Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

Hình dáng của nước

Với người như ông,người muốn sống một trăm năm
tham dự vào các hoạt động trên thế giới và tin rằng “Ta là người làm,”
không có con đường nào khác hơn con đường này -con đường của việc sống mà không bị hoen ố
bởi việc làm của ông.

Có một con đường duy nhất có thể giữ bạn không bị ảnh
hưởng trong khi làm mọi việc bạn phải làm trong thế giới này.
Con đường được Ishavasya thảo luận tới chính là con đường này:
sống bằng việc buông xuôi cho sự tồn tại, trao cho nó tất cả, để
mọi thứ dưới chân nó. Buông xuôi mọi thứ cho nó. Khi vứt bỏ
khái niệm về bản thân bạn như người làm, bạn có thể sống cuộc
sống của mình và vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện
các nghĩa vụ trần gian của mình. Đây là con đường duy nhất;
không có con đường khác.

Sẽ có ích để hiểu hai hay ba điểm trong mối liên hệ này. Số
một: sống trong thế giới này mà không bị ảnh hưởng bởi nghiệp,
bởi việc làm của bạn, là thuật giả kim vĩ đại, và là vấn đề có giá
trị và trí huệ lớn. Nó cũng gần như việc tưởng tượng một người
tới từ hầm than mà không có dấu vết gì của bụi than trên người
đó. Hơn nữa, đây không phải là vấn đề sống trong hầm than trong
một hay hai giờ. Nếu chúng ta xem xét thời hạn toàn bộ cuộc đời
chúng ta, chúng ta đang nói về thời kì một trăm năm; và nếu
chúng ta xét tới nhiều kiếp sống quá khứ, cuộc hành trình của
chúng ta sẽ đi qua nhiều nghìn năm. Bây giờ, nó sẽ là vấn đề của
trí huệ lớn, hay bằng không cũng là cực kì may mắn, nếu một
người sống trong hầm than như vậy, trong một trăm năm khi vẫn
thực hiện công việc thường ngày của mình - thức dậy, đi ngủ,
ngồi, đứng vân vân - vậy mà có thể không bị dính bởi bụi than
trong hầm. Điều hoàn toàn hiển nhiên và tự nhiên là người đó sẽ
bị bôi bẩn bằng nhọ than. Rất dễ hình dung rằng người tiếp xúc
với bụi than trong hầm chứa không chỉ nhọ nhem mà thực tế rất
có thể còn biến thành bụi than nữa. Người đó có lẽ trông giống
như hoá thân của bụi than! Dường như khó mà tin được - khi
sống trong hầm than ấy một trăm năm - mà một người sẽ không
trở thành bản thân bụi than.

Làm sao chúng ta đi qua một vật mà không chạm vào nó?
Ngay khi chúng ta đi qua nó chúng ta bị gắn với nó. Khi chúng ta giận dữ, chúng ta
trở nên bị hợp nhất với giận dữ của mình. Khi
chúng ta yêu ai đó, chúng ta được thống nhất với anh ấy hay cô
ấy. Bất kì khi nào chúng ta đánh nhau hay bỏ chạy hay tận hưởng
một điều, chúng ta được hợp nhất với hành động của mình. Ngay
cả khi chúng ta làm việc từ bỏ, chúng ta được hợp nhất với nó; và
nếu chúng ta bị dính với sự từ bỏ của mình, chúng ta làm nhơ bẩn
tay mình bằng vết nhọ. Chúng ta trở nên vấy bẩn. Việc hãnh diện
có biết bao nhiêu của cải nảy sinh trong tâm trí một người khi
người đó tận hưởng kết quả của nó. Tương tự, việc từ bỏ đem
vào trong tâm trí người đó hãnh diện về việc đã từ bỏ nhiều thế.
Hãnh diện đó là bụi than với chúng ta; kiêu ngạo đó bản thân nó
là vết nhơ.

Không thành vấn đề một người trải qua cuộc đời một trăm
năm của mình như thế nào, người đó sẽ làm cái gì đó, và nếu
điều ấy được làm với sự hãnh diện, nó sẽ bôi đen người đó.
Nhưng lời kinh này của Ishavasya bảo chúng ta rằng có một con
đường tạo khả năng cho người ta không bị mất đi sự thuần khiết
của mình, và nơi mà người đó không bị ảnh hưởng bởi hành động
của mình, mặc dù sống trong hầm than. Điều này dường như
không thể được, nhưng nó không phải là không thể được nếu
chúng ta hiểu đúng nghĩa của lời kinh này. Người ta có thể làm
bất kì cái gì, nó nói, nhưng chừng nào mà người ấy còn là người
làm, người ấy còn bị bôi đen. Chỉ một phương án khác là có sẵn:
dừng hoàn toàn việc là người làm.

Người ta không thể tránh hành động. Hành động chắc chắn
sẽ có đấy chừng nào chúng ta còn sống. Sẽ là sai lầm mà nói, “Từ
bỏ làm mọi thứ để cho chúng không có cơ hội nào bôi bẩn bạn.”
Hành động sẽ có đó cho đến tận cái chết. Thở vào là hành động.
Không chỉ có người quản lí cửa hàng được tham dự vào hành
động; người ăn mày cũng đang làm. Không chỉ người nội trợ
được tham dự vào việc làm; người bỏ nhà cửa chạy vào rừng rậm
cũng là đang làm. Hành động của họ có thể khác nhau, nhưng
điều này không có nghĩa là người này hành động còn người kia
không hành động: cả hai đều là hành động cho nên không ích gì
mà tin chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi bụi than, khi bỏ tất cả
cũng là hành động như sống nó tất cảt. Bằng suy nghĩ như vậy,
chúng ta sẽ không đi đến đâu cả. Bằng việc từ bỏ hành động,
người ta chạy trốn, nhưng thế thì việc chạy trốn trở thành hành
động của người ta. Hành động gắn chặt vào chúng ta.
Chỉ có mỗi một cách thoát ra khỏi tình thế khó xử này, và đó
là tìm ra cách thoát khỏi việc là người làm, cho dù chúng ta
không thể giải phóng bản thân mình khỏi việc làm. Nhưng làm
sao chúng ta có thể giải thoát bản thân mình khỏi việc làm trong
khi việc làm tiếp diễn? Liệu tôi có không trở thành người làm khi
tôi đang làm hành động không?

Ishavasya bảo chúng ta rằng ngay cả khi làm, chúng ta vẫn
có thể thoát khỏi việc là người làm. Thông thường dường như đối
với chúng ta là có lẽ chúng ta thoát khỏi việc trở thành người làm
chỉ nếu chúng ta từ bỏ các hành động. “Tôi sẽ không làm gì cả,
do đó tôi sẽ không trở thành người làm.” Nhưng Ishavasya bảo
chúng ta một cách hoàn toàn dứt khoát rằng điều này là không
thể được. Ngược lại, điều có thể là ở chỗ bạn cứ làm mọi việc,
nhưng bạn vẫn còn tách bạch với việc trở thành người làm của
chúng.

Đừng là người làm! Làm sao điều này có thể có được?
Chúng ta đã quen thuộc chút ít với hành động như thế. Đóng vai
trên sân khấu là trải qua khả năng về làm mà không là người làm.
Rama khóc to trong rừng khi Sita bị lạc. Anh ta chạy từ cây nọ
sang cây kia, bám vào thân cây và kêu, “Sita đâu rồi?” Khi kêu la
với cây, người diễn viên có thể kêu gào thống thiết hơn bản thân
Rama, và có thể còn khéo léo và tài giỏi hơn nữa, vì Rama không
có cơ hội nào để diễn tập. Người diễn viên này có rất nhiều lần
thực hành. Người đó biểu diễn cùng những hành động mà Rama đã thực hiện, nhưng
không có người làm đằng sau chúng; chỉ có
diễn viên thôi.

Nhớ lấy, hành động có thể có hai loại: một loại trong đó có
người làm, và loại kia trong đó có diễn viên. Nếu diễn viên thay
thế cho người làm, hành động sẽ tiếp diễn trên bề mặt, nhưng sẽ
có biến đổi toàn bộ bên trong. Việc diễn tập không gắn bạn vào
hành động, nó không ảnh hưởng đến bạn. Nó vẫn còn hoàn toàn
ở bên ngoài, nó không đi vào bên trong. Nó không đi sâu vào bên
trong, nó rung động trên bề mặt và thế rồi biến mất. Diễn viên
đóng vai Rama có thể khóc than và thương tiếc đến đâu cũng
không thành vấn đề, những giọt nước mắt đó không đi vào cái ta
bên trong của người đó. Thông thường người đó phải bôi bụi
than để làm cho nước mắt trào ra, và nếu người đó không dùng
bụi than thì đấy là vì người đó đã học cách làm chảy nước mắt
qua thực hành. Chúng không tới từ chiều sâu mà từ bề mặt.
Người đó kêu la, người đó làm ầm ĩ, nhưng nó tới từ cổ họng
người đó và không từ trái tim. Cái ta bên trong vẫn còn tuyệt đối
không bị động chạm tới và không bị ảnh hưởng tới. Người đó đi
qua hầm than, nhưng không như người làm; người đó vẫn còn là
diễn viên.

Nhớ lấy, chính người làm bị bao phủ bởi bụi than, không
phải là hành động. Nếu như hành động gây ra bụi than, thế thì
điều Ishavasya nói không thể xảy ra được, điều Gita nói không
thể xảy ra được. Thế thì sẽ không có cách nào tự do khỏi hành
động khi người ta còn sống. Thế thì người ta có thể tự do khỏi
hành động chỉ sau khi chết. Thế thì dường như là sẽ không có
giải thoát chừng nào mà cuộc sống vẫn còn dai dẳng. Nhưng làm
sao người ta có thể được tự do sau khi chết khi mà người ta
không thể được tự do trong khi còn sống? Nếu người ta không
thể được tự do trong khi còn sống chắc chắn không có cơ hội nào
tìm được tự do sau cái chết .
Nếu bản thân hành động có thể làm vấy bẩn cuộc sống, thế
thì giải thoát là không thể có được. Nhưng những người tìm kiếm
sâu bên trong nói rằng bụi than bám vào người làm và không
bám vào việc làm. Tức là, nó chỉ bám khi người ta nói, “Tôi là
người làm,” khi việc nhấn mạnh là vào hành động và khi tôi và
hành động là bị đồng nhất lẫn nhau. Chỉ khi việc làm nhơ xảy ra -
khi cái tôi trở thành một với hành động, và nói “Tôi là người
làm” - chỉ trong tình huống như vậy bụi than mới bao phủ người
làm; và thế thì cuộc sống bị tràn đầy với bóng tối và bóng đen.
Nếu không có người nào bên trong nói, “Tôi là người làm,”
và đồng thời có người biết, người hiểu rằng hành động đang tiếp
diễn - rằng các diễn viên đã lên sân khấu để diễn kịch - thế thì
sân khấu có lớn đến đâu cũng không khác biệt gì; để cho nó rộng
lớn như toàn thể thế giới này! Không khác biệt gì việc bức màn
trong vở kịch được kéo lên chỉ một lần lúc sinh, và được hạ
xuống chỉ vào lúc chết. Không thành vấn đề vở kịch kéo dài rất
lâu giữa lúc mở màn và hạ màn. Tất cả những điều này không tạo
ra khác biệt; nó không ảnh hưởng tới bạn chút nào nếu bạn nhìn
nó từ bên trong như việc biểu diễn. Nếu bạn mang hiểu biết này
bên trong, thế thì toàn thể thế giới là một leela - một vở kịch, một
vở diễn, một sân khấu cho bạn - và cuộc sống bản thân nó giống
như một câu chuyện. Thế thì chúng ta là diễn viên, và không cái
gì ảnh hưởng tới diễn viên.

Lời kinh này của Ishavasya nói chỉ có một cách duy nhất cho
con người không bị ảnh hưởng trong khi thực hiện các nghĩa vụ
trong cuộc sống, và đó là biến cuộc sống thành việc đóng kịch.
Nhưng chúng ta là những người phi thường. Chúng ta biến việc
đóng kịch thành cuộc sống, nhưng chúng ta không biến cuộc
sống thành việc đóng kịch. Chúng ta cố gắng nhiều lần để trình
bầy việc đóng kịch của chúng ta như cuộc sống thực của mình,
và những hành động lặp của chúng ta thực tế trở thành các lực
hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta tới hỏi nhà tâm lí, họ nói rằng hành
vi hiển nhiên của con người tất cả đều là hành
động được trau dồi. Nó tất cả đều là việc ước định.
Chúng ta gọi điều này là bản tính của con người, nhưng các
nhà tâm lí tuyên bố rằng không cái gì giống như bản tính của con
người . Nếu có cái gì giống như bản tính của con người, nó là
tính hay thay đổi vô tận. Bản tính của con người giống như nước.
Nếu chúng ta rót nước vào cốc, nó lấy hình dạng của cốc, còn
nếu nó được rót vào chén, nó sẽ lấy hình dạng của chén; nếu nó
được rót vào vò, nó sẽ lấy hình dạng của vò. Nước bao giờ cũng
lấy hình dạng của bình mà nó được rót vào. Thế thì hình dạng tự
nhiên của nước là gì? Nó không có hình dạng tự nhiên. Bản tính
của nó có thể được mô tả như khả năng lấy vô tận hình dạng.
Nước không ương bướng, nó không ngang ngạnh. Nó không quả
quyết, “Tôi sẽ vẫn còn trong hình dạng đặc biệt này.” Nó nói,
“Tôi sẵn lòng sống theo bất kì hình dạng nào, dù nó có thể là bất
kì cái gì.”

Con người không có bản tính nào của riêng mình. Hiện
tượng mà chúng ta gọi là bản tính chỉ là những mẫu hình hành vi
thường xuyên được thực hành. Đấy là những hành động được
thực hiện theo khuôn khổ văn hoá trong những hoàn cảnh thường
lặp lại. Cho nên, một người được sinh ra trong một gia đình
không ăn chay sẽ ăn thịt. Không phải bản tính của người đó là
chọn điều đó; nếu người đó được nuôi lớn lên trong gia đình ăn
chay, người đó sẽ ăn thức ăn chay. Thế thì người đó có thể trở
nên buồn nôn hay nổi giận khi thoáng thấy thịt. Nhưng đây
không phải là bằng chứng cho một bản tính đức hạnh, mà ăn thịt
không có ý nghĩa là bản chất ác độc. Các đặc trưng như thế
không phải là những chỉ dẫn về tính cao thượng.
Hình dạng của một hành động là một việc được thực hành,
cái mà chúng ta đang dạy cho mọi người từ ngay thời thơ ấu của
họ. Nếu chúng ta hiểu đúng điều sự huấn luyện đó là gì, đấy chỉ
là sự chuẩn bị cho việc biểu diễn mà một người được trông đợi
trong cuộc sống của người đó. Các thể chế giáo dục đều là các
phòng tập diễn. Chúng là các phòng huấn luyện nơi chúng ta
chuẩn bị cho bản thân mình cho việc trình diễn của cuộc sống
của chúng ta. Chúng ta huấn luyện một người sắm vai theo một
kiểu cách đặc biệt trong gia đình chúng ta, xã hội, trường phổ
thông và đại học. Chúng ta huấn luyện người này là Hindu, người
kia là người Mĩ, người nọ là người Trung quốc, và người khác là
người Ki tô giáo. Khi họ được huấn luyện và khuôn khổ tâm trí
của họ trở thành mạnh mẽ và vững chắc, có vẻ như cái khuôn
khổ tâm trí đó là bản tính của họ. Không, tất cả những cái đó chỉ
là những trình diễn được lặp lại nhiều lần, cuối cùng được ấn
định chắc chắn trong tâm trí con người đến mức ngay cả người
đó đơn giản diễn xuất về phần mình mà không biết.
Bạn đã bao giờ nghĩ bạn thuộc về tôn giáo nào không?
Hindu giáo, Jaina giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo và các tôn
giáo khác tất cả đều là những việc trình diễn được dạy cho bạn.
Nếu bạn chưa được huấn luyện trong chúng bạn sẽ không bao giờ
biết được về chúng. Nhưng khi bạn nói, “Tôi là người Hindu
giáo,” bạn trở thành người làm. Thế thì bạn có thể cầm thanh
gươm trong tay để bảo vệ tôn giáo của bạn. Thế thì mạng người
có thể bị hi sinh và việc giết người có thể được thực hiện. Tranh
cãi có thể tình cờ nổ ra với bất kì ai nói bạn không phải là Hindu.
Các nhà tâm lí hay nói rằng thói quen là bản tính thứ hai.
Điều này đã là quan điểm của các nhà tâm lí quá khứ. Nhưng
thay vì thế, các nhà tâm lí hiện đại nói rằng bản tính là thói quen
thứ nhất. Càng nhiều nghiên cứu được tiến hành về bản tính con
người, điều được biết càng được thuyết phục hơn rằng bản tính là
thói quen thứ nhất - một thói quen ăn sâu đã trở thành được cố
định chắc chắn đến mức con người quên mất rằng người đó đang
biểu diễn. Nếu bạn có thể nhớ trong tâm trí rằng bạn đang biểu
diễn thì sẽ không còn việc giết lẫn nhau. Ngược lại, bạn sẽ nói, “Điên làm sao!
Tôi đang đóng vai người Hindu và bạn đang đóng
vai người Mô ha mét giáo; tại sao phải có bất kì cãi nhau nào ở
đó?” Không, chỉ khi hiện tượng này không được xem như vở
kịch, như diễn kịch, cãi nhau và đánh nhau mới bùng ra. Thế thì
mọi người trở nên nghiêm chỉnh, và họ dừng vui đùa.
Eric Berne đã viết một cuốn sách tên là Mọi người chơi điền
kinh. Ông ta không chỉ đơn thuần giải quyết các môn điền kinh
như bóng đá, khúc côn cầu, chơi bài và chơi cờ, mà giải quyết cả
với người Hindu, Mô ha mét giáo và Ki tô giáo. Đấy cũng là
những môn điền kinh mọi người chơi thôi, đôi khi với giá rất cao
và với nhiều tác hại. Những người chơi cờ đã được biết là đã
từng rút gươm ra đánh nhau chỉ vì vấn đề thắng hay thua ván cờ,
cho nên chỉ vừa mới động tới mối quan tâm lớn là họ đã giết lẫn
nhau với vấn đề khác biệt về tôn giáo của họ.

Dường như là khi trò chơi bị coi là nghiêm chỉnh chúng trở
thành một phần của cuộc sống; và với bất kì cái gì được dạy đều
được bám vào đó. Trên khắp thế giới đàn bà đã được dạy rằng họ
là thua kém đàn ông, và họ đã tin vào điều đó. Nhưng cũng có
những xã hội mẫu hệ, nơi mà đàn ông được dạy là người đó thấp
kém hơn đàn bà; và người trong một trật tự xã hội như thế sẽ bám
vào niềm tin này. Có những gia đình mà đàn bà cao siêu hơn đàn
ông. Điều đáng quan tâm về tình huống này là ở chỗ trong trường
hợp đàn bà cao siêu hơn đàn ông, đàn bà trở nên thông minh hơn
đàn ông. Và nơi mà đàn bà được dạy cô ấy thấp kém hơn đàn
ông, đàn ông trở nên thông minh hơn.

Chúng ta định hình con người giống như nước trong bình
chứa. Thế thì việc đóng kịch giữ bản ngã chặt đến mức nó không
nói, “Tôi đang đóng kịch”; nó nói, “Tôi đây!” Thế thì là người
Hindu không còn là vở kịch nữa: nó là điều tôi đang là. Và bụi
than bắt đầu tác động vào bạn ngay khi bạn nói, “Tôi đây.” Nó
cũng có thể được xem là ít quan trọng hơn nếu nó chỉ ảnh hưởng
tới bạn: nhưng một người bị vấy bẩn với bụi than chẳng mấy
chốc sẽ bắt đầu ném nó lung tung vào người khác. Bụi than trên
tay chúng ta được bôi lên người khác. Bản thân chúng ta bị lấm
đen và chúng ta bôi đen cả người khác. Chúng ta bắt đầu biến
đổi việc đóng kịch thành một vai do người làm thực hiện.
Khi hai đứa trẻ làm lễ cưới cho hai con búp bê, chúng ta nói
chúng đang chơi. Nhưng bạn đã bao giờ nhận ra rằng đám cưới
của đàn ông và đàn bà, ở một mức nào đó, không là gì nhiều hơn
đám cưới của hai con búp bê không? Trong cả hai đám cưới, mọi
hình dạng, mọi xem xét, mọi sắp đặt, mọi âm nhạc, mọi phô
trương và tất cả những cái bẫy khác đều như nhau. Khác biệt duy
nhất là ở chỗ một đám do trẻ nhỏ chơi và đám kia do trẻ đã lớn
chơi. Trẻ nhỏ chóng quên trò chơi; buổi tối chúng không nhớ
rằng đám cưới đã được cử hành vào buổi sáng. Nhưng trẻ đã lớn
thậm chí đưa nhau ra toà án để tranh giành quyền hôn nhân. Họ
không quên sự kiện ấy, nhưng bám lấy nó rất chặt.
Không ai được chuẩn bị để coi hôn nhân của họ như vở kịch.
Khó làm như vậy, bởi vì nếu hôn nhân được xem như vở kịch,
thế thì gia đình cái là kết quả của đám cưới không tránh khỏi bị
xem như vở kịch. Thế thì cộng đồng được tạo nên từ các gia đình
cũng là vở kịch. Vậy cái vòng này mở rộng dần, cho tới khi toàn
bộ thế giới loài người bao quanh cộng đồng này trở thành vở
kịch. Đó là lí do tại sao chúng ta phải bám chắc vào mọi chi tiết
về vị trí chúng ta và nói, “Không, thể chế hôn nhân không phải là
vở kịch, đấy là vấn đề nghiêm chỉnh; đấy là vấn đề sống-vàchết.”
Gia đình không phải là vở kịch, cộng đồng không phải là
vở kịch. Thế thì mọi bước, mọi hành động, trở thành cứng nhắc
và khó uốn như tảng đá.

Toàn bộ cấu trúc trở thành ngày càng cứng nhắc; và chúng
ta, xã hội, sẽ phá huỷ bất kì người nào coi các dàn xếp nhân tạo
này chỉ là vở kịch, bởi vì người như thế đe doạ phá hoại mọi cách dàn xếp nghiêm
chỉnh của chúng ta. Người đó từ chối tuân theo
các qui tắc của trò chơi của chúng ta, cho nên chúng ta trả thù
anh ta. Cuộc sống của chúng ta là việc diễn xuất liên tục, dài lâu;
nhưng chúng ta đã cấu trúc việc diễn xuất đến mức chúng ta có
thể nói nó là việc làm của mình - chúng ta là người làm.
Ishavasya khẳng định điều ngược lại. Nó nói, “Ít nhất biết
việc diễn xuất là diễn xuất; không có gì trong thế giới này để bạn
phải đủ rồ để là người làm của nó. Nếu bạn trở thành người làm,
bạn mất trí chắc chắn. Để sự tồn tại là người làm đi. Để mọi thứ
cho nó điều bao giờ cũng có đó, đã có đó rồi khi bạn còn chưa
sinh ra, sẽ có đó khi bạn đã dừng sự sống. Để tất cả việc làm của
bạn cho sự tồn tại. Đừng nhận tải trọng của việc làm lên bản thân
bạn. Tải trọng đó sẽ quá nhiều với bạn; nó sẽ lớn hơn sức bạn có
thể mang. Việc mang gánh nặng đó nằm ngoài năng lực của bạn.
Bạn sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của nó và bạn sẽ chết. Không
cái gì có thể cứu bạn được khỏi nó.”

Nhưng bản ngã của chúng ta thấy khó nuốt trôi điều này.
Ngược lại, nó thấy thích thú với sức nặng của tảng đá đè lên ngực
nó. Nó nói, “Tôi đang nâng một hòn đá nặng thế, và cái bạn đang
nâng không là gì nếu so với gánh nặng của tôi! Ta đang mang
một tải trọng nặng thế!” Tổng thống, thủ tướng, đều là những
người thấy thích thú trong việc mang những tảng đá nặng. Để
nâng những tảng đá như thế họ nhận hàng nghìn sự xúc phạm và
thấy bản thân họ gặp hàng nghìn khó khăn. Nhưng họ có thể nói,
“Nhìn vào hòn đá nhỏ bé tầm thường mà anh đang mang trên
lưng kia: anh cũng không hơn gì ông chủ tịch xã - đâu là so sánh
giữa anh và tôi? Tôi là chủ tịch nước và anh là chủ tịch xã!” Ham
muốn trở thành chủ tịch xã là ở qui mô nhỏ; trở thành chủ tịch
nước đòi hỏi sự mất trí trên qui mô lớn hơn. Nhưng mối bận tâm
thường xuyên của ông chủ tịch xã là với vấn đề khi nào ông ta có
thể mang được những hòn đá lớn hơn. Trong nhiều kiếp sống
chúng ta định giá một người tỉ lệ theo trọng lượng của hòn đá -
tải trọng càng lớn trên lưng người đó, người đó càng vĩ đại.
Chân lí đích xác đi ngược lại niềm tin này. Những người biết
thì tìm kiếm người không có tải trọng nào trên lưng người đó;
người đó không mang gánh nặng nào và nhẹ như hoa. Nhưng khó
mà tìm được người như thế, vì mọi người đều bám vào tải trọng
nào đó này khác; dù nhỏ đến đâu cũng không thành vấn đề, tải
trọng có có. Nếu người đó không phải là chủ tịch xã, người đó ít
nhất là chủ gia đình - và không phải bao giờ cũng chỉ có người
bố là người chủ gia đình. Nếu người bố vắng nhà một chốc, đứa
con cả sẽ nắm vai trò người đứng đầu với các em trai em gái. Nó
lập tức bắt đầu chi phối họ. Nó bắt đầu đóng vai trò của người bố
nó. Chẳng hạn, đứa con cả của bạn đang cãi nhau với đứa em trai
trong sự hiện diện của bạn, nhưng nếu bạn rời khỏi chỗ đó, bỗng
nhiên bạn sẽ thấy rằng đứa con cả bắt đầu chi phối. Nó bắt đầu
giữ vai trò mà bạn đã giữ vai. Qui mô của nó có thể nhỏ, trạng
thái của nó có thể nhỏ, nhưng vở kịch là một. Bạn có thể đóng
vai trong vở kịch này trước hai hay ba trăm người, trong khi con
bạn diễn hệt vở kịch đó trước hai hay ba đứa trẻ. Không có gì
khác biệt trong vở kịch cả, chỉ có tỉ lệ là khác đi. Trẻ nhỏ sẽ đóng
vở kịch nhỏ, trẻ đã lớn sẽ đóng vở kịch lớn, còn bậc huynh
trưởng sẽ đóng vở kịch thật lớn.

Con người cảm thấy khó chịu khi người đó không thể chỉ ra
rằng người đó đang mang một tải trọng lớn trên lưng mình, cho
nên một nét đặc biệt thú vị khác nổi lên: người đó nói chung
khoe khoang một tải trọng lớn hơn cái người đó thực sự đang
mang. Có một bà giáo sư cùng làm việc với tôi ở trường đại học
nơi tôi đã làm việc. Tôi phát chán việc nghe về các loại tật bệnh
của bà ta. Liệu một người có thể có nhiều bệnh tật đến thế được
không? Bất kì khi nào bà ấy gặp tôi là bà ấy phàn nàn về một
bệnh nặng nào đó; bà ấy đã bao giờ phải chịu một bệnh nhỏ nào
đâu. Thế rồi tôi hỏi chồng bà ấy về nỗi đau đớn của bà ấy do biết bao nhiêu bệnh
tật, và nói thêm rằng, thông thường, một người
vợ bản thân bà ấy đã là đủ bệnh tật cho ông chồng rồi, “nhưng
trong trường hợp của ông tất cả những bệnh tật đó được được
thêm vào nó. Làm sao mà ông chịu đựng được tất cả những bệnh
đó?”

Ông ta trả lời, “Xin ông chớ tin vào các câu chuyện của bà
ấy. Bà ấy không bao giờ bị một bệnh tật tí xíu nào. Ngay cả đến
một cơn cảm lạnh nhỏ bà ấy cũng không bao giờ nói gì ít hơn
bệnh lao!”
Tôi phân vân và bắt đầu tự hỏi bí mật gì nằm sau nhu cầu
khuếch đại bệnh tật của người ta. Đây là bí mật ấy: nếu bạn có
một bệnh trầm trọng, bạn có một gánh nặng lớn; bạn sẽ được coi
là quan trọng. Nhưng nếu bạn bị một bệnh nhẹ, bạn trở thành
người vô giá trị, vì bệnh tật của bạn có bản chất lặt vặt. Nó không
mang giá trị là bao, không cần để người khác phải lo lắng về bạn.
Cho nên bệnh trầm trọng được gọi là bệnh vương giả - bệnh lao
được xem như bệnh vương giả. Người nghèo không phải chịu
bệnh đó, chỉ có vua bị bệnh đó!

Gần đây tôi vừa đọc về một người đàn bà, người tới một bác
sĩ và yêu cầu ông ta cắt bỏ ruột thừa cho mình. Ông bác sĩ hỏi,
“Ruột thừa của bà gây rắc rối cho bà sao?”
Người đàn bà nói, “Không, nhưng điều đó không thành vấn
đề. Tất cả đàn bà trong câu lạc bộ mà tôi là thành viên đều đã trải
qua ca mổ - một số người đã cắt ruột thừa, số khác có cái gì đó
khác để bị cắt bỏ, nhưng không có cái gì đã bị bỏ khỏi thân thể
tôi. Tôi không cái gì để nói cả!”
Con người quí trọng gánh nặng trên lưng mình, cho nên thật
khó để phát hiện ra người nhẹ như hoa, người có thể nói, “Tôi
không mang tải trọng nào.” Chỉ người đã giao phó tất cả tải trọng
của mình cho sự tồn tại mới có thể nói như thế, và điều đáng
quan tâm về việc này là ở chỗ toàn thể tải trọng là một mình của
sự tồn tại trong bất kì trường hợp nào. Chúng ta cứ chõ mũi mình
vào một cách không cần thiết. Hoàn cảnh của chúng ta giống như
hoàn cảnh của hành khách đang đi trên tầu hoả với tải trọng của
mình để trên đầu mình. Hành khách khác khuyên người đó đặt nó
lên sàn, và thế rồi nói, “Sao anh làm nặng bản thân mình một
cách không cần thiết thế?”
Người đó trả lời, “Tôi chỉ mua có mỗi một vé cho bản thân
tôi thôi.” Người đó đơn giản và ngây thơ làm sao. Người đó nói,
“Tôi đã không mua vé cho hành lí của tôi. Làm sao tôi có thể đặt
cái va li này và đồ trải giường lên sàn được? Như thế là đánh lừa
chính phủ. Cho nên tôi đặt nó lên đầu.”

Bởi vì con người đơn giản ấy không có ý tưởng gì về việc
đặt tải trọng trên đầu mình thì đâu có gì khác biệt với toàn bộ tải
trọng của con tầu. Tải trọng toàn bộ của vũ trụ này do sự tồn tại
mang. Toàn bộ việc thực hiện quản lí vấn đề của vũ trụ này được
thực hiện bởi một mình sự tồn tại. Nhưng chúng ta là những hành
khách rất kì lạ. Chúng ta nhận được hạnh phúc lớn do việc đặt
hành lí lên đầu mình trong suốt cuộc hành trình trong con tầu của
sự tồn tại. Chúng ta thậm chí nói với những người đang mang
những gánh nhỏ, “Anh đã làm lãng phí đời mình rồi đấy. Anh
nên tăng gánh nặng lên.” Và tại sao? Để cho đến lúc người ấy
chết tải trọng của người đó trông lớn đến mức mọi người sẽ bình
luận người đó đã để sau nhiều điều thế! Đây là lí do tại sao, khi
một ai đó chết, chúng ta bàn tán ngay cả về những tải trọng mà
họ không bao giờ mang. Chúng ta giúp làm cho tải trọng đó có vẻ
lớn hơn.

Tôi đã từng nghe: một người chết, và ông linh mục của làng,
đứng gần nấm mồ anh ta, bắt đầu nói về người đó trong khi cỗ
quan tài đang được hạ dần xuống huyệt. Ông ấy ca ngợi về đức
hạnh của người quá cố, những hành vi tốt của người đó, và việc phục vụ của người
đó với người khác. Nghe thấy điều này, vợ
của người quá cố trở nên hơi lo âu. Bà ta bảo đứa con mình cúi
mình thêm chút nữa để nhìn vào trong quan tài và để chắc chắn
rằng nó có chứa thi hài người cha, vì bà ấy chưa bao giờ nghe nói
về tất cả những hành vi tốt này mà ông linh mục nói là đã làm.
Đến đêm bà ấy tới ông linh mục và hỏi ông ta, “Ông đã nói gì về
chồng tôi vậy? Theo chỗ tôi được biết, chồng tôi chưa bao giờ
làm bất kì điều gì mà ông đã nói .”

Ông linh mục đáp, “Bà đừng lo. Ông ấy có thể đã không làm
bất kì những hành vi tốt đó, nhưng người ta sẽ nói gì về ông
chồng bà nếu những hành động như vậy không được nhắc tới?”
Voltaire có một người bạn. Ông ta đã xúc phạm Voltaire
trong cả đời. Ông ta thường chỉ trích Voltaire theo mọi cách thức
có thể. Ông ta thường đối lập với Voltaire trên mọi vấn đề. Ông
ấy không phải là một người tốt. Khi ông ấy chết, một ai đó tới
Voltaire và nói, “Bây giờ giữa các ông có hoà bình rồi; sau rốt,
ông ta là bạn của ông. Cứ cho là ông ta đã xúc phạm ông nhiều
lắm, đã điểm tên ông, phê phán ông chua cay, và cố gắng phá
hoại ông. Nhưng bây giờ ông ta chết rồi, xin ông viết đôi lời ca
ngợi ông ta.” Cho nên Voltaire đã viết, “Ông ấy là người tốt và là
một người vĩ đại - với điều kiện là ông ấy thực sự chết.” Nếu một
người đang sống thì chúng ta không thể ca ngợi người đó được.
Khi người đó chết rồi chúng ta phải ca ngợi người đó, và gánh
nặng mà người đó chưa hề mang được gán cho anh ta.
Nhưng Ishavasya đang nói tới một người mà với người đó
không còn lại gì để ca ngợi sau cái chết của anh ta. Nó nói về
người đã dồn tất cả quyền tác giả cho sự tồn tại. Một người nói,
“Tôi không có chút nào, một mình nó có đấy. Nếu có người làm,
đấy chỉ là sự tồn tại. Nhiều nhất tôi chỉ là quân tốt đen trong trò
chơi của nó. Tôi sẵn lòng đi tới bất kì đâu nó hướng tôi tới; tôi
sẵn lòng là bất kì cái gì nó muốn, tôi sẵn lòng làm bất kì cái gì nó
chỉ thị. Nếu nó muốn làm tôi thất bại, tôi sẵn lòng bị thất bại; nếu
nó làm tôi thành người thắng, tôi sẵn lòng thắng. Không thành
công không thất bại là của tôi. Thất bại là của sự tồn tại, thắng lợi
cũng là của sự tồn tại.”

Việc buông xuôi của người như thế là toàn bộ. Người đó qui
mọi thứ cho sự tồn tại: “Tôi nữa - cũng như tất cả mọi việc làm -
đều là của sự tồn tại.” Người như vậy sẽ làm tất cả những gì cần
thiết trong cuộc sống - sống, thở, đi, đứng, ngồi, làm nghĩa vụ
của mình, ăn thức ăn và ngủ ban đêm. Mọi hoạt động này sẽ có
đó, nhưng sẽ không có người làm bên trong.

Đây là con đường duy nhất. Để tôi nhắc lại, hiền nhân của
Ishavasya hoàn toàn đúng khi ông ta tuyên bố rằng đây là con
đường duy nhất. Và người đã thực sự sống không bị ảnh hưởng
bởi thế giới này - không bị đụng chạm, bao giờ cũng tươi tắn và
mới tinh, hồn nhiên như khi họ được sinh ra - là những người
chưa bao giờ tích luỹ, chưa bao giờ nuôi dưỡng bất kì loại bản
ngã nào trong cuộc hành trình của họ qua cuộc sống; người đã
sống trong một trạng thái vô ngã. Bản ngã nghĩa là tôi là người
làm, vô ngã nghĩa là buông xuôi - buông xuôi mọi thứ dưới chân
sự tồn tại.
Với người như ông,người muốn sống một trăm năm
tham dự vào các hoạt động trên thế giới và tin rằng “Ta là người làm,”
không có con đường nào khác hơn con đường này -con đường của việc sống mà không bị hoen ố
bởi việc làm của ông.

Có một con đường duy nhất có thể giữ bạn không bị ảnh
hưởng trong khi làm mọi việc bạn phải làm trong thế giới này.
Con đường được Ishavasya thảo luận tới chính là con đường này:
sống bằng việc buông xuôi cho sự tồn tại, trao cho nó tất cả, để
mọi thứ dưới chân nó. Buông xuôi mọi thứ cho nó. Khi vứt bỏ
khái niệm về bản thân bạn như người làm, bạn có thể sống cuộc
sống của mình và vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện
các nghĩa vụ trần gian của mình. Đây là con đường duy nhất;
không có con đường khác.

Sẽ có ích để hiểu hai hay ba điểm trong mối liên hệ này. Số
một: sống trong thế giới này mà không bị ảnh hưởng bởi nghiệp,
bởi việc làm của bạn, là thuật giả kim vĩ đại, và là vấn đề có giá
trị và trí huệ lớn. Nó cũng gần như việc tưởng tượng một người
tới từ hầm than mà không có dấu vết gì của bụi than trên người
đó. Hơn nữa, đây không phải là vấn đề sống trong hầm than trong
một hay hai giờ. Nếu chúng ta xem xét thời hạn toàn bộ cuộc đời
chúng ta, chúng ta đang nói về thời kì một trăm năm; và nếu
chúng ta xét tới nhiều kiếp sống quá khứ, cuộc hành trình của
chúng ta sẽ đi qua nhiều nghìn năm. Bây giờ, nó sẽ là vấn đề của
trí huệ lớn, hay bằng không cũng là cực kì may mắn, nếu một
người sống trong hầm than như vậy, trong một trăm năm khi vẫn
thực hiện công việc thường ngày của mình - thức dậy, đi ngủ,
ngồi, đứng vân vân - vậy mà có thể không bị dính bởi bụi than
trong hầm. Điều hoàn toàn hiển nhiên và tự nhiên là người đó sẽ
bị bôi bẩn bằng nhọ than. Rất dễ hình dung rằng người tiếp xúc
với bụi than trong hầm chứa không chỉ nhọ nhem mà thực tế rất
có thể còn biến thành bụi than nữa. Người đó có lẽ trông giống
như hoá thân của bụi than! Dường như khó mà tin được - khi
sống trong hầm than ấy một trăm năm - mà một người sẽ không
trở thành bản thân bụi than.

Làm sao chúng ta đi qua một vật mà không chạm vào nó?
Ngay khi chúng ta đi qua nó chúng ta bị gắn với nó. Khi chúng ta giận dữ, chúng ta
trở nên bị hợp nhất với giận dữ của mình. Khi
chúng ta yêu ai đó, chúng ta được thống nhất với anh ấy hay cô
ấy. Bất kì khi nào chúng ta đánh nhau hay bỏ chạy hay tận hưởng
một điều, chúng ta được hợp nhất với hành động của mình. Ngay
cả khi chúng ta làm việc từ bỏ, chúng ta được hợp nhất với nó; và
nếu chúng ta bị dính với sự từ bỏ của mình, chúng ta làm nhơ bẩn
tay mình bằng vết nhọ. Chúng ta trở nên vấy bẩn. Việc hãnh diện
có biết bao nhiêu của cải nảy sinh trong tâm trí một người khi
người đó tận hưởng kết quả của nó. Tương tự, việc từ bỏ đem
vào trong tâm trí người đó hãnh diện về việc đã từ bỏ nhiều thế.
Hãnh diện đó là bụi than với chúng ta; kiêu ngạo đó bản thân nó
là vết nhơ.

Không thành vấn đề một người trải qua cuộc đời một trăm
năm của mình như thế nào, người đó sẽ làm cái gì đó, và nếu
điều ấy được làm với sự hãnh diện, nó sẽ bôi đen người đó.
Nhưng lời kinh này của Ishavasya bảo chúng ta rằng có một con
đường tạo khả năng cho người ta không bị mất đi sự thuần khiết
của mình, và nơi mà người đó không bị ảnh hưởng bởi hành động
của mình, mặc dù sống trong hầm than. Điều này dường như
không thể được, nhưng nó không phải là không thể được nếu
chúng ta hiểu đúng nghĩa của lời kinh này. Người ta có thể làm
bất kì cái gì, nó nói, nhưng chừng nào mà người ấy còn là người
làm, người ấy còn bị bôi đen. Chỉ một phương án khác là có sẵn:
dừng hoàn toàn việc là người làm.

Người ta không thể tránh hành động. Hành động chắc chắn
sẽ có đấy chừng nào chúng ta còn sống. Sẽ là sai lầm mà nói, “Từ
bỏ làm mọi thứ để cho chúng không có cơ hội nào bôi bẩn bạn.”
Hành động sẽ có đó cho đến tận cái chết. Thở vào là hành động.
Không chỉ có người quản lí cửa hàng được tham dự vào hành
động; người ăn mày cũng đang làm. Không chỉ người nội trợ
được tham dự vào việc làm; người bỏ nhà cửa chạy vào rừng rậm
cũng là đang làm. Hành động của họ có thể khác nhau, nhưng
điều này không có nghĩa là người này hành động còn người kia
không hành động: cả hai đều là hành động cho nên không ích gì
mà tin chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi bụi than, khi bỏ tất cả
cũng là hành động như sống nó tất cảt. Bằng suy nghĩ như vậy,
chúng ta sẽ không đi đến đâu cả. Bằng việc từ bỏ hành động,
người ta chạy trốn, nhưng thế thì việc chạy trốn trở thành hành
động của người ta. Hành động gắn chặt vào chúng ta.
Chỉ có mỗi một cách thoát ra khỏi tình thế khó xử này, và đó
là tìm ra cách thoát khỏi việc là người làm, cho dù chúng ta
không thể giải phóng bản thân mình khỏi việc làm. Nhưng làm
sao chúng ta có thể giải thoát bản thân mình khỏi việc làm trong
khi việc làm tiếp diễn? Liệu tôi có không trở thành người làm khi
tôi đang làm hành động không?

Ishavasya bảo chúng ta rằng ngay cả khi làm, chúng ta vẫn
có thể thoát khỏi việc là người làm. Thông thường dường như đối
với chúng ta là có lẽ chúng ta thoát khỏi việc trở thành người làm
chỉ nếu chúng ta từ bỏ các hành động. “Tôi sẽ không làm gì cả,
do đó tôi sẽ không trở thành người làm.” Nhưng Ishavasya bảo
chúng ta một cách hoàn toàn dứt khoát rằng điều này là không
thể được. Ngược lại, điều có thể là ở chỗ bạn cứ làm mọi việc,
nhưng bạn vẫn còn tách bạch với việc trở thành người làm của
chúng.

Đừng là người làm! Làm sao điều này có thể có được?
Chúng ta đã quen thuộc chút ít với hành động như thế. Đóng vai
trên sân khấu là trải qua khả năng về làm mà không là người làm.
Rama khóc to trong rừng khi Sita bị lạc. Anh ta chạy từ cây nọ
sang cây kia, bám vào thân cây và kêu, “Sita đâu rồi?” Khi kêu la
với cây, người diễn viên có thể kêu gào thống thiết hơn bản thân
Rama, và có thể còn khéo léo và tài giỏi hơn nữa, vì Rama không
có cơ hội nào để diễn tập. Người diễn viên này có rất nhiều lần
thực hành. Người đó biểu diễn cùng những hành động mà Rama đã thực hiện, nhưng
không có người làm đằng sau chúng; chỉ có
diễn viên thôi.

Nhớ lấy, hành động có thể có hai loại: một loại trong đó có
người làm, và loại kia trong đó có diễn viên. Nếu diễn viên thay
thế cho người làm, hành động sẽ tiếp diễn trên bề mặt, nhưng sẽ
có biến đổi toàn bộ bên trong. Việc diễn tập không gắn bạn vào
hành động, nó không ảnh hưởng đến bạn. Nó vẫn còn hoàn toàn
ở bên ngoài, nó không đi vào bên trong. Nó không đi sâu vào bên
trong, nó rung động trên bề mặt và thế rồi biến mất. Diễn viên
đóng vai Rama có thể khóc than và thương tiếc đến đâu cũng
không thành vấn đề, những giọt nước mắt đó không đi vào cái ta
bên trong của người đó. Thông thường người đó phải bôi bụi
than để làm cho nước mắt trào ra, và nếu người đó không dùng
bụi than thì đấy là vì người đó đã học cách làm chảy nước mắt
qua thực hành. Chúng không tới từ chiều sâu mà từ bề mặt.
Người đó kêu la, người đó làm ầm ĩ, nhưng nó tới từ cổ họng
người đó và không từ trái tim. Cái ta bên trong vẫn còn tuyệt đối
không bị động chạm tới và không bị ảnh hưởng tới. Người đó đi
qua hầm than, nhưng không như người làm; người đó vẫn còn là
diễn viên.

Nhớ lấy, chính người làm bị bao phủ bởi bụi than, không
phải là hành động. Nếu như hành động gây ra bụi than, thế thì
điều Ishavasya nói không thể xảy ra được, điều Gita nói không
thể xảy ra được. Thế thì sẽ không có cách nào tự do khỏi hành
động khi người ta còn sống. Thế thì người ta có thể tự do khỏi
hành động chỉ sau khi chết. Thế thì dường như là sẽ không có
giải thoát chừng nào mà cuộc sống vẫn còn dai dẳng. Nhưng làm
sao người ta có thể được tự do sau khi chết khi mà người ta
không thể được tự do trong khi còn sống? Nếu người ta không
thể được tự do trong khi còn sống chắc chắn không có cơ hội nào
tìm được tự do sau cái chết .
Nếu bản thân hành động có thể làm vấy bẩn cuộc sống, thế
thì giải thoát là không thể có được. Nhưng những người tìm kiếm
sâu bên trong nói rằng bụi than bám vào người làm và không
bám vào việc làm. Tức là, nó chỉ bám khi người ta nói, “Tôi là
người làm,” khi việc nhấn mạnh là vào hành động và khi tôi và
hành động là bị đồng nhất lẫn nhau. Chỉ khi việc làm nhơ xảy ra -
khi cái tôi trở thành một với hành động, và nói “Tôi là người
làm” - chỉ trong tình huống như vậy bụi than mới bao phủ người
làm; và thế thì cuộc sống bị tràn đầy với bóng tối và bóng đen.
Nếu không có người nào bên trong nói, “Tôi là người làm,”
và đồng thời có người biết, người hiểu rằng hành động đang tiếp
diễn - rằng các diễn viên đã lên sân khấu để diễn kịch - thế thì
sân khấu có lớn đến đâu cũng không khác biệt gì; để cho nó rộng
lớn như toàn thể thế giới này! Không khác biệt gì việc bức màn
trong vở kịch được kéo lên chỉ một lần lúc sinh, và được hạ
xuống chỉ vào lúc chết. Không thành vấn đề vở kịch kéo dài rất
lâu giữa lúc mở màn và hạ màn. Tất cả những điều này không tạo
ra khác biệt; nó không ảnh hưởng tới bạn chút nào nếu bạn nhìn
nó từ bên trong như việc biểu diễn. Nếu bạn mang hiểu biết này
bên trong, thế thì toàn thể thế giới là một leela - một vở kịch, một
vở diễn, một sân khấu cho bạn - và cuộc sống bản thân nó giống
như một câu chuyện. Thế thì chúng ta là diễn viên, và không cái
gì ảnh hưởng tới diễn viên.

Lời kinh này của Ishavasya nói chỉ có một cách duy nhất cho
con người không bị ảnh hưởng trong khi thực hiện các nghĩa vụ
trong cuộc sống, và đó là biến cuộc sống thành việc đóng kịch.
Nhưng chúng ta là những người phi thường. Chúng ta biến việc
đóng kịch thành cuộc sống, nhưng chúng ta không biến cuộc
sống thành việc đóng kịch. Chúng ta cố gắng nhiều lần để trình
bầy việc đóng kịch của chúng ta như cuộc sống thực của mình,
và những hành động lặp của chúng ta thực tế trở thành các lực
hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta tới hỏi nhà tâm lí, họ nói rằng hành
vi hiển nhiên của con người tất cả đều là hành
động được trau dồi. Nó tất cả đều là việc ước định.
Chúng ta gọi điều này là bản tính của con người, nhưng các
nhà tâm lí tuyên bố rằng không cái gì giống như bản tính của con
người . Nếu có cái gì giống như bản tính của con người, nó là
tính hay thay đổi vô tận. Bản tính của con người giống như nước.
Nếu chúng ta rót nước vào cốc, nó lấy hình dạng của cốc, còn
nếu nó được rót vào chén, nó sẽ lấy hình dạng của chén; nếu nó
được rót vào vò, nó sẽ lấy hình dạng của vò. Nước bao giờ cũng
lấy hình dạng của bình mà nó được rót vào. Thế thì hình dạng tự
nhiên của nước là gì? Nó không có hình dạng tự nhiên. Bản tính
của nó có thể được mô tả như khả năng lấy vô tận hình dạng.
Nước không ương bướng, nó không ngang ngạnh. Nó không quả
quyết, “Tôi sẽ vẫn còn trong hình dạng đặc biệt này.” Nó nói,
“Tôi sẵn lòng sống theo bất kì hình dạng nào, dù nó có thể là bất
kì cái gì.”

Con người không có bản tính nào của riêng mình. Hiện
tượng mà chúng ta gọi là bản tính chỉ là những mẫu hình hành vi
thường xuyên được thực hành. Đấy là những hành động được
thực hiện theo khuôn khổ văn hoá trong những hoàn cảnh thường
lặp lại. Cho nên, một người được sinh ra trong một gia đình
không ăn chay sẽ ăn thịt. Không phải bản tính của người đó là
chọn điều đó; nếu người đó được nuôi lớn lên trong gia đình ăn
chay, người đó sẽ ăn thức ăn chay. Thế thì người đó có thể trở
nên buồn nôn hay nổi giận khi thoáng thấy thịt. Nhưng đây
không phải là bằng chứng cho một bản tính đức hạnh, mà ăn thịt
không có ý nghĩa là bản chất ác độc. Các đặc trưng như thế
không phải là những chỉ dẫn về tính cao thượng.
Hình dạng của một hành động là một việc được thực hành,
cái mà chúng ta đang dạy cho mọi người từ ngay thời thơ ấu của
họ. Nếu chúng ta hiểu đúng điều sự huấn luyện đó là gì, đấy chỉ
là sự chuẩn bị cho việc biểu diễn mà một người được trông đợi
trong cuộc sống của người đó. Các thể chế giáo dục đều là các
phòng tập diễn. Chúng là các phòng huấn luyện nơi chúng ta
chuẩn bị cho bản thân mình cho việc trình diễn của cuộc sống
của chúng ta. Chúng ta huấn luyện một người sắm vai theo một
kiểu cách đặc biệt trong gia đình chúng ta, xã hội, trường phổ
thông và đại học. Chúng ta huấn luyện người này là Hindu, người
kia là người Mĩ, người nọ là người Trung quốc, và người khác là
người Ki tô giáo. Khi họ được huấn luyện và khuôn khổ tâm trí
của họ trở thành mạnh mẽ và vững chắc, có vẻ như cái khuôn
khổ tâm trí đó là bản tính của họ. Không, tất cả những cái đó chỉ
là những trình diễn được lặp lại nhiều lần, cuối cùng được ấn
định chắc chắn trong tâm trí con người đến mức ngay cả người
đó đơn giản diễn xuất về phần mình mà không biết.
Bạn đã bao giờ nghĩ bạn thuộc về tôn giáo nào không?
Hindu giáo, Jaina giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo và các tôn
giáo khác tất cả đều là những việc trình diễn được dạy cho bạn.
Nếu bạn chưa được huấn luyện trong chúng bạn sẽ không bao giờ
biết được về chúng. Nhưng khi bạn nói, “Tôi là người Hindu
giáo,” bạn trở thành người làm. Thế thì bạn có thể cầm thanh
gươm trong tay để bảo vệ tôn giáo của bạn. Thế thì mạng người
có thể bị hi sinh và việc giết người có thể được thực hiện. Tranh
cãi có thể tình cờ nổ ra với bất kì ai nói bạn không phải là Hindu.
Các nhà tâm lí hay nói rằng thói quen là bản tính thứ hai.
Điều này đã là quan điểm của các nhà tâm lí quá khứ. Nhưng
thay vì thế, các nhà tâm lí hiện đại nói rằng bản tính là thói quen
thứ nhất. Càng nhiều nghiên cứu được tiến hành về bản tính con
người, điều được biết càng được thuyết phục hơn rằng bản tính là
thói quen thứ nhất - một thói quen ăn sâu đã trở thành được cố
định chắc chắn đến mức con người quên mất rằng người đó đang
biểu diễn. Nếu bạn có thể nhớ trong tâm trí rằng bạn đang biểu
diễn thì sẽ không còn việc giết lẫn nhau. Ngược lại, bạn sẽ nói, “Điên làm sao!
Tôi đang đóng vai người Hindu và bạn đang đóng
vai người Mô ha mét giáo; tại sao phải có bất kì cãi nhau nào ở
đó?” Không, chỉ khi hiện tượng này không được xem như vở
kịch, như diễn kịch, cãi nhau và đánh nhau mới bùng ra. Thế thì
mọi người trở nên nghiêm chỉnh, và họ dừng vui đùa.
Eric Berne đã viết một cuốn sách tên là Mọi người chơi điền
kinh. Ông ta không chỉ đơn thuần giải quyết các môn điền kinh
như bóng đá, khúc côn cầu, chơi bài và chơi cờ, mà giải quyết cả
với người Hindu, Mô ha mét giáo và Ki tô giáo. Đấy cũng là
những môn điền kinh mọi người chơi thôi, đôi khi với giá rất cao
và với nhiều tác hại. Những người chơi cờ đã được biết là đã
từng rút gươm ra đánh nhau chỉ vì vấn đề thắng hay thua ván cờ,
cho nên chỉ vừa mới động tới mối quan tâm lớn là họ đã giết lẫn
nhau với vấn đề khác biệt về tôn giáo của họ.

Dường như là khi trò chơi bị coi là nghiêm chỉnh chúng trở
thành một phần của cuộc sống; và với bất kì cái gì được dạy đều
được bám vào đó. Trên khắp thế giới đàn bà đã được dạy rằng họ
là thua kém đàn ông, và họ đã tin vào điều đó. Nhưng cũng có
những xã hội mẫu hệ, nơi mà đàn ông được dạy là người đó thấp
kém hơn đàn bà; và người trong một trật tự xã hội như thế sẽ bám
vào niềm tin này. Có những gia đình mà đàn bà cao siêu hơn đàn
ông. Điều đáng quan tâm về tình huống này là ở chỗ trong trường
hợp đàn bà cao siêu hơn đàn ông, đàn bà trở nên thông minh hơn
đàn ông. Và nơi mà đàn bà được dạy cô ấy thấp kém hơn đàn
ông, đàn ông trở nên thông minh hơn.

Chúng ta định hình con người giống như nước trong bình
chứa. Thế thì việc đóng kịch giữ bản ngã chặt đến mức nó không
nói, “Tôi đang đóng kịch”; nó nói, “Tôi đây!” Thế thì là người
Hindu không còn là vở kịch nữa: nó là điều tôi đang là. Và bụi
than bắt đầu tác động vào bạn ngay khi bạn nói, “Tôi đây.” Nó
cũng có thể được xem là ít quan trọng hơn nếu nó chỉ ảnh hưởng
tới bạn: nhưng một người bị vấy bẩn với bụi than chẳng mấy
chốc sẽ bắt đầu ném nó lung tung vào người khác. Bụi than trên
tay chúng ta được bôi lên người khác. Bản thân chúng ta bị lấm
đen và chúng ta bôi đen cả người khác. Chúng ta bắt đầu biến
đổi việc đóng kịch thành một vai do người làm thực hiện.
Khi hai đứa trẻ làm lễ cưới cho hai con búp bê, chúng ta nói
chúng đang chơi. Nhưng bạn đã bao giờ nhận ra rằng đám cưới
của đàn ông và đàn bà, ở một mức nào đó, không là gì nhiều hơn
đám cưới của hai con búp bê không? Trong cả hai đám cưới, mọi
hình dạng, mọi xem xét, mọi sắp đặt, mọi âm nhạc, mọi phô
trương và tất cả những cái bẫy khác đều như nhau. Khác biệt duy
nhất là ở chỗ một đám do trẻ nhỏ chơi và đám kia do trẻ đã lớn
chơi. Trẻ nhỏ chóng quên trò chơi; buổi tối chúng không nhớ
rằng đám cưới đã được cử hành vào buổi sáng. Nhưng trẻ đã lớn
thậm chí đưa nhau ra toà án để tranh giành quyền hôn nhân. Họ
không quên sự kiện ấy, nhưng bám lấy nó rất chặt.
Không ai được chuẩn bị để coi hôn nhân của họ như vở kịch.
Khó làm như vậy, bởi vì nếu hôn nhân được xem như vở kịch,
thế thì gia đình cái là kết quả của đám cưới không tránh khỏi bị
xem như vở kịch. Thế thì cộng đồng được tạo nên từ các gia đình
cũng là vở kịch. Vậy cái vòng này mở rộng dần, cho tới khi toàn
bộ thế giới loài người bao quanh cộng đồng này trở thành vở
kịch. Đó là lí do tại sao chúng ta phải bám chắc vào mọi chi tiết
về vị trí chúng ta và nói, “Không, thể chế hôn nhân không phải là
vở kịch, đấy là vấn đề nghiêm chỉnh; đấy là vấn đề sống-vàchết.”
Gia đình không phải là vở kịch, cộng đồng không phải là
vở kịch. Thế thì mọi bước, mọi hành động, trở thành cứng nhắc
và khó uốn như tảng đá.

Toàn bộ cấu trúc trở thành ngày càng cứng nhắc; và chúng
ta, xã hội, sẽ phá huỷ bất kì người nào coi các dàn xếp nhân tạo
này chỉ là vở kịch, bởi vì người như thế đe doạ phá hoại mọi cách dàn xếp nghiêm
chỉnh của chúng ta. Người đó từ chối tuân theo
các qui tắc của trò chơi của chúng ta, cho nên chúng ta trả thù
anh ta. Cuộc sống của chúng ta là việc diễn xuất liên tục, dài lâu;
nhưng chúng ta đã cấu trúc việc diễn xuất đến mức chúng ta có
thể nói nó là việc làm của mình - chúng ta là người làm.
Ishavasya khẳng định điều ngược lại. Nó nói, “Ít nhất biết
việc diễn xuất là diễn xuất; không có gì trong thế giới này để bạn
phải đủ rồ để là người làm của nó. Nếu bạn trở thành người làm,
bạn mất trí chắc chắn. Để sự tồn tại là người làm đi. Để mọi thứ
cho nó điều bao giờ cũng có đó, đã có đó rồi khi bạn còn chưa
sinh ra, sẽ có đó khi bạn đã dừng sự sống. Để tất cả việc làm của
bạn cho sự tồn tại. Đừng nhận tải trọng của việc làm lên bản thân
bạn. Tải trọng đó sẽ quá nhiều với bạn; nó sẽ lớn hơn sức bạn có
thể mang. Việc mang gánh nặng đó nằm ngoài năng lực của bạn.
Bạn sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của nó và bạn sẽ chết. Không
cái gì có thể cứu bạn được khỏi nó.”

Nhưng bản ngã của chúng ta thấy khó nuốt trôi điều này.
Ngược lại, nó thấy thích thú với sức nặng của tảng đá đè lên ngực
nó. Nó nói, “Tôi đang nâng một hòn đá nặng thế, và cái bạn đang
nâng không là gì nếu so với gánh nặng của tôi! Ta đang mang
một tải trọng nặng thế!” Tổng thống, thủ tướng, đều là những
người thấy thích thú trong việc mang những tảng đá nặng. Để
nâng những tảng đá như thế họ nhận hàng nghìn sự xúc phạm và
thấy bản thân họ gặp hàng nghìn khó khăn. Nhưng họ có thể nói,
“Nhìn vào hòn đá nhỏ bé tầm thường mà anh đang mang trên
lưng kia: anh cũng không hơn gì ông chủ tịch xã - đâu là so sánh
giữa anh và tôi? Tôi là chủ tịch nước và anh là chủ tịch xã!” Ham
muốn trở thành chủ tịch xã là ở qui mô nhỏ; trở thành chủ tịch
nước đòi hỏi sự mất trí trên qui mô lớn hơn. Nhưng mối bận tâm
thường xuyên của ông chủ tịch xã là với vấn đề khi nào ông ta có
thể mang được những hòn đá lớn hơn. Trong nhiều kiếp sống
chúng ta định giá một người tỉ lệ theo trọng lượng của hòn đá -
tải trọng càng lớn trên lưng người đó, người đó càng vĩ đại.
Chân lí đích xác đi ngược lại niềm tin này. Những người biết
thì tìm kiếm người không có tải trọng nào trên lưng người đó;
người đó không mang gánh nặng nào và nhẹ như hoa. Nhưng khó
mà tìm được người như thế, vì mọi người đều bám vào tải trọng
nào đó này khác; dù nhỏ đến đâu cũng không thành vấn đề, tải
trọng có có. Nếu người đó không phải là chủ tịch xã, người đó ít
nhất là chủ gia đình - và không phải bao giờ cũng chỉ có người
bố là người chủ gia đình. Nếu người bố vắng nhà một chốc, đứa
con cả sẽ nắm vai trò người đứng đầu với các em trai em gái. Nó
lập tức bắt đầu chi phối họ. Nó bắt đầu đóng vai trò của người bố
nó. Chẳng hạn, đứa con cả của bạn đang cãi nhau với đứa em trai
trong sự hiện diện của bạn, nhưng nếu bạn rời khỏi chỗ đó, bỗng
nhiên bạn sẽ thấy rằng đứa con cả bắt đầu chi phối. Nó bắt đầu
giữ vai trò mà bạn đã giữ vai. Qui mô của nó có thể nhỏ, trạng
thái của nó có thể nhỏ, nhưng vở kịch là một. Bạn có thể đóng
vai trong vở kịch này trước hai hay ba trăm người, trong khi con
bạn diễn hệt vở kịch đó trước hai hay ba đứa trẻ. Không có gì
khác biệt trong vở kịch cả, chỉ có tỉ lệ là khác đi. Trẻ nhỏ sẽ đóng
vở kịch nhỏ, trẻ đã lớn sẽ đóng vở kịch lớn, còn bậc huynh
trưởng sẽ đóng vở kịch thật lớn.

Con người cảm thấy khó chịu khi người đó không thể chỉ ra
rằng người đó đang mang một tải trọng lớn trên lưng mình, cho
nên một nét đặc biệt thú vị khác nổi lên: người đó nói chung
khoe khoang một tải trọng lớn hơn cái người đó thực sự đang
mang. Có một bà giáo sư cùng làm việc với tôi ở trường đại học
nơi tôi đã làm việc. Tôi phát chán việc nghe về các loại tật bệnh
của bà ta. Liệu một người có thể có nhiều bệnh tật đến thế được
không? Bất kì khi nào bà ấy gặp tôi là bà ấy phàn nàn về một
bệnh nặng nào đó; bà ấy đã bao giờ phải chịu một bệnh nhỏ nào
đâu. Thế rồi tôi hỏi chồng bà ấy về nỗi đau đớn của bà ấy do biết bao nhiêu bệnh
tật, và nói thêm rằng, thông thường, một người
vợ bản thân bà ấy đã là đủ bệnh tật cho ông chồng rồi, “nhưng
trong trường hợp của ông tất cả những bệnh tật đó được được
thêm vào nó. Làm sao mà ông chịu đựng được tất cả những bệnh
đó?”

Ông ta trả lời, “Xin ông chớ tin vào các câu chuyện của bà
ấy. Bà ấy không bao giờ bị một bệnh tật tí xíu nào. Ngay cả đến
một cơn cảm lạnh nhỏ bà ấy cũng không bao giờ nói gì ít hơn
bệnh lao!”
Tôi phân vân và bắt đầu tự hỏi bí mật gì nằm sau nhu cầu
khuếch đại bệnh tật của người ta. Đây là bí mật ấy: nếu bạn có
một bệnh trầm trọng, bạn có một gánh nặng lớn; bạn sẽ được coi
là quan trọng. Nhưng nếu bạn bị một bệnh nhẹ, bạn trở thành
người vô giá trị, vì bệnh tật của bạn có bản chất lặt vặt. Nó không
mang giá trị là bao, không cần để người khác phải lo lắng về bạn.
Cho nên bệnh trầm trọng được gọi là bệnh vương giả - bệnh lao
được xem như bệnh vương giả. Người nghèo không phải chịu
bệnh đó, chỉ có vua bị bệnh đó!

Gần đây tôi vừa đọc về một người đàn bà, người tới một bác
sĩ và yêu cầu ông ta cắt bỏ ruột thừa cho mình. Ông bác sĩ hỏi,
“Ruột thừa của bà gây rắc rối cho bà sao?”
Người đàn bà nói, “Không, nhưng điều đó không thành vấn
đề. Tất cả đàn bà trong câu lạc bộ mà tôi là thành viên đều đã trải
qua ca mổ - một số người đã cắt ruột thừa, số khác có cái gì đó
khác để bị cắt bỏ, nhưng không có cái gì đã bị bỏ khỏi thân thể
tôi. Tôi không cái gì để nói cả!”
Con người quí trọng gánh nặng trên lưng mình, cho nên thật
khó để phát hiện ra người nhẹ như hoa, người có thể nói, “Tôi
không mang tải trọng nào.” Chỉ người đã giao phó tất cả tải trọng
của mình cho sự tồn tại mới có thể nói như thế, và điều đáng
quan tâm về việc này là ở chỗ toàn thể tải trọng là một mình của
sự tồn tại trong bất kì trường hợp nào. Chúng ta cứ chõ mũi mình
vào một cách không cần thiết. Hoàn cảnh của chúng ta giống như
hoàn cảnh của hành khách đang đi trên tầu hoả với tải trọng của
mình để trên đầu mình. Hành khách khác khuyên người đó đặt nó
lên sàn, và thế rồi nói, “Sao anh làm nặng bản thân mình một
cách không cần thiết thế?”
Người đó trả lời, “Tôi chỉ mua có mỗi một vé cho bản thân
tôi thôi.” Người đó đơn giản và ngây thơ làm sao. Người đó nói,
“Tôi đã không mua vé cho hành lí của tôi. Làm sao tôi có thể đặt
cái va li này và đồ trải giường lên sàn được? Như thế là đánh lừa
chính phủ. Cho nên tôi đặt nó lên đầu.”

Bởi vì con người đơn giản ấy không có ý tưởng gì về việc
đặt tải trọng trên đầu mình thì đâu có gì khác biệt với toàn bộ tải
trọng của con tầu. Tải trọng toàn bộ của vũ trụ này do sự tồn tại
mang. Toàn bộ việc thực hiện quản lí vấn đề của vũ trụ này được
thực hiện bởi một mình sự tồn tại. Nhưng chúng ta là những hành
khách rất kì lạ. Chúng ta nhận được hạnh phúc lớn do việc đặt
hành lí lên đầu mình trong suốt cuộc hành trình trong con tầu của
sự tồn tại. Chúng ta thậm chí nói với những người đang mang
những gánh nhỏ, “Anh đã làm lãng phí đời mình rồi đấy. Anh
nên tăng gánh nặng lên.” Và tại sao? Để cho đến lúc người ấy
chết tải trọng của người đó trông lớn đến mức mọi người sẽ bình
luận người đó đã để sau nhiều điều thế! Đây là lí do tại sao, khi
một ai đó chết, chúng ta bàn tán ngay cả về những tải trọng mà
họ không bao giờ mang. Chúng ta giúp làm cho tải trọng đó có vẻ
lớn hơn.

Tôi đã từng nghe: một người chết, và ông linh mục của làng,
đứng gần nấm mồ anh ta, bắt đầu nói về người đó trong khi cỗ
quan tài đang được hạ dần xuống huyệt. Ông ấy ca ngợi về đức
hạnh của người quá cố, những hành vi tốt của người đó, và việc phục vụ của người
đó với người khác. Nghe thấy điều này, vợ
của người quá cố trở nên hơi lo âu. Bà ta bảo đứa con mình cúi
mình thêm chút nữa để nhìn vào trong quan tài và để chắc chắn
rằng nó có chứa thi hài người cha, vì bà ấy chưa bao giờ nghe nói
về tất cả những hành vi tốt này mà ông linh mục nói là đã làm.
Đến đêm bà ấy tới ông linh mục và hỏi ông ta, “Ông đã nói gì về
chồng tôi vậy? Theo chỗ tôi được biết, chồng tôi chưa bao giờ
làm bất kì điều gì mà ông đã nói .”

Ông linh mục đáp, “Bà đừng lo. Ông ấy có thể đã không làm
bất kì những hành vi tốt đó, nhưng người ta sẽ nói gì về ông
chồng bà nếu những hành động như vậy không được nhắc tới?”
Voltaire có một người bạn. Ông ta đã xúc phạm Voltaire
trong cả đời. Ông ta thường chỉ trích Voltaire theo mọi cách thức
có thể. Ông ta thường đối lập với Voltaire trên mọi vấn đề. Ông
ấy không phải là một người tốt. Khi ông ấy chết, một ai đó tới
Voltaire và nói, “Bây giờ giữa các ông có hoà bình rồi; sau rốt,
ông ta là bạn của ông. Cứ cho là ông ta đã xúc phạm ông nhiều
lắm, đã điểm tên ông, phê phán ông chua cay, và cố gắng phá
hoại ông. Nhưng bây giờ ông ta chết rồi, xin ông viết đôi lời ca
ngợi ông ta.” Cho nên Voltaire đã viết, “Ông ấy là người tốt và là
một người vĩ đại - với điều kiện là ông ấy thực sự chết.” Nếu một
người đang sống thì chúng ta không thể ca ngợi người đó được.
Khi người đó chết rồi chúng ta phải ca ngợi người đó, và gánh
nặng mà người đó chưa hề mang được gán cho anh ta.
Nhưng Ishavasya đang nói tới một người mà với người đó
không còn lại gì để ca ngợi sau cái chết của anh ta. Nó nói về
người đã dồn tất cả quyền tác giả cho sự tồn tại. Một người nói,
“Tôi không có chút nào, một mình nó có đấy. Nếu có người làm,
đấy chỉ là sự tồn tại. Nhiều nhất tôi chỉ là quân tốt đen trong trò
chơi của nó. Tôi sẵn lòng đi tới bất kì đâu nó hướng tôi tới; tôi
sẵn lòng là bất kì cái gì nó muốn, tôi sẵn lòng làm bất kì cái gì nó
chỉ thị. Nếu nó muốn làm tôi thất bại, tôi sẵn lòng bị thất bại; nếu
nó làm tôi thành người thắng, tôi sẵn lòng thắng. Không thành
công không thất bại là của tôi. Thất bại là của sự tồn tại, thắng lợi
cũng là của sự tồn tại.”

Việc buông xuôi của người như thế là toàn bộ. Người đó qui
mọi thứ cho sự tồn tại: “Tôi nữa - cũng như tất cả mọi việc làm -
đều là của sự tồn tại.” Người như vậy sẽ làm tất cả những gì cần
thiết trong cuộc sống - sống, thở, đi, đứng, ngồi, làm nghĩa vụ
của mình, ăn thức ăn và ngủ ban đêm. Mọi hoạt động này sẽ có
đó, nhưng sẽ không có người làm bên trong.

Đây là con đường duy nhất. Để tôi nhắc lại, hiền nhân của
Ishavasya hoàn toàn đúng khi ông ta tuyên bố rằng đây là con
đường duy nhất. Và người đã thực sự sống không bị ảnh hưởng
bởi thế giới này - không bị đụng chạm, bao giờ cũng tươi tắn và
mới tinh, hồn nhiên như khi họ được sinh ra - là những người
chưa bao giờ tích luỹ, chưa bao giờ nuôi dưỡng bất kì loại bản
ngã nào trong cuộc hành trình của họ qua cuộc sống; người đã
sống trong một trạng thái vô ngã. Bản ngã nghĩa là tôi là người
làm, vô ngã nghĩa là buông xuôi - buông xuôi mọi thứ dưới chân
sự tồn tại.

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Không của tôi không của bạn

Tất cả mọi thứ trong thế giới này, hữu cơ và vô cơ,
đều tràn ngập với Thượng đế.
tận hưởng chúng qua việc từ bỏ chúng.
được tách rời;
đừng thèm muốn giầu có của người khác
.

Lời tuyên bố bản chất của Ishavasya Upanishad, chính nghĩa
của tiêu đề của nó, Ishavasya, là: Mọi thứ đều là của Thượng đế.
Tất cả mọi thứ đều thuộc về Thượng đế. Nhưng tâm trí con người
cố gắng biện minh rằng tất cả đều là của chúng ta, và chúng ta
sống trong ảo tưởng này qua bao nhiêu kiếp sống. Cái gì đó là
của tôi. Cái ý tưởng về quyền làm chủ và sự sở hữu - nó là của
tôi!

Khi mọi thứ là của sự tồn tại, không chỗ nào còn lại cho cái
‘tôi’ này của tôi đứng đấy. Nhớ lấy, để biểu lộ cho nó ngay cả
bản ngã cũng cần một cơ sở. Để tồn tại, ngay cả cái ‘tôi’ cần sự
hỗ trợ của cái ‘của tôi’. Nếu hỗ trợ của cái ‘của tôi’ không có đó,
sẽ không thể tiến tới được cái ‘tôi’. Từ một quan sát nhân quả
dường như là cái ‘tôi’ tới trước rồi cái ‘của tôi’ theo sau nó.
Nhưng sự kiện là hoàn toàn đảo ngược lại. Trước hết, cái ‘của
tôi’ được đặt nền móng, và thế rồi cấu trúc của cái ‘tôi’ được xây
dựng lên trên nó. Nếu bất kì cái gì bạn có mà bạn gọi là ‘của tôi’
đều được lôi ra toàn bộ từ hiểu thấu của bạn, thế thì cái ‘tôi’ của
bạn sẽ không được cần tới. Nó sẽ biến mất. Cái ‘tôi’ không là gì
ngoài một tuyển tập những cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ được tạo ra từ
cơ cấu của cái ‘của tôi’ - của cải của tôi, nhà của tôi, tôn giáo của
tôi, đền thờ của tôi, vị trí của tôi, tên tôi, gia đình tôi, và vân vân.
Khi chúng ta cứ ném đi dần từng cái ‘của tôi’ thì cơ sở của
cái ‘tôi’ đồng thời cũng bị xói mòn dần đi. Nếu không một cái
‘của tôi’ nào được giữ lại, thế thì không có nền tảng nào để nâng
đỡ cho cái ‘tôi’ cả. Cái ‘tôi’ cần chỗ dựa, chỗ trú ẩn, một toà nhà
bằng cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ đòi hỏi hòn đá nền tảng là cái ‘của
tôi’, bằng không toàn bộ cấu trúc của cái ‘tôi’ sẽ đổ nhào. Tuyên
bố đầu tiên của Ishavasya dự định làm đổ sập toàn bộ cấu trúc
này. Hiền nhân này nói, “Mọi thứ là của Thượng đế.” Không có
chỗ cho cái ‘của tôi’. Không có cơ hội chút nào để cho cái ‘tôi’
nói với chính nó về cái ‘của tôi’. Nếu nó có thể nói ‘tôi đây’, điều
đó là sai. Nếu nó cứ khăng khăng nói ‘tôi đây’, thế thì nó là một
cái ‘tôi’ bị bối rối. Cần phải hiểu điều này từ hai hay ba quan
điểm.

Điều thứ nhất là thế này: bạn được sinh ra, tôi được sinh ra.
Nhưng không ai hỏi tôi liệu tôi có muốn được sinh ra hay không;
không rắc rối nào đã được tính tới để tìm ra ước muốn của tôi.
Việc sinh ra tôi không phụ thuộc vào ham muốn của tôi hay chấp
thuận của tôi. Khi tôi biết về bản thân mình, tôi biết bản thân
mình đã được sinh ra. Không cái gì giống như bản thể tôi trước
việc sinh của tôi. Chúng ta xem xét điều đó theo cách này: bạn
đang xây một toà nhà; bạn chưa bao giờ hỏi toà nhà liệu nó có
muốn được xây dựng ra hay không. Toà nhà không có ý chí riêng
của nó. Bạn đang xây dựng ra nó, và nó được dựng lên.
Bạn đã bao giờ nghĩ rằng bạn cũng chưa lần nào được tư vấn
trước việc sinh của bạn không? Sự tồn tại làm cho bạn được sinh
ra, và bạn được sinh ra. Sự tồn tại tạo ra bạn, và bạn được tạo ra.
Nếu toà nhà trở thành có ý thức, nó sẽ nói, ‘tôi’. Nếu nó trở thành
có ý thức, nó sẽ từ chối coi người làm ra nó là người chủ của nó,
là người thầy nó. Toà nhà sẽ nói, “Người xây là người hầu của ta;
người đó đã xây dựng ra ta. Vật liệu là của ta; nó đã phục vụ ta.
Ta sẵn lòng được tạo ra, cho nên người đó đã làm ra ta.”
Nhưng toà nhà không có tâm thức. Con người có. Và thực ra,
ai biết được liệu toà nhà có tâm thức hay không? Điều đó là có
thể; điều đó có thể là vậy. Có hàng nghìn mức độ tâm thức. Tâm
thức của con người là một loại đặc biệt, không nhất thiết mọi vật
có cùng loại tâm thức. Toà nhà có thể có tâm thức thuộc loại
khác, đá có thể có loại khác nữa, cây loại khác nữa. Có thể là
chúng nữa sống trong cái ‘tôi’ riêng của chúng. Khi người làm
vườn tưới cây, có thể cây không nghĩ, “Người làm vườn này
đang cho ta cuộc sống,” mà thay vì thế, “Ta đang biểu lộ quí mến
với người làm vườn này bằng việc chấp nhận phục vụ của người
đó. Qua ân huệ của ta, ta chấp nhận phục vụ của người đó.”
Không ai đã bao giờ lại gần cây cối để hỏi về ham muốn của nó
được sinh ra.

Điều tuyệt đối ngớ ngẩn là gọi điều đó là việc sinh của tôi
khi nó được gây ra không có ham muốn của tôi. Đâu là nghĩa
trong việc nói là sinh thành của tôi, mà về nó tôi chưa bao giờ
được hỏi đến trước sự sinh thành của tôi? Khi cái chết tới, nó
không hỏi sự cho phép của chúng ta. Cái chết sẽ không hỏi chúng
ta, “Anh muốn gì? Anh có đi cùng tôi hay không?” Không, khi
nó tới, nó tới theo cách riêng của nó, giống như việc sinh tới mà
không có việc biết của chúng ta về nó. Cái chết tới không gõ cửa,
không cần sự cho phép của chúng ta, không lời hướng dẫn,
không báo trước, và đứng yên tĩnh trước chúng ta; và nó không
cho chúng ta phương án khác, không chọn lựa. Nó không do dự
thậm chí đến một giây, dù chúng ta ước muốn gì. Thật là ngu si
hết mức để mà nói cái chết của tôi cho cái mà tôi không ham
muốn hay sẵn lòng ít nhất.

Việc sinh thành đó không phải là sinh thành của tôi mà trong
đó không có chọn lựa về phần tôi. Cái chết mà với nó sự sẵn lòng
của tôi là không có liên quan, không phải là cái chết của tôi. Cho
nên làm sao cuộc sống nằm giữa hai đầu này có thể là của tôi
được? Làm sao khoảng thời gian ở giữa đó là của tôi được, khi cả
hai đầu không tránh khỏi của nó - mà không có chúng tôi không
thể tồn tại được - không phải của tôi? Đấy là lừa dối - lừa dối mà
chúng ta cứ làm mạnh thêm, quên đi hoàn toàn sinh và tử. Nhưng
nếu chúng ta tư vấn nhà tâm lí về vấn đề này, người đó sẽ nói,
“Ông cố tình quên chúng đi, vì chúng là những kí ức buồn thế.”
Khi việc sinh ra không phải là của tôi, tôi trở thành tội nghiệp và
đáng thương làm sao. Khi cái chết không phải là của tôi, mọi thứ
bị giằng khỏi tôi, không cái gì được giữ. Tay tôi vẫn còn trống
rỗng. Chỉ có tro tàn còn lại.
Chúng ta dựng lên cây cầu cuộc sống dài giữa hai đầu này,
giống như chiếc cầu bắc qua con sông; nhưng không bờ sông nào
là của chúng ta cả. Mố cầu tại cả hai đầu không phải là của chúng
ta. Cho nên nghĩ một chút: Làm sao cây cầu trải rộng từ bờ nọ sang bờ bên kia
ngang qua con sông đó có thể là của chúng ta
trong khi nền tảng của nó không phải là của chúng ta? Do đó
chúng ta cố gắng quên đi việc sinh và tử - những nền tảng của
chúng ta.

Nhiều người quên nhiều việc một cách cố ý. Người đó cố
gắng không nhớ, vì việc nhớ có thể phá tan tất cả bản ngã của
người đó và làm nó nát vụn. “Thế thì cái gì sẽ là của tôi đây?”
Cho nên chúng ta kìm việc suy nghĩ về sự sinh và tử, và điều này
tạo ra khả năng hiểu lầm lớn rằng tất cả những cái chúng ta thấy
trong cuộc sống là của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho bản
thân mình khám phá và xem xét điều ta thấy, chúng ta chắc chắn
phát hiện ra rằng nó không phải là của chúng ta.
Bạn nói, “Tôi đã rơi vào tình yêu với ai đó,” không xem xét
liệu chuyện tình đó có là quyết định của bạn hay không. Nghe
điều những người yêu nhau nói: “Chúng mình không biết khi nào
nó xảy ra. Chúng mình đã không làm cho nó xảy ra.” Thế thì làm
sao cái là của chúng ta nhưng đã xảy ra theo ý riêng của nó
được? Nếu nó xảy ra, nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra, nó không
xảy ra.
Chúng ta bị phụ thuộc thế, bị điều chỉnh thế, dường như đâu
đó mọi thứ bị cố định và tất định. Hoàn cảnh của chúng ta là
tương tự như hoàn cảnh của một con vật bị buộc vào cọc qua
chiếc dây thừng. Con vật sẽ đi vòng tròn quanh chiếc cọc và sẽ
sống trong việc hiểu sai rằng nó đang tự do vì nó đang tự do đi
vòng tròn. Nó sẽ quên mất chiếc dây thừng, vì việc nhớ tới điều
đó là đau đớn; chiếc dây thừng buộc vào cọc làm cho chúng ta
đau đớn vì nó nhắc nhở chúng ta về sự phụ thuộc của mình. Chân
lí là ở chỗ nó bảo chúng ta rằng chúng ta không là cái ta thực của
mình.

Chúng ta không đáng để bị phụ thuộc, ta hãy một mình xem
xét vấn đề trở nên tự do. Phụ thuộc vào người ta - tức là cảm thấy
sự dày vò của chiếc dây thừng - là cần thiết để nhận biết về bản
thể người ta; và nhận biết rằng chúng ta không có đó. Con vật đi
lang thang quanh chiếc cọc cố định, lúc sang trái, lúc sang phải
và nghĩ, “Tôi tự do,” và khi nó nghĩ, “Tôi tự do”, cái “tôi’ có đấy.
Thế rồi, dần dần, nó phải bắt đầu tự thuyết phục mình rằng, “Đấy
cũng là do ý muốn của tôi mà tôi bị buộc vào cột. Tôi có thể cắt
dây ra bất kì khi nào tôi muốn, nhưng tôi đang nghĩ về hạnh phúc
của mình.”
Chúng ta tạo ra biết bao nhiêu ảo tưởng trong các kiếp sống
của mình. Chúng ta nói, “Tôi trở nên giận dữ, tôi làm tình, tôi
không thích, tôi ghét, tôi làm bạn, tôi trở thành kẻ thù...” nhưng
không điều nào trong những việc làm này là quyết định của
chúng ta. Bạn đã bao giờ trở nên giận dữ và là người làm ra giận
dữ đó không? Bạn chưa bao giờ làm như vậy cả. Khi có giận dữ,
bạn không có đó. Bạn đã bao giờ làm tình mà việc làm tình do
bạn làm không? Nếu bạn có thể làm tình, thế thì bạn có thể làm
tình với bất kì ai; nhưng sự kiện là ở chỗ bạn có thể yêu ai đó và
bạn không thể yêu người nào đó khác. Bạn có thể làm tình với ai
đó thậm chí khi bạn không muốn làm, và bạn không thể làm tình
với ai đó thậm chí khi bạn muốn làm như vậy.

Tất cả mọi cảm giác và xúc động của cuộc đời đều đến từ
một góc không biết nào đó - chúng tới như việc sinh của bạn tới.
Bạn xâm lấn bừa vào việc xảy ra này và trở thành người chủ,
người làm ra nó. Vậy mà bạn đã làm cái gì? Cái gì có đó do bạn
làm ra? Cảm giác đói đến; giấc ngủ đến; buổi sáng việc thức kéo
đến; và buổi tối mắt bạn bắt đầu nhắm lại lần nữa. Tuổi thơ đến.
Khi nào nó đi qua? Nó trôi qua như thế nào? Nó không hỏi chúng
ta, nó không đi vào tư vấn và thảo luận với chúng ta, và nó không
chậm trễ trong việc trôi qua một khoảnh khắc, ngay cả liệu chúng
ta có yêu cầu nó làm như vậy hay không. Thế rồi tuổi thanh xuân
trôi qua, và tuổi già bước vào. Bạn đang ở đâu? - nhưng bạn cứ
nói, “Tôi là thanh niên, tôi là người già,” cứ như tuổi thanh niên phụ thuộc vào
bạn. Tuổi thanh niên của bạn có hoa riêng của nó.
Tuổi già có hoa riêng của nó nữa; và chúng nở như hoa nở trên
cây. Bụi hồng không thể nói, “Tôi làm cho hoa hồng nở.” Nó chỉ
có thể nói như thế nếu nó có khả năng làm cho hoa hướng dương
nở!

Đừng tính công trạng nào về mọi điều xảy ra này. Nếu có
hồn nhiên trong tuổi thơ, nó có đó mà không có nỗ lực nào về
phần bạn. Và khi dục và những ham muốn khác bắt giữ bạn trong
tuổi thanh niên, chúng làm như vậy hệt như hồn nhiên bắt giữ
bạn trong tuổi thơ. Bạn không là người chủ của hồn nhiên tuổi
thơ của mình, không là người chủ của ham muốn dục của tuổi
thanh niên của bạn, và đừng coi nó là thành tựu của bạn khi tâm
trí bạn bắt đầu nghiêng về phía vô dục trong tuổi già. Nó giống
như thế này: dục bắt giữ bạn trong tuổi thanh niên, và dửng dưng
bắt giữ bạn trong tuổi già. Những người chưa bao giờ là nô lệ cho
dục không có kiểm soát gì trên sự kiện đó. Cho nên bản thân
đừng tự hào về sự kiện là bạn không phải là nô lệ cho dục.
Xem xét mọi nguyên tử nhỏ bé của cuộc sống và bạn sẽ nhận
ra rằng không có chỗ đứng cho cái tôi - bản ngã. Thế thì tại sao
chúng ta đang tạo ra ảo tưởng này? Nó xảy đến như thế nào? Lừa
dối này đến từ đâu? Nó tới bởi vì chúng ta bao giờ cũng cảm thấy
rằng có một phương án. Chẳng hạn, bạn xúc phạm tôi. Bây giờ
tôi có hai phương án: tôi có thể xúc phạm trả lại bạn; hay tôi có
thể bỏ qua nó, cho rằng việc xúc phạm là không có đó chút nào.
Tức là, tôi có thể chọn đáp lại nếu tôi muốn, và nếu tôi không
muốn, tôi có thể chọn không đáp lại. Nhưng thực có phương án
nào không? Bạn có cho rằng người đáp lại xúc phạm cũng có thể
đã chọn không xúc phạm, nếu người đó muốn không? Bạn sẽ nói:
Nếu người đó không muốn làm như vậy, người đó không cần
phải đáp lại xúc phạm ấy. Nhưng bạn sẽ phải đi sâu thêm chút ít
để hiểu điều này. Phải chăng ham muốn đã có trong người đó,
hay người đó đem nó ra từ đâu đó? Phải chăng ham muốn xúc
phạm hay không xúc phạm nằm dưới kiểm soát của người đó?
Những người tìm kiếm bên trong nói rằng điều mà các chiều
sâu lộ ra chỉ là ở chỗ những việc xảy ra đi ra ngoài kiểm soát của
chúng ta. Người nghĩ tới xúc phạm, và người đó xúc phạm.
Người khác quyết định không xúc phạm, và người đó không xúc
phạm. Nhưng từ đâu ý tưởng này về việc đưa ra hay không đưa
ra xúc phạm lại tới? Nó có phải là ý tưởng của bạn không?
Không, nó tới từ nơi việc sinh tới. Nó tới từ nơi tình yêu hiện
hữu. Nó tới từ nơi tâm thức hiện hữu. Nó trở về từ nơi cái chết
hiện hữu. Nó được hấp thu nơi hơi thở đi qua.
Dễ dàng tự lừa dối mình bằng việc nói, “Đây là tay tôi, nó
đang dưới sự kiểm soát của tôi. Nếu tôi muốn, tôi sẽ không xúc
phạm.” Nhưng ai đã bảo bạn, ai đã yêu cầu bạn, xúc phạm?
Người như Phật và Mahavira sẽ không đưa ra xúc phạm. Bạn có
cho rằng họ đơn giản chọn việc cảm thấy xúc phạm không?
Không; cũng như bạn kinh nghiệm một tình huống cố định và
không tránh khỏi trong việc phải xúc phạm, Phật và Mahavira
cũng kinh nghiệm một tình huống không thay đổi được tương tự
về không cảm thấy xúc phạm. Họ không thể chọn, cho dù họ
muốn, để cảm thấy xúc phạm. Bản thân ham muốn đó không
được tạo ra.

Một người tới gặp một thiền sư vào sáng sớm và bắt đầu hỏi
thiền sư tại sao ông ấy là bình thản và yên tĩnh thế, trong khi bản
thân người đó khuấy động và rối loạn thế. Thiền sư trả lời, “Ta
bình thản và ông khuấy động, có vậy thôi. Vấn đề qua rồi. Không
cái gì cần nói thêm .”
Người này cứ nài nỉ, “Không tôi muốn biết làm sao thầy trở
nên bình thản thế.”
Thiền sư trả lời, “Ta muốn biết làm sao ông trở nên khuấy
động thế.”
Người này trả lời, “Khuấy động đến theo ý của nó chứ.”
Thiền sư nói, “Điều đó đích xác đã xảy ra với ta. Bình thản
tới với ta theo ý riêng của nó, và ta không tính công nào cho nó.
Khi khuấy động tới, nó tới. Ta không thể làm gì để dừng nó lại,
và bây giờ, khi bình thản tới với ta, ta không thể làm bất kì điều
gì để đem khuấy động tới dù ta muốn đem nó tới, cho nên ta bị
giới hạn bởi tình huống.”
Người này nói, “Không, xin thầy chỉ cho tôi cách bình thản
và yên tĩnh.”
Thế là thiền sư nói, “Ta chỉ biết có một cách, và đó là thế
này: vứt bỏ ảo tưởng của ông rằng ông có khả năng làm bất kì
cái gì về nó. Nếu ông trở nên bị khuấy động, vẫn còn bị khuấy
động. Biết rằng ông đang bị rối loạn và rằng ông không thể làm
được gì về nó. Nó ở ngoài kiểm soát của ông. Đừng làm nỗ lực
để bình thản. Ngay cả những người làm nỗ lực để bình thản đều
trở nên bị khuấy động và rối loạn. Họ trở nên bị khuấy động, và
trong nỗ lực của họ để trở nên bình thản họ tạo ra sự không thoải
mái mới trong bản thân mình.”
Nhưng người này khăng khăng, “Lời khuyên của thầy không
định được tâm tôi; tôi muốn bình thản.”
Thiền sư nói, “Thế thì ông nhất định vẫn còn bị khuấy động
bởi vì ông muốn cái gì đó. Ông từ chối để vấn đề này cho
Thượng đế, trong khi sự kiện là ở chỗ mọi thứ đều phụ thuộc vào
ngài; không cái gì ở trong điều khiển của ông. Ta trở nên bình
thản từ ngày ta bắt đầu sẵn lòng chấp nhận bất kì cái gì xảy ra,
bất kì cái gì đến với ta. Ta có thể không bình thản khi ta ham
muốn và cố trở thành cái gì đó.”
Nhưng người này không chấp nhận điều thiền sư đã nói,
“Tôi ghen tị với bình thản của thầy,” người đó nói. “Tôi không
thể vẫn còn thoả mãn với giải thích của thầy.”
Thế là thiền sư yêu cầu người đó đợi và đặt câu hỏi cho
người đó khi không có ai trong lều của mình, vì ông ấy có nhiều
khách thăm. Người này đồng ý, và khi không còn ai trong lều
người đó yêu cầu thầy chỉ cho người đó cách thức. Thế rồi thầy,
đưa ngón tay lên môi anh ta, nói, “Tĩnh lặng.”
Người này thấy rất phân vân. Người đó nói, “Khi có người ở
đây và tôi xin thầy trả lời, thầy bảo tôi hỏi khi không có ai ở đây;
và khi không có ai ở đây và tôi hỏi thầy câu trả lời thầy bảo tôi
giữ tĩnh lặng. Làm sao vấn đề của tôi sẽ được giải quyết?”
Trời tối, mặt trời đã lặn, và mọi người đã đi hết. Túp lều
trống rỗng, và người này lại tìm câu trả lời. Thiền sư yêu cầu
người đó đi ra ngoài. Trăng tròn toả sáng. Thiền sư hỏi, “Ông có
thấy những cây này không?” Nhưng cây nhỏ đang mọc ở phía
trước túp lều.

Người này đáp, “Tôi thấy chúng.”
Lần nữa thầy hỏi, “Ông có thấy những cây xa xa kia không,
vươn cao lên trời ấy?”
Người này nói, “Tôi thấy chúng.”
Thế rồi thiền sư nói, “Những cây kia to cao. Những cây này
nhỏ thấp. Không có xung đột gì giữa chúng. Ta chưa bao giờ
nghe nói tới bất kì tranh cãi nào giữa chúng về vấn đề này.
Những cây nhỏ này không bao giờ hỏi những cây cao tại sao
chúng cao; chúng thoả mãn với cái nhỏ bé của chúng. Cây cao
cũng không bao giờ hỏi những cây nhỏ tại sao chúng nhỏ. Cây
cao có khó khăn riêng của chúng, như chúng phát hiện ra khi có
bão. Cây nhỏ cũng có vấn đề của chúng nữa, nhưng chúng bằng lòng với cái nhỏ bé
của mình, cũng như cây cao bằng lòng với
cái cao của mình. Ta chưa từng nghe nói gì về tranh cãi giữa hai
loại cây này; ta bao giờ cũng thấy chúng tĩnh lặng. Cho nên xin
rời khỏi ta. Ta là cái ta đang vậy, và ông là cái ông đang vậy.”
Nhưng làm sao người đó thoả mãn được với ví von đó? Và
làm sao chúng ta được thuyết phục? Tâm trí bao giờ cũng ham
muốn là cái gì đó. Tại sao nó hành xử như vậy? Đấy là vì chúng
ta bao giờ cũng coi là đương nhiên chúng ta có thể làm điều gì
đó. “Không,” Ishavasya nói, “bạn không thể làm được điều gì cả.
Bạn không thể là người làm.” Điều này là bí mật của một ý tưởng
lớn được gọi là định mệnh. Định mệnh không có nghĩa là bạn
không nên làm gì. Điều đó sẽ là ngồi tĩnh lặng - và định mệnh nói
rằng bạn thậm chí không thể ngồi theo ý chí riêng của mình. Nếu
định mệnh đặt bạn ngồi, chỉ thế thì bạn có thể ngồi. Định mệnh
làm cho việc “tôi sẽ không làm gì cả” trở thành không thể được
đối với bạn. Nếu định mệnh muốn bất kì việc không làm nào, thế
thì việc không làm sẽ xảy ra.

Xin nhớ trong tâm trí, không có một người theo thuyết định
mệnh nào trong số những người dường như theo định mệnh. Họ
nói, “Mọi thứ đều trong tay của định mệnh. Chúng ta có thể làm
được gì nào? Cho nên chúng ta không làm gì.” Chính sự tồn tại
của ý tưởng là chúng ta không làm gì cả có nghĩa là cảm giác về
việc làm vẫn còn hiện hữu. Khái niệm về định mệnh toàn bộ có
nghĩa là chúng ta không có. Không có cách nào để làm bất kì cái
gì. Nó là sự tồn tại.

Khi chúng ta không thể làm được bất kì cái gì, khi chúng ta
không thể là người làm, thế thì liệu sẽ có 'cái của tôi', cái gì của
tôi không? Chúng ta sẽ nói, “Nó là của tôi” cho ai? Chúng ta có
thể nói, “Đây là con tôi” không? Trông có vẻ như vậy, vì dường
như là, “Tôi đã cho nó sinh thành.” Ảo tưởng như thế xảy ra mặc
dầu không ai đã bao giờ cho ra đời bất kì đứa con nào. Con được
sinh ra, chúng tìm đường của chúng qua bạn. Bạn bắt đầu yêu
một người đàn bà. Tình yêu đó không đến từ bạn, tình yêu tìm
đường của nó qua bạn. Ham muốn dục, tình yêu, khao khát của
thân thể bạn để gặp lẫn nhau - khao khát đó không phải là của
bạn. Nó bị giấu kín trong từng hạt của thân thể bạn, trong từng
sợi lông nhỏ bé nhất trên thân thể bạn. Nó được nén vào trong
từng hạt và nó chèn ép bạn, nó thôi thúc bạn. Cuối cùng, đứa trẻ
được thụ thai, ai đó trở thành mẹ và ai đó trở thành bố của nó. Có
vẻ là họ đã mang đứa trẻ vào hiện hữu. Số phận cười bạn! Nó
cười khoái trá vào bạn. Bạn đã bị làm thành công cụ của việc
sinh: bạn đã không cho nó. Bạn chỉ là bước chuyển. Người mẹ
chỉ là bước chuyển cho cuộc hành trình của ai đó đi vào cuộc
sống. Qua cô ấy, định mệnh cho việc sinh. Bạn đã không làm gì .
Bạn xây ra một toà nhà và nói, “Nó là của tôi.” Nhưng bạn
có quan sát chim cũng làm tổ cho chúng không? Trên thế giới
này ngay cả con vật nhỏ nhất cũng xây dựng chỗ trú ẩn của nó.
Có những loài chim mà mẹ của chúng bay đi sau khi đẻ trứng.
Khi trứng nở, chim con bước ra. Chúng không nhận huấn luyện
của mẹ không có bảo vệ của bố, chúng không tới trường. Và
phép màu là ở chỗ những con chim đó làm tổ đích xác như mẹ
chúng làm, bà chúng làm trước chúng. Tổ ấy không phải là tổ
bình thường; nó bao gồm kĩ năng kiến trúc lớn lao. Nó đẹp đến
mức nếu con người muốn làm một cái tổ như thế thì người đó sẽ
phải học cách làm nó, và ngay cả sau khi học, vẫn khó cho người
đó để xây dựng nó một cách khéo léo đến thế.

Tổ như thế được làm như thế nào? Các nhà khoa học gọi đấy
là chương trình định sẵn. Họ nói có một chương trình định sẵn
trong từng tế bào nhỏ của thân thể con chim. Toàn bộ quá trình
xây dựng tổ được giấu kín trong xương, thịt và mô của chim.
Điều con chim này có thể làm tổ của mình là điều chắc chắn. Nó
sẽ tìm ra đích xác loại cỏ và lá mà mẹ nó đã tìm. Không ai dạy nó; chim mẹ thậm
chí không nhìn tới chim con, và chim con đã
không tới trường. Vậy mà nó sẽ nhặt những cái lá đó và những
cọng cỏ đó và làm nên cái tổ hệt như trước đây mẹ nó và bà nó
làm. Con người cũng xây dựng; mọi loài sinh vật đều xây dựng.
Không có lí do gì để nói, “Nó là của tôi” - tuyệt đối không lí do
nào.

Chúng ta có thể nói về cái gì qua “Nó là của tôi”? Chúng ta
có thể làm đòi hỏi như vậy về của cải không? Mọi con vật đều
tích trữ: chúng làm như thế theo nhiều cách khác nhau, và con
người chắc chắn không phải là kẻ thông minh nhất về điều đó.
Có những con vật khéo léo vượt xa hơn con người trong nghệ
thuật tích trữ. Tại Siberia có gấu trắng: tuyết khắp sáu tháng
trong năm, và con người có khó khăn sống sót trong sáu tháng
đó, nhưng gấu tự bảo vệ nó. Phương pháp tích luỹ của nó thật kì
diệu. Nó không thu thập các thứ, nó thu thập mỡ - đủ để kéo dài
trong sáu tháng. Nó chỉ cứ tích trữ thật nhiều mỡ trong thân thể.
Nó cất giữ nhiều mỡ trong thân thể đến mức nó có thể sống nhờ
số mỡ đó trong sáu tháng này mà trong lúc đó nó ngủ dưới tuyết.
Kho báu của bạn không ở sâu như thế bên trong bạn. Kẻ cắp
có thể đánh cắp nó từ bạn; và để hữu dụng cho bạn, của cải của
bạn phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh. Bạn có thể có của cải, nhưng
nó sẽ không dùng gì được cho bạn nếu thị trường chứng khoán
sụp đổ. Con gấu trắng kia thông minh hơn bạn. Nó tích trữ thức
ăn của mình ngay bên trong người nó, và bởi vì - nằm dưới tấm
chăn tuyết nặng nề - thật bất tiện cho con gấu để nhai, nuốt và
tiêu hoá rồi tạo ra thịt và mô mới, nó cất giữ thức ăn của nó dưới
dạng mỡ mà có thể hấp thu một cách an bình.

Cả thế giới tích trữ. Đừng nghĩ rằng chỉ có bạn làm như thế.
Nó là quá trình tự nhiên. Khi người mẹ cho con bú vú, tự hào cô
ấy cảm thấy là vô căn cứ nào. Không sớm hơn khi đứa con được
sinh ra là vú mẹ bắt đầu đầy sữa, thân thể cô ấy bắt đầu tạo ra
sữa. Nếu đứa trẻ không chịu bú, người mẹ sẽ khó khăn và cảm
thấy rất khó chịu. Chính phúc lành là đứa trẻ bú sữa. Người mẹ
không chủ định chuẩn bị sữa. Việc sinh ra đứa con là một quá
trình tự phát, và như một phần của quá trình này, sữa được tạo ra
trong người mẹ. Khi đứa trẻ lớn lên, dòng dữa mẹ bắt đầu giảm
đi, và khi nhu cầu của nó hết, sữa biến mất.

Tất cả những việc xảy ra này là tự nhiên. Ham muốn tích luỹ
là tự nhiên. Đó là lí do tại sao lời kinh này của Ishavasya nói,
“Prakriti” - Ishavasya gọi điều đó là Thượng đế: mọi thứ là của
Thượng đế. Tự nhiên, số phận, prakriti, tất cả đều là từ mang tính
máy móc; và ngài khổng lồ, tràn đầy bí ẩn, tràn đầy cuộc sống và
tâm thức đến mức ngài không thể có tính máy móc được.
Khoa học cũng xác nhận rằng tự nhiên làm mọi thứ, nhưng
khi chúng ta nói về Thượng đế theo ngôn ngữ của khoa học,
chúng ta trở nên đáng thương; chúng ta trở thành vô giá trị và
máy móc. Khi Ishavasya nói, “Thượng đế làm mọi thứ,” một mặt
bản ngã của chúng ta rơi xuống, và mặt khác chúng ta trở thành
Thượng đế. Điều này là quan trọng; nó đáng được hiểu. Khi khoa
học tiến triển, nó nhấn mạnh rằng con người phải vứt bỏ ảo
tưởng là tôi đang làm. Mọi thứ đều đang xảy ra. Nhưng việc nhấn
mạnh của khoa học là vào mọi thứ đang xảy ra một cách máy
móc. Mọi thứ đang xảy ra như trong một cái máy. Toàn bộ thế
giới hành xử một cách máy móc. Và khi mọi thứ đang xảy ra một
cách máy móc, vị trí con người là đáng thương. Bản ngã của con
người chắc chắn bị đập vỡ, nhưng không cái gì được lộ ra để cho
con người bất kì ý nghĩa hay giá trị nào.

Thật sự, lòng tự hào của con người, bản ngã của con người,
là một hiện tượng rất không có ý nghĩa và nhỏ mọn, hệt như ngọn
lửa cháy từ dầu trong một chiếc đèn đất nhỏ. Nó bị khoa học dập
tắt, và có bóng tối sâu xa bao quanh tất cả; nhưng không có mặt
trời mọc lên xảy ra ở chỗ đó. Đó là lí do tại sao lời tuyên bố của Ishavasya là có
giá trị hơn nhiều lời tuyên bố của khoa học. Một
mặt nó dập tắt ánh sáng cháy lờ mờ của bạn và vồ lấy bản ngã
nhỏ bé của bạn, bằng việc nói, “Tắt đi! Bạn không có, và sợ của
bạn là không cần thiết!” và mặt khác nó cho sinh thành một siêu
mặt trời. Trong một khoảnh khắc, từ một phía nó nói, “Bạn
không có,” và lập tức, từ phía bên kia, nó đặt cho bạn ở vị trí của
Thượng đế. Từ một mặt nó vồ lấy bạn và tẩy sạch bạn hoàn toàn,
và từ mặt khác nó tặng cho bạn cái toàn thể. Nó dập tắt ngọn đèn
đất của bản ngã, ngọn lửa lờ mờ nặng mùi, mùi dầu lửa đầy khói,
nhưng thay vào đó nó cho bạn ánh sáng rực rỡ, chói lọi của mặt
trời. Nó tẩy sạch cái tôi, bản ngã, nhưng đặt chúng ta ở cái ta cao
nhất - Thượng đế!

Đây là khác biệt giữa chiều hướng của tôn giáo và của khoa
học. Khoa học xác nhận cùng những sự kiện mà tôn giáo xác
nhận, nhưng nhấn mạnh của khoa học và vào máy móc. Tôn giáo,
trong khi thảo luận về cùng thứ, đặt nhấn mạnh vào tâm thức,
vào trí huệ, vào việc sống; và nhấn mạnh này là quan trọng. Nếu
khoa học phương Tây thành công, con người chung cuộc sẽ trở
thành cái máy; và nếu tôn giáo ở phương Đông thành công, con
người cuối cùng sẽ trở thành Thượng đế. Cả hai đều phá huỷ bản
ngã, nhưng khoa học làm giảm cấp con người trong quá trình
này.

Quãng trăm rưởi hay hai trăm năm trước đây, khoa học bắt
đầu tuyên bố lần đầu tiên rằng con người là loài vật bất lực. Khi
Darwin nói với loài người, “Quên rằng bạn đã được Thượng đế
tạo ra đi; bạn đã tiến hoá từ loài vật, từ loài thú,” bản ngã của con
người bị đập mạnh lần đầu tiên - với một cú bùm! Con người đã
từng tin rằng mình là con của Thượng đế, là sự sáng tạo của
Thượng đế, mặc dầu người đó không có bằng chứng nào về điều
đó. Thế rồi bất thần lại hoá ra là người bố không phải là Thượng
đế, mà là con vượn! Đấy hẳn phải là một cú sốc lớn lắm. Một cú
sụp đổ tan tành! Khoảnh khắc trước đã có Thượng đế, ngồi trên
ngai vàng cao nhất, và chúng ta là con của ngài, và khoảnh khắc
tiếp chúng ta được chứng minh là con cháu của khỉ. Điều này thật
rất đau đớn cho con người; nó tác động tới con người nhiều lắm.
Cho nên khoa học đã tuyên bố lần đầu tiên rằng con người nên
quên tất cả về việc là người và nên tự coi mình như con vật, con
thú đi. Tất cả mọi nỗ lực của con người để nuôi dưỡng bản ngã
của mình đều bị đập tan tành.

Nhưng một cuộc hành trình một khi đã bắt đầu, dù theo
chiều hướng nào, cũng không kết thúc trước khi nó được hoàn
tất; nó tìm kiếm cái kết thúc của nó. Thật khó để dừng lại ở mức
con vật. Ban đầu khoa học tuyên bố rằng con người là một loại
thú; thế rồi, sau khi nghiên cứu thêm về bản chất của loài vật,
khoa học thấy rằng con vật là máy.

Bạn quan sát con rùa bò. Bạn sẽ thấy rằng khi cái nhiệt tăng
lên, rùa bò vào bóng râm. Bạn sẽ nói nó bò đến đó bởi vì nó cảm
thấy nóng quá. Khoa học bác bỏ điều này. Khoa học chế tạo ra
rùa máy. Chúng được đặt dưới ánh mặt trời, và chúng cứ ở đấy
chừng nào mà nhiệt còn không lớn lắm; nhưng ngay khi nhiệt
tăng lên, chúng bắt đầu bò. Chúng bò vào trong bụi cây, chỗ
bóng râm. Những con rùa này chỉ là những thứ máy móc - điều gì
đã xảy ra cho chúng? Khoa học gọi nó là điều kiện tự cân bằng -
cách thức mà theo đó thông báo được đưa ra cho bất kì thay đổi
có ý nghĩa nào về nhiệt độ. Không có tâm thức tham dự vào đó
chút nào. Bạn thấy bướm đêm bay vào ngọn lửa đèn. Nhà thơ mô
tả nó là một kẻ yêu đương mù quáng, điên cuồng với ngọn lửa, hi
sinh cả mạng sống của mình cho tình yêu của nó. Nhà khoa học
sẽ không chấp nhận điều này; với ông ta không cái gì giống như
tính điên khùng trong sự kiện này. Tất cả chỉ là máy móc. Ngay
khi con bướm nhìn thấy ngọn lửa thì cánh của nó bắt đầu nghiêng
về ngọn lửa. Họ tạo ra các con bướm máy, và để chúng bừa bãi
trong bóng tối. Thế rồi họ bật đèn lên, và lập tức các con bướm
này xô về cái đèn.

Cho nên khoa học đã xác minh rằng các con vật đều là máy;
và kết luận cuối cùng về chúng là đáng ngạc nhiên. Trước hết các
nhà khoa học đã xác minh rằng con người bị hạ xuống loài vật;
rồi họ xác minh rằng con vật giống như máy: phán xét cuối cùng
của họ là ở chỗ con người là máy. Một cách tự nhiên, có chân lí
nào đó trong biện luận này. Điều tốt là họ đã đập tan bản ngã của
con người, nhưng khi làm như vậy, họ thu con người về trạng
thái của cái máy - con người thoái hoá thành cái máy. Với con
người việc nghĩ theo cách này là nguy hiểm, và đã chứng tỏ là có
hại. Những người như Stalin và Hitler có thể đẩy hàng triệu
người vào chỗ chết bởi vì họ coi con người như cái máy và do
vậy trái tim của họ không xúc động bởi việc tàn sát.
Bây giờ xét tình huống đáng quan tâm này. Krishna đã nói
trong Gita rằng linh hồn con người là bất tử, nó không chết, cho
nên giết kẻ thù của bạn không tạo ra khác biệt gì. Stalin cũng có
thể nói rằng vì con người là máy, không linh hồn, nên cũng
không hại gì trong việc giết anh ta. Khi Krishna nói với Arjuna
rằng linh hồn là bất tử và sẽ không chết dù bạn cố gắng đến đâu,
tác động lên Arjuna là ở chỗ người đó trở nên dịu đi khi giết kẻ
thù của mình. Nhưng kết quả của hai hành động này hoàn toàn
khác nhau. Khi tính bất tử của linh hồn được chấp nhận, câu hỏi
về cái chết trở thành vô nghĩa. Stalin hài lòng đẩy hàng triệu
người vào cái chết; nhưng với ông ấy thì không có cái gì như linh
hồn chút nào, không cái gì sai được thực hiện vì con người chỉ là
cái máy.

Có thể không có phản đối việc phá huỷ cái máy. Nếu bạn
đập cái máy bằng chiếc gậy, ngay cả người bất bạo hành cũng
không thể buộc tội gì bạn về việc phạm bạo hành. Bên ngoài, kết
quả dường như tương tự, nhưng chúng không như nhau, vì ý
nghĩa thực sự của những kết quả này là rất khác và thay đổi toàn
bộ nghĩa trong mỗi trường hợp. Khoa học cho rằng tự nhiên làm
mọi việc. Khoa học không chỉ đập tan bản ngã con người, mà còn
làm thoái hoá con người; khi tôn giáo đập tan bản ngã con người,
nó nâng con người lên một mức cao hơn và đưa tiễn con người
trên cuộc hành trình đi lên.

Lời kinh này nói bản ngã bạn sẽ biến mất nếu bạn dừng việc
gọi mọi thứ là của bạn. Coi nó tất cả đều là của sự tồn tại đi.
Đừng nuôi dưỡng ham muốn về của cải của bất kì ai. Sau rốt, tại
sao? Khi không còn cái gì là của tôi, thế thì cũng không có cái gì
là của bạn. Cẩn thận, bởi vì lời kinh này, “Đừng thèm muốn;
đừng ham muốn giầu có của người khác,” đã bị hiểu sai nhiều
lắm: nó đã bị diễn giải không đúng đến mức người ta có thể trở
nên bị lúng túng sâu sắc.

Phần lớn những người bình luận đã giải thích nó là: “Ham
muốn của cải của người khác là tội lỗi, cho nên đừng nuôi dưỡng
ham muốn như thế.” Nhưng họ có vẻ ngu, vì phần đầu của lời
kinh nói rằng của cải không thuộc vào ai cả; nó là của sự tồn tại.
Phần thứ nhất của lời kinh này nói, “Khi nó không phải là của
tôi, làm sao nó có thể là của bạn được?”
Không. Không, nghĩa đúng đắn của nó là thế này - rằng bạn
không nên ước ao của cải của người khác bởi vì của cải không
phải là của tôi cũng không phải là của bạn. Cơ hội cho ham muốn
tồn tại chỉ khi, vì nó có thể là của bạn, nó cũng có thể là của tôi;
bằng không ham muốn không có nền tảng nào để đứng . Các
chuyên gia trong khoa học về luân lí đã giải thích điều ấy như có
nghĩa là ngay cả việc nghĩ đến của cải của người khác cũng là tội
lỗi; nhưng vì nó không thể là của tôi thì làm sao nó có thể là của
người khác được?

Không chuyên gia về đạo đức nào có thể nắm được nghĩa
thực của lời kinh này. Nó là tinh tế và sâu sắc. Nhà đạo đức học
lo lắng khi thấy rằng không ai ăn cắp tài sản của người khác; khi
không ai coi là của mình cái thuộc về người khác. Nhưng nhấn
mạnh của ông ta vào tài sản của người khác chỉ là mặt trái của nhấn mạnh cuả ông
ta vào cái của riêng ông ta. Nhớ lấy, người
nói, “Đây là của bạn,” chưa thoát khỏi khái niệm, “Đây là của
tôi,” vì hai khái niệm này là hai mặt khác nhau của cùng một
đồng tiền. Chừng nào cảm giác này vẫn cứ còn, “Toà nhà này là
của tôi,” phần tương ứng của nó, “Toà nhà này là của bạn,” sẽ
vẫn tiếp tục: và khi cảm giác về toà nhà ‘của tôi’ biến mất, làm
sao cảm giác tương ứng về toà nhà ‘của bạn’ còn lại được?
Không ao ước tới của cải hay tài sản của người khác không có
nghĩa là tài sản thuộc về người khác, cho nên ham muốn nó là tội
lỗi; nghĩa thực của nó là ở chỗ tài sản và của cải không thuộc vào
ai cả - của cải thuộc vào một mình sự tồn tại: chính bởi vì điều
này mà việc ham muốn là tội lỗi. Đừng coi cái gì là của tôi hay
của bạn, đừng xem bản thân mình là người chủ, và đừng cố đánh
cắp từ người khác - vì đó là coi cái gì đó như của anh ta. Chúng
ta không thể đánh cắp mà cũng không thể giữ được cái gì. Tất cả
nó đều là của sự tồn tại, và cái là của sự tồn tại chúng ta không
thể thu được cũng không tích trữ được.

Ý tưởng sở hữu nhộn làm sao! Tôi đặt một tấm biển lên một
mảnh đất nói rằng nó là của tôi. Mảnh đất đó đã có ở đó từ trước
khi tôi được sinh ra. Nhìn vào hành động này của tôi, mảnh đất
đó phải cười phá lên, vì nhiều người trước tôi cũng đã từng dựng
lên những tấm biển như thế mà nói nó là ‘của tôi’ - và mảnh đất
chôn vùi tất cả họ. Họ được chôn vùi nơi bạn đang ngồi bây giờ
đây! Có ít nhất là mười nấm mồ ở chỗ mỗi chúng ta đang ngồi.
Khó mà còn tấc đất nào trên mảnh đất này mà có thể không chứa
mồ của mười người. Biết bao nhiêu người đã được sinh ra và đã
chết đi trên thế giới này mà có thể ít nhất mười người đã được
chôn vùi dưới từng tấc đất. Mảnh đất đó biết hoàn toàn rõ rằng
người yêu sách khác đó cũng đã dựng lên những tấm biển như
thế trên nó. Nhưng không cái gì dừng con người lại; như người
đó vậy, người đó sẽ vẫn cứ cắm biển của mình lên, và người đó
không muốn thấy rằng người đó đang thêm tên mình vào một cái
biển cũ, được sơn vẽ đè lên. Người đó không muốn thấy rằng ai
đó khác sẽ phải nhận cùng rắc rối ngày mai. Thực ra, tất cả
những công sức này không là gì cả. Mảnh đất đó phải cười to!
Cho nên đừng ước ao của cải của người khác, vì nó không
thuộc vào người nào. Tôi không đơn giản ngụ ý rằng việc chiếm
của cải của người khác là có tội với cách xem xét làm cho nó
thành của bạn. Điều là tội lỗi ở ngay chỗ đầu tiên khi xét nó là
của người đó hay của bạn. Nó là tội lỗi khi coi nó là của bất kì ai.
Nó chắc chắn là tội lỗi nếu lấy cớ quyền sở hữu của bất kì ai trừ
của sự tồn tại. Nếu bạn có thể hiểu cách diễn giải này, thế thì và
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu thấu nghĩa sâu xa và tinh tế
của Ishavasya. Bằng không nghĩa rõ ràng của những lời kinh này
là ở chỗ mỗi người phải sở hữu vững chắc của cải của riêng mình
và, để bảo vệ quyền lợi của riêng mình, phải quảng bá đi mọi
phương rằng không ai được ước ao của cải của người khác.
Đây là lí do tại sao Marx và những người khác theo cách
nghĩ của ông ấy đã không sai khi họ cảm thấy rằng mọi tôn giáo
đều đưa ra bảo vệ cho người giầu có, phong lưu, bởi vì những
diễn giải của lời kinh này đã bị sai lạc và không đúng. Từ những
giải thích này dường như là bạn không nên cố gắng chiếm lấy
của người khác những cái mà người đó là chủ sở hữu. Điều này
rõ ràng xác định ra rằng người chủ có thể nhận được sự giúp đỡ
của cảnh sát để bảo vệ của cải của mình. Cho nên ý định của nó
là để duy trì luật pháp và trật tự, nguyên trạng và ý tưởng về
quyền sở hữu. Nhưng lời kinh này không dự định điều này; chính
lời tuyên bố đầu tiên của Ishavasya là ở chỗ mọi thứ đều thuộc về
sự tồn tại. Một mình sự tồn tại là người chủ. Cả tôi lẫn bạn không
là người chủ, và ý tưởng của chúng ta về quyền sở hữu là ảo
tưởng. Một mình nó là người chủ, người chưa bao giờ tuyên bố,
“Ta là người chủ.” Nó tuyên bố trước ai? Với ai mà nó nói, “Đất
này là của ta?” Để nói như thế ít nhất cần phải có người khác - và
tất cả đều là của sự tồn tại!

Nhớ lấy điều này khi bạn ghi tên mình lên một mảnh đất.
Bạn làm như thế là để cho người khác, để cho người đó có thể
biết rằng đấy là của bạn. Bạn không đặt tấm biển trong rừng rậm.
Và giả sử bạn sống một mình trên trái đất này, tôi cho là bạn
không điên khùng đến mức phải đi dựng biển ở các chỗ khác
nhau. Nếu bạn là người duy nhất sống trên trái đất này, toàn bộ
đất đai là của bạn. Không còn mục đích chút nào trong việc bận
tâm nói như vậy.

Sự tồn tại không đưa ra những công bố như thế vì nó là
người chủ. Tâm niệm điều này nữa; nó là một nghĩa nữa được
hàm chứa trong lời kinh này của Ishavasya: những người đưa ra
lời công bố này không thể là người chủ. Không cần người chủ
phải công bố. Người chủ là người chủ, mặc dầu không có công
bố nào. Chỉ người hầu đưa ra công bố. Nếu một người đưa ra
một đòi hỏi mạnh mẽ về cái gì đó, điều ấy có thể tạo ra một hoài
nghi mạnh tương đương trong tâm trí của người nghe. Khi một ai
đó tuyên bố mãnh liệt rằng của cải là của mình, thế thì đương
nhiên điều đó không thể là của người đó được. Tại sao đòi hỏi
này được đưa ra hùng hồn thế? Chúng ta bao giờ cũng lớn tiếng
trình bầy đòi hỏi về một vật để chứng tỏ rằng nó là của chúng ta
khi thực ra nó không vậy.

Sự tồn tại không đưa ra lời công bố nào. Nó phải làm như
vậy cho ai? Tại sao nó phải công bố? Lời tuyên bố sẽ là vô nghĩa.
Lời tuyên bố, ngược lại, sẽ chứng tỏ rằng điều ấy không phải là
của nó. Tất cả những điều này đều thuộc về nó, kẻ chưa bao giờ
đưa ra lời đòi hỏi nào về nó. Nó không thuộc về bất kì ai đã từng
lên tiếng đòi hỏi về nó. Đừng ao ước của cải của người khác, vì
nó không thuộc vào ai cả - nó tất cả là của sự tồn tại. Đừng coi nó
là của bạn hay của người khác, coi nó là của sự tồn tại: và nhận
biết rằng người khác này, và cả bạn nữa, tất cả đều là của sự tồn
tại - tất cả chúng ta đều là của nó. Cho nên đánh cắp hay tống
tiền là vô dụng, vô nghĩa và không liên quan. Không có kĩ năng
hay nghệ thuật gì trong đó. Nó cũng gần như là lao động bị mất.
Nó là nỗ lực giống như vẽ đường trên nước.

Vẫn còn có một điểm nữa: tận hưởng chúng thông qua từ bỏ
chúng. Người ta nói rằng nếu bạn từ bỏ một vật, bạn có thể tận
hưởng điều đó. Nhưng không, điều đó không phải là tin của
chúng ta. Ngược lại, chúng ta tin rằng chúng ta có thể tận hưởng
chỉ cái chúng ta ôm giữ thật chặt. Nhưng hiền nhân này chỉ dẫn
chúng ta làm điều hoàn toàn ngược. Ông ấy nói rằng chỉ họ có
thể tận hưởng các thứ mà họ từ bỏ chúng. Phát biểu này rất đối
chọi với niềm tin của chúng ta. Chỉ những người từ chối làm
người chủ trở thành người chủ thật. Mọi thứ đều rơi vào trong tay
những người không ham muốn ôm giữ thứ gì.

Một ví von hay là cố giữ không khí trong tay bạn. Bạn có thể
lĩnh hội ý nghĩa thực của lời kinh này - từ bỏ để hưởng thú - nếu
bạn đơn giản cố gắng giữ không khí trong tay mình. Ngay khi
bạn nắm chặt nắm tay, không khí thoát ra ngoài hết. Bạn càng
siết chặt nắm tay bạn càng giữ ít không khí, cho đến cuối cùng
không còn lại không khí nào nữa. Để lỏng nắm tay và không khí
sẽ xô bàn tay để mở của bạn. Bao giờ cũng có không khí trong
bàn tay để mở, nhưng trong nắm tay chặt thì chúng trốn biệt. Một
người để tay mình mở ra bao giờ cũng có đầy không khí; nó
không bao giờ trống rỗng, mọi khoảnh khắc không khí đều tươi
mát. Bạn đã bao giờ quan sát điều này chưa? Bàn tay để mở
không bao giờ trống rỗng, và bàn tay nắm bao giờ cũng trống
rỗng; và nếu một chút ít không khí vẫn còn lại trong nắm tay, nó
là cũ rích và suy tàn. Riêng những người từ bỏ mới có khả năng
tận hưởng.

Trong thế giới này, trong cuộc sống này, con người nhận
được nhiều khi người đó sẵn sàng cho đi và buông bỏ. Đây là
ngược đời - nhưng mọi qui tắc của cuộc sống đều ngược đời.
Chúng không đối lập; chúng là ngược đời. Chỉ dường như chúng là đối lập. Người ao
ước được tôn vinh và kính trọng trên thế giới
này chắc chắn tìm thấy hổ thẹn và bất kính. Người ham muốn
được giầu có, nhưng khi người đó bắt đầu tích luỹ của cải, người
đó trở thành nghèo nàn và hèn hạ bên trong, khi người đó có vẻ
giầu có bên ngoài. Người nghĩ hay mơ về tính bất tử lo âu về sợ
chết cả hai mươi bốn tiếng một ngày. Cái chết không bao giờ tới
viếng thăm nhà của người luôn sẵn lòng đón chào nó: người sẵn
lòng gặp gỡ cái chết nếm những giọt cam lồ, trong khi người sợ
hãi cái chết chết đi từng giờ mỗi ngày. Người ấy chết đi mọi lúc
bởi vì người ấy không biết chút nào về cuộc sống là gì. Người
nói, “Ta sẽ trở thành người chủ,” sẽ sớm trở thành kẻ nô lệ; và
người nói, “Ta sẵn lòng là kẻ nô lệ,” sẽ là người chủ vô hạn.
Nhưng đấy là những phát biểu mâu thuẫn cho nên rất khó để hiểu
chúng, và khi chúng ta cố gắng diễn giải chúng, chúng ta làm
điều ấy theo cách để chúng ta được cứu giúp trong cái ngược đời
trong chúng - và do đó chúng ta bỏ lỡ vấn đề.

Do vậy mọi người đã hiểu nhầm những lời kinh này. “Tận
hưởng qua từ bỏ” đã đi tới ngụ ý là nếu bạn làm việc từ thiện,
bạn sẽ được thưởng ở cõi trời. Cho người ăn mày ngồi bên bờ
sông Hằng một vài xu và bạn sẽ được thưởng hàng nghìn lần
hơn. Không có cái gì khác trên thế giới này bị đối xử tệ bạc như
những lời kinh này, và tương tự, không ai bị đối xử bất công như
những hiền nhân này - bởi vì khó hiểu được họ theo đúng tinh
thần của họ. Thay vì vậy, chúng ta diễn giải họ theo cảnh quan
của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta hiểu lời kinh này: nếu bạn
đem cái gì đó đi làm việc từ thiện, bạn sẽ được lên cõi trời sau
khi chết. Nhưng chú ý: lời kinh này nói, “Người từ bỏ, nhận
được.” Nó không nói: “Người từ bỏ với quan điểm để nhận được,
sẽ nhận được.” Thực ra, người từ bỏ với quan điểm để nhận
được, là không từ bỏ, vì người đó chỉ tìm cách để nhận được
phần thưởng.

Người làm điều từ thiện ở đây trên thế giới này là để cho
người đó có thể nhận được phần thưởng trên cõi trời không từ bỏ
cái gì cả. Người đó đơn giản siết chặt nắm tay của mình cho
tương lai. Nếu được hiểu đúng, hành động của người đó không
chỉ là siết chặt nắm tay trên thế giới này, mà còn siết chặt nó cả
trong thế giới tiếp nữa. Người đó đang nói với người khác bằng
hành động của mình, “Hành động này là không quan trọng lắm ở
đây, nó hoàn toàn thông thường, nhưng nó rất quan trọng ở kia,
trong thế giới tiếp.” Nếu người đó hoàn toàn chắc chắn, nếu
người đó một trăm phần trăm chắc chắn rằng người đó sẽ được
thưởng trong thế giới tiếp vì hành động tốt của mình trên thế giới
này, thế thì người đó được chuẩn bị để làm việc đầu tư nào đó.
Người đó được chuẩn bị để chịu rủi ro một số tài sản của mình
nếu người đó được đảm bảo đầy đủ về phần thưởng của người đó
trong thế giới tiếp.

Không, người như vậy đã không hiểu thấu được nghĩa này
chút nào. Đấy không phải là điều lời kinh này đang nói. Nó đơn
giản nói, “Người từ bỏ, nhận được.” Nó không nói, “Từ bỏ để
cho bạn có thể nhận được trong tương lai.” Một người có con mắt
chỉ chăm chăm vào đầu nhận được cái gì đó không bao giờ có thể
nghĩ dưới dạng từ bỏ được. Khi người đó dường như là từ bỏ,
đấy không phải là từ bỏ mà là đầu tư. Người đó đơn giản thay
đổi vấn đề tài chính để thu được nhiều hơn. Nếu một người đầu
tư một triệu vào một nhà máy, đấy có thể được gọi là làm điều từ
thiện không? Chắc chắn không. Người đó đang đầu tư với ham
muốn để kiếm được một triệu rưởi. Rồi người đó có thể đầu tư
một triệu rưởi. Đấy là từ thiện chăng? Vậy là người đó cứ tiếp
tục, cứ đầu tư ngày một nhiều để cho người đó có thể có một cái
nắm chặt hơn vào tài sản của mình. Người đó muốn ngày càng
nhiều hơn. Người thực hành từ thiện với quan điểm để thu lại
được cái gì là không hiểu nghĩa của từ thiện.

Lời kinh này đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp rằng
người từ bỏ, tận hưởng. Nó không nói, “Từ bỏ nếu bạn muốn tận
hưởng.” Nó công bố rằng nếu bạn có thể từ bỏ, thế thì bạn có thể
tận hưởng; nhưng nếu bạn đang nuôi dưỡng ý tưởng về tận
hưởng, bạn có thể không bao giờ từ bỏ.

Đây là lời kinh tuyệt diệu. Nó tuyên bố ngay từ đầu rằng mọi
thứ là của sự tồn tại: điều này bao hàm việc từ bỏ. Cái gì còn lại
đó để sở hữu và nắm giữ đối với người đã hiểu rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại? Không cái gì còn lại để mà sở hữu. Từ bỏ là
đầy đủ - và người đã nhận ra điều này, người đã từ bỏ mọi thứ và
có bản ngã đã tan biến, là bản thân sự tồn tại; và việc trở thành sự
tồn tại là bắt đầu tận hưởng. Người đó được hội nhập vào trong
tận hưởng tối cao, được hấp thu vào trong phúc lạc tối cao.
Người đó bắt đầu kinh nghiệm tận hưởng tối cao đó từ khoảnh
khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Mọi hạt nhỏ bé nhất trong cuộc
sống người đó bắt đầu nhảy múa. Cái gì còn lại để được tận
hưởng đối với một người đã trở thành bản thân sự tồn tại? Người
đó bắt đầu tận hưởng mọi thứ. Mọi thứ! Bầu trời bao la, hoa nở,
mặt trời mọc, sao đêm, nụ cười và tiếng cười - tất cả đều trở
thành đối tượng phúc lạc của người đó. Tận hưởng tối cao đó bây
giờ tự nó trải rộng về mọi phía cho người đó. Người đó bây giờ
là người chủ và người sở hữu của không cái gì, nhưng theo mọi
chiều hướng đều có sự trải rộng của tận hưởng, và từ khắp xung
quanh, người đó uống nước cam lồ thiêng liêng.

Tôn giáo là tận hưởng. Khi tôi nói điều này - rằng tôn giáo là
tận hưởng - nhiều người trở nên bất ổn bởi vì khái niệm của họ
về tôn giáo là ở chỗ nó là từ bỏ. Nhớ trong tâm trí, người nghĩ tôn
giáo là từ bỏ sẽ phạm phải sai lầm về đầu tư. Vậy mà bản chất
của cuộc sống là từ bỏ. Cuộc sống là từ bỏ. Điều cực kì ngu xuẩn
là ôm giữ bất kì cái gì trong cuộc sống. Sai lầm lớn là nắm giữ
chặt; trong khi làm như vậy người ta mất đi cái mà người ta đáng
thu được. Trong khi nói rằng, “Đó là của tôi,” con người đánh
mất cái người đó đã là.

Mọi thứ rơi rụng đi theo ý của nó từ người đã nhận ra rằng
mọi thứ đều là của sự tồn tại. Thế thì không còn lại gì cho người
đó để từ bỏ. Nhớ lấy, hành động từ bỏ là không thể được với
người nói, “Đó là của tôi.” Nếu một người nói, “Tôi đang từ bỏ
điều này,” điều đó chứa niềm tin rằng vật ấy là của anh ta. Chân
lí là ở chỗ anh ta, người nói như vậy không thể từ bỏ được, vì các
khái niệm của người đó về của tôi và cái của tôi vẫn còn dai
dẳng. Người duy nhất có thể từ bỏ được là người có thể nói,
“Không cái gì là của tôi; tôi có thể từ bỏ cái gì?”
Trước khi từ bỏ cái gì đó, người ta phải có cái đó. Nếu tôi
nói, “Tôi cho bạn bầu trời,” bạn sẽ cười vào tôi và nói, “Trước
hết phải quyết định rằng bầu trời mà thầy đem cho đó là của thầy
đi đã.” Tương tự tôi có thể nói, “Tôi làm điều từ thiện cho bạn
hành tinh Sao Hoả đấy.” Điều này tương đương với điều vô
nghĩa; nó phải là của tôi trước khi tôi có thể làm điều từ thiện với
nó. Ảo tưởng về từ bỏ này xảy ra cho người đang ấp ủ các khái
niệm về cái của tôi. Không, từ bỏ không xảy ra chỉ bởi hành động
bỏ đi cái gì đó. Nó xảy ra chỉ trong việc nhận ra chân lí rằng mọi
thứ thuộc về sự tồn tại. Thế thì việc từ bỏ xảy ra - nó không phải
được thực hành.

Từ bỏ là kinh nghiệm, là việc nhận ra sự kiện rằng tất cả đều
là của sự tồn tại. Bây giờ không cái gì còn lại để được từ bỏ. Bây
giờ ngay cả bản thân bạn, người tranh đấu để từ bỏ, cũng không
được dự trữ lại. Bây giờ không còn lời đòi hỏi về bất kì cái gì có
thể quan niệm được về từ bỏ. Toàn bộ phúc lạc tới với người có
việc từ bỏ mang bản chất này. Tất cả cái tinh tuý, tất cả cái đẹp
đẽ, tất cả nước cam lồ của cuộc sống bây giờ là của người đó. Do
đó lời kinh này nói rằng người đó, người từ bỏ, đạt được mọi thứ.
Người đó, người làm trống rỗng bản thân mình, người buông xuôi ngay cả cái tôi
của mình, trở thành người chủ của tài sản vô
tận.

Đủ cho lời kinh này. Chúng ta sẽ nói thêm nữa vào tối nay.
Xin lưu ý tới một vài điều hướng dẫn về thiền sáng trước khi
chúng ta bắt đầu. Điểm thứ nhất là thế này: Bất kì cái gì tôi đã
nói tất cả đều là thiền. Để bàn tay mở và bạn sẽ được đầy không
khí. Khi bạn kinh nghiệm, khi bạn nhận ra, rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại, bạn sẽ xúc động với phúc lạc bên trong bạn.
Việc thiền này sẽ trong vòng bốn mươi phút. nhắm mắt và
bịt tai hoàn toàn để cho không ánh sáng, không âm thanh nào có
thể đi vào. Trong mười phút đầu thở sâu. Cố gắng hết mức, để
cho tất cả năng lượng của kundalini có thể được khuấy động. Nếu
thân thể bạn bắt đầu nhảy múa, nhún nhảy, quay vòng, cứ để nó
làm như vậy. Đừng lo lắng về nó chút nào. Trong mười phút tiếp,
với vui vẻ bên trong, thảnh thơi thân thể bạn đầy đủ. Thân thể
bạn sẽ muốn nhảy nhót, múa may, cười nói, la hét, kêu khóc, hát
hò. Cho phép nó làm bất kì cái gì nó muốn; hợp tác với nó hoàn
toàn và đầy đủ. Trong mười phút tiếp nữa, tiếp tục hợp tác với
thân thể bạn và đồng thời tự hỏi mình, “Ta là ai?” Cứ hỏi, “Ta là
ai?” cứ như là bạn đang tụng mật chú vậy. Làm điều này với sự
hài lòng, với vui vẻ. Thế rồi, trong bốn mươi phút, một số trong
các bạn sẽ muốn đứng dậy, một số sẽ muốn nằm ra, và số khác sẽ
muốn lăn tròn. Làm bất kì cái gì bạn thích! Cuối cùng, trong
mười phút cuối, vẫn còn im lặng, đợi việc đi vào sự tồn tại bên
trong. Giữ bản thân bạn thật hoàn toàn thảnh thơi và không có
kháng cự gì để cho nó có thể đi vào bạn. Bạn sẽ phải đợi cho điều
đó.

Trước khi chúng ta bắt đầu thực nghiệm của mình, đặt hai
tay lên nhau, và trước sự tồn tại trịnh trọng đưa ra lời nguyện.
Nhắm mắt, đặt hai tay lên nhau, nghĩ về sự tồn tại như nhân
chứng của bạn, và lặp lại lời nguyện này ba lần: “Trong sự hiện
diện của sự tồn tại, tôi nguyện rằng tôi sẽ cố gắng hết sức trong
thiền.”
Tất cả mọi thứ trong thế giới này, hữu cơ và vô cơ,
đều tràn ngập với Thượng đế.
tận hưởng chúng qua việc từ bỏ chúng.
được tách rời;
đừng thèm muốn giầu có của người khác
.

Lời tuyên bố bản chất của Ishavasya Upanishad, chính nghĩa
của tiêu đề của nó, Ishavasya, là: Mọi thứ đều là của Thượng đế.
Tất cả mọi thứ đều thuộc về Thượng đế. Nhưng tâm trí con người
cố gắng biện minh rằng tất cả đều là của chúng ta, và chúng ta
sống trong ảo tưởng này qua bao nhiêu kiếp sống. Cái gì đó là
của tôi. Cái ý tưởng về quyền làm chủ và sự sở hữu - nó là của
tôi!

Khi mọi thứ là của sự tồn tại, không chỗ nào còn lại cho cái
‘tôi’ này của tôi đứng đấy. Nhớ lấy, để biểu lộ cho nó ngay cả
bản ngã cũng cần một cơ sở. Để tồn tại, ngay cả cái ‘tôi’ cần sự
hỗ trợ của cái ‘của tôi’. Nếu hỗ trợ của cái ‘của tôi’ không có đó,
sẽ không thể tiến tới được cái ‘tôi’. Từ một quan sát nhân quả
dường như là cái ‘tôi’ tới trước rồi cái ‘của tôi’ theo sau nó.
Nhưng sự kiện là hoàn toàn đảo ngược lại. Trước hết, cái ‘của
tôi’ được đặt nền móng, và thế rồi cấu trúc của cái ‘tôi’ được xây
dựng lên trên nó. Nếu bất kì cái gì bạn có mà bạn gọi là ‘của tôi’
đều được lôi ra toàn bộ từ hiểu thấu của bạn, thế thì cái ‘tôi’ của
bạn sẽ không được cần tới. Nó sẽ biến mất. Cái ‘tôi’ không là gì
ngoài một tuyển tập những cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ được tạo ra từ
cơ cấu của cái ‘của tôi’ - của cải của tôi, nhà của tôi, tôn giáo của
tôi, đền thờ của tôi, vị trí của tôi, tên tôi, gia đình tôi, và vân vân.
Khi chúng ta cứ ném đi dần từng cái ‘của tôi’ thì cơ sở của
cái ‘tôi’ đồng thời cũng bị xói mòn dần đi. Nếu không một cái
‘của tôi’ nào được giữ lại, thế thì không có nền tảng nào để nâng
đỡ cho cái ‘tôi’ cả. Cái ‘tôi’ cần chỗ dựa, chỗ trú ẩn, một toà nhà
bằng cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ đòi hỏi hòn đá nền tảng là cái ‘của
tôi’, bằng không toàn bộ cấu trúc của cái ‘tôi’ sẽ đổ nhào. Tuyên
bố đầu tiên của Ishavasya dự định làm đổ sập toàn bộ cấu trúc
này. Hiền nhân này nói, “Mọi thứ là của Thượng đế.” Không có
chỗ cho cái ‘của tôi’. Không có cơ hội chút nào để cho cái ‘tôi’
nói với chính nó về cái ‘của tôi’. Nếu nó có thể nói ‘tôi đây’, điều
đó là sai. Nếu nó cứ khăng khăng nói ‘tôi đây’, thế thì nó là một
cái ‘tôi’ bị bối rối. Cần phải hiểu điều này từ hai hay ba quan
điểm.

Điều thứ nhất là thế này: bạn được sinh ra, tôi được sinh ra.
Nhưng không ai hỏi tôi liệu tôi có muốn được sinh ra hay không;
không rắc rối nào đã được tính tới để tìm ra ước muốn của tôi.
Việc sinh ra tôi không phụ thuộc vào ham muốn của tôi hay chấp
thuận của tôi. Khi tôi biết về bản thân mình, tôi biết bản thân
mình đã được sinh ra. Không cái gì giống như bản thể tôi trước
việc sinh của tôi. Chúng ta xem xét điều đó theo cách này: bạn
đang xây một toà nhà; bạn chưa bao giờ hỏi toà nhà liệu nó có
muốn được xây dựng ra hay không. Toà nhà không có ý chí riêng
của nó. Bạn đang xây dựng ra nó, và nó được dựng lên.
Bạn đã bao giờ nghĩ rằng bạn cũng chưa lần nào được tư vấn
trước việc sinh của bạn không? Sự tồn tại làm cho bạn được sinh
ra, và bạn được sinh ra. Sự tồn tại tạo ra bạn, và bạn được tạo ra.
Nếu toà nhà trở thành có ý thức, nó sẽ nói, ‘tôi’. Nếu nó trở thành
có ý thức, nó sẽ từ chối coi người làm ra nó là người chủ của nó,
là người thầy nó. Toà nhà sẽ nói, “Người xây là người hầu của ta;
người đó đã xây dựng ra ta. Vật liệu là của ta; nó đã phục vụ ta.
Ta sẵn lòng được tạo ra, cho nên người đó đã làm ra ta.”
Nhưng toà nhà không có tâm thức. Con người có. Và thực ra,
ai biết được liệu toà nhà có tâm thức hay không? Điều đó là có
thể; điều đó có thể là vậy. Có hàng nghìn mức độ tâm thức. Tâm
thức của con người là một loại đặc biệt, không nhất thiết mọi vật
có cùng loại tâm thức. Toà nhà có thể có tâm thức thuộc loại
khác, đá có thể có loại khác nữa, cây loại khác nữa. Có thể là
chúng nữa sống trong cái ‘tôi’ riêng của chúng. Khi người làm
vườn tưới cây, có thể cây không nghĩ, “Người làm vườn này
đang cho ta cuộc sống,” mà thay vì thế, “Ta đang biểu lộ quí mến
với người làm vườn này bằng việc chấp nhận phục vụ của người
đó. Qua ân huệ của ta, ta chấp nhận phục vụ của người đó.”
Không ai đã bao giờ lại gần cây cối để hỏi về ham muốn của nó
được sinh ra.

Điều tuyệt đối ngớ ngẩn là gọi điều đó là việc sinh của tôi
khi nó được gây ra không có ham muốn của tôi. Đâu là nghĩa
trong việc nói là sinh thành của tôi, mà về nó tôi chưa bao giờ
được hỏi đến trước sự sinh thành của tôi? Khi cái chết tới, nó
không hỏi sự cho phép của chúng ta. Cái chết sẽ không hỏi chúng
ta, “Anh muốn gì? Anh có đi cùng tôi hay không?” Không, khi
nó tới, nó tới theo cách riêng của nó, giống như việc sinh tới mà
không có việc biết của chúng ta về nó. Cái chết tới không gõ cửa,
không cần sự cho phép của chúng ta, không lời hướng dẫn,
không báo trước, và đứng yên tĩnh trước chúng ta; và nó không
cho chúng ta phương án khác, không chọn lựa. Nó không do dự
thậm chí đến một giây, dù chúng ta ước muốn gì. Thật là ngu si
hết mức để mà nói cái chết của tôi cho cái mà tôi không ham
muốn hay sẵn lòng ít nhất.

Việc sinh thành đó không phải là sinh thành của tôi mà trong
đó không có chọn lựa về phần tôi. Cái chết mà với nó sự sẵn lòng
của tôi là không có liên quan, không phải là cái chết của tôi. Cho
nên làm sao cuộc sống nằm giữa hai đầu này có thể là của tôi
được? Làm sao khoảng thời gian ở giữa đó là của tôi được, khi cả
hai đầu không tránh khỏi của nó - mà không có chúng tôi không
thể tồn tại được - không phải của tôi? Đấy là lừa dối - lừa dối mà
chúng ta cứ làm mạnh thêm, quên đi hoàn toàn sinh và tử. Nhưng
nếu chúng ta tư vấn nhà tâm lí về vấn đề này, người đó sẽ nói,
“Ông cố tình quên chúng đi, vì chúng là những kí ức buồn thế.”
Khi việc sinh ra không phải là của tôi, tôi trở thành tội nghiệp và
đáng thương làm sao. Khi cái chết không phải là của tôi, mọi thứ
bị giằng khỏi tôi, không cái gì được giữ. Tay tôi vẫn còn trống
rỗng. Chỉ có tro tàn còn lại.
Chúng ta dựng lên cây cầu cuộc sống dài giữa hai đầu này,
giống như chiếc cầu bắc qua con sông; nhưng không bờ sông nào
là của chúng ta cả. Mố cầu tại cả hai đầu không phải là của chúng
ta. Cho nên nghĩ một chút: Làm sao cây cầu trải rộng từ bờ nọ sang bờ bên kia
ngang qua con sông đó có thể là của chúng ta
trong khi nền tảng của nó không phải là của chúng ta? Do đó
chúng ta cố gắng quên đi việc sinh và tử - những nền tảng của
chúng ta.

Nhiều người quên nhiều việc một cách cố ý. Người đó cố
gắng không nhớ, vì việc nhớ có thể phá tan tất cả bản ngã của
người đó và làm nó nát vụn. “Thế thì cái gì sẽ là của tôi đây?”
Cho nên chúng ta kìm việc suy nghĩ về sự sinh và tử, và điều này
tạo ra khả năng hiểu lầm lớn rằng tất cả những cái chúng ta thấy
trong cuộc sống là của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho bản
thân mình khám phá và xem xét điều ta thấy, chúng ta chắc chắn
phát hiện ra rằng nó không phải là của chúng ta.
Bạn nói, “Tôi đã rơi vào tình yêu với ai đó,” không xem xét
liệu chuyện tình đó có là quyết định của bạn hay không. Nghe
điều những người yêu nhau nói: “Chúng mình không biết khi nào
nó xảy ra. Chúng mình đã không làm cho nó xảy ra.” Thế thì làm
sao cái là của chúng ta nhưng đã xảy ra theo ý riêng của nó
được? Nếu nó xảy ra, nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra, nó không
xảy ra.
Chúng ta bị phụ thuộc thế, bị điều chỉnh thế, dường như đâu
đó mọi thứ bị cố định và tất định. Hoàn cảnh của chúng ta là
tương tự như hoàn cảnh của một con vật bị buộc vào cọc qua
chiếc dây thừng. Con vật sẽ đi vòng tròn quanh chiếc cọc và sẽ
sống trong việc hiểu sai rằng nó đang tự do vì nó đang tự do đi
vòng tròn. Nó sẽ quên mất chiếc dây thừng, vì việc nhớ tới điều
đó là đau đớn; chiếc dây thừng buộc vào cọc làm cho chúng ta
đau đớn vì nó nhắc nhở chúng ta về sự phụ thuộc của mình. Chân
lí là ở chỗ nó bảo chúng ta rằng chúng ta không là cái ta thực của
mình.

Chúng ta không đáng để bị phụ thuộc, ta hãy một mình xem
xét vấn đề trở nên tự do. Phụ thuộc vào người ta - tức là cảm thấy
sự dày vò của chiếc dây thừng - là cần thiết để nhận biết về bản
thể người ta; và nhận biết rằng chúng ta không có đó. Con vật đi
lang thang quanh chiếc cọc cố định, lúc sang trái, lúc sang phải
và nghĩ, “Tôi tự do,” và khi nó nghĩ, “Tôi tự do”, cái “tôi’ có đấy.
Thế rồi, dần dần, nó phải bắt đầu tự thuyết phục mình rằng, “Đấy
cũng là do ý muốn của tôi mà tôi bị buộc vào cột. Tôi có thể cắt
dây ra bất kì khi nào tôi muốn, nhưng tôi đang nghĩ về hạnh phúc
của mình.”
Chúng ta tạo ra biết bao nhiêu ảo tưởng trong các kiếp sống
của mình. Chúng ta nói, “Tôi trở nên giận dữ, tôi làm tình, tôi
không thích, tôi ghét, tôi làm bạn, tôi trở thành kẻ thù...” nhưng
không điều nào trong những việc làm này là quyết định của
chúng ta. Bạn đã bao giờ trở nên giận dữ và là người làm ra giận
dữ đó không? Bạn chưa bao giờ làm như vậy cả. Khi có giận dữ,
bạn không có đó. Bạn đã bao giờ làm tình mà việc làm tình do
bạn làm không? Nếu bạn có thể làm tình, thế thì bạn có thể làm
tình với bất kì ai; nhưng sự kiện là ở chỗ bạn có thể yêu ai đó và
bạn không thể yêu người nào đó khác. Bạn có thể làm tình với ai
đó thậm chí khi bạn không muốn làm, và bạn không thể làm tình
với ai đó thậm chí khi bạn muốn làm như vậy.

Tất cả mọi cảm giác và xúc động của cuộc đời đều đến từ
một góc không biết nào đó - chúng tới như việc sinh của bạn tới.
Bạn xâm lấn bừa vào việc xảy ra này và trở thành người chủ,
người làm ra nó. Vậy mà bạn đã làm cái gì? Cái gì có đó do bạn
làm ra? Cảm giác đói đến; giấc ngủ đến; buổi sáng việc thức kéo
đến; và buổi tối mắt bạn bắt đầu nhắm lại lần nữa. Tuổi thơ đến.
Khi nào nó đi qua? Nó trôi qua như thế nào? Nó không hỏi chúng
ta, nó không đi vào tư vấn và thảo luận với chúng ta, và nó không
chậm trễ trong việc trôi qua một khoảnh khắc, ngay cả liệu chúng
ta có yêu cầu nó làm như vậy hay không. Thế rồi tuổi thanh xuân
trôi qua, và tuổi già bước vào. Bạn đang ở đâu? - nhưng bạn cứ
nói, “Tôi là thanh niên, tôi là người già,” cứ như tuổi thanh niên phụ thuộc vào
bạn. Tuổi thanh niên của bạn có hoa riêng của nó.
Tuổi già có hoa riêng của nó nữa; và chúng nở như hoa nở trên
cây. Bụi hồng không thể nói, “Tôi làm cho hoa hồng nở.” Nó chỉ
có thể nói như thế nếu nó có khả năng làm cho hoa hướng dương
nở!

Đừng tính công trạng nào về mọi điều xảy ra này. Nếu có
hồn nhiên trong tuổi thơ, nó có đó mà không có nỗ lực nào về
phần bạn. Và khi dục và những ham muốn khác bắt giữ bạn trong
tuổi thanh niên, chúng làm như vậy hệt như hồn nhiên bắt giữ
bạn trong tuổi thơ. Bạn không là người chủ của hồn nhiên tuổi
thơ của mình, không là người chủ của ham muốn dục của tuổi
thanh niên của bạn, và đừng coi nó là thành tựu của bạn khi tâm
trí bạn bắt đầu nghiêng về phía vô dục trong tuổi già. Nó giống
như thế này: dục bắt giữ bạn trong tuổi thanh niên, và dửng dưng
bắt giữ bạn trong tuổi già. Những người chưa bao giờ là nô lệ cho
dục không có kiểm soát gì trên sự kiện đó. Cho nên bản thân
đừng tự hào về sự kiện là bạn không phải là nô lệ cho dục.
Xem xét mọi nguyên tử nhỏ bé của cuộc sống và bạn sẽ nhận
ra rằng không có chỗ đứng cho cái tôi - bản ngã. Thế thì tại sao
chúng ta đang tạo ra ảo tưởng này? Nó xảy đến như thế nào? Lừa
dối này đến từ đâu? Nó tới bởi vì chúng ta bao giờ cũng cảm thấy
rằng có một phương án. Chẳng hạn, bạn xúc phạm tôi. Bây giờ
tôi có hai phương án: tôi có thể xúc phạm trả lại bạn; hay tôi có
thể bỏ qua nó, cho rằng việc xúc phạm là không có đó chút nào.
Tức là, tôi có thể chọn đáp lại nếu tôi muốn, và nếu tôi không
muốn, tôi có thể chọn không đáp lại. Nhưng thực có phương án
nào không? Bạn có cho rằng người đáp lại xúc phạm cũng có thể
đã chọn không xúc phạm, nếu người đó muốn không? Bạn sẽ nói:
Nếu người đó không muốn làm như vậy, người đó không cần
phải đáp lại xúc phạm ấy. Nhưng bạn sẽ phải đi sâu thêm chút ít
để hiểu điều này. Phải chăng ham muốn đã có trong người đó,
hay người đó đem nó ra từ đâu đó? Phải chăng ham muốn xúc
phạm hay không xúc phạm nằm dưới kiểm soát của người đó?
Những người tìm kiếm bên trong nói rằng điều mà các chiều
sâu lộ ra chỉ là ở chỗ những việc xảy ra đi ra ngoài kiểm soát của
chúng ta. Người nghĩ tới xúc phạm, và người đó xúc phạm.
Người khác quyết định không xúc phạm, và người đó không xúc
phạm. Nhưng từ đâu ý tưởng này về việc đưa ra hay không đưa
ra xúc phạm lại tới? Nó có phải là ý tưởng của bạn không?
Không, nó tới từ nơi việc sinh tới. Nó tới từ nơi tình yêu hiện
hữu. Nó tới từ nơi tâm thức hiện hữu. Nó trở về từ nơi cái chết
hiện hữu. Nó được hấp thu nơi hơi thở đi qua.
Dễ dàng tự lừa dối mình bằng việc nói, “Đây là tay tôi, nó
đang dưới sự kiểm soát của tôi. Nếu tôi muốn, tôi sẽ không xúc
phạm.” Nhưng ai đã bảo bạn, ai đã yêu cầu bạn, xúc phạm?
Người như Phật và Mahavira sẽ không đưa ra xúc phạm. Bạn có
cho rằng họ đơn giản chọn việc cảm thấy xúc phạm không?
Không; cũng như bạn kinh nghiệm một tình huống cố định và
không tránh khỏi trong việc phải xúc phạm, Phật và Mahavira
cũng kinh nghiệm một tình huống không thay đổi được tương tự
về không cảm thấy xúc phạm. Họ không thể chọn, cho dù họ
muốn, để cảm thấy xúc phạm. Bản thân ham muốn đó không
được tạo ra.

Một người tới gặp một thiền sư vào sáng sớm và bắt đầu hỏi
thiền sư tại sao ông ấy là bình thản và yên tĩnh thế, trong khi bản
thân người đó khuấy động và rối loạn thế. Thiền sư trả lời, “Ta
bình thản và ông khuấy động, có vậy thôi. Vấn đề qua rồi. Không
cái gì cần nói thêm .”
Người này cứ nài nỉ, “Không tôi muốn biết làm sao thầy trở
nên bình thản thế.”
Thiền sư trả lời, “Ta muốn biết làm sao ông trở nên khuấy
động thế.”
Người này trả lời, “Khuấy động đến theo ý của nó chứ.”
Thiền sư nói, “Điều đó đích xác đã xảy ra với ta. Bình thản
tới với ta theo ý riêng của nó, và ta không tính công nào cho nó.
Khi khuấy động tới, nó tới. Ta không thể làm gì để dừng nó lại,
và bây giờ, khi bình thản tới với ta, ta không thể làm bất kì điều
gì để đem khuấy động tới dù ta muốn đem nó tới, cho nên ta bị
giới hạn bởi tình huống.”
Người này nói, “Không, xin thầy chỉ cho tôi cách bình thản
và yên tĩnh.”
Thế là thiền sư nói, “Ta chỉ biết có một cách, và đó là thế
này: vứt bỏ ảo tưởng của ông rằng ông có khả năng làm bất kì
cái gì về nó. Nếu ông trở nên bị khuấy động, vẫn còn bị khuấy
động. Biết rằng ông đang bị rối loạn và rằng ông không thể làm
được gì về nó. Nó ở ngoài kiểm soát của ông. Đừng làm nỗ lực
để bình thản. Ngay cả những người làm nỗ lực để bình thản đều
trở nên bị khuấy động và rối loạn. Họ trở nên bị khuấy động, và
trong nỗ lực của họ để trở nên bình thản họ tạo ra sự không thoải
mái mới trong bản thân mình.”
Nhưng người này khăng khăng, “Lời khuyên của thầy không
định được tâm tôi; tôi muốn bình thản.”
Thiền sư nói, “Thế thì ông nhất định vẫn còn bị khuấy động
bởi vì ông muốn cái gì đó. Ông từ chối để vấn đề này cho
Thượng đế, trong khi sự kiện là ở chỗ mọi thứ đều phụ thuộc vào
ngài; không cái gì ở trong điều khiển của ông. Ta trở nên bình
thản từ ngày ta bắt đầu sẵn lòng chấp nhận bất kì cái gì xảy ra,
bất kì cái gì đến với ta. Ta có thể không bình thản khi ta ham
muốn và cố trở thành cái gì đó.”
Nhưng người này không chấp nhận điều thiền sư đã nói,
“Tôi ghen tị với bình thản của thầy,” người đó nói. “Tôi không
thể vẫn còn thoả mãn với giải thích của thầy.”
Thế là thiền sư yêu cầu người đó đợi và đặt câu hỏi cho
người đó khi không có ai trong lều của mình, vì ông ấy có nhiều
khách thăm. Người này đồng ý, và khi không còn ai trong lều
người đó yêu cầu thầy chỉ cho người đó cách thức. Thế rồi thầy,
đưa ngón tay lên môi anh ta, nói, “Tĩnh lặng.”
Người này thấy rất phân vân. Người đó nói, “Khi có người ở
đây và tôi xin thầy trả lời, thầy bảo tôi hỏi khi không có ai ở đây;
và khi không có ai ở đây và tôi hỏi thầy câu trả lời thầy bảo tôi
giữ tĩnh lặng. Làm sao vấn đề của tôi sẽ được giải quyết?”
Trời tối, mặt trời đã lặn, và mọi người đã đi hết. Túp lều
trống rỗng, và người này lại tìm câu trả lời. Thiền sư yêu cầu
người đó đi ra ngoài. Trăng tròn toả sáng. Thiền sư hỏi, “Ông có
thấy những cây này không?” Nhưng cây nhỏ đang mọc ở phía
trước túp lều.

Người này đáp, “Tôi thấy chúng.”
Lần nữa thầy hỏi, “Ông có thấy những cây xa xa kia không,
vươn cao lên trời ấy?”
Người này nói, “Tôi thấy chúng.”
Thế rồi thiền sư nói, “Những cây kia to cao. Những cây này
nhỏ thấp. Không có xung đột gì giữa chúng. Ta chưa bao giờ
nghe nói tới bất kì tranh cãi nào giữa chúng về vấn đề này.
Những cây nhỏ này không bao giờ hỏi những cây cao tại sao
chúng cao; chúng thoả mãn với cái nhỏ bé của chúng. Cây cao
cũng không bao giờ hỏi những cây nhỏ tại sao chúng nhỏ. Cây
cao có khó khăn riêng của chúng, như chúng phát hiện ra khi có
bão. Cây nhỏ cũng có vấn đề của chúng nữa, nhưng chúng bằng lòng với cái nhỏ bé
của mình, cũng như cây cao bằng lòng với
cái cao của mình. Ta chưa từng nghe nói gì về tranh cãi giữa hai
loại cây này; ta bao giờ cũng thấy chúng tĩnh lặng. Cho nên xin
rời khỏi ta. Ta là cái ta đang vậy, và ông là cái ông đang vậy.”
Nhưng làm sao người đó thoả mãn được với ví von đó? Và
làm sao chúng ta được thuyết phục? Tâm trí bao giờ cũng ham
muốn là cái gì đó. Tại sao nó hành xử như vậy? Đấy là vì chúng
ta bao giờ cũng coi là đương nhiên chúng ta có thể làm điều gì
đó. “Không,” Ishavasya nói, “bạn không thể làm được điều gì cả.
Bạn không thể là người làm.” Điều này là bí mật của một ý tưởng
lớn được gọi là định mệnh. Định mệnh không có nghĩa là bạn
không nên làm gì. Điều đó sẽ là ngồi tĩnh lặng - và định mệnh nói
rằng bạn thậm chí không thể ngồi theo ý chí riêng của mình. Nếu
định mệnh đặt bạn ngồi, chỉ thế thì bạn có thể ngồi. Định mệnh
làm cho việc “tôi sẽ không làm gì cả” trở thành không thể được
đối với bạn. Nếu định mệnh muốn bất kì việc không làm nào, thế
thì việc không làm sẽ xảy ra.

Xin nhớ trong tâm trí, không có một người theo thuyết định
mệnh nào trong số những người dường như theo định mệnh. Họ
nói, “Mọi thứ đều trong tay của định mệnh. Chúng ta có thể làm
được gì nào? Cho nên chúng ta không làm gì.” Chính sự tồn tại
của ý tưởng là chúng ta không làm gì cả có nghĩa là cảm giác về
việc làm vẫn còn hiện hữu. Khái niệm về định mệnh toàn bộ có
nghĩa là chúng ta không có. Không có cách nào để làm bất kì cái
gì. Nó là sự tồn tại.

Khi chúng ta không thể làm được bất kì cái gì, khi chúng ta
không thể là người làm, thế thì liệu sẽ có 'cái của tôi', cái gì của
tôi không? Chúng ta sẽ nói, “Nó là của tôi” cho ai? Chúng ta có
thể nói, “Đây là con tôi” không? Trông có vẻ như vậy, vì dường
như là, “Tôi đã cho nó sinh thành.” Ảo tưởng như thế xảy ra mặc
dầu không ai đã bao giờ cho ra đời bất kì đứa con nào. Con được
sinh ra, chúng tìm đường của chúng qua bạn. Bạn bắt đầu yêu
một người đàn bà. Tình yêu đó không đến từ bạn, tình yêu tìm
đường của nó qua bạn. Ham muốn dục, tình yêu, khao khát của
thân thể bạn để gặp lẫn nhau - khao khát đó không phải là của
bạn. Nó bị giấu kín trong từng hạt của thân thể bạn, trong từng
sợi lông nhỏ bé nhất trên thân thể bạn. Nó được nén vào trong
từng hạt và nó chèn ép bạn, nó thôi thúc bạn. Cuối cùng, đứa trẻ
được thụ thai, ai đó trở thành mẹ và ai đó trở thành bố của nó. Có
vẻ là họ đã mang đứa trẻ vào hiện hữu. Số phận cười bạn! Nó
cười khoái trá vào bạn. Bạn đã bị làm thành công cụ của việc
sinh: bạn đã không cho nó. Bạn chỉ là bước chuyển. Người mẹ
chỉ là bước chuyển cho cuộc hành trình của ai đó đi vào cuộc
sống. Qua cô ấy, định mệnh cho việc sinh. Bạn đã không làm gì .
Bạn xây ra một toà nhà và nói, “Nó là của tôi.” Nhưng bạn
có quan sát chim cũng làm tổ cho chúng không? Trên thế giới
này ngay cả con vật nhỏ nhất cũng xây dựng chỗ trú ẩn của nó.
Có những loài chim mà mẹ của chúng bay đi sau khi đẻ trứng.
Khi trứng nở, chim con bước ra. Chúng không nhận huấn luyện
của mẹ không có bảo vệ của bố, chúng không tới trường. Và
phép màu là ở chỗ những con chim đó làm tổ đích xác như mẹ
chúng làm, bà chúng làm trước chúng. Tổ ấy không phải là tổ
bình thường; nó bao gồm kĩ năng kiến trúc lớn lao. Nó đẹp đến
mức nếu con người muốn làm một cái tổ như thế thì người đó sẽ
phải học cách làm nó, và ngay cả sau khi học, vẫn khó cho người
đó để xây dựng nó một cách khéo léo đến thế.

Tổ như thế được làm như thế nào? Các nhà khoa học gọi đấy
là chương trình định sẵn. Họ nói có một chương trình định sẵn
trong từng tế bào nhỏ của thân thể con chim. Toàn bộ quá trình
xây dựng tổ được giấu kín trong xương, thịt và mô của chim.
Điều con chim này có thể làm tổ của mình là điều chắc chắn. Nó
sẽ tìm ra đích xác loại cỏ và lá mà mẹ nó đã tìm. Không ai dạy nó; chim mẹ thậm
chí không nhìn tới chim con, và chim con đã
không tới trường. Vậy mà nó sẽ nhặt những cái lá đó và những
cọng cỏ đó và làm nên cái tổ hệt như trước đây mẹ nó và bà nó
làm. Con người cũng xây dựng; mọi loài sinh vật đều xây dựng.
Không có lí do gì để nói, “Nó là của tôi” - tuyệt đối không lí do
nào.

Chúng ta có thể nói về cái gì qua “Nó là của tôi”? Chúng ta
có thể làm đòi hỏi như vậy về của cải không? Mọi con vật đều
tích trữ: chúng làm như thế theo nhiều cách khác nhau, và con
người chắc chắn không phải là kẻ thông minh nhất về điều đó.
Có những con vật khéo léo vượt xa hơn con người trong nghệ
thuật tích trữ. Tại Siberia có gấu trắng: tuyết khắp sáu tháng
trong năm, và con người có khó khăn sống sót trong sáu tháng
đó, nhưng gấu tự bảo vệ nó. Phương pháp tích luỹ của nó thật kì
diệu. Nó không thu thập các thứ, nó thu thập mỡ - đủ để kéo dài
trong sáu tháng. Nó chỉ cứ tích trữ thật nhiều mỡ trong thân thể.
Nó cất giữ nhiều mỡ trong thân thể đến mức nó có thể sống nhờ
số mỡ đó trong sáu tháng này mà trong lúc đó nó ngủ dưới tuyết.
Kho báu của bạn không ở sâu như thế bên trong bạn. Kẻ cắp
có thể đánh cắp nó từ bạn; và để hữu dụng cho bạn, của cải của
bạn phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh. Bạn có thể có của cải, nhưng
nó sẽ không dùng gì được cho bạn nếu thị trường chứng khoán
sụp đổ. Con gấu trắng kia thông minh hơn bạn. Nó tích trữ thức
ăn của mình ngay bên trong người nó, và bởi vì - nằm dưới tấm
chăn tuyết nặng nề - thật bất tiện cho con gấu để nhai, nuốt và
tiêu hoá rồi tạo ra thịt và mô mới, nó cất giữ thức ăn của nó dưới
dạng mỡ mà có thể hấp thu một cách an bình.

Cả thế giới tích trữ. Đừng nghĩ rằng chỉ có bạn làm như thế.
Nó là quá trình tự nhiên. Khi người mẹ cho con bú vú, tự hào cô
ấy cảm thấy là vô căn cứ nào. Không sớm hơn khi đứa con được
sinh ra là vú mẹ bắt đầu đầy sữa, thân thể cô ấy bắt đầu tạo ra
sữa. Nếu đứa trẻ không chịu bú, người mẹ sẽ khó khăn và cảm
thấy rất khó chịu. Chính phúc lành là đứa trẻ bú sữa. Người mẹ
không chủ định chuẩn bị sữa. Việc sinh ra đứa con là một quá
trình tự phát, và như một phần của quá trình này, sữa được tạo ra
trong người mẹ. Khi đứa trẻ lớn lên, dòng dữa mẹ bắt đầu giảm
đi, và khi nhu cầu của nó hết, sữa biến mất.

Tất cả những việc xảy ra này là tự nhiên. Ham muốn tích luỹ
là tự nhiên. Đó là lí do tại sao lời kinh này của Ishavasya nói,
“Prakriti” - Ishavasya gọi điều đó là Thượng đế: mọi thứ là của
Thượng đế. Tự nhiên, số phận, prakriti, tất cả đều là từ mang tính
máy móc; và ngài khổng lồ, tràn đầy bí ẩn, tràn đầy cuộc sống và
tâm thức đến mức ngài không thể có tính máy móc được.
Khoa học cũng xác nhận rằng tự nhiên làm mọi thứ, nhưng
khi chúng ta nói về Thượng đế theo ngôn ngữ của khoa học,
chúng ta trở nên đáng thương; chúng ta trở thành vô giá trị và
máy móc. Khi Ishavasya nói, “Thượng đế làm mọi thứ,” một mặt
bản ngã của chúng ta rơi xuống, và mặt khác chúng ta trở thành
Thượng đế. Điều này là quan trọng; nó đáng được hiểu. Khi khoa
học tiến triển, nó nhấn mạnh rằng con người phải vứt bỏ ảo
tưởng là tôi đang làm. Mọi thứ đều đang xảy ra. Nhưng việc nhấn
mạnh của khoa học là vào mọi thứ đang xảy ra một cách máy
móc. Mọi thứ đang xảy ra như trong một cái máy. Toàn bộ thế
giới hành xử một cách máy móc. Và khi mọi thứ đang xảy ra một
cách máy móc, vị trí con người là đáng thương. Bản ngã của con
người chắc chắn bị đập vỡ, nhưng không cái gì được lộ ra để cho
con người bất kì ý nghĩa hay giá trị nào.

Thật sự, lòng tự hào của con người, bản ngã của con người,
là một hiện tượng rất không có ý nghĩa và nhỏ mọn, hệt như ngọn
lửa cháy từ dầu trong một chiếc đèn đất nhỏ. Nó bị khoa học dập
tắt, và có bóng tối sâu xa bao quanh tất cả; nhưng không có mặt
trời mọc lên xảy ra ở chỗ đó. Đó là lí do tại sao lời tuyên bố của Ishavasya là có
giá trị hơn nhiều lời tuyên bố của khoa học. Một
mặt nó dập tắt ánh sáng cháy lờ mờ của bạn và vồ lấy bản ngã
nhỏ bé của bạn, bằng việc nói, “Tắt đi! Bạn không có, và sợ của
bạn là không cần thiết!” và mặt khác nó cho sinh thành một siêu
mặt trời. Trong một khoảnh khắc, từ một phía nó nói, “Bạn
không có,” và lập tức, từ phía bên kia, nó đặt cho bạn ở vị trí của
Thượng đế. Từ một mặt nó vồ lấy bạn và tẩy sạch bạn hoàn toàn,
và từ mặt khác nó tặng cho bạn cái toàn thể. Nó dập tắt ngọn đèn
đất của bản ngã, ngọn lửa lờ mờ nặng mùi, mùi dầu lửa đầy khói,
nhưng thay vào đó nó cho bạn ánh sáng rực rỡ, chói lọi của mặt
trời. Nó tẩy sạch cái tôi, bản ngã, nhưng đặt chúng ta ở cái ta cao
nhất - Thượng đế!

Đây là khác biệt giữa chiều hướng của tôn giáo và của khoa
học. Khoa học xác nhận cùng những sự kiện mà tôn giáo xác
nhận, nhưng nhấn mạnh của khoa học và vào máy móc. Tôn giáo,
trong khi thảo luận về cùng thứ, đặt nhấn mạnh vào tâm thức,
vào trí huệ, vào việc sống; và nhấn mạnh này là quan trọng. Nếu
khoa học phương Tây thành công, con người chung cuộc sẽ trở
thành cái máy; và nếu tôn giáo ở phương Đông thành công, con
người cuối cùng sẽ trở thành Thượng đế. Cả hai đều phá huỷ bản
ngã, nhưng khoa học làm giảm cấp con người trong quá trình
này.

Quãng trăm rưởi hay hai trăm năm trước đây, khoa học bắt
đầu tuyên bố lần đầu tiên rằng con người là loài vật bất lực. Khi
Darwin nói với loài người, “Quên rằng bạn đã được Thượng đế
tạo ra đi; bạn đã tiến hoá từ loài vật, từ loài thú,” bản ngã của con
người bị đập mạnh lần đầu tiên - với một cú bùm! Con người đã
từng tin rằng mình là con của Thượng đế, là sự sáng tạo của
Thượng đế, mặc dầu người đó không có bằng chứng nào về điều
đó. Thế rồi bất thần lại hoá ra là người bố không phải là Thượng
đế, mà là con vượn! Đấy hẳn phải là một cú sốc lớn lắm. Một cú
sụp đổ tan tành! Khoảnh khắc trước đã có Thượng đế, ngồi trên
ngai vàng cao nhất, và chúng ta là con của ngài, và khoảnh khắc
tiếp chúng ta được chứng minh là con cháu của khỉ. Điều này thật
rất đau đớn cho con người; nó tác động tới con người nhiều lắm.
Cho nên khoa học đã tuyên bố lần đầu tiên rằng con người nên
quên tất cả về việc là người và nên tự coi mình như con vật, con
thú đi. Tất cả mọi nỗ lực của con người để nuôi dưỡng bản ngã
của mình đều bị đập tan tành.

Nhưng một cuộc hành trình một khi đã bắt đầu, dù theo
chiều hướng nào, cũng không kết thúc trước khi nó được hoàn
tất; nó tìm kiếm cái kết thúc của nó. Thật khó để dừng lại ở mức
con vật. Ban đầu khoa học tuyên bố rằng con người là một loại
thú; thế rồi, sau khi nghiên cứu thêm về bản chất của loài vật,
khoa học thấy rằng con vật là máy.

Bạn quan sát con rùa bò. Bạn sẽ thấy rằng khi cái nhiệt tăng
lên, rùa bò vào bóng râm. Bạn sẽ nói nó bò đến đó bởi vì nó cảm
thấy nóng quá. Khoa học bác bỏ điều này. Khoa học chế tạo ra
rùa máy. Chúng được đặt dưới ánh mặt trời, và chúng cứ ở đấy
chừng nào mà nhiệt còn không lớn lắm; nhưng ngay khi nhiệt
tăng lên, chúng bắt đầu bò. Chúng bò vào trong bụi cây, chỗ
bóng râm. Những con rùa này chỉ là những thứ máy móc - điều gì
đã xảy ra cho chúng? Khoa học gọi nó là điều kiện tự cân bằng -
cách thức mà theo đó thông báo được đưa ra cho bất kì thay đổi
có ý nghĩa nào về nhiệt độ. Không có tâm thức tham dự vào đó
chút nào. Bạn thấy bướm đêm bay vào ngọn lửa đèn. Nhà thơ mô
tả nó là một kẻ yêu đương mù quáng, điên cuồng với ngọn lửa, hi
sinh cả mạng sống của mình cho tình yêu của nó. Nhà khoa học
sẽ không chấp nhận điều này; với ông ta không cái gì giống như
tính điên khùng trong sự kiện này. Tất cả chỉ là máy móc. Ngay
khi con bướm nhìn thấy ngọn lửa thì cánh của nó bắt đầu nghiêng
về ngọn lửa. Họ tạo ra các con bướm máy, và để chúng bừa bãi
trong bóng tối. Thế rồi họ bật đèn lên, và lập tức các con bướm
này xô về cái đèn.

Cho nên khoa học đã xác minh rằng các con vật đều là máy;
và kết luận cuối cùng về chúng là đáng ngạc nhiên. Trước hết các
nhà khoa học đã xác minh rằng con người bị hạ xuống loài vật;
rồi họ xác minh rằng con vật giống như máy: phán xét cuối cùng
của họ là ở chỗ con người là máy. Một cách tự nhiên, có chân lí
nào đó trong biện luận này. Điều tốt là họ đã đập tan bản ngã của
con người, nhưng khi làm như vậy, họ thu con người về trạng
thái của cái máy - con người thoái hoá thành cái máy. Với con
người việc nghĩ theo cách này là nguy hiểm, và đã chứng tỏ là có
hại. Những người như Stalin và Hitler có thể đẩy hàng triệu
người vào chỗ chết bởi vì họ coi con người như cái máy và do
vậy trái tim của họ không xúc động bởi việc tàn sát.
Bây giờ xét tình huống đáng quan tâm này. Krishna đã nói
trong Gita rằng linh hồn con người là bất tử, nó không chết, cho
nên giết kẻ thù của bạn không tạo ra khác biệt gì. Stalin cũng có
thể nói rằng vì con người là máy, không linh hồn, nên cũng
không hại gì trong việc giết anh ta. Khi Krishna nói với Arjuna
rằng linh hồn là bất tử và sẽ không chết dù bạn cố gắng đến đâu,
tác động lên Arjuna là ở chỗ người đó trở nên dịu đi khi giết kẻ
thù của mình. Nhưng kết quả của hai hành động này hoàn toàn
khác nhau. Khi tính bất tử của linh hồn được chấp nhận, câu hỏi
về cái chết trở thành vô nghĩa. Stalin hài lòng đẩy hàng triệu
người vào cái chết; nhưng với ông ấy thì không có cái gì như linh
hồn chút nào, không cái gì sai được thực hiện vì con người chỉ là
cái máy.

Có thể không có phản đối việc phá huỷ cái máy. Nếu bạn
đập cái máy bằng chiếc gậy, ngay cả người bất bạo hành cũng
không thể buộc tội gì bạn về việc phạm bạo hành. Bên ngoài, kết
quả dường như tương tự, nhưng chúng không như nhau, vì ý
nghĩa thực sự của những kết quả này là rất khác và thay đổi toàn
bộ nghĩa trong mỗi trường hợp. Khoa học cho rằng tự nhiên làm
mọi việc. Khoa học không chỉ đập tan bản ngã con người, mà còn
làm thoái hoá con người; khi tôn giáo đập tan bản ngã con người,
nó nâng con người lên một mức cao hơn và đưa tiễn con người
trên cuộc hành trình đi lên.

Lời kinh này nói bản ngã bạn sẽ biến mất nếu bạn dừng việc
gọi mọi thứ là của bạn. Coi nó tất cả đều là của sự tồn tại đi.
Đừng nuôi dưỡng ham muốn về của cải của bất kì ai. Sau rốt, tại
sao? Khi không còn cái gì là của tôi, thế thì cũng không có cái gì
là của bạn. Cẩn thận, bởi vì lời kinh này, “Đừng thèm muốn;
đừng ham muốn giầu có của người khác,” đã bị hiểu sai nhiều
lắm: nó đã bị diễn giải không đúng đến mức người ta có thể trở
nên bị lúng túng sâu sắc.

Phần lớn những người bình luận đã giải thích nó là: “Ham
muốn của cải của người khác là tội lỗi, cho nên đừng nuôi dưỡng
ham muốn như thế.” Nhưng họ có vẻ ngu, vì phần đầu của lời
kinh nói rằng của cải không thuộc vào ai cả; nó là của sự tồn tại.
Phần thứ nhất của lời kinh này nói, “Khi nó không phải là của
tôi, làm sao nó có thể là của bạn được?”
Không. Không, nghĩa đúng đắn của nó là thế này - rằng bạn
không nên ước ao của cải của người khác bởi vì của cải không
phải là của tôi cũng không phải là của bạn. Cơ hội cho ham muốn
tồn tại chỉ khi, vì nó có thể là của bạn, nó cũng có thể là của tôi;
bằng không ham muốn không có nền tảng nào để đứng . Các
chuyên gia trong khoa học về luân lí đã giải thích điều ấy như có
nghĩa là ngay cả việc nghĩ đến của cải của người khác cũng là tội
lỗi; nhưng vì nó không thể là của tôi thì làm sao nó có thể là của
người khác được?

Không chuyên gia về đạo đức nào có thể nắm được nghĩa
thực của lời kinh này. Nó là tinh tế và sâu sắc. Nhà đạo đức học
lo lắng khi thấy rằng không ai ăn cắp tài sản của người khác; khi
không ai coi là của mình cái thuộc về người khác. Nhưng nhấn
mạnh của ông ta vào tài sản của người khác chỉ là mặt trái của nhấn mạnh cuả ông
ta vào cái của riêng ông ta. Nhớ lấy, người
nói, “Đây là của bạn,” chưa thoát khỏi khái niệm, “Đây là của
tôi,” vì hai khái niệm này là hai mặt khác nhau của cùng một
đồng tiền. Chừng nào cảm giác này vẫn cứ còn, “Toà nhà này là
của tôi,” phần tương ứng của nó, “Toà nhà này là của bạn,” sẽ
vẫn tiếp tục: và khi cảm giác về toà nhà ‘của tôi’ biến mất, làm
sao cảm giác tương ứng về toà nhà ‘của bạn’ còn lại được?
Không ao ước tới của cải hay tài sản của người khác không có
nghĩa là tài sản thuộc về người khác, cho nên ham muốn nó là tội
lỗi; nghĩa thực của nó là ở chỗ tài sản và của cải không thuộc vào
ai cả - của cải thuộc vào một mình sự tồn tại: chính bởi vì điều
này mà việc ham muốn là tội lỗi. Đừng coi cái gì là của tôi hay
của bạn, đừng xem bản thân mình là người chủ, và đừng cố đánh
cắp từ người khác - vì đó là coi cái gì đó như của anh ta. Chúng
ta không thể đánh cắp mà cũng không thể giữ được cái gì. Tất cả
nó đều là của sự tồn tại, và cái là của sự tồn tại chúng ta không
thể thu được cũng không tích trữ được.

Ý tưởng sở hữu nhộn làm sao! Tôi đặt một tấm biển lên một
mảnh đất nói rằng nó là của tôi. Mảnh đất đó đã có ở đó từ trước
khi tôi được sinh ra. Nhìn vào hành động này của tôi, mảnh đất
đó phải cười phá lên, vì nhiều người trước tôi cũng đã từng dựng
lên những tấm biển như thế mà nói nó là ‘của tôi’ - và mảnh đất
chôn vùi tất cả họ. Họ được chôn vùi nơi bạn đang ngồi bây giờ
đây! Có ít nhất là mười nấm mồ ở chỗ mỗi chúng ta đang ngồi.
Khó mà còn tấc đất nào trên mảnh đất này mà có thể không chứa
mồ của mười người. Biết bao nhiêu người đã được sinh ra và đã
chết đi trên thế giới này mà có thể ít nhất mười người đã được
chôn vùi dưới từng tấc đất. Mảnh đất đó biết hoàn toàn rõ rằng
người yêu sách khác đó cũng đã dựng lên những tấm biển như
thế trên nó. Nhưng không cái gì dừng con người lại; như người
đó vậy, người đó sẽ vẫn cứ cắm biển của mình lên, và người đó
không muốn thấy rằng người đó đang thêm tên mình vào một cái
biển cũ, được sơn vẽ đè lên. Người đó không muốn thấy rằng ai
đó khác sẽ phải nhận cùng rắc rối ngày mai. Thực ra, tất cả
những công sức này không là gì cả. Mảnh đất đó phải cười to!
Cho nên đừng ước ao của cải của người khác, vì nó không
thuộc vào người nào. Tôi không đơn giản ngụ ý rằng việc chiếm
của cải của người khác là có tội với cách xem xét làm cho nó
thành của bạn. Điều là tội lỗi ở ngay chỗ đầu tiên khi xét nó là
của người đó hay của bạn. Nó là tội lỗi khi coi nó là của bất kì ai.
Nó chắc chắn là tội lỗi nếu lấy cớ quyền sở hữu của bất kì ai trừ
của sự tồn tại. Nếu bạn có thể hiểu cách diễn giải này, thế thì và
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu thấu nghĩa sâu xa và tinh tế
của Ishavasya. Bằng không nghĩa rõ ràng của những lời kinh này
là ở chỗ mỗi người phải sở hữu vững chắc của cải của riêng mình
và, để bảo vệ quyền lợi của riêng mình, phải quảng bá đi mọi
phương rằng không ai được ước ao của cải của người khác.
Đây là lí do tại sao Marx và những người khác theo cách
nghĩ của ông ấy đã không sai khi họ cảm thấy rằng mọi tôn giáo
đều đưa ra bảo vệ cho người giầu có, phong lưu, bởi vì những
diễn giải của lời kinh này đã bị sai lạc và không đúng. Từ những
giải thích này dường như là bạn không nên cố gắng chiếm lấy
của người khác những cái mà người đó là chủ sở hữu. Điều này
rõ ràng xác định ra rằng người chủ có thể nhận được sự giúp đỡ
của cảnh sát để bảo vệ của cải của mình. Cho nên ý định của nó
là để duy trì luật pháp và trật tự, nguyên trạng và ý tưởng về
quyền sở hữu. Nhưng lời kinh này không dự định điều này; chính
lời tuyên bố đầu tiên của Ishavasya là ở chỗ mọi thứ đều thuộc về
sự tồn tại. Một mình sự tồn tại là người chủ. Cả tôi lẫn bạn không
là người chủ, và ý tưởng của chúng ta về quyền sở hữu là ảo
tưởng. Một mình nó là người chủ, người chưa bao giờ tuyên bố,
“Ta là người chủ.” Nó tuyên bố trước ai? Với ai mà nó nói, “Đất
này là của ta?” Để nói như thế ít nhất cần phải có người khác - và
tất cả đều là của sự tồn tại!

Nhớ lấy điều này khi bạn ghi tên mình lên một mảnh đất.
Bạn làm như thế là để cho người khác, để cho người đó có thể
biết rằng đấy là của bạn. Bạn không đặt tấm biển trong rừng rậm.
Và giả sử bạn sống một mình trên trái đất này, tôi cho là bạn
không điên khùng đến mức phải đi dựng biển ở các chỗ khác
nhau. Nếu bạn là người duy nhất sống trên trái đất này, toàn bộ
đất đai là của bạn. Không còn mục đích chút nào trong việc bận
tâm nói như vậy.

Sự tồn tại không đưa ra những công bố như thế vì nó là
người chủ. Tâm niệm điều này nữa; nó là một nghĩa nữa được
hàm chứa trong lời kinh này của Ishavasya: những người đưa ra
lời công bố này không thể là người chủ. Không cần người chủ
phải công bố. Người chủ là người chủ, mặc dầu không có công
bố nào. Chỉ người hầu đưa ra công bố. Nếu một người đưa ra
một đòi hỏi mạnh mẽ về cái gì đó, điều ấy có thể tạo ra một hoài
nghi mạnh tương đương trong tâm trí của người nghe. Khi một ai
đó tuyên bố mãnh liệt rằng của cải là của mình, thế thì đương
nhiên điều đó không thể là của người đó được. Tại sao đòi hỏi
này được đưa ra hùng hồn thế? Chúng ta bao giờ cũng lớn tiếng
trình bầy đòi hỏi về một vật để chứng tỏ rằng nó là của chúng ta
khi thực ra nó không vậy.

Sự tồn tại không đưa ra lời công bố nào. Nó phải làm như
vậy cho ai? Tại sao nó phải công bố? Lời tuyên bố sẽ là vô nghĩa.
Lời tuyên bố, ngược lại, sẽ chứng tỏ rằng điều ấy không phải là
của nó. Tất cả những điều này đều thuộc về nó, kẻ chưa bao giờ
đưa ra lời đòi hỏi nào về nó. Nó không thuộc về bất kì ai đã từng
lên tiếng đòi hỏi về nó. Đừng ao ước của cải của người khác, vì
nó không thuộc vào ai cả - nó tất cả là của sự tồn tại. Đừng coi nó
là của bạn hay của người khác, coi nó là của sự tồn tại: và nhận
biết rằng người khác này, và cả bạn nữa, tất cả đều là của sự tồn
tại - tất cả chúng ta đều là của nó. Cho nên đánh cắp hay tống
tiền là vô dụng, vô nghĩa và không liên quan. Không có kĩ năng
hay nghệ thuật gì trong đó. Nó cũng gần như là lao động bị mất.
Nó là nỗ lực giống như vẽ đường trên nước.

Vẫn còn có một điểm nữa: tận hưởng chúng thông qua từ bỏ
chúng. Người ta nói rằng nếu bạn từ bỏ một vật, bạn có thể tận
hưởng điều đó. Nhưng không, điều đó không phải là tin của
chúng ta. Ngược lại, chúng ta tin rằng chúng ta có thể tận hưởng
chỉ cái chúng ta ôm giữ thật chặt. Nhưng hiền nhân này chỉ dẫn
chúng ta làm điều hoàn toàn ngược. Ông ấy nói rằng chỉ họ có
thể tận hưởng các thứ mà họ từ bỏ chúng. Phát biểu này rất đối
chọi với niềm tin của chúng ta. Chỉ những người từ chối làm
người chủ trở thành người chủ thật. Mọi thứ đều rơi vào trong tay
những người không ham muốn ôm giữ thứ gì.

Một ví von hay là cố giữ không khí trong tay bạn. Bạn có thể
lĩnh hội ý nghĩa thực của lời kinh này - từ bỏ để hưởng thú - nếu
bạn đơn giản cố gắng giữ không khí trong tay mình. Ngay khi
bạn nắm chặt nắm tay, không khí thoát ra ngoài hết. Bạn càng
siết chặt nắm tay bạn càng giữ ít không khí, cho đến cuối cùng
không còn lại không khí nào nữa. Để lỏng nắm tay và không khí
sẽ xô bàn tay để mở của bạn. Bao giờ cũng có không khí trong
bàn tay để mở, nhưng trong nắm tay chặt thì chúng trốn biệt. Một
người để tay mình mở ra bao giờ cũng có đầy không khí; nó
không bao giờ trống rỗng, mọi khoảnh khắc không khí đều tươi
mát. Bạn đã bao giờ quan sát điều này chưa? Bàn tay để mở
không bao giờ trống rỗng, và bàn tay nắm bao giờ cũng trống
rỗng; và nếu một chút ít không khí vẫn còn lại trong nắm tay, nó
là cũ rích và suy tàn. Riêng những người từ bỏ mới có khả năng
tận hưởng.

Trong thế giới này, trong cuộc sống này, con người nhận
được nhiều khi người đó sẵn sàng cho đi và buông bỏ. Đây là
ngược đời - nhưng mọi qui tắc của cuộc sống đều ngược đời.
Chúng không đối lập; chúng là ngược đời. Chỉ dường như chúng là đối lập. Người ao
ước được tôn vinh và kính trọng trên thế giới
này chắc chắn tìm thấy hổ thẹn và bất kính. Người ham muốn
được giầu có, nhưng khi người đó bắt đầu tích luỹ của cải, người
đó trở thành nghèo nàn và hèn hạ bên trong, khi người đó có vẻ
giầu có bên ngoài. Người nghĩ hay mơ về tính bất tử lo âu về sợ
chết cả hai mươi bốn tiếng một ngày. Cái chết không bao giờ tới
viếng thăm nhà của người luôn sẵn lòng đón chào nó: người sẵn
lòng gặp gỡ cái chết nếm những giọt cam lồ, trong khi người sợ
hãi cái chết chết đi từng giờ mỗi ngày. Người ấy chết đi mọi lúc
bởi vì người ấy không biết chút nào về cuộc sống là gì. Người
nói, “Ta sẽ trở thành người chủ,” sẽ sớm trở thành kẻ nô lệ; và
người nói, “Ta sẵn lòng là kẻ nô lệ,” sẽ là người chủ vô hạn.
Nhưng đấy là những phát biểu mâu thuẫn cho nên rất khó để hiểu
chúng, và khi chúng ta cố gắng diễn giải chúng, chúng ta làm
điều ấy theo cách để chúng ta được cứu giúp trong cái ngược đời
trong chúng - và do đó chúng ta bỏ lỡ vấn đề.

Do vậy mọi người đã hiểu nhầm những lời kinh này. “Tận
hưởng qua từ bỏ” đã đi tới ngụ ý là nếu bạn làm việc từ thiện,
bạn sẽ được thưởng ở cõi trời. Cho người ăn mày ngồi bên bờ
sông Hằng một vài xu và bạn sẽ được thưởng hàng nghìn lần
hơn. Không có cái gì khác trên thế giới này bị đối xử tệ bạc như
những lời kinh này, và tương tự, không ai bị đối xử bất công như
những hiền nhân này - bởi vì khó hiểu được họ theo đúng tinh
thần của họ. Thay vì vậy, chúng ta diễn giải họ theo cảnh quan
của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta hiểu lời kinh này: nếu bạn
đem cái gì đó đi làm việc từ thiện, bạn sẽ được lên cõi trời sau
khi chết. Nhưng chú ý: lời kinh này nói, “Người từ bỏ, nhận
được.” Nó không nói: “Người từ bỏ với quan điểm để nhận được,
sẽ nhận được.” Thực ra, người từ bỏ với quan điểm để nhận
được, là không từ bỏ, vì người đó chỉ tìm cách để nhận được
phần thưởng.

Người làm điều từ thiện ở đây trên thế giới này là để cho
người đó có thể nhận được phần thưởng trên cõi trời không từ bỏ
cái gì cả. Người đó đơn giản siết chặt nắm tay của mình cho
tương lai. Nếu được hiểu đúng, hành động của người đó không
chỉ là siết chặt nắm tay trên thế giới này, mà còn siết chặt nó cả
trong thế giới tiếp nữa. Người đó đang nói với người khác bằng
hành động của mình, “Hành động này là không quan trọng lắm ở
đây, nó hoàn toàn thông thường, nhưng nó rất quan trọng ở kia,
trong thế giới tiếp.” Nếu người đó hoàn toàn chắc chắn, nếu
người đó một trăm phần trăm chắc chắn rằng người đó sẽ được
thưởng trong thế giới tiếp vì hành động tốt của mình trên thế giới
này, thế thì người đó được chuẩn bị để làm việc đầu tư nào đó.
Người đó được chuẩn bị để chịu rủi ro một số tài sản của mình
nếu người đó được đảm bảo đầy đủ về phần thưởng của người đó
trong thế giới tiếp.

Không, người như vậy đã không hiểu thấu được nghĩa này
chút nào. Đấy không phải là điều lời kinh này đang nói. Nó đơn
giản nói, “Người từ bỏ, nhận được.” Nó không nói, “Từ bỏ để
cho bạn có thể nhận được trong tương lai.” Một người có con mắt
chỉ chăm chăm vào đầu nhận được cái gì đó không bao giờ có thể
nghĩ dưới dạng từ bỏ được. Khi người đó dường như là từ bỏ,
đấy không phải là từ bỏ mà là đầu tư. Người đó đơn giản thay
đổi vấn đề tài chính để thu được nhiều hơn. Nếu một người đầu
tư một triệu vào một nhà máy, đấy có thể được gọi là làm điều từ
thiện không? Chắc chắn không. Người đó đang đầu tư với ham
muốn để kiếm được một triệu rưởi. Rồi người đó có thể đầu tư
một triệu rưởi. Đấy là từ thiện chăng? Vậy là người đó cứ tiếp
tục, cứ đầu tư ngày một nhiều để cho người đó có thể có một cái
nắm chặt hơn vào tài sản của mình. Người đó muốn ngày càng
nhiều hơn. Người thực hành từ thiện với quan điểm để thu lại
được cái gì là không hiểu nghĩa của từ thiện.

Lời kinh này đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp rằng
người từ bỏ, tận hưởng. Nó không nói, “Từ bỏ nếu bạn muốn tận
hưởng.” Nó công bố rằng nếu bạn có thể từ bỏ, thế thì bạn có thể
tận hưởng; nhưng nếu bạn đang nuôi dưỡng ý tưởng về tận
hưởng, bạn có thể không bao giờ từ bỏ.

Đây là lời kinh tuyệt diệu. Nó tuyên bố ngay từ đầu rằng mọi
thứ là của sự tồn tại: điều này bao hàm việc từ bỏ. Cái gì còn lại
đó để sở hữu và nắm giữ đối với người đã hiểu rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại? Không cái gì còn lại để mà sở hữu. Từ bỏ là
đầy đủ - và người đã nhận ra điều này, người đã từ bỏ mọi thứ và
có bản ngã đã tan biến, là bản thân sự tồn tại; và việc trở thành sự
tồn tại là bắt đầu tận hưởng. Người đó được hội nhập vào trong
tận hưởng tối cao, được hấp thu vào trong phúc lạc tối cao.
Người đó bắt đầu kinh nghiệm tận hưởng tối cao đó từ khoảnh
khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Mọi hạt nhỏ bé nhất trong cuộc
sống người đó bắt đầu nhảy múa. Cái gì còn lại để được tận
hưởng đối với một người đã trở thành bản thân sự tồn tại? Người
đó bắt đầu tận hưởng mọi thứ. Mọi thứ! Bầu trời bao la, hoa nở,
mặt trời mọc, sao đêm, nụ cười và tiếng cười - tất cả đều trở
thành đối tượng phúc lạc của người đó. Tận hưởng tối cao đó bây
giờ tự nó trải rộng về mọi phía cho người đó. Người đó bây giờ
là người chủ và người sở hữu của không cái gì, nhưng theo mọi
chiều hướng đều có sự trải rộng của tận hưởng, và từ khắp xung
quanh, người đó uống nước cam lồ thiêng liêng.

Tôn giáo là tận hưởng. Khi tôi nói điều này - rằng tôn giáo là
tận hưởng - nhiều người trở nên bất ổn bởi vì khái niệm của họ
về tôn giáo là ở chỗ nó là từ bỏ. Nhớ trong tâm trí, người nghĩ tôn
giáo là từ bỏ sẽ phạm phải sai lầm về đầu tư. Vậy mà bản chất
của cuộc sống là từ bỏ. Cuộc sống là từ bỏ. Điều cực kì ngu xuẩn
là ôm giữ bất kì cái gì trong cuộc sống. Sai lầm lớn là nắm giữ
chặt; trong khi làm như vậy người ta mất đi cái mà người ta đáng
thu được. Trong khi nói rằng, “Đó là của tôi,” con người đánh
mất cái người đó đã là.

Mọi thứ rơi rụng đi theo ý của nó từ người đã nhận ra rằng
mọi thứ đều là của sự tồn tại. Thế thì không còn lại gì cho người
đó để từ bỏ. Nhớ lấy, hành động từ bỏ là không thể được với
người nói, “Đó là của tôi.” Nếu một người nói, “Tôi đang từ bỏ
điều này,” điều đó chứa niềm tin rằng vật ấy là của anh ta. Chân
lí là ở chỗ anh ta, người nói như vậy không thể từ bỏ được, vì các
khái niệm của người đó về của tôi và cái của tôi vẫn còn dai
dẳng. Người duy nhất có thể từ bỏ được là người có thể nói,
“Không cái gì là của tôi; tôi có thể từ bỏ cái gì?”
Trước khi từ bỏ cái gì đó, người ta phải có cái đó. Nếu tôi
nói, “Tôi cho bạn bầu trời,” bạn sẽ cười vào tôi và nói, “Trước
hết phải quyết định rằng bầu trời mà thầy đem cho đó là của thầy
đi đã.” Tương tự tôi có thể nói, “Tôi làm điều từ thiện cho bạn
hành tinh Sao Hoả đấy.” Điều này tương đương với điều vô
nghĩa; nó phải là của tôi trước khi tôi có thể làm điều từ thiện với
nó. Ảo tưởng về từ bỏ này xảy ra cho người đang ấp ủ các khái
niệm về cái của tôi. Không, từ bỏ không xảy ra chỉ bởi hành động
bỏ đi cái gì đó. Nó xảy ra chỉ trong việc nhận ra chân lí rằng mọi
thứ thuộc về sự tồn tại. Thế thì việc từ bỏ xảy ra - nó không phải
được thực hành.

Từ bỏ là kinh nghiệm, là việc nhận ra sự kiện rằng tất cả đều
là của sự tồn tại. Bây giờ không cái gì còn lại để được từ bỏ. Bây
giờ ngay cả bản thân bạn, người tranh đấu để từ bỏ, cũng không
được dự trữ lại. Bây giờ không còn lời đòi hỏi về bất kì cái gì có
thể quan niệm được về từ bỏ. Toàn bộ phúc lạc tới với người có
việc từ bỏ mang bản chất này. Tất cả cái tinh tuý, tất cả cái đẹp
đẽ, tất cả nước cam lồ của cuộc sống bây giờ là của người đó. Do
đó lời kinh này nói rằng người đó, người từ bỏ, đạt được mọi thứ.
Người đó, người làm trống rỗng bản thân mình, người buông xuôi ngay cả cái tôi
của mình, trở thành người chủ của tài sản vô
tận.

Đủ cho lời kinh này. Chúng ta sẽ nói thêm nữa vào tối nay.
Xin lưu ý tới một vài điều hướng dẫn về thiền sáng trước khi
chúng ta bắt đầu. Điểm thứ nhất là thế này: Bất kì cái gì tôi đã
nói tất cả đều là thiền. Để bàn tay mở và bạn sẽ được đầy không
khí. Khi bạn kinh nghiệm, khi bạn nhận ra, rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại, bạn sẽ xúc động với phúc lạc bên trong bạn.
Việc thiền này sẽ trong vòng bốn mươi phút. nhắm mắt và
bịt tai hoàn toàn để cho không ánh sáng, không âm thanh nào có
thể đi vào. Trong mười phút đầu thở sâu. Cố gắng hết mức, để
cho tất cả năng lượng của kundalini có thể được khuấy động. Nếu
thân thể bạn bắt đầu nhảy múa, nhún nhảy, quay vòng, cứ để nó
làm như vậy. Đừng lo lắng về nó chút nào. Trong mười phút tiếp,
với vui vẻ bên trong, thảnh thơi thân thể bạn đầy đủ. Thân thể
bạn sẽ muốn nhảy nhót, múa may, cười nói, la hét, kêu khóc, hát
hò. Cho phép nó làm bất kì cái gì nó muốn; hợp tác với nó hoàn
toàn và đầy đủ. Trong mười phút tiếp nữa, tiếp tục hợp tác với
thân thể bạn và đồng thời tự hỏi mình, “Ta là ai?” Cứ hỏi, “Ta là
ai?” cứ như là bạn đang tụng mật chú vậy. Làm điều này với sự
hài lòng, với vui vẻ. Thế rồi, trong bốn mươi phút, một số trong
các bạn sẽ muốn đứng dậy, một số sẽ muốn nằm ra, và số khác sẽ
muốn lăn tròn. Làm bất kì cái gì bạn thích! Cuối cùng, trong
mười phút cuối, vẫn còn im lặng, đợi việc đi vào sự tồn tại bên
trong. Giữ bản thân bạn thật hoàn toàn thảnh thơi và không có
kháng cự gì để cho nó có thể đi vào bạn. Bạn sẽ phải đợi cho điều
đó.

Trước khi chúng ta bắt đầu thực nghiệm của mình, đặt hai
tay lên nhau, và trước sự tồn tại trịnh trọng đưa ra lời nguyện.
Nhắm mắt, đặt hai tay lên nhau, nghĩ về sự tồn tại như nhân
chứng của bạn, và lặp lại lời nguyện này ba lần: “Trong sự hiện
diện của sự tồn tại, tôi nguyện rằng tôi sẽ cố gắng hết sức trong
thiền.”

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

Tất cả đều là phép màu

Om
 Cái đó là toàn thể, và cái này cũng là toàn thể.
Vì chỉ cái toàn thể được sinh ra từ toàn thể;
và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
Chú ý, phần còn lại là toàn thể.
Om.
 An bình, an bình, an bình.

Ishavasya Upanishad bắt đầu và kết thúc với lời kinh này, và
trong nó là tuyên bố về tất cả những gì có thể được nói tới. Nó
hoàn toàn là duy nhất. Với những người hiểu nó đầy đủ, không
cần thêm gì nữa; phần còn lại của Upanishad chỉ dành cho những
ai không hiểu. Do vậy lời cầu nguyện an bình, thường đưa
Upanishad tới việc kết thúc của nó, ở đây được gợi ra tại chỗ
cuối của chính lời kinh đầu tiên. Và với những người đã đi lên
đến đỉnh của hiểu biết, đây là chỗ kết thúc của Ishavasya; nhưng
với những người vẫn còn đang trèo lên, nó chỉ là bắt đầu.
Phần về tính duy nhất của nó nằm trong sự sáng tỏ mà với nó
có phân biệt giữa các phương pháp tư duy và lập luận của
phương Đông và phương Tây. Hai trường phái lập luận đã nở hoa
trên thế giới - một trường phái ở Hi Lạp, và trường phái kia ở Ấn
Độ. Hệ thống logic của Hi Lạp đã cho sinh thành ra toàn thể khoa
học phương Tây, trong khi từ hệ thống Ấn Độ nổi lên tôn giáo.
Khác biệt nền tảng nhất và đầu tiên giữa hai trường phái này nằm
ở phương Tây - Hi Lạp - phương pháp tiến dần tới kết luận. Bất
kì khi nào chúng ta tìm kiếm chân lí về vật chất, câu hỏi đầu tiên
sẽ dẫn qua việc nghiên cứu tới kết luận cuối cùng; đầu tiên, ý
nghĩ và câu hỏi, thế rồi kết luận.

Cách thức Ấn Độ đích xác là cái đối lập. Ấn Độ khẳng định
rằng cái chúng ta định nghiên cứu bao giờ cũng có đó. Nó không
lấy hình dạng như kết quả của việc hỏi của chúng ta, nhưng nó đã
hiện diện thậm chí trước cả khi việc nghiên cứu của chúng ta bắt
đầu. Chân lí mà sẽ trở nên biểu hiện đã có đó trước khi chúng ta
ở trong sự tồn tại. Nó đã có đó trước khi chúng ta khám phá ra nó
hệt như nó có đó khi chúng ta đã làm như vậy. Chân lí không
được hình thành hay được xây dựng qua nghiên cứu của chúng
ta; điều nghiên cứu làm là đem nó vào trong thực tại của kinh
nghiệm chúng ta. Chân lí bao giờ cũng hiện diện. Đó là lí do tại
sao cách thức Ấn Độ về lập luận tuyên bố kết luận ngay từ đầu, và sau đó thảo
luận tới phương pháp và thủ tục; trước hết kết
luận, thế rồi đến phương pháp. Cách thức phương Tây đặt
phương pháp lên trước, rồi điều tra, và cuối cùng kết luận.
Một điểm quan trọng nên lưu tâm: phương pháp phương Tây
rất thích hợp cho những người tìm kiếm chân lí bằng việc suy
nghĩ về nó. Phương pháp lập luận này giống như việc cố tìm ra
điều gì đó trong đêm tối với sự giúp đỡ của chiếc đèn nhỏ. Đêm
tối như mực, và ánh sáng toả ra mờ nhạt trong khoảng một mét
dưới đất. Chỉ thấy được một miếng nhỏ, phần lớn vẫn còn không
thấy được; và kết luận được đưa tới về cái được thấy sẽ là không
dứt khoát. Sau một chốc, khi người ta tiếp tục với chiếc đèn,
thêm một chút ít nữa trở thành thấy được, và cần sửa lại hay thay
đổi kết luận. Khi người ta tiến xa thêm chút nữa, những điều mới
liên tục trở thành thấy được và do vậy kết luận lại bị thay đổi lặp
đi lặp lại.

Đi theo như người ta làm với trường phái logic Hi lạp, khoa
học Phương Tây không bao giờ đạt tới kết luận cuối cùng. Mọi
kết luận của nó do đó đều không dứt khoát, tạm thời, và dựa trên
tri thức thu nhận được cho đến thời hiện tại. Nếu cái gì đó mới
được phát hiện ra ngày mai, sẽ có thay đổi trong kết luận. Đó là lí
do tại sao không chân lí nào được đạt tới bởi phương Tây là tuyệt
đối. Nó là không toàn bộ. Mọi chân lí và kết luận của nó đều bất
toàn. Nhưng chân lí không bao giờ là bất toàn hay không đầy đủ
cả, và bất kì cái gì bất toàn đều sẽ là phi chân lí. Cái kết luận mà
chúng ta cần sửa đổi vào ngày mai thực ra không phải là chân lí
thậm chí cho cả hôm nay! Nó đơn giản có vẻ là chân lí thôi. Cái
một mình nó có thể là chân lí, chúng ta không bao giờ cần thay
đổi. Cho nên các kết luận đã được phương Tây công bố là chân lí
thực sự là phi chân lí dựa trên tri thức thu được cho tới lúc đó và
cần thay đổi theo tri thức thu được vào ngày mai.

Hệ thống lập luận Ấn Độ không giống việc nghiên cứu chân
lí với sự giúp đỡ của chiếc đèn. Nó giống như việc nghiên cứu
đêm tối trong ánh sáng chói lọi của tia chớp, khi mọi thứ đều trở
thành thấy được đồng thời. Không phải là cái gì đó - một phần -
được thấy bây giờ, thỉnh thoảng về sau phần khác, lại cái gì đó
thêm về sau, và cứ như thế; không, cách thức Ấn Độ không giống
điều đó. Trong hệ thống Ấn Độ về nghiên cứu, khải lộ của chân lí
xảy ra ngay một lúc; mọi thứ đều được khám phá ngay lập tức và
đồng thời. Mọi con đường trải rộng đến chân trời, và tất cả - dù là
bất kì cái gì - đều được thấy đồng thời trong chớp loé của tia sét.
Không có phạm vi nào cho thay đổi trong tương lai vì cái toàn
thể đã được thấy.

Phương pháp phương Tây có tên logic nghiên cứu chân lí
bằng quá trình suy nghĩ. Cách thức Ấn Độ, điều chúng ta gọi là
kinh nghiệm hay trí huệ, phơi bầy tất cả mọi thứ ngay một lúc
giống như ánh chớp loé, với kết quả là chân lí hiện ra như nó vậy,
trong tính toàn bộ của nó, không để lại chỗ nào cho thay đổi hay
sửa đổi. Xem như kết quả, không có tiềm năng nào cho việc thay
đổi điều mà Phật hay Mahavira hay Krishna đã nói. Nhưng các
nhà tư tưởng phương Tây - nghiêng về hoài nghi và lo nghĩ - hỏi
liệu điều Mahavira nói hai nghìn năm trăm năm trước đây có thể
vẫn còn đúng cho ngày nay không. Điều hợp lí đối với họ là nêu
ra nghi ngờ như vậy; qua suốt một thời kì như thế chúng tôi phải
đã trông đợi tới hai mươi nhăm nghìn thay đổi nếu chúng tôi đi
tìm chân lí bằng một ngọn đuốc! Những sự kiện mới sẽ xuất hiện
mọi ngày, và chúng tôi buộc phải thay đổi hay biến đổi các sự
kiện cũ. Nhưng chân lí do Mahavira, Krishna hay Phật tuyên bố
là những khải lộ. Chúng không phải là chân lí được tìm ra nhờ
ánh sáng đèn; chúng đã được thấy và được biết và được khải lộ
trong ánh chớp loé chói lọi của tâm trí tĩnh lặng - tâm trí trống
rỗng ý nghĩ. Chân lí mà Mahavira biết đã không được ông ấy
khám phá ra dần từng bước; bằng không ông ấy không thể nào biết được chân lí toàn
bộ ấy. Ông ấy biết nó với tính toàn bộ của
nó trong một khoảnh khắc.

Điều tôi muốn nói với bạn là ở chỗ mọi thứ được khải lộ
trong tính toàn bộ của nó thông qua trí huệ của phương Đông là
được bao hàm trong lời kinh ngắn gọn này. Nó có đấy trong tính
toàn bộ của nó. Đây là lí do tại sao chúng ta ở Ấn Độ vẫn công
bố rằng kết luận là trước nhất và rồi việc hỏi theo sau. Công bố
về chân lí được thực hiện lúc ban đầu, thế rồi chúng ta thảo luận
về cách chân lí có thể được biết, cách thức nó đã được biết tới, và
cách thức điều đó có thể được giải thích. Kinh này là lời công bố
- bản tuyên ngôn. Phần còn lại của cuốn sách này là không bản
chất cho những ai có thể hiểu ý nghĩa đầy đủ từ lời công bố này.
Không cái gì mới sẽ được phát biểu trong toàn bộ Upanishad:
chân lí sẽ được kể đi kể lại mãi theo nhiều cách khác nhau. Phần
còn lại của cuốn sách này là dành cho những người mù loà trước
tia chớp chói lọi của sét, và bướng bỉnh đi tìm kiếm chân lí với sự
trợ giúp của chiếc đèn. Với ánh sáng của chiếc đèn này, chân lí
có thể được nhặt ra từng dòng một trong lời kinh Ishavasya;
nhưng trước hết chủ đề này được trình bày trong tính toàn thể của
nó trong lời kinh vĩ đại này. Đấy là lí do tại sao tôi nói cho bạn
kinh này là duy nhất thế: nó nói mọi điều. Bây giờ chúng ta sẽ cố
gắng hiểu nó.

Nó tuyên bố rằng cái toàn thể được sinh ra từ cái toàn thể, và
vậy mà cái còn lại đằng sau bao giờ cũng là cái toàn thể; đến cuối
cùng cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể; và thậm
chí thế thì cái toàn thể không tăng thêm chút nào, nó vẫn còn như
nó trước đây. Đây là một phát biểu phản toán học rất vĩ đại. P.D.
Ouspensky đã viết một cuốn sách tên là Tertium Organum. Ông
ấy là một nhà toán học có tiếng của Nga, người trong những năm
cuối đời, như một đệ tử của một thầy phương tây xuất sắc,
Gurdjieff, tự mình đã trở thành nhà huyền học. Ông ấy là một
thiên tài toán học, thông minh của ông ấy thấm suốt độ cao và
chiều sâu của đề tài của ông ấy.

Phát biểu đầu tiên ông nêu ra trong cuốn sách tuyệt diệu này
là ở chỗ chỉ có ba tác phẩm vĩ đại về tư tưởng trên thế giới. Tác
phẩm thứ nhất, mang tựa đề Organum, của Aristotle, cha đẻ của
khoa học logic phương Tây. Organum nghĩa là nguyên lí về tri
thức. Cuốn sách thứ hai là của Francis Bacon và có tên là Novum
Organum - nguyên lí mới về tri thức. Và cuốn sách thứ ba là
cuốn của riêng ông ấy, được mang tên Tertium Organum -
nguyên lí thứ ba về tri thức. Ông còn viết tiếp sau phát biểu này
một câu ngắn mà đã từng thách đố cho nhiều người: “Trước khi
cuốn thứ nhất tồn tại, đã có cuốn thứ ba rồi.” Tức là, nguyên lí
thứ ba đã có trên thế giới này trước khi nguyên lí thứ nhất được
phát hiện ra. Cuốn sách thứ nhất do Aristotle viết ra hai nghìn
năm trước đây, cuốn thứ hai do Bacon viết ba trăm năm trước
đây, và cuốn thứ ba mới được viết ra quãng bốn mươi năm trước
đây. Nhưng Ouspensky nói cuốn thứ ba đã tồn tại trên thế giới
này trước khi cuốn thứ nhất được viết ra, mặc dầu ông ấy đã viết
cuốn sách thứ ba này chỉ bốn mươi năm trước đây. Khi bất kì ai
hỏi ông ấy ý nghĩa của phát biểu kì dị, phi logic này, ông ấy trả
lời, “Bất kì cái gì tôi đã viết ra đều không được viết ra bởi tôi. Nó
đã tồn tại trong sự tồn tại rồi; tôi đã đơn giản tuyên bố nó thôi.”
Trái đất này đã dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ trước khi
Newton được sinh ra. Trái đất hấp dẫn hòn đá từ trước sự ra đời
của ông ấy theo hệt như cách nó đã tiến hành từ trước tới nay.
Newton đã không phát minh ra nguyên lí hấp dẫn, ông ấy chỉ làm
lộ nó ra. Ông ấy đã mở ra cái bị giấu kín, ông ấy làm cho mọi
người biết tới cái còn chưa được biết. Nhưng lực hấp dẫn đã có
đấy từ trước Newton; bằng không bản thân Newton đã không thể
có đó được. Newton không thể đã được sinh ra mà không có lực
hấp dẫn. Lực hấp dẫn có thể tồn tại không có ông ấy, nhưng ông ấy không thể tồn
tại không có lực hấp dẫn của trái đất. Nó đã tồn
tại nhưng còn chưa được biết tới trên thế giới thôi.

Ouspensky nói nguyên lí thứ ba của ông ấy tồn tại từ trước
khi nguyên lí thứ nhất đã được biết tới. Nó không được biết tới là
vấn đề hoàn toàn khác; và có lẽ nói nó không được biết cũng là
sai, vì điều Ouspensky đã nói qua cuốn sách của ông ấy đã được
hàm chứa trong lời kinh nhỏ bé này. Cuốn Tertium Organum của
ông ấy là một cuốn sách rất có giá trị. Ông ấy nói rằng chỉ có ba
cuốn sách vĩ đại như thế trên thế giới thôi - và cuốn thứ ba của
ông ấy - cũng không phải là sai. Ông ấy không nói vậy từ điều
hão huyền đâu, đấy là sự kiện. Cuốn sách của ông ấy quan trọng
như thế. Nếu ông ấy không nói như vậy, im lặng của ông ấy sẽ
chỉ là khiêm tốn giả. Nó là sự kiện, cuốn sách của ông ấy là quan
trọng. Nhưng mọi điều ông ấy nói trong đó đều có trong lời kinh
nhỏ bé này của Ishavasya Upanishad.

Trong toàn bộ cuốn sách của mình ông ấy đã cố gắng để
chứng minh rằng có hai loại số học trên thế giới. Một là ở chỗ nói
hai cộng với hai là bốn. Đây là số học đơn giản tất cả chúng ta
đều biết, một tính toán đơn giản kiểm chứng rằng nếu chúng ta
cộng tất cả các bộ phận của một vật, chúng không bao giờ có thể
lớn hơn cái toàn thể của nó. Số học đơn giản nói rằng nếu chúng
ta bẻ một vật thành nhiều mảnh thế rồi cộng các mảnh đó lại,
tổng của chúng không bao giờ có thể vượt quá cái toàn thể. Đây
là một sự kiện đơn giản, trực tiếp. Nếu chúng ta đổi một ru pi
thành một trăm xu, tổng của một trăm xu này không bao giờ có
thể lớn hơn một ru pi được. Nó có thể lớn hơn được không?
Chính số học đơn giản là việc cộng các bộ phận không bao giờ có
thể lớn hơn cái toàn thể. Nhưng Ouspensky nói còn có một toán
học khác, cao hơn, và đó là toán học của cuộc sống. Trong toán
học này, không nhất thiết là hai cộng với hai phải bằng bốn. Lúc
thì hai cộng với hai có thể là năm - hay ba. Trong cuộc sống, ông
ấy bảo chúng ta, tổng của các bộ phận đôi khi vượt quá cái toàn
thể. Chúng ta sẽ phải hiểu điều này rõ ràng hơn chút ít, vì nếu
chúng ta không thể hiểu được nó chúng ta sẽ không có khả năng
hiểu được đầy đủ ý nghĩa của lời kinh đầu tiên và cuối cùng của
Ishavasya.

Một hoạ sĩ vẽ một bức tranh. Giả sử chúng ta ước lượng về
giá vật liệu của anh ta. Mầu giá bao nhiêu? Chẳng nhiều mấy,
chắc chắn. Còn vải vẽ? Cũng không mấy. Nhưng không công
trình nghệ thuật lớn nào, không một bức tranh đẹp nào, đơn thuần
là pha trộn mầu sắc được thêm lên vải vẽ: nó là cái gì đó nhiều
hơn.

Một nhà thơ soạn ra một bài thơ, một bài ca. Tất cả các từ
được dùng trong đó đều hoàn toàn là những từ bình thường
chúng ta vẫn dùng hàng ngày. Có lẽ bạn có thể gặp một hay hai
từ trong đó ít được dùng thường xuyên hơn; dù vậy, chúng ta vẫn
biết chúng. Vậy mà không bài thơ nào đơn giản là tuyển tập các
từ. Nó là cái gì đó nhiều hơn tuyển tập và bố trí từ ngữ. Một
người chơi đàn sitar; hiệu quả được tạo ra trong tim ta khi nghe
những nốt nhạc này của đàn sitar không chỉ đơn thuần là tác động
của âm thanh. Cái gì đó hơn nữa làm chúng ta xúc động.
Chúng ta hiểu hiện tượng đó theo cách này. Trong khi nhắm
mắt, một người chạm vào tay bạn một cách yêu mến. Lần nữa,
cũng người đó chạm vào tay bạn với thất vọng lớn lao. Cái chạm
trong cả hai trường hợp là như nhau. Khi có liên quan tới cái
chạm thể chất, chạm thân thể không có khác biệt căn bản giữa hai
cái chạm này. Vậy mà chắc chắn có một phần tử phân biệt nào đó
trong cảm giác về một ai đó chạm vào chúng ta một cách yêu
mến: cái chạm của người giận dữ là hoàn toàn khác với cái chạm
yêu mến. Và lần nữa, khi ai đó chạm vào chúng ta hoàn toàn
dửng dưng chúng ta chẳng cảm thấy gì trong cái chạm đó. Vậy
mà hành động chạm là như nhau trong tất cả những trường hợp
này. Nếu chúng ta hỏi nhà vật lí, ông ta sẽ đáp rằng mức độ sức ép được sử dụng
trên tay chúng ta từ cái chạm của người khác có
thể đo được - thậm chí cả lượng nhiệt truyền từ tay nọ sang tay
kia cũng có thể đo được. Tuy vậy, tất cả nhiệt, tất cả sức ép, đều
không thể bằng bất kì cách nào phơi bầy ra được liệu một người
chạm vào chúng ta đã làm như vậy từ yêu hay giận. Vậy mà
chúng ta kinh nghiệm khác biệt giữa những cái chạm có khác biệt
về chất. Cho nên chắc chắn cái chạm không đơn thuần là tổng
của nhiệt, sức ép và điện tích được chuyển vận trong tay: nó là
cái gì đó hơn nữa.

Cuộc sống phụ thuộc vào toán học cao hơn. Cái gì đó hoàn
toàn mới, và đầy ý nghĩa, được sinh ra từ tổng của các bộ phận.
Cái gì đó tốt hơn tổng của các bộ phận được tạo ra. Cái gì đó
quan trọng được sinh ra ngay từ những cái thấp nhất. Cuộc sống
không chỉ là số học đơn giản - nó là số học tinh tế và sâu sắc hơn
nhiều. Nó là số học nơi con số trở thành vô nghĩa, nơi qui tắc
cộng và trừ trở thành vô dụng. Người không biết tới cái bí mật
này của cuộc sống, cái nằm bên ngoài số học thông thường của
cuộc sống, sẽ không hiểu ý nghĩa và mục đích của cuộc sống.
Có nhiều điều ngạc nhiên cho lời kinh vĩ đại này. Nó nói
rằng:

Khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
chú ý, phần còn lại là toàn thể.

Theo quan điểm của số học thông thường điều này tuyệt đối
không đúng. Nếu chúng ta loại bỏ một phần nào đó của một vật,
phần còn lại không thể cùng như nó lúc đầu. Cái gì đó ít hơn sẽ
còn lại. Nếu tôi lấy mười đồng khỏi sổ tiết kiệm có một triệu
đồng, tổng số sẽ là cái gì đó ít hơn. Nó sẽ ít hơn thậm chí nếu
mười xu được lấy ra. Phần còn lại không thể bằng với số tiền như
nguyên gốc ban đầu. Một của cải lớn đến đâu cũng có thể - ngay
cả như kho châu báu của Solomon hay Kubla - bị rút bớt nếu chỉ
mười xu bị loại bớt khỏi nó; nó không thể như nó trước đây nữa.
Tương tự, dù một của cải lớn đến đâu, cứ thêm mười xu vào, nó
vẫn lớn ra. Nhưng theo lời kinh này cái toàn thể có thể bị lấy ra
từ cái toàn thể - không chỉ mười xu mà toàn bộ của cải - và phần
còn lại vẫn cứ là toàn thể.

Điều này dường như giống việc lảm nhảm của người điên có
tri thức số học bằng không. Ngay cả người mới bắt đầu cũng biết
rằng một vật sẽ ít đi nếu cái gì đó được lấy ra khỏi nó, không
thành vấn đề lấy ra ít đến đâu; và nếu cái toàn thể được lấy ra; sẽ
không có gì còn lại cả. Nhưng lời kinh này tuyên bố rằng không
chỉ cái gì đó, mà cái toàn thể, vẫn cứ còn lại. Những người chỉ
biết đến logic của hộp tiền tiết kiệm chắc chắn sẽ không hiểu
được hiện tượng này. Hiểu biết dường như từ một chiều hướng
hoàn toàn mới.

Tình yêu của bạn có giảm bớt đi khi bạn đem nó cho ai đó
không? Bạn có kinh nghiệm thấy bất kì sự khan hiếm tình yêu
nào khi bạn cho nó toàn bộ không? Không! ‘yêu’ là từ mà chúng
ta cần để đi tới để hiểu lời kinh này; đây là từ chúng ta sẽ phải
dùng. Dù bạn cho đi biết bao nhiêu tình yêu của mình, cái còn lại
với bạn vẫn nhiều như nó tự nguyên thuỷ. Hành động cho nó đi
không tạo ra thiếu hụt. Ngược lại, nó tăng trưởng, tăng thêm khi
bạn cho nó đi, nó đi vào bạn càng sâu hơn khi bạn phân phát nó
càng nhiều hơn. Khi bạn cho nó một cách tự do, sự giàu có tình
yêu bên trong bạn bắt đầu phát triển. Người đem cho toàn bộ tình
yêu, một cách tự do và không điều kiện, trở thành người sở hữu
tình yêu vô tận.

Số học đơn giản không bao giờ có thể hiểu được rằng khi cái
toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, phần còn lại là toàn thể. Chỉ
tình yêu có thể tìm thấy nghĩa này trong phát biểu này. Einstein
không thể giúp gì được. Tìm kiếm loại trợ giúp đó sẽ là vô dụng.
Thay vì vậy tới Meera hay Chaitanya đi; qua họ có lẽ bạn có thể tìm ra cách thức
của mình để hiểu, vì đây là một chủ đề liên quan
tới cái khác nào đó, chiều hướng không biết, trong đó không cái
gì giảm đi khi bị đem cho. Kinh nghiệm duy nhất bạn có mà có
khả năng làm cho bạn hiểu được điều này trong tia chớp bất thần
của sáng suốt là tình yêu - và trong số một trăm người, chín mươi
chín người trong các bạn là mù với kinh nghiệm này. Nếu, trong
khi cho đi tình yêu của bạn, bạn kinh nghiệm cảm giác về mất
mát, thế thì biết rằng bạn không có kinh nghiệm gì về tình yêu
chút nào. Khi bạn trao tình yêu cho ai đó, và cảm thấy bên trong
bạn rằng cái gì đó đã biến mất, thế thì biết rằng điều bạn đã cho
đi phải là cái gì đó khác. Nó không thể là tình yêu được. Nó phải
là cái gì đó thuộc vào thế giới của đô la và đồng bảng. Nó phải là
thứ đo đếm được điều có thể được định giá theo con số, cân đong
theo số dư và ước lượng theo mét. Nhớ lấy, bất kì cái gì đo đếm
được đều là chủ thể cho luật giảm thiểu. Chỉ cái không đo đếm
được và không dò được sẽ còn như cũ bất kể bao nhiêu thứ bị
lấy ra khỏi nó.

Bạn đã kinh nghiệm rằng tình yêu, khi được trao đi, giảm đi
không? Gần như mọi người đều quen thuộc với nó. Nếu ai đó yêu
tôi, tôi muốn rằng cô ấy không yêu ai khác nữa, vì lập luận của
tôi nói rằng tình yêu bị phân chia là tình yêu bị giảm sút. Cho nên
tôi tìm kiếm trở thành người chủ duy nhất và sở hữu tình yêu của
cô ấy. Yêu cầu của tôi là ở chỗ người yêu tôi phải không trao dù
chỉ một thoáng nhìn yêu đương cho bất kì ai khác; một thoáng
nhìn như vậy là chất độc đối với tôi, vì “tôi biết” rằng bây giờ
tình yêu của cô ấy với tôi sẽ bắt đầu giảm sút đi. Nếu tôi níu bám
vào khái niệm giảm sút tình yêu này, tôi cần phải chấp nhận rằng
tôi không có ý tưởng gì về tình yêu là gì. Nếu tôi có bất kì đánh
giá cao nào về tình yêu đúng đắn, tôi cũng sẽ muốn người yêu
của tôi đi ra và đem tình yêu đó cho toàn thế giới một cách tự do,
bởi vì qua việc cho như thế cô ấy sẽ đi tới hiểu ra bí mật của nó
và điều bí ẩn của nó, và khi cô ấy rơi ngày càng đi sâu hơn vào
trong tình yêu, tình yêu của cô ấy với tôi nữa, cũng sẽ tràn ngập.

Nhưng không, chúng ta dốt nát về toán học cao hơn này.
Chúng ta sống trong thế giới của toán học rất đơn giản nơi mọi
thứ đều giảm sút đi qua phân phát; cho nên điều hoàn toàn tự
nhiên là mọi người sẽ sợ về hành động cho. Vợ sợ chồng cho tình
yêu của anh ấy cho ai đó khác, và chồng sợ rằng vợ mình có thể
yêu người đàn ông khác. Thực tại, nói về chồng hay vợ có thể rơi
vào tình yêu với ai đó khác là bên ngoài vấn đề, vì cái thế khó xử
đó đã tồn tại bên trong gia đình rồi. Khi người mẹ biểu lộ tình
yêu với con trai, chồng cô ấy ghen; và khi bố biểu lộ tình yêu với
con gái, vợ người đó ghen. Căng thẳng phát sinh trong những
hoàn cảnh như thế, vì tình yêu thực vắng bóng. Cái cảm giác mà
chúng ta vẫn gọi là yêu không phải là tình yêu thực.

Kiểm thử thực sự về tình yêu nằm ở chỗ liệu nó có vượt ra
ngoài luật số lượng không. Tình yêu là không đo đếm được. Vứt
bỏ ảo tưởng của bạn rằng tình yêu thực suy giảm khi nó được
chia sẻ. Chướng ngại là ở sự kiện rằng tất cả những kinh nghiệm
khác có sẵn cho chúng ta đều là đo đếm được. Bất kì cái gì chúng
ta có đều có thể đo đếm được; giận của chúng ta, ghét của chúng
ta, và tất cả những tình cảm khác đều có thể đo đếm được.
Kinh nghiệm duy nhất vượt ra ngoài đo đếm là yêu; và yêu
là không được biết với bạn. Đây là lí do tại sao bạn thấy khó hiểu
thế về Thượng đế là gì. Người hiểu tình yêu thực là gì không lo
nghĩ về việc hiểu Thượng đế, vì nếu bạn biết yêu bạn biết
Thượng đế - chúng là một phần và một mảnh của cùng một số
học, chúng thuộc về cùng chiều. Người đã hiểu tình yêu thực sẽ
nói, “Cũng được cho dù tôi không biết đến Thượng đế. Tôi đã
biết tình yêu, thế là đủ. Mục đích của tôi đã được đáp ứng - tôi đã
biết! Tôi đã được điểm đạo vào thế giới cao hơn đó, thế giới mà việc chia sẻ
không đem tới suy giảm, nơi mọi thứ đều được trao
một cách tự do và dư dả, vẫn cứ còn lại với người cho.”
Và nhớ lấy, khi bạn cảm thấy bên trong mình một loại tình
yêu vẫn còn là toàn thể ngay cả sau khi nó đã được trao đi trong
tính toàn bộ của nó, thế thì nhu cầu của bạn về tình yêu của người
khác sẽ biến mất, vì tình yêu của riêng bạn không thể tăng lên dù
bạn có nhận được tình yêu nhiều đến đâu. Tâm niệm rằng cái
không thể bị giảm qua việc đem cho nó đi cũng không thể được
tăng thêm lên qua việc nhận nó. Những hiện tượng này xảy ra
đồng thời. Cho nên cũng nhận biết rằng bạn không có kinh
nghiệm gì về tình yêu chừng nào mà bạn còn cần đòi hỏi nó từ
người khác.

Điều đó không chỉ ở trẻ con mà cả người lớn nữa đấy! - tất
cả chúng ta đều đòi hỏi tình yêu, và cứ thế mà đòi hỏi về nó. Qua
các kiếp sống chúng ta cầu xin tình yêu. Các nhà tâm lí nói rằng
chỉ có một vấn đề trong các kiếp của chúng ta, và đó là nỗi lo âu
của chúng ta về cách nhận được tình yêu từ người khác. Tất cả
mọi căng thẳng của chúng ta, tất cả mọi lo lắng của chúng ta, nỗi
lo sợ và ưu tư đều có thể qui cho duy nhất điều khó xử này; và
khi chúng ta không thể tìm thấy được tình yêu, chúng ta tìm kiếm
cái thay thế. Qua các kiếp sống của mình chúng ta cố gắng để đạt
tới tình yêu; chúng ta ngưỡng mộ mùi thơm của nó, và trong theo
đuổi thường xuyên. Tại sao? Trong hi vọng rằng kho dự trữ tình
yêu của chúng ta sẽ tăng lên nếu chúng ta nhận nó. Và tất cả
những điều này có nghĩa là chúng ta vẫn chưa biết tới tình yêu, vì
cái mà tăng lên trong khi nhận thì không phải là tình yêu. Dù
khối lượng tình yêu mà chúng ta nhận được nhiều đến đâu không
thành vấn đề, tình yêu vẫn cứ còn như nó vậy.
Cho nên người hiểu lời kinh này về tình yêu một cách đầy đủ
cũng hiểu hai sự kiện này. Thứ nhất, dù tôi đem cho nó đi nhiều
đến đâu, tình yêu của tôi sẽ không giảm đi; và thứ hai, dù tôi
nhận được tình yêu nhiều đến đâu, tình yêu trong tôi sẽ không
tăng lên. Cho dù toàn thể đại dương tình yêu xô vào trong tôi,
tình yêu của tôi sẽ không tăng thêm lấy một giọt, không giảm đi
một giọt nếu tôi đem tất cả nó cho đi.

Và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
chú ý, phần còn lại là toàn thể

Toàn bộ vũ trụ này bắt nguồn từ Thượng đế. Nó không nhỏ
đâu - nó là vô tận, vô giới hạn, không biên giới. Nó không có
chiều hướng, vô thuỷ, vô chung. Thượng đế vẫn còn là toàn thể
mặc dầu cái mênh mông như thế đã được sinh ra từ ngài. Và
ngay cả khi tất cả vũ trụ bao la này trở về trong cái toàn bộ cao
nhất đó - sự tồn tại - và một lần nữa lại được nhận chìm vào trong
nó, Thượng đế vẫn còn là toàn thể. Sẽ không có tăng lên không
giảm đi trong nó.

Chúng ta cố hiểu hiện tượng này từ tầm hướng khác. Chúng
ta biết đại dương: nó là một kinh nghiệm được các giác quan
chúng ta thấy và cảm nhận. Nó có thể giảm đi, nó có thể tăng lên.
Bao la như nó, nó không phải là vô giới hạn. Sông chảy vào
trong nó liên tục, và không bao giờ nổi ra. Mây trên trời cứ lấy
nước của nó và mưa rào xuống đất. Không bao giờ có thiếu hụt
nước trong biển. Và cho dù nó có giảm đi, vì nó mênh mông thế,
nó không là vô tận, không vô giới hạn. Hàng nghìn dòng sông
chảy vào trong nó khó làm sai biệt dù chỉ một li nước trong khối
lượng của nó; nó bao la thế. Nó thách thức trí tưởng tượng để
quan niệm cho nổi và khối lượng nước đã được ném vào trong
biển cả mọi khoảnh khắc bởi những con sông như Brahmaputtra,
sông Hằng, sông Amazon. Vậy mà với mọi dáng vẻ biển vẫn còn
là vậy. Ngày tiếp ngày tia nắng mặt trời làm khô nước của nó, và
mây trên trời được sinh ra từ nó. Mặc cho tất cả những thao tác
này biển dường như vẫn còn là hằng số về khối lượng, nhưng điều đó thực ra không
là sự kiện cho hoàn cảnh không tăng hay
giảm. Nó giảm đi và nó tăng lên, nhưng nó bao la đến mức chúng
ta không biết gì về những thay đổi này.

Nếu chúng ta ngẩng mặt lên trời và tìm trong không gian,
chúng ta gặp một kinh nghiệm thuộc loại khác. Mọi thứ đang tồn
tại, tồn tại trong không gian. Chính ý nghĩa của không gian là
một phần tử mà trong đó mọi thứ được hàm chứa. Không gian là
cái mà trong đó tất cả mọi thứ đều được hàm chứa. Cho nên ghi
chép lại, rằng không gian không thể tồn tại bên trong bất kì phần
tử nào. Nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ rằng không gian bản thân
nó phải được chứa bên trong một phần tử nào khác, chúng ta phải
quan niệm về ý tưởng của một không gian lớn hơn nào đó. Tình
huống này trở nên khó khăn, và chúng ta bị buộc vào trong nguỵ
biện mà các nhà logic gọi là hồi qui vô hạn. Điều này là việc lao
vào ngu xuẩn bất tận, trong đó bây giờ chúng ta phải xác định
bản chất của không gian lớn hơn mà trong đó không gian này
được hàm chứa. Câu hỏi trở thành bất tận, vì bây giờ chúng ta cứ
phải hỏi mãi, “Và cái gì là bản chất của phần tử bao quanh?”
Không, chúng ta phải chấp nhận rằng mọi thứ đều được hàm
chứa bên trong không gian, và không gian không bị chứa. Không
gian bao quanh tất cả và không bị bao quanh. Do đó mọi thứ xảy
ra bên trong không gian, nhưng nó không được thêm vào bởi sự
xảy ra; và mặc dầu mọi thứ bên trong nó đều đi đến kết thúc,
không gian không bị giảm đi. Không gian là như nó vậy. Nó vẫn
còn trong cái như thế của nó; nó vẫn còn trong hoàn cảnh riêng
của nó. Bạn xây toà nhà, một lâu đài tráng lệ; sau một thời gian,
lâu đài của bạn sẽ sụp đổ thành đống đổ nát. Cho nên các lâu đài
vươn lên trời xanh sẽ bị thu về mặt đất lần nữa. Không gian sẽ
không bị ảnh hưởng gì; nó không bị bớt đi khi bạn xây lâu đài
của mình, và nó sẽ không tăng lên khi lâu đài của bạn sụp đổ.
Lâu đài được xây dựng bên trong không gian, và tương tự sẽ sụp
đổ bên trong không gian. Những biến cố này không gây khác biệt
gì trong không gian. Có lẽ, thế thì, không gian đem chúng ta tới
gần sự tồn tại hơn: điều này tôi định giải thích cho bạn.
Không gian ở bên ngoài tầm với của chúng ta, nó là không
có chất liệu: và vậy mà, trong khi xây nên một toà nhà hay làm
bất kì vật gì khác, chúng ta có cảm giác về không gian tăng lên
hay giảm đi. Bạn không thể chiếm chỗ tôi đang ngồi, vì tôi đã
chiếm không gian này. Có không gian ở đây mà bạn có thể dùng
nếu tôi không lấp kín nó. Ở một chỗ chúng ta chỉ có thể xây dựng
một toà nhà; chúng ta không thể dựng lên một toà nhà khác tại
cùng chỗ ấy. Tại sao? - vì toà nhà được chúng ta xây dựng đã
dùng không gian đó. Bây giờ nếu toà nhà này đã dùng không
gian đó, có một cảm giác trong không gian đó có thể được nói là
đã bị giảm đi. Chúng ta bị bắt buộc phải xây dựng các toà nhà
chọc trời chính xác bởi vì không gian bề mặt đất bị giảm đi từng
ngày. Khi giá đất tăng lên, các toà nhà được xây dựng cao hơn và
cao hơn và đất trở nên đắt hơn vì ngày càng nhiều đất bị chiếm
giữ. Cho nên, khi không gian có sẵn bị giảm đi, các toà nhà leo
lên cao hơn và cao hơn. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ bắt đầu
xây dựng những toà nhà dưới đất, vì có giới hạn chiều cao cho
điều chúng ta có thể xây dựng.

Chúng ta bận bịu lấp đầy không gian bầu trời của mình, bầu
khí quyển của mình. Càng ngày chúng ta càng lấn lên trời, ngấu
nghiến ngày càng nhiều không gian hơn. Biết bao nhiêu không
gian trống đã giảm đi... Đúng là không gian vô tận trải rộng vào
trong cái trống rỗng về mọi phía. Thực sự không thiếu hụt không
gian chút nào. Nhưng không không gian nào khác có thể được
tạo ra trên đất mà chúng ta đang ngồi. Bất kì chỗ nào các toà nhà
đứng, không gian bị dùng. Không gian đất có sẵn cho chúng ta
còn lại ít hơn nhiều.

Thượng đế là không giới hạn. Thượng đế không giảm đi. Đại
dương, bao la thế với chúng ta, là một giọt tí xíu thế của điều Thượng đế là gì.
Vâng, nó là khổng lồ so với những con sông lớn
như sông Hằng và Brahmaputtra. Tất cả mọi việc chảy của chúng
vào đại dương không tạo ra khác biệt thấy được nào đối với nó;
và vậy mà có khác biệt, mặc dầu nó không thể cân đong hay đo
đếm được. Lớn hơn biển cả và đại dương rất nhiều là bầu trời;
vậy mà đối với chúng ta, điều này nữa cũng có giới hạn. Việc đạt
tới khái niệm về Thượng đế cần thêm một bước nhảy nữa, trong
đó mọi logic, ý tưởng và tưởng tượng sẽ phải bị vứt bỏ.

Thượng đế có nghĩa là sự tồn tại, hiện hữu - điều đơn giản là:
tính đang đấy là thuộc tính của Thượng đế. Bất kì cái gì chúng ta
có thể làm, nó không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của
ngài. Các nhà khoa học có một cách khác để phát biểu chân lí
này. Họ nói, “Không cái gì có thể bị phá huỷ.” Điều này có nghĩa
là chúng ta không thể loại bỏ được bất kì điều gì khỏi tính đang
đấy của nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ một mẩu than, chúng ta
có thể biến nó thành tro, nhưng tro đó sẽ tồn tại. Chúng ta thậm
chí có thể vứt nó xuống biển; nó sẽ trộn lẫn vào trong nước và sẽ
không còn thấy được nữa, nhưng dù hình dạng của nó bây giờ thế
nào, nó vẫn sẽ tồn tại. Chúng ta có thể phá huỷ hình dạng của nó,
nhưng chúng ta không thể phá huỷ tính đang đấy của nó. Tính
đang đấy của nó sẽ vẫn còn mãi mãi. Bất kì cái gì chúng ta cứ
làm với nó, sẽ không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của nó.
Tính đang đấy sẽ vẫn còn. Tất nhiên, chúng ta có thể thay đổi
hình và dạng của nó; chúng ta có thể cho nó hàng nghìn hình
dạng khác nhau - chúng ta có thể biến đổi nó lặp đi lặp lại -
nhưng chúng ta không thể thay đổi cái ở bên trong nó. Cái đó sẽ
còn lại. Nó đã là gỗ hôm qua, nó là tro hôm nay. Nó là đất sét
hôm qua, hôm nay nó là than. Hôm qua nó là than, hôm nay nó là
kim cương. Bao giờ cũng thế, nó vẫn đấy. Không cái gì tạo ra bất
kì khác biệt gì cho nó: nó vẫn còn.

Thượng đế là tính đang đấy trong mọi thứ - hiện hữu của
chúng, sự tồn tại của chúng. Mọi thứ có thể được tạo ra theo bất
kì số lượng nào, nhưng sẽ không có việc bổ sung thêm nào cho
tính đang đấy; chúng có thể bị phá huỷ theo bất kì số nào mà dầu
vậy sẽ không có việc rút bớt trong tính đang đấy. Nó sẽ vẫn còn
như cũ - không hoen ố, không gắn bó và không bị đụng chạm tới.
Khi chúng ta vẽ một đường trên mặt nước, cho dù nó tan
biến ngay khi được vẽ ra, cái gì đó đã xảy ra. Thậm chí không
một đường tạm thời như thế này có thể được vẽ vào trong sự tồn
tại - thậm chí ngần này là không có thể. Lời kinh này nói rằng cái
toàn thể này đã đi ra từ cái toàn thể kia. Cái kia là không biết; cái
này đã biết. Cái này mà thấy được đã đi ra từ cái kia, cái không
thấy được. Cái này mà chúng ta biết được đã đi ra từ cái kia mà
chúng ta không biết. Điều này mà chúng ta kinh nghiệm qua đã
đi ra từ điều kia mà nằm bên ngoài kinh nghiệm của ta.

Hiểu hiện tượng này cho đúng. Bất kì cái gì rơi vào bên
trong kinh nghiệm của chúng ta bao giờ cũng đến từ cái nằm bên
ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Bất kì cái gì được chúng ta thấy
đều nổi lên từ cái không thấy được. Điều chúng ta biết đến từ cái
không biết; và bất kì cái gì quen thuộc với chúng ta đều dẫn ra từ
cái không quen biết. Nếu chúng ta gieo một hạt mầm, cây mọc
lên từ nó. Nếu chúng ta đập hạt mầm và nghiền vụn nó thành
từng mảnh, sẽ không có cây. Sẽ không có dấu vết gì của hoa mà
đáng ra sẽ nở. Sẽ không có dấu vết gì của những cái lá mà đáng
ra sẽ xuất hiện. Chúng tới từ đâu?

Chúng tới từ cái vô hình. Chúng được tạo ra bởi cái vô hình.
Mọi khoảnh khắc cái vô hình đang được biến đổi thành cái hữu
hình, và cái hữu hình đang mất đi vào cái vô hình. Mọi khoảnh
khắc cái vô hạn đi vào trong cái hữu hạn và mọi khoảnh khắc trở
lại từ nó. Cũng hệt như qua trình thở của chúng ta - hít vào và thở
ra. Cái toàn thể của sự tồn tại liên tục hít vào và thở ra. Những
người biết đến bí mật của quá trình thở của sự tồn tại gọi nó là
sáng tạo và triệt tiêu. Họ nói sáng tạo xảy ra khi sự tồn tại hít vào, và triệt
tiêu xảy ra khi sự tồn tại thở ra, và giữa hai hơi thở
này chúng ta trải qua vô hạn kiếp sống. Khi sự tồn tại thở vào rồi
thở ra, chúng ta trải qua vô hạn lần sinh thành, không thể đếm
được số lần chúng ta tới và đi.

Lời kinh này nói lên hai điều. Thứ nhất, đó là cái toàn thể tới
từ cái toàn thể và cái còn lại là cái toàn thể. Thứ hai, đó là khi cái
toàn thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn là cái toàn thể.
Cái toàn thể đó bao giờ cũng vẫn còn trinh bạch, bao giờ cũng
chưa bị động tới. Không cái gì ảnh hưởng tới trinh bạch của nó.
Đây là vấn đề rất khó hiểu. Nó giống như thế này: một đứa trẻ
được sinh ra, nhưng người mẹ vẫn còn trinh. Câu chuyện như thế
đã được kể về Jesus và mẹ của ông ấy, Mary. Sau khi sinh ra
Jesus, Mary được gọi là đức mẹ đồng trinh đầy ân huệ. Câu
chuyện này lan truyền trong những người biết và hiểu về Jesus và
Mary, và nó đích xác giống như sinh thành của sự tồn tại; cái
toàn thể tới từ cái toàn thể.

Ki tô giáo không có khả năng giải thích biến cố này. Người
Ki tô giáo đã bị trở ngại bởi khái niệm về sinh thành đồng trinh.
Họ dốt nát về số học mà có thể để cho người mẹ còn đồng trinh
sau khi đã sinh con. Họ không biết chút nào về số học đó; họ
hoàn toàn dốt nát về toán học cao hơn. Ki tô giáo bị thách đố lớn.
Người Ki tô giáo hỏi, “Làm sao chúng ta có thể giải thích hiện
tượng này được? Điều ấy không thể được - đấy là phép màu!
Điều ấy tuyệt đối không thể được nhưng nó đã xảy ra, Thượng đế
đã cho chúng ta thấy phép màu.”

Bất kì phép màu nào được sự tồn tại trưng ra trong thế giới
này đều được trưng ra bởi mọi khoảnh khắc của nó. Không có
phép màu nào xảy ra trong thế giới này - hay, để thấy nó theo
cách khác, việc xảy ra của mọi khoảnh khắc đều là phép màu. Tất
cả đều là phép màu. Khi cây lớn lên từ hạt mầm, đấy là phép
màu; và khi đứa trẻ được sinh ra từ bụng mẹ, đấy là phép màu.
Không, không có gì lạ ở đây cả: vũ trụ bao la này được sinh ra từ
cái toàn thể, vậy mà cái mà nó tới từ đó không bị động chạm.
Nếu người mẹ đi sâu đến mức bà ấy bị cuốn hút - theo ý nghĩa
của lời kinh này - vào trong cái toàn thể, thế thì đâu là khó khăn
trong việc vẫn còn trinh bạch sau khi sinh con? Nếu người mẹ
hội nhập vào trong lời kinh này, trở thành một với nó, cô ấy có
thể trở thành người mẹ và vẫn còn trinh bạch.

Nhưng người tìm kiếm phải hiểu lời kinh này cho đúng - và
tôi đang nói điều này bởi vì tôi thấy ham muốn của bạn để đạt
tới. Bạn muốn đạt được cái gì đó. Người tìm kiếm thực sự không
nói về tất cả những điều này: sau hết, cái gì có thể xảy ra chỉ bởi
việc nói? Người đó biết rằng người đó không biết; và trong bất kì
hoàn cảnh nào điều gì có thể xảy ra chỉ qua việc biết? Người đó
sống nó. Người đó có ý thức. Có lẽ bạn sẽ hiểu dễ dàng thông
qua thực nghiệm cá nhân hơn là bạn sẽ hiểu qua lời tôi. Cho nên
thực nghiệm đi. Tự tham dự vào trong một hành động thường lệ,
nhỏ bé, và có ý thức vào mọi lúc: Nó đang xảy ra - tôi không làm
nó. Thử nó đi. Thấy nó, trong khi làm bất kì cái gì. Thấy nó trong
khi ăn, thấy nó trong khi bước dọc đường, thấy nó khi bạn đang
giận ai đó. Và nhận biết rằng sự việc đang xảy ra. Đứng đằng sau
và là nhân chứng cho điều đang xảy ra - thế thì bạn sẽ phát hiện
ra bí mật của lời kinh này. Bạn sẽ giữ chìa khoá bí mật trong tay
bạn. Bạn sẽ hiểu rằng cái gì đó đang xảy ra bên ngoài và bạn
đang đứng đằng sau, không động chạm và không liên quan. Như
bạn đã vậy trước khi làm nó, cho nên bạn vẫn còn lại sau đó, và
sự kiện xảy ra ở giữa đến như giấc mơ, và qua đi như giấc mơ.
Với sự tồn tại, luân hồi samsara - bánh xe cuộc sống - không
nhiều hơn mơ. Nếu nó trở thành mơ với bạn nữa, thế thì bạn trở
thành không tách biệt khỏi sự tồn tại. Tôi nhắc : với sự tồn tại,
luân hồi không gì nhiều hơn mơ; và chừng nào luân hồi còn hơn
là mơ đối với bạn, bạn sẽ kém hơn sự tồn tại. Cái ngày luân hồi
trở thành như mơ với bạn, bạn là sự tồn tại. Thế thì bạn có thể
nói, “Ta là Brahman.”

Đây là lời kinh sâu sắc thế. Không ai biết được bao nhiêu bí
mật được hàm chứa bên trong nó. Phần còn lại là toàn bộ ngay cả
khi cái toàn thể được lấy ra khỏi nó. Tâm niệm cả hai điều này -
cái toàn thể còn lại, và cái toàn thể được lấy ra: nó đi toàn bộ, nó
còn lại toàn bộ! Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mọi cá nhân
cũng là sự tồn tại, trong sự toàn bộ. Mỗi và mọi cá nhân, và mỗi
và mọi nguyên tử, là sự tồn tại toàn bộ. Không phải là một
nguyên tử là sự tồn tại bộ phận - không, nó là sự tồn tại trong
toàn bộ. Bởi điều này không được biết tới trong số học thông
thường của chúng ta, có hơi chút khó hiểu.

Nếu bạn đã hiểu rằng cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái
còn lại là cái toàn thể, thế thì tôi có thể nói thêm cho bạn. Cái
toàn thể vô tận đến từ cái toàn thể, và dầu vậy cái còn lại là toàn
thể. Nếu sau khi một cái toàn thể nổi lên, không có khả năng nào
cho cái toàn thể khác xuất hiện, điều đó có nghĩa là một khiếm
khuyết nào đó được gây ra bởi việc sinh thành nên cái toàn thể
thứ nhất. Nhưng nếu, sau khi cái toàn thể thứ nhất nổi lên, cái
toàn thể thứ hai xuất hiện, cũng nhiều như cái toàn thể này, và
cái thứ ba cũng thế - nếu những cái toàn thể liên tiếp cứ nổi lên
và dầu vậy bao giờ cũng có nhiều tiềm năng cho việc nổi lên của
các cái toàn thể - thế thì cái còn lại quả thực là cái toàn thể.
Do đó không phải bạn là một phần của sự tồn tại; nói điều
này là sai lầm. Bất kì ai nói bạn là một phần của sự tồn tại đều
sai. Người đó nói về toán học thấp hơn. Người đó đang nói về cái
thế giới mà hai cộng với hai là bốn. Người đó đang nói về thế
giới của cân đong và đo đếm. Tôi bảo bạn, và Upanishad bảo
bạn, và những người đã từng biết tới chân lí bảo bạn, rằng bạn là
sự tồn tại trong toàn bộ. Điều này không có nghĩa là người hàng
xóm của bạn không phải là sự tồn tại trong toàn bộ.

Không, sự kiện này không thể thay đổi được. Một bông hồng
nở trên bụi cây - và việc nở hoa tới độ cao nhất; nhưng tính toàn
bộ của việc nở hoa của nó không ngăn cản việc nở hoa của nụ
hoa bên cạnh nó. Giúp đỡ và hợp tác trở thành có thể, nhưng
chắc chắn không có cản trở. Một nghìn bông hồng có thể nở tới
độ tròn trịa nhất: tính toàn bộ của sự tồn tại là tính toàn bộ vô tận.
Từ tính toàn bộ vô tận này, các cái toàn thể vô tận có thể được
sinh ra. Từng cá nhân đều là sự tồn tại trong toàn bộ. Từng
nguyên tử đều là vũ trụ bao la này trong toàn bộ; không một chút
xíu khác biệt nào giữa nó và cái toàn thể. Nếu có bất kì khác biệt
nào thế thì nó không bao giờ có thể là cái toàn thể được, thế thì
không có cách nào để làm nó thành cái toàn thể; và nếu nó sẽ trở
thành cái toàn thể, thế thì nó là toàn thể ngay lúc này - chúng ta
dốt nát về sự kiện đó. Khiếm khuyết này đơn giản là trong tri
thức của chúng ta.

Lưu tâm tới lời kinh này trong những ngày sadhana của
chúng ta - công việc chúng ta cùng nhau. Lặp lại cho bản thân
bạn, “Cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái còn lại là toàn thể.
Khi cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể, cái toàn thể
vẫn còn là cái toàn thể.” Tất cả nó đều không tạo ra khác biệt
nào! Nhớ điều này trong tâm trí, và cứ lẩm bẩm nó bên trong bạn
với từng hơi thở của bạn. Mỗi ngày nhiều việc diễn giải của nó sẽ
được khải lộ ra dưới nhiều dạng khác nhau và trong nhiều cách
khác nhau. Giữ lời kinh này trong tâm trí, và khi chúng ta tiếp tục
khám phá nó, cứ để đi sâu hơn mãi vào trong ý nghĩa của nó, và
vào trong ghi nhớ của bạn về nó. Để những quá trình này cứ làm
việc bên trong bạn. Trong bẩy ngày này có thể là vào bất kì lúc
nào cái gì đó có thể xảy ra - bất thình lình lời kinh này có thể bật
ra từ môi bạn, và bạn sẽ cảm thấy cái toàn thể đến từ cái toàn thể,
và cái toàn thể còn lại. Cái toàn thể mất đi trong cái toàn thể và
vậy mà cái toàn thể vẫn còn là cái toàn thể. Không có gì khác biệt
gì cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa một giấc mơ và thế mà
chẳng cái gì thực sự xảy ra cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa
như mơ và vậy mà không cái gì thực sự xảy ra. Tất cả những điều này giống như
đóng kịch, vậy mà cái toàn thể vẫn còn không bị
quấy rối và không bị động chạm tới như bao giờ.

Nhớ lời kinh này nhiều nhất có thể được có thể sẽ có ích cho
bạn. Cố sống theo tinh thần của nó hai mươi bốn giờ một ngày.
Bản chất của Upanishad không thể được hiểu thông qua một
mình tâm trí; nó phải được lĩnh hội bằng việc sống nó. Kinh này
không tuyên bố về lí thuyết; nó trình bầy sadhanas nào đó, những
thực hành nào đó. Nó không chỉ bao gồm những kết luận tới
được với sự giúp đỡ của tri thức; nó tuyên bố kinh nghiệm. Khi
bạn sống với những kinh nghiệm này bên trong bản thân bạn -
cho chúng sinh ra trong bản thân bạn, cho phép chúng đi vào
máu, xương, thịt và các mô của bạn, cho phép chúng hội nhập
vào trong hơi thở của bạn; khi bạn sống trong lắng nghe, nhớ và
lẩm nhẩm về chúng trong lúc trải qua các việc thường ngày của
bạn như thức, đứng, ngồi và ngủ - thế thì, và chỉ thế thì bí mật
của chúng, những cánh cửa của chúng, bắt đầu mở ra cho bạn.
Bạn chỉ được trao cho lời công bố đầu tiên trong lời kinh
này. Họ phải là những người rất xuất sắc đã nói, như họ đã làm,
tất cả những cái có đó để được nói chỉ trong một lời kinh này. Nó
đi tới đầu kết thúc tuyên bố sự lắng xuống của ba dạng đau đớn:
Om. Shanti, shanti, shanti.

Lời kinh này có thể có quan hệ gì với việc làm lắng xuống
của nỗi đau ba lần này? Liệu khổ sở của bất kì ai có kết thúc
được bằng cách tụng niệm công thức nào đó không? Không,
nhưng hiền nhân này nói, “Om!” và điều đó kết thúc vấn đề. Liệu
tất cả mọi khổ sở của bạn có hết không, liệu bạn có trở nên thoát
khỏi chúng bằng việc tụng niệm lời kinh này không?
Nếu nó được tụng niệm trong tất cả sự chân thành, với đầy
hiểu biết, điều ấy là có thể đấy. Nếu nó đơn thuần được đọc ra từ
sách, điều ấy chẳng bao giờ có thể. Điều này là nói rằng nếu nó
được tụng niệm với thái độ, “Mình đã đọc điều này rồi - Mình đã
nghe điều này rồi,” thế thì không cái gì là có thể. Nhưng với
những người đã nói, “Om!” bằng tất cả dũng cảm và bạo dạn của
họ, mọi vấn đề xong rồi. Tất cả mọi khổ của người đã hiểu chân
lí đều được chấm dứt. Tất cả ưu phiền của thân thể, tâm trí và
linh hồn họ đều biến mất. Người như thế vượt ra ngoài ưu phiền.
Bạn nghĩ, “Phải có ý nghĩa nào đó khi ông ấy nói điều này
với sự dễ dàng thế, tin tưởng thế.” Ý nghĩa là thế này: bất kì ai
sống lời kinh này, bất kì ai cho sinh thành ra nó bên trong bản
thân mình, sẽ kinh nghiệm bản thân mình thoát khỏi mọi ưu
phiền, bởi vì chỉ có một loại ưu phiền, chỉ có một nỗi đau - dù đó
là ở mức độ tâm trí, thể chất hay tâm linh; chỉ có một loại thôi, và
đó là bản ngã. “Tôi đang làm điều này - điều này do tôi làm đấy,”
là ưu phiền duy nhất, chướng ngại duy nhất. “Xúc phạm này
nhằm vào tôi - tôi bị lăng mạ vậy ...” Tất cả những sự xảy ra này
tích luỹ quanh cái tôi này. Nhưng khi một vũ trụ bao la như thế
không tạo ra khác biệt gì với sự tồn tại, và để nó không bị động
chạm tới, tôi có phải cho phép những điều tầm thường như vậy
ảnh hưởng tới tôi không? Chẳng lẽ tôi không thể vẫn còn không
bị đụng chạm được sao? Chẳng lẽ tôi không thể đứng sang bên
và nói, “Xúc phạm này đã không được trao cho tôi” sao; và, “Bất
kì điều gì tôi đã làm đều đã được làm rồi. Tôi đã không làm nó.”
Nếu tôi trở thành nhân chứng cho những hành động xảy đến với
tôi và tiến hành từ tôi - nếu tôi dừng là người làm - thế thì những
bí mật kì diệu bắt đầu lộ ra.

Cho nên thử sống lời kinh này trong bẩy ngày này đi. Trong
khi tôi đang nói về Ishavasya Upanishad bạn sẽ nghe kinh này
được diễn giải từ nhiều góc độ khác nhau. Nếu bạn cố sống theo diễn giải tôi đã
nêu ra hôm nay, hiều biết chắc chắn sẽ tới với
bạn; không có điều ngược .

Đây là đủ về lời kinh. Bây giờ tôi sẽ nêu ra một số hướng
dẫn liên quan tới thiền, vì sáng mai chúng ta sẽ bắt đầu thực hành
thiền. Điều đầu tiên phải lưu tâm là trong cả ngày thở thật toàn
bộ hết mức và, bất kì khi nào bạn nhớ ra, hít vào thật sâu hết
mức. Thật nhiều ô xi! Năng lượng bạn giải phóng ra cho công
việc của bạn sẽ tỉ lệ trực tiếp với việc lấy vào hơi thở của bạn.
Rất nhiều năng lượng nằm ẩn trong thân thể bạn. Nó phải được
khuấy động và kích hoạt hướng tới thiền; nó phải được chuyển
kênh vào thiền. Cho nên lời kinh thiền đầu tiên tôi trao cho bạn là
để kích hoạt năng lượng đó. Phương tiện gần nhất và dễ nhất có
sẵn cho bạn là hoạt động thở của bạn.

Ngay khi bạn thức dậy vào buổi sáng và trở lại với ý thức,
bắt đầu thở sâu, vẫn ngồi trên giường. Khi bạn bước đi dọc con
đường, thở sâu nhất có thể được. Làm điều đó chậm rãi, đừng
quá gắng sức mình, thoải mái và vui vẻ - nhưng nhớ, hơi thở của
bạn phải sâu. Nhớ trong tâm vào mọi lúc rằng bạn sẽ dễ dàng đi
vào trong thiền nếu bạn hít thật nhiều ô xi có thể được. Bạn càng
có nhiều ô xi trong máu, trong tim, bạn sẽ thấy việc thiền của
mình càng dễ hơn. Bạn càng tống ra nhiều các bô níc, thiền càng
dễ dàng hơn cho bạn. Cái không thuần khiết giảm đi khi bạn làm
tăng khối lượng ô xi trong thân thể mình. Điều thú vị là biết rằng
tâm trí thấy nó khó vận hành nếu cơ sở của sự không thuần khiết
của thân thể bị loại bỏ. Cơ hội cho ý nghĩ nảy nở trong tâm trí
bạn sẽ ít đi khi bạn hấp thu nhiều không khí tươi mát; và như tôi
đã bảo bạn, điều này sẽ làm tăng thêm tiềm năng cho lời kinh
giống thế này nở bung và đâm hoa bên trong bạn.

Cho nên điều thứ nhất là: thật nhiều ô xi. Để có thừa thãi ô xi
trong bạn đi. Nhớ điều này trong suốt bẩy ngày này. Hai hay ba
điều sẽ xảy ra nếu bạn làm điều này, nhưng đừng sợ chúng. Khi
bạn bắt đầu thở sâu, giấc ngủ của bạn sẽ ngắn hơn. Điều này
không phải là cái gì đó phải lo âu. Khi giấc ngủ sâu và say, việc
kéo dài của nó giảm đi, và khi bạn bắt đầu thở sâu hơn, chiều sâu
của giấc ngủ của bạn cũng sẽ tăng lên. Đây là lí do tại sao những
người làm việc vất vả về thể lực ngủ say thế trong đêm. Chiều
sâu của giấc ngủ của bạn sẽ tăng lên tỉ lệ với chiều sâu của hơi
thở của bạn, và khi chiều sâu giấc ngủ của bạn tăng lên, việc kéo
dài của nó cũng sẽ giảm đi. Đừng lo lắng về điều này. Nếu bây
giờ bạn ngủ bẩy tiếng, nó sẽ trở thành bốn hay năm tiếng. Đừng
lo lắng về điều đó - bạn sẽ tỉnh dậy vào buổi sáng sảng khoái
hơn, vui vẻ hơn và mạnh khoẻ hơn từ giấc ngủ năm tiếng này so
với bạn vẫn thường tỉnh dậy sau khi ngủ tám tiếng. Cho nên khi
giấc ngủ của bạn tới điểm kết thúc vào buổi sáng - và điều này sẽ
bắt đầu xảy ra sớm hơn nếu bạn đã thở sâu - bạn nên dậy ngay
lập tức. Đừng bỏ lỡ khoảnh khắc phúc lạc ấy của buổi sáng; dùng
nó cho thiền.

Điểm thứ hai cần nhớ là ở chỗ bạn càng ăn ít thức ăn, và bữa
ăn càng nhẹ, càng tốt hơn cho bạn. Giảm số lượng thật nhiều cho
thoải mái nhất có thể được. Nhịp độ thiền của bạn sẽ càng nhanh
chóng và dễ dàng hơn nếu bạn ăn càng ít đi. Tại sao có điều này?
Có một số lí do có căn cứ cho nó đấy. Thân thể chúng ta có một
số thói quen đã lắng đọng. Thiền không nằm trong số đó; nó là
công việc mới cho thân thể. Thân thể có những liên kết cố định.
Nếu thói quen đã thành hình của thân thể bị ngắt tại bất kì điểm
nào, thế thì thân thể và tâm trí chúng ta có thể hình thành thói
quen mới một cách dễ dàng. Giả sử bạn là người lo âu, và bắt đầu
gãi đầu theo thói quen. Bây giờ nếu tay bạn bị buộc xuống vào
lúc đó để cho bạn không thể gãi đầu được, thế thì bạn không thể
còn bị lo âu. Điều này rất thách đố. Bạn có thể hỏi, “Cái gì là mối
quan hệ giữa lo âu và gãi?” Câu trả lời là thói quen. Thân thể giữ
thói quen của nó một cách bền vững và vận hành qua chúng.
Ăn là thói quen được bắt rễ sâu nhất của thân thể; nó là sâu
nhất bởi vì không thể có cuộc sống nếu không có nó. Nhớ điều
đó trong tâm trí, nó mạnh mẽ hơn và có uy lực hơn dục. Trong
mọi thói quen bắt rễ sâu của cuộc sống, thói quen ăn uống là sâu
nhất. Nó bắt đầu từ ngày đầu của cuộc đời và tiếp diễn cho đến
ngày cuối cùng. Chính sự tồn tại của cuộc sống, bản thân thân
thể, phụ thuộc vào nó.

Cho nên, nếu bạn muốn thay đổi thói quen của tâm trí và
thân thể bạn, thế thì làm yếu đi cái thói quen sâu xa nhất này
ngay lập tức. Ngay khi bạn làm điều này, mọi lề thói và cách bố
trí thể chất cố định của thân thể bạn sẽ bị khuấy động, và bạn sẽ
thấy dễ dàng hơn để đi vào những miền mới, và đi vào những
tầm hướng mới với thân thể bạn trong hoàn cảnh đã khuấy động
này; bằng không bạn sẽ thấy càng khó khăn hơn. Cho nên tự bản
thân bạn cam kết nhiều nhất có thể được theo chiều hướng này
đi. Bạn có thể chọn nhịn ăn, hay có lẽ ăn một bữa một ngày. Làm
như bạn chọn; không cần qui tắc. Một cách yên tĩnh, và với nhịp
độ của bạn, đi theo con đường dễ dàng nhất cho bạn.
Điểm thứ ba là tập trung. Bạn phải thở sâu hai mươi bốn giờ
một ngày, và đồng thời nhận biết về việc thở của bạn. Chú ý tới
việc thở của bạn, và tập trung sẽ dễ dàng xảy ra. Khi bước đi,
đem nhận biết vào việc bước, đem nhận biết vào khi tắm. Tập
trung có thể dễ dàng được đạt tới - ngay cả khi bước đi trên
đường. Theo cách này: hít vào, bạn quan sát rằng hơi thở từ bên
ngoài đi vào bên trong - chăm chú! Giữ việc quan sát hít vào
cũng quan sát cả việc thở ra của mình. Nếu bạn chăm chú bạn
cũng sẽ có thể thở sâu. Nếu bạn không chăm chú bạn sẽ quên
quan sát, và quá trình thở của bạn sẽ trở thành nông. Nếu bạn cứ
thở sâu bạn sẽ có khả năng vẫn còn chăm chú vì bạn sẽ phải
chăm chú để làm việc thở sâu. Cho nên kết hợp thiền với thở. Khi
bạn đang làm việc gì đấy, nếu bạn cảm thấy việc ấy không thể
giữ được chú ý của bạn vào việc thở, thế thì giữ tập trung của bạn
vào nhiệm vụ của bạn. Chẳng hạn, khi bạn đang ăn thức ăn, tập
trung đầy đủ vào hành động ăn. Lấy mọi miếng nhai với tập
trung đầy đủ. Khi bạn đang tắm, tập trung vào nước đang phun
lên người bạn. Khi bước trên đường, tập trung vào từng bước bạn
đi.

Chìm ngập bản thân bạn vào tập trung trong hai mươi bốn
giờ một ngày trong bẩy ngày này. Việc thiền chúng ta sẽ thực
hiện ở đây là hoàn toàn tách biệt, nhưng tôi đang giải thích cho
bạn về nền tảng của điều bạn cần phải làm trong thời gian còn lại.
Cho nên thực hành ba điểm này: thật chăm chú, thật tập trung -
và đặc biệt vào việc thở của bạn, vì việc thở là quá trình không
dừng, hai mươi bốn tiếng một ngày. Không ai có thể cứ ăn hay
bơi hay bước liên tục hai mươi bốn tiếng, nhưng thở tiếp diễn
không dừng, cho nên việc tập trung có thể được thực hành trên
nó vào mọi lúc. Tập trung vào nó! Quên đi rằng có cái khác đang
diễn ra trên thế giới. Sống dường như chỉ một điều đang xảy ra
trên toàn bộ thế giới này, và đó là việc thở vào và việc thở ra.
Thế là đủ; đi theo quá trình thở đi vào và ra giống như chuỗi hạt.
Bạn tập trung chỉ vào điều này.

Điểm thứ tư là tước đi cảm giác. Ba điều cần phải được làm.
Nếu bạn cảm thấy có khả năng giữ im lặng trong cả ngày, thế thì
bắt đầu ngay đi; và nếu bạn thấy điều này là khó, thế thì thật vắn
tắt trong việc nói của bạn. Hiểu rằng bạn đang phải trả giá cho
từng lời bạn nói. Cho nên đừng nói quá hai mươi từ trong cả
ngày. Chỉ nói khi tuyệt đối cần thiết, khi không thể tránh được -
giống như vấn đề sống và chết! Bạn không thể tưởng tượng nổi
sẽ ích lợi thế nào cho bạn để giữ im lặng toàn bộ - giá trị của nó
không thể tính nổi.

Cho nên để cho bản thân bạn là im lặng toàn bộ; bạn sẽ
không thấy điều ấy là khó. Để một tờ giấy và bút chì cạnh mình
và nếu bạn thấy tuyệt đối bản chất, viết ra thông điệp của bạn rồi chỉ nó
cho ai đó. Vẫn còn hoàn toàn im lặng. Năng lượng này sẽ
giúp bạn đi sâu hơn vào thiền. Quá nửa năng lượng của con
người bị tiêu tốn bởi lời nói. Cho nên dừng việc dùng lời hoàn
toàn đi. Với năng lực cao nhất của bạn, gìn giữ im lặng; và hết
sức chú ý đừng làm tan vỡ im lặng của người khác. Nếu im lặng
của bạn bị tan vỡ, đấy là điều không may của bạn, đấy là trách
nhiệm riêng của bạn; nhưng thấy rằng bạn không làm tan vỡ im
lặng của bất kì ai. Đừng hỏi bất kì ai những câu hỏi vô dụng,
đừng đưa ra những yêu cầu không cần thiết, đừng nêu ra những
câu hỏi vô dụng, đừng cố kéo bất kì ai vào đối thoại. Hợp tác và
giúp đỡ người khác giữ im lặng. Nếu ai đó hỏi một câu hỏi, ra
hiệu cho người đó giữ im lặng. Người đó cần được nhắc nhở.
Gạt việc nói sang bên tuyệt đối trong bẩy ngày. Bạn đã nói
quá nhiều cho tới hôm nay, và bạn sẽ làm như thế trong thời gian
bẩy ngày. Nhưng trong một tuần này, bỏ việc nói hoàn toàn đi.
Mọi người phải cố gắng hết sức. Nếu bạn có thể duy trì im lặng
trong cả bẩy ngày điều đó sẽ giúp bạn cực kì lớn, và bạn sẽ chẳng
cần phải xin lỗi, “Tôi không thể thiền được.” Nếu bạn tuân theo
năm hướng dẫn tôi đang trao cho bạn, bạn sẽ chẳng có lí do nào
để phàn nàn. Nếu bạn tạo ra vấn đề bởi việc bỏ qua những điểm
này, chỉ bạn chịu trách nhiệm. Cho nên giữ im lặng toàn bộ, và
nếu bạn không thể làm được điều này - nếu bạn yếu đuối, nếu
bạn thiếu quyết tâm, nếu thông minh của bạn không đủ mạnh -
thế thì ít nói đến mức có thể được đi. Nếu bạn còn có thông minh
nào đó, sức mạnh ý chí nào đó, sức mạnh nào đó, tự tin nào đó,
thế thì giữ im lặng toàn bộ.

Im lặng là điều bản chất đầu tiên của chương trình loại bỏ
giác quan. Điều thứ hai là bịt mắt . Bạn làm một khăn bịt mắt và
bắt đầu dùng nó từ sáng mai. Mắt bạn phải hoàn toàn bị che kín.
Mắt là cánh cửa qua đó bạn đi ra. Bạn càng giữ cho chúng đóng
điều đó càng tốt hơn cho bạn. Ngay cả khi bạn chỉ ngồi đấy, đeo
cái che mắt lên, vì thế thì bạn sẽ không thấy người khác, và cơ
hội cho đối thoại sẽ không nảy sinh; và khi thấy bạn bị che mắt,
người khác sẽ không thử quấy rối bạn một cách không cần thiết.
Cho nên che mắt đi. Bạn đã nghe nói về giữ im lặng; bây giờ tôi
yêu cầu bạn phải bịt mù nữa.

Im lặng là một loại giải thoát và bịt mù là giải thoát lớn hơn
và sâu hơn, vì chính mắt làm cho chúng ta chạy ra ngoài cả ngày.
Bằng việc nhắm mắt, bạn sẽ có ít phạm vi đi ra ngoài nhiều hơn,
và năng lượng sẽ bắt đầu luân chuyển bên trong. Cho nên bạn
giữ cho mắt được bịt kín. Trong khi bước đi nâng nó lên một
chút, đủ để nhìn xuống, đủ để thấy mặt đường quãng một mét hai
phía trước bạn. Để cái bịt mắt trong cả ngày. Nếu bạn có thể ngủ
mà vẫn đeo nó trong đêm, cứ đeo. Chỉ cởi nó ra nếu bạn thấy bất
tiện. Nếu bạn ngủ vẫn đeo nó, sẽ có khác biệt trong việc ngủ
ngon giấc của bạn. Bạn cứ giữ nó trong thời gian bạn còn lại ở
đây. Khi chúng ta gặp nhau ở đây cho buổi thiền sáng, miếng che
mắt phải vẫn còn đeo. Cởi nó ra cho buổi thiền chiều, nhưng vẫn
giữ nó cho tới khi bạn tới được nền tảng của thiền. Vào đêm bạn
cũng phải đeo khăn che mắt đó. Một lần ở đây, bỏ nó ra trong
thời gian thiền đêm.

Cho nên, khi tôi bắt đầu nói vào buổi sáng, bỏ khăn che mắt
của bạn ra, và bỏ cả trong buổi thiền chiều và đêm. Tôi đang trao
cho bạn những cơ hội này để dùng mắt bạn vì có cơ hội nào đó
để thấy thế giới bên ngoài có thể giúp cho mắt bạn quay vào bên
trong; bằng không giữ mắt bạn nhắm lại. Bạn sẽ ngạc nhiên biết
bao nhiêu căng thẳng tâm trí biến mất khi mắt bạn được giữ
nhắm lại. Rất nhiều căng thẳng tâm trí đi vào qua mắt, và chính
căng thẳng mắt gây ra căng thẳng trong mô não. Nếu mắt vẫn còn
không bị quấy rối, bình thản và thảnh thơi, chín mươi chín phần
trăm bệnh tật tâm trí sẽ biến mất. Cho nên có ý thức và dùng đầy
đủ phương tiện này.

Không có vấn đề về bất kì ai được miễn thứ hay miễn trừ;
nếu bạn cố gắng tránh nó, tôi không phải là người mất mà bạn là
người mất. Nhớ trong tâm rằng bạn phải vẫn còn mù trong phần
lớn thời gian. Bạn phải cho mắt bạn kì nghỉ một tuần; tưởng
tượng rằng bạn không có mắt chút nào. Sau bẩy ngày bạn sẽ nhận
ra mắt bạn có thể được thảnh thơi và bình lặng đến đâu. Bạn sẽ
không bao giờ tưởng tượng được rằng nhiều vui đến thế có thể
tuôn chảy ra từ thảnh thơi của chúng này. Nhưng nếu trong
những ngày này bạn chọn tự lừa dối mình, thế thì tôi không chịu
trách nhiệm. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn. Không ai có trách
nhiệm cho bất kì ai khác ở đây cả. Bạn có thể tự lừa dối mình hay
không, tuỳ bạn thôi.

Cũng như vải che mắt, lấy miếng bông nút vào lỗ tai. Chúng
ta muốn cho tai nghỉ ngơi nữa. Nếu mắt, tai và miệng đều đóng
và được nghỉ ngơi, kết quả là một hoàn cảnh cho việc mất giác
quan. Nút bông vào tai, thế rồi buộc chặt khăn che vào mắt.
Theo cách đó những người khác, nếu muốn, không thể quấy rầy
bạn trong im lặng của bạn. Nếu tai bạn để mở ai đó có thể định
nói với bạn. Sẽ không có cám dỗ nào nếu tai bạn bị nút kín. Bạn
để mở tai chỉ khi tôi nói ở đây vào buổi sáng, và ban đêm khi bạn
đi ngủ. Giữ mắt mở và tai nút kín trong các buổi thiền chiều và
đêm.

Hướng dẫn thứ năm và cuối cùng là điều kiện quan trọng
nhất và bản chất nhất của tất cả. Nó là thế này: chỉ những người
nào đang nhảy múa và cười trong đầy vui và phấn khởi mới vào
ngôi đền của sự tồn tại. Không người khóc nào đến được lối vào
ở đó. Cho nên vứt bỏ ưu tư và phiền muộn của bạn trong bẩy
ngày này. Phúc lạc đi! Cười, nhảy múa và vẫn còn vui vẻ. Để
phúc lạc có với bạn trong mọi lúc. Vẫn còn phấn khởi và vui vẻ
ngay trong việc thường lệ của bạn. Phúc lạc trong khi ngồi hay
bước - say sưa với âm nhạc, điên lên với vui! Khi bạn đang
bước, đừng bước như mọi người vẫn thường bước; bước như
người tìm kiếm, như một sadhu bước, với vũ điệu trong bước
chân bạn. Đừng lo nghĩ về điều người khác có thể nói. Chúng ta
tới đây là để được tự do với mọi phê phán của người khác. Tệ
nhất người khác có thể cho là bạn gàn dở, người trên cung trăng.
Vậy chấp nhận tình huống ấy ngay từ đầu đi; đây là điều xấu nhất
có thể xảy ra. Cố tạo ra bầu không khí phúc lạc và vui vẻ cho
toàn bộ trại.

Giữ im lặng - im lặng rạng ngời với vui mừng và khoan
khoái, im lặng nhảy múa trong nô giỡn và hớn hở; im lặng ở bên
ngoài, và năng lượng nhảy múa bên trong. Trong vui mừng của
bạn, nhảy múa và cười đùa. Nếu bạn cảm thấy phải nhảy múa
thậm chí trong phiên thiền im lặng buổi chiều, bạn có thể làm
như vậy. Tràn đầy vui vẻ và hạnh phúc ngay cả trong phiên thiền
buổi sáng ở đây. Nếu bạn muốn, nếu bạn cảm thấy thích nó, thậm
chí trong thiền cũng có thể nhảy, múa và cười được. Nếu bạn
khóc, để cho việc khóc đó là kết quả của vui vẻ của bạn. Để cho
nước mắt bạn giúp cho phúc lạc của bạn tuôn chảy. Nhớ tất cả
những điều này trong tâm trí. Nếu bạn muốn đung đưa, thế thì
đung đưa. Nếu bạn muốn nhảy múa trong buổi thiền đêm, thế thì
nhảy múa. Nếu bạn muốn nhún nhảy ra trước ra sau, làm điều đó.
Nếu bạn muốn cười, thế thì cười. Rung động của vui vẻ bao giờ
cũng nên có cùng với bạn.

Năm điều này là để thực hành từ sáng mai. Cho nên thu xếp
từ bây giờ để có khăn bịt mắt và bông nút tai. Đến lúc mặt trời
lên sáng mai bạn sẽ không là cùng con người đã đến đây hôm
nay nữa. Đây là trông đợi của tôi. Làm điều tôi đã nói, và nếu bạn
hoàn thành trông đợi của tôi, chẳng cái gì có thể ngăn cản bạn có
khả năng nói, “Om. Shanti, shanti, shanti! - an bình, an bình, an
bình!” khi bạn khởi hành từ đây. Nếu, khi bạn rời khỏi đây, trái
tim bạn có thể thốt ra những lời này, thế thì không có khó khăn gì
với bạn cả.
Om
 Cái đó là toàn thể, và cái này cũng là toàn thể.
Vì chỉ cái toàn thể được sinh ra từ toàn thể;
và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
Chú ý, phần còn lại là toàn thể.
Om.
 An bình, an bình, an bình.

Ishavasya Upanishad bắt đầu và kết thúc với lời kinh này, và
trong nó là tuyên bố về tất cả những gì có thể được nói tới. Nó
hoàn toàn là duy nhất. Với những người hiểu nó đầy đủ, không
cần thêm gì nữa; phần còn lại của Upanishad chỉ dành cho những
ai không hiểu. Do vậy lời cầu nguyện an bình, thường đưa
Upanishad tới việc kết thúc của nó, ở đây được gợi ra tại chỗ
cuối của chính lời kinh đầu tiên. Và với những người đã đi lên
đến đỉnh của hiểu biết, đây là chỗ kết thúc của Ishavasya; nhưng
với những người vẫn còn đang trèo lên, nó chỉ là bắt đầu.
Phần về tính duy nhất của nó nằm trong sự sáng tỏ mà với nó
có phân biệt giữa các phương pháp tư duy và lập luận của
phương Đông và phương Tây. Hai trường phái lập luận đã nở hoa
trên thế giới - một trường phái ở Hi Lạp, và trường phái kia ở Ấn
Độ. Hệ thống logic của Hi Lạp đã cho sinh thành ra toàn thể khoa
học phương Tây, trong khi từ hệ thống Ấn Độ nổi lên tôn giáo.
Khác biệt nền tảng nhất và đầu tiên giữa hai trường phái này nằm
ở phương Tây - Hi Lạp - phương pháp tiến dần tới kết luận. Bất
kì khi nào chúng ta tìm kiếm chân lí về vật chất, câu hỏi đầu tiên
sẽ dẫn qua việc nghiên cứu tới kết luận cuối cùng; đầu tiên, ý
nghĩ và câu hỏi, thế rồi kết luận.

Cách thức Ấn Độ đích xác là cái đối lập. Ấn Độ khẳng định
rằng cái chúng ta định nghiên cứu bao giờ cũng có đó. Nó không
lấy hình dạng như kết quả của việc hỏi của chúng ta, nhưng nó đã
hiện diện thậm chí trước cả khi việc nghiên cứu của chúng ta bắt
đầu. Chân lí mà sẽ trở nên biểu hiện đã có đó trước khi chúng ta
ở trong sự tồn tại. Nó đã có đó trước khi chúng ta khám phá ra nó
hệt như nó có đó khi chúng ta đã làm như vậy. Chân lí không
được hình thành hay được xây dựng qua nghiên cứu của chúng
ta; điều nghiên cứu làm là đem nó vào trong thực tại của kinh
nghiệm chúng ta. Chân lí bao giờ cũng hiện diện. Đó là lí do tại
sao cách thức Ấn Độ về lập luận tuyên bố kết luận ngay từ đầu, và sau đó thảo
luận tới phương pháp và thủ tục; trước hết kết
luận, thế rồi đến phương pháp. Cách thức phương Tây đặt
phương pháp lên trước, rồi điều tra, và cuối cùng kết luận.
Một điểm quan trọng nên lưu tâm: phương pháp phương Tây
rất thích hợp cho những người tìm kiếm chân lí bằng việc suy
nghĩ về nó. Phương pháp lập luận này giống như việc cố tìm ra
điều gì đó trong đêm tối với sự giúp đỡ của chiếc đèn nhỏ. Đêm
tối như mực, và ánh sáng toả ra mờ nhạt trong khoảng một mét
dưới đất. Chỉ thấy được một miếng nhỏ, phần lớn vẫn còn không
thấy được; và kết luận được đưa tới về cái được thấy sẽ là không
dứt khoát. Sau một chốc, khi người ta tiếp tục với chiếc đèn,
thêm một chút ít nữa trở thành thấy được, và cần sửa lại hay thay
đổi kết luận. Khi người ta tiến xa thêm chút nữa, những điều mới
liên tục trở thành thấy được và do vậy kết luận lại bị thay đổi lặp
đi lặp lại.

Đi theo như người ta làm với trường phái logic Hi lạp, khoa
học Phương Tây không bao giờ đạt tới kết luận cuối cùng. Mọi
kết luận của nó do đó đều không dứt khoát, tạm thời, và dựa trên
tri thức thu nhận được cho đến thời hiện tại. Nếu cái gì đó mới
được phát hiện ra ngày mai, sẽ có thay đổi trong kết luận. Đó là lí
do tại sao không chân lí nào được đạt tới bởi phương Tây là tuyệt
đối. Nó là không toàn bộ. Mọi chân lí và kết luận của nó đều bất
toàn. Nhưng chân lí không bao giờ là bất toàn hay không đầy đủ
cả, và bất kì cái gì bất toàn đều sẽ là phi chân lí. Cái kết luận mà
chúng ta cần sửa đổi vào ngày mai thực ra không phải là chân lí
thậm chí cho cả hôm nay! Nó đơn giản có vẻ là chân lí thôi. Cái
một mình nó có thể là chân lí, chúng ta không bao giờ cần thay
đổi. Cho nên các kết luận đã được phương Tây công bố là chân lí
thực sự là phi chân lí dựa trên tri thức thu được cho tới lúc đó và
cần thay đổi theo tri thức thu được vào ngày mai.

Hệ thống lập luận Ấn Độ không giống việc nghiên cứu chân
lí với sự giúp đỡ của chiếc đèn. Nó giống như việc nghiên cứu
đêm tối trong ánh sáng chói lọi của tia chớp, khi mọi thứ đều trở
thành thấy được đồng thời. Không phải là cái gì đó - một phần -
được thấy bây giờ, thỉnh thoảng về sau phần khác, lại cái gì đó
thêm về sau, và cứ như thế; không, cách thức Ấn Độ không giống
điều đó. Trong hệ thống Ấn Độ về nghiên cứu, khải lộ của chân lí
xảy ra ngay một lúc; mọi thứ đều được khám phá ngay lập tức và
đồng thời. Mọi con đường trải rộng đến chân trời, và tất cả - dù là
bất kì cái gì - đều được thấy đồng thời trong chớp loé của tia sét.
Không có phạm vi nào cho thay đổi trong tương lai vì cái toàn
thể đã được thấy.

Phương pháp phương Tây có tên logic nghiên cứu chân lí
bằng quá trình suy nghĩ. Cách thức Ấn Độ, điều chúng ta gọi là
kinh nghiệm hay trí huệ, phơi bầy tất cả mọi thứ ngay một lúc
giống như ánh chớp loé, với kết quả là chân lí hiện ra như nó vậy,
trong tính toàn bộ của nó, không để lại chỗ nào cho thay đổi hay
sửa đổi. Xem như kết quả, không có tiềm năng nào cho việc thay
đổi điều mà Phật hay Mahavira hay Krishna đã nói. Nhưng các
nhà tư tưởng phương Tây - nghiêng về hoài nghi và lo nghĩ - hỏi
liệu điều Mahavira nói hai nghìn năm trăm năm trước đây có thể
vẫn còn đúng cho ngày nay không. Điều hợp lí đối với họ là nêu
ra nghi ngờ như vậy; qua suốt một thời kì như thế chúng tôi phải
đã trông đợi tới hai mươi nhăm nghìn thay đổi nếu chúng tôi đi
tìm chân lí bằng một ngọn đuốc! Những sự kiện mới sẽ xuất hiện
mọi ngày, và chúng tôi buộc phải thay đổi hay biến đổi các sự
kiện cũ. Nhưng chân lí do Mahavira, Krishna hay Phật tuyên bố
là những khải lộ. Chúng không phải là chân lí được tìm ra nhờ
ánh sáng đèn; chúng đã được thấy và được biết và được khải lộ
trong ánh chớp loé chói lọi của tâm trí tĩnh lặng - tâm trí trống
rỗng ý nghĩ. Chân lí mà Mahavira biết đã không được ông ấy
khám phá ra dần từng bước; bằng không ông ấy không thể nào biết được chân lí toàn
bộ ấy. Ông ấy biết nó với tính toàn bộ của
nó trong một khoảnh khắc.

Điều tôi muốn nói với bạn là ở chỗ mọi thứ được khải lộ
trong tính toàn bộ của nó thông qua trí huệ của phương Đông là
được bao hàm trong lời kinh ngắn gọn này. Nó có đấy trong tính
toàn bộ của nó. Đây là lí do tại sao chúng ta ở Ấn Độ vẫn công
bố rằng kết luận là trước nhất và rồi việc hỏi theo sau. Công bố
về chân lí được thực hiện lúc ban đầu, thế rồi chúng ta thảo luận
về cách chân lí có thể được biết, cách thức nó đã được biết tới, và
cách thức điều đó có thể được giải thích. Kinh này là lời công bố
- bản tuyên ngôn. Phần còn lại của cuốn sách này là không bản
chất cho những ai có thể hiểu ý nghĩa đầy đủ từ lời công bố này.
Không cái gì mới sẽ được phát biểu trong toàn bộ Upanishad:
chân lí sẽ được kể đi kể lại mãi theo nhiều cách khác nhau. Phần
còn lại của cuốn sách này là dành cho những người mù loà trước
tia chớp chói lọi của sét, và bướng bỉnh đi tìm kiếm chân lí với sự
trợ giúp của chiếc đèn. Với ánh sáng của chiếc đèn này, chân lí
có thể được nhặt ra từng dòng một trong lời kinh Ishavasya;
nhưng trước hết chủ đề này được trình bày trong tính toàn thể của
nó trong lời kinh vĩ đại này. Đấy là lí do tại sao tôi nói cho bạn
kinh này là duy nhất thế: nó nói mọi điều. Bây giờ chúng ta sẽ cố
gắng hiểu nó.

Nó tuyên bố rằng cái toàn thể được sinh ra từ cái toàn thể, và
vậy mà cái còn lại đằng sau bao giờ cũng là cái toàn thể; đến cuối
cùng cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể; và thậm
chí thế thì cái toàn thể không tăng thêm chút nào, nó vẫn còn như
nó trước đây. Đây là một phát biểu phản toán học rất vĩ đại. P.D.
Ouspensky đã viết một cuốn sách tên là Tertium Organum. Ông
ấy là một nhà toán học có tiếng của Nga, người trong những năm
cuối đời, như một đệ tử của một thầy phương tây xuất sắc,
Gurdjieff, tự mình đã trở thành nhà huyền học. Ông ấy là một
thiên tài toán học, thông minh của ông ấy thấm suốt độ cao và
chiều sâu của đề tài của ông ấy.

Phát biểu đầu tiên ông nêu ra trong cuốn sách tuyệt diệu này
là ở chỗ chỉ có ba tác phẩm vĩ đại về tư tưởng trên thế giới. Tác
phẩm thứ nhất, mang tựa đề Organum, của Aristotle, cha đẻ của
khoa học logic phương Tây. Organum nghĩa là nguyên lí về tri
thức. Cuốn sách thứ hai là của Francis Bacon và có tên là Novum
Organum - nguyên lí mới về tri thức. Và cuốn sách thứ ba là
cuốn của riêng ông ấy, được mang tên Tertium Organum -
nguyên lí thứ ba về tri thức. Ông còn viết tiếp sau phát biểu này
một câu ngắn mà đã từng thách đố cho nhiều người: “Trước khi
cuốn thứ nhất tồn tại, đã có cuốn thứ ba rồi.” Tức là, nguyên lí
thứ ba đã có trên thế giới này trước khi nguyên lí thứ nhất được
phát hiện ra. Cuốn sách thứ nhất do Aristotle viết ra hai nghìn
năm trước đây, cuốn thứ hai do Bacon viết ba trăm năm trước
đây, và cuốn thứ ba mới được viết ra quãng bốn mươi năm trước
đây. Nhưng Ouspensky nói cuốn thứ ba đã tồn tại trên thế giới
này trước khi cuốn thứ nhất được viết ra, mặc dầu ông ấy đã viết
cuốn sách thứ ba này chỉ bốn mươi năm trước đây. Khi bất kì ai
hỏi ông ấy ý nghĩa của phát biểu kì dị, phi logic này, ông ấy trả
lời, “Bất kì cái gì tôi đã viết ra đều không được viết ra bởi tôi. Nó
đã tồn tại trong sự tồn tại rồi; tôi đã đơn giản tuyên bố nó thôi.”
Trái đất này đã dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ trước khi
Newton được sinh ra. Trái đất hấp dẫn hòn đá từ trước sự ra đời
của ông ấy theo hệt như cách nó đã tiến hành từ trước tới nay.
Newton đã không phát minh ra nguyên lí hấp dẫn, ông ấy chỉ làm
lộ nó ra. Ông ấy đã mở ra cái bị giấu kín, ông ấy làm cho mọi
người biết tới cái còn chưa được biết. Nhưng lực hấp dẫn đã có
đấy từ trước Newton; bằng không bản thân Newton đã không thể
có đó được. Newton không thể đã được sinh ra mà không có lực
hấp dẫn. Lực hấp dẫn có thể tồn tại không có ông ấy, nhưng ông ấy không thể tồn
tại không có lực hấp dẫn của trái đất. Nó đã tồn
tại nhưng còn chưa được biết tới trên thế giới thôi.

Ouspensky nói nguyên lí thứ ba của ông ấy tồn tại từ trước
khi nguyên lí thứ nhất đã được biết tới. Nó không được biết tới là
vấn đề hoàn toàn khác; và có lẽ nói nó không được biết cũng là
sai, vì điều Ouspensky đã nói qua cuốn sách của ông ấy đã được
hàm chứa trong lời kinh nhỏ bé này. Cuốn Tertium Organum của
ông ấy là một cuốn sách rất có giá trị. Ông ấy nói rằng chỉ có ba
cuốn sách vĩ đại như thế trên thế giới thôi - và cuốn thứ ba của
ông ấy - cũng không phải là sai. Ông ấy không nói vậy từ điều
hão huyền đâu, đấy là sự kiện. Cuốn sách của ông ấy quan trọng
như thế. Nếu ông ấy không nói như vậy, im lặng của ông ấy sẽ
chỉ là khiêm tốn giả. Nó là sự kiện, cuốn sách của ông ấy là quan
trọng. Nhưng mọi điều ông ấy nói trong đó đều có trong lời kinh
nhỏ bé này của Ishavasya Upanishad.

Trong toàn bộ cuốn sách của mình ông ấy đã cố gắng để
chứng minh rằng có hai loại số học trên thế giới. Một là ở chỗ nói
hai cộng với hai là bốn. Đây là số học đơn giản tất cả chúng ta
đều biết, một tính toán đơn giản kiểm chứng rằng nếu chúng ta
cộng tất cả các bộ phận của một vật, chúng không bao giờ có thể
lớn hơn cái toàn thể của nó. Số học đơn giản nói rằng nếu chúng
ta bẻ một vật thành nhiều mảnh thế rồi cộng các mảnh đó lại,
tổng của chúng không bao giờ có thể vượt quá cái toàn thể. Đây
là một sự kiện đơn giản, trực tiếp. Nếu chúng ta đổi một ru pi
thành một trăm xu, tổng của một trăm xu này không bao giờ có
thể lớn hơn một ru pi được. Nó có thể lớn hơn được không?
Chính số học đơn giản là việc cộng các bộ phận không bao giờ có
thể lớn hơn cái toàn thể. Nhưng Ouspensky nói còn có một toán
học khác, cao hơn, và đó là toán học của cuộc sống. Trong toán
học này, không nhất thiết là hai cộng với hai phải bằng bốn. Lúc
thì hai cộng với hai có thể là năm - hay ba. Trong cuộc sống, ông
ấy bảo chúng ta, tổng của các bộ phận đôi khi vượt quá cái toàn
thể. Chúng ta sẽ phải hiểu điều này rõ ràng hơn chút ít, vì nếu
chúng ta không thể hiểu được nó chúng ta sẽ không có khả năng
hiểu được đầy đủ ý nghĩa của lời kinh đầu tiên và cuối cùng của
Ishavasya.

Một hoạ sĩ vẽ một bức tranh. Giả sử chúng ta ước lượng về
giá vật liệu của anh ta. Mầu giá bao nhiêu? Chẳng nhiều mấy,
chắc chắn. Còn vải vẽ? Cũng không mấy. Nhưng không công
trình nghệ thuật lớn nào, không một bức tranh đẹp nào, đơn thuần
là pha trộn mầu sắc được thêm lên vải vẽ: nó là cái gì đó nhiều
hơn.

Một nhà thơ soạn ra một bài thơ, một bài ca. Tất cả các từ
được dùng trong đó đều hoàn toàn là những từ bình thường
chúng ta vẫn dùng hàng ngày. Có lẽ bạn có thể gặp một hay hai
từ trong đó ít được dùng thường xuyên hơn; dù vậy, chúng ta vẫn
biết chúng. Vậy mà không bài thơ nào đơn giản là tuyển tập các
từ. Nó là cái gì đó nhiều hơn tuyển tập và bố trí từ ngữ. Một
người chơi đàn sitar; hiệu quả được tạo ra trong tim ta khi nghe
những nốt nhạc này của đàn sitar không chỉ đơn thuần là tác động
của âm thanh. Cái gì đó hơn nữa làm chúng ta xúc động.
Chúng ta hiểu hiện tượng đó theo cách này. Trong khi nhắm
mắt, một người chạm vào tay bạn một cách yêu mến. Lần nữa,
cũng người đó chạm vào tay bạn với thất vọng lớn lao. Cái chạm
trong cả hai trường hợp là như nhau. Khi có liên quan tới cái
chạm thể chất, chạm thân thể không có khác biệt căn bản giữa hai
cái chạm này. Vậy mà chắc chắn có một phần tử phân biệt nào đó
trong cảm giác về một ai đó chạm vào chúng ta một cách yêu
mến: cái chạm của người giận dữ là hoàn toàn khác với cái chạm
yêu mến. Và lần nữa, khi ai đó chạm vào chúng ta hoàn toàn
dửng dưng chúng ta chẳng cảm thấy gì trong cái chạm đó. Vậy
mà hành động chạm là như nhau trong tất cả những trường hợp
này. Nếu chúng ta hỏi nhà vật lí, ông ta sẽ đáp rằng mức độ sức ép được sử dụng
trên tay chúng ta từ cái chạm của người khác có
thể đo được - thậm chí cả lượng nhiệt truyền từ tay nọ sang tay
kia cũng có thể đo được. Tuy vậy, tất cả nhiệt, tất cả sức ép, đều
không thể bằng bất kì cách nào phơi bầy ra được liệu một người
chạm vào chúng ta đã làm như vậy từ yêu hay giận. Vậy mà
chúng ta kinh nghiệm khác biệt giữa những cái chạm có khác biệt
về chất. Cho nên chắc chắn cái chạm không đơn thuần là tổng
của nhiệt, sức ép và điện tích được chuyển vận trong tay: nó là
cái gì đó hơn nữa.

Cuộc sống phụ thuộc vào toán học cao hơn. Cái gì đó hoàn
toàn mới, và đầy ý nghĩa, được sinh ra từ tổng của các bộ phận.
Cái gì đó tốt hơn tổng của các bộ phận được tạo ra. Cái gì đó
quan trọng được sinh ra ngay từ những cái thấp nhất. Cuộc sống
không chỉ là số học đơn giản - nó là số học tinh tế và sâu sắc hơn
nhiều. Nó là số học nơi con số trở thành vô nghĩa, nơi qui tắc
cộng và trừ trở thành vô dụng. Người không biết tới cái bí mật
này của cuộc sống, cái nằm bên ngoài số học thông thường của
cuộc sống, sẽ không hiểu ý nghĩa và mục đích của cuộc sống.
Có nhiều điều ngạc nhiên cho lời kinh vĩ đại này. Nó nói
rằng:

Khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
chú ý, phần còn lại là toàn thể.

Theo quan điểm của số học thông thường điều này tuyệt đối
không đúng. Nếu chúng ta loại bỏ một phần nào đó của một vật,
phần còn lại không thể cùng như nó lúc đầu. Cái gì đó ít hơn sẽ
còn lại. Nếu tôi lấy mười đồng khỏi sổ tiết kiệm có một triệu
đồng, tổng số sẽ là cái gì đó ít hơn. Nó sẽ ít hơn thậm chí nếu
mười xu được lấy ra. Phần còn lại không thể bằng với số tiền như
nguyên gốc ban đầu. Một của cải lớn đến đâu cũng có thể - ngay
cả như kho châu báu của Solomon hay Kubla - bị rút bớt nếu chỉ
mười xu bị loại bớt khỏi nó; nó không thể như nó trước đây nữa.
Tương tự, dù một của cải lớn đến đâu, cứ thêm mười xu vào, nó
vẫn lớn ra. Nhưng theo lời kinh này cái toàn thể có thể bị lấy ra
từ cái toàn thể - không chỉ mười xu mà toàn bộ của cải - và phần
còn lại vẫn cứ là toàn thể.

Điều này dường như giống việc lảm nhảm của người điên có
tri thức số học bằng không. Ngay cả người mới bắt đầu cũng biết
rằng một vật sẽ ít đi nếu cái gì đó được lấy ra khỏi nó, không
thành vấn đề lấy ra ít đến đâu; và nếu cái toàn thể được lấy ra; sẽ
không có gì còn lại cả. Nhưng lời kinh này tuyên bố rằng không
chỉ cái gì đó, mà cái toàn thể, vẫn cứ còn lại. Những người chỉ
biết đến logic của hộp tiền tiết kiệm chắc chắn sẽ không hiểu
được hiện tượng này. Hiểu biết dường như từ một chiều hướng
hoàn toàn mới.

Tình yêu của bạn có giảm bớt đi khi bạn đem nó cho ai đó
không? Bạn có kinh nghiệm thấy bất kì sự khan hiếm tình yêu
nào khi bạn cho nó toàn bộ không? Không! ‘yêu’ là từ mà chúng
ta cần để đi tới để hiểu lời kinh này; đây là từ chúng ta sẽ phải
dùng. Dù bạn cho đi biết bao nhiêu tình yêu của mình, cái còn lại
với bạn vẫn nhiều như nó tự nguyên thuỷ. Hành động cho nó đi
không tạo ra thiếu hụt. Ngược lại, nó tăng trưởng, tăng thêm khi
bạn cho nó đi, nó đi vào bạn càng sâu hơn khi bạn phân phát nó
càng nhiều hơn. Khi bạn cho nó một cách tự do, sự giàu có tình
yêu bên trong bạn bắt đầu phát triển. Người đem cho toàn bộ tình
yêu, một cách tự do và không điều kiện, trở thành người sở hữu
tình yêu vô tận.

Số học đơn giản không bao giờ có thể hiểu được rằng khi cái
toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, phần còn lại là toàn thể. Chỉ
tình yêu có thể tìm thấy nghĩa này trong phát biểu này. Einstein
không thể giúp gì được. Tìm kiếm loại trợ giúp đó sẽ là vô dụng.
Thay vì vậy tới Meera hay Chaitanya đi; qua họ có lẽ bạn có thể tìm ra cách thức
của mình để hiểu, vì đây là một chủ đề liên quan
tới cái khác nào đó, chiều hướng không biết, trong đó không cái
gì giảm đi khi bị đem cho. Kinh nghiệm duy nhất bạn có mà có
khả năng làm cho bạn hiểu được điều này trong tia chớp bất thần
của sáng suốt là tình yêu - và trong số một trăm người, chín mươi
chín người trong các bạn là mù với kinh nghiệm này. Nếu, trong
khi cho đi tình yêu của bạn, bạn kinh nghiệm cảm giác về mất
mát, thế thì biết rằng bạn không có kinh nghiệm gì về tình yêu
chút nào. Khi bạn trao tình yêu cho ai đó, và cảm thấy bên trong
bạn rằng cái gì đó đã biến mất, thế thì biết rằng điều bạn đã cho
đi phải là cái gì đó khác. Nó không thể là tình yêu được. Nó phải
là cái gì đó thuộc vào thế giới của đô la và đồng bảng. Nó phải là
thứ đo đếm được điều có thể được định giá theo con số, cân đong
theo số dư và ước lượng theo mét. Nhớ lấy, bất kì cái gì đo đếm
được đều là chủ thể cho luật giảm thiểu. Chỉ cái không đo đếm
được và không dò được sẽ còn như cũ bất kể bao nhiêu thứ bị
lấy ra khỏi nó.

Bạn đã kinh nghiệm rằng tình yêu, khi được trao đi, giảm đi
không? Gần như mọi người đều quen thuộc với nó. Nếu ai đó yêu
tôi, tôi muốn rằng cô ấy không yêu ai khác nữa, vì lập luận của
tôi nói rằng tình yêu bị phân chia là tình yêu bị giảm sút. Cho nên
tôi tìm kiếm trở thành người chủ duy nhất và sở hữu tình yêu của
cô ấy. Yêu cầu của tôi là ở chỗ người yêu tôi phải không trao dù
chỉ một thoáng nhìn yêu đương cho bất kì ai khác; một thoáng
nhìn như vậy là chất độc đối với tôi, vì “tôi biết” rằng bây giờ
tình yêu của cô ấy với tôi sẽ bắt đầu giảm sút đi. Nếu tôi níu bám
vào khái niệm giảm sút tình yêu này, tôi cần phải chấp nhận rằng
tôi không có ý tưởng gì về tình yêu là gì. Nếu tôi có bất kì đánh
giá cao nào về tình yêu đúng đắn, tôi cũng sẽ muốn người yêu
của tôi đi ra và đem tình yêu đó cho toàn thế giới một cách tự do,
bởi vì qua việc cho như thế cô ấy sẽ đi tới hiểu ra bí mật của nó
và điều bí ẩn của nó, và khi cô ấy rơi ngày càng đi sâu hơn vào
trong tình yêu, tình yêu của cô ấy với tôi nữa, cũng sẽ tràn ngập.

Nhưng không, chúng ta dốt nát về toán học cao hơn này.
Chúng ta sống trong thế giới của toán học rất đơn giản nơi mọi
thứ đều giảm sút đi qua phân phát; cho nên điều hoàn toàn tự
nhiên là mọi người sẽ sợ về hành động cho. Vợ sợ chồng cho tình
yêu của anh ấy cho ai đó khác, và chồng sợ rằng vợ mình có thể
yêu người đàn ông khác. Thực tại, nói về chồng hay vợ có thể rơi
vào tình yêu với ai đó khác là bên ngoài vấn đề, vì cái thế khó xử
đó đã tồn tại bên trong gia đình rồi. Khi người mẹ biểu lộ tình
yêu với con trai, chồng cô ấy ghen; và khi bố biểu lộ tình yêu với
con gái, vợ người đó ghen. Căng thẳng phát sinh trong những
hoàn cảnh như thế, vì tình yêu thực vắng bóng. Cái cảm giác mà
chúng ta vẫn gọi là yêu không phải là tình yêu thực.

Kiểm thử thực sự về tình yêu nằm ở chỗ liệu nó có vượt ra
ngoài luật số lượng không. Tình yêu là không đo đếm được. Vứt
bỏ ảo tưởng của bạn rằng tình yêu thực suy giảm khi nó được
chia sẻ. Chướng ngại là ở sự kiện rằng tất cả những kinh nghiệm
khác có sẵn cho chúng ta đều là đo đếm được. Bất kì cái gì chúng
ta có đều có thể đo đếm được; giận của chúng ta, ghét của chúng
ta, và tất cả những tình cảm khác đều có thể đo đếm được.
Kinh nghiệm duy nhất vượt ra ngoài đo đếm là yêu; và yêu
là không được biết với bạn. Đây là lí do tại sao bạn thấy khó hiểu
thế về Thượng đế là gì. Người hiểu tình yêu thực là gì không lo
nghĩ về việc hiểu Thượng đế, vì nếu bạn biết yêu bạn biết
Thượng đế - chúng là một phần và một mảnh của cùng một số
học, chúng thuộc về cùng chiều. Người đã hiểu tình yêu thực sẽ
nói, “Cũng được cho dù tôi không biết đến Thượng đế. Tôi đã
biết tình yêu, thế là đủ. Mục đích của tôi đã được đáp ứng - tôi đã
biết! Tôi đã được điểm đạo vào thế giới cao hơn đó, thế giới mà việc chia sẻ
không đem tới suy giảm, nơi mọi thứ đều được trao
một cách tự do và dư dả, vẫn cứ còn lại với người cho.”
Và nhớ lấy, khi bạn cảm thấy bên trong mình một loại tình
yêu vẫn còn là toàn thể ngay cả sau khi nó đã được trao đi trong
tính toàn bộ của nó, thế thì nhu cầu của bạn về tình yêu của người
khác sẽ biến mất, vì tình yêu của riêng bạn không thể tăng lên dù
bạn có nhận được tình yêu nhiều đến đâu. Tâm niệm rằng cái
không thể bị giảm qua việc đem cho nó đi cũng không thể được
tăng thêm lên qua việc nhận nó. Những hiện tượng này xảy ra
đồng thời. Cho nên cũng nhận biết rằng bạn không có kinh
nghiệm gì về tình yêu chừng nào mà bạn còn cần đòi hỏi nó từ
người khác.

Điều đó không chỉ ở trẻ con mà cả người lớn nữa đấy! - tất
cả chúng ta đều đòi hỏi tình yêu, và cứ thế mà đòi hỏi về nó. Qua
các kiếp sống chúng ta cầu xin tình yêu. Các nhà tâm lí nói rằng
chỉ có một vấn đề trong các kiếp của chúng ta, và đó là nỗi lo âu
của chúng ta về cách nhận được tình yêu từ người khác. Tất cả
mọi căng thẳng của chúng ta, tất cả mọi lo lắng của chúng ta, nỗi
lo sợ và ưu tư đều có thể qui cho duy nhất điều khó xử này; và
khi chúng ta không thể tìm thấy được tình yêu, chúng ta tìm kiếm
cái thay thế. Qua các kiếp sống của mình chúng ta cố gắng để đạt
tới tình yêu; chúng ta ngưỡng mộ mùi thơm của nó, và trong theo
đuổi thường xuyên. Tại sao? Trong hi vọng rằng kho dự trữ tình
yêu của chúng ta sẽ tăng lên nếu chúng ta nhận nó. Và tất cả
những điều này có nghĩa là chúng ta vẫn chưa biết tới tình yêu, vì
cái mà tăng lên trong khi nhận thì không phải là tình yêu. Dù
khối lượng tình yêu mà chúng ta nhận được nhiều đến đâu không
thành vấn đề, tình yêu vẫn cứ còn như nó vậy.
Cho nên người hiểu lời kinh này về tình yêu một cách đầy đủ
cũng hiểu hai sự kiện này. Thứ nhất, dù tôi đem cho nó đi nhiều
đến đâu, tình yêu của tôi sẽ không giảm đi; và thứ hai, dù tôi
nhận được tình yêu nhiều đến đâu, tình yêu trong tôi sẽ không
tăng lên. Cho dù toàn thể đại dương tình yêu xô vào trong tôi,
tình yêu của tôi sẽ không tăng thêm lấy một giọt, không giảm đi
một giọt nếu tôi đem tất cả nó cho đi.

Và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
chú ý, phần còn lại là toàn thể

Toàn bộ vũ trụ này bắt nguồn từ Thượng đế. Nó không nhỏ
đâu - nó là vô tận, vô giới hạn, không biên giới. Nó không có
chiều hướng, vô thuỷ, vô chung. Thượng đế vẫn còn là toàn thể
mặc dầu cái mênh mông như thế đã được sinh ra từ ngài. Và
ngay cả khi tất cả vũ trụ bao la này trở về trong cái toàn bộ cao
nhất đó - sự tồn tại - và một lần nữa lại được nhận chìm vào trong
nó, Thượng đế vẫn còn là toàn thể. Sẽ không có tăng lên không
giảm đi trong nó.

Chúng ta cố hiểu hiện tượng này từ tầm hướng khác. Chúng
ta biết đại dương: nó là một kinh nghiệm được các giác quan
chúng ta thấy và cảm nhận. Nó có thể giảm đi, nó có thể tăng lên.
Bao la như nó, nó không phải là vô giới hạn. Sông chảy vào
trong nó liên tục, và không bao giờ nổi ra. Mây trên trời cứ lấy
nước của nó và mưa rào xuống đất. Không bao giờ có thiếu hụt
nước trong biển. Và cho dù nó có giảm đi, vì nó mênh mông thế,
nó không là vô tận, không vô giới hạn. Hàng nghìn dòng sông
chảy vào trong nó khó làm sai biệt dù chỉ một li nước trong khối
lượng của nó; nó bao la thế. Nó thách thức trí tưởng tượng để
quan niệm cho nổi và khối lượng nước đã được ném vào trong
biển cả mọi khoảnh khắc bởi những con sông như Brahmaputtra,
sông Hằng, sông Amazon. Vậy mà với mọi dáng vẻ biển vẫn còn
là vậy. Ngày tiếp ngày tia nắng mặt trời làm khô nước của nó, và
mây trên trời được sinh ra từ nó. Mặc cho tất cả những thao tác
này biển dường như vẫn còn là hằng số về khối lượng, nhưng điều đó thực ra không
là sự kiện cho hoàn cảnh không tăng hay
giảm. Nó giảm đi và nó tăng lên, nhưng nó bao la đến mức chúng
ta không biết gì về những thay đổi này.

Nếu chúng ta ngẩng mặt lên trời và tìm trong không gian,
chúng ta gặp một kinh nghiệm thuộc loại khác. Mọi thứ đang tồn
tại, tồn tại trong không gian. Chính ý nghĩa của không gian là
một phần tử mà trong đó mọi thứ được hàm chứa. Không gian là
cái mà trong đó tất cả mọi thứ đều được hàm chứa. Cho nên ghi
chép lại, rằng không gian không thể tồn tại bên trong bất kì phần
tử nào. Nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ rằng không gian bản thân
nó phải được chứa bên trong một phần tử nào khác, chúng ta phải
quan niệm về ý tưởng của một không gian lớn hơn nào đó. Tình
huống này trở nên khó khăn, và chúng ta bị buộc vào trong nguỵ
biện mà các nhà logic gọi là hồi qui vô hạn. Điều này là việc lao
vào ngu xuẩn bất tận, trong đó bây giờ chúng ta phải xác định
bản chất của không gian lớn hơn mà trong đó không gian này
được hàm chứa. Câu hỏi trở thành bất tận, vì bây giờ chúng ta cứ
phải hỏi mãi, “Và cái gì là bản chất của phần tử bao quanh?”
Không, chúng ta phải chấp nhận rằng mọi thứ đều được hàm
chứa bên trong không gian, và không gian không bị chứa. Không
gian bao quanh tất cả và không bị bao quanh. Do đó mọi thứ xảy
ra bên trong không gian, nhưng nó không được thêm vào bởi sự
xảy ra; và mặc dầu mọi thứ bên trong nó đều đi đến kết thúc,
không gian không bị giảm đi. Không gian là như nó vậy. Nó vẫn
còn trong cái như thế của nó; nó vẫn còn trong hoàn cảnh riêng
của nó. Bạn xây toà nhà, một lâu đài tráng lệ; sau một thời gian,
lâu đài của bạn sẽ sụp đổ thành đống đổ nát. Cho nên các lâu đài
vươn lên trời xanh sẽ bị thu về mặt đất lần nữa. Không gian sẽ
không bị ảnh hưởng gì; nó không bị bớt đi khi bạn xây lâu đài
của mình, và nó sẽ không tăng lên khi lâu đài của bạn sụp đổ.
Lâu đài được xây dựng bên trong không gian, và tương tự sẽ sụp
đổ bên trong không gian. Những biến cố này không gây khác biệt
gì trong không gian. Có lẽ, thế thì, không gian đem chúng ta tới
gần sự tồn tại hơn: điều này tôi định giải thích cho bạn.
Không gian ở bên ngoài tầm với của chúng ta, nó là không
có chất liệu: và vậy mà, trong khi xây nên một toà nhà hay làm
bất kì vật gì khác, chúng ta có cảm giác về không gian tăng lên
hay giảm đi. Bạn không thể chiếm chỗ tôi đang ngồi, vì tôi đã
chiếm không gian này. Có không gian ở đây mà bạn có thể dùng
nếu tôi không lấp kín nó. Ở một chỗ chúng ta chỉ có thể xây dựng
một toà nhà; chúng ta không thể dựng lên một toà nhà khác tại
cùng chỗ ấy. Tại sao? - vì toà nhà được chúng ta xây dựng đã
dùng không gian đó. Bây giờ nếu toà nhà này đã dùng không
gian đó, có một cảm giác trong không gian đó có thể được nói là
đã bị giảm đi. Chúng ta bị bắt buộc phải xây dựng các toà nhà
chọc trời chính xác bởi vì không gian bề mặt đất bị giảm đi từng
ngày. Khi giá đất tăng lên, các toà nhà được xây dựng cao hơn và
cao hơn và đất trở nên đắt hơn vì ngày càng nhiều đất bị chiếm
giữ. Cho nên, khi không gian có sẵn bị giảm đi, các toà nhà leo
lên cao hơn và cao hơn. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ bắt đầu
xây dựng những toà nhà dưới đất, vì có giới hạn chiều cao cho
điều chúng ta có thể xây dựng.

Chúng ta bận bịu lấp đầy không gian bầu trời của mình, bầu
khí quyển của mình. Càng ngày chúng ta càng lấn lên trời, ngấu
nghiến ngày càng nhiều không gian hơn. Biết bao nhiêu không
gian trống đã giảm đi... Đúng là không gian vô tận trải rộng vào
trong cái trống rỗng về mọi phía. Thực sự không thiếu hụt không
gian chút nào. Nhưng không không gian nào khác có thể được
tạo ra trên đất mà chúng ta đang ngồi. Bất kì chỗ nào các toà nhà
đứng, không gian bị dùng. Không gian đất có sẵn cho chúng ta
còn lại ít hơn nhiều.

Thượng đế là không giới hạn. Thượng đế không giảm đi. Đại
dương, bao la thế với chúng ta, là một giọt tí xíu thế của điều Thượng đế là gì.
Vâng, nó là khổng lồ so với những con sông lớn
như sông Hằng và Brahmaputtra. Tất cả mọi việc chảy của chúng
vào đại dương không tạo ra khác biệt thấy được nào đối với nó;
và vậy mà có khác biệt, mặc dầu nó không thể cân đong hay đo
đếm được. Lớn hơn biển cả và đại dương rất nhiều là bầu trời;
vậy mà đối với chúng ta, điều này nữa cũng có giới hạn. Việc đạt
tới khái niệm về Thượng đế cần thêm một bước nhảy nữa, trong
đó mọi logic, ý tưởng và tưởng tượng sẽ phải bị vứt bỏ.

Thượng đế có nghĩa là sự tồn tại, hiện hữu - điều đơn giản là:
tính đang đấy là thuộc tính của Thượng đế. Bất kì cái gì chúng ta
có thể làm, nó không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của
ngài. Các nhà khoa học có một cách khác để phát biểu chân lí
này. Họ nói, “Không cái gì có thể bị phá huỷ.” Điều này có nghĩa
là chúng ta không thể loại bỏ được bất kì điều gì khỏi tính đang
đấy của nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ một mẩu than, chúng ta
có thể biến nó thành tro, nhưng tro đó sẽ tồn tại. Chúng ta thậm
chí có thể vứt nó xuống biển; nó sẽ trộn lẫn vào trong nước và sẽ
không còn thấy được nữa, nhưng dù hình dạng của nó bây giờ thế
nào, nó vẫn sẽ tồn tại. Chúng ta có thể phá huỷ hình dạng của nó,
nhưng chúng ta không thể phá huỷ tính đang đấy của nó. Tính
đang đấy của nó sẽ vẫn còn mãi mãi. Bất kì cái gì chúng ta cứ
làm với nó, sẽ không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của nó.
Tính đang đấy sẽ vẫn còn. Tất nhiên, chúng ta có thể thay đổi
hình và dạng của nó; chúng ta có thể cho nó hàng nghìn hình
dạng khác nhau - chúng ta có thể biến đổi nó lặp đi lặp lại -
nhưng chúng ta không thể thay đổi cái ở bên trong nó. Cái đó sẽ
còn lại. Nó đã là gỗ hôm qua, nó là tro hôm nay. Nó là đất sét
hôm qua, hôm nay nó là than. Hôm qua nó là than, hôm nay nó là
kim cương. Bao giờ cũng thế, nó vẫn đấy. Không cái gì tạo ra bất
kì khác biệt gì cho nó: nó vẫn còn.

Thượng đế là tính đang đấy trong mọi thứ - hiện hữu của
chúng, sự tồn tại của chúng. Mọi thứ có thể được tạo ra theo bất
kì số lượng nào, nhưng sẽ không có việc bổ sung thêm nào cho
tính đang đấy; chúng có thể bị phá huỷ theo bất kì số nào mà dầu
vậy sẽ không có việc rút bớt trong tính đang đấy. Nó sẽ vẫn còn
như cũ - không hoen ố, không gắn bó và không bị đụng chạm tới.
Khi chúng ta vẽ một đường trên mặt nước, cho dù nó tan
biến ngay khi được vẽ ra, cái gì đó đã xảy ra. Thậm chí không
một đường tạm thời như thế này có thể được vẽ vào trong sự tồn
tại - thậm chí ngần này là không có thể. Lời kinh này nói rằng cái
toàn thể này đã đi ra từ cái toàn thể kia. Cái kia là không biết; cái
này đã biết. Cái này mà thấy được đã đi ra từ cái kia, cái không
thấy được. Cái này mà chúng ta biết được đã đi ra từ cái kia mà
chúng ta không biết. Điều này mà chúng ta kinh nghiệm qua đã
đi ra từ điều kia mà nằm bên ngoài kinh nghiệm của ta.

Hiểu hiện tượng này cho đúng. Bất kì cái gì rơi vào bên
trong kinh nghiệm của chúng ta bao giờ cũng đến từ cái nằm bên
ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Bất kì cái gì được chúng ta thấy
đều nổi lên từ cái không thấy được. Điều chúng ta biết đến từ cái
không biết; và bất kì cái gì quen thuộc với chúng ta đều dẫn ra từ
cái không quen biết. Nếu chúng ta gieo một hạt mầm, cây mọc
lên từ nó. Nếu chúng ta đập hạt mầm và nghiền vụn nó thành
từng mảnh, sẽ không có cây. Sẽ không có dấu vết gì của hoa mà
đáng ra sẽ nở. Sẽ không có dấu vết gì của những cái lá mà đáng
ra sẽ xuất hiện. Chúng tới từ đâu?

Chúng tới từ cái vô hình. Chúng được tạo ra bởi cái vô hình.
Mọi khoảnh khắc cái vô hình đang được biến đổi thành cái hữu
hình, và cái hữu hình đang mất đi vào cái vô hình. Mọi khoảnh
khắc cái vô hạn đi vào trong cái hữu hạn và mọi khoảnh khắc trở
lại từ nó. Cũng hệt như qua trình thở của chúng ta - hít vào và thở
ra. Cái toàn thể của sự tồn tại liên tục hít vào và thở ra. Những
người biết đến bí mật của quá trình thở của sự tồn tại gọi nó là
sáng tạo và triệt tiêu. Họ nói sáng tạo xảy ra khi sự tồn tại hít vào, và triệt
tiêu xảy ra khi sự tồn tại thở ra, và giữa hai hơi thở
này chúng ta trải qua vô hạn kiếp sống. Khi sự tồn tại thở vào rồi
thở ra, chúng ta trải qua vô hạn lần sinh thành, không thể đếm
được số lần chúng ta tới và đi.

Lời kinh này nói lên hai điều. Thứ nhất, đó là cái toàn thể tới
từ cái toàn thể và cái còn lại là cái toàn thể. Thứ hai, đó là khi cái
toàn thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn là cái toàn thể.
Cái toàn thể đó bao giờ cũng vẫn còn trinh bạch, bao giờ cũng
chưa bị động tới. Không cái gì ảnh hưởng tới trinh bạch của nó.
Đây là vấn đề rất khó hiểu. Nó giống như thế này: một đứa trẻ
được sinh ra, nhưng người mẹ vẫn còn trinh. Câu chuyện như thế
đã được kể về Jesus và mẹ của ông ấy, Mary. Sau khi sinh ra
Jesus, Mary được gọi là đức mẹ đồng trinh đầy ân huệ. Câu
chuyện này lan truyền trong những người biết và hiểu về Jesus và
Mary, và nó đích xác giống như sinh thành của sự tồn tại; cái
toàn thể tới từ cái toàn thể.

Ki tô giáo không có khả năng giải thích biến cố này. Người
Ki tô giáo đã bị trở ngại bởi khái niệm về sinh thành đồng trinh.
Họ dốt nát về số học mà có thể để cho người mẹ còn đồng trinh
sau khi đã sinh con. Họ không biết chút nào về số học đó; họ
hoàn toàn dốt nát về toán học cao hơn. Ki tô giáo bị thách đố lớn.
Người Ki tô giáo hỏi, “Làm sao chúng ta có thể giải thích hiện
tượng này được? Điều ấy không thể được - đấy là phép màu!
Điều ấy tuyệt đối không thể được nhưng nó đã xảy ra, Thượng đế
đã cho chúng ta thấy phép màu.”

Bất kì phép màu nào được sự tồn tại trưng ra trong thế giới
này đều được trưng ra bởi mọi khoảnh khắc của nó. Không có
phép màu nào xảy ra trong thế giới này - hay, để thấy nó theo
cách khác, việc xảy ra của mọi khoảnh khắc đều là phép màu. Tất
cả đều là phép màu. Khi cây lớn lên từ hạt mầm, đấy là phép
màu; và khi đứa trẻ được sinh ra từ bụng mẹ, đấy là phép màu.
Không, không có gì lạ ở đây cả: vũ trụ bao la này được sinh ra từ
cái toàn thể, vậy mà cái mà nó tới từ đó không bị động chạm.
Nếu người mẹ đi sâu đến mức bà ấy bị cuốn hút - theo ý nghĩa
của lời kinh này - vào trong cái toàn thể, thế thì đâu là khó khăn
trong việc vẫn còn trinh bạch sau khi sinh con? Nếu người mẹ
hội nhập vào trong lời kinh này, trở thành một với nó, cô ấy có
thể trở thành người mẹ và vẫn còn trinh bạch.

Nhưng người tìm kiếm phải hiểu lời kinh này cho đúng - và
tôi đang nói điều này bởi vì tôi thấy ham muốn của bạn để đạt
tới. Bạn muốn đạt được cái gì đó. Người tìm kiếm thực sự không
nói về tất cả những điều này: sau hết, cái gì có thể xảy ra chỉ bởi
việc nói? Người đó biết rằng người đó không biết; và trong bất kì
hoàn cảnh nào điều gì có thể xảy ra chỉ qua việc biết? Người đó
sống nó. Người đó có ý thức. Có lẽ bạn sẽ hiểu dễ dàng thông
qua thực nghiệm cá nhân hơn là bạn sẽ hiểu qua lời tôi. Cho nên
thực nghiệm đi. Tự tham dự vào trong một hành động thường lệ,
nhỏ bé, và có ý thức vào mọi lúc: Nó đang xảy ra - tôi không làm
nó. Thử nó đi. Thấy nó, trong khi làm bất kì cái gì. Thấy nó trong
khi ăn, thấy nó trong khi bước dọc đường, thấy nó khi bạn đang
giận ai đó. Và nhận biết rằng sự việc đang xảy ra. Đứng đằng sau
và là nhân chứng cho điều đang xảy ra - thế thì bạn sẽ phát hiện
ra bí mật của lời kinh này. Bạn sẽ giữ chìa khoá bí mật trong tay
bạn. Bạn sẽ hiểu rằng cái gì đó đang xảy ra bên ngoài và bạn
đang đứng đằng sau, không động chạm và không liên quan. Như
bạn đã vậy trước khi làm nó, cho nên bạn vẫn còn lại sau đó, và
sự kiện xảy ra ở giữa đến như giấc mơ, và qua đi như giấc mơ.
Với sự tồn tại, luân hồi samsara - bánh xe cuộc sống - không
nhiều hơn mơ. Nếu nó trở thành mơ với bạn nữa, thế thì bạn trở
thành không tách biệt khỏi sự tồn tại. Tôi nhắc : với sự tồn tại,
luân hồi không gì nhiều hơn mơ; và chừng nào luân hồi còn hơn
là mơ đối với bạn, bạn sẽ kém hơn sự tồn tại. Cái ngày luân hồi
trở thành như mơ với bạn, bạn là sự tồn tại. Thế thì bạn có thể
nói, “Ta là Brahman.”

Đây là lời kinh sâu sắc thế. Không ai biết được bao nhiêu bí
mật được hàm chứa bên trong nó. Phần còn lại là toàn bộ ngay cả
khi cái toàn thể được lấy ra khỏi nó. Tâm niệm cả hai điều này -
cái toàn thể còn lại, và cái toàn thể được lấy ra: nó đi toàn bộ, nó
còn lại toàn bộ! Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mọi cá nhân
cũng là sự tồn tại, trong sự toàn bộ. Mỗi và mọi cá nhân, và mỗi
và mọi nguyên tử, là sự tồn tại toàn bộ. Không phải là một
nguyên tử là sự tồn tại bộ phận - không, nó là sự tồn tại trong
toàn bộ. Bởi điều này không được biết tới trong số học thông
thường của chúng ta, có hơi chút khó hiểu.

Nếu bạn đã hiểu rằng cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái
còn lại là cái toàn thể, thế thì tôi có thể nói thêm cho bạn. Cái
toàn thể vô tận đến từ cái toàn thể, và dầu vậy cái còn lại là toàn
thể. Nếu sau khi một cái toàn thể nổi lên, không có khả năng nào
cho cái toàn thể khác xuất hiện, điều đó có nghĩa là một khiếm
khuyết nào đó được gây ra bởi việc sinh thành nên cái toàn thể
thứ nhất. Nhưng nếu, sau khi cái toàn thể thứ nhất nổi lên, cái
toàn thể thứ hai xuất hiện, cũng nhiều như cái toàn thể này, và
cái thứ ba cũng thế - nếu những cái toàn thể liên tiếp cứ nổi lên
và dầu vậy bao giờ cũng có nhiều tiềm năng cho việc nổi lên của
các cái toàn thể - thế thì cái còn lại quả thực là cái toàn thể.
Do đó không phải bạn là một phần của sự tồn tại; nói điều
này là sai lầm. Bất kì ai nói bạn là một phần của sự tồn tại đều
sai. Người đó nói về toán học thấp hơn. Người đó đang nói về cái
thế giới mà hai cộng với hai là bốn. Người đó đang nói về thế
giới của cân đong và đo đếm. Tôi bảo bạn, và Upanishad bảo
bạn, và những người đã từng biết tới chân lí bảo bạn, rằng bạn là
sự tồn tại trong toàn bộ. Điều này không có nghĩa là người hàng
xóm của bạn không phải là sự tồn tại trong toàn bộ.

Không, sự kiện này không thể thay đổi được. Một bông hồng
nở trên bụi cây - và việc nở hoa tới độ cao nhất; nhưng tính toàn
bộ của việc nở hoa của nó không ngăn cản việc nở hoa của nụ
hoa bên cạnh nó. Giúp đỡ và hợp tác trở thành có thể, nhưng
chắc chắn không có cản trở. Một nghìn bông hồng có thể nở tới
độ tròn trịa nhất: tính toàn bộ của sự tồn tại là tính toàn bộ vô tận.
Từ tính toàn bộ vô tận này, các cái toàn thể vô tận có thể được
sinh ra. Từng cá nhân đều là sự tồn tại trong toàn bộ. Từng
nguyên tử đều là vũ trụ bao la này trong toàn bộ; không một chút
xíu khác biệt nào giữa nó và cái toàn thể. Nếu có bất kì khác biệt
nào thế thì nó không bao giờ có thể là cái toàn thể được, thế thì
không có cách nào để làm nó thành cái toàn thể; và nếu nó sẽ trở
thành cái toàn thể, thế thì nó là toàn thể ngay lúc này - chúng ta
dốt nát về sự kiện đó. Khiếm khuyết này đơn giản là trong tri
thức của chúng ta.

Lưu tâm tới lời kinh này trong những ngày sadhana của
chúng ta - công việc chúng ta cùng nhau. Lặp lại cho bản thân
bạn, “Cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái còn lại là toàn thể.
Khi cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể, cái toàn thể
vẫn còn là cái toàn thể.” Tất cả nó đều không tạo ra khác biệt
nào! Nhớ điều này trong tâm trí, và cứ lẩm bẩm nó bên trong bạn
với từng hơi thở của bạn. Mỗi ngày nhiều việc diễn giải của nó sẽ
được khải lộ ra dưới nhiều dạng khác nhau và trong nhiều cách
khác nhau. Giữ lời kinh này trong tâm trí, và khi chúng ta tiếp tục
khám phá nó, cứ để đi sâu hơn mãi vào trong ý nghĩa của nó, và
vào trong ghi nhớ của bạn về nó. Để những quá trình này cứ làm
việc bên trong bạn. Trong bẩy ngày này có thể là vào bất kì lúc
nào cái gì đó có thể xảy ra - bất thình lình lời kinh này có thể bật
ra từ môi bạn, và bạn sẽ cảm thấy cái toàn thể đến từ cái toàn thể,
và cái toàn thể còn lại. Cái toàn thể mất đi trong cái toàn thể và
vậy mà cái toàn thể vẫn còn là cái toàn thể. Không có gì khác biệt
gì cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa một giấc mơ và thế mà
chẳng cái gì thực sự xảy ra cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa
như mơ và vậy mà không cái gì thực sự xảy ra. Tất cả những điều này giống như
đóng kịch, vậy mà cái toàn thể vẫn còn không bị
quấy rối và không bị động chạm tới như bao giờ.

Nhớ lời kinh này nhiều nhất có thể được có thể sẽ có ích cho
bạn. Cố sống theo tinh thần của nó hai mươi bốn giờ một ngày.
Bản chất của Upanishad không thể được hiểu thông qua một
mình tâm trí; nó phải được lĩnh hội bằng việc sống nó. Kinh này
không tuyên bố về lí thuyết; nó trình bầy sadhanas nào đó, những
thực hành nào đó. Nó không chỉ bao gồm những kết luận tới
được với sự giúp đỡ của tri thức; nó tuyên bố kinh nghiệm. Khi
bạn sống với những kinh nghiệm này bên trong bản thân bạn -
cho chúng sinh ra trong bản thân bạn, cho phép chúng đi vào
máu, xương, thịt và các mô của bạn, cho phép chúng hội nhập
vào trong hơi thở của bạn; khi bạn sống trong lắng nghe, nhớ và
lẩm nhẩm về chúng trong lúc trải qua các việc thường ngày của
bạn như thức, đứng, ngồi và ngủ - thế thì, và chỉ thế thì bí mật
của chúng, những cánh cửa của chúng, bắt đầu mở ra cho bạn.
Bạn chỉ được trao cho lời công bố đầu tiên trong lời kinh
này. Họ phải là những người rất xuất sắc đã nói, như họ đã làm,
tất cả những cái có đó để được nói chỉ trong một lời kinh này. Nó
đi tới đầu kết thúc tuyên bố sự lắng xuống của ba dạng đau đớn:
Om. Shanti, shanti, shanti.

Lời kinh này có thể có quan hệ gì với việc làm lắng xuống
của nỗi đau ba lần này? Liệu khổ sở của bất kì ai có kết thúc
được bằng cách tụng niệm công thức nào đó không? Không,
nhưng hiền nhân này nói, “Om!” và điều đó kết thúc vấn đề. Liệu
tất cả mọi khổ sở của bạn có hết không, liệu bạn có trở nên thoát
khỏi chúng bằng việc tụng niệm lời kinh này không?
Nếu nó được tụng niệm trong tất cả sự chân thành, với đầy
hiểu biết, điều ấy là có thể đấy. Nếu nó đơn thuần được đọc ra từ
sách, điều ấy chẳng bao giờ có thể. Điều này là nói rằng nếu nó
được tụng niệm với thái độ, “Mình đã đọc điều này rồi - Mình đã
nghe điều này rồi,” thế thì không cái gì là có thể. Nhưng với
những người đã nói, “Om!” bằng tất cả dũng cảm và bạo dạn của
họ, mọi vấn đề xong rồi. Tất cả mọi khổ của người đã hiểu chân
lí đều được chấm dứt. Tất cả ưu phiền của thân thể, tâm trí và
linh hồn họ đều biến mất. Người như thế vượt ra ngoài ưu phiền.
Bạn nghĩ, “Phải có ý nghĩa nào đó khi ông ấy nói điều này
với sự dễ dàng thế, tin tưởng thế.” Ý nghĩa là thế này: bất kì ai
sống lời kinh này, bất kì ai cho sinh thành ra nó bên trong bản
thân mình, sẽ kinh nghiệm bản thân mình thoát khỏi mọi ưu
phiền, bởi vì chỉ có một loại ưu phiền, chỉ có một nỗi đau - dù đó
là ở mức độ tâm trí, thể chất hay tâm linh; chỉ có một loại thôi, và
đó là bản ngã. “Tôi đang làm điều này - điều này do tôi làm đấy,”
là ưu phiền duy nhất, chướng ngại duy nhất. “Xúc phạm này
nhằm vào tôi - tôi bị lăng mạ vậy ...” Tất cả những sự xảy ra này
tích luỹ quanh cái tôi này. Nhưng khi một vũ trụ bao la như thế
không tạo ra khác biệt gì với sự tồn tại, và để nó không bị động
chạm tới, tôi có phải cho phép những điều tầm thường như vậy
ảnh hưởng tới tôi không? Chẳng lẽ tôi không thể vẫn còn không
bị đụng chạm được sao? Chẳng lẽ tôi không thể đứng sang bên
và nói, “Xúc phạm này đã không được trao cho tôi” sao; và, “Bất
kì điều gì tôi đã làm đều đã được làm rồi. Tôi đã không làm nó.”
Nếu tôi trở thành nhân chứng cho những hành động xảy đến với
tôi và tiến hành từ tôi - nếu tôi dừng là người làm - thế thì những
bí mật kì diệu bắt đầu lộ ra.

Cho nên thử sống lời kinh này trong bẩy ngày này đi. Trong
khi tôi đang nói về Ishavasya Upanishad bạn sẽ nghe kinh này
được diễn giải từ nhiều góc độ khác nhau. Nếu bạn cố sống theo diễn giải tôi đã
nêu ra hôm nay, hiều biết chắc chắn sẽ tới với
bạn; không có điều ngược .

Đây là đủ về lời kinh. Bây giờ tôi sẽ nêu ra một số hướng
dẫn liên quan tới thiền, vì sáng mai chúng ta sẽ bắt đầu thực hành
thiền. Điều đầu tiên phải lưu tâm là trong cả ngày thở thật toàn
bộ hết mức và, bất kì khi nào bạn nhớ ra, hít vào thật sâu hết
mức. Thật nhiều ô xi! Năng lượng bạn giải phóng ra cho công
việc của bạn sẽ tỉ lệ trực tiếp với việc lấy vào hơi thở của bạn.
Rất nhiều năng lượng nằm ẩn trong thân thể bạn. Nó phải được
khuấy động và kích hoạt hướng tới thiền; nó phải được chuyển
kênh vào thiền. Cho nên lời kinh thiền đầu tiên tôi trao cho bạn là
để kích hoạt năng lượng đó. Phương tiện gần nhất và dễ nhất có
sẵn cho bạn là hoạt động thở của bạn.

Ngay khi bạn thức dậy vào buổi sáng và trở lại với ý thức,
bắt đầu thở sâu, vẫn ngồi trên giường. Khi bạn bước đi dọc con
đường, thở sâu nhất có thể được. Làm điều đó chậm rãi, đừng
quá gắng sức mình, thoải mái và vui vẻ - nhưng nhớ, hơi thở của
bạn phải sâu. Nhớ trong tâm vào mọi lúc rằng bạn sẽ dễ dàng đi
vào trong thiền nếu bạn hít thật nhiều ô xi có thể được. Bạn càng
có nhiều ô xi trong máu, trong tim, bạn sẽ thấy việc thiền của
mình càng dễ hơn. Bạn càng tống ra nhiều các bô níc, thiền càng
dễ dàng hơn cho bạn. Cái không thuần khiết giảm đi khi bạn làm
tăng khối lượng ô xi trong thân thể mình. Điều thú vị là biết rằng
tâm trí thấy nó khó vận hành nếu cơ sở của sự không thuần khiết
của thân thể bị loại bỏ. Cơ hội cho ý nghĩ nảy nở trong tâm trí
bạn sẽ ít đi khi bạn hấp thu nhiều không khí tươi mát; và như tôi
đã bảo bạn, điều này sẽ làm tăng thêm tiềm năng cho lời kinh
giống thế này nở bung và đâm hoa bên trong bạn.

Cho nên điều thứ nhất là: thật nhiều ô xi. Để có thừa thãi ô xi
trong bạn đi. Nhớ điều này trong suốt bẩy ngày này. Hai hay ba
điều sẽ xảy ra nếu bạn làm điều này, nhưng đừng sợ chúng. Khi
bạn bắt đầu thở sâu, giấc ngủ của bạn sẽ ngắn hơn. Điều này
không phải là cái gì đó phải lo âu. Khi giấc ngủ sâu và say, việc
kéo dài của nó giảm đi, và khi bạn bắt đầu thở sâu hơn, chiều sâu
của giấc ngủ của bạn cũng sẽ tăng lên. Đây là lí do tại sao những
người làm việc vất vả về thể lực ngủ say thế trong đêm. Chiều
sâu của giấc ngủ của bạn sẽ tăng lên tỉ lệ với chiều sâu của hơi
thở của bạn, và khi chiều sâu giấc ngủ của bạn tăng lên, việc kéo
dài của nó cũng sẽ giảm đi. Đừng lo lắng về điều này. Nếu bây
giờ bạn ngủ bẩy tiếng, nó sẽ trở thành bốn hay năm tiếng. Đừng
lo lắng về điều đó - bạn sẽ tỉnh dậy vào buổi sáng sảng khoái
hơn, vui vẻ hơn và mạnh khoẻ hơn từ giấc ngủ năm tiếng này so
với bạn vẫn thường tỉnh dậy sau khi ngủ tám tiếng. Cho nên khi
giấc ngủ của bạn tới điểm kết thúc vào buổi sáng - và điều này sẽ
bắt đầu xảy ra sớm hơn nếu bạn đã thở sâu - bạn nên dậy ngay
lập tức. Đừng bỏ lỡ khoảnh khắc phúc lạc ấy của buổi sáng; dùng
nó cho thiền.

Điểm thứ hai cần nhớ là ở chỗ bạn càng ăn ít thức ăn, và bữa
ăn càng nhẹ, càng tốt hơn cho bạn. Giảm số lượng thật nhiều cho
thoải mái nhất có thể được. Nhịp độ thiền của bạn sẽ càng nhanh
chóng và dễ dàng hơn nếu bạn ăn càng ít đi. Tại sao có điều này?
Có một số lí do có căn cứ cho nó đấy. Thân thể chúng ta có một
số thói quen đã lắng đọng. Thiền không nằm trong số đó; nó là
công việc mới cho thân thể. Thân thể có những liên kết cố định.
Nếu thói quen đã thành hình của thân thể bị ngắt tại bất kì điểm
nào, thế thì thân thể và tâm trí chúng ta có thể hình thành thói
quen mới một cách dễ dàng. Giả sử bạn là người lo âu, và bắt đầu
gãi đầu theo thói quen. Bây giờ nếu tay bạn bị buộc xuống vào
lúc đó để cho bạn không thể gãi đầu được, thế thì bạn không thể
còn bị lo âu. Điều này rất thách đố. Bạn có thể hỏi, “Cái gì là mối
quan hệ giữa lo âu và gãi?” Câu trả lời là thói quen. Thân thể giữ
thói quen của nó một cách bền vững và vận hành qua chúng.
Ăn là thói quen được bắt rễ sâu nhất của thân thể; nó là sâu
nhất bởi vì không thể có cuộc sống nếu không có nó. Nhớ điều
đó trong tâm trí, nó mạnh mẽ hơn và có uy lực hơn dục. Trong
mọi thói quen bắt rễ sâu của cuộc sống, thói quen ăn uống là sâu
nhất. Nó bắt đầu từ ngày đầu của cuộc đời và tiếp diễn cho đến
ngày cuối cùng. Chính sự tồn tại của cuộc sống, bản thân thân
thể, phụ thuộc vào nó.

Cho nên, nếu bạn muốn thay đổi thói quen của tâm trí và
thân thể bạn, thế thì làm yếu đi cái thói quen sâu xa nhất này
ngay lập tức. Ngay khi bạn làm điều này, mọi lề thói và cách bố
trí thể chất cố định của thân thể bạn sẽ bị khuấy động, và bạn sẽ
thấy dễ dàng hơn để đi vào những miền mới, và đi vào những
tầm hướng mới với thân thể bạn trong hoàn cảnh đã khuấy động
này; bằng không bạn sẽ thấy càng khó khăn hơn. Cho nên tự bản
thân bạn cam kết nhiều nhất có thể được theo chiều hướng này
đi. Bạn có thể chọn nhịn ăn, hay có lẽ ăn một bữa một ngày. Làm
như bạn chọn; không cần qui tắc. Một cách yên tĩnh, và với nhịp
độ của bạn, đi theo con đường dễ dàng nhất cho bạn.
Điểm thứ ba là tập trung. Bạn phải thở sâu hai mươi bốn giờ
một ngày, và đồng thời nhận biết về việc thở của bạn. Chú ý tới
việc thở của bạn, và tập trung sẽ dễ dàng xảy ra. Khi bước đi,
đem nhận biết vào việc bước, đem nhận biết vào khi tắm. Tập
trung có thể dễ dàng được đạt tới - ngay cả khi bước đi trên
đường. Theo cách này: hít vào, bạn quan sát rằng hơi thở từ bên
ngoài đi vào bên trong - chăm chú! Giữ việc quan sát hít vào
cũng quan sát cả việc thở ra của mình. Nếu bạn chăm chú bạn
cũng sẽ có thể thở sâu. Nếu bạn không chăm chú bạn sẽ quên
quan sát, và quá trình thở của bạn sẽ trở thành nông. Nếu bạn cứ
thở sâu bạn sẽ có khả năng vẫn còn chăm chú vì bạn sẽ phải
chăm chú để làm việc thở sâu. Cho nên kết hợp thiền với thở. Khi
bạn đang làm việc gì đấy, nếu bạn cảm thấy việc ấy không thể
giữ được chú ý của bạn vào việc thở, thế thì giữ tập trung của bạn
vào nhiệm vụ của bạn. Chẳng hạn, khi bạn đang ăn thức ăn, tập
trung đầy đủ vào hành động ăn. Lấy mọi miếng nhai với tập
trung đầy đủ. Khi bạn đang tắm, tập trung vào nước đang phun
lên người bạn. Khi bước trên đường, tập trung vào từng bước bạn
đi.

Chìm ngập bản thân bạn vào tập trung trong hai mươi bốn
giờ một ngày trong bẩy ngày này. Việc thiền chúng ta sẽ thực
hiện ở đây là hoàn toàn tách biệt, nhưng tôi đang giải thích cho
bạn về nền tảng của điều bạn cần phải làm trong thời gian còn lại.
Cho nên thực hành ba điểm này: thật chăm chú, thật tập trung -
và đặc biệt vào việc thở của bạn, vì việc thở là quá trình không
dừng, hai mươi bốn tiếng một ngày. Không ai có thể cứ ăn hay
bơi hay bước liên tục hai mươi bốn tiếng, nhưng thở tiếp diễn
không dừng, cho nên việc tập trung có thể được thực hành trên
nó vào mọi lúc. Tập trung vào nó! Quên đi rằng có cái khác đang
diễn ra trên thế giới. Sống dường như chỉ một điều đang xảy ra
trên toàn bộ thế giới này, và đó là việc thở vào và việc thở ra.
Thế là đủ; đi theo quá trình thở đi vào và ra giống như chuỗi hạt.
Bạn tập trung chỉ vào điều này.

Điểm thứ tư là tước đi cảm giác. Ba điều cần phải được làm.
Nếu bạn cảm thấy có khả năng giữ im lặng trong cả ngày, thế thì
bắt đầu ngay đi; và nếu bạn thấy điều này là khó, thế thì thật vắn
tắt trong việc nói của bạn. Hiểu rằng bạn đang phải trả giá cho
từng lời bạn nói. Cho nên đừng nói quá hai mươi từ trong cả
ngày. Chỉ nói khi tuyệt đối cần thiết, khi không thể tránh được -
giống như vấn đề sống và chết! Bạn không thể tưởng tượng nổi
sẽ ích lợi thế nào cho bạn để giữ im lặng toàn bộ - giá trị của nó
không thể tính nổi.

Cho nên để cho bản thân bạn là im lặng toàn bộ; bạn sẽ
không thấy điều ấy là khó. Để một tờ giấy và bút chì cạnh mình
và nếu bạn thấy tuyệt đối bản chất, viết ra thông điệp của bạn rồi chỉ nó
cho ai đó. Vẫn còn hoàn toàn im lặng. Năng lượng này sẽ
giúp bạn đi sâu hơn vào thiền. Quá nửa năng lượng của con
người bị tiêu tốn bởi lời nói. Cho nên dừng việc dùng lời hoàn
toàn đi. Với năng lực cao nhất của bạn, gìn giữ im lặng; và hết
sức chú ý đừng làm tan vỡ im lặng của người khác. Nếu im lặng
của bạn bị tan vỡ, đấy là điều không may của bạn, đấy là trách
nhiệm riêng của bạn; nhưng thấy rằng bạn không làm tan vỡ im
lặng của bất kì ai. Đừng hỏi bất kì ai những câu hỏi vô dụng,
đừng đưa ra những yêu cầu không cần thiết, đừng nêu ra những
câu hỏi vô dụng, đừng cố kéo bất kì ai vào đối thoại. Hợp tác và
giúp đỡ người khác giữ im lặng. Nếu ai đó hỏi một câu hỏi, ra
hiệu cho người đó giữ im lặng. Người đó cần được nhắc nhở.
Gạt việc nói sang bên tuyệt đối trong bẩy ngày. Bạn đã nói
quá nhiều cho tới hôm nay, và bạn sẽ làm như thế trong thời gian
bẩy ngày. Nhưng trong một tuần này, bỏ việc nói hoàn toàn đi.
Mọi người phải cố gắng hết sức. Nếu bạn có thể duy trì im lặng
trong cả bẩy ngày điều đó sẽ giúp bạn cực kì lớn, và bạn sẽ chẳng
cần phải xin lỗi, “Tôi không thể thiền được.” Nếu bạn tuân theo
năm hướng dẫn tôi đang trao cho bạn, bạn sẽ chẳng có lí do nào
để phàn nàn. Nếu bạn tạo ra vấn đề bởi việc bỏ qua những điểm
này, chỉ bạn chịu trách nhiệm. Cho nên giữ im lặng toàn bộ, và
nếu bạn không thể làm được điều này - nếu bạn yếu đuối, nếu
bạn thiếu quyết tâm, nếu thông minh của bạn không đủ mạnh -
thế thì ít nói đến mức có thể được đi. Nếu bạn còn có thông minh
nào đó, sức mạnh ý chí nào đó, sức mạnh nào đó, tự tin nào đó,
thế thì giữ im lặng toàn bộ.

Im lặng là điều bản chất đầu tiên của chương trình loại bỏ
giác quan. Điều thứ hai là bịt mắt . Bạn làm một khăn bịt mắt và
bắt đầu dùng nó từ sáng mai. Mắt bạn phải hoàn toàn bị che kín.
Mắt là cánh cửa qua đó bạn đi ra. Bạn càng giữ cho chúng đóng
điều đó càng tốt hơn cho bạn. Ngay cả khi bạn chỉ ngồi đấy, đeo
cái che mắt lên, vì thế thì bạn sẽ không thấy người khác, và cơ
hội cho đối thoại sẽ không nảy sinh; và khi thấy bạn bị che mắt,
người khác sẽ không thử quấy rối bạn một cách không cần thiết.
Cho nên che mắt đi. Bạn đã nghe nói về giữ im lặng; bây giờ tôi
yêu cầu bạn phải bịt mù nữa.

Im lặng là một loại giải thoát và bịt mù là giải thoát lớn hơn
và sâu hơn, vì chính mắt làm cho chúng ta chạy ra ngoài cả ngày.
Bằng việc nhắm mắt, bạn sẽ có ít phạm vi đi ra ngoài nhiều hơn,
và năng lượng sẽ bắt đầu luân chuyển bên trong. Cho nên bạn
giữ cho mắt được bịt kín. Trong khi bước đi nâng nó lên một
chút, đủ để nhìn xuống, đủ để thấy mặt đường quãng một mét hai
phía trước bạn. Để cái bịt mắt trong cả ngày. Nếu bạn có thể ngủ
mà vẫn đeo nó trong đêm, cứ đeo. Chỉ cởi nó ra nếu bạn thấy bất
tiện. Nếu bạn ngủ vẫn đeo nó, sẽ có khác biệt trong việc ngủ
ngon giấc của bạn. Bạn cứ giữ nó trong thời gian bạn còn lại ở
đây. Khi chúng ta gặp nhau ở đây cho buổi thiền sáng, miếng che
mắt phải vẫn còn đeo. Cởi nó ra cho buổi thiền chiều, nhưng vẫn
giữ nó cho tới khi bạn tới được nền tảng của thiền. Vào đêm bạn
cũng phải đeo khăn che mắt đó. Một lần ở đây, bỏ nó ra trong
thời gian thiền đêm.

Cho nên, khi tôi bắt đầu nói vào buổi sáng, bỏ khăn che mắt
của bạn ra, và bỏ cả trong buổi thiền chiều và đêm. Tôi đang trao
cho bạn những cơ hội này để dùng mắt bạn vì có cơ hội nào đó
để thấy thế giới bên ngoài có thể giúp cho mắt bạn quay vào bên
trong; bằng không giữ mắt bạn nhắm lại. Bạn sẽ ngạc nhiên biết
bao nhiêu căng thẳng tâm trí biến mất khi mắt bạn được giữ
nhắm lại. Rất nhiều căng thẳng tâm trí đi vào qua mắt, và chính
căng thẳng mắt gây ra căng thẳng trong mô não. Nếu mắt vẫn còn
không bị quấy rối, bình thản và thảnh thơi, chín mươi chín phần
trăm bệnh tật tâm trí sẽ biến mất. Cho nên có ý thức và dùng đầy
đủ phương tiện này.

Không có vấn đề về bất kì ai được miễn thứ hay miễn trừ;
nếu bạn cố gắng tránh nó, tôi không phải là người mất mà bạn là
người mất. Nhớ trong tâm rằng bạn phải vẫn còn mù trong phần
lớn thời gian. Bạn phải cho mắt bạn kì nghỉ một tuần; tưởng
tượng rằng bạn không có mắt chút nào. Sau bẩy ngày bạn sẽ nhận
ra mắt bạn có thể được thảnh thơi và bình lặng đến đâu. Bạn sẽ
không bao giờ tưởng tượng được rằng nhiều vui đến thế có thể
tuôn chảy ra từ thảnh thơi của chúng này. Nhưng nếu trong
những ngày này bạn chọn tự lừa dối mình, thế thì tôi không chịu
trách nhiệm. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn. Không ai có trách
nhiệm cho bất kì ai khác ở đây cả. Bạn có thể tự lừa dối mình hay
không, tuỳ bạn thôi.

Cũng như vải che mắt, lấy miếng bông nút vào lỗ tai. Chúng
ta muốn cho tai nghỉ ngơi nữa. Nếu mắt, tai và miệng đều đóng
và được nghỉ ngơi, kết quả là một hoàn cảnh cho việc mất giác
quan. Nút bông vào tai, thế rồi buộc chặt khăn che vào mắt.
Theo cách đó những người khác, nếu muốn, không thể quấy rầy
bạn trong im lặng của bạn. Nếu tai bạn để mở ai đó có thể định
nói với bạn. Sẽ không có cám dỗ nào nếu tai bạn bị nút kín. Bạn
để mở tai chỉ khi tôi nói ở đây vào buổi sáng, và ban đêm khi bạn
đi ngủ. Giữ mắt mở và tai nút kín trong các buổi thiền chiều và
đêm.

Hướng dẫn thứ năm và cuối cùng là điều kiện quan trọng
nhất và bản chất nhất của tất cả. Nó là thế này: chỉ những người
nào đang nhảy múa và cười trong đầy vui và phấn khởi mới vào
ngôi đền của sự tồn tại. Không người khóc nào đến được lối vào
ở đó. Cho nên vứt bỏ ưu tư và phiền muộn của bạn trong bẩy
ngày này. Phúc lạc đi! Cười, nhảy múa và vẫn còn vui vẻ. Để
phúc lạc có với bạn trong mọi lúc. Vẫn còn phấn khởi và vui vẻ
ngay trong việc thường lệ của bạn. Phúc lạc trong khi ngồi hay
bước - say sưa với âm nhạc, điên lên với vui! Khi bạn đang
bước, đừng bước như mọi người vẫn thường bước; bước như
người tìm kiếm, như một sadhu bước, với vũ điệu trong bước
chân bạn. Đừng lo nghĩ về điều người khác có thể nói. Chúng ta
tới đây là để được tự do với mọi phê phán của người khác. Tệ
nhất người khác có thể cho là bạn gàn dở, người trên cung trăng.
Vậy chấp nhận tình huống ấy ngay từ đầu đi; đây là điều xấu nhất
có thể xảy ra. Cố tạo ra bầu không khí phúc lạc và vui vẻ cho
toàn bộ trại.

Giữ im lặng - im lặng rạng ngời với vui mừng và khoan
khoái, im lặng nhảy múa trong nô giỡn và hớn hở; im lặng ở bên
ngoài, và năng lượng nhảy múa bên trong. Trong vui mừng của
bạn, nhảy múa và cười đùa. Nếu bạn cảm thấy phải nhảy múa
thậm chí trong phiên thiền im lặng buổi chiều, bạn có thể làm
như vậy. Tràn đầy vui vẻ và hạnh phúc ngay cả trong phiên thiền
buổi sáng ở đây. Nếu bạn muốn, nếu bạn cảm thấy thích nó, thậm
chí trong thiền cũng có thể nhảy, múa và cười được. Nếu bạn
khóc, để cho việc khóc đó là kết quả của vui vẻ của bạn. Để cho
nước mắt bạn giúp cho phúc lạc của bạn tuôn chảy. Nhớ tất cả
những điều này trong tâm trí. Nếu bạn muốn đung đưa, thế thì
đung đưa. Nếu bạn muốn nhảy múa trong buổi thiền đêm, thế thì
nhảy múa. Nếu bạn muốn nhún nhảy ra trước ra sau, làm điều đó.
Nếu bạn muốn cười, thế thì cười. Rung động của vui vẻ bao giờ
cũng nên có cùng với bạn.

Năm điều này là để thực hành từ sáng mai. Cho nên thu xếp
từ bây giờ để có khăn bịt mắt và bông nút tai. Đến lúc mặt trời
lên sáng mai bạn sẽ không là cùng con người đã đến đây hôm
nay nữa. Đây là trông đợi của tôi. Làm điều tôi đã nói, và nếu bạn
hoàn thành trông đợi của tôi, chẳng cái gì có thể ngăn cản bạn có
khả năng nói, “Om. Shanti, shanti, shanti! - an bình, an bình, an
bình!” khi bạn khởi hành từ đây. Nếu, khi bạn rời khỏi đây, trái
tim bạn có thể thốt ra những lời này, thế thì không có khó khăn gì
với bạn cả.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog