Bây giờ một người với chiếc xe máy có thể nói
rằng chiếc chốt này hoàn toàn vô dụng. Nó có thể vô
dụng trong hoàn cảnh của chiếc xe máy, nhưng nó hữu
dụng cho chiếc xe bò như bất kì phần nào của chiếc xe
có thể hữu dụng cho chiếc xe bò này. Cho nên chẳng có
gì sai hay đúng tuyệt đối cả; mọi thứ đều tương đối.
Nhưng sai lầm này bao giờ cũng được lặp lại. Ông
tu sĩ Sufi này đã đạt tới thông qua con đường khác, con
đường có những kĩ thuật khác. Người Sufi nói chung
làm trong giấc ngủ của mình, và không làm theo việc
thở. Với ông ấy, việc thức đêm có ý nghĩa lớn lao. Ông
ấy sẽ giữ cho mình thức hàng tháng; và một tình huống
kì lạ có thể nảy sinh từ việc thức lâu dài và thường
xuyên, như nó nảy sinh từ việc thở nhanh và mạnh. Nếu
bạn có thể đi và không ngủ cả tháng tròn thì bạn sẽ đi
vào cùng một trạng thái của điên khùng, tới qua việc thở
sâu và hỗn loạn.
Bởi vì ngủ là hiện tượng rất tự nhiên - nó cũng tự
nhiên như thở vậy - nên người Sufi làm việc công kích
trực diện vào giấc ngủ, và do vậy trải qua những kinh
nghiệm rất kì lạ và kì quái.
Nhưng thức đêm có nguy hiểm riêng của nó, và
chúng còn lớn hơn những nguy hiểm cố hữu trong thở
hỗn loạn. Đây là quá trình dài và kéo dài: bạn phải giữ
cho mình thức hàng tháng trời - thức đêm một hay hai
ngày là vô dụng. Và nếu điều gì đó đi sai sau khi bạn
giữ thức đêm trong hai tháng, cái sai đó không thể chữa
lại trong một hay hai giây. Nhưng cái sai nảy sinh sau
mười phút thở có thể chữa lại trong một giây. Nếu bạn
đi vào giấc ngủ sau hai tháng thức thường xuyên, bạn
không thể bù lại mất mát trong hai mươi bốn giờ. Có
thể, bạn sẽ thậm chí không có khả năng ngủ sau hai
tháng thức đêm.
Con đường của người Sufi còn nguy hiểm hơn, mặc
dầu thức đêm là rất hữu dụng. Người tìm kiếm cứ thức
hết đêm nọ tới đêm kia và chờ đợi một cách kiên nhẫn.
Ông tu sĩ Sufi này, người đã gặp Gurdjieff, đã đi theo
con đường này.
Người Sufi cũng dùng nhảy múa làm phương cách.
Nhảy múa cũng có thể là phương tiện để đem tới việc
tách thân thể và linh hồn, nhưng nhảy múa phải là điều
không được học và thực hành và chuẩn bị. Nếu bạn
nhảy múa theo cách đã được thực hành, nó sẽ không có
tác dụng. Như tôi đã nói, rằng việc thở theo cách của
pranayam không thể đem tới tách rời thân thể và linh
hồn - bởi vì pranayam là phương pháp luận - một cách
tương tự, nếu ai đó lặp lại điệu vũ đã được chuẩn bị,
người đó chẳng mấy chốc sẽ đồng nhất bản thân mình
với thân thể. Nhưng nếu tôi bảo một người trong các
bạn ở đây, người không biết nhảy múa rằng người đó
nên nhảy múa, và người đó bỗng nhiên bắt đầu nhảy
múa và nhảy nhót, người đó có thể làm được điều đó.
Đây là điều kì lạ đến mức bạn không thể đồng nhất bản
thân mình với nó được, bạn không thể biết rằng bạn
đang nhảy múa.
Cho nên có hai phương pháp mà người Sufis dùng:
thức đêm và nhảy múa. Một số phương pháp khác cũng
đã được sử dụng. Chẳng hạn, người Sufis dùng len làm
áo quần của họ. Họ mặc quần áo len trong khí hậu nóng
bức điển hình của sa mạc - đó là cách họ chống lại thân
thể. Ai đó nhịn ăn cũng là chống lại thân thể. Ai đó ngồi
với một chân đặt lên đinh nhọn, và người khác ngủ trên
giường gai. Tất cả những điều này đềy là những phương cách để tạo ra tình huống tâm lí kì lạ nơi sự tách biệt có
thể xảy ra.
Tuy nhiên điều tự nhiên là người hành hương của
một con đường đặc biệt không thể nghĩ được rằng cùng
tình huống này có thể được tạo ra bởi các phương cách
khác nữa. Ông tu sĩ của Gurdjieff chẳng biết gì về
pranayam. Và ông ấy sẽ tự làm hại mình nếu ông ấy
thực hành điều gì đó giống nó; nó sẽ thực sự gây hại
cho ông ấy. Trong trường hợp của ông ấy, cái hại có thể
là đau khổ. Điều đó cũng giống như dùng bánh xe bò
kéo thế vào cho xe máy - điều đó sẽ là nguy hiểm. Bây
giờ nếu một người thức đêm mà thực hành pranayam,
người đó nhất định phát điên ngay lập tức, tẩu hoả nhập
ma. Người đó sẽ đi ra ngoài tâm trí mình ngay trong
đêm. Và có những lí do chính đáng cho điều đó.
Con người của bạn không thể chịu đựng được tác
động tổ hợp của hai bài tập - thức đêm và pranayam. Đó
là lí do tại sao người Jaina đã không dùng pranayam,
bởi vì họ đã tạo ra cái kì lạ đó qua việc nhịn ăn. Nếu họ
tổ hợp việc nhịn ăn với pranayam, họ sẽ trong rắc rối
sâu sắc - nguy hiểm này thực sự là lớn. Pranayam không
hữu dụng theo bất kì cái gì đối với người Jaina; sư Jaina
sẽ nói rằng nó tất cả đều vô dụng. Nhưng ông ấy không
biết rằng bằng việc phủ nhận pranayam ông ấy chỉ
muốn nói rằng nó không có chỗ trong loại kỉ luật tâm
linh của ông ấy. Nhịn ăn làm cho ông ấy điều pranayam
làm cho người khác.
Chính bởi lí do này mà người Jaina đã không quan
tâm tới asanas của yoga và phần còn lại của nó, bởi vì
chúng có thể gây hại trầm trọng cho người đang trải qua
việc nhịn ăn dài ngày. Những người tới với asanas yoga
đều cần thức ăn rất nhẹ và béo như sữa, bơ và ghee,
đem lại thoả mãn sâu sắc. Việc nhịn ăn đi ngược lại
điều đó.
Nhịn ăn làm cho bạn khô đi và cằn cỗi từ bên trong.
Nhịn ăn kích thích cơn đói của bạn, và nó sẽ làm hỏng
việc thực hiện asanas trong trạng thái đói cồn cào. Ngọn
lửa của cơn đói có thể dâng lên não bạn và bạn có thể
phát điên. Cho nên sư Jaina sẽ bảo bạn rằng yogasanas
chẳng có gì bản chất về chúng cả, chúng vô giá trị.
Nhưng với con đường dùng chúng, các asanas yoga
này có giá trị mênh mông. Được thực hiện với đúng loại
đồ ăn kiêng, chúng có thể có tác dụng đáng ngạc nhiên.
Điều cần thiết là thân thể ở trong trạng thái mềm mại và
uyển chuyển, dường như nó được tra dầu mỡ tốt - do đó
mới có tầm quan trọng của thức ăn nhẹ và béo - bởi vì
từng xương và gân và thần kinh đều sẽ phải trải qua
thao tác và biến đổi lớn lao. Thân thể sẽ vỡ ra nếu nó
không đủ mềm mại và uyển chuyển. Nó phải linh hoạt
và uyển chuyển vượt trội.
Bây giờ những asanas yoga này không là gì ngoài
những tư thế hay cử chỉ thân thể kì lạ mà chúng ta
thường không chấp nhận. Và chúng ta chẳng có ý tưởng
gì về cách tất cả các tư thế thân thể chúng được nối mật
thiết với tâm trí chúng ta.
Khi một người lo âu và lo nghĩ, người đó bắt đầu
gãi đầu. Người ta có thể hỏi tại sao người đó gãi đầu -
cái gì có đó có liên quan tới lo âu của người đó? Nhưng
nếu bạn ngăn cản người đó không cho làm như vậy, bạn
sẽ thấy rằng người đó không thể lo nghĩ được. Để ở
trong trạng thái lo nghĩ, người đó sẽ bắt buộc phải đưa
tay lên đầu. Và nếu bạn kìm người đó không cho làm
như vậy, người đó sẽ thấy khó mà lo nghĩ được. Mọi lo
âu đều có những liên kết thể chất cần thiết nào đó với nó; điều cần thiết là các cơ của tay bạn phải ở vào một
tư thế đặc biệt trong mối quan hệ với thần kinh của bạn.
Lo âu của người đó có thể được kích hoạt chỉ khi thân
thể người đó lấy tư thế được yêu cầu.
Tất cả các asanas yoga và ấn mudras đều tuân theo
những hình mẫu của các trạng thái khác nhau của tâm
trí chúng ta. Và chúng là kết quả của vô số thực nghiệm
và kinh nghiệm.
Như tôi đã nói với các bạn sáng nay, asanas và
mudras, tư thế và điệu bộ thân thể, tự chúng được tạo
nên trong quá trình thiền mà các bạn đang làm ở đây.
Sau hàng nghìn thực nghiệm người ta đã tìm ra loại
mudra (ấn) nào được hình thành trong trạng thái đặc
biệt của tâm trí. Thế rồi quá trình ngược lại cũng có thể
được soạn thảo ra, theo đó bạn có thể đạt tới một trạng
thái đặc biệt của tâm trí bằng việc thực hiện ấn tương
ứng với nó.
Chẳng hạn, Phật ngồi theo một cách đặc biệt; và
nếu bạn có thể ngồi theo cách đó, sẽ dễ dàng hơn cho
bạn đạt tới trạng thái tâm trí mà Phật có, bởi vì mọi
trạng thái của tâm trí đều có gắn với một tư thế tương
ứng của thân thể. Nếu bạn có thể bước đi như Phật
bước, nếu bạn có thể ngồi như Phật ngồi, nếu bạn có thể
thở như Phật thở, sẽ dễ dàng hơn cho bạn để đạt tới
trạng thái tâm trí của ông ấy. Hay đảo lại, nếu bạn có
thể đạt tới trạng thái tâm trí của Phật, bạn sẽ thấy sự
tương tự rất lớn giữa cách thức của bạn và cách thức
của Phật trong bước đi và ngồi.
Cả hai điều này đi song song với nhau.
Bây giờ những người như Gurdjieff - người theo
một nghĩa nào đó là người đã bật gốc rễ - không thể biết
điều đó được, bởi vì họ đã không có truyền thống nào
đằng sau mình, quay lại hàng nghìn năm. Hơn nữa,
Gurdjieff trong quá trình đi lang thang của mình đã gặp
gần hai chục tá các nhà huyền môn thuộc vào các
trường phái khác nhau. Và chính từ những nguồn đa
dạng như vậy mà ông ấy đã thu thập được nhận biết của
mình. Nhận biết của ông ấy bao gồm một số phần thuộc
vào một số công cụ tâm linh - mỗi một trong chúng đều
hoàn toàn khác nhau.
Những phần này là đúng ở chỗ riêng của chúng,
nhưng khi tất cả chúng đều được trộn lộn xộn với nhau
thì chúng tạo ra một sự sắp xếp rất kì lạ. Đó là lí do tại
sao đôi khi một kĩ thuật của Gurdjieff có tác dụng trên
ai đó, nhưng nó chẳng bao giờ có tác dụng đầy đủ cho
bất kì ai. Do đó, không một người nào trong những
người đã làm việc với Gurdjieff có thể đạt tới sự hoàn
thành đầy đủ. Điều đó đơn giản là không thể được, bởi
vì khi ai đó bắt đầu làm việc với Gurdjieff và cái gì đó
bật ra, người đó trở nên quan tâm tới công việc này và
đi vào con đường, cái là một mớ pha trộn các con
đường đa dạng. Cho nên, chẳng mấy chốc các kĩ thuật
khác bắt đầu vận hành lên người đó theo cách thức đảo
ngược lại. Điều này là vậy bởi vì Gurdjieff không có hệ
thống kỉ luật tâm linh đầy đủ. Người ta phải nói rằng đó
là đa hệ, và đồng thời không đầy đủ. Nhiều mối nối cần
thiết đang bị thiếu, ngay cả trong dây chuyền này của
một đa hệ thống.
Phần lớn thông tin của Gurdjieff đã được thu thập
từ người Sufi. Ông ấy không có tri thức về yoga Tây
Tạng, và khi có liên quan tới hatha yoga, thì điều đó là
không thích hợp. Bên cạnh đó, tất cả mọi thông tin của
ông ấy về hatha yoga đều tới từ những địch thủ của kỉ
luật này, nó tới từ các tu sĩ Sufi. Gurdjieff không phải là người tinh thông về hatha yoga. Tất cả mọi tri thức của
ông ấy về yoga hay kundalini đều được suy ra từ các
nguồn thù địch, hay từ những người đã là lữ khách của
những con đường đối lập.
Cho nên điều Gurdjieff nói về cơ sở của thông tin
này là không nhất quán theo nhiều cách. Chẳng hạn, cái
nhìn của ông ấy về kundalini hoàn toàn ngớ ngẩn. Ông
ấy không biết gì về nó cả. Ông ấy cứ gọi nó là "bộ đệm
kunda." Bộ đệm này không phải là thuật ngữ khéo chọn.
Ông ấy ngụ ý nói rằng chính bởi vì kundalini mà bạn
không đạt tới tri thức; nó có tác dụng như bộ đệm, như
rào chắn giữa bạn và điều tối thượng. Cho nên cần phải
siêu việt lên trên nó bằng việc phá huỷ nó. Theo
Gurdjieff không cần phải đánh thức kundalini chút nào.
Bây giờ ông ấy không biết mình đang nói gì.
Tất nhiên có bộ đệm giống như những thứ trong cá
tính chúng ta, và chính bởi vì chúng mà chúng ta có thể
chịu nhiều loại sốc trong cuộc sống. Nhưng kundalini
không phải là bộ đệm. Kundalini là bản thân cú sốc,
nhưng Gurdjieff không có tri thức gì về nó cả. Nó là cú
sốc lớn nhất có thể có. Khi kundalini dâng lên, nó đi tới
bạn như cú sốc mạnh mẽ nhất. Tất nhiên, có những bộ
đệm trong hệ thống của bạn, nhưng chúng là điều khác;
chúng có tác dụng như bộ hấp thu sốc. Và điều cần thiết
là những bộ đệm này bị phá huỷ đi. Nhưng Gurdjieff
coi bản thân kundalini là bộ đệm, bởi vì ông ấy chẳng
biết gì về nó cả. Trong thực tế, ông ấy không có kinh
nghiệm về kundalini, bởi vì ông ấy đã không có cơ hội
biết nó từ những người tinh thông kundalini yoga. Đó là
lí do tại sao nhiều lần những điều không thích hợp xảy
ra.
Những người như Gurdjieff và Krishnamurti đã là
nạn nhân của những sự không thích hợp như vậy. Sự
không thích hợp là ở chỗ họ đã không thể có tri thức có
hệ thống về những bí mật nằm đằng sau các thuật ngữ
và năng lượng như kundalini. Trong thực tế, tri thức
như vậy là rất khó thu được. Nó đơn giản không có thể
có trong một kiếp sống. Nó xảy ra chỉ trong trường hợp
một số hiếm hoi các cá nhân, những người học và
trưởng thành giữa hàng tá trường phái trong quá trình
hàng tá kiếp sống; bằng không thì điều đó là không thể
được. Nếu ai đó trưởng thành giữa hàng tá trường phái -
điều hiển nhiên phải mất hàng tá kiếp sống - chỉ thế thì
mới có khả năng là trong kiếp sống cuối cùng của mình
người đó sẽ tìm thấy sự tổng hợp giữa những kỉ luật tâm
linh đa dạng. Bằng không thì không thể tìm ra được sự
tổng hợp.
Điều thông thường là ở chỗ một người đạt tới chỗ
cao nhất thông qua một trường phái, và thế rồi người đó
không cần lấy việc sinh thành khác nữa. Mục đích của
người đó được đạt tới, cuộc sống của người đó được
hoàn thành. Do đó sự tổng hợp không xảy ra. Về sau,
tôi đã nghĩ rằng sự tổng hợp giữa các kỉ luật tâm linh đa
dạng của toàn thế giới là điều có thể, và đó là cái gì đó
đáng làm. Tất cả các kỉ luật đều phải được tiếp cận tới
từ các đầu khác nhau và thế rồi được gắn lại. Mọi nơi
điều tối thượng xảy ra đều như nhau; chỉ phương pháp
là khác.
Bây giờ một Thiền sư ném người tìm kiếm qua cửa
sổ. Điều này chỉ tạo ra một không gian của điều kì lạ
trong người tìm kiếm chứ không gì khác. Nhưng Thiền
sư sẽ nói rằng không có nhu cầu về pranayam và rằng
bhastrika này là pranayam - thấp dưới như việc thở - là
vô dụng. Có lí do cho ông ấy nói như vậy. Người ta có thể hỏi rằng liệu bhastrika không thể làm được điều đó
sao. Làm sao việc ném một người qua cửa sổ có thể có
tác dụng được? Nếu bạn đi và bảo Phật hay Mahavira
rằng ai đó đạt tới hiểu biết sau khi bị ném qua cửa sổ,
các ông ấy sẽ nói bạn điên. Mọi ngày mọi người vẫn
ngã xuống từ mái nhà hay từ ngọn cây và chẳng người
nào trong số họ đạt tới hiểu biết cả.
Nhưng ngã là một điều và bị ném ra là điều hoàn
toàn khác. Ngã từ mái nhà cũng giống như ai đó phát
điên; nhưng khi vài người nâng thân thể một người lên
và ném người đó ra khỏi cửa sổ, và người đó biết rằng
mình bị ném ra, thế thì người đó sẽ nhanh chóng trải
qua kinh nghiệm về sự kì lạ về toàn bộ vấn đề. Người
đó mọi lúc đều nhận biết và tự hỏi về toàn bộ tình
huống khi người đó bị ném ra, và khi người đó ngã ra
trên đất. Và đó là khoảnh khắc mà người đó trở nên tách
rời khỏi thân thể.
Một Thiền sư khác lấy cây thiền trượng của mình và
đánh vào đầu người tìm kiếm. Điều này cũng kì lạ.
Người tìm kiếm này đã đi tới ông ấy để làm an bình tâm
trí, còn thầy đánh người đó bằng chiếc thiền trượng của
mình. Điều này bỗng nhiên tạo ra một khoảnh khắc của
sự kì lạ cho người tìm kiếm. Nhưng nó sẽ không như
vậy ở Ấn Độ. Nếu bạn đánh ai đó ở đây, người đó sẽ
đánh lại bạn; người đó sẽ sẵn sàng cho việc đánh lại.
Điều đó sẽ chỉ xảy ra ở Nhật Bản, bởi vì thực tế này đã
tìm thấy chỗ cho mình ở nước đó. Mọi người đều nhận
biết rằng các Thiền sư có thể làm điều gì đó vĩ đại qua
việc đánh người tìm kiếm.
Nếu bạn đi tới một thánh nhân và lập tức khi thấy
bạn ông ấy bắt đầu xúc phạm mẹ và chị bạn bằng lời thô
tục, ông ấy sẽ thành công tạo ra một tình huống hoàn
toàn kì lạ cho bạn. Bạn tới ông ấy trong tin rằng ông ấy
là người biết chân lí, và ông ấy ném lời thô tục vào bạn!
Tương phản làm sao! Nhưng điều này là được chỉ nếu
bạn có nhận biết nào đó về nó; bằng không bạn sẽ gặp
khó khăn. Bạn có thể cho rằng mình đã tới lầm người và
bạn sẽ không tới gặp ông ấy nữa.
Nhưng trong một số trường phái, ngay cả quở trách
và lời chửi rủa đã được dùng để tạo ra sự kì lạ. Có một
fakir ở một làng nhỏ tên là Saikheda ở gần Gadarwara.
Các bạn có thể chẳng bao giờ biết ông ấy sẽ đón nhận
bạn thế nào khi bạn tới ông ấy. Ông ấy có thể dùng lời
thô tục với bạn, và ông ấy có thể làm bất cứ cái gì kì
quái và điên khùng. Có thể ông ấy sẽ đứng dậy trong sự
hiện diện của khách thăm của mình và bắt đầu đái. Bạn
sẽ hoàn toàn bị sốc. Điều đó tạo ra cái được gọi là
không gian của điều kì lạ trong bạn.
Ngoài điều đó, ông ấy thậm chí còn định đánh bạn
về mặt thể chất. Và trong cố gắng đánh bạn, ông ấy có
thể rượt đuổi bạn hàng dặm đường. Nhưng những người
hiểu ông ấy được lợi nhiều chỉ bằng việc tới thăm ông
ấy. Những người không hiểu, họ xua đuổi ông ấy như
người điên. Mà ông ấy chẳng liên quan gì tới những
người không hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy chắc chắn có
ích cho những người muốn hiểu ông ấy. Bây giờ người
mà ông ấy đuổi theo hàng dặm đường chắc chắn thấy
mình ở trong một không gian rất kì lạ. Cứ thử nghĩ tới
tình huống này: một người bị ông ấy rượt và cả nghìn
người đang quan sát cảnh tượng đó. Chắc chắn một bầu
không khí kì lạ được tạo ra.
Điều này có thể được làm bằng nhiều trường phái,
kĩ thuật và hệ thống khác. Nhưng khó khăn là ở chỗ mọi
trường phái như vậy không nhận biết rằng các trường phái khác đang làm cùng điều đó theo cách riêng của
họ.
Vậy mà có khó khăn khác trong vấn đề này. Cho dù
ai đó biết, như tôi biết, rằng cùng kết quả có thể được
đạt tới bằng các kĩ thuật khác nào đó, thì người đó sẽ
không nói ra điều đó. Khi tôi đang giải thích một hệ
thống đặc biệt, tôi phải trình bày nó là cao nhất; bằng
không thì sẽ không có hiệu quả. Cho dù tôi biết rằng
điều này có thể được đạt tới bằng các phương pháp khác
nào đó, tôi sẽ không nói như vậy khi tôi đang nói về
một hệ thống đặc biệt. Thế thì tôi sẽ nói rằng điều này
có thể được đạt tới chỉ qua hệ thống này thôi và không
qua cái gì khác. Và có lí do cho việc làm như vậy. Bạn
không thông minh tới mức bạn có thể hiểu nó trong
đúng cảnh quan của nó. Nếu tôi nói rằng tất cả các
trường phái đều có thể làm được điều đó, các bạn sẽ bị
lẫn lộn. Các bạn sẽ kết luận rằng chẳng trường phái nào
có thể làm được điều đó thực. Bên cạnh đó, tất cả các
trường phái này mâu thuẫn nhau đến mức bạn sẽ bắt
đầu tự hỏi làm sao nó có thể thế được. Lẫn lộn của bạn
thậm chí sẽ còn bị lẫn lộn hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều lần người trí huệ, những
người biết, phải nói theo ngôn ngữ của người dốt nát.
Họ phải quả quyết rằng "Đây là con đường duy nhất,
không có đường nào ngoài con đường này." Bởi lí do
này tôi tự thấy mình gặp khó khăn lớn, vì tôi biết rõ
rằng điều đó có thể được đạt tới.
Người hỏi: một nhà huyền môn người Nga, George
Gurdjieff đã viết bản kí sự về cuộc phiêu lưu tâm
linh của ông ấy được biết như những cuộc gặp gỡ
với những người xuất sắc. Trong cuốn sách này ông
ấy nói rằng ông ấy rất bị ấn tượng bởi cuộc thảo
luận với một tu sĩ Sufi về pranayam và asanas yoga.
Tu sĩ này đã cảnh báo ông ấy đừng làm mọi loại
luyện tập thở, bởi vì bất kì thay đổi nào trong hệ
thống thở tự nhiên cũng sẽ đem tới những mất trật
tự trong cuộc sống với kết quả thảm hoạ. Thầy nói
gì về điều đó?

Có chân lí nào đó trong điều ông ấy nói về
pranayam và những bài tập thở khác. Trong thực tế,
không có lời nói dối nào mà không chứa một mẩu chân
lí; điều đó không thể khác được. Mọi dối trá đều có chút
ít chân lí trong nó. Và chính yếu tố chân lí nhỏ bé này
gây ấn tượng cho người ta. Nhưng cùng với nó, lời dối
trá đi tiếp và tìm ra sự tín nhiệm; bằng không người ta
sẽ không biết về điều đó.
Bây giờ đúng là chúng ta không thể can thiệp và cản
trở những con đường tự nhiên của cuộc sống mình;
bằng không sẽ có rắc rối. Sẽ là tốt nếu chúng ta không
cản trở vận hành tự nhiên của thân thể mình; chúng ta
không nên can thiệp vào cách chúng ta thở, cách chúng
ta bước, đứng hay ngồi. Bởi vì ngay khi chúng ta đặt ra
những cản trở trên con đường của chúng, thì thay đổi
bắt đầu xảy ra.
Nhớ rằng bất kì loại mất nào cũng đều có nghĩa thay
đổi, và việc được cũng có nghĩa thay đổi. Cả mất lẫn
được đều là những thay đổi. Cho nên nếu bạn muốn vẫn
còn như bạn đang thế, thì đúng là bạn đừng nên can
thiệp vào việc thở của mình. Nhưng nếu bạn có chỗ nào
đó để đi, nếu bạn muốn đem tới thay đổi, biến đổi trong
cuộc sống của mình, thế thì bạn sẽ phải nhận lấy nguy
cơ. Nguy cơ là nếu bạn đem tới thay đổi trong hình mẫu
thở của mình, nó sẽ làm thay đổi toàn thể phong cách
sống của bạn. Nếu bạn được thoả mãn với việc là bạn
như hiện thời, nếu bạn cho rằng như bạn hiện tại thế là
được, bạn không cần làm gì cả. Nhưng nếu bạn cảm
thấy rằng như bạn hiện tại là không đủ, thế thì bạn sẽ
phải tạo ra thay đổi.
Và thế thì thay đổi trong việc thở của chúng ta trở
thành quan trọng với chúng ta, quan trọng nhất. Và
ngay khi các bạn tạo ra khác biệt trong cách thở của
mình, nhiều điều trong các bạn sẽ bắt đầu gắn lại với
nhau. Bây giờ, sau hàng nghìn kinh nghiệm, người ta phát hiện ra cái gì là cái sẽ bị bỏ đi khỏi bạn và cái gì là
cái sẽ được gắn lại và được thêm vào cho bạn. Chính
bây giờ là tốt khi vấn đề được giải quyết - một khoa học
thực sự.
Vài điều cần được biết đối với tất cả chúng ta từ
những kinh nghiệm hàng ngày của mình. Chẳng hạn,
khi bạn giận dữ, việc thở của bạn trải qua thay đổi; nó
không còn như cũ nữa. Và việc thở thay đổi ngay cả khi
bạn cảm thấy yên tĩnh và im lặng; nó sẽ không là cái nó
vẫn thường là vậy. Và nếu bạn biết cách thở trong trạng
thái im lặng, thế thì bạn có thể tạo ra trạng thái đó bằng
việc điều chỉnh việc thở của mình theo cách tương ứng
với im lặng.
Cả tâm trí và việc thở đều được liên nối với nhau.
Khi tâm trí bị khuấy động về dục, hình mẫu của
việc thở lập tức trải qua thay đổi. Cho nên trong trạng
thái khuấy động dục bạn không cho phép hình mẫu thở
của mình thay đổi, dâm dục sẽ biến mất ngay. Ham
muốn dục sẽ dừng lại; nó không thể kéo dài lâu được.
Để bất kì cái gì xảy ra, mọi thứ trong bộ máy thân thể
đều cần ở vào một trạng thái đặc biệt liên kết với mọi
thứ khác. Cho nên nếu bạn bắt đầu thở chậm khi một
con sóng giận dữ mạnh tấn công bạn, giận dữ sẽ bay
hơi; bởi vì nó sẽ thấy không có chỗ trong việc thở chậm
để ở lại như nó vẫn thế.
Do đó kỉ luật của việc thở có ý nghĩa lớn lao. Thay
đổi trong việc thở ảnh hưởng tới thay đổi tương ứng
trong tâm trí bạn. Và không có nguy hiểm gì được bao
gồm khi nó đã được thiết lập - và được thiết lập rất khoa
học - cách tâm trí cư xử trong những trạng thái thở khác
nhau. Có nguy hiểm tất nhiên trong những giai đoạn
khởi đầu của thực nghiệm này. Trong thực tế, nguy
hiểm có đó ngay cả bây giờ trong giai đoạn thực nghiệm
của mọi cuộc tìm kiếm phiêu lưu mới trong Cuộc sống.
Nhưng khi thực nghiệm này thành công nó biến thành
qui luật khoa học. Chẳng hạn, không thể làm cho một
người giận dữ được nếu người đó giữ việc thở vững
chắc và bình thản của mình. Cả hai việc thở giận dữ và
bình thản không thể đi đôi với nhau được. Điều ngược
lại cũng là có thể. Nếu bạn bắt đầu thở theo cách bạn
thở trong giận dữ, bạn sẽ thấy ngay việc phát sinh cơn
giận trong tâm trí mình.
Pranayam, hay kỉ luật của việc thở, đã khám phá ra
nhiều phương pháp để làm biến đổi tâm trí bạn.
Cũng tốt để hiểu khác biệt giữa điều chúng ta gọi là
thở nhân tạo và điều chúng ta gọi là thở tự nhiên. Điều
các bạn biết như thở tự nhiên không phải là cái tự nhiên
đó. Nếu các bạn hiểu nó đúng, các bạn sẽ biết rằng nó
tất cả đều là thở nhân tạo mà các bạn đã trở nên quen
thuộc. Bởi vì các bạn đã từng thở theo cách này trong
thời gian rất dài, ngay từ thời thơ ấu của mình, nên các
bạn đã trở nên quen với nó. Nó đã trở thành thói quen
của bạn - bản tính thứ hai. Thực sự bạn không biết việc
thở tự nhiên là gì.
Các bạn thở theo cách này ban ngày, và ban đêm
các bạn thở theo cách hoàn toàn khác. Việc thở ban
ngày của các bạn là nhân tạo. Ban đêm trong khi ngủ,
thở tự nhiên chiếm lĩnh - quá trình này, cái vẫn vận
hành trong giấc ngủ của bạn, là tự nhiên hơn thở ban
ngày của bạn.
Chúng ta đã lâm vào một thói quen thở nào đó trong
giờ làm việc, cái không tự nhiên, và có lí do cho nó.
Nếu bạn có chút ít tỉnh táo về cách thở của mình khi bạn
trong đám đông và khi bạn một mình, bạn sẽ thấy rằng chúng hoàn toàn khác lẫn nhau. Các bạn cũng thấy rằng
cách thở của các bạn thay đổi ngay khi bạn một mình
sau khi đã rời bỏ đám đông.
Bạn thở theo một cách thức nào đó trong khi bạn
đang ở cùng đám đông, và bạn thở hoàn toàn khác khi
một mình. Bị bao quanh bởi đám đông, tâm trí bạn căng
thẳng và hơi thở bạn ngắn và nông; nó không đi sâu.
Nhưng khi bạn ngồi một mình và thảnh thơi, việc thở
của bạn trở lại sâu. Và khi bạn lên giường ban đêm, nó
trở thành hoàn toàn sâu trong giấc ngủ của bạn. Bạn
chưa bao giờ thở sâu thế lúc ban ngày; khi thức dậy, bạn
chưa bao giờ thở tự nhiên và sâu đến mức nó to và bạn
nghe thấy nó.
Điều được biết là việc thở tự nhiên của chúng ta
không phải là tự nhiên; nó chỉ là việc thở được huấn
luyện và nhân tạo. Nó bị nắn theo hình mẫu đến mức nó
đã biến thành thói quen.
Trẻ con thở theo cách hoàn toàn khác. Đưa một đứa
trẻ vào giấc ngủ và rồi quan sát nó; nó thở bằng bụng,
và khi nó thở chính bụng của nó dâng lên và hạ xuống.
Nhưng người lớn thở bằng ngực của mình, và do vậy
chính ngực của họ chuyển động lên và xuống cùng việc
thở. Trẻ con thở bằng bụng một cách tự nhiên. Và nếu
bạn bắt đầu thở theo cách trẻ con thở, tâm trí bạn sẽ dần
đi vào trong cùng trạng thái như của đứa trẻ đó; tâm trí
bạn sẽ hồn nhiên như tâm trí đứa trẻ. Hay ngược lại, nếu
bạn trở nên hồn nhiên như đứa trẻ hồn nhiên, bạn sẽ bắt
đầu thở bằng bụng của mình.
Đó là lí do tại sao tượng Phật được làm ở Nhật Bản
và Trung Quốc hoàn toàn khác với tượng được làm ở
Ấn Độ. Ở Ấn Độ, hình ảnh của Phật có bụng nhỏ và
ngực lớn. Điều đó hoàn toàn khác ở Nhật Bản và Trung
Quốc; tất cả hình ảnh của ông ấy ở những nước này đều
có bụng lớn và ngực nhỏ. Với chúng ta, tượng Phật của
Nhật Bản và Trung Quốc trông có vẻ kì dị; chúng ta có
thể cho rằng chúng méo mó và xấu xí. Nhưng trong
thực tế, đó là điều phải; bởi vì khi một người của im
lặng như Phật thở, thì người đó thở bằng bụng mình -
cách thở tự nhiên.
Một người hồn nhiên như Phật không thể thở bằng
ngực được, điều phi tự nhiên và nhân tạo. Và khi người
ta thở bằng bụng, bụng nhất định phải to và phình ra.
Cho nên bụng lớn của tượng Phật là mang tính biểu
tượng. Thực tế nó có thể không to đến vậy, nhưng nó
phải được miêu tả theo cách nó đã được miêu tả. Và lí
do là ở chỗ một người như Phật thở bằng bụng, và ông
ấy hồn nhiên như trẻ con.
Khi chúng ta hiểu điều này, chúng ta có thể tiến
thêm các bước nữa tới việc thở tự nhiên. Như nó đấy,
việc thở của chúng ta là phi tự nhiên, nhân tạo. Tu sĩ
Sufi kia là sai khi bảo các bạn đừng thở kiểu nhân tạo.
Trong thực tế, việc thở của chúng ta đã đủ nhân tạo, đủ
phi tự nhiên rồi. Nhưng khi việc hiểu của chúng ta về nó
được sâu sắc hơn, chúng ta sẽ thở tăng dần tính tự
nhiên. Và khi việc thở của chúng ta hoàn toàn tự nhiên,
khả năng lớn nhất của cuộc sống chúng ta sẽ bắt đầu
hiện thực hoá và hiển lộ bản thân nó từ bên trong.
Cũng tốt mà biết rằng việc thực hành thở nhân tạo
bất thần là có ích lợi.
Tại đây, một điều nên được hiểu cho rõ ràng: rằng
chỗ mà có được thì cũng có cả mất nữa. Người quản lí
cửa hàng được lợi nhuận và bị tổn thất nữa theo cùng
một mức độ. Và người khác đánh bạc cũng là người
được và là người mất theo cùng mức độ. Tỉ lệ được và mất bao giờ cũng như nhau. Cho nên tu sĩ Sufi này đang
nói rằng điều nguy hiểm là can thiệp vào việc thở của
người ta. Nhưng điều đó chỉ là chân lí một nửa. Nó có
đầy các khả năng nữa. Nó là việc đánh bạc.
Cho nên nếu đôi khi chúng ta thở chút ít theo cách
thức hoàn toàn phi tự nhiên - phi tự nhiên theo nghĩa
chúng ta chưa bao giờ thở theo cách này - chúng ta sẽ
bắt đầu nhận biết về những trạng thái rất mới, những
tình huống mới bên trong mình. Đây là những tình
huống trong đó chúng ta có thể phát điên, và chúng ta
cũng có thể được giải thoát trong những tình huống như
vậy. Chúng ta có thể điên và chúng ta cũng có thể trở
nên tự do trong những tình huống như vậy. Cả hai khả
năng đều có đó. Và vì nó có đó nên chúng ta những
người tạo ra những tình huống này trong mình, chúng ta
có thể kiểm soát rất tốt và hoàn tác lại chúng khi chúng
ta nghĩ nó là cần thiết. Cho nên không có nguy hiểm.
Nguy hiểm là có thể chỉ nếu chúng ta không thể hoàn
tác lại được chúng. Nhưng bởi vì chúng ta đã đem
chúng vào sự hiện hữu, chúng ta có thể chấm dứt chúng
ngay khi chúng ta muốn.
Những tình huống như vậy là trong tay bạn, bởi vì
mọi khoảnh khắc bạn đều biết bạn đang chuyển đi đâu,
liệu bạn có đang di chuyển tới phúc lạc hay bạn đang di
chuyển tới khổ, liệu bạn đang di chuyển tới an bình hay
tới nguy hiểm. Tại mọi bước bạn đều biết rõ ràng điều
gì đang xảy ra. Cho nên không có nguy hiểm về bất cứ
cái gì.
Và nếu hình mẫu của việc thở bị thay đổi rất bất
thần và mạnh mẽ, thế thì toàn thể trạng thái bên trong
của bạn trải qua thay đổi hoàn toàn. Chúng ta không bao
giờ có thể biết, theo cách thở quen thuộc của mình, rằng
chúng ta tách rời khỏi thân thể. Thói quen đã trở thành
ăn sâu trong chúng ta đã bắc cầu qua hai điều này; nó có
tác dụng như chiếc cầu bắc giữa thân thể và tâm trí, và
chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc là một của
chúng.
Điều đó cũng giống như bạn về nhà mọi ngày, và
mọi ngày khi bạn về tới nhà bạn tự động quay xe và
thấy mình đứng trên hành lang. Bạn không phải nghĩ về
nó - chẳng bao giờ. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một tối
khi bạn quay xe sang trái như bạn vẫn thường làm mọi
ngày, chiếc xe quay sang phải, và con đường quen
thuộc của bạn biến mất, và thay vào đó là một con
đường hoàn toàn khác xuất hiện trong tầm nhìn? Bạn
bỗng nhiên đâm ra phân vân và hoang mang và thấy
mình ở trong trạng thái tâm trí rất kì lạ và không thể tin
nổi. Lần đầu tiên bạn sẽ trở nên hoàn toàn nhận biết.
Sự kì lạ của một việc lập tức làm rung chuyển bạn
ra khỏi lối mòn của vô thức; nó đặt dấu chấm hết cho
giấc ngủ tâm lí của bạn. Vô thức của bạn có thể chẳng
bao giờ chấm dứt trong một thế giới được tổ chức và ổn
định tốt, và nơi mà mọi thứ cứ tự lặp lại nó một cách
máy móc mọi ngày. Vô thức của bạn cứ diễn ra khi điều
gì đó bất ngờ, kì lạ và đáng ngạc nhiên xảy ra, và xảy ra
một cách bất thần.
Chẳng hạn, tôi đang nói với các bạn ở đây. Điều
này sẽ không đem bạn ra khỏi trạng thái vô ý thức.
Nhưng nếu bỗng nhiên cái bàn này bắt đầu nói, thì
không người nào có thể vẫn còn vô ý thức ở đây được.
Bạn sẽ không thể vẫn còn vô ý thức được nếu cái bàn
này bắt đầu nói. Ngay cả một nghìn lời của tôi cũng
không đủ; bạn sẽ nghe chúng một cách vô ý thức.
Nhưng một lời từ cái bàn này và tất cả các bạn sẽ đạt tới trạng thái nhận biết mà các bạn chưa bao giờ biết trước
đây. Tại sao? Bởi vì nó kì lạ, nó kì quái, nó ra ngoài con
đường. Chính cái kì lạ này làm đảo lộn trạng thái bên
trong của bạn và phá vỡ những hình mẫu hành vi đã
được thiết lập.
Cho nên khi các kinh nghiệm về việc thở đẩy bạn
vào một tình huống rất kì lạ, thế thì những khả năng
mới của sự phát triển tâm linh mở ra trước bạn; bạn đạt
tới nhận biết, và thế rồi bạn thực sự thấy điều gì đó.
Và nếu ai đó có thể phát điên một cách có ý thức,
điều đó sẽ là kinh nghiệm lớn; không kinh nghiệm nào
khác có thể lớn hơn thế này. Nhưng người đó phải điên
và vậy mà vẫn còn nhận biết. Trong thiền động tôi phát
minh ra, một không gian như vậy có thể được tạo ra, nơi
bạn vẫn còn tràn đầy nhận biết bên trong, và bạn cứ
phát điên hoàn toàn bên ngoài. Bạn phát điên đến mức
nếu ai đó khác mà ở vào chỗ bạn thì bạn sẽ không ngần
ngại gọi người đó là điên. Cho nên bạn rất có thể gọi
bản thân mình là điên. Nhưng đồng thời bạn nhận biết
và quan sát rằng mình đang múa may và quay tròn. Cho
nên cả hai điều xảy ra đồng thời: nhận biết của bạn và
phát điên của bạn.
Nhưng vì bạn nhận biết, làm sao bạn có thể thực sự
phát điên được? Vậy mà điều đang xảy ra cho bạn hệt
như với người điên. Chính trong tình huống như vậy mà
một cảm giác về sự kì lạ hoàn toàn tràn ngập bạn, và
bạn tách bản thân mình khỏi thân thể. Không phải là
bạn làm điều đó, sự tách bạch xảy ra theo cách riêng của
nó. Bạn bỗng nhiên thấy rằng tất cả mọi mối nối, tất cả
mọi trao đổi giữa bạn và thân thể đã gãy ra, rằng tất cả
mọi cây cầu đã gãy, và mọi điều chỉnh đã sụp đổ. Bạn
thấy rằng mọi thứ liên quan đã trở thành không liên
quan; sự thích hợp hàng ngày của mọi thứ tất cả đều bị
mất đi. Mọi thứ đang xảy ra theo cách riêng của chúng.
Tay bạn đang di chuyển mà không có ý muốn của bạn
để di chuyển chúng. Mắt bạn trào nước mắt mà không
có việc muốn khóc của bạn. Bạn muốn dừng tiếng cười,
nhưng nó cứ tiếp tục mặc bạn.
Việc tạo ra khoảnh khắc của sự kì lạ như vậy là rất
quan trọng cho nhận biết. Và chúng được tạo ra nhanh
chóng thông qua việc thở hơn là thông qua bất kì cái gì
khác. Nơi các kĩ thuật khác cần tới hàng năm, việc thở
sẽ làm điều đó trong mười phút. Điều này là vì việc thở
được gắn sâu sắc với bản thể chúng ta đến mức ngay cả
một cú chạm khẽ vào nó cũng làm vang động toàn bộ
bản thể chúng ta.
Chúng ta đã có những kĩ thuật rất có giá trị về việc
thở, nhưng tôi không đánh giá cao pranayam hay bất kì
cách thở có phương pháp nào. Bởi vì ngay khi bạn hệ
thống hoá việc thở, nó mất đi khả năng tạo ra tình
huống của sự kì lạ cho bạn. Khi một người thực hành
việc thở theo phương pháp - hít vào bằng lỗ mũi này,
giữ nó lại một chốc và thế rồi thở nó ra bằng lỗ mũi kia
- điều đó trở thành mang tính phương pháp, nó trở thành
một phần của thói quen người đó. Và nó là việc thở theo
thói quen, nó là việc thở có huấn luyện mà đến lượt nó,
lại bắc cầu cho bạn với thân thể.
Việc thở mà tôi dạy đây tuyệt đối là không phương
pháp; nó không có qui tắc nào; nó là ngớ ngẩn. Nó
không phải là vấn đề thở ra, thở vào và giữ lại hơi thở
theo cách thức có phương pháp. Nó là cách tạo ra cảm
giác kì lạ trong bạn - để đặt bạn ra ngoài cơ cấu, đặt bạn
vào trong sự lẫn lộn và hỗn loạn hoàn toàn đến mức bạn
không thể đưa nó lại về trật tự. Nếu bạn tạo ra một trật tự trong cái mất trật tự này, tâm trí bạn - cái tinh ranh
thế - sẽ chẳng mấy chốc chấp nhận nó và tự điều chỉnh
mình theo nó. Việc thở theo bất kì cách thức có phương
pháp nào cũng sẽ biến thành hệ thống. Nhưng nó sẽ mất
đi tất cả mọi điều kì lạ về nó.
Điều tôi muốn là ở chỗ một khoảnh khắc phải tới
khi tất cả mọi gốc rễ của bạn, tất cả mọi liên kết của bạn
bị bẻ gãy trong một nhát quét. Một ngày phải tới khi
bạn bỗng nhiên thấy rằng bạn không có gốc rễ, không
danh tính, không liên kết với bất kì cái gì; rằng bạn
không có cha mẹ, không anh chị em, rằng bạn thậm chí
không có thân thể cho mình. Tôi muốn các bạn hiện hữu
trong trạng thái ngớ ngẩn đó nơi người ta dường như
mất trí.
Nhớ rằng nếu các bạn đi vào trong trạng thái vô
nhận biết và không có nỗ lực của mình, các bạn sẽ thực
sự phát điên. Nhưng nếu các bạn đạt tới nó qua nỗ lực
của mình với nhận biết, các bạn không thể phát điên
được. Bởi vì thế thì nó sẽ trong tay các bạn, và các bạn
có thể theo dõi nó từ bất kì khoảnh khắc nào.
Theo cách nhìn của tôi, nếu một người bị chứng rối
loạn tinh thần mà được khuyên tập thiền động, có mọi
khả năng khôi phục được sự lành mạnh và mạnh khoẻ
cho người đó. Bởi vì một khi người đó thấy rằng mất trí
là điều bản thân người đó tạo ra, người đó cũng sẽ biết
cách mình có thể chữa nó. Trong quá khứ, mất trí đã tự
nó nắm bắt người đó; người đó không nắm nó trong tay.
Việc thiền này sẽ chỉ ra cho người đó cách người đó có
thể nắm trong tay việc tạo ra nó và thế rồi gạt bỏ nó. Tất
nhiên, kĩ thuật này có rủi ro của nó - nhưng rủi ro này
xứng đáng nhận lấy; nó tràn đầy các khả năng. Cho nên
một người có thể được chữa khỏi chứng mất trí thông
qua thiền động. Nó có thể được dùng để trị liệu các ốm
yếu tinh thần một cách có kết quả.
Với người bình thường khi tập cách thiền này, có
thể nói có bảo đảm rằng người đó sẽ không bao giờ
thành con mồi cho mất trí - bởi vì bây giờ người đó tự
mình biết mất trí được tạo ra như thế nào. Cho nên
người đó rất có thể tắt đi điều người đó đã bật lên. Bây
giờ sẽ không thể nào làm người đó thành điên được, bởi
vì bây giờ người đó bao giờ cũng sẽ còn là người chủ
riêng của mình. Bây giờ người đó biết bí mật của mất trí
và lành mạnh.
Việc thở mà tôi đang nói tới đây là không theo nhịp
điệu và không phương pháp. Các bạn không thể lặp lại
nó ngày hôm nay theo cách các bạn đã làm nó ngày
hôm qua, bởi vì nó không có bất kì phương pháp nào.
Không chỉ bạn không thể lặp lại việc trình diễn của
mình ngày hôm qua - thậm chí hôm nay bạn cũng
không thể chấm dứt nó theo cách bạn sẽ bắt đầu. Nó sẽ
là điều nó sẽ là.
Và ý định duy nhất của nó là để thấy rằng những
ước định của tâm trí bạn, những thói quen của nó,
những hình mẫu đã thiết lập của nó đều bị chùng ra.
Ông tu sĩ Sufi kia là phải khi nói rằng những chi tiết cần
thiết của cấu trúc thể chất và tinh thần của bạn sẽ bị
chùng ra; thực tế chúng phải bị làm chùng ra. Tại
khoảnh khắc này, cấu trúc này - với những ước định của
nó, những hình mẫu và thói quen đã được thiết lập - vẫn
còn chặt tới mức bởi vì nó, việc tách linh hồn ra khỏi
thân thể là không thể được. Chỉ khi nó hoàn toàn bị làm
chùng lại bạn mới biết rằng có cái gì đó còn hơn nữa
bên trong bạn, cái được nối với thân thể và đã không bị
tách ra.

Nhưng kể từ khi việc làm chùng này xảy ra qua việc
thở, chính là qua một loại thở đặc biệt mà nó trở thành
chặt lại; các bạn không phải làm gì để thắt chặt nó.
Không cần phải làm cái gì đó để điều chỉnh nó; tự nó
điều chỉnh rồi. Tất nhiên, nếu việc thở làm phát sinh ra
một loại mất trí nào đó bên trong bạn mà lọt ra ngoài sự
kiểm soát của bạn - nếu nó trở thành sự ám ảnh và liên
tục cho phần còn lại của ngày - thế thì nó thực sự sẽ là
điều xấu.
Nhưng nếu ai đó làm nó chỉ trong một giờ và thế rồi
bỏ nó, thế thì mọi thứ rơi trở lại vị trí riêng của nó. Sau
đó chỉ kí ức về kinh nghiệm này là còn lại với bạn. Bạn
sẽ nhớ cách bạn đã trở thành tách rời khỏi thân thể, và
cách bạn đã được nối liền với nó theo cách thức có trật
tự. Nhưng bây giờ bạn biết, thậm chí sau khi được nối
với thân thể, rằng bạn là tách biệt. Bạn biết rằng bạn là
tách biệt mặc cho việc thống nhất trở lại với thân thể
sau khi việc thiền đã hết.
Do đó, cách thở này là không thể thiếu được; chúng
ta không thể thực hành mà thiếu nó.
Cho nên ông tu sĩ Sufi kia là phải khi nói rằng việc
can thiệp vào việc thở là nguy hiểm. Nó có nguy hiểm
của nó, quả vậy. Nhưng nếu chúng ta đang tìm kiếm
một cuộc sống dư thừa, thì chúng ta phải được chuẩn bị
để đối diện với nguy hiểm lớn như mục đích của chúng
ta. Nhưng có nguy hiểm và có nguy hiểm. Có nguy
hiểm bất chợt đương đầu với chúng ta theo cách riêng
của nó, và chúng ta không thể thoát khỏi nó được. Và
có nguy hiểm chúng ta mời tới và tạo ra, và điều đó
chúng ta có thể thu được vào bất kì lúc nào chúng ta
muốn.
Chẳng hạn, trong quá trình thiền này các bạn trải
qua đủ mọi loại chuyển động và hành động. Ai đó la
hét, ai đó khác đang nhảy múa và ca hát. Nhưng nếu họ
được yêu cầu dừng mọi thứ lại, họ có thể làm như vậy
ngay lập tức. Họ sẽ dừng lại, bởi vì mọi thứ đều là việc
làm riêng của họ - đây là một điều. Và điều đó hoàn
toàn khác nếu những việc như khóc lóc và nhảy múa
xảy ra cho bạn một cách không cố ý, không có sự hợp
tác của bạn. Một người điên đang nhảy múa trên đường;
việc nhảy múa của người đó là bị cưỡng bách. Người đó
không biết điều gì về việc đó cả, cho nên người đó
không thể làm gì để dừng lại việc đó.
Hiểu biết của tôi là ở chỗ chẳng chóng thì chầy,
việc thiền này mà tôi đang trao cho các bạn sẽ là cách
trị liệu có ý nghĩa lớn, và điều tất yếu là nó sẽ trở thành
một cách điều trị bệnh tinh thần và phục hồi sức khoẻ
cho họ. Và nếu có thể, mọi đứa trẻ đến trường cũng trải
qua việc thiền này, thì nó sẽ được cứu khỏi bị mất trí
trong cả đời mình. Nó sẽ không bao giờ phát điên; nó sẽ
được miễn nhiễm khỏi bệnh này, bởi vì thế thì nó sẽ là
người chủ riêng của mình, người chủ của tâm trí thân
thể mình.
Ông tu sĩ Sufi này, mà với ông ấy Gurdjieff đã có
cuộc thảo luận về việc thở, là một lữ khách trên một con
đường khác. Ông ấy chưa bao giờ thực hành việc thở,
và ông ấy đã kinh nghiệm tình huống của sự kì lạ qua
cách khác nào đó. Và đây là rắc rối - rắc rối là ở chỗ
người biết này về một con đường mất thời gian trong
việc gọi các con đường khác là sai. Nhưng một điều là
đúng hay sai đều trong hoàn cảnh của một con đường
đặc biệt. Điều là sai với con đường này có thể hoàn toàn
đúng cho con đường khác.


Chẳng hạn, có cái chốt trong bánh của chiếc xe bò
kéo. Bây giờ một người với chiếc xe máy có thể nói
rằng chiếc chốt này hoàn toàn vô dụng. Nó có thể vô
dụng trong hoàn cảnh của chiếc xe máy, nhưng nó hữu
dụng cho chiếc xe bò như bất kì phần nào của chiếc xe
có thể hữu dụng cho chiếc xe bò này. Cho nên chẳng có
gì sai hay đúng tuyệt đối cả; mọi thứ đều tương đối.
Nhưng sai lầm này bao giờ cũng được lặp lại. Ông
tu sĩ Sufi này đã đạt tới thông qua con đường khác, con
đường có những kĩ thuật khác. Người Sufi nói chung
làm trong giấc ngủ của mình, và không làm theo việc
thở. Với ông ấy, việc thức đêm có ý nghĩa lớn lao. Ông
ấy sẽ giữ cho mình thức hàng tháng; và một tình huống
kì lạ có thể nảy sinh từ việc thức lâu dài và thường
xuyên, như nó nảy sinh từ việc thở nhanh và mạnh. Nếu
bạn có thể đi và không ngủ cả tháng tròn thì bạn sẽ đi
vào cùng một trạng thái của điên khùng, tới qua việc thở
sâu và hỗn loạn.
Bởi vì ngủ là hiện tượng rất tự nhiên - nó cũng tự
nhiên như thở vậy - nên người Sufi làm việc công kích
trực diện vào giấc ngủ, và do vậy trải qua những kinh
nghiệm rất kì lạ và kì quái.
Nhưng thức đêm có nguy hiểm riêng của nó, và
chúng còn lớn hơn những nguy hiểm cố hữu trong thở
hỗn loạn. Đây là quá trình dài và kéo dài: bạn phải giữ
cho mình thức hàng tháng trời - thức đêm một hay hai
ngày là vô dụng. Và nếu điều gì đó đi sai sau khi bạn
giữ thức đêm trong hai tháng, cái sai đó không thể chữa
lại trong một hay hai giây. Nhưng cái sai nảy sinh sau
mười phút thở có thể chữa lại trong một giây. Nếu bạn
đi vào giấc ngủ sau hai tháng thức thường xuyên, bạn
không thể bù lại mất mát trong hai mươi bốn giờ. Có
thể, bạn sẽ thậm chí không có khả năng ngủ sau hai
tháng thức đêm.
Con đường của người Sufi còn nguy hiểm hơn, mặc
dầu thức đêm là rất hữu dụng. Người tìm kiếm cứ thức
hết đêm nọ tới đêm kia và chờ đợi một cách kiên nhẫn.
Ông tu sĩ Sufi này, người đã gặp Gurdjieff, đã đi theo
con đường này.
Người Sufi cũng dùng nhảy múa làm phương cách.
Nhảy múa cũng có thể là phương tiện để đem tới việc
tách thân thể và linh hồn, nhưng nhảy múa phải là điều
không được học và thực hành và chuẩn bị. Nếu bạn
nhảy múa theo cách đã được thực hành, nó sẽ không có
tác dụng. Như tôi đã nói, rằng việc thở theo cách của
pranayam không thể đem tới tách rời thân thể và linh
hồn - bởi vì pranayam là phương pháp luận - một cách
tương tự, nếu ai đó lặp lại điệu vũ đã được chuẩn bị,
người đó chẳng mấy chốc sẽ đồng nhất bản thân mình
với thân thể. Nhưng nếu tôi bảo một người trong các
bạn ở đây, người không biết nhảy múa rằng người đó
nên nhảy múa, và người đó bỗng nhiên bắt đầu nhảy
múa và nhảy nhót, người đó có thể làm được điều đó.
Đây là điều kì lạ đến mức bạn không thể đồng nhất bản
thân mình với nó được, bạn không thể biết rằng bạn
đang nhảy múa.
Cho nên có hai phương pháp mà người Sufis dùng:
thức đêm và nhảy múa. Một số phương pháp khác cũng
đã được sử dụng. Chẳng hạn, người Sufis dùng len làm
áo quần của họ. Họ mặc quần áo len trong khí hậu nóng
bức điển hình của sa mạc - đó là cách họ chống lại thân
thể. Ai đó nhịn ăn cũng là chống lại thân thể. Ai đó ngồi
với một chân đặt lên đinh nhọn, và người khác ngủ trên
giường gai. Tất cả những điều này đềy là những phương cách để tạo ra tình huống tâm lí kì lạ nơi sự tách biệt có
thể xảy ra.
Tuy nhiên điều tự nhiên là người hành hương của
một con đường đặc biệt không thể nghĩ được rằng cùng
tình huống này có thể được tạo ra bởi các phương cách
khác nữa. Ông tu sĩ của Gurdjieff chẳng biết gì về
pranayam. Và ông ấy sẽ tự làm hại mình nếu ông ấy
thực hành điều gì đó giống nó; nó sẽ thực sự gây hại
cho ông ấy. Trong trường hợp của ông ấy, cái hại có thể
là đau khổ. Điều đó cũng giống như dùng bánh xe bò
kéo thế vào cho xe máy - điều đó sẽ là nguy hiểm. Bây
giờ nếu một người thức đêm mà thực hành pranayam,
người đó nhất định phát điên ngay lập tức, tẩu hoả nhập
ma. Người đó sẽ đi ra ngoài tâm trí mình ngay trong
đêm. Và có những lí do chính đáng cho điều đó.
Con người của bạn không thể chịu đựng được tác
động tổ hợp của hai bài tập - thức đêm và pranayam. Đó
là lí do tại sao người Jaina đã không dùng pranayam,
bởi vì họ đã tạo ra cái kì lạ đó qua việc nhịn ăn. Nếu họ
tổ hợp việc nhịn ăn với pranayam, họ sẽ trong rắc rối
sâu sắc - nguy hiểm này thực sự là lớn. Pranayam không
hữu dụng theo bất kì cái gì đối với người Jaina; sư Jaina
sẽ nói rằng nó tất cả đều vô dụng. Nhưng ông ấy không
biết rằng bằng việc phủ nhận pranayam ông ấy chỉ
muốn nói rằng nó không có chỗ trong loại kỉ luật tâm
linh của ông ấy. Nhịn ăn làm cho ông ấy điều pranayam
làm cho người khác.
Chính bởi lí do này mà người Jaina đã không quan
tâm tới asanas của yoga và phần còn lại của nó, bởi vì
chúng có thể gây hại trầm trọng cho người đang trải qua
việc nhịn ăn dài ngày. Những người tới với asanas yoga
đều cần thức ăn rất nhẹ và béo như sữa, bơ và ghee,
đem lại thoả mãn sâu sắc. Việc nhịn ăn đi ngược lại
điều đó.
Nhịn ăn làm cho bạn khô đi và cằn cỗi từ bên trong.
Nhịn ăn kích thích cơn đói của bạn, và nó sẽ làm hỏng
việc thực hiện asanas trong trạng thái đói cồn cào. Ngọn
lửa của cơn đói có thể dâng lên não bạn và bạn có thể
phát điên. Cho nên sư Jaina sẽ bảo bạn rằng yogasanas
chẳng có gì bản chất về chúng cả, chúng vô giá trị.
Nhưng với con đường dùng chúng, các asanas yoga
này có giá trị mênh mông. Được thực hiện với đúng loại
đồ ăn kiêng, chúng có thể có tác dụng đáng ngạc nhiên.
Điều cần thiết là thân thể ở trong trạng thái mềm mại và
uyển chuyển, dường như nó được tra dầu mỡ tốt - do đó
mới có tầm quan trọng của thức ăn nhẹ và béo - bởi vì
từng xương và gân và thần kinh đều sẽ phải trải qua
thao tác và biến đổi lớn lao. Thân thể sẽ vỡ ra nếu nó
không đủ mềm mại và uyển chuyển. Nó phải linh hoạt
và uyển chuyển vượt trội.
Bây giờ những asanas yoga này không là gì ngoài
những tư thế hay cử chỉ thân thể kì lạ mà chúng ta
thường không chấp nhận. Và chúng ta chẳng có ý tưởng
gì về cách tất cả các tư thế thân thể chúng được nối mật
thiết với tâm trí chúng ta.
Khi một người lo âu và lo nghĩ, người đó bắt đầu
gãi đầu. Người ta có thể hỏi tại sao người đó gãi đầu -
cái gì có đó có liên quan tới lo âu của người đó? Nhưng
nếu bạn ngăn cản người đó không cho làm như vậy, bạn
sẽ thấy rằng người đó không thể lo nghĩ được. Để ở
trong trạng thái lo nghĩ, người đó sẽ bắt buộc phải đưa
tay lên đầu. Và nếu bạn kìm người đó không cho làm
như vậy, người đó sẽ thấy khó mà lo nghĩ được. Mọi lo
âu đều có những liên kết thể chất cần thiết nào đó với nó; điều cần thiết là các cơ của tay bạn phải ở vào một
tư thế đặc biệt trong mối quan hệ với thần kinh của bạn.
Lo âu của người đó có thể được kích hoạt chỉ khi thân
thể người đó lấy tư thế được yêu cầu.
Tất cả các asanas yoga và ấn mudras đều tuân theo
những hình mẫu của các trạng thái khác nhau của tâm
trí chúng ta. Và chúng là kết quả của vô số thực nghiệm
và kinh nghiệm.
Như tôi đã nói với các bạn sáng nay, asanas và
mudras, tư thế và điệu bộ thân thể, tự chúng được tạo
nên trong quá trình thiền mà các bạn đang làm ở đây.
Sau hàng nghìn thực nghiệm người ta đã tìm ra loại
mudra (ấn) nào được hình thành trong trạng thái đặc
biệt của tâm trí. Thế rồi quá trình ngược lại cũng có thể
được soạn thảo ra, theo đó bạn có thể đạt tới một trạng
thái đặc biệt của tâm trí bằng việc thực hiện ấn tương
ứng với nó.
Chẳng hạn, Phật ngồi theo một cách đặc biệt; và
nếu bạn có thể ngồi theo cách đó, sẽ dễ dàng hơn cho
bạn đạt tới trạng thái tâm trí mà Phật có, bởi vì mọi
trạng thái của tâm trí đều có gắn với một tư thế tương
ứng của thân thể. Nếu bạn có thể bước đi như Phật
bước, nếu bạn có thể ngồi như Phật ngồi, nếu bạn có thể
thở như Phật thở, sẽ dễ dàng hơn cho bạn để đạt tới
trạng thái tâm trí của ông ấy. Hay đảo lại, nếu bạn có
thể đạt tới trạng thái tâm trí của Phật, bạn sẽ thấy sự
tương tự rất lớn giữa cách thức của bạn và cách thức
của Phật trong bước đi và ngồi.
Cả hai điều này đi song song với nhau.
Bây giờ những người như Gurdjieff - người theo
một nghĩa nào đó là người đã bật gốc rễ - không thể biết
điều đó được, bởi vì họ đã không có truyền thống nào
đằng sau mình, quay lại hàng nghìn năm. Hơn nữa,
Gurdjieff trong quá trình đi lang thang của mình đã gặp
gần hai chục tá các nhà huyền môn thuộc vào các
trường phái khác nhau. Và chính từ những nguồn đa
dạng như vậy mà ông ấy đã thu thập được nhận biết của
mình. Nhận biết của ông ấy bao gồm một số phần thuộc
vào một số công cụ tâm linh - mỗi một trong chúng đều
hoàn toàn khác nhau.
Những phần này là đúng ở chỗ riêng của chúng,
nhưng khi tất cả chúng đều được trộn lộn xộn với nhau
thì chúng tạo ra một sự sắp xếp rất kì lạ. Đó là lí do tại
sao đôi khi một kĩ thuật của Gurdjieff có tác dụng trên
ai đó, nhưng nó chẳng bao giờ có tác dụng đầy đủ cho
bất kì ai. Do đó, không một người nào trong những
người đã làm việc với Gurdjieff có thể đạt tới sự hoàn
thành đầy đủ. Điều đó đơn giản là không thể được, bởi
vì khi ai đó bắt đầu làm việc với Gurdjieff và cái gì đó
bật ra, người đó trở nên quan tâm tới công việc này và
đi vào con đường, cái là một mớ pha trộn các con
đường đa dạng. Cho nên, chẳng mấy chốc các kĩ thuật
khác bắt đầu vận hành lên người đó theo cách thức đảo
ngược lại. Điều này là vậy bởi vì Gurdjieff không có hệ
thống kỉ luật tâm linh đầy đủ. Người ta phải nói rằng đó
là đa hệ, và đồng thời không đầy đủ. Nhiều mối nối cần
thiết đang bị thiếu, ngay cả trong dây chuyền này của
một đa hệ thống.
Phần lớn thông tin của Gurdjieff đã được thu thập
từ người Sufi. Ông ấy không có tri thức về yoga Tây
Tạng, và khi có liên quan tới hatha yoga, thì điều đó là
không thích hợp. Bên cạnh đó, tất cả mọi thông tin của
ông ấy về hatha yoga đều tới từ những địch thủ của kỉ
luật này, nó tới từ các tu sĩ Sufi. Gurdjieff không phải là người tinh thông về hatha yoga. Tất cả mọi tri thức của
ông ấy về yoga hay kundalini đều được suy ra từ các
nguồn thù địch, hay từ những người đã là lữ khách của
những con đường đối lập.
Cho nên điều Gurdjieff nói về cơ sở của thông tin
này là không nhất quán theo nhiều cách. Chẳng hạn, cái
nhìn của ông ấy về kundalini hoàn toàn ngớ ngẩn. Ông
ấy không biết gì về nó cả. Ông ấy cứ gọi nó là "bộ đệm
kunda." Bộ đệm này không phải là thuật ngữ khéo chọn.
Ông ấy ngụ ý nói rằng chính bởi vì kundalini mà bạn
không đạt tới tri thức; nó có tác dụng như bộ đệm, như
rào chắn giữa bạn và điều tối thượng. Cho nên cần phải
siêu việt lên trên nó bằng việc phá huỷ nó. Theo
Gurdjieff không cần phải đánh thức kundalini chút nào.
Bây giờ ông ấy không biết mình đang nói gì.
Tất nhiên có bộ đệm giống như những thứ trong cá
tính chúng ta, và chính bởi vì chúng mà chúng ta có thể
chịu nhiều loại sốc trong cuộc sống. Nhưng kundalini
không phải là bộ đệm. Kundalini là bản thân cú sốc,
nhưng Gurdjieff không có tri thức gì về nó cả. Nó là cú
sốc lớn nhất có thể có. Khi kundalini dâng lên, nó đi tới
bạn như cú sốc mạnh mẽ nhất. Tất nhiên, có những bộ
đệm trong hệ thống của bạn, nhưng chúng là điều khác;
chúng có tác dụng như bộ hấp thu sốc. Và điều cần thiết
là những bộ đệm này bị phá huỷ đi. Nhưng Gurdjieff
coi bản thân kundalini là bộ đệm, bởi vì ông ấy chẳng
biết gì về nó cả. Trong thực tế, ông ấy không có kinh
nghiệm về kundalini, bởi vì ông ấy đã không có cơ hội
biết nó từ những người tinh thông kundalini yoga. Đó là
lí do tại sao nhiều lần những điều không thích hợp xảy
ra.
Những người như Gurdjieff và Krishnamurti đã là
nạn nhân của những sự không thích hợp như vậy. Sự
không thích hợp là ở chỗ họ đã không thể có tri thức có
hệ thống về những bí mật nằm đằng sau các thuật ngữ
và năng lượng như kundalini. Trong thực tế, tri thức
như vậy là rất khó thu được. Nó đơn giản không có thể
có trong một kiếp sống. Nó xảy ra chỉ trong trường hợp
một số hiếm hoi các cá nhân, những người học và
trưởng thành giữa hàng tá trường phái trong quá trình
hàng tá kiếp sống; bằng không thì điều đó là không thể
được. Nếu ai đó trưởng thành giữa hàng tá trường phái -
điều hiển nhiên phải mất hàng tá kiếp sống - chỉ thế thì
mới có khả năng là trong kiếp sống cuối cùng của mình
người đó sẽ tìm thấy sự tổng hợp giữa những kỉ luật tâm
linh đa dạng. Bằng không thì không thể tìm ra được sự
tổng hợp.
Điều thông thường là ở chỗ một người đạt tới chỗ
cao nhất thông qua một trường phái, và thế rồi người đó
không cần lấy việc sinh thành khác nữa. Mục đích của
người đó được đạt tới, cuộc sống của người đó được
hoàn thành. Do đó sự tổng hợp không xảy ra. Về sau,
tôi đã nghĩ rằng sự tổng hợp giữa các kỉ luật tâm linh đa
dạng của toàn thế giới là điều có thể, và đó là cái gì đó
đáng làm. Tất cả các kỉ luật đều phải được tiếp cận tới
từ các đầu khác nhau và thế rồi được gắn lại. Mọi nơi
điều tối thượng xảy ra đều như nhau; chỉ phương pháp
là khác.
Bây giờ một Thiền sư ném người tìm kiếm qua cửa
sổ. Điều này chỉ tạo ra một không gian của điều kì lạ
trong người tìm kiếm chứ không gì khác. Nhưng Thiền
sư sẽ nói rằng không có nhu cầu về pranayam và rằng
bhastrika này là pranayam - thấp dưới như việc thở - là
vô dụng. Có lí do cho ông ấy nói như vậy. Người ta có thể hỏi rằng liệu bhastrika không thể làm được điều đó
sao. Làm sao việc ném một người qua cửa sổ có thể có
tác dụng được? Nếu bạn đi và bảo Phật hay Mahavira
rằng ai đó đạt tới hiểu biết sau khi bị ném qua cửa sổ,
các ông ấy sẽ nói bạn điên. Mọi ngày mọi người vẫn
ngã xuống từ mái nhà hay từ ngọn cây và chẳng người
nào trong số họ đạt tới hiểu biết cả.
Nhưng ngã là một điều và bị ném ra là điều hoàn
toàn khác. Ngã từ mái nhà cũng giống như ai đó phát
điên; nhưng khi vài người nâng thân thể một người lên
và ném người đó ra khỏi cửa sổ, và người đó biết rằng
mình bị ném ra, thế thì người đó sẽ nhanh chóng trải
qua kinh nghiệm về sự kì lạ về toàn bộ vấn đề. Người
đó mọi lúc đều nhận biết và tự hỏi về toàn bộ tình
huống khi người đó bị ném ra, và khi người đó ngã ra
trên đất. Và đó là khoảnh khắc mà người đó trở nên tách
rời khỏi thân thể.
Một Thiền sư khác lấy cây thiền trượng của mình và
đánh vào đầu người tìm kiếm. Điều này cũng kì lạ.
Người tìm kiếm này đã đi tới ông ấy để làm an bình tâm
trí, còn thầy đánh người đó bằng chiếc thiền trượng của
mình. Điều này bỗng nhiên tạo ra một khoảnh khắc của
sự kì lạ cho người tìm kiếm. Nhưng nó sẽ không như
vậy ở Ấn Độ. Nếu bạn đánh ai đó ở đây, người đó sẽ
đánh lại bạn; người đó sẽ sẵn sàng cho việc đánh lại.
Điều đó sẽ chỉ xảy ra ở Nhật Bản, bởi vì thực tế này đã
tìm thấy chỗ cho mình ở nước đó. Mọi người đều nhận
biết rằng các Thiền sư có thể làm điều gì đó vĩ đại qua
việc đánh người tìm kiếm.
Nếu bạn đi tới một thánh nhân và lập tức khi thấy
bạn ông ấy bắt đầu xúc phạm mẹ và chị bạn bằng lời thô
tục, ông ấy sẽ thành công tạo ra một tình huống hoàn
toàn kì lạ cho bạn. Bạn tới ông ấy trong tin rằng ông ấy
là người biết chân lí, và ông ấy ném lời thô tục vào bạn!
Tương phản làm sao! Nhưng điều này là được chỉ nếu
bạn có nhận biết nào đó về nó; bằng không bạn sẽ gặp
khó khăn. Bạn có thể cho rằng mình đã tới lầm người và
bạn sẽ không tới gặp ông ấy nữa.
Nhưng trong một số trường phái, ngay cả quở trách
và lời chửi rủa đã được dùng để tạo ra sự kì lạ. Có một
fakir ở một làng nhỏ tên là Saikheda ở gần Gadarwara.
Các bạn có thể chẳng bao giờ biết ông ấy sẽ đón nhận
bạn thế nào khi bạn tới ông ấy. Ông ấy có thể dùng lời
thô tục với bạn, và ông ấy có thể làm bất cứ cái gì kì
quái và điên khùng. Có thể ông ấy sẽ đứng dậy trong sự
hiện diện của khách thăm của mình và bắt đầu đái. Bạn
sẽ hoàn toàn bị sốc. Điều đó tạo ra cái được gọi là
không gian của điều kì lạ trong bạn.
Ngoài điều đó, ông ấy thậm chí còn định đánh bạn
về mặt thể chất. Và trong cố gắng đánh bạn, ông ấy có
thể rượt đuổi bạn hàng dặm đường. Nhưng những người
hiểu ông ấy được lợi nhiều chỉ bằng việc tới thăm ông
ấy. Những người không hiểu, họ xua đuổi ông ấy như
người điên. Mà ông ấy chẳng liên quan gì tới những
người không hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy chắc chắn có
ích cho những người muốn hiểu ông ấy. Bây giờ người
mà ông ấy đuổi theo hàng dặm đường chắc chắn thấy
mình ở trong một không gian rất kì lạ. Cứ thử nghĩ tới
tình huống này: một người bị ông ấy rượt và cả nghìn
người đang quan sát cảnh tượng đó. Chắc chắn một bầu
không khí kì lạ được tạo ra.
Điều này có thể được làm bằng nhiều trường phái,
kĩ thuật và hệ thống khác. Nhưng khó khăn là ở chỗ mọi
trường phái như vậy không nhận biết rằng các trường phái khác đang làm cùng điều đó theo cách riêng của
họ.
Vậy mà có khó khăn khác trong vấn đề này. Cho dù
ai đó biết, như tôi biết, rằng cùng kết quả có thể được
đạt tới bằng các kĩ thuật khác nào đó, thì người đó sẽ
không nói ra điều đó. Khi tôi đang giải thích một hệ
thống đặc biệt, tôi phải trình bày nó là cao nhất; bằng
không thì sẽ không có hiệu quả. Cho dù tôi biết rằng
điều này có thể được đạt tới bằng các phương pháp khác
nào đó, tôi sẽ không nói như vậy khi tôi đang nói về
một hệ thống đặc biệt. Thế thì tôi sẽ nói rằng điều này
có thể được đạt tới chỉ qua hệ thống này thôi và không
qua cái gì khác. Và có lí do cho việc làm như vậy. Bạn
không thông minh tới mức bạn có thể hiểu nó trong
đúng cảnh quan của nó. Nếu tôi nói rằng tất cả các
trường phái đều có thể làm được điều đó, các bạn sẽ bị
lẫn lộn. Các bạn sẽ kết luận rằng chẳng trường phái nào
có thể làm được điều đó thực. Bên cạnh đó, tất cả các
trường phái này mâu thuẫn nhau đến mức bạn sẽ bắt
đầu tự hỏi làm sao nó có thể thế được. Lẫn lộn của bạn
thậm chí sẽ còn bị lẫn lộn hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều lần người trí huệ, những
người biết, phải nói theo ngôn ngữ của người dốt nát.
Họ phải quả quyết rằng "Đây là con đường duy nhất,
không có đường nào ngoài con đường này." Bởi lí do
này tôi tự thấy mình gặp khó khăn lớn, vì tôi biết rõ
rằng điều đó có thể được đạt tới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog