Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Kỉ luật bên ngoài kỉ luật

Phật nói:
Học thuyết của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được; để thực hành hành vi không làm được;
để nói bài nói không diễn đạt được; và để được
huấn luyện trong kỉ luật vượt ra ngoài kỉ luật.

Những người hiểu điều này là gần; những người
bị lẫn lộn là xa. Đạo ở bên ngoài lời và việc diễn
đạt, không bị giới hạn bởi bất kì cái gì trần tục.
Mất cái nhìn về nó chỉ một li thôi hay mất nó
trong một khoảnh khắc thôi, và chúng ta xa khỏi
nó mãi mãi.
Lời kinh này là một trong những lời quan trọng
nhất, một trong những lời rất trung tâm của thông
điệp của Phật. Chính điều bản chất của thông điệp của
ông ấy có đó tựa như hạt mầm. Kiên nhẫn đi cùng tôi
vào trong nó, cố hiểu nó. Bởi vì nếu bạn hiểu câu mật
chú này, bạn đã hiểu tất cả mọi điều Phật muốn bạn
hiểu. Nếu bạn bỏ lỡ câu mật chú này, bạn bỏ lỡ tất cả.
Phật nói:
Học thuyết của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được; để thực hành hành vi không làm được;
để nói bài nói không diễn đạt được; và để được
huấn luyện trong kỉ luật vượt ra ngoài kỉ luật.
Việc chọn từ 'học thuyết' là điều không may,
nhưng có những khó khăn trong việc dịch. Phật phải
đã dùng từ siddhanta. Nó có nghĩa hoàn toàn khác.
Thông thường nó được dịch là học thuyết; nó không
nên được dịch như vậy. Nhưng vấn đề là ở chỗ trong
tiếng Anh không có từ tương đương với siddhanta.
Cho nên tôi sẽ phải giải thích nó cho bạn.
Học thuyết là một lí thuyết logic nhất quán. Còn
siddhanta chẳng có liên quan gì tới logic, lí thuyết,
nhất quán cả. Siddhanta là việc nhận ra, siddhanta là
kinh nghiệm. Học thuyết mang tính trí tuệ, siddhanta
mang tính tồn tại. Bạn có thể làm ra học thuyết mà
không bị biến đổi bởi nó. Bạn có thể làm ra học
thuyết vĩ đại mà thậm chí không bị nó chạm tới.
Nhưng nếu bạn muốn đạt tới siddhanta thì bạn sẽ phải
được biến đổi toàn bộ, bởi vì nó sẽ là tầm nhìn về một
con người khác toàn bộ.
Từ siddhanta nghĩa là việc khẳng định về người
đã trở thành một siddha, người đã đạt tới, người đã đi
tới - tuyên bố của người đó. Bạn có thể là triết gia vĩ
đại, bạn có thể hình dung ra nhiều thứ về mặt trí tuệ, bạn có thể tổng hợp các suy diễn của mình, và bạn có
thể làm ra qui tắc suy diễn rất logic, nhất quán, có vẻ
gần như chân lí, nhưng lại không phải là chân lí. Nó
được tâm trí bạn chế tạo ra. Học thuyết là nhân tạo;
siddhanta chẳng liên quan gì tới con người và nỗ lực
của con người. Siddhanta là tầm nhìn - bạn chợt nảy
ra nó trong óc.
Chẳng hạn, người mù có thể nghĩ về ánh sáng và
có thể cố gắng hình dung ra nó tất cả là gì. Người đó
thậm chí có thể nghe các chuyên luận lớn lao về ánh
sáng và người đó có thể làm ra ý tưởng nào đó về nó -
nó là gì. Nhưng người đó sẽ vẫn ở xa với ánh sáng
như người đó trước đây. Người đó thậm chí có thể
giải thích chi tiết học thuyết về ánh sáng, người đó có
thể giải thích vật lí của ánh sáng, người đó có thể giải
thích cấu trúc của nó. Người đó có thể đi sâu vào các
thành tố của ánh sáng, người đó có thể nói, người đó
có thể viết, người đó có thể viết luận án tiến sĩ về nó,
bản luận văn. Người đó có thể được đại học công bố
là tiến sĩ, bởi vì người đó đã làm sâu sắc một học
thuyết - nhưng dầu vậy người đó vẫn không biết ánh
sáng là gì. Người đó không có mắt để thấy.
Siddhanta là cái bạn đã thấy, cái đã được hiển lộ
cho bạn, cái đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn,
cái bạn đã đương đầu. Học thuyết gần như là tưởng
tượng, nó không thực. Học thuyết gần như bao giờ
cũng được vay mượn. Bạn có thể che giấu vay mượn
của mình theo nhiều cách - những cách tinh tế, tinh
ranh. Bạn có thể phát biểu lại, bạn có thể lấy từ nhiều
nguồn và bạn có thể tái thu xếp mọi thứ, nhưng học
thuyết là thứ vay mượn - chẳng cái gì nguyên bản
trong nó.
Siddhanta là tuyệt đối nguyên bản, mới. Nó là
kinh nghiệm đích thực của bạn. Bạn đã đi tới thấy
thực tại là gì. Nó là cảm nhận tức khắc, nó là phúc
lành, nó là ân huệ, nó là sự trọng đãi, món quà. Bạn
đã đạt tới và bạn đã thấy chân lí là gì. Phát biểu về
việc nhận ra là siddhanta. Làm sâu sắc học thuyết là
một điều; cho cách diễn đạt về siddhanta là khác toàn
bộ.
Tôi đã nghe:
Có lần Mulla Nasruddin nói chuyện với vài người
bạn của mình. Anh ta kể cho các bạn thân của mình
về kì nghỉ tuyệt vời mà anh ta và gia đình đã có ở Mĩ.
'Đó là một nước kì diệu,' anh ta kêu lên. 'Không
đâu trên thế giới này người lạ lại được đối xử tốt thế.
Bạn bước đi trên phố và bạn gặp một anh chàng ăn
vận trang nhã với nhiều đô la. Anh ta ngả mũ chào và
mỉm cười với bạn, và bạn cùng nói chuyện. Anh ta
mời bạn vào chiếc xe lớn của anh ta, và chỉ cho bạn
xem thành phố. Anh ta chiêu đãi bạn bữa tối ngon
lành, rồi đưa bạn tới nhà hát. Bạn có nhiều thức ăn
ngon và đầy đồ uống, và anh ta mời bạn về nhà anh ta
và bạn ngủ ngon lành cả đêm. Sáng hôm sau...
'Cái gì, Nasruddin,' một thính giả nói, 'tất cả điều
này thực sự xảy ra cho anh chứ?'
'Không, không đích xác thế, nhưng nó tất cả đã
xảy ra cho vợ tôi,' Nasruddin nói. 

Học thuyết là cái đã xảy ra cho ai đó khác. Bạn đã
nghe nói về nó. Nó đã không xảy ra cho bạn - nó được
vay mượn, bẩn, xấu. Siddhanta mới trong trắng.
Học thuyết là mãi dâm. Nó đã đi qua nhiều tâm
trí, qua tay nhiều người. Nó giống như tiền bẩn; nó cứ
thay đổi chủ nhân. Siddhanta là cái gì đó tuyệt đối
tươi tắn. Nó chưa bao giờ xảy ra trước đây, nó sẽ
không bao giờ xảy ra lần nữa. Nó đã xảy ra cho bạn.
Siddhanta mang tính cá nhân sâu sắc, nó là tầm nhìn
cá nhân về thực tại.
Điều đã xảy ra cho Phật là siddhanta - điều các
Phật tử đề xuất là học thuyết. Điều đã xảy ra cho
Christ là siddhanta - điều người Ki tô giáo nói tới là
học thuyết. Điều đã xảy ra cho Krishna là siddhanta -
điều người Hindu cứ ba hoa là học thuyết. Điều tôi
đang nói với bạn là siddhanta - nếu bạn đi và lặp lại
điều đó, nó sẽ là học thuyết. Đó là lí do tại sao tôi nói
đó là việc chọn từ rất không may để đặt vào mồm
Phật.
Học thuyết của ta là để suy nghĩ... Không, để nó
là: Siddhanta của ta là để suy nghĩ, việc nhận ra của ta
là để suy nghĩ, hiểu biết riêng của ta là để suy nghĩ...
Ông ấy không đề nghị một lí thuyết, ông ấy đơn giản
diễn đạt một kinh nghiệm.
Thêm vài điều nữa trước khi chúng ta đi vào trong
lời kinh này.
Siddhanta theo chính bản chất của nó mang tính
ngược đời - nó phải như thế, bởi vì cuộc sống mang
tính ngược đời. Nếu bạn thực sự đã kinh nghiệm điều
đó, thế thì bất kì điều gì bạn thấy và nói cũng đều sẽ
mang tính ngược đời. Cuộc sống bao gồm những mâu
thuẫn. Chúng ta gọi chúng là mâu thuẫn; cuộc sống
không gọi chúng là mâu thuẫn. Chúng là những phần
bù. Ngày và đêm nhảy múa cùng nhau, yêu và ghét đi
tay trong tay. Chúng ta gọi chúng là mâu thuẫn - trong
cuộc sống chúng không phải vậy. Cuộc sống là lớn
lao và bao la, mênh mông. Nó bao hàm tất cả mọi
mâu thuẫn vào trong nó; chúng là các phần bù.
Khi một người đã nhận ra, bất kì điều gì người đó
nói cũng đều sẽ có hương vị của ngược đời. Đó là lí
do tại sao tất cả các khẳng định tôn giáo vĩ đại đều
mang tính ngược đời. Chúng có thể ở trong Vedas,
trong Upanishads, trong Koran, trong Kinh Thánh,
trong Đại Đức Kinh. Bất kì nơi đâu, bất kì khi nào
bạn tìm thấy chân lí, bạn sẽ thấy nó mang tính ngược
đời - bởi vì chân lí phải mang tính toàn bộ; tính toàn
bộ là tính ngược đời.
Học thuyết không bao giờ mang tính ngược đời,
học thuyết cực kì nhất quán - bởi vì học thuyết không
lo nghĩ về thực tại. Học thuyết lo nghĩ về việc nhất
quán. Nó không biết tới thực tại. Nó là trò chơi tâm
trí, và tâm trí lại rất, rất logic. Và tâm trí nói đừng cho
phép mâu thuẫn nào trong nó. Tâm trí nói nếu bạn nói
về ánh sáng thế thì đừng nói về bóng tối bởi vì điều
đó sẽ không nhất quán. Quên bóng tối đi. Tâm trí cố
gắng chứng minh rằng cuộc sống là không mâu thuẫn,
bởi vì đó là chọn lựa của tâm trí.
Tâm trí rất sợ mâu thuẫn, trở nên rất lung lay khi
nó bắt gặp mâu thuẫn. Nó khăng khăng vào hình mẫu
riêng của nó. Tâm trí mang tính logic, cuộc sống thì
không. Cho nên nếu bạn tìm thấy cái gì đó rất logic, hãy đề phòng - cái gì đó phải sai trong nó. Nó phải
không là một phần của cuộc sống, nó phải là nhân tạo.
Mọi thứ do thượng đế làm đều mâu thuẫn. Đó là lí
do tại sao mọi người cứ tranh cãi về thượng đế. Tại
sao, nếu ông ấy yêu con người nhiều thế, thì tại sao
ông ấy lại tạo ra cái chết? Tâm trí thấy rất khó chấp
nhận ý tưởng rằng Thượng đế đã tạo ra cuộc sống
cũng tạo ra cái chết. Nếu đấy là tuỳ ở bạn, nếu như
bạn là người làm ra thế giới này, nếu tâm trí mà là
đấng sáng tạo, thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ làm điều
đó.
Nhưng nghĩ về cuộc sống mà không tồn tại cái
chết xem. Nó sẽ cực kì chán. Nó sẽ tẻ ngắt. Cứ nghĩ
mà xem - nếu cái chết mà không thể được, thế thì bạn
sẽ liên tục trong địa ngục. Nếu tâm trí đã tạo ra thế
giới này, thế thì chắc sẽ chỉ có yêu, không có ghét.
Những nghĩ về một thế giới chỉ yêu tồn tại. Thế thì nó
sẽ quá dịu ngọt - dịu ngọt tới độ phát buồn nôn. Nó sẽ
mất tất cả các hương vị, nó sẽ mất tất cả mọi mầu sắc,
nó sẽ tẻ nhạt. Yêu là đẹp bởi vì có khả năng của ghét.
Nếu tâm trí mà tạo ra thế giới này hay Aristotle
được yêu cầu tạo ra thế giới này, thế thì sẽ chỉ có
ngày, không có đêm; chỉ công việc, không chơi đùa.
Thế thì nghĩ điều gì sẽ xảy ra. Thượng đế trong từ bi
của mình không bao giờ nhận lời khuyên nào từ
Aristotle. Và có thể đó là lí do để ngài đã tạo ra con
người vào phút chót. Trước hết ngài tạo ra những thứ
khác - bằng không thì con người sẽ bắt đầu cho lời
khuyên.
Đó đã từng là vấn đề - tại sao ngài đã tạo ra con
người vào phút chót? Trước hết ngài tạo ra cây cối và
trái đất và bầu trời và các vì sao và con vật và chim
chóc và cái toàn thể - thế rồi ngài chờ đợi và chờ đợi.
Thế rồi ngài tạo ra con người. Và ban đầu ngài tạo ra
đàn ông, rồi ngài tạo ra đàn bà. Bởi vì đàn ông, chỉ vì
lễ phép, có thể đã giữ yên tĩnh, nhưng đàn bà không
thể giữ yên tĩnh được. Ngài phải đã sợ. Không tạo ra
con người vội bằng không thì con người sẽ bắt đầu
cho lời khuyên - làm cái này, không làm cái kia. Và
với đàn bà ngài đợi tới cuối cùng. Và vì ngài đã tạo ra
đàn bà nên ngài đã biến mất - bằng không thì đàn bà
sẽ chì chiết ngài đến chết.
Một nhà công nghiệp lớn đã nói với tôi rằng với
nhà máy mới của ông ta thì mọi thứ đều đã được lập
kế hoạch, đã được thoả thuận. Các kĩ sư, kiến trúc sư,
nhà lập kế hoạch, họ đã làm mọi thứ và mọi thứ đều
đã được thoả thuận. Nhưng thế rồi tôi hỏi, 'Sao ông cứ
lặp đi lặp lại mãi rằng mọi thứ đã được thoả thuận?
Có điều gì đó đi sai chẳng?'
Ông ta nói, 'Thế rồi tôi về nhà và nói về điều đó
cho vợ tôi - và bị kết thúc. Bây giờ cô ấy gợi ý những
điều sẽ làm thay đổi toàn thể ý tưởng. Và nếu tôi
không làm điều đó bây giờ, thế thì nó sẽ là vấn đề
thường xuyên cho cả đời tôi. Cô ấy sẽ chì chiết tôi
đến chết.'
Nếu như Aristotle mà được yêu cầu tạo ra thế
giới, hay giúp cho thế giới được tạo ra, thế thì thế giới
này đã tuyệt đối nhất quán rồi - tuyệt đối nhất quán.
Nhưng thế thì nó đã là một thế giới của khổ và địa ngục. Cuộc sống là đẹp bởi vì có mâu thuẫn. Việc là
đẹp bởi vì có chơi. Việc nghĩa là bạn đang làm cái gì
đó để được cái gì đó từ nó. Chơi nghĩa là bạn đơn
giản làm nó vì riêng nó mà thôi.
Không, Aristotle sẽ không cho phép điều đó.
Plato sẽ không cho phép điều đó. Trong cuốn
Republic (Cộng hoà) của mình, Plato nói sẽ không có
khả năng nào cho bất kì nhà thơ nào; chúng ta sẽ
không cho phép họ. Họ là những người nguy hiểm, họ
đem mâu thuẫn vào thế giới - nhà thơ, họ là những tay
mơ. Và họ nói theo cách mơ hồ, mông lung. Bạn
không thể làm được gì từ điều đó - điều họ nói, điều
họ ngụ ý. Trong thế giới của Plato, trong cuốn
Republic của ông ấy, nhà logic, triết gia sẽ là vua; họ
sẽ quyết định.
Điều đó chưa xảy ra, chỉ vài điều như thế đã xảy
ra. Chẳng hạn, nước Nga Xô viết mang tính Plato
nhiều hơn, Trung Quốc mang tính Plato nhiều hơn.
Hai nước này được cai trị bởi logic. Bạn không thể
tìm thấy nhiều người khổ hơn ở bất kì nơi nào khác.
Được nuôi nấng tốt, có chỗ ở tốt - bởi vì logic là kẻ
thu xếp vĩ đại về mọi thứ; mọi thứ đều được thu xếp -
chỉ cuộc sống là thiếu. Bằng cách nào đó con người
không hạnh phúc, bởi vì con người không thể sống
bằng mỗi bánh mì. Bạn cần cái đối lập nữa. Cả ngày
bạn làm việc, đến đêm bạn nghỉ ngơi. Bạn cần bóng
tối nữa.
Học thuyết là phát biểu logic về một lí thuyết, và
logic lại giống như người không kiên định - nó cứ
thay đổi mầu sắc của nó, nó không đáng tin cậy. Nó
không đáng tin cậy bởi vì nó không dựa vào thực tại.
Nó không chịu trách nhiệm bởi vì nó không dựa vào
thực tại. Nó là không thực bởi vì nó là chân lí bộ
phận. Nhớ lấy, chân lí bộ phận không thật hơn phi
chân lí toàn bộ. Bởi vì chân lí bộ phận cho cảm giác
của việc là đúng. Nó chỉ là nửa đúng thôi và chẳng cái
gì có thể nửa đúng được. Hoặc nó là đúng hoặc nó là
không đúng. Nửa chân lí là tuyệt đối không đúng,
nhưng logic lại cho nó cảm giác rằng nó là đúng; ít
nhất theo cách hướng tới chân lí. Nó thậm chí không
trên con đường hướng tới chân lí.
Và nhà logic cứ làm trò nhào lộn, họ cứ thay đổi
quan điểm, bởi vì thực tế họ đã không đi tới cái gì
thực sự là thực cả, chỉ tâm trí của họ chơi trò chơi
thôi. Hôm nay trò chơi này, hôm khác trò chơi khác;
họ cứ thay đổi hoài. Họ vẫn còn nhất quán - nhất quán
với chuỗi suy nghĩ riêng của họ, nhưng bất nhất với
thực tại.
Tôi đã nghe:
'Khó mà giải thích được tiến trình logic sẽ làm gì
cho tư duy con người, nhưng để bố minh hoạ cho,'
Mulla Nasruddin nói với con mình. 'Giả sử hai người
bước ra từ ống khói. Một người sạch, người kia bẩn.
Người nào sẽ phải tắm?'
'Người bẩn, đương nhiên rồi,' đứa con trả lời.
'Nhớ lấy,' Nasruddin mắng, 'rằng người sạch nhìn
người bẩn và thấy anh ta bẩn làm sao, và ngược lại.'
'Bây giờ con hiểu điều đó rồi, bố ạ,' đứa trẻ trả lời.
'Người sạch, thấy bạn đồng hành bẩn của mình, kết luận là mình cũng bẩn. Thế là anh ta đi tắm. Bây giờ
con đúng chứ?'
'Sai toét,' Nasruddin lãnh đạm nói. 'Logic dạy
chúng ta điều này - làm sao hai người cùng ra khỏi
ống khói mà một người sạch một người bẩn được?'
Một khi bạn bắt đầu chơi trò chơi của logic thì
không có kết thúc cho nó, và bạn sẽ không bao giờ
thắng cả. Nhà logic bao giờ cũng thắng. Nhà logic bao
giờ cũng thắng vì bạn bao giờ cũng có thể tìm ra cách.
Và bạn chẳng có gì để so sánh, bạn không có thực tại.
Đó là lí do tại sao nhiếu triết lí thế tồn tại, và tất cả
các triết lí đều đối lập nhau; và không một kết luận
nào đã được đạt tới.
Trong nhiều thế kỉ, gần năm nghìn năm, con
người đã tranh cãi; con người đã không làm nhiều gì
mấy mà chỉ tranh cãi. Hàng nghìn triết lí đã được tạo
ra, logic rất nét và rõ ràng. Nếu bạn đọc triết gia này
bạn sẽ bị thuyết phục. Nếu bạn đọc người đối lập ông
ấy bạn sẽ bị thuyết phục. Đọc người thứ ba, bạn sẽ bị
thuyết phục - và bạn sẽ lâm vào đống lộn xộn. Dần
dần bạn sẽ bị thuyết phục bởi tất cả và bạn sẽ điên,
bởi vì bạn sẽ không biết cái gì là đúng. Họ tất cả đều
sai bởi vì cách tiếp cận logic là sai.
Có hai cách để biết tới thực tại. Một là: nhắm mắt
lại và nghĩ về nó. Tôi gọi nó là 'chủ nghĩa về'. Nó bao
giờ cũng về và về, nó chưa bao giờ đi trực tiếp cả.
Bạn cứ khua quanh bụi cây. Bạn chẳng bao giờ khua
đích xác vào bụi cây - chỉ loanh quanh. Bạn chưa bao
giờ thấm nhuần vào trung tâm của vấn đề, bạn đơn
giản đi vòng tròn xung quanh. Nó là trò vòng quay
ngựa gỗ. Bạn có thể thích thú nó - các nhà logic thích
thú lắm. Đi tới với một lí thuyết mới sao hay thế, cái
giải thích được mọi thứ - nhưng nó chỉ ở trong tâm trí.
Bạn nhắm mắt lại, ngồi trên ghế và nghĩ ngợi. Điều
này sẽ không cho bạn thực tại đâu.
Thực tại đã có đó rồi, bạn phải đừng nghĩ về nó.
Bạn phải cho phép nó. Bạn phải vứt bỏ mọi suy nghĩ
để cho bạn có thể thấy cái là chân lí, để cho bạn có thể
thấy cái đang đó. Nếu bạn cứ suy nghĩ thì bạn không
thể thấy được cái đang đó. Điều đó là không thể được.
Ý nghĩ của bạn sẽ tạo ra làn khói quanh bạn. Tâm
thức của bạn sẽ bị bao phủ bởi làn khói này, mắt bạn
sẽ không có sáng tỏ, bạn sẽ không có nhạy cảm. Và
bạn sẽ liên tục tìm và kiếm các ý tưởng riêng của
mình, áp đặt chúng, phóng chiếu chúng lên thực tại.
Bạn sẽ không cho thực tại cơ hội để hiển lộ bản thân
nó.
Học thuyết được đạt tới qua suy nghĩ logic. Học
thuyết tới qua quá trình của 'chủ nghĩa về'. Siddhanta
được đạt tới không bởi việc nhắm mắt, không bởi việc
suy nghĩ quá nhiều, mà bởi việc vứt bỏ suy nghĩ, toàn
bộ; bằng việc mở mắt ra không định kiến nào, không
quan niệm tiên thiên nào, và nhìn thẳng vào thực tại,
đối diện thẳng với thực tại. Nó đã có đó rồi, nó chỉ
cần bạn ở đó thôi.
Và khi bạn tuyệt đối không có ý nghĩ nào, tâm trí
của bạn tĩnh lặng, kí ức của bạn tĩnh lặng, suy nghĩ
của bạn đã hoàn toàn dừng hiện hữu, thế thì thực tại
bùng phát, bùng nổ. Thế thì bạn trở thành người nhận.
Thế thì siddhanta nảy sinh. 

Siddhanta của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được...
Điều đầu tiên, Phật nói, là suy nghĩ ý nghĩ không
thể nghĩ được. Đó là một mâu thuẫn, một nghịch lí.
Bây giờ, không nhà logic nào đã bao giờ thốt ra điều
vô nghĩa thế. Chính chỗ đó bắt đầu vô nghĩa. Đó là lí
do tại sao các nhà logic cứ nói rằng Phật, Jesus, Bồ đề
đạt ma, Lão Tử, Zarathustra - những người này tất cả
đều vô nghĩa. Tuyên bố của họ là vô nghĩa - bởi vì họ
nói điều này và trong hơi kế tiếp họ mâu thuẫn lại.
Bây giờ nhìn vào câu này: Siddhanta của ta là suy
nghĩ ý nghĩ không thể nghĩ được...
Bây giờ ngay trong câu nhỏ này đã tuyệt đối mâu
thuẫn - suy nghĩ về cái không thể nghĩ được. Làm sao
bạn có thể nghĩ về cái không thể nghĩ được? Nếu nó
thực sự là không thể nghĩ được thì bạn không thể
nghĩ. Nếu bạn có thể nghĩ thế thì làm sao nó có thể lại
là không thể nghĩ được? Đơn giản, phi logic - nhưng
điều Phật ngụ ý phải được hiểu. Đừng vội vàng; đó là
lí do tại sao tôi nói đi kiên nhẫn vào.
Khi ông ấy ngụ ý... khi ông ấy muốn nói điều gì
đó, ông ấy ngụ ý điều đó. Ông ấy đang nói có cách để
biết mọi thứ mà không suy nghĩ. Có cách để biết mọi
thứ mà không có tâm trí. Có cách để nhìn thẳng vào
thực tại, ngay lập tức, không dùng phương tiện ý nghĩ.
Bạn có thể được nối với thực tại mà không có tác
nhân tư duy nào - đó là điều ông ấy đang nói. Ông ấy
đang nói rằng tâm trí có thể hoàn toàn dừng hoạt động
của nó lại, hoàn toàn có thể vứt bỏ hoạt động của nó
vậy mà vẫn hiện hữu - tĩnh lặng, một bình chứa - và
nhìn vào thực tại. Nhưng bạn sẽ phải kinh nghiệm nó,
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu được.
Đôi khi hãy thử nhìn. Ngồi bên cạnh bụi hồng, chỉ
nhìn vào hoa hồng; không nghĩ, thậm chí không cho
nó tên. Thậm chí không phân loại. Thậm chí không
nói rằng đây là hoa hồng - bởi vì hoa hồng là hoa
hồng là hoa hồng; dù bạn có gọi nó là hoa hồng hay
cái gì đó khác cũng không tạo ra khác biệt gì. Cho nên
đừng dán nhãn nó, đừng cho nó cái tên, đừng đem
ngôn ngữ vào. Đừng đem bất kì biểu tượng nào vào,
bởi vì biểu tượng là phương pháp làm giả thực tại.
Nếu bạn nói đây là hoa hồng, bạn đã bỏ lỡ rồi.
Thế thì bạn đã đem vào kinh nghiệm quá khứ nào đó
về hoa hồng khác, cái không có đây. Bây giờ mắt bạn
đầy hoa hồng - từng luống hoa hồng. Trong cuộc đời
mình bạn phải đã bắt gặp nhiều kiểu hoa hồng - trắng
và đen và đỏ; tất cả những hoa bồng đó đang có đó
trôi nổi trong mắt bạn. Bây giờ bạn bị chen chúc bởi
kí ức quá khứ của mình. Và thế rồi, bên ngoài tất cả
những kí ức đó là hoa hồng này, cái là thực. Bây giờ
đám đông của cái không thực lại quá nhiều đến mức
bạn không có khả năng đạt tới và chạm vào cái thực.
Khi Phật nói buông bỏ suy nghĩ ông ấy ngụ ý,
đừng đem quá khứ vào. Phỏng có ích gì mà mang nó
vào? Hoa hồng này ở đây, bạn ở đây. Cứ để cho nó là
gặp gỡ sâu sắc, giao cảm, mối kết nối. Tan chảy một
chút với hoa hồng này, để cho hoa hồng này tan chảy
một chút vào trong bạn. Hoa hồng sẵn sàng chia sẻ
hương thơm của nó, bạn cũng chia sẻ bản thể mình,
tâm thức mình cùng nó. 

Có cái bắt tay với thực tại đi. Có chút ít nhảy múa
với hoa hồng này... nhảy múa trong gió. Bạn cũng
chuyển động, hiện hữu, nhìn, cảm, nhắm mắt lại,
ngửi, sờ, uống. Hiện tượng đẹp này đang đối diện với
bạn... đừng đi đây đó - ở cùng với nó. Không còn bên
phải và bên trái, chỉ đi thẳng như mũi tên hướng tới
đích. Nếu bạn đem lời, đem ngôn ngữ vào, bạn đem
xã hội vào, bạn đem quá khứ vào, bạn đem người
khác vào.
Tennyson đã nói điều gì đó về hoa hồng. Shelley
đã nói điều gì đó về hoa hồng. Shakespeare đã nói
điều gì đó về hoa hồng, hay Kalidas. Một khi bạn
mang ngôn ngữ vào, Shakespeare và Kalidas và
Bhavabhuti và Shelley và Keats - họ tất cả đều đang
đứng đó. Bây giờ bạn quá đầy các ý tưởng của riêng
mình, bây giờ bạn đang trong đám đông, mất hút. Bạn
sẽ không có khả năng thấy chân lí đơn giản.
Chân lí đơn giản thế. Vâng, nó cũng giống như
hoa hồng ngay trước bạn. Nó hoàn toàn có đó. Sao
phải đi đâu đó khác? Sao không đi vào trong thực tại
này? Sao phải đi và tìm quá khứ và tương lai? Đừng
nói hoa hồng này đẹp, bởi vì hoa hồng này không cần
lời khen từ bạn. Cứ để nó là một cảm giác. Hoa hồng
này không hiểu ngôn ngữ loài người, cho nên sao lại
bối rối về hoa hồng này? Sao lại nói nó là đẹp? Bởi vì
hoa hồng này chẳng biết gì về cái đẹp và chẳng biết gì
về cái xấu.
Với hoa hồng này, cuộc sống không bị phân chia
và chia chẻ; hoa hồng này không bị tinh thần phân
liệt. Hoa hồng này đơn giản có đó, không có ý tưởng
nào về đẹp là gì và xấu là gì. Đừng gọi nó là đẹp. Khi
bạn gọi nó là đẹp thì bạn đã mang vào một khái niệm.
Tâm trí đã bắt đầu hoạt động. Bây giờ, bạn có thể có
chút ít kinh nghiệm về hoa hồng, nhưng nó sẽ không
đúng - tâm trí bạn sẽ là việc bóp méo. Bạn sẽ nghĩ về
hoa hồng này như đại diện cho tất cả các hoa hồng
khác.
Plato nói rằng mọi thứ thực đều chỉ là đại diện
cho cái gì đó lí tưởng. Plato nói rằng với thượng đế
tồn tại ý tưởng về hoa hồng - cái đó là thực. Ý tưởng
về hoa hồng là thực và hoa hồng này chỉ là sự phản
chiếu của ý tưởng đó. Điều này là vô nghĩa, điều này
thực sự ngớ ngẩn.
Hoa hồng này tồn tại ở đây bây giờ cùng thượng
đế. Không có ý tưởng nào trong tâm trí của thượng
đế. Thượng đế không có tâm trí như vậy. Thượng đế
hiện hữu mà không có tâm trí. Thượng đế không phải
là người, và thượng đế đã không được huấn luyện bởi
bất kì cha mẹ nào, và thượng đế đã không được giáo
dục bởi bất kì đại học nào. Thượng đế đã không bị
ước định. Không có ý tưởng trong tâm trí của thượng
đế - và hoa hồng này là hoa hồng thực. Thượng đế tồn
tại cùng với hoa hồng này và hoa hồng này tồn tại
cùng thượng đế, và thượng đế không có rào chắn với
hoa hồng này, không rào chắn tâm trí.
Nhưng với Plato, thực tại là không thực còn ý
tưởng mới là thực. Với Phật nó chính là điều đối lập
lại: thực tại là thực còn ý tưởng là không thực. Nếu
bạn theo Plato, bạn sẽ trở thành triết gia. Nếu bạn theo
Phật bạn sẽ trở thành người tôn giáo. Tôn giáo không
phải là triết lí, tôn giáo là kinh nghiệm. 

Cho nên thử điều đó đi. Đôi khi cho phép vô trí
của bạn hoạt động. Đôi khi đẩy mọi suy nghĩ của bạn
sang bên. Đôi khi để thực tại thấm vào bạn. Đôi khi
để có phúc lành từ thực tại. Cho phép nó chuyển
thông điệp của nó cho bạn. Nhưng chúng ta cứ sống
trong lời, và chúng ta chú ý quá nhiều tới lời.
Tôi có một thầy giáo ở đại học và chúng tôi hay đi
dạo cùng nhau. Sau vài ngày tôi nói, 'Em sẽ không tới
nữa. Tốt hơn cả là em nên tự đi một mình.'
Thầy nói, 'Sao thế?' Bởi vì thầy quá bị ám ảnh với
các cái tên. Mọi cây thầy thấy thì thầy phải nói nó
thuộc vào loài gì. Mọi hoa - nó chứa gì, lịch sử của
nó. Nếu thầy nhìn hoa hồng, thầy sẽ không nhìn vào
hoa hồng đâu, thầy sẽ nhìn vào toàn thể lịch sử của
hoa hồng: nó tới từ Iran như thế nào, vào thế kỉ nào, ai
đem nó tới Ấn Độ - nó không phải là hoa Ấn Độ.
Bây giờ, thầy sẽ không bao giờ nhìn vào hoa cả,
và tôi cứ phải kéo thầy lại mãi - 'Hoa này là đủ rồi.
Vấn đề là gì? Hoa không có lịch sử, chỉ con người
mới có. Hoa này không bận tâm liệu nó bắt nguồn từ
Iran hay từ Ấn Độ. Hoa này không có ý tưởng về quá
khứ nào, nó sống ngay ở đây bây giờ. Nó không là
Hindu không là Mô ha mét giáo, không là Ấn Độ
không là Iran. Nó đơn giản có đó. Nó thậm chí không
phải là hoa hồng!'
Nhưng điều đó lại là khó cho thầy. Bất kì con
chim nào thầy trông thấy thầy sẽ nói, 'Đợi chút, để tôi
xem. Đây là loài chim gì? Nó từ đâu tới? Nó có tới từ
Siberia không? Hay từ Trung Á? Hay nó là con chim
Himalaya?' Sau vài ngày tôi nói, 'Em xin lỗi thầy.
Thầy đi một mình đi. Bởi vì em không quan tâm việc
con chim này đã từ đâu tới. Con chim này ở đây, nó là
đủ. Em không quan tâm tới việc giải thích khoa học,
lịch sử.'
Giải thích, với vài người, gần như là bệnh. Qua
việc giải thích của mình họ cố gắng giải thích cho mọi
điều. Họ bị ám ảnh với lời giải thích. Họ cho rằng nếu
họ có thể gọi tên một vật, đánh nhãn cho một vật, thì
họ biết nó. Họ rất không thoải mái chừng nào họ còn
chưa thể đánh nhãn cho một vật, biết một vật qua cái
tên, phân loại nó, phân ngăn cho nó - chừng nào họ
còn chưa làm điều đó thì họ rất không thoải mái.
Dường như là một điều nào đó đang làm chướng mắt
họ - sao mày ở đấy mà lại không có phân loại nào?
Một khi họ đã phân loại được nó, phân ngăn được nó,
dán nhãn lên nó, thế thì họ mới thoải mái. Họ đã biết
nó. Họ được kết thúc với vật này.
Tôi đã nghe:
Sau thế chiến thứ hai một lính Đức hãm hiếp một
người đàn bà Pháp và bảo cô ấy, 'Trong chín tháng cô
sẽ có đứa con - cô có thể gọi nó là Adolf Hitler.' Với
điều đó người đàn bà Pháp đáp lại, 'Trong chín ngày
ông sẽ bị phát ban - ông có thể gọi nó là bệnh sởi.'
Nhưng bằng việc gọi tên, nó chẳng thay đổi gì cả.
Điều bạn gọi là tuyệt đối không liên quan. Bất kì cái
gì đang đấy, thì vẫn đang đấy! Bằng việc bạn cho nó
cái tên nó chẳng bao giờ thay đổi cả. Nhưng với bạn
thì nó thay đổi. Chỉ bởi việc cho cái tên, thực tại trở
thành khác với bạn. 

Chuyện xảy ra:
Một con sư tử và một con lừa thoả thuận cùng đi
săn. Ngay lúc đó chúng đi tới một cái hang nơi ở của
nhiều con dê hoang. Sư tử chiếm vị trí cửa hang còn
lừa, đi vào bên trong, đá và kêu be be rầm rĩ và làm
cực kì om sòm để doạ lũ dê chui ra. Khi sư tử đã bắt
được nhiều dê, lừa chui ra và hỏi sư tử liệu nó có phải
đã làm việc cao quí và lùa đàn dê ra đúng không.
'Đúng thật đấy,' sư tử nói. 'Và tôi đảm bảo với
ông, ông chắc đã làm cả tôi cũng hoảng nữa nếu như
tôi mà không biết ông là lừa.'
Điều đó có thể tạo ra khác biệt cho bạn bằng việc
gọi các tên, nhưng nó không tạo khác biệt gì cho thực
tại. Nó có thể tạo ra khác biệt cho bạn bởi vì bạn sống
bị bao quanh bởi ngôn ngữ của mình, khái niệm, việc
nói ra lời. Bạn lập tức cứ dịch mọi thứ thành ngôn
ngữ.
Bỏ ngôn ngữ trong bạn - đó là điều Phật ngụ ý.
Tự mình khử bỏ tâm trí, tự mình tháo dỡ - đó là điều
Phật ngụ ý. Bằng không thì bạn sẽ không bao giờ biết
cái gì là đúng.
Siddhanta của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được.
Bạn không thể nghĩ được về thực tại. Không có
cách nào nghĩ về nó cả. Mọi suy nghĩ đều được vay
mượn. Không suy nghĩ nào đã bao giờ là nguyên bản.
Mọi suy nghĩ đều mang tính lặp lại, mọi suy nghĩ đều
mang tính máy móc. Bạn có thể cứ nhai đi nhai lại
cùng một điều lặp đi lặp lại mãi, nhưng chẳng cái gì
mới đã bao giờ nảy sinh ra từ việc suy nghĩ. Suy nghĩ
là cũ rích, mục nát. Nó là đồ đồng nát.
Bạn không thể nghĩ được về thực tại bởi vì mọi
khoảnh khắc đều nguyên bản. Mọi khoảnh khắc nó
đều mới tới mức nó chưa bao giờ giống thế trước đó.
Nó tuyệt đối tươi tắn tới mức bạn sẽ phải biết nó.
Không có cách khác để biết nó hơn là việc biết nó.
Cách duy nhất để biết yêu là yêu. Cách duy nhất
để biết bơi là bơi. Cách duy nhất để biết thực tại là
thành thực. Tâm trí làm cho bạn thành không thực.
Tâm trí làm cho bạn thành quá nhiều như ý nghĩ -
chất liệu tâm trí, lời, khái niệm, lí thuyết, triết lí, học
thuyết, kinh sách, chủ nghĩa. Tâm trí không cho bạn
cái thực, nó cho bạn chỉ những phản chiếu - và những
phản chiếu đó cũng bị bóp méo.
Phật nói đạt tới sáng tỏ. Nhìn, hiện hữu đi. Và thế
rồi bạn sẽ có khả năng nghĩ ý nghĩ mà không thể nghĩ
được. Bạn sẽ có khả năng có cuộc gặp gỡ với thực tại,
cuộc hẹn với thượng đế.
Ý nghĩ không thể nghĩ được - chỉ cái đó mới là
suy nghĩ xứng đáng. Tất cả mọi cái khác đều chỉ phí
hoài năng lượng sống.
để thực hành hành vi không làm được
Đây là điều Lão Tử gọi là vô vi. Hành động trong
bất hành - lại một ngược đời khác. Nhưng siddhanta
phải mang tính ngược đời thôi.

để thực hành hành vi không làm được
Thông thường chúng ta chỉ biết tới hành vi chúng
ta có thể làm. Chúng ta bị bao quanh bởi việc làm của
mình. Chúng ta không biết rằng có những điều ở bên
ngoài việc làm của mình và vẫn đang xảy ra. Bạn
được sinh ra. Bạn đã không trao việc sinh cho bản
thân mình, nó đơn giản đã xảy ra, và nó không thể xảy
ra theo cách tốt hơn. Bạn đang thở - nhưng bạn không
thở như một hành động; nó đang xảy ra. Bạn có thể cố
gắng ngừng nó và thế rồi bạn sẽ thấy bạn không thể
ngừng được nó. Cho dù vài giây thôi bạn cũng không
thể ngừng nó được; bạn sẽ phải thảnh thơi, bạn sẽ
phải cho phép nó. Việc thở là cuộc sống. Nó đang xảy
ra.
Tất cả mọi điều bản chất đều đang xảy ra, tất cả
những cái không bản chất, không mang tính tồn tại,
đều để được làm. Tất nhiên cửa hàng của bạn sẽ
không hoạt động nếu bạn không quản lí nó. Tất nhiên
bạn sẽ không trở thành thủ tướng hay tổng thống nếu
bạn không tranh đấu vì nó. Không ai đã bao giờ trở
thành thủ tướng mà không tranh đấu vì nó; không bạo
hành bạn không thể trở thành thủ tướng được. Bạn sẽ
phải cạnh tranh - cạnh tranh chẹn họng. Bạn sẽ phải
tàn bạo. Bạn sẽ phải hung hăng. Bạn sẽ phải làm điều
đó, chỉ thế thì nó mới có thể xảy ra. Tất cả mọi điều
phụ thuộc vào việc làm của bạn đều ngẫu nhiên và tất
cả những điều xảy ra không có bạn đều là bản chất.
Toàn thể mối quan tâm của tôn giáo là điều bản
chất, thế giới của điều bản chất. Bạn có đó; không
phải là bạn đã làm cho bản thân mình, bạn đơn giản
có đó chẳng vì lí do gì. Bạn đã không kiếm được nó,
nó không là gì của việc bạn làm cả. Nó là phúc lành,
nó là món quà. Bạn có đó: sự tồn tại đã muốn bạn có
đó, nó không phải là ý chí riêng của bạn.
Quan sát điều đó, hiểu điều đó đi. Khi một điều
như cuộc sống - quí giá thế - có thể xảy ra mà không
có việc làm của bạn, thế thì sao phải bận tâm? Thế thì
cho phép ngày một nhiều chiều của việc xảy ra. Vứt
ngày một nhiều việc làm đi. Làm chỉ cái dường như
cần thật. Đừng bị bận tâm quá nhiều với việc làm.
Đó là nghĩa của một sannyasin. Chủ hộ,
grihastha, là người đơn giản bị sở hữu bởi chiều làm
việc. Người đó nghĩ rằng nếu người đó không làm,
chẳng cái gì sẽ xảy ra. Người đó là người làm.
Sannyasin là người biết rằng dù mình có định làm
điều đó hay không, tất cả mọi điều là bản chất đều sẽ
tiếp tục xảy ra. Điều không bản chất có thể biến mất,
nhưng điều đó là không liên quan - nhưng điều bản
chất sẽ tiếp tục.
Tình yêu là bản chất; tiền bạc là không bản chất.
Sống động là bản chất; sống trong ngôi nhà lớn hay
không là không bản chất. Được thoả mãn, được mãn
nguyện là bản chất; xô đẩy, tham vọng, bao giờ cũng
cố đạt tới đâu đó, cố biểu diễn, cố chứng minh rằng
bạn là ai đó, là không bản chất. Mọi người sống chỉ
theo hai chiều hướng: chiều hướng của người làm và
chiều hướng của không người làm.
Phật nói:
để thực hành hành vi không làm được... 

Ông ấy nói thực hành điều đó. Ông ấy nói 'thực
hành', bởi vì không có cách khác để nói điều đó. Từ
'thực hành' có vẻ giống như làm, đó là nghịch lí. Ông
ấy nói, 'Làm điều không thể được làm.' Làm điều chỉ
xảy ra. Cho phép, ông ấy ngụ ý - cho phép cái xảy ra,
cho phép thượng đế có đó. Cho phép cuộc sống có đó,
cho phép tình yêu có đó. Cho phép sự tồn tại xuyên
thấu vào bạn, thấm vào bạn. Đừng tiếp tục là người
làm.
Ông ấy không ngụ ý không làm gì cả. Ông ấy nói
đừng nhấn mạnh nó. Có thể điều đó là cần thiết. Bạn
phải lau sạch căn phòng của mình. Không có việc bạn
làm điều đó, nó sẽ không xảy ra. Cho nên làm nó! -
nhưng không bị ám ảnh bởi nó. Nó chỉ là phần nhỏ.
Phần lớn của cuộc sống, phần trung tâm của cuộc
sống, nên giống như việc xảy ra. Như sét loé lên trong
đám mây, thượng đế xảy ra cũng vậy. Như dòng sông
cứ xô về đại dương và tan biến, tình yêu cũng xảy ra
như vậy. Thiền cũng xảy ra như vậy - nó chẳng liên
quan gì tới việc làm của bạn. Việc làm của bạn không
phải là bản chất cho nó xảy ra. Nó có thể xảy ra khi
bạn đang ngồi và không làm gì cả. Thực tế nó xảy ra
chỉ thế thôi, khi bạn không làm gì cả và bạn ngồi. Tôi
nhất định cho bạn làm nhiều điều như các phương
pháp, nhưng nhấn mạnh chỉ là điều này - rằng bạn
phải bị mệt nhoài, bằng không bạn sẽ không ngồi đâu.
Cứ dường như là bạn bảo đứa trẻ, 'Ngồi im trong
góc phòng,' và nó không thể ngồi được; nó bồn chồn
thế, nó đầy năng lượng thế. Nó muốn làm điều này
điều nọ và chạy quanh. Cách tốt nhất là bảo nó đi bẩy
vòng - chạy quanh nhà bẩy lần, quanh khối nhà - thế
rồi quay lại. Thế thì không cần bạn bảo, nó sẽ ngồi im
lặng.
Đó là toàn thể vấn đề của nhấn mạnh của tôi vào
việc dành thời gian thực hiện thiền Động, thiền
Kundalini, thiền Nataraj - để cho trong vài khoảnh
khắc bạn có thể cho phép việc xảy ra. Bạn sẽ không
đạt tới thiền bằng việc làm đâu, bạn sẽ đạt tới thiền
chỉ bằng không làm. Và trong không làm điều thực sẽ
xảy ra.
Điều thực không thể được tạo ra; nó bao giờ cũng
xảy ra. Người ta phải nhạy cảm và cởi mở và mong
manh. Nó rất tinh tế. Bạn không thể vồ được nó. Nó
rất mảnh mai... ẻo lả tựa bông hoa. Bạn không thể vồ
lấy nó được. Nếu bạn vồ lấy nó bạn sẽ phá huỷ nó.
Bạn phải rất dịu dàng. Nó không phải là phần cứng,
nó là phần mềm. Bạn phải thực sự dịu dàng, bạn phải
mang nữ tính.
Phật nói:
thực hành hành vi không làm được...
Đó là thông điệp của tất cả những người vĩ đại,
người thực sự vĩ đại. Việc nhận ra vĩ đại nhất trên trái
đất này đã từng là thế này: là chúng ta đang tạo ra quá
nhiều ồn ào không cần thiết. Cái sẽ xảy ra thì sẽ xảy
ra nếu chúng ta chờ đợi. Vào đúng mùa vụ, mùa
màng; vào đúng mùa, có kết quả. Vào đúng mùa mọi
thứ xảy ra. Nếu một người có thể học chỉ một điều -
cách chờ đợi mang tính cầu nguyện - thì chẳng cần cái
gì khác. Cực lạc là prasad, món quà của thượng đế. 

Thử xem. Thực hành điều Phật nói đi. Ít nhất
trong một giờ bạn trở thành không người làm. Ít nhất
trong một giờ, sâu trong đêm, ngồi một mình. Không
làm gì cả - thậm chí không tụng mật chú, thậm chí
không thiền siêu việt. Không làm gì cả. Chỉ ngồi, nằm
xuống, nhìn lên các vì sao. Điều đó nữa cũng phải
không khó khăn. Nhìn rất dịu dàng. Đừng hội tụ; vẫn
còn không hội tụ như việc chụp ảnh không hội tụ - mờ
mịt, mờ ảo, không biết biên giới ở đâu. Vẫn còn im
lặng trong bóng tối.
Nếu ý nghĩ tới cứ để chúng tới. Đừng tranh đấu
với chúng. Chúng sẽ tới và chúng sẽ đi - bạn chỉ là
người quan sát. Chúng tới hay chúng đi không phải là
việc của bạn. Bạn là ai? Chúng tới không lời mời,
chúng đi không xô đẩy. Chúng tới và đi, đó là lưu
thông thường xuyên. Bạn chỉ ngồi bên đường và quan
sát.
Khi tôi nói quan sát, đừng diễn giải sai tôi. Đừng
làm việc quan sát thành nỗ lực. Bằng không mọi
người trở nên rất cứng nhắc và họ bắt đầu quan sát
theo cách rất cứng nhắc và căng thẳng. Họ lại bắt đầu
làm việc. Điều tôi đang nói, hay điều Phật đang nói là
- ở trong thái độ không làm, lười biếng.
Lười biếng, và xem điều xảy ra. Bạn sẽ ngạc
nhiên. Một ngày nào đó - chỉ ngồi, chỉ ngồi thôi,
không làm gì cả - một ngày nào đó, từ cội nguồn
không biết nào đó, một tia sét, một phúc lành. Một
ngày nào đó, vào khoảnh khắc nào đó, bỗng nhiên bạn
được siêu việt lên. Bỗng nhiên bạn thấy yên tĩnh
choàng xuống mình. Nó gần như mang tính vật lí.
Nếu một thiền nhân thực, một người có thể thảnh
thơi, ngồi im lặng và cho phép, ngay cả ai đó không
phải là thiền nhân cũng sẽ cảm thấy sự hiện diện -
rằng cái gì đó đang xảy ra. Bạn có thể không có khả
năng hình dung ra nó là gì; bạn có thể cảm thấy kì lạ
hay chút ít sờ sợ, nhưng nếu bạn ngồi bên cạnh một
thiền nhân...
Bây giờ, khó mà dùng đúng từ, bởi vì từ 'thiền
nhân' lại cho ấn tượng dường như người đó đang làm
điều gì đó - làm việc thiền. Nhớ đi nhớ lại - ngôn ngữ
đã được những người không là thiền nhân phát triển,
cho nên toàn thể ngôn ngữ, theo một cách tinh tế, là
sai. Nó không thể diễn đạt được.
Khi ai đó đang ngồi đó, chỉ ngồi đó, giống như cái
cây, như tảng đá, không làm gì cả, điều đó xảy ra: cái
gì đó từ trên cao giáng xuống, thấm vào chính cốt lõi
bản thể người đó. Ánh sáng tinh tế bao quanh người
đó... vầng sáng, phúc lành có thể được cảm thấy
quanh người đó - ngay cả bởi những người không biết
thiền là gì. Ngay cả đi ngang qua bên cạnh, họ cũng
sẽ cảm thấy tác động của điều đó. Phúc lành này đã
được gọi là thượng đế.
Thượng đế không phải là người, đó là kinh
nghiệm sâu sắc khi bạn không làm gì cả và sự tồn tại
đơn giản tuôn chảy trong bạn... mênh mông của nó,
phúc lành của nó, ân huệ của nó.
Bạn không làm gì cả, bạn thậm chí không trông
đợi điều gì, bạn không chờ đợi điều gì. Bạn không có
động cơ. Bạn chỉ ở đó như cây đứng trong gió, hay
như tảng đá chỉ ngồi im lặng bên cạnh dòng sông.
Hay giống như đám mây quấn quít quanh đỉnh núi - chỉ ở đó, không chuyển động theo cách riêng của
mình.
Trong khoảnh khắc đó bạn không phải là cái ngã,
trong khoảnh khắc đó bạn là vô ngã. Trong khoảnh
khắc đó bạn không là tâm trí, bạn là vô trí. Trong
khoảnh khắc đó bạn không có trung tâm. Trong
khoảnh khắc đó bạn là mênh mông... bao la không
biên giới - bỗng nhiên có tiếp xúc. Bỗng nhiên nó có
đó! Bỗng nhiên bạn được hoàn thành, bỗng nhiên bạn
được bao quanh bởi sự hiện diện không biết nào đó.
Điều đó là rất bao la.
Đó là điều Phật nói:
thực hành hành vi không làm được; để nói bài nói
không diễn đạt được;
Và nếu bạn muốn nói điều gì đó, nói điều không
thể được nói đi. Diễn đạt cái không thể diễn đạt được
đi. Phỏng có ích gì mà nói điều có thể được nói? - bất
kì ai cũng biết chúng, mọi người đều biết chúng. Nếu
bạn thực sự muốn diễn đạt cái gì đó, diễn đạt cái
không thể diễn đạt được.
Cách diễn đạt cái không thể diễn đạt được là gì?
Nó có thể được diễn đạt chỉ qua việc hiện hữu. Lời là
quá hạn hẹp. Nó chỉ có thể được diễn đạt bằng sự tồn
tại của bạn, bằng sự hiện diện của bạn - trong bước đi
của bạn, trong ngồi của bạn, trong đôi mắt bạn, trong
điệu bộ của bạn, trong cái chạm của bạn, trong từ bi
của bạn, trong tình yêu của bạn. Cách bạn hiện hữu -
nó có thể được diễn đạt qua điều đó.
Phật nói, nhưng điều đó không phải rất bản chất.
Điều bản chất hơn là hiện hữu của ông ấy, là ông ấy
đang có đó. Qua việc nói của mình ông ấy cho phép
bạn được sống cùng ông ấy. Việc nói chỉ là để thuyết
phục bạn. Bởi vì sẽ khó cho bạn trong im lặng cùng vị
Phật. Ông ấy phải nói, bởi vì nếu ông ấy nói bạn cảm
thấy rằng mọi thứ đều tốt, bạn có thể nghe. Nếu ông
ấy không nói làm sao bạn sẽ nghe được? Bạn không
biết cách nghe khi không ai nói. Bạn không biết cách
nghe điều không thể được diễn đạt.
Nhưng dần dần, sống quanh một thầy, một phật,
một Jesus, dần dần bạn sẽ bắt đầu hấp thu tâm linh
của người đó. Dần dần, mặc bạn, sẽ có những khoảnh
khắc mà bạn sẽ thảnh thơi, và không chỉ điều ông ấy
đang nói sẽ đạt tới trong tim bạn, mà điều ông ấy
đang hiện hữu cũng sẽ thấm vào. Và với ông ấy toàn
thể chiều hướng của việc xảy ra mở ra. Đó là nghĩa
của satsang - ở trong hiện diện của thầy.
...và để được huấn luyện trong kỉ luật vượt ra
ngoài kỉ luật.
Và Phật nói có kỉ luật mà không phải là kỉ luật.
Thông thường chúng ta nghĩ về kỉ luật cứ dường như
ai đó khác đang cố gắng áp kỉ luật cho bạn. Kỉ luật
mang hàm nghĩa rất xấu - cứ dường như bạn đang bị
ép vào kỉ luật, cứ dường như bạn chỉ vâng lời. Trung
tâm đang áp kỉ luật lên bạn là ở ngoài bạn.
Phật nói đó không phải là kỉ luật đâu, đó là việc
buông bỏ sự nô lệ. Hãy tự do, không cần phải theo kỉ
luật từ bất kì nguồn bên ngoài nào. Trở nên tỉnh táo,
để cho kỉ luật bên trong nảy sinh trong bạn. Trở nên có trách nhiệm, để cho bất kì điều gì bạn làm thì bạn
làm với trật tự nào đó, hài hoà nào đó trong nó; để cho
bản thể bạn không là sự hỗn loạn, để cho bản thể bạn
không trong đống lộn xộn.
Cho nên có hai kiểu kỉ luật: một, kỉ luật có thể bị
ép buộc từ bên ngoài. Đó là điều các chính khách cứ
làm, các tu sĩ cứ làm, cha mẹ cứ làm. Và có một kỉ
luật có thể được gợi lên trong bạn - điều đó có thể
được thực hiện chỉ bởi các bậc thầy. Họ không áp đặt
kỉ luật nào lên bạn, họ làm cho bạn đơn giản nhận biết
hơn để cho bạn có thể tìm ra kỉ luật riêng của mình.
Mọi người tới tôi và họ hỏi, 'Sao thầy không cho
chúng tôi kỉ luật nào đó? Ăn cái gì, không ăn cái gì.
Khi nào dậy buổi sáng và khi nào đi ngủ.' Tôi không
cho bạn những kỉ luật như vậy đâu, bởi vì bất kì kỉ
luật nào tới từ bên ngoài cũng đều mang tính phá
hoại.
Tôi cho bạn chỉ một kỉ luật thôi - điều Phật gọi là
kỉ luật của cõi bên kia, kỉ luật của siêu việt.
Tôi cho bạn chỉ một kỉ luật và đó là kỉ luật của
nhận biết. Nếu bạn nhận biết bạn sẽ thức dậy đúng
lúc. Khi thân thể được nghỉ ngơi bạn sẽ dậy. Khi bạn
nhận biết bạn sẽ ăn chỉ cái được cần, bạn sẽ ăn chỉ cái
ít hại nhất cho bạn và cho người khác. Bạn sẽ ăn chỉ
cái không dựa trên bạo hành. Nhưng nhận biết sẽ là
nhân tố quyết định.
Bằng không bạn có thể bị ép buộc để trở nên vâng
lời, nhưng sâu bên dưới bạn cứ mang tính nổi dậy.
Tôi đã nghe một câu chuyện thời thế chiến thứ hai.
Một trung sĩ và một binh nhì bị buộc tội đá viên
đại tá. Khi được hỏi về lời giải thích, viên trung sĩ
đáp, "Thế này, thưa ngài, viên đại tá đi quanh góc thì
tôi đang tập thể dục chạy tới. Tôi chỉ đi đôi giày đế
mềm, ông ấy đi giầy ống, và ông ấy dẫm lên ngón
chân tôi. Tôi sợ bị đau, thưa ngài, tới mức tôi đã bất
ngờ đá lên - và trước khi tôi nhận ra đó là ai, thưa
ngài.'
'Tôi biết rồi,' viên sĩ quan trật tự nói. 'Thế về lính
của anh thì sao?'
Với điều này viên binh nhì đáp, 'Tôi thấy viên
trung sĩ đá viên đại tá, thưa ngài. Cho nên tôi tự nhủ
mình, "Chiến tranh chắc phải chấm dứt rồi, cho nên
tôi cũng có thể đá".'
Bất kì khi nào ai đó áp đặt kỉ luật lên bạn, sâu bên
dưới bạn không bằng lòng, sâu bên dưới bạn chống lại
nó. Bạn có thể tuân theo nó, nhưng bạn bao giờ cũng
tuân một cách ngần ngại. Và đó là cách nó phải vậy,
bởi vì thôi thúc sâu sắc nhất trong con người là vì tự
do, vì moksha.
Được tự do là việc tìm kiếm. Suốt nhiều thế kỉ,
trong hàng nghìn năm, trong nhiều kiếp sống, chúng
ta đã từng tìm kiếm cách được tự do. Cho nên bất kì
khi nào ai đó tới - cho dù là vì chính bạn, vì điều tốt
cho riêng bạn - và áp đặt cái gì đó lên bạn, bạn vẫn
chống lại. Điều đó chống lại bản tính con người, điều
đó chống lại định mệnh con người.
Phật nói không có nhu cầu phải vâng lời ai đó
khác; bạn phải tìm ra nhận biết riêng của mình - vâng theo nó. Nhận biết! - đó là kinh sách duy nhất. Nhận
biết! - đó là người thầy duy nhất. Nhận biết! - và
không cái gì có thể đi sai được. Nhận biết đem tới kỉ
luật riêng của nó như cái bóng. Và thế thì kỉ luật này
là đẹp. Thế thì nó không như cảnh nô lệ, thế thì nó
giống như sự hài hoà. Thế thì nó không phải dường
như bị ép buộc, thế thì nó là việc nở hoa từ bản thể
riêng của bạn, việc nở hoa.
và để được huấn luyện trong kỉ luật vượt ra ngoài
kỉ luật.
Mọi người thường tìm ai đó để bảo cho họ điều
phải làm - bởi vì họ sợ tự do của mình, bởi vì họ
không biết rằng họ có thể dựa vào cội nguồn riêng của
họ, bởi vì họ không tự tin, bởi vì họ bao giờ cũng
được ai đó khác bảo cho điều phải làm, cho nên họ đã
trở nên bị nghiện với điều đó. Họ tìm kiếm hình ảnh
người cha trong cả đời mình. Thượng đế của họ cũng
là cha, không gì khác. Thượng đế đó là giả, chính là
người cha. Và việc tìm kiếm hình ảnh người cha là
phản cuộc sống.
Bạn phải học cách tự do khỏi mọi hình ảnh người
cha. Bạn phải học cách là bản thân mình. Bạn phải
học cách nhận biết và có trách nhiệm. Chỉ thế thì bạn
mới bắt đầu lớn lên. Trưởng thành bao giờ cũng là
trưởng thành hướng tới tự do. Chưa trưởng thành bao
giờ cũng là một loại phụ thuộc và sợ tự do.
Đứa trẻ là phụ thuộc - điều đó là được, điều đó có
thể hiểu được. Nó bất lực. Nhưng tại sao cả đời bạn
vẫn còn là đứa trẻ? Đó là cuộc cách mạng Phật đã
đem vào trong thế giới. Ông ấy là một trong những
nhà tư tưởng nổi dậy nhất của thế giới. Ông ấy ném
bạn về với chính mình. Điều đó là nguy hiểm, nhưng
ông ấy nhận nguy cơ đó. Và ông ấy nói rằng mọi
người đều phải nhận lấy nguy cơ đó. Có mọi khả năng
bạn có thể đi lạc lối - nhưng cuộc sống là rủi ro.
Đi lạc lối theo cách riêng của bạn còn tốt hơn là đi
theo ai đó khác. Bị lạc mãi mãi và là bản thân mình
còn tốt hơn là đạt tới cõi trời như bản sao, như kẻ bắt
chước. Thế thì cõi trời của bạn sẽ không là gì ngoài
nhà tù. Và nếu bạn đã chọn địa ngục riêng của mình
theo cách riêng của mình, từ tự do của riêng mình, thì
địa ngục của bạn cũng sẽ là cõi trời - bởi vì tự do là
cõi trời.
Bây giờ bạn sẽ thấy khác biệt giữa Ki tô giáo và
Phật giáo. Ki tô giáo nói Adam bị đuổi bởi vì anh ta
đã không vâng lời thượng đế. Phật nói vâng theo mỗi
bản thân mình, không có thượng đế khác để mà phải
tuân theo. Ki tô giáo gọi không vâng lời là tội lỗi
nguyên thuỷ, còn Phật gọi vâng lời là tội lỗi nguyên
thuỷ. Khác biệt cực kì lớn. Phật là người giải thoát, Ki
tô giáo đã tạo ra tù túng cho toàn thể nhân loại.
Giải thoát của Phật là thuần khiết. Ông ấy dạy bạn
nổi dậy, nhưng nổi dậy của ông ấy không phải là nổi
dậy chính trị. Ông ấy dạy bạn nổi dậy với trách
nhiệm, với nhận biết. Nổi dậy của ông ấy không phải
là phản ứng. Bạn có thể vâng lời, bạn có thể không
vâng lời. Phật đang nói gì? Phật đang nói đừng vâng
lời đừng không vâng lời - bởi vì không vâng lời lại là
được ước định bởi ai đó khác. Bạn cứ làm điều gì đó
bởi vì cha bạn nói không làm điều đó, nhưng ông ấy
lại thao túng bạn theo cách tiêu cực. Bạn cứ làm điều gì đó bởi vì xã hội nói đừng làm điều đó, nhưng xã
hội đang xác định điều bạn phải làm.
Phật nói nổi dậy không phải là phản ứng. Nó
không là nô lệ không là phản ứng, không là vâng lời
cũng không là không vâng lời. Nó là kỉ luật bên trong.
Nó là kỉ luật, nó là trật tự vô cùng, nhưng nó tới từ cốt
lõi bên trong của bạn. Bạn quyết định nó.
Chúng ta cứ đổ trách nhiệm lên người khác. Điều
đó dễ dàng hơn. Bạn bao giờ cũng có thể nói rằng bố
bạn nói làm điều đó, cho nên bạn đã làm nó - bạn
không chịu trách nhiệm. Bạn bao giờ cũng có thể nói
lãnh đạo đã nói phải làm điều đó, cho nên bạn đã làm
- bạn không chịu trách nhiệm. Toàn thể đất nước định
làm điều đó, định đi vào chiến tranh và giết hại các
nước khác - bạn đã làm điều đó bởi vì bạn đơn giản
vâng theo mệnh lệnh, bạn đơn giản vâng lời.
Khi các đồng sự của Adolf Hitler bị bắt sau thế
chiến thứ hai, họ tất cả đều thú nhận trước toà rằng họ
không có trách nhiệm, họ đơn giản tuân theo mệnh
lệnh. Bất kì mệnh lệnh nào được trao cho, họ đều
vâng theo. Nếu mệnh lệnh được trao, 'Giết một triệu
người Do Thái!' thì họ giết. Họ đơn giản tuân theo
mệnh lệnh, họ đơn giản vâng lời. Họ không chịu trách
nhiệm.
Bây giờ nhìn và quan sát: bạn có thể đơn giản cố
gắng tìm ra ai đó, người nói 'làm cái này', để cho bạn
có thể đổ trách nhiệm lên người đó. Nhưng đây không
phải là cách thức - đổ trách nhiệm lên bất kì ai khác.
Cuộc sống là của bạn và trách nhiệm là của bạn.
Nếu bạn hiểu Phật, thế giới sẽ hoàn toàn khác.
Thế thì không thể có thêm bất kì Hitler nào nữa, thế
thì không thể có thêm chiến tranh nào nữa - bởi vì
không thể có bất kì việc vâng theo từ bên ngoài, và
mọi người có trách nhiệm sẽ nghĩ theo cách riêng của
mình. Không phải 'người Hindu đang giết người Mô
ha mét giáo, cho nên mình phải giết'; không phải
'người Mô ha mét giáo đang đốt đền chùa, cho nên tôi
phải đốt bởi vì tôi là người Mô ha mét giáo.' Từng cá
nhân nên trở thành ánh sáng lên bản thân mình, và
người đó nên quyết định - không như người Mô ha
mét giáo, không như người Ki tô giáo, không như
người Ấn Độ, không như người Pakistan; người đó
nên quyết định theo ý thức riêng của mình; không
theo bất kì cái gì khác. Đây là điều Phật gọi là kỉ luật
bên ngoài kỉ luật.
Đây là định nghĩa về người tôn giáo: Người suy
nghĩ ý nghĩ không thể nghĩ được; người thực hành
hành vi không thể làm được; người nói điều không
thể diễn đạt được, không thể tả được; và người đó
thực hành kỉ luật ở bên ngoài kỉ luật.
Những người hiểu điều này là gần; những người
bị lẫn lộn là xa.
Nếu bốn điều này mà được hiểu, bạn là gần với
chân lí. Nếu bạn không hiểu thế thì bạn ở xa với chân
lí.
Đạo ở bên ngoài lời và việc diễn đạt, không bị
giới hạn bởi bất kì cái gì trần tục. Mất cái nhìn về nó chỉ một li thôi hay mất nó trong một khoảnh
khắc thôi, và chúng ta xa khỏi nó mãi mãi.
Những người hiểu điều đó là gần... Bây giờ để
điều này là tiêu chí cho bạn - bạn có thể đánh giá. Để
điều này là hòn đá thử cho trưởng thành của bạn. Nếu
bạn cảm thấy bốn điều này đang xảy ra trong cuộc
sống của mình - tuy nhiên, theo bất kì số lượng nào...
có thể là số lượng rất nhỏ, nhưng nếu chúng đang xảy
ra, thế thì bạn đang trên đường đúng. Nếu bạn đi xa
khỏi bốn điều này, bạn đang đi xa khỏi con đường,
khỏi pháp, khỏi Đạo.
Đạo ở bên ngoài lời và việc diễn đạt, không bị
giới hạn bởi bất kì cái gì trần tục.
Chân lí tối thượng không bị giới hạn bởi bất kì cái
gì mà bạn có thể thấy, cái bạn có thể sờ. Nó không
phụ thuộc vào giác quan của bạn. Chân lí tối thượng
không là vật chất, nó là phi vật chất. Nó không trần
tục. Nó không thể bị bất kì cái gì gây ra. Đó là lí do
tại sao nó không bao giờ có thể trở thành một phần
của khoa học.
Bạn có thể trộn lẫn hidro và ô xi và bạn có thể tạo
ra nước ở đó. Không có cách nào để tạo ra cực lạc
theo cách đó. Không có cách nào để làm ra thượng đế
theo cách đó. Không có cách nào để làm ra chân lí
theo cách đó. Bạn có thể phá huỷ nước bằng việc
phân tách hidrô và ô xi, bạn có thể tạo ra nước bằng
việc trộn lẫn hidrô và ô xi, nhưng không có cách nào
để phá huỷ chân lí hay để tạo ra nó. Nó là không được
tạo ra.
Nó không phải là dây chuyền nhân quả. Bạn
không thể tạo ra được nó; nó đã có đó rồi. Bạn không
thể phá huỷ nó, bởi vì bạn là nó. Nó là chính cuộc
sống này. Bạn chỉ có thể làm một điều thôi - hoặc là
bạn có thể nhắm mắt lại với nó, hoặc là bạn có thể
quên nó đi, bạn có thể trở nên tuyệt đối quên lãng về
nó, hay bạn có thể nhớ, thấy, nhận ra.
Nếu bạn bị mất hút vào quá nhiều việc làm, tham
vọng, giầu có, tiền bạc, danh vọng, quyền lực, thế thì
bạn sẽ mất dấu vết của chân lí mà bao giờ cũng ở bên
cạnh bạn - chỉ ngay góc kia thôi, chỉ trong tầm với -
nhưng bạn đang quay lưng mình về nó.
Hay bạn có thể cho phép nó. Nếu bạn trở nên
mang tính thiền thêm chút ít và ít tham vọng hơn, nếu
bạn trở nên mang tính tôn giáo thêm chút ít và ít chính
trị đi, nếu bạn trở nên thanh cao hơn chút ít và ít trần
tục hơn, nếu bạn bắt đầu đi vào bên trong hơn đi ra
bên ngoài, nếu bạn bắt đầu trở nên tỉnh táo hơn chút ít
so với ngủ, nếu bạn đi ra khỏi trạng thái say sưa của
mình, nếu bạn đem chút ít ánh sáng vào trong bản thể
mình, thế thì... thế thì bạn sẽ ở gần, gần nhà. Bạn chưa
bao giờ ở xa cả. Thế thì toàn thể cuộc sống của bạn sẽ
được biến đổi, được siêu việt lên. Thế thì bạn sẽ sống
theo cách hoàn toàn khác; một phẩm chất mới sẽ có
đó trong cuộc sống của bạn mà không có gì liên quan
tới việc làm của bạn, cái là món quà, là phúc lành.
Mất cái nhìn về nó chỉ một li thôi hay mất nó
trong một khoảnh khắc thôi, và chúng ta xa khỏi
nó mãi mãi. 

Nhìn vào trong nó trong một khoảnh khắc thôi, lại
gần nó cho dù một li, và nó là của bạn, và nó bao giờ
cũng là của bạn.
Đây là nghịch lí của siddhanta. Đây không phải là
học thuyết, đây là việc nhận ra của Phật. Ông ấy đơn
giản cố gắng chia sẻ việc nhận ra của mình với bạn.
Ông ấy không làm sâu sắc triết lí hay hệ thống các ý
nghĩ. Ông ấy đơn giản chỉ tới mặt trăng, thực tại.
Đừng nhìn vào ngón tay đang trỏ của ông ấy,
bằng không bạn sẽ bỏ lỡ; bạn sẽ trở thành Phật tử.
Nhìn vào trăng mà ngón tay này đang trỏ tới. Quên
hoàn toàn ngón tay đi và nhìn vào trăng và bạn sẽ trở
thành vị phật.
Đây là vấn đề mà nhân loại phải giải quyết. Trở
thành người Ki tô giáo dễ hơn rất nhiều việc trở thành
một Christ, trở thành một Phật tử dễ hơn rất nhiều
việc trở thành vị phật, nhưng thực tại chỉ được biết tới
bởi việc trở thành một Christ hay một Phật. Bằng việc
trở thành người Ki tô giáo hay Phật tử bạn lại trở
thành bản sao. Đừng xúc phạm bản thân mình theo
cách đó. Có chút ít kính trọng bản thân mình đi. Đừng
bao giờ là người Ki tô giáo và đừng bao giờ là Phật tử
và đừng bao giờ là người Hindu. Là tâm thức không
xác định, không bị chặn, không động cơ. Nếu bạn có
thể làm được điều đó, tất cả những cái khác sẽ theo
sau theo cách riêng của nó.
Phật nói:
Học thuyết của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được; để thực hành hành vi không làm được;
để nói bài nói không diễn đạt được; và để được
huấn luyện trong kỉ luật vượt ra ngoài kỉ luật.

Những người hiểu điều này là gần; những người
bị lẫn lộn là xa. Đạo ở bên ngoài lời và việc diễn
đạt, không bị giới hạn bởi bất kì cái gì trần tục.
Mất cái nhìn về nó chỉ một li thôi hay mất nó
trong một khoảnh khắc thôi, và chúng ta xa khỏi
nó mãi mãi.
Lời kinh này là một trong những lời quan trọng
nhất, một trong những lời rất trung tâm của thông
điệp của Phật. Chính điều bản chất của thông điệp của
ông ấy có đó tựa như hạt mầm. Kiên nhẫn đi cùng tôi
vào trong nó, cố hiểu nó. Bởi vì nếu bạn hiểu câu mật
chú này, bạn đã hiểu tất cả mọi điều Phật muốn bạn
hiểu. Nếu bạn bỏ lỡ câu mật chú này, bạn bỏ lỡ tất cả.
Phật nói:
Học thuyết của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được; để thực hành hành vi không làm được;
để nói bài nói không diễn đạt được; và để được
huấn luyện trong kỉ luật vượt ra ngoài kỉ luật.
Việc chọn từ 'học thuyết' là điều không may,
nhưng có những khó khăn trong việc dịch. Phật phải
đã dùng từ siddhanta. Nó có nghĩa hoàn toàn khác.
Thông thường nó được dịch là học thuyết; nó không
nên được dịch như vậy. Nhưng vấn đề là ở chỗ trong
tiếng Anh không có từ tương đương với siddhanta.
Cho nên tôi sẽ phải giải thích nó cho bạn.
Học thuyết là một lí thuyết logic nhất quán. Còn
siddhanta chẳng có liên quan gì tới logic, lí thuyết,
nhất quán cả. Siddhanta là việc nhận ra, siddhanta là
kinh nghiệm. Học thuyết mang tính trí tuệ, siddhanta
mang tính tồn tại. Bạn có thể làm ra học thuyết mà
không bị biến đổi bởi nó. Bạn có thể làm ra học
thuyết vĩ đại mà thậm chí không bị nó chạm tới.
Nhưng nếu bạn muốn đạt tới siddhanta thì bạn sẽ phải
được biến đổi toàn bộ, bởi vì nó sẽ là tầm nhìn về một
con người khác toàn bộ.
Từ siddhanta nghĩa là việc khẳng định về người
đã trở thành một siddha, người đã đạt tới, người đã đi
tới - tuyên bố của người đó. Bạn có thể là triết gia vĩ
đại, bạn có thể hình dung ra nhiều thứ về mặt trí tuệ, bạn có thể tổng hợp các suy diễn của mình, và bạn có
thể làm ra qui tắc suy diễn rất logic, nhất quán, có vẻ
gần như chân lí, nhưng lại không phải là chân lí. Nó
được tâm trí bạn chế tạo ra. Học thuyết là nhân tạo;
siddhanta chẳng liên quan gì tới con người và nỗ lực
của con người. Siddhanta là tầm nhìn - bạn chợt nảy
ra nó trong óc.
Chẳng hạn, người mù có thể nghĩ về ánh sáng và
có thể cố gắng hình dung ra nó tất cả là gì. Người đó
thậm chí có thể nghe các chuyên luận lớn lao về ánh
sáng và người đó có thể làm ra ý tưởng nào đó về nó -
nó là gì. Nhưng người đó sẽ vẫn ở xa với ánh sáng
như người đó trước đây. Người đó thậm chí có thể
giải thích chi tiết học thuyết về ánh sáng, người đó có
thể giải thích vật lí của ánh sáng, người đó có thể giải
thích cấu trúc của nó. Người đó có thể đi sâu vào các
thành tố của ánh sáng, người đó có thể nói, người đó
có thể viết, người đó có thể viết luận án tiến sĩ về nó,
bản luận văn. Người đó có thể được đại học công bố
là tiến sĩ, bởi vì người đó đã làm sâu sắc một học
thuyết - nhưng dầu vậy người đó vẫn không biết ánh
sáng là gì. Người đó không có mắt để thấy.
Siddhanta là cái bạn đã thấy, cái đã được hiển lộ
cho bạn, cái đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn,
cái bạn đã đương đầu. Học thuyết gần như là tưởng
tượng, nó không thực. Học thuyết gần như bao giờ
cũng được vay mượn. Bạn có thể che giấu vay mượn
của mình theo nhiều cách - những cách tinh tế, tinh
ranh. Bạn có thể phát biểu lại, bạn có thể lấy từ nhiều
nguồn và bạn có thể tái thu xếp mọi thứ, nhưng học
thuyết là thứ vay mượn - chẳng cái gì nguyên bản
trong nó.
Siddhanta là tuyệt đối nguyên bản, mới. Nó là
kinh nghiệm đích thực của bạn. Bạn đã đi tới thấy
thực tại là gì. Nó là cảm nhận tức khắc, nó là phúc
lành, nó là ân huệ, nó là sự trọng đãi, món quà. Bạn
đã đạt tới và bạn đã thấy chân lí là gì. Phát biểu về
việc nhận ra là siddhanta. Làm sâu sắc học thuyết là
một điều; cho cách diễn đạt về siddhanta là khác toàn
bộ.
Tôi đã nghe:
Có lần Mulla Nasruddin nói chuyện với vài người
bạn của mình. Anh ta kể cho các bạn thân của mình
về kì nghỉ tuyệt vời mà anh ta và gia đình đã có ở Mĩ.
'Đó là một nước kì diệu,' anh ta kêu lên. 'Không
đâu trên thế giới này người lạ lại được đối xử tốt thế.
Bạn bước đi trên phố và bạn gặp một anh chàng ăn
vận trang nhã với nhiều đô la. Anh ta ngả mũ chào và
mỉm cười với bạn, và bạn cùng nói chuyện. Anh ta
mời bạn vào chiếc xe lớn của anh ta, và chỉ cho bạn
xem thành phố. Anh ta chiêu đãi bạn bữa tối ngon
lành, rồi đưa bạn tới nhà hát. Bạn có nhiều thức ăn
ngon và đầy đồ uống, và anh ta mời bạn về nhà anh ta
và bạn ngủ ngon lành cả đêm. Sáng hôm sau...
'Cái gì, Nasruddin,' một thính giả nói, 'tất cả điều
này thực sự xảy ra cho anh chứ?'
'Không, không đích xác thế, nhưng nó tất cả đã
xảy ra cho vợ tôi,' Nasruddin nói. 

Học thuyết là cái đã xảy ra cho ai đó khác. Bạn đã
nghe nói về nó. Nó đã không xảy ra cho bạn - nó được
vay mượn, bẩn, xấu. Siddhanta mới trong trắng.
Học thuyết là mãi dâm. Nó đã đi qua nhiều tâm
trí, qua tay nhiều người. Nó giống như tiền bẩn; nó cứ
thay đổi chủ nhân. Siddhanta là cái gì đó tuyệt đối
tươi tắn. Nó chưa bao giờ xảy ra trước đây, nó sẽ
không bao giờ xảy ra lần nữa. Nó đã xảy ra cho bạn.
Siddhanta mang tính cá nhân sâu sắc, nó là tầm nhìn
cá nhân về thực tại.
Điều đã xảy ra cho Phật là siddhanta - điều các
Phật tử đề xuất là học thuyết. Điều đã xảy ra cho
Christ là siddhanta - điều người Ki tô giáo nói tới là
học thuyết. Điều đã xảy ra cho Krishna là siddhanta -
điều người Hindu cứ ba hoa là học thuyết. Điều tôi
đang nói với bạn là siddhanta - nếu bạn đi và lặp lại
điều đó, nó sẽ là học thuyết. Đó là lí do tại sao tôi nói
đó là việc chọn từ rất không may để đặt vào mồm
Phật.
Học thuyết của ta là để suy nghĩ... Không, để nó
là: Siddhanta của ta là để suy nghĩ, việc nhận ra của ta
là để suy nghĩ, hiểu biết riêng của ta là để suy nghĩ...
Ông ấy không đề nghị một lí thuyết, ông ấy đơn giản
diễn đạt một kinh nghiệm.
Thêm vài điều nữa trước khi chúng ta đi vào trong
lời kinh này.
Siddhanta theo chính bản chất của nó mang tính
ngược đời - nó phải như thế, bởi vì cuộc sống mang
tính ngược đời. Nếu bạn thực sự đã kinh nghiệm điều
đó, thế thì bất kì điều gì bạn thấy và nói cũng đều sẽ
mang tính ngược đời. Cuộc sống bao gồm những mâu
thuẫn. Chúng ta gọi chúng là mâu thuẫn; cuộc sống
không gọi chúng là mâu thuẫn. Chúng là những phần
bù. Ngày và đêm nhảy múa cùng nhau, yêu và ghét đi
tay trong tay. Chúng ta gọi chúng là mâu thuẫn - trong
cuộc sống chúng không phải vậy. Cuộc sống là lớn
lao và bao la, mênh mông. Nó bao hàm tất cả mọi
mâu thuẫn vào trong nó; chúng là các phần bù.
Khi một người đã nhận ra, bất kì điều gì người đó
nói cũng đều sẽ có hương vị của ngược đời. Đó là lí
do tại sao tất cả các khẳng định tôn giáo vĩ đại đều
mang tính ngược đời. Chúng có thể ở trong Vedas,
trong Upanishads, trong Koran, trong Kinh Thánh,
trong Đại Đức Kinh. Bất kì nơi đâu, bất kì khi nào
bạn tìm thấy chân lí, bạn sẽ thấy nó mang tính ngược
đời - bởi vì chân lí phải mang tính toàn bộ; tính toàn
bộ là tính ngược đời.
Học thuyết không bao giờ mang tính ngược đời,
học thuyết cực kì nhất quán - bởi vì học thuyết không
lo nghĩ về thực tại. Học thuyết lo nghĩ về việc nhất
quán. Nó không biết tới thực tại. Nó là trò chơi tâm
trí, và tâm trí lại rất, rất logic. Và tâm trí nói đừng cho
phép mâu thuẫn nào trong nó. Tâm trí nói nếu bạn nói
về ánh sáng thế thì đừng nói về bóng tối bởi vì điều
đó sẽ không nhất quán. Quên bóng tối đi. Tâm trí cố
gắng chứng minh rằng cuộc sống là không mâu thuẫn,
bởi vì đó là chọn lựa của tâm trí.
Tâm trí rất sợ mâu thuẫn, trở nên rất lung lay khi
nó bắt gặp mâu thuẫn. Nó khăng khăng vào hình mẫu
riêng của nó. Tâm trí mang tính logic, cuộc sống thì
không. Cho nên nếu bạn tìm thấy cái gì đó rất logic, hãy đề phòng - cái gì đó phải sai trong nó. Nó phải
không là một phần của cuộc sống, nó phải là nhân tạo.
Mọi thứ do thượng đế làm đều mâu thuẫn. Đó là lí
do tại sao mọi người cứ tranh cãi về thượng đế. Tại
sao, nếu ông ấy yêu con người nhiều thế, thì tại sao
ông ấy lại tạo ra cái chết? Tâm trí thấy rất khó chấp
nhận ý tưởng rằng Thượng đế đã tạo ra cuộc sống
cũng tạo ra cái chết. Nếu đấy là tuỳ ở bạn, nếu như
bạn là người làm ra thế giới này, nếu tâm trí mà là
đấng sáng tạo, thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ làm điều
đó.
Nhưng nghĩ về cuộc sống mà không tồn tại cái
chết xem. Nó sẽ cực kì chán. Nó sẽ tẻ ngắt. Cứ nghĩ
mà xem - nếu cái chết mà không thể được, thế thì bạn
sẽ liên tục trong địa ngục. Nếu tâm trí đã tạo ra thế
giới này, thế thì chắc sẽ chỉ có yêu, không có ghét.
Những nghĩ về một thế giới chỉ yêu tồn tại. Thế thì nó
sẽ quá dịu ngọt - dịu ngọt tới độ phát buồn nôn. Nó sẽ
mất tất cả các hương vị, nó sẽ mất tất cả mọi mầu sắc,
nó sẽ tẻ nhạt. Yêu là đẹp bởi vì có khả năng của ghét.
Nếu tâm trí mà tạo ra thế giới này hay Aristotle
được yêu cầu tạo ra thế giới này, thế thì sẽ chỉ có
ngày, không có đêm; chỉ công việc, không chơi đùa.
Thế thì nghĩ điều gì sẽ xảy ra. Thượng đế trong từ bi
của mình không bao giờ nhận lời khuyên nào từ
Aristotle. Và có thể đó là lí do để ngài đã tạo ra con
người vào phút chót. Trước hết ngài tạo ra những thứ
khác - bằng không thì con người sẽ bắt đầu cho lời
khuyên.
Đó đã từng là vấn đề - tại sao ngài đã tạo ra con
người vào phút chót? Trước hết ngài tạo ra cây cối và
trái đất và bầu trời và các vì sao và con vật và chim
chóc và cái toàn thể - thế rồi ngài chờ đợi và chờ đợi.
Thế rồi ngài tạo ra con người. Và ban đầu ngài tạo ra
đàn ông, rồi ngài tạo ra đàn bà. Bởi vì đàn ông, chỉ vì
lễ phép, có thể đã giữ yên tĩnh, nhưng đàn bà không
thể giữ yên tĩnh được. Ngài phải đã sợ. Không tạo ra
con người vội bằng không thì con người sẽ bắt đầu
cho lời khuyên - làm cái này, không làm cái kia. Và
với đàn bà ngài đợi tới cuối cùng. Và vì ngài đã tạo ra
đàn bà nên ngài đã biến mất - bằng không thì đàn bà
sẽ chì chiết ngài đến chết.
Một nhà công nghiệp lớn đã nói với tôi rằng với
nhà máy mới của ông ta thì mọi thứ đều đã được lập
kế hoạch, đã được thoả thuận. Các kĩ sư, kiến trúc sư,
nhà lập kế hoạch, họ đã làm mọi thứ và mọi thứ đều
đã được thoả thuận. Nhưng thế rồi tôi hỏi, 'Sao ông cứ
lặp đi lặp lại mãi rằng mọi thứ đã được thoả thuận?
Có điều gì đó đi sai chẳng?'
Ông ta nói, 'Thế rồi tôi về nhà và nói về điều đó
cho vợ tôi - và bị kết thúc. Bây giờ cô ấy gợi ý những
điều sẽ làm thay đổi toàn thể ý tưởng. Và nếu tôi
không làm điều đó bây giờ, thế thì nó sẽ là vấn đề
thường xuyên cho cả đời tôi. Cô ấy sẽ chì chiết tôi
đến chết.'
Nếu như Aristotle mà được yêu cầu tạo ra thế
giới, hay giúp cho thế giới được tạo ra, thế thì thế giới
này đã tuyệt đối nhất quán rồi - tuyệt đối nhất quán.
Nhưng thế thì nó đã là một thế giới của khổ và địa ngục. Cuộc sống là đẹp bởi vì có mâu thuẫn. Việc là
đẹp bởi vì có chơi. Việc nghĩa là bạn đang làm cái gì
đó để được cái gì đó từ nó. Chơi nghĩa là bạn đơn
giản làm nó vì riêng nó mà thôi.
Không, Aristotle sẽ không cho phép điều đó.
Plato sẽ không cho phép điều đó. Trong cuốn
Republic (Cộng hoà) của mình, Plato nói sẽ không có
khả năng nào cho bất kì nhà thơ nào; chúng ta sẽ
không cho phép họ. Họ là những người nguy hiểm, họ
đem mâu thuẫn vào thế giới - nhà thơ, họ là những tay
mơ. Và họ nói theo cách mơ hồ, mông lung. Bạn
không thể làm được gì từ điều đó - điều họ nói, điều
họ ngụ ý. Trong thế giới của Plato, trong cuốn
Republic của ông ấy, nhà logic, triết gia sẽ là vua; họ
sẽ quyết định.
Điều đó chưa xảy ra, chỉ vài điều như thế đã xảy
ra. Chẳng hạn, nước Nga Xô viết mang tính Plato
nhiều hơn, Trung Quốc mang tính Plato nhiều hơn.
Hai nước này được cai trị bởi logic. Bạn không thể
tìm thấy nhiều người khổ hơn ở bất kì nơi nào khác.
Được nuôi nấng tốt, có chỗ ở tốt - bởi vì logic là kẻ
thu xếp vĩ đại về mọi thứ; mọi thứ đều được thu xếp -
chỉ cuộc sống là thiếu. Bằng cách nào đó con người
không hạnh phúc, bởi vì con người không thể sống
bằng mỗi bánh mì. Bạn cần cái đối lập nữa. Cả ngày
bạn làm việc, đến đêm bạn nghỉ ngơi. Bạn cần bóng
tối nữa.
Học thuyết là phát biểu logic về một lí thuyết, và
logic lại giống như người không kiên định - nó cứ
thay đổi mầu sắc của nó, nó không đáng tin cậy. Nó
không đáng tin cậy bởi vì nó không dựa vào thực tại.
Nó không chịu trách nhiệm bởi vì nó không dựa vào
thực tại. Nó là không thực bởi vì nó là chân lí bộ
phận. Nhớ lấy, chân lí bộ phận không thật hơn phi
chân lí toàn bộ. Bởi vì chân lí bộ phận cho cảm giác
của việc là đúng. Nó chỉ là nửa đúng thôi và chẳng cái
gì có thể nửa đúng được. Hoặc nó là đúng hoặc nó là
không đúng. Nửa chân lí là tuyệt đối không đúng,
nhưng logic lại cho nó cảm giác rằng nó là đúng; ít
nhất theo cách hướng tới chân lí. Nó thậm chí không
trên con đường hướng tới chân lí.
Và nhà logic cứ làm trò nhào lộn, họ cứ thay đổi
quan điểm, bởi vì thực tế họ đã không đi tới cái gì
thực sự là thực cả, chỉ tâm trí của họ chơi trò chơi
thôi. Hôm nay trò chơi này, hôm khác trò chơi khác;
họ cứ thay đổi hoài. Họ vẫn còn nhất quán - nhất quán
với chuỗi suy nghĩ riêng của họ, nhưng bất nhất với
thực tại.
Tôi đã nghe:
'Khó mà giải thích được tiến trình logic sẽ làm gì
cho tư duy con người, nhưng để bố minh hoạ cho,'
Mulla Nasruddin nói với con mình. 'Giả sử hai người
bước ra từ ống khói. Một người sạch, người kia bẩn.
Người nào sẽ phải tắm?'
'Người bẩn, đương nhiên rồi,' đứa con trả lời.
'Nhớ lấy,' Nasruddin mắng, 'rằng người sạch nhìn
người bẩn và thấy anh ta bẩn làm sao, và ngược lại.'
'Bây giờ con hiểu điều đó rồi, bố ạ,' đứa trẻ trả lời.
'Người sạch, thấy bạn đồng hành bẩn của mình, kết luận là mình cũng bẩn. Thế là anh ta đi tắm. Bây giờ
con đúng chứ?'
'Sai toét,' Nasruddin lãnh đạm nói. 'Logic dạy
chúng ta điều này - làm sao hai người cùng ra khỏi
ống khói mà một người sạch một người bẩn được?'
Một khi bạn bắt đầu chơi trò chơi của logic thì
không có kết thúc cho nó, và bạn sẽ không bao giờ
thắng cả. Nhà logic bao giờ cũng thắng. Nhà logic bao
giờ cũng thắng vì bạn bao giờ cũng có thể tìm ra cách.
Và bạn chẳng có gì để so sánh, bạn không có thực tại.
Đó là lí do tại sao nhiếu triết lí thế tồn tại, và tất cả
các triết lí đều đối lập nhau; và không một kết luận
nào đã được đạt tới.
Trong nhiều thế kỉ, gần năm nghìn năm, con
người đã tranh cãi; con người đã không làm nhiều gì
mấy mà chỉ tranh cãi. Hàng nghìn triết lí đã được tạo
ra, logic rất nét và rõ ràng. Nếu bạn đọc triết gia này
bạn sẽ bị thuyết phục. Nếu bạn đọc người đối lập ông
ấy bạn sẽ bị thuyết phục. Đọc người thứ ba, bạn sẽ bị
thuyết phục - và bạn sẽ lâm vào đống lộn xộn. Dần
dần bạn sẽ bị thuyết phục bởi tất cả và bạn sẽ điên,
bởi vì bạn sẽ không biết cái gì là đúng. Họ tất cả đều
sai bởi vì cách tiếp cận logic là sai.
Có hai cách để biết tới thực tại. Một là: nhắm mắt
lại và nghĩ về nó. Tôi gọi nó là 'chủ nghĩa về'. Nó bao
giờ cũng về và về, nó chưa bao giờ đi trực tiếp cả.
Bạn cứ khua quanh bụi cây. Bạn chẳng bao giờ khua
đích xác vào bụi cây - chỉ loanh quanh. Bạn chưa bao
giờ thấm nhuần vào trung tâm của vấn đề, bạn đơn
giản đi vòng tròn xung quanh. Nó là trò vòng quay
ngựa gỗ. Bạn có thể thích thú nó - các nhà logic thích
thú lắm. Đi tới với một lí thuyết mới sao hay thế, cái
giải thích được mọi thứ - nhưng nó chỉ ở trong tâm trí.
Bạn nhắm mắt lại, ngồi trên ghế và nghĩ ngợi. Điều
này sẽ không cho bạn thực tại đâu.
Thực tại đã có đó rồi, bạn phải đừng nghĩ về nó.
Bạn phải cho phép nó. Bạn phải vứt bỏ mọi suy nghĩ
để cho bạn có thể thấy cái là chân lí, để cho bạn có thể
thấy cái đang đó. Nếu bạn cứ suy nghĩ thì bạn không
thể thấy được cái đang đó. Điều đó là không thể được.
Ý nghĩ của bạn sẽ tạo ra làn khói quanh bạn. Tâm
thức của bạn sẽ bị bao phủ bởi làn khói này, mắt bạn
sẽ không có sáng tỏ, bạn sẽ không có nhạy cảm. Và
bạn sẽ liên tục tìm và kiếm các ý tưởng riêng của
mình, áp đặt chúng, phóng chiếu chúng lên thực tại.
Bạn sẽ không cho thực tại cơ hội để hiển lộ bản thân
nó.
Học thuyết được đạt tới qua suy nghĩ logic. Học
thuyết tới qua quá trình của 'chủ nghĩa về'. Siddhanta
được đạt tới không bởi việc nhắm mắt, không bởi việc
suy nghĩ quá nhiều, mà bởi việc vứt bỏ suy nghĩ, toàn
bộ; bằng việc mở mắt ra không định kiến nào, không
quan niệm tiên thiên nào, và nhìn thẳng vào thực tại,
đối diện thẳng với thực tại. Nó đã có đó rồi, nó chỉ
cần bạn ở đó thôi.
Và khi bạn tuyệt đối không có ý nghĩ nào, tâm trí
của bạn tĩnh lặng, kí ức của bạn tĩnh lặng, suy nghĩ
của bạn đã hoàn toàn dừng hiện hữu, thế thì thực tại
bùng phát, bùng nổ. Thế thì bạn trở thành người nhận.
Thế thì siddhanta nảy sinh. 

Siddhanta của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được...
Điều đầu tiên, Phật nói, là suy nghĩ ý nghĩ không
thể nghĩ được. Đó là một mâu thuẫn, một nghịch lí.
Bây giờ, không nhà logic nào đã bao giờ thốt ra điều
vô nghĩa thế. Chính chỗ đó bắt đầu vô nghĩa. Đó là lí
do tại sao các nhà logic cứ nói rằng Phật, Jesus, Bồ đề
đạt ma, Lão Tử, Zarathustra - những người này tất cả
đều vô nghĩa. Tuyên bố của họ là vô nghĩa - bởi vì họ
nói điều này và trong hơi kế tiếp họ mâu thuẫn lại.
Bây giờ nhìn vào câu này: Siddhanta của ta là suy
nghĩ ý nghĩ không thể nghĩ được...
Bây giờ ngay trong câu nhỏ này đã tuyệt đối mâu
thuẫn - suy nghĩ về cái không thể nghĩ được. Làm sao
bạn có thể nghĩ về cái không thể nghĩ được? Nếu nó
thực sự là không thể nghĩ được thì bạn không thể
nghĩ. Nếu bạn có thể nghĩ thế thì làm sao nó có thể lại
là không thể nghĩ được? Đơn giản, phi logic - nhưng
điều Phật ngụ ý phải được hiểu. Đừng vội vàng; đó là
lí do tại sao tôi nói đi kiên nhẫn vào.
Khi ông ấy ngụ ý... khi ông ấy muốn nói điều gì
đó, ông ấy ngụ ý điều đó. Ông ấy đang nói có cách để
biết mọi thứ mà không suy nghĩ. Có cách để biết mọi
thứ mà không có tâm trí. Có cách để nhìn thẳng vào
thực tại, ngay lập tức, không dùng phương tiện ý nghĩ.
Bạn có thể được nối với thực tại mà không có tác
nhân tư duy nào - đó là điều ông ấy đang nói. Ông ấy
đang nói rằng tâm trí có thể hoàn toàn dừng hoạt động
của nó lại, hoàn toàn có thể vứt bỏ hoạt động của nó
vậy mà vẫn hiện hữu - tĩnh lặng, một bình chứa - và
nhìn vào thực tại. Nhưng bạn sẽ phải kinh nghiệm nó,
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu được.
Đôi khi hãy thử nhìn. Ngồi bên cạnh bụi hồng, chỉ
nhìn vào hoa hồng; không nghĩ, thậm chí không cho
nó tên. Thậm chí không phân loại. Thậm chí không
nói rằng đây là hoa hồng - bởi vì hoa hồng là hoa
hồng là hoa hồng; dù bạn có gọi nó là hoa hồng hay
cái gì đó khác cũng không tạo ra khác biệt gì. Cho nên
đừng dán nhãn nó, đừng cho nó cái tên, đừng đem
ngôn ngữ vào. Đừng đem bất kì biểu tượng nào vào,
bởi vì biểu tượng là phương pháp làm giả thực tại.
Nếu bạn nói đây là hoa hồng, bạn đã bỏ lỡ rồi.
Thế thì bạn đã đem vào kinh nghiệm quá khứ nào đó
về hoa hồng khác, cái không có đây. Bây giờ mắt bạn
đầy hoa hồng - từng luống hoa hồng. Trong cuộc đời
mình bạn phải đã bắt gặp nhiều kiểu hoa hồng - trắng
và đen và đỏ; tất cả những hoa bồng đó đang có đó
trôi nổi trong mắt bạn. Bây giờ bạn bị chen chúc bởi
kí ức quá khứ của mình. Và thế rồi, bên ngoài tất cả
những kí ức đó là hoa hồng này, cái là thực. Bây giờ
đám đông của cái không thực lại quá nhiều đến mức
bạn không có khả năng đạt tới và chạm vào cái thực.
Khi Phật nói buông bỏ suy nghĩ ông ấy ngụ ý,
đừng đem quá khứ vào. Phỏng có ích gì mà mang nó
vào? Hoa hồng này ở đây, bạn ở đây. Cứ để cho nó là
gặp gỡ sâu sắc, giao cảm, mối kết nối. Tan chảy một
chút với hoa hồng này, để cho hoa hồng này tan chảy
một chút vào trong bạn. Hoa hồng sẵn sàng chia sẻ
hương thơm của nó, bạn cũng chia sẻ bản thể mình,
tâm thức mình cùng nó. 

Có cái bắt tay với thực tại đi. Có chút ít nhảy múa
với hoa hồng này... nhảy múa trong gió. Bạn cũng
chuyển động, hiện hữu, nhìn, cảm, nhắm mắt lại,
ngửi, sờ, uống. Hiện tượng đẹp này đang đối diện với
bạn... đừng đi đây đó - ở cùng với nó. Không còn bên
phải và bên trái, chỉ đi thẳng như mũi tên hướng tới
đích. Nếu bạn đem lời, đem ngôn ngữ vào, bạn đem
xã hội vào, bạn đem quá khứ vào, bạn đem người
khác vào.
Tennyson đã nói điều gì đó về hoa hồng. Shelley
đã nói điều gì đó về hoa hồng. Shakespeare đã nói
điều gì đó về hoa hồng, hay Kalidas. Một khi bạn
mang ngôn ngữ vào, Shakespeare và Kalidas và
Bhavabhuti và Shelley và Keats - họ tất cả đều đang
đứng đó. Bây giờ bạn quá đầy các ý tưởng của riêng
mình, bây giờ bạn đang trong đám đông, mất hút. Bạn
sẽ không có khả năng thấy chân lí đơn giản.
Chân lí đơn giản thế. Vâng, nó cũng giống như
hoa hồng ngay trước bạn. Nó hoàn toàn có đó. Sao
phải đi đâu đó khác? Sao không đi vào trong thực tại
này? Sao phải đi và tìm quá khứ và tương lai? Đừng
nói hoa hồng này đẹp, bởi vì hoa hồng này không cần
lời khen từ bạn. Cứ để nó là một cảm giác. Hoa hồng
này không hiểu ngôn ngữ loài người, cho nên sao lại
bối rối về hoa hồng này? Sao lại nói nó là đẹp? Bởi vì
hoa hồng này chẳng biết gì về cái đẹp và chẳng biết gì
về cái xấu.
Với hoa hồng này, cuộc sống không bị phân chia
và chia chẻ; hoa hồng này không bị tinh thần phân
liệt. Hoa hồng này đơn giản có đó, không có ý tưởng
nào về đẹp là gì và xấu là gì. Đừng gọi nó là đẹp. Khi
bạn gọi nó là đẹp thì bạn đã mang vào một khái niệm.
Tâm trí đã bắt đầu hoạt động. Bây giờ, bạn có thể có
chút ít kinh nghiệm về hoa hồng, nhưng nó sẽ không
đúng - tâm trí bạn sẽ là việc bóp méo. Bạn sẽ nghĩ về
hoa hồng này như đại diện cho tất cả các hoa hồng
khác.
Plato nói rằng mọi thứ thực đều chỉ là đại diện
cho cái gì đó lí tưởng. Plato nói rằng với thượng đế
tồn tại ý tưởng về hoa hồng - cái đó là thực. Ý tưởng
về hoa hồng là thực và hoa hồng này chỉ là sự phản
chiếu của ý tưởng đó. Điều này là vô nghĩa, điều này
thực sự ngớ ngẩn.
Hoa hồng này tồn tại ở đây bây giờ cùng thượng
đế. Không có ý tưởng nào trong tâm trí của thượng
đế. Thượng đế không có tâm trí như vậy. Thượng đế
hiện hữu mà không có tâm trí. Thượng đế không phải
là người, và thượng đế đã không được huấn luyện bởi
bất kì cha mẹ nào, và thượng đế đã không được giáo
dục bởi bất kì đại học nào. Thượng đế đã không bị
ước định. Không có ý tưởng trong tâm trí của thượng
đế - và hoa hồng này là hoa hồng thực. Thượng đế tồn
tại cùng với hoa hồng này và hoa hồng này tồn tại
cùng thượng đế, và thượng đế không có rào chắn với
hoa hồng này, không rào chắn tâm trí.
Nhưng với Plato, thực tại là không thực còn ý
tưởng mới là thực. Với Phật nó chính là điều đối lập
lại: thực tại là thực còn ý tưởng là không thực. Nếu
bạn theo Plato, bạn sẽ trở thành triết gia. Nếu bạn theo
Phật bạn sẽ trở thành người tôn giáo. Tôn giáo không
phải là triết lí, tôn giáo là kinh nghiệm. 

Cho nên thử điều đó đi. Đôi khi cho phép vô trí
của bạn hoạt động. Đôi khi đẩy mọi suy nghĩ của bạn
sang bên. Đôi khi để thực tại thấm vào bạn. Đôi khi
để có phúc lành từ thực tại. Cho phép nó chuyển
thông điệp của nó cho bạn. Nhưng chúng ta cứ sống
trong lời, và chúng ta chú ý quá nhiều tới lời.
Tôi có một thầy giáo ở đại học và chúng tôi hay đi
dạo cùng nhau. Sau vài ngày tôi nói, 'Em sẽ không tới
nữa. Tốt hơn cả là em nên tự đi một mình.'
Thầy nói, 'Sao thế?' Bởi vì thầy quá bị ám ảnh với
các cái tên. Mọi cây thầy thấy thì thầy phải nói nó
thuộc vào loài gì. Mọi hoa - nó chứa gì, lịch sử của
nó. Nếu thầy nhìn hoa hồng, thầy sẽ không nhìn vào
hoa hồng đâu, thầy sẽ nhìn vào toàn thể lịch sử của
hoa hồng: nó tới từ Iran như thế nào, vào thế kỉ nào, ai
đem nó tới Ấn Độ - nó không phải là hoa Ấn Độ.
Bây giờ, thầy sẽ không bao giờ nhìn vào hoa cả,
và tôi cứ phải kéo thầy lại mãi - 'Hoa này là đủ rồi.
Vấn đề là gì? Hoa không có lịch sử, chỉ con người
mới có. Hoa này không bận tâm liệu nó bắt nguồn từ
Iran hay từ Ấn Độ. Hoa này không có ý tưởng về quá
khứ nào, nó sống ngay ở đây bây giờ. Nó không là
Hindu không là Mô ha mét giáo, không là Ấn Độ
không là Iran. Nó đơn giản có đó. Nó thậm chí không
phải là hoa hồng!'
Nhưng điều đó lại là khó cho thầy. Bất kì con
chim nào thầy trông thấy thầy sẽ nói, 'Đợi chút, để tôi
xem. Đây là loài chim gì? Nó từ đâu tới? Nó có tới từ
Siberia không? Hay từ Trung Á? Hay nó là con chim
Himalaya?' Sau vài ngày tôi nói, 'Em xin lỗi thầy.
Thầy đi một mình đi. Bởi vì em không quan tâm việc
con chim này đã từ đâu tới. Con chim này ở đây, nó là
đủ. Em không quan tâm tới việc giải thích khoa học,
lịch sử.'
Giải thích, với vài người, gần như là bệnh. Qua
việc giải thích của mình họ cố gắng giải thích cho mọi
điều. Họ bị ám ảnh với lời giải thích. Họ cho rằng nếu
họ có thể gọi tên một vật, đánh nhãn cho một vật, thì
họ biết nó. Họ rất không thoải mái chừng nào họ còn
chưa thể đánh nhãn cho một vật, biết một vật qua cái
tên, phân loại nó, phân ngăn cho nó - chừng nào họ
còn chưa làm điều đó thì họ rất không thoải mái.
Dường như là một điều nào đó đang làm chướng mắt
họ - sao mày ở đấy mà lại không có phân loại nào?
Một khi họ đã phân loại được nó, phân ngăn được nó,
dán nhãn lên nó, thế thì họ mới thoải mái. Họ đã biết
nó. Họ được kết thúc với vật này.
Tôi đã nghe:
Sau thế chiến thứ hai một lính Đức hãm hiếp một
người đàn bà Pháp và bảo cô ấy, 'Trong chín tháng cô
sẽ có đứa con - cô có thể gọi nó là Adolf Hitler.' Với
điều đó người đàn bà Pháp đáp lại, 'Trong chín ngày
ông sẽ bị phát ban - ông có thể gọi nó là bệnh sởi.'
Nhưng bằng việc gọi tên, nó chẳng thay đổi gì cả.
Điều bạn gọi là tuyệt đối không liên quan. Bất kì cái
gì đang đấy, thì vẫn đang đấy! Bằng việc bạn cho nó
cái tên nó chẳng bao giờ thay đổi cả. Nhưng với bạn
thì nó thay đổi. Chỉ bởi việc cho cái tên, thực tại trở
thành khác với bạn. 

Chuyện xảy ra:
Một con sư tử và một con lừa thoả thuận cùng đi
săn. Ngay lúc đó chúng đi tới một cái hang nơi ở của
nhiều con dê hoang. Sư tử chiếm vị trí cửa hang còn
lừa, đi vào bên trong, đá và kêu be be rầm rĩ và làm
cực kì om sòm để doạ lũ dê chui ra. Khi sư tử đã bắt
được nhiều dê, lừa chui ra và hỏi sư tử liệu nó có phải
đã làm việc cao quí và lùa đàn dê ra đúng không.
'Đúng thật đấy,' sư tử nói. 'Và tôi đảm bảo với
ông, ông chắc đã làm cả tôi cũng hoảng nữa nếu như
tôi mà không biết ông là lừa.'
Điều đó có thể tạo ra khác biệt cho bạn bằng việc
gọi các tên, nhưng nó không tạo khác biệt gì cho thực
tại. Nó có thể tạo ra khác biệt cho bạn bởi vì bạn sống
bị bao quanh bởi ngôn ngữ của mình, khái niệm, việc
nói ra lời. Bạn lập tức cứ dịch mọi thứ thành ngôn
ngữ.
Bỏ ngôn ngữ trong bạn - đó là điều Phật ngụ ý.
Tự mình khử bỏ tâm trí, tự mình tháo dỡ - đó là điều
Phật ngụ ý. Bằng không thì bạn sẽ không bao giờ biết
cái gì là đúng.
Siddhanta của ta là để suy nghĩ ý nghĩ không thể
nghĩ được.
Bạn không thể nghĩ được về thực tại. Không có
cách nào nghĩ về nó cả. Mọi suy nghĩ đều được vay
mượn. Không suy nghĩ nào đã bao giờ là nguyên bản.
Mọi suy nghĩ đều mang tính lặp lại, mọi suy nghĩ đều
mang tính máy móc. Bạn có thể cứ nhai đi nhai lại
cùng một điều lặp đi lặp lại mãi, nhưng chẳng cái gì
mới đã bao giờ nảy sinh ra từ việc suy nghĩ. Suy nghĩ
là cũ rích, mục nát. Nó là đồ đồng nát.
Bạn không thể nghĩ được về thực tại bởi vì mọi
khoảnh khắc đều nguyên bản. Mọi khoảnh khắc nó
đều mới tới mức nó chưa bao giờ giống thế trước đó.
Nó tuyệt đối tươi tắn tới mức bạn sẽ phải biết nó.
Không có cách khác để biết nó hơn là việc biết nó.
Cách duy nhất để biết yêu là yêu. Cách duy nhất
để biết bơi là bơi. Cách duy nhất để biết thực tại là
thành thực. Tâm trí làm cho bạn thành không thực.
Tâm trí làm cho bạn thành quá nhiều như ý nghĩ -
chất liệu tâm trí, lời, khái niệm, lí thuyết, triết lí, học
thuyết, kinh sách, chủ nghĩa. Tâm trí không cho bạn
cái thực, nó cho bạn chỉ những phản chiếu - và những
phản chiếu đó cũng bị bóp méo.
Phật nói đạt tới sáng tỏ. Nhìn, hiện hữu đi. Và thế
rồi bạn sẽ có khả năng nghĩ ý nghĩ mà không thể nghĩ
được. Bạn sẽ có khả năng có cuộc gặp gỡ với thực tại,
cuộc hẹn với thượng đế.
Ý nghĩ không thể nghĩ được - chỉ cái đó mới là
suy nghĩ xứng đáng. Tất cả mọi cái khác đều chỉ phí
hoài năng lượng sống.
để thực hành hành vi không làm được
Đây là điều Lão Tử gọi là vô vi. Hành động trong
bất hành - lại một ngược đời khác. Nhưng siddhanta
phải mang tính ngược đời thôi.

để thực hành hành vi không làm được
Thông thường chúng ta chỉ biết tới hành vi chúng
ta có thể làm. Chúng ta bị bao quanh bởi việc làm của
mình. Chúng ta không biết rằng có những điều ở bên
ngoài việc làm của mình và vẫn đang xảy ra. Bạn
được sinh ra. Bạn đã không trao việc sinh cho bản
thân mình, nó đơn giản đã xảy ra, và nó không thể xảy
ra theo cách tốt hơn. Bạn đang thở - nhưng bạn không
thở như một hành động; nó đang xảy ra. Bạn có thể cố
gắng ngừng nó và thế rồi bạn sẽ thấy bạn không thể
ngừng được nó. Cho dù vài giây thôi bạn cũng không
thể ngừng nó được; bạn sẽ phải thảnh thơi, bạn sẽ
phải cho phép nó. Việc thở là cuộc sống. Nó đang xảy
ra.
Tất cả mọi điều bản chất đều đang xảy ra, tất cả
những cái không bản chất, không mang tính tồn tại,
đều để được làm. Tất nhiên cửa hàng của bạn sẽ
không hoạt động nếu bạn không quản lí nó. Tất nhiên
bạn sẽ không trở thành thủ tướng hay tổng thống nếu
bạn không tranh đấu vì nó. Không ai đã bao giờ trở
thành thủ tướng mà không tranh đấu vì nó; không bạo
hành bạn không thể trở thành thủ tướng được. Bạn sẽ
phải cạnh tranh - cạnh tranh chẹn họng. Bạn sẽ phải
tàn bạo. Bạn sẽ phải hung hăng. Bạn sẽ phải làm điều
đó, chỉ thế thì nó mới có thể xảy ra. Tất cả mọi điều
phụ thuộc vào việc làm của bạn đều ngẫu nhiên và tất
cả những điều xảy ra không có bạn đều là bản chất.
Toàn thể mối quan tâm của tôn giáo là điều bản
chất, thế giới của điều bản chất. Bạn có đó; không
phải là bạn đã làm cho bản thân mình, bạn đơn giản
có đó chẳng vì lí do gì. Bạn đã không kiếm được nó,
nó không là gì của việc bạn làm cả. Nó là phúc lành,
nó là món quà. Bạn có đó: sự tồn tại đã muốn bạn có
đó, nó không phải là ý chí riêng của bạn.
Quan sát điều đó, hiểu điều đó đi. Khi một điều
như cuộc sống - quí giá thế - có thể xảy ra mà không
có việc làm của bạn, thế thì sao phải bận tâm? Thế thì
cho phép ngày một nhiều chiều của việc xảy ra. Vứt
ngày một nhiều việc làm đi. Làm chỉ cái dường như
cần thật. Đừng bị bận tâm quá nhiều với việc làm.
Đó là nghĩa của một sannyasin. Chủ hộ,
grihastha, là người đơn giản bị sở hữu bởi chiều làm
việc. Người đó nghĩ rằng nếu người đó không làm,
chẳng cái gì sẽ xảy ra. Người đó là người làm.
Sannyasin là người biết rằng dù mình có định làm
điều đó hay không, tất cả mọi điều là bản chất đều sẽ
tiếp tục xảy ra. Điều không bản chất có thể biến mất,
nhưng điều đó là không liên quan - nhưng điều bản
chất sẽ tiếp tục.
Tình yêu là bản chất; tiền bạc là không bản chất.
Sống động là bản chất; sống trong ngôi nhà lớn hay
không là không bản chất. Được thoả mãn, được mãn
nguyện là bản chất; xô đẩy, tham vọng, bao giờ cũng
cố đạt tới đâu đó, cố biểu diễn, cố chứng minh rằng
bạn là ai đó, là không bản chất. Mọi người sống chỉ
theo hai chiều hướng: chiều hướng của người làm và
chiều hướng của không người làm.
Phật nói:
để thực hành hành vi không làm được... 

Ông ấy nói thực hành điều đó. Ông ấy nói 'thực
hành', bởi vì không có cách khác để nói điều đó. Từ
'thực hành' có vẻ giống như làm, đó là nghịch lí. Ông
ấy nói, 'Làm điều không thể được làm.' Làm điều chỉ
xảy ra. Cho phép, ông ấy ngụ ý - cho phép cái xảy ra,
cho phép thượng đế có đó. Cho phép cuộc sống có đó,
cho phép tình yêu có đó. Cho phép sự tồn tại xuyên
thấu vào bạn, thấm vào bạn. Đừng tiếp tục là người
làm.
Ông ấy không ngụ ý không làm gì cả. Ông ấy nói
đừng nhấn mạnh nó. Có thể điều đó là cần thiết. Bạn
phải lau sạch căn phòng của mình. Không có việc bạn
làm điều đó, nó sẽ không xảy ra. Cho nên làm nó! -
nhưng không bị ám ảnh bởi nó. Nó chỉ là phần nhỏ.
Phần lớn của cuộc sống, phần trung tâm của cuộc
sống, nên giống như việc xảy ra. Như sét loé lên trong
đám mây, thượng đế xảy ra cũng vậy. Như dòng sông
cứ xô về đại dương và tan biến, tình yêu cũng xảy ra
như vậy. Thiền cũng xảy ra như vậy - nó chẳng liên
quan gì tới việc làm của bạn. Việc làm của bạn không
phải là bản chất cho nó xảy ra. Nó có thể xảy ra khi
bạn đang ngồi và không làm gì cả. Thực tế nó xảy ra
chỉ thế thôi, khi bạn không làm gì cả và bạn ngồi. Tôi
nhất định cho bạn làm nhiều điều như các phương
pháp, nhưng nhấn mạnh chỉ là điều này - rằng bạn
phải bị mệt nhoài, bằng không bạn sẽ không ngồi đâu.
Cứ dường như là bạn bảo đứa trẻ, 'Ngồi im trong
góc phòng,' và nó không thể ngồi được; nó bồn chồn
thế, nó đầy năng lượng thế. Nó muốn làm điều này
điều nọ và chạy quanh. Cách tốt nhất là bảo nó đi bẩy
vòng - chạy quanh nhà bẩy lần, quanh khối nhà - thế
rồi quay lại. Thế thì không cần bạn bảo, nó sẽ ngồi im
lặng.
Đó là toàn thể vấn đề của nhấn mạnh của tôi vào
việc dành thời gian thực hiện thiền Động, thiền
Kundalini, thiền Nataraj - để cho trong vài khoảnh
khắc bạn có thể cho phép việc xảy ra. Bạn sẽ không
đạt tới thiền bằng việc làm đâu, bạn sẽ đạt tới thiền
chỉ bằng không làm. Và trong không làm điều thực sẽ
xảy ra.
Điều thực không thể được tạo ra; nó bao giờ cũng
xảy ra. Người ta phải nhạy cảm và cởi mở và mong
manh. Nó rất tinh tế. Bạn không thể vồ được nó. Nó
rất mảnh mai... ẻo lả tựa bông hoa. Bạn không thể vồ
lấy nó được. Nếu bạn vồ lấy nó bạn sẽ phá huỷ nó.
Bạn phải rất dịu dàng. Nó không phải là phần cứng,
nó là phần mềm. Bạn phải thực sự dịu dàng, bạn phải
mang nữ tính.
Phật nói:
thực hành hành vi không làm được...
Đó là thông điệp của tất cả những người vĩ đại,
người thực sự vĩ đại. Việc nhận ra vĩ đại nhất trên trái
đất này đã từng là thế này: là chúng ta đang tạo ra quá
nhiều ồn ào không cần thiết. Cái sẽ xảy ra thì sẽ xảy
ra nếu chúng ta chờ đợi. Vào đúng mùa vụ, mùa
màng; vào đúng mùa, có kết quả. Vào đúng mùa mọi
thứ xảy ra. Nếu một người có thể học chỉ một điều -
cách chờ đợi mang tính cầu nguyện - thì chẳng cần cái
gì khác. Cực lạc là prasad, món quà của thượng đế. 

Thử xem. Thực hành điều Phật nói đi. Ít nhất
trong một giờ bạn trở thành không người làm. Ít nhất
trong một giờ, sâu trong đêm, ngồi một mình. Không
làm gì cả - thậm chí không tụng mật chú, thậm chí
không thiền siêu việt. Không làm gì cả. Chỉ ngồi, nằm
xuống, nhìn lên các vì sao. Điều đó nữa cũng phải
không khó khăn. Nhìn rất dịu dàng. Đừng hội tụ; vẫn
còn không hội tụ như việc chụp ảnh không hội tụ - mờ
mịt, mờ ảo, không biết biên giới ở đâu. Vẫn còn im
lặng trong bóng tối.
Nếu ý nghĩ tới cứ để chúng tới. Đừng tranh đấu
với chúng. Chúng sẽ tới và chúng sẽ đi - bạn chỉ là
người quan sát. Chúng tới hay chúng đi không phải là
việc của bạn. Bạn là ai? Chúng tới không lời mời,
chúng đi không xô đẩy. Chúng tới và đi, đó là lưu
thông thường xuyên. Bạn chỉ ngồi bên đường và quan
sát.
Khi tôi nói quan sát, đừng diễn giải sai tôi. Đừng
làm việc quan sát thành nỗ lực. Bằng không mọi
người trở nên rất cứng nhắc và họ bắt đầu quan sát
theo cách rất cứng nhắc và căng thẳng. Họ lại bắt đầu
làm việc. Điều tôi đang nói, hay điều Phật đang nói là
- ở trong thái độ không làm, lười biếng.
Lười biếng, và xem điều xảy ra. Bạn sẽ ngạc
nhiên. Một ngày nào đó - chỉ ngồi, chỉ ngồi thôi,
không làm gì cả - một ngày nào đó, từ cội nguồn
không biết nào đó, một tia sét, một phúc lành. Một
ngày nào đó, vào khoảnh khắc nào đó, bỗng nhiên bạn
được siêu việt lên. Bỗng nhiên bạn thấy yên tĩnh
choàng xuống mình. Nó gần như mang tính vật lí.
Nếu một thiền nhân thực, một người có thể thảnh
thơi, ngồi im lặng và cho phép, ngay cả ai đó không
phải là thiền nhân cũng sẽ cảm thấy sự hiện diện -
rằng cái gì đó đang xảy ra. Bạn có thể không có khả
năng hình dung ra nó là gì; bạn có thể cảm thấy kì lạ
hay chút ít sờ sợ, nhưng nếu bạn ngồi bên cạnh một
thiền nhân...
Bây giờ, khó mà dùng đúng từ, bởi vì từ 'thiền
nhân' lại cho ấn tượng dường như người đó đang làm
điều gì đó - làm việc thiền. Nhớ đi nhớ lại - ngôn ngữ
đã được những người không là thiền nhân phát triển,
cho nên toàn thể ngôn ngữ, theo một cách tinh tế, là
sai. Nó không thể diễn đạt được.
Khi ai đó đang ngồi đó, chỉ ngồi đó, giống như cái
cây, như tảng đá, không làm gì cả, điều đó xảy ra: cái
gì đó từ trên cao giáng xuống, thấm vào chính cốt lõi
bản thể người đó. Ánh sáng tinh tế bao quanh người
đó... vầng sáng, phúc lành có thể được cảm thấy
quanh người đó - ngay cả bởi những người không biết
thiền là gì. Ngay cả đi ngang qua bên cạnh, họ cũng
sẽ cảm thấy tác động của điều đó. Phúc lành này đã
được gọi là thượng đế.
Thượng đế không phải là người, đó là kinh
nghiệm sâu sắc khi bạn không làm gì cả và sự tồn tại
đơn giản tuôn chảy trong bạn... mênh mông của nó,
phúc lành của nó, ân huệ của nó.
Bạn không làm gì cả, bạn thậm chí không trông
đợi điều gì, bạn không chờ đợi điều gì. Bạn không có
động cơ. Bạn chỉ ở đó như cây đứng trong gió, hay
như tảng đá chỉ ngồi im lặng bên cạnh dòng sông.
Hay giống như đám mây quấn quít quanh đỉnh núi - chỉ ở đó, không chuyển động theo cách riêng của
mình.
Trong khoảnh khắc đó bạn không phải là cái ngã,
trong khoảnh khắc đó bạn là vô ngã. Trong khoảnh
khắc đó bạn không là tâm trí, bạn là vô trí. Trong
khoảnh khắc đó bạn không có trung tâm. Trong
khoảnh khắc đó bạn là mênh mông... bao la không
biên giới - bỗng nhiên có tiếp xúc. Bỗng nhiên nó có
đó! Bỗng nhiên bạn được hoàn thành, bỗng nhiên bạn
được bao quanh bởi sự hiện diện không biết nào đó.
Điều đó là rất bao la.
Đó là điều Phật nói:
thực hành hành vi không làm được; để nói bài nói
không diễn đạt được;
Và nếu bạn muốn nói điều gì đó, nói điều không
thể được nói đi. Diễn đạt cái không thể diễn đạt được
đi. Phỏng có ích gì mà nói điều có thể được nói? - bất
kì ai cũng biết chúng, mọi người đều biết chúng. Nếu
bạn thực sự muốn diễn đạt cái gì đó, diễn đạt cái
không thể diễn đạt được.
Cách diễn đạt cái không thể diễn đạt được là gì?
Nó có thể được diễn đạt chỉ qua việc hiện hữu. Lời là
quá hạn hẹp. Nó chỉ có thể được diễn đạt bằng sự tồn
tại của bạn, bằng sự hiện diện của bạn - trong bước đi
của bạn, trong ngồi của bạn, trong đôi mắt bạn, trong
điệu bộ của bạn, trong cái chạm của bạn, trong từ bi
của bạn, trong tình yêu của bạn. Cách bạn hiện hữu -
nó có thể được diễn đạt qua điều đó.
Phật nói, nhưng điều đó không phải rất bản chất.
Điều bản chất hơn là hiện hữu của ông ấy, là ông ấy
đang có đó. Qua việc nói của mình ông ấy cho phép
bạn được sống cùng ông ấy. Việc nói chỉ là để thuyết
phục bạn. Bởi vì sẽ khó cho bạn trong im lặng cùng vị
Phật. Ông ấy phải nói, bởi vì nếu ông ấy nói bạn cảm
thấy rằng mọi thứ đều tốt, bạn có thể nghe. Nếu ông
ấy không nói làm sao bạn sẽ nghe được? Bạn không
biết cách nghe khi không ai nói. Bạn không biết cách
nghe điều không thể được diễn đạt.
Nhưng dần dần, sống quanh một thầy, một phật,
một Jesus, dần dần bạn sẽ bắt đầu hấp thu tâm linh
của người đó. Dần dần, mặc bạn, sẽ có những khoảnh
khắc mà bạn sẽ thảnh thơi, và không chỉ điều ông ấy
đang nói sẽ đạt tới trong tim bạn, mà điều ông ấy
đang hiện hữu cũng sẽ thấm vào. Và với ông ấy toàn
thể chiều hướng của việc xảy ra mở ra. Đó là nghĩa
của satsang - ở trong hiện diện của thầy.
...và để được huấn luyện trong kỉ luật vượt ra
ngoài kỉ luật.
Và Phật nói có kỉ luật mà không phải là kỉ luật.
Thông thường chúng ta nghĩ về kỉ luật cứ dường như
ai đó khác đang cố gắng áp kỉ luật cho bạn. Kỉ luật
mang hàm nghĩa rất xấu - cứ dường như bạn đang bị
ép vào kỉ luật, cứ dường như bạn chỉ vâng lời. Trung
tâm đang áp kỉ luật lên bạn là ở ngoài bạn.
Phật nói đó không phải là kỉ luật đâu, đó là việc
buông bỏ sự nô lệ. Hãy tự do, không cần phải theo kỉ
luật từ bất kì nguồn bên ngoài nào. Trở nên tỉnh táo,
để cho kỉ luật bên trong nảy sinh trong bạn. Trở nên có trách nhiệm, để cho bất kì điều gì bạn làm thì bạn
làm với trật tự nào đó, hài hoà nào đó trong nó; để cho
bản thể bạn không là sự hỗn loạn, để cho bản thể bạn
không trong đống lộn xộn.
Cho nên có hai kiểu kỉ luật: một, kỉ luật có thể bị
ép buộc từ bên ngoài. Đó là điều các chính khách cứ
làm, các tu sĩ cứ làm, cha mẹ cứ làm. Và có một kỉ
luật có thể được gợi lên trong bạn - điều đó có thể
được thực hiện chỉ bởi các bậc thầy. Họ không áp đặt
kỉ luật nào lên bạn, họ làm cho bạn đơn giản nhận biết
hơn để cho bạn có thể tìm ra kỉ luật riêng của mình.
Mọi người tới tôi và họ hỏi, 'Sao thầy không cho
chúng tôi kỉ luật nào đó? Ăn cái gì, không ăn cái gì.
Khi nào dậy buổi sáng và khi nào đi ngủ.' Tôi không
cho bạn những kỉ luật như vậy đâu, bởi vì bất kì kỉ
luật nào tới từ bên ngoài cũng đều mang tính phá
hoại.
Tôi cho bạn chỉ một kỉ luật thôi - điều Phật gọi là
kỉ luật của cõi bên kia, kỉ luật của siêu việt.
Tôi cho bạn chỉ một kỉ luật và đó là kỉ luật của
nhận biết. Nếu bạn nhận biết bạn sẽ thức dậy đúng
lúc. Khi thân thể được nghỉ ngơi bạn sẽ dậy. Khi bạn
nhận biết bạn sẽ ăn chỉ cái được cần, bạn sẽ ăn chỉ cái
ít hại nhất cho bạn và cho người khác. Bạn sẽ ăn chỉ
cái không dựa trên bạo hành. Nhưng nhận biết sẽ là
nhân tố quyết định.
Bằng không bạn có thể bị ép buộc để trở nên vâng
lời, nhưng sâu bên dưới bạn cứ mang tính nổi dậy.
Tôi đã nghe một câu chuyện thời thế chiến thứ hai.
Một trung sĩ và một binh nhì bị buộc tội đá viên
đại tá. Khi được hỏi về lời giải thích, viên trung sĩ
đáp, "Thế này, thưa ngài, viên đại tá đi quanh góc thì
tôi đang tập thể dục chạy tới. Tôi chỉ đi đôi giày đế
mềm, ông ấy đi giầy ống, và ông ấy dẫm lên ngón
chân tôi. Tôi sợ bị đau, thưa ngài, tới mức tôi đã bất
ngờ đá lên - và trước khi tôi nhận ra đó là ai, thưa
ngài.'
'Tôi biết rồi,' viên sĩ quan trật tự nói. 'Thế về lính
của anh thì sao?'
Với điều này viên binh nhì đáp, 'Tôi thấy viên
trung sĩ đá viên đại tá, thưa ngài. Cho nên tôi tự nhủ
mình, "Chiến tranh chắc phải chấm dứt rồi, cho nên
tôi cũng có thể đá".'
Bất kì khi nào ai đó áp đặt kỉ luật lên bạn, sâu bên
dưới bạn không bằng lòng, sâu bên dưới bạn chống lại
nó. Bạn có thể tuân theo nó, nhưng bạn bao giờ cũng
tuân một cách ngần ngại. Và đó là cách nó phải vậy,
bởi vì thôi thúc sâu sắc nhất trong con người là vì tự
do, vì moksha.
Được tự do là việc tìm kiếm. Suốt nhiều thế kỉ,
trong hàng nghìn năm, trong nhiều kiếp sống, chúng
ta đã từng tìm kiếm cách được tự do. Cho nên bất kì
khi nào ai đó tới - cho dù là vì chính bạn, vì điều tốt
cho riêng bạn - và áp đặt cái gì đó lên bạn, bạn vẫn
chống lại. Điều đó chống lại bản tính con người, điều
đó chống lại định mệnh con người.
Phật nói không có nhu cầu phải vâng lời ai đó
khác; bạn phải tìm ra nhận biết riêng của mình - vâng theo nó. Nhận biết! - đó là kinh sách duy nhất. Nhận
biết! - đó là người thầy duy nhất. Nhận biết! - và
không cái gì có thể đi sai được. Nhận biết đem tới kỉ
luật riêng của nó như cái bóng. Và thế thì kỉ luật này
là đẹp. Thế thì nó không như cảnh nô lệ, thế thì nó
giống như sự hài hoà. Thế thì nó không phải dường
như bị ép buộc, thế thì nó là việc nở hoa từ bản thể
riêng của bạn, việc nở hoa.
và để được huấn luyện trong kỉ luật vượt ra ngoài
kỉ luật.
Mọi người thường tìm ai đó để bảo cho họ điều
phải làm - bởi vì họ sợ tự do của mình, bởi vì họ
không biết rằng họ có thể dựa vào cội nguồn riêng của
họ, bởi vì họ không tự tin, bởi vì họ bao giờ cũng
được ai đó khác bảo cho điều phải làm, cho nên họ đã
trở nên bị nghiện với điều đó. Họ tìm kiếm hình ảnh
người cha trong cả đời mình. Thượng đế của họ cũng
là cha, không gì khác. Thượng đế đó là giả, chính là
người cha. Và việc tìm kiếm hình ảnh người cha là
phản cuộc sống.
Bạn phải học cách tự do khỏi mọi hình ảnh người
cha. Bạn phải học cách là bản thân mình. Bạn phải
học cách nhận biết và có trách nhiệm. Chỉ thế thì bạn
mới bắt đầu lớn lên. Trưởng thành bao giờ cũng là
trưởng thành hướng tới tự do. Chưa trưởng thành bao
giờ cũng là một loại phụ thuộc và sợ tự do.
Đứa trẻ là phụ thuộc - điều đó là được, điều đó có
thể hiểu được. Nó bất lực. Nhưng tại sao cả đời bạn
vẫn còn là đứa trẻ? Đó là cuộc cách mạng Phật đã
đem vào trong thế giới. Ông ấy là một trong những
nhà tư tưởng nổi dậy nhất của thế giới. Ông ấy ném
bạn về với chính mình. Điều đó là nguy hiểm, nhưng
ông ấy nhận nguy cơ đó. Và ông ấy nói rằng mọi
người đều phải nhận lấy nguy cơ đó. Có mọi khả năng
bạn có thể đi lạc lối - nhưng cuộc sống là rủi ro.
Đi lạc lối theo cách riêng của bạn còn tốt hơn là đi
theo ai đó khác. Bị lạc mãi mãi và là bản thân mình
còn tốt hơn là đạt tới cõi trời như bản sao, như kẻ bắt
chước. Thế thì cõi trời của bạn sẽ không là gì ngoài
nhà tù. Và nếu bạn đã chọn địa ngục riêng của mình
theo cách riêng của mình, từ tự do của riêng mình, thì
địa ngục của bạn cũng sẽ là cõi trời - bởi vì tự do là
cõi trời.
Bây giờ bạn sẽ thấy khác biệt giữa Ki tô giáo và
Phật giáo. Ki tô giáo nói Adam bị đuổi bởi vì anh ta
đã không vâng lời thượng đế. Phật nói vâng theo mỗi
bản thân mình, không có thượng đế khác để mà phải
tuân theo. Ki tô giáo gọi không vâng lời là tội lỗi
nguyên thuỷ, còn Phật gọi vâng lời là tội lỗi nguyên
thuỷ. Khác biệt cực kì lớn. Phật là người giải thoát, Ki
tô giáo đã tạo ra tù túng cho toàn thể nhân loại.
Giải thoát của Phật là thuần khiết. Ông ấy dạy bạn
nổi dậy, nhưng nổi dậy của ông ấy không phải là nổi
dậy chính trị. Ông ấy dạy bạn nổi dậy với trách
nhiệm, với nhận biết. Nổi dậy của ông ấy không phải
là phản ứng. Bạn có thể vâng lời, bạn có thể không
vâng lời. Phật đang nói gì? Phật đang nói đừng vâng
lời đừng không vâng lời - bởi vì không vâng lời lại là
được ước định bởi ai đó khác. Bạn cứ làm điều gì đó
bởi vì cha bạn nói không làm điều đó, nhưng ông ấy
lại thao túng bạn theo cách tiêu cực. Bạn cứ làm điều gì đó bởi vì xã hội nói đừng làm điều đó, nhưng xã
hội đang xác định điều bạn phải làm.
Phật nói nổi dậy không phải là phản ứng. Nó
không là nô lệ không là phản ứng, không là vâng lời
cũng không là không vâng lời. Nó là kỉ luật bên trong.
Nó là kỉ luật, nó là trật tự vô cùng, nhưng nó tới từ cốt
lõi bên trong của bạn. Bạn quyết định nó.
Chúng ta cứ đổ trách nhiệm lên người khác. Điều
đó dễ dàng hơn. Bạn bao giờ cũng có thể nói rằng bố
bạn nói làm điều đó, cho nên bạn đã làm nó - bạn
không chịu trách nhiệm. Bạn bao giờ cũng có thể nói
lãnh đạo đã nói phải làm điều đó, cho nên bạn đã làm
- bạn không chịu trách nhiệm. Toàn thể đất nước định
làm điều đó, định đi vào chiến tranh và giết hại các
nước khác - bạn đã làm điều đó bởi vì bạn đơn giản
vâng theo mệnh lệnh, bạn đơn giản vâng lời.
Khi các đồng sự của Adolf Hitler bị bắt sau thế
chiến thứ hai, họ tất cả đều thú nhận trước toà rằng họ
không có trách nhiệm, họ đơn giản tuân theo mệnh
lệnh. Bất kì mệnh lệnh nào được trao cho, họ đều
vâng theo. Nếu mệnh lệnh được trao, 'Giết một triệu
người Do Thái!' thì họ giết. Họ đơn giản tuân theo
mệnh lệnh, họ đơn giản vâng lời. Họ không chịu trách
nhiệm.
Bây giờ nhìn và quan sát: bạn có thể đơn giản cố
gắng tìm ra ai đó, người nói 'làm cái này', để cho bạn
có thể đổ trách nhiệm lên người đó. Nhưng đây không
phải là cách thức - đổ trách nhiệm lên bất kì ai khác.
Cuộc sống là của bạn và trách nhiệm là của bạn.
Nếu bạn hiểu Phật, thế giới sẽ hoàn toàn khác.
Thế thì không thể có thêm bất kì Hitler nào nữa, thế
thì không thể có thêm chiến tranh nào nữa - bởi vì
không thể có bất kì việc vâng theo từ bên ngoài, và
mọi người có trách nhiệm sẽ nghĩ theo cách riêng của
mình. Không phải 'người Hindu đang giết người Mô
ha mét giáo, cho nên mình phải giết'; không phải
'người Mô ha mét giáo đang đốt đền chùa, cho nên tôi
phải đốt bởi vì tôi là người Mô ha mét giáo.' Từng cá
nhân nên trở thành ánh sáng lên bản thân mình, và
người đó nên quyết định - không như người Mô ha
mét giáo, không như người Ki tô giáo, không như
người Ấn Độ, không như người Pakistan; người đó
nên quyết định theo ý thức riêng của mình; không
theo bất kì cái gì khác. Đây là điều Phật gọi là kỉ luật
bên ngoài kỉ luật.
Đây là định nghĩa về người tôn giáo: Người suy
nghĩ ý nghĩ không thể nghĩ được; người thực hành
hành vi không thể làm được; người nói điều không
thể diễn đạt được, không thể tả được; và người đó
thực hành kỉ luật ở bên ngoài kỉ luật.
Những người hiểu điều này là gần; những người
bị lẫn lộn là xa.
Nếu bốn điều này mà được hiểu, bạn là gần với
chân lí. Nếu bạn không hiểu thế thì bạn ở xa với chân
lí.
Đạo ở bên ngoài lời và việc diễn đạt, không bị
giới hạn bởi bất kì cái gì trần tục. Mất cái nhìn về nó chỉ một li thôi hay mất nó trong một khoảnh
khắc thôi, và chúng ta xa khỏi nó mãi mãi.
Những người hiểu điều đó là gần... Bây giờ để
điều này là tiêu chí cho bạn - bạn có thể đánh giá. Để
điều này là hòn đá thử cho trưởng thành của bạn. Nếu
bạn cảm thấy bốn điều này đang xảy ra trong cuộc
sống của mình - tuy nhiên, theo bất kì số lượng nào...
có thể là số lượng rất nhỏ, nhưng nếu chúng đang xảy
ra, thế thì bạn đang trên đường đúng. Nếu bạn đi xa
khỏi bốn điều này, bạn đang đi xa khỏi con đường,
khỏi pháp, khỏi Đạo.
Đạo ở bên ngoài lời và việc diễn đạt, không bị
giới hạn bởi bất kì cái gì trần tục.
Chân lí tối thượng không bị giới hạn bởi bất kì cái
gì mà bạn có thể thấy, cái bạn có thể sờ. Nó không
phụ thuộc vào giác quan của bạn. Chân lí tối thượng
không là vật chất, nó là phi vật chất. Nó không trần
tục. Nó không thể bị bất kì cái gì gây ra. Đó là lí do
tại sao nó không bao giờ có thể trở thành một phần
của khoa học.
Bạn có thể trộn lẫn hidro và ô xi và bạn có thể tạo
ra nước ở đó. Không có cách nào để tạo ra cực lạc
theo cách đó. Không có cách nào để làm ra thượng đế
theo cách đó. Không có cách nào để làm ra chân lí
theo cách đó. Bạn có thể phá huỷ nước bằng việc
phân tách hidrô và ô xi, bạn có thể tạo ra nước bằng
việc trộn lẫn hidrô và ô xi, nhưng không có cách nào
để phá huỷ chân lí hay để tạo ra nó. Nó là không được
tạo ra.
Nó không phải là dây chuyền nhân quả. Bạn
không thể tạo ra được nó; nó đã có đó rồi. Bạn không
thể phá huỷ nó, bởi vì bạn là nó. Nó là chính cuộc
sống này. Bạn chỉ có thể làm một điều thôi - hoặc là
bạn có thể nhắm mắt lại với nó, hoặc là bạn có thể
quên nó đi, bạn có thể trở nên tuyệt đối quên lãng về
nó, hay bạn có thể nhớ, thấy, nhận ra.
Nếu bạn bị mất hút vào quá nhiều việc làm, tham
vọng, giầu có, tiền bạc, danh vọng, quyền lực, thế thì
bạn sẽ mất dấu vết của chân lí mà bao giờ cũng ở bên
cạnh bạn - chỉ ngay góc kia thôi, chỉ trong tầm với -
nhưng bạn đang quay lưng mình về nó.
Hay bạn có thể cho phép nó. Nếu bạn trở nên
mang tính thiền thêm chút ít và ít tham vọng hơn, nếu
bạn trở nên mang tính tôn giáo thêm chút ít và ít chính
trị đi, nếu bạn trở nên thanh cao hơn chút ít và ít trần
tục hơn, nếu bạn bắt đầu đi vào bên trong hơn đi ra
bên ngoài, nếu bạn bắt đầu trở nên tỉnh táo hơn chút ít
so với ngủ, nếu bạn đi ra khỏi trạng thái say sưa của
mình, nếu bạn đem chút ít ánh sáng vào trong bản thể
mình, thế thì... thế thì bạn sẽ ở gần, gần nhà. Bạn chưa
bao giờ ở xa cả. Thế thì toàn thể cuộc sống của bạn sẽ
được biến đổi, được siêu việt lên. Thế thì bạn sẽ sống
theo cách hoàn toàn khác; một phẩm chất mới sẽ có
đó trong cuộc sống của bạn mà không có gì liên quan
tới việc làm của bạn, cái là món quà, là phúc lành.
Mất cái nhìn về nó chỉ một li thôi hay mất nó
trong một khoảnh khắc thôi, và chúng ta xa khỏi
nó mãi mãi. 

Nhìn vào trong nó trong một khoảnh khắc thôi, lại
gần nó cho dù một li, và nó là của bạn, và nó bao giờ
cũng là của bạn.
Đây là nghịch lí của siddhanta. Đây không phải là
học thuyết, đây là việc nhận ra của Phật. Ông ấy đơn
giản cố gắng chia sẻ việc nhận ra của mình với bạn.
Ông ấy không làm sâu sắc triết lí hay hệ thống các ý
nghĩ. Ông ấy đơn giản chỉ tới mặt trăng, thực tại.
Đừng nhìn vào ngón tay đang trỏ của ông ấy,
bằng không bạn sẽ bỏ lỡ; bạn sẽ trở thành Phật tử.
Nhìn vào trăng mà ngón tay này đang trỏ tới. Quên
hoàn toàn ngón tay đi và nhìn vào trăng và bạn sẽ trở
thành vị phật.
Đây là vấn đề mà nhân loại phải giải quyết. Trở
thành người Ki tô giáo dễ hơn rất nhiều việc trở thành
một Christ, trở thành một Phật tử dễ hơn rất nhiều
việc trở thành vị phật, nhưng thực tại chỉ được biết tới
bởi việc trở thành một Christ hay một Phật. Bằng việc
trở thành người Ki tô giáo hay Phật tử bạn lại trở
thành bản sao. Đừng xúc phạm bản thân mình theo
cách đó. Có chút ít kính trọng bản thân mình đi. Đừng
bao giờ là người Ki tô giáo và đừng bao giờ là Phật tử
và đừng bao giờ là người Hindu. Là tâm thức không
xác định, không bị chặn, không động cơ. Nếu bạn có
thể làm được điều đó, tất cả những cái khác sẽ theo
sau theo cách riêng của nó.

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Ngôi sao xa xăm

Câu hỏi thứ nhất
Khi bản thân cuộc sống đang thoả mãn thế, phúc
lạc thế, thì cái gì làm cho con người thành khổ?

Cuộc sống là việc tràn ngập, cuộc sống là phúc
lạc, nhưng con người đã đánh mất tiếp xúc với cuộc
sống. Con người đã trở nên quá tự ý thức. Việc tự ý
thức đó hoạt động như rào chắn, và người ta vẫn còn
sống, vậy mà không sống động thực sự. Tự ý thức là
bệnh tật.
Chim chóc hạnh phúc, cây cối hạnh phúc, mây và
sông hạnh phúc, nhưng chúng không tự ý thức. Chúng
đơn giản hạnh phúc. Chúng không biết rằng chúng
hạnh phúc.
Phật là hạnh phúc, Krishna là hạnh phúc, Christ là
hạnh phúc, nhưng họ là tâm thức thuần khiết. Họ là
hạnh phúc, nhưng họ không biết rằng họ là hạnh
phúc.
Có sự tương tự giữa tự nhiên vô ý thức và con
người siêu ý thức. Tự nhiên vô ý thức không có cái
ngã, con người siêu ý thức cũng không có cái ngã.
Con người ở ngay giữa. Con người không còn là con
vật, không còn là cây cối, không còn là tảng đá, và
chưa là vị phật. Việc treo ở giữa là khổ.
Mới hôm nọ một người tìm kiếm từ phương Tây
đã viết cho tôi bức thư nói: 'Osho ơi, tôi không muốn
trở thành sannyasin. Tôi không muốn trở thành siêu
phàm - Phật hay Christ. Tôi đơn giản muốn trở thành
con người thôi. Xin giúp tôi trở thành mỗi con người
thôi.'
Bây giờ, điều này cũng quá tham vọng, và là điều
không thể được. Chỉ là con người là điều không thể
được. Cố hiểu điều đó đi. Bởi vì điều đó nghĩa là bạn
đang nói 'Để tôi vẫn còn là quá trình này, để tôi ở giữa
đi.' Con người không phải là trạng thái, con người chỉ
là quá trình. Chẳng hạn nếu đứa trẻ nói, 'Con không
muốn thành thanh niên đâu, con không muốn thành
người già đâu. Để con vẫn là đứa trẻ,' có được không?
Nó đã trong việc trở thành thanh niên rồi, nó đang
trên đường. Tuổi thơ ấu không phải là trạng thái. Bạn
không thể vẫn còn trong nó, bạn không thể bám lấy
nó được. Nó là quá trình. Thời thơ ấu đang trôi qua,
thời thanh niên đang tới. Và thời thanh niên cũng trôi
qua như vậy. Dù bạn có cố gắng vất vả thế nào để vẫn còn trẻ trung, nỗ lực của bạn mang định mệnh thất
bại, bởi vì thời thanh niên đã chuyển vào tuổi già.
Bạn yêu cầu chỉ là con người. Bạn yêu cầu điều
không thể được. Bạn quá tham vọng rồi. Bạn có thể
trở thành vị phật. Điều đó đơn giản hơn. Bạn có thể
trở thành thượng đế, điều đó đơn giản hơn. Nhưng
yêu cầu rằng bạn sẽ vẫn còn là con người lại là điều
không thể được. Bởi vì nhân loại chỉ là bước chuyển
thôi, là cuộc hành trình, cuộc du hành, cuộc hành
hương. Nó là quá trình, không phải là trạng thái. Bạn
không thể vẫn còn là con người được. Nếu bạn cố
gắng vất vả để vẫn còn là con người, bạn sẽ trở thành
phi con người. Bạn sẽ bắt đầu sa ngã. Nếu bạn không
tiến lên trước, bạn sẽ bắt đầu tụt lại sau. Nhưng bạn sẽ
phải đi đâu đó. Bạn không thể vẫn còn tĩnh tại được.
Là con người đơn giản nghĩa là trên con đường
của việc là thượng đế chứ không gì khác. Thượng đế
là mục đích. Là con người là cuộc hành trình, con
đường. Con đường không bao giờ có thể là thường
hằng, nó không thể trở thành vĩnh hằng được. Bằng
không nó sẽ rất mệt mỏi. Mục đích sẽ không bao giờ
tới cả, và bạn sẽ chỉ trên cuộc hành trình, trên cuộc
hành trình, trên cuộc hành trình.
Hi vọng tức là con người. Nhưng hi vọng nghĩa là
hi vọng để vượt ra ngoài. Hi vọng nghĩa là ham muốn
vượt ra ngoài. Hi vọng nghĩa là hi vọng vượt qua, siêu
việt lên. Đây mới thực là trạng thái của con người -
rằng con người bao giờ cũng vượt qua, đi lên... đâu đó
khác là mục đích.
Người đã hỏi điều này phải là người hay. Thực tế,
đã sẵn sàng cho tính chất sannyas - nhưng người đó
không hiểu điều mình nói.
Con người khổ bởi vì con người phải khổ. Điều
đó không có gì là lỗi của bạn cả, không có gì giống
như bạn đang trong lỗi lầm nào đó. Là con người là
mang tính khổ, bởi vì là con người là đang ở giữa -
không ở đây không ở kia... treo ở tình trạng lấp lửng.
Đau khổ nảy sinh bởi vì sự căng thẳng.
Nhà này bị mất - ngôi nhà nơi chim chóc vẫn hót
vang, con vật vẫn đi lại, cây cối vẫn nở hoa - khu
vườn Địa đàng. Ngôi nhà đó bị mất. Adam đã bị biến
mất. Adam đã trở thành con người.
Khi Adam còn ở trong vườn Địa đàng anh ta là
con vật; anh ta đã không phải là Adam, anh ta đã
không phải là con người. Thượng đế đã tống anh ta ra
khỏi vườn. Chính việc đuổi ra đó trở thành loài người.
Con người bị đuổi khỏi nhà này để cho con người
có thể tìm kiếm nhà khác - lớn hơn, cao hơn, sâu sắc
hơn, vĩ đại hơn. Nhà này bị mất. Có nỗi buồn. Con
người muốn trở thành con vật. Rất khó quên vườn Địa
đàng đó; nó đẹp thế. Và có những khoảnh khắc chúng
ta trở thành tựa như con vật - trong giận dữ sâu sắc,
trong bạo hành, trong chiến tranh, chúng ta trở thành
tựa như con vật. Đó là thích thú của giận dữ.
Sao bạn cảm thấy hả lòng hả dạ thế trong giận
dữ? Sao bạn cảm thấy năng lượng xô tới thế để phá
huỷ cái gì đó? Sao trong thời chiến mọi người lại
trông rạng ngời hơn, lành mạnh hơn, sắc bén hơn,
thông minh hơn? - cứ dường như cuộc sống không còn là sự chán chường nữa. Điều gì đã xảy ra? Con
người sa ngã xuống. Cho dù vài ngày, vài tháng, con
người lại là con vật. Thế thì người đó không biết tới
luật pháp, thế thì người đó không biết tới nhân loại,
thế thì người đó không biết tới thượng đế. Thế thì
người đó đơn giản đi... vứt bỏ tự ý thức của mình, trở
thành vô ý thức; kẻ giết người, sát hại, hãm hiếp - mọi
thứ đều được phép trong chiến tranh.
Đó là lí do tại sao con người cần chiến tranh liên
tục. Sau mỗi mười năm lại cần tới một cuộc chiến
tranh lớn, và chiến tranh nhỏ phải được tiếp diễn liên
tục. Bằng không sẽ khó cho con người sống.
Con người trở thành người say, trở thành người
nghiện ma tuý. Qua thuốc hoá chất, con người cố
gắng giành lấy ngôi nhà bị mất, thiên đường bị mất.
Khi bạn dưới ảnh hưởng của LSD, bạn quay trở lại
trong vườn Địa đàng - từ cửa sau; LSD là cửa sau của
vườn Địa đàng. Cuộc sống lại dường như phiêu diêu,
mầu sắc; cây cối lại trông chói sáng như chúng phải
đã được Adam và Eve nhìn thấy, như chúng phải đã
được con chim cúc cu và con hổ và con khỉ nhìn thấy
ngay bây giờ. Mầu lục có sự chói sáng trong nó. Mọi
thứ đều trông đẹp thế. Bạn không còn là con người
nữa. Bạn đã tụt lùi lại. Bạn đã buộc bản thể mình tụt
lùi lại. Do đó sự hấp dẫn vô cùng mới tồn tại cho
nước giải khát có cồn.
Ngay từ chính lúc ban đầu của lịch sử con người,
con người đã từng dùng ma tuý. Vào thời Vedas họ đã
gọi nó là soma, bây giờ họ gọi nó là LSD. Nhưng nó
không phải là thứ khác. Đôi khi nó là ganja, bhang,
bây giờ nó là marijuana và những thứ khác, nhưng nó
vẫn là cùng trò chơi cũ.
Về mặt hoá chất có thể tụt lùi lại, nhưng bạn
không thể thực sự đi lùi được. Không có đường đi lùi;
thời gian không cho phép điều đó. Người ta phải đi
tiếp.
Bạn không thể đi ngược lại theo thời gian được.
Bánh răng ngược không tồn tại. Khi Ford làm chiếc
xe hơi đầu tiên, đã không có bánh răng ngược. Chỉ
mãi về sau họ mới nghĩ rằng rất khó quay trở về nhà.
Bạn phải lấy chỗ rẽ dài, nhiều dặm không cần thiết;
thế rồi bạn mới có thể về nhà. Thế rồi bánh răng
ngược được thêm vào như một ý nghĩ muộn mằn.
Nhưng vào thời xưa, thượng đế lại chưa thêm vào
báng răng ngược; bạn không thể đi ngược được.
Con người đã mơ ước về điều đó, đã mơ màng
viển vông về điều đó. Đã có những chuyện viễn tưởng
khoa học mà trong đó con người có thể đi ngược lại
thời gian. H. G. Wells có một ý tưởng về máy thời
gian. Hừ? bạn ngồi trong cái máy đó và bạn ấn vào
bánh răng ngược và bạn bắt đầu đi ngược về trước.
Bạn là thanh niên, bạn trở thành trẻ con, rồi bạn trở
thành đứa trẻ mới sinh, rồi bạn trong bụng mẹ. Bạn
bắt đầu đi ngược. Nhưng chẳng máy thời gian nào tồn
tại cả. Nó chỉ tồn tại trong tâm trí nhà thơ, trong mơ
màng viển vông mà thôi.
Đi ngược lại là không thể được. Chỉ có một khả
năng thôi - tiến lên trước.
Con người phải vẫn còn trong khổ sở. Chỉ có hai
con đường - hoặc làm cho việc đi ngược thành có thể, hoặc đi vượt ra ngoài nhân loại. Nhân loại là cây cầu.
Bạn không thể làm nhà trên nó được. Nó phải được đi
qua. Nó không định dành cho sống ở đó.
Khi hoàng đế Mông Cổ người Mô ha mét giáo
Akbar, làm ra một thành phố đặc biệt, Fatehpur
Sikari, ông ta yêu cầu những người trí huệ tìm ra cái
gì đó, câu châm ngôn để đặt lên đỉnh cây cầu nối
thành này với thế giới. Họ đã nhìn, họ đã tìm và họ
thấy lời của Jesus. Nó không tồn tại trong Kinh
Thánh; nó phải đã tới từ nguồn khác nào đó, từ Sufis.
Có nhiều người Sufis ở triều đình của Akbar. Câu
châm ngôn là: Thế giới này giống như cây cầu - đừng
làm nhà bạn trên nó. Câu châm ngôn này vẫn còn đó
trên cây cầu này. Đó là cách nó vậy đấy.
Nhân loại là cây cầu. Đừng cố gắng chỉ là con
người, bằng không bạn sẽ trở thành phi con người.
Thử trở thành siêu nhân; đó là cách duy nhất để là con
người. Thử trở thành thượng đế; đó là cách duy nhất
để là con người. Không có cách khác. Có mục đích ở
đâu đó trên các vì sao, chỉ thế thì bạn mới lớn lên.
Và con người là một hiện tượng phát triển, một
quá trình. Nếu bạn không có mục đích nào, trưởng
thành dừng lại. Thế thì bạn bị mắc kẹt, thế thì bạn trở
thành tù đọng và cũ rích. Đó là điều đã xảy ra cho
hàng triệu người trên thế giới này. Cứ nhìn vào khuôn
mặt họ mà xem - họ trông như những kẻ sống dở chết
dở, cứ dường như họ đang ngủ hay đang bị đánh
thuốc ngủ, đờ ra.
Điều gì đang xảy ra cho trái tim của những người
này? Họ không biểu lộ tươi tắn nào, sống động nào,
không trào ra cuộc sống, không ngọn lửa... đờ đẫn.
Điều gì đang xảy ra cho họ? Họ đã bỏ lỡ cái gì đó. Họ
đang bỏ lỡ cái gì đó. Họ không làm cái mà họ đã được
làm ra để làm, họ không hoàn thành định mệnh đáng
phải được hoàn thành.
Con người ở đây là để trở thành siêu nhân. Để
siêu nhân là mục đích của bạn đi. Chỉ thế thì bạn mới
có khả năng là con người, và thoải mái.
Bạn càng biến đổi thành siêu nhân, bạn sẽ càng
thấy mình không khổ, không trong lo âu. Nụ chẳng
mấy chốc sắp tới, sẽ có hân hoan vô cùng. Chẳng mấy
chốc sẽ có nở hoa. Bạn có thể chờ đợi, bạn có thể hi
vọng, bạn có thể mơ mộng.
Khi bạn không đi đâu cả, khi bạn đang cố gắng
chỉ là con người thôi, thế thì dòng sông đã dừng chảy.
Thế thì dòng sông không đi tới đại dương. Bởi vì đi
tới đại dương nghĩa là có ham muốn trở thành đại
dương. Bằng không thì sao phải đi tới đại dương? Đi
tới đại dương nghĩa là hội nhập vào trong đại dương,
trở thành đại dương.
Thượng đế là mục đích. Bạn có thể là con người
chỉ nếu bạn cứ làm mọi nỗ lực, mọi nỗ lực có thể có
để trở thành điều thiêng liêng. Trong chính những nỗ
lực đó, tính con người của bạn sẽ bắt đầu sáng lên.
Trong chính những nỗ lực đó, bạn sẽ trở nên sống
động.
Khi bản thân cuộc sống là sự đáp ứng thế...
Cuộc sống đang đáp ứng, nhưng bạn không trong
tiếp xúc với cuộc sống. Mối tiếp xúc cũ bị mất rồi,
mối tiếp xúc mới vẫn chưa được tạo ra. Bạn đang
trong chuyển biến, do đó bạn đờ đẫn thế, do đó cuộc sống có vẻ tẻ nhạt thế, buồn bã, đáng chán thế - thậm
chí còn vô ích nữa.
Jean-Paul Sartre nói: Con người là niềm đam mê
vô dụng - niềm đam mê vô tích sự, bất lực, làm ồn ào
không cần thiết về cuộc sống, và chẳng có gì trong nó
cả... vô nghĩa là cuộc sống. Bạn càng trở nên bị khép
kín trong cái ngã của mình, cuộc sống càng trở nên vô
nghĩa. Thế thì bạn khổ. Thế thì khổ có cái giá phải trả
nào đó.
Khi bạn hạnh phúc bạn là bình thường, bởi vì
hạnh phúc chính là tự nhiên. Khổ mới trở thành phi
thường. Chẳng có gì đặc biệt trong hạnh phúc cả - cây
cối hạnh phúc, chim chóc hạnh phúc, con vật hạnh
phúc, trẻ con hạnh phúc. Cái gì đặc biệt trong đó nào?
Đó chỉ là điều thông thường trong sự tồn tại. Sự tồn
tại được làm từ chất liệu được gọi là hạnh phúc. Nhìn
xem! - bạn không thể thấy những cây này sao?... hạnh
phúc thế. Bạn không thể thấy chim chóc đang hót
sao?... hạnh phúc thế. Hạnh phúc chẳng có gì đặc biệt
trong nó cả. Hạnh phúc là điều rất bình thường.
Là phúc lạc chính là tuyệt đối bình thường. Cái
ngã, bản ngã, không cho phép điều đó. Đó là lí do tại
sao mọi người nói quá nhiều về khổ của họ. Họ trở
nên đặc biệt chỉ bởi việc nói về những khổ sở của
mình. Mọi người cứ nói về bệnh tật của họ, đau đầu
của họ, đau dạ dầy, cái này cái nọ của họ. Tất cả mọi
người đều bị chứng nghi bệnh theo cách này khác. Và
nếu ai đó không tin vào khổ của bạn, bạn cảm thấy bị
tổn thương. Nếu ai đó thông cảm với bạn và tin vào
khổ của bạn - ngay cả trong lời nói phóng đại của bạn
về điều đó - bạn cảm thấy rất sung sướng. Đây là cái
gì đó ngu xuẩn, nhưng phải được hiểu.
Khổ làm cho bạn thành đặc biệt. Khổ làm cho bạn
bản ngã nhiều hơn. Người khổ có thể có bản ngã được
tập trung nhiều hơn người hạnh phúc. Người hạnh
phúc thực sự không thể có bản ngã được, bởi vì một
người trở nên hạnh phúc chỉ khi không có bản ngã.
Càng nhiều vô ngã, càng nhiều hạnh phúc; càng nhiều
hạnh phúc, càng nhiều vô ngã. Bạn tan biến vào trong
hạnh phúc. Bạn không thể tồn tại cùng với hạnh phúc
được; bạn chỉ tồn tại khi có khổ. Trong hạnh phúc có
tan biến.
Bạn đã bao giờ thấy khoảnh khắc hạnh phúc nào
không? có quan sát nó không? Trong hạnh phúc, bạn
không có. Khi bạn đang trong tình yêu, bạn không có.
Nếu tình yêu đã tạo ra chỗ trú ngụ của nó trong lòng
bạn, cho dù vài khoảnh khắc thôi, bạn không có. Khi
bạn thấy mặt trời lên đẹp, hay đêm đầy trăng, hay cái
hồ im lặng, hay bông sen, bỗng nhiên bạn không có.
Khi có cái đẹp, bạn không có. Khi có tình yêu, bạn
không có.
Nghe ai đó, nếu bạn cảm thấy chân lí, bạn đơn
giản biến mất trong khoảnh khắc đó. Bạn không có,
chân lí hiện hữu. Bất kì khi nào có cái gì đó của cõi
bên kia, bạn đều không có; bạn phải tạo ra không gian
cho nó chứ. Bạn chỉ có khi có khổ sở. Bạn chỉ có khi
có dối trá. Bạn chỉ có khi có cái gì đó sai. Bạn chỉ có
khi giầy không vừa.
Khi giầy vừa hoàn hảo, bạn không có. Khi giầy
vừa hoàn hảo bạn quên mất chân, bạn quên mất giầy.
Khi không có đau đầu thì không có đầu. Nếu bạn muốn cảm thấy đầu mình, bạn sẽ cần đau đầu, đó là
cách duy nhất.
Có đấy là khổ. Hạnh phúc là không có đấy. Đó là
lí do tại sao Phật nói không có cái ngã. Ông ấy đang
tạo ra con đường cho bạn trở nên tuyệt đối phúc lạc.
Ông ấy đang nói sẽ không có cái ngã để cho bạn có
thể vứt bỏ nó. Dễ dàng vứt bỏ cái gì đó khi nó không
có. Dễ dàng vứt bỏ cái gì đó khi bạn hiểu rằng nó
không có, nó chỉ là tưởng tượng.
Một hôm Mulla Nasruddin kể cho bạn trong quán
rượu về gia đình mình. 'Chín thằng nhóc,' anh ta nói,
'và tất cả đều tốt ngoại trừ mỗi Abdul. Nó đã học đọc.'
Bây giờ khi một người học đọc, khó khăn nảy
sinh; bây giờ cái ngã đang nảy sinh. Ở thôn làng, mọi
người hạnh phúc hơn. Họ gần con vật hơn trong các
thành phố lớn - họ còn ở xa xôi. Trong các xã hội
nguyên thuỷ, các thổ dân còn hạnh phúc hơn. Họ gần
với cây cối và tự nhiên hơn ở London, Tokyo,
Bombay, New York. Cây cối đã biến mất, chỉ có các
con đường trải nhựa - tuyệt đối giả dối - các toà nhà
bê tông, toàn nhân tạo.
Thực tế, nếu bỗng nhiên ai đó từ không gian bên
ngoài mà tới Bombay, New York, Tokyo, London,
người đó sẽ không tìm thấy dấu hiệu nào của thượng
đế ở đó. Tất cả đều nhân tạo. Nhìn vào Tokyo hay
Bombay, người ta sẽ nghĩ con người đã làm ra thế
giới này. Những toà nhà bê tông này, những con
đường trải nhựa này, công nghệ này - tất cả đều nhân
tạo. Bạn càng đi xa hơn khỏi tự nhiên, bạn càng đi xa
hơn khỏi hạnh phúc... bạn ngày càng học nhiều để
đọc.
Thượng đế đã đuổi Adam bởi vì anh ta đã ăn từ
cây tri thức - anh ta đã bắt đầu học đọc. Ngài đã tống
anh ta ra - anh ta đã trở nên thông thái. Con người
nhất định sẽ khổ hơn nếu con người thông thái hơn.
Khổ này bao giờ cũng theo đích xác tỉ lệ với thông
thái của bạn.
Thông thái không phải là biết. Biết mang tính hồn
nhiên; thông thái mang tính tinh ranh. Rất khó cho
người có giáo dục không tinh ranh. Điều đó gần như
là không thể được, bởi vì toàn thể việc huấn luyện là
để tinh ranh. Huấn luyện là về logic, không về tình
yêu. Và huấn luyện là vì hoài nghi, không vì tin cậy.
Và huấn luyện là để mang tính nghi ngờ, không để
mang tính tin cậy. Và huấn luyện là ở chỗ mọi người
đều cố gắng lừa bạn, cho nên hãy nhận biết. Và trước
khi ai đó khác cố gắng lừa bạn, hãy lừa đi - bởi vì đó
là cách duy nhất để được bảo vệ.
Machiavelli nói: cách tốt nhất để tự bảo vệ mình
là hung hăng. Bạn thấy đấy, tất cả các chính phủ trên
thế giới đều gọi tổ chức quân sự của mình, quân đội,
là 'quốc phòng'. Họ tất cả đều là cách bố trí để tấn
công - họ gọi nó là 'quốc phòng'. Ngay cả Hitler cũng
đã gọi quân đội của mình là 'quốc phòng'. Trong suốt
nhiều thời đại không ai đã từng nói, 'Tôi tấn công
đấy.' Họ nói, 'Chúng ta phòng thủ.' Họ tất cả đều theo
Machiavelli. Họ tất cả đều kính trọng Mahavira,
Mohammed, Moses, và họ tất cả đều theo
Machiavelli. Khi có liên quan tới kính trọng, đi tới đền chùa, đọc Kinh Thánh. Nhưng khi có liên quan
tới cuộc sống thực tế, đọc Hoàng tử, đọc Machiavelli,
đọc Chanakya.
Ở Delhi, thủ đô của Ấn Độ nơi các chính khách
sống, họ gọi nó là Chanakya Puri - thành phố của
Machiavelli. Chanak là người Ấn Độ tương ứng với
Machiavelli, thậm chí còn nguy hiểm hơn
Machiavelli. Một người càng trở nên được giáo dục,
càng mang tính chất Machiavelli nhiều hơn, tinh ranh.
Khi cuốn sách Hoàng tử của Machiavelli được
xuất bản, ông ấy cho rằng tất cả các vua chúa châu Âu
sẽ mời ông ấy, và ông ấy sẽ được tôn lên vị trí cao
như cố vấn cho vua nào đó. Nhưng chẳng ai mời ông
ấy cả. Cuốn sách được đọc, cuốn sách được theo,
nhưng không ai mời Machiavelli cả. Ông ấy ngạc
nhiên. Ông ấy dò hỏi. Thế rồi ông ấy đi tới biết rằng
đọc cuốn sách của ông ấy họ đã trở nên sợ ông ấy.
Ông ấy tinh ranh đến mức trao cho ông ấy địa vị quan
trọng là nguy hiểm. Nếu ông ấy mà theo cuốn sách
của mình, ông ấy sẽ phá huỷ, ông ấy sẽ lật đổ nhà
vua. Chẳng chóng thì chầy ông ấy sẽ trở thành vua.
Ông ấy đã sống cuộc sống của người nghèo, ông ấy
không bao giờ có thể đi vào bất kì địa vị quyền lực
nào.
Giáo dục làm bạn thành tinh ranh hơn. Tất nhiên,
giáo dục làm cho bạn khổ hơn. Mang tính tôn giáo là
lau sạch tất cả những cái vô nghĩa này. Mang tính tôn
giáo nghĩa là học cách tháo dỡ, cách hoàn tác giáo dục
bản thân bạn lần nữa. Bất kì cái gì thế giới đã huấn
luyện bạn, bạn đều phải tháo dỡ nó ra. Bằng không
bạn đang bị bắt giữ. Con người khổ bởi vì con người
bị mắc vào mạng lưới riêng của mình. Con người phải
thoát ra khỏi nó - và chỉ ngôi sao xa xăm mới có ích.
Có thể không có thượng đế. Tôi không lo nghĩ về
nó. Nhưng bạn cần thượng đế, ngôi sao xa xăm để đi
tới. Có thể đến lúc bạn đạt tới đó thì bạn sẽ không tìm
thấy thượng đế đâu, nhưng bạn sẽ trở thành thượng đế
vào lúc đó. Đạt tới ngôi sao đó, bạn sẽ trưởng thành.
Con người bị khổ bởi vì con người đã học thủ
đoạn để khổ. Bản ngã là cơ sở của nó. Con người khổ
bởi vì phúc lạc, hạnh phúc, là sẵn có hiển nhiên thế -
điều đó tạo ra rắc rối.
Lần đầu tiên tôi gặp Mulla Nasruddin đã xảy ra
như thế này: tôi thấy anh ấy đang câu cá trên hồ. Tôi
chưa nghe nói về anh ấy. Tôi quan sát anh ấy. Hàng
giờ trôi qua, chẳng được con cá nào. Tôi hỏi anh ấy,
'Anh làm gì ở đây thế này? Ngay cạnh đó là một cái
hồ khác, mà anh không biết à? - có nhiều cá ở đó lắm.'
Anh ta nói, 'Tôi biết chứ. Có nhiều cá trong cái hồ
đó tới mức thậm chí chúng khó mà bơi được. Hồ đầy
những cá.'
'Nhưng thế thì sao anh lại vẫn ngồi đây? Tôi
chẳng thấy con cá nào cả.'
Anh ấy nói, ‘Đó là lí do tại sao tôi lại ngồi đây.
Phỏng có ích gì mà đi câu cá ở cái hồ kia? Bất kì kẻ
ngốc nào cũng có thể làm được điều đó. Câu cá ở đây
mới là cái gì đó chứ!' 

Bản ngã cứ đi câu cá ở cái hồ không có cá. Điều
hiển nhiên, điều sẵn có, không mang tính hấp dẫn. Đó
là lí do tại sao chúng ta bỏ lỡ thượng đế. Thượng đế là
có sẵn, thượng đế là chính xung quanh bạn. Ngài là
chính bầu khí quyển mà chúng ta đang thở vào thở ra.
Ngài chính là cuộc sống của chúng ta. Ngài là đại
dương mà trong đó chúng ta sống, được sinh ra, và sẽ
tan biến đi. Nhưng ngài gần thế, không khoảng cách.
Làm sao cảm thấy ngài?
Quan sát điều đó trong cuộc sống riêng của bạn
đi. Bất kì cái gì bạn có cũng đều làm mất mối quan
tâm với bạn. Bạn có ngôi nhà đẹp. Nó đẹp chỉ cho
hàng xóm của bạn thôi, không đẹp cho bạn. Bạn có
chiếc xe đẹp. Nó là đẹp chỉ cho người khác những
người không có xe, nó không đẹp cho bạn. Bạn có
người đàn bà đẹp hay người đàn ông đẹp - điều đó
không tạo ra hấp dẫn gì. Bạn có nó, thế là đủ. Mọi
người bị hấp dẫn chỉ vào cái họ không có. Cái không
tồn tại mới hấp dẫn.
Tôi đã nghe:
'Này, Ramon,' Mulla Nasruddin nói, khi họ gặp
nhau trên phố một ngày nào đó, 'tớ có ý định hỏi cậu
đôi điều.'
'Hỏi đi, Mulla,' bạn anh ta nói.
'Vợ tớ là một loại phẳng tẹt. Thực tế khi cô ấy cởi
thắt lưng của cô ấy ra vào ban đêm cô ấy là một giọt
nước lớn. Vợ cậu có giống thế không?' Nasruddin hỏi.
'À, không. Vợ tớ có thân hình lộng lẫy. Thực tế cô
ấy thon thả thế cô ấy không mặc đồ lót nào, và cô ấy
mới thực là cừ khôi,' Ramon đáp.
'Được,' Nasruddin tiếp tục, 'vợ tớ xấu thế, cô ấy
sơn phết khuôn mặt mình vào lúc đi ngủ bằng kem và
phấn. Vợ cậu có làm điều đó không?'
'À, không. Vợ tớ không cần kem phấn gì cả, và
tóc cô ấy mới tuyệt chứ,' người bạn đáp.
'Này, Ramon, tớ chỉ còn một câu hỏi nữa. Làm
sao mà cậu lại săn đuổi được vợ cậu?' Nasruddin hỏi.
Đó là cách thức của bản ngã - bao giờ cũng săn
đuổi vợ của ai đó khác, bao giờ cũng săn đuổi cái gì
đó mà bạn không có. Một khi bạn có rồi, mọi mối
quan tâm mất đi.
Cho nên người bản ngã vẫn còn khổ, bởi vì để
hạnh phúc người ta phải hạnh phúc với cái người ta
có. Bạn không thể hạnh phúc với cái bạn không có;
bạn chỉ có thể bất hạnh với cái đó. Bạn có thể hạnh
phúc chỉ với cái bạn có. Làm sao bạn có thể hạnh
phúc với cái mà bạn không có? Và bản ngã bao giờ
cũng quan tâm chỉ với cái mà bạn không có.
Bạn có mười nghìn ru pi - bản ngã không còn
quan tâm tới nó nữa. Nó quan tâm tới hai mươi nghìn.
Đến lúc bạn có hai mươi nghìn, nó không còn quan
tâm tới điều đó nữa. Nó chỉ quan tâm tới ba mươi
nghìn. Và cứ thế, cứ thế... điều đó cứ tiếp diễn.
Bản ngã chỉ cho bạn mục đích, nhưng bất kì khi
nào những mục đích đó tới, nó lại không cho phép bạn mở hội. Người ta trở nên ngày một khổ hơn! Khi
cuộc sống trôi qua, chúng ta cứ thu thập lấy khổ,
chúng ta cứ chồng chất khổ. Và rất khó để nhận ra
điều này - rằng bạn là nguyên nhân cho khổ của riêng
mình; điều đó chống lại bản ngã. Cho nên bạn đổ
trách nhiệm lên người khác.
Nếu bạn khổ bạn nghĩ xã hội là như vậy, cha mẹ
bạn đã sai. Nếu bạn nghe những người theo Freud, họ
sẽ nói điều đó là vì cha mẹ bạn, huấn luyện của cha
mẹ bạn. Nếu bạn nghe những người theo Marx, họ sẽ
nói đấy là vì cấu trúc xã hội, vì xã hội. Nếu bạn nghe
theo các chính khách, họ nói bởi vì đó là kiểu chính
phủ sai. Nếu bạn nghe các nhà giáo dục, họ nói bởi vì
kiểu giáo dục nào đó khác là cần.
Không ai nói rằng bạn chịu trách nhiệm cả - trách
nhiệm được đổ lên người khác. Thế thì không thể nào
hạnh phúc được, bởi vì nếu người khác đang làm cho
bạn khổ, thế thì hạnh phúc là ở ngoài bạn rồi - trừ phi
toàn thế giới thay đổi theo bạn.
Bây giờ khó mà chọn được cha mẹ bạn. Điều đó
đã xảy ra rồi. Làm gì đây?
Ai đó hỏi Mark Twain, 'Người ta cần cái gì để
được thực sự hạnh phúc?'
Ông ấy nói, 'Điều đầu tiên là ở chỗ người ta phải
chọn cha mẹ cho đúng.'
Bây giờ điều đó là không thể được, nó đã xảy ra
rồi. Bạn không thể chọn được cha mẹ mình bây giờ.
Người ta phải chọn xã hội đúng. Nhưng bạn bao giờ
cũng trong xã hội rồi. Bạn không chọn nó. Bạn bao
giờ cũng ở giữa nó rồi. Và nếu bạn muốn tạo ra nó
cho ham muốn của trái tim mình, toàn thể cuộc sống
của bạn sẽ bị phí hoài. Và điều đó sẽ không bao giờ
thay đổi được bởi vì nó là hiện tượng lớn thế, và bạn
lại tí hon thế.
Niềm hi vọng duy nhất của bất kì biến đổi nào là
ở chỗ bạn có thể thay đổi bản thân mình. Đó là niềm
hi vọng duy nhất, không có hi vọng khác.
Nhưng bản ngã không muốn nhận trách nhiệm.
Nó cứ đổ trách nhiệm lên người khác. Trong việc đổ
trách nhiệm lên người khác, bạn đang ném đi tự do
của mình nữa, nhớ lấy. Chịu trách nhiệm là được tự
do. Trao trách nhiệm cho ai đó khác là thành tù nhân.
Đó là quan điểm tôn giáo. Tôn giáo nói bạn chịu
trách nhiệm. Đó là lí do tại sao Marx chống lại tôn
giáo nhiều thế. Lập luận của ông ấy là rõ ràng. Ông ấy
biết điều đó rất rõ - rằng hoặc tôn giáo có thể tồn tại
trên thế giới hoặc chủ nghĩa cộng sản. Cả hai không
thể cùng tồn tại. Và ông ấy phải: cả hai không thể
cùng tồn tại được. Tôi cũng đồng ý với ông ấy.
Chọn lựa của chúng tôi là khác nhau. Tôi muốn
tôn giáo tồn tại, ông ấy muốn chủ nghĩa cộng sản tồn
tại, nhưng chúng tôi đồng ý rằng cả hai không thể
cùng tồn tại được. Bởi vì toàn thể quan điểm của chủ
nghĩa cộng sản là ở chỗ người khác chịu trách nhiệm
cho khổ của bạn. Và quan điểm tôn giáo là ở chỗ
ngoại trừ bạn, không ai khác chịu trách nhiệm cả.
Người cộng sản nói cách mạng xã hội là cần cho thế giới hạnh phúc. Người tôn giáo nói cách mạng cá
nhân là cần để là con người hạnh phúc.
Thế giới này không bao giờ sẽ hạnh phúc, nó
chưa bao giờ như vậy, và nó không bao giờ sẽ như
vậy. Thế giới này nhất định là bất hạnh, chỉ cá nhân
mới có thể hạnh phúc được. Nó là cái gì đó cá nhân.
Nó cần có ý thức để hạnh phúc. Nó cần sự mãnh
liệt để hạnh phúc. Nó cần nhận biết để hạnh phúc. Thế
giới không bao giờ có thể hạnh phúc được bởi vì nó
không có nhận biết. Xã hội không có linh hồn, chỉ con
người mới có. Nhưng rất khó cho bản ngã chấp nhận
điều này.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin làm cho cuộc sống thành rất khó
khăn cho các bạn đồng liêu của mình vì anh ta tin anh
ta không thể nào sai lầm được. Chung cuộc một trong
các công nhân của anh ta nói toạc ra. 'Nasruddin,' anh
ta nói, 'anh có chắc chắn không sai tất cả mọi lần
không?'
'Có một lần tôi sai,' Mulla thú nhận.
'Khi nào thì có điều đó?' người công nhân ngạc
nhiên hỏi. Anh ta không thể nào tin nổi rằng
Nasruddin lại đã thú nhận rằng anh ta đã sai, cho dù
một lần. Anh ta không thể nào tin được vào tai mình.
Anh ta nói, 'Khi nào thì có điều đó?'
'Một lần thôi,' Mulla Nasruddin nhớ lại, 'khi tôi
nghĩ tôi là sai, nhưng thực sự thì không.'
Bản ngã cực kì mang tính phòng thủ. Bản ngã
không bao giờ sai, do đó bạn mới khổ. Bản ngã bao
giờ cũng không thể sai được, do đó bạn mới khổ.
Bắt đầu nhìn vào những lỗ hổng đi. Làm cho bản
ngã của bạn có thể sai - và nó sẽ rơi rụng và biến mất.
Đừng hỗ trợ cho nó, bằng không bạn đang hỗ trợ cho
khổ riêng của mình đấy. Nhưng chúng ta cứ hỗ trợ
cho nó. Theo cách tốt, theo cách xấu, chúng ta cứ hỗ
trợ cho nó.
Bạn gọi ai đó là người tốt, người đạo đức, người
rất đáng kính. Người đó có hỗ trợ và ủng hộ riêng của
mình cho bản ngã mình. Người đó cứ đi tới đền chùa
mọi ngày, tới nhà thờ, đọc Kinh Thánh hay Gita, tuân
theo luật lệ của xã hội. Nhưng người đó đang cố gắng
tìm chỗ ủng hộ cho bản ngã của mình - người đó là
người tôn giáo, người đáng kính, người đạo đức.
Thế rồi có ai đó khác người không bao giờ tuân
theo qui tắc của xã hội - không bao giờ đi nhà thờ. Bất
kì khi nào người đó tìm ra cơ hội để phá vỡ mọi luật
lệ, người đó đều thích thú việc đó. Người đó tận
hưởng một loại bản ngã khác - bản ngã của tội đồ, bản
ngã của người vô đạo đức. Người đó nói, 'Tôi không
quan tâm.' Nhưng cả hai đều đang tìm sự hỗ trợ cho
cùng một điều khổ. Cả hai sẽ trong khổ sở.
Khi Muldoon bước đi trên phố, anh ta cấu véo
người đàn bà lạ đằng sau, ném gạch vào tủ kính cửa
hiệu đồ châu báu, và chửi rủa một bà già đáng thương.
'Điều đó là đủ rồi!' anh ta tự nhủ mình. 'Khi mình đi
xưng tội mình sẽ có đủ điều để nói.' 

Ngay cả khi mọi người đi xưng tội, họ cũng
không muốn thú nhận những tội nhỏ - chúng không
xứng đáng để xưng tội. Đây là kinh nghiệm của nhiều
tu sĩ thuộc nhiều tôn giáo - rằng mọi người phóng đại
tội lỗi của mình lên. Khi họ tới xưng tội, họ nói quá
lên. Họ có thể đã giết một con kiến và họ nghĩ họ đã
giết con voi. Họ phóng đại lên, bởi vì làm những điều
nhỏ bé thế không thoả mãn cho bản ngã.
Con đường của bản ngã rất tinh vi. Nếu bạn vào
nhà tù và bạn nghe câu chuyện của những người bị
giam ở đó, bạn sẽ ngạc nhiên. Họ tất cả đều ba hoa
rằng họ đã làm nhiều vụ cướp thế, và họ đã giết nhiều
người thế. Họ có thể chưa làm chút nào, nhưng ở đó -
đó là cách thức của bản ngã. Thế rồi bạn khổ, và thế
rồi bạn trở nên lo nghĩ. Tại sao? Bạn tạo ra rào chắn
giữa bạn và cuộc sống. Bản ngã không là gì ngoài rào
chắn.
Khi tôi nói vứt bỏ bản ngã tôi ngụ ý vứt bỏ tất cả
mọi lằn ranh. Bạn không tách rời khỏi cuộc sống, bạn
là một phần của nó... Giống như sóng, bạn là một
phần của đại dương. Bạn không tách rời chút nào. Là
thánh nhân bạn không tách rời, là tội nhân bạn cũng
không tách rời. Bạn không tách rời chút nào. Bạn là
một với cuộc sống. Bạn không phụ thuộc vào cuộc
sống, bạn không độc lập với cuộc sống - bạn là liên
thuộc.
Khi bạn hiểu rằng chúng ta tất cả đều liên thuộc,
được nối với nhau... Cuộc sống là một; chúng ta chỉ là
biểu hiện của nó... thế thì bạn bắt đầu trở nên phúc
lạc. Thế thì không ai có thể ngăn cản được bạn khỏi
phúc lạc.
Phúc lạc là rất hiển nhiên. Phúc lạc là rất gần gũi.
Phúc lạc là tự nhiên và gần gũi tới mức tâm trí có xu
hướng quên mất nó. Mọi đứa trẻ được sinh ra đều
trong trạng thái phúc lạc, và mọi người - gần như mọi
người - đều chết đi trong khổ vô cùng. Chỉ hiếm khi
mới có ai đó - một Phật, một Jesus - chết đi trong
trạng thái phúc lạc. Điều gì xảy ra? Điều gì đi sai?
Khi đứa trẻ được sinh ra nó không tách rời. Khi
đứa trẻ ở trong bụng mẹ nó là một phần của người
mẹ, nó không tồn tại tách biệt. Thế rồi nó được sinh ra
- thế nữa nó vẫn còn là một phần của người mẹ. Nó
được người mẹ nuôi dưỡng. Thế rồi nó cứ quanh quẩn
bên mẹ. Thế rồi, dần dần, nó lớn lên.
Việc lớn lên này có thể có hai kiểu. Nếu nó lớn
lên như người bình thường lớn lên, thế thì nó lớn lên
trong bản ngã, nó trở thành cứng rắn, nó tụ tập vỏ
cứng quanh bản thân mình, và điều đó sẽ làm cho nó
khổ. Đó không phải là con đường đúng để lớn lên. Cái
gì đó đã chua ra, cái gì đó đã đi sai.
Với tôi, nếu người mẹ mang tính tôn giáo, nếu
người cha mang tính tôn giáo, nếu gia đình mang tính
tôn giáo... và khi tôi nói tính tôn giáo, tôi không ngụ ý
rằng họ là người Ki tô giáo hay Mô ha mét giáo hay
Jaina giáo hay Phật giáo - cái đó chẳng liên quan gì
tới tôn giáo cả. Thực tế, tất cả những điều này chưa
bao giờ cho phép tôn giáo tiến hoá. Nếu đứa trẻ bị ép
buộc vào một giáo điều, vào một ý thức hệ giáo điều,
thế thì bản ngã sẽ tụ lại, thế thì bản ngã sẽ trở thành
người Ki tô giáo, và bản ngã sẽ chống lại người Hindu và chống lại người Mô ha mét giáo. Thế thì
bản ngã sẽ trở thành người Hindu, và sẽ chống lại
người Ki tô giáo và chống lại người Mô ha mét giáo.
Nhưng nếu ngôi nhà thực sự mang tính tôn giáo -
với tôn giáo tôi ngụ ý tính thiền, yêu thương - chúng
giúp cho đứa trẻ hiện hữu, nhưng dầu vậy không có
bản ngã. Chúng giúp cho đứa trẻ càng ngày càng cảm
thấy sự gần gũi, sự thống nhất đang tồn tại. Đứa trẻ
phải được giúp đỡ; đứa trẻ bất lực, nó không biết nó ở
đâu, nó không biết nó đang đi đâu. Nếu nó được yêu
và có nhịp điệu thiền trong gia đình và gia đình rung
động với im lặng, hiểu biết, thì đứa trẻ sẽ bắt đầu lớn
lên theo cách hữu cơ hơn. Nó sẽ không cảm thấy
mình tách rời, nó sẽ bắt đầu học cách trở thành một
phần.
Điều đó đã không xảy ra. Tôi không bảo bạn có
mối ác cảm nào về nó - nhưng bạn có thể làm điều đó
ngay bây giờ. Bạn có thể dừng giúp đỡ bản ngã mình
và bạn có thể bắt đầu vứt bỏ gánh nặng này. Làm
thành vấn đề là không bỏ lỡ cơ hội nào khi bạn có thể
cảm thấy là một với bất kì cái gì. Nếu đó là đêm
trăng, cảm thấy là một với đêm trăng. Cho phép tuôn
chảy... chảy cùng nó, nhảy múa, ca hát... và vứt bỏ
bản ngã của bạn.
Không có gì tốt hơn nhảy múa để vứt bỏ bản ngã;
do đó tôi nhấn mạnh rằng tất cả các thiền nhân nên
nhảy múa. Bởi vì nếu bạn thực sự đi vào trong cơn
xoáy lốc, nếu bạn thực sự là luồng năng lượng xoáy
lốc, nếu bạn thực sự trong điệu vũ, vũ công bị mất đi.
Trong điệu vũ, vũ công bao giờ cũng mất đi. Nếu nó
không mất đi thế thì bạn không nhảy múa đâu. Thế thì
bạn có thể trình diễn, thế thì bạn có thể thao tác, thế
thì bạn có thể làm bài tập thân thể, nhưng bạn không
nhảy múa.
Nhảy múa nghĩa là mất hút thế, say sưa thế - và
tận hưởng năng lượng được tạo ra bởi điệu vũ. Dần
dần bạn sẽ thấy thân thể mình không còn cứng nhắc
như nó đã vậy trước đây. Dần dần bạn sẽ thấy rằng
bạn đang tan ra; biên giới đang mất đi sắc nét của nó,
nó đang trở nên mơ hồ hơn một chút. Bạn không thể
cảm thấy đích xác nơi nào bạn chấm dứt và nơi nào
thế giới bắt đầu. Vũ công đang ở trong cơn xoáy lốc
thế, người đó trở thành sự rung động tới mức toàn thể
cuộc sống đều được cảm thấy như một nhịp điệu.
Cho nên bất kì khi nào bạn có thể tìm ra thời gian,
nơi chốn, tình huống... bạn đang trong tình yêu với ai
đó; đừng bỏ lỡ cơ hội này. Đừng nói điều vô nghĩa,
đừng mang bản ngã của bạn vào và ba hoa. Vứt cái đó
đi! Tình yêu là điều thiêng liêng vô cùng, thượng đế
đã gõ cửa nhà bạn. Mất hút đi. Cầm tay người đàn bà
của bạn, hay người đàn ông của bạn, hay với người
bạn của bạn. Mất hút! Hát cùng nhau, hay nhảy múa
cùng nhau - nhưng mất đi. Hay ngồi cùng nhau -
nhưng mất đi! Và cảm thấy rằng bạn không còn là cá
nhân nữa. Ngồi bên cạnh cái cây, mất hút.
Đó là cách điều đó đã xảy ra cho Phật. Trong
khoảnh khắc đó cây bồ đề và Phật trở thành một.
Trong năm trăm năm sau Phật, tượng của Phật đã
không được xây dựng. Thay vì vậy, chỉ có bức tranh
cây bồ đề là được thờ. Điều đó cực kì hay. Những
người đó phải đã hiểu ra. Chỉ cây bồ đề là được thờ.
Trong đền chùa Phật giáo chỉ một biểu tượng về cây bồ đề. Bởi vì trong khoảnh khắc đó Phật hoàn toàn
biến mất. Ông ấy không có đó, chỉ cây bồ đề có đó.
Ông ấy đã hoàn toàn mất hút.
Biến mất, bạn xuất hiện. Không hiện hữu là cách
thức của bản thể thực của bạn.
Và điều này có thể xảy ra trong cuộc sống bình
thường. Bạn không cần đi lên Himalaya hay tới tu
viện. Có hàng triệu cơ hội trong cuộc sống bình
thường, hàng triệu tình huống quan trọng nơi điều này
có thể xảy ra. Bạn chỉ phải có chút ít tính quan sát và
chút ít dũng cảm để sử dụng chúng. Một khi bạn bắt
đầu dùng chúng, ngày càng nhiều tình huống hơn sẽ
tới. Chúng bao giờ cũng tới, nhưng bạn không nhận
biết cho nên bạn bỏ lỡ chúng.
Ngồi trên bãi biển tắm nắng, tan chảy với mặt
trời. Đó là một kinh nghiệm năng lượng. Bỗng nhiên
bạn thấy mình không là gì ngoài năng lượng mặt trời.
Tan chảy và gặp gỡ với mặt trời, người Hindu đã đi
tới thờ mặt trời. Họ nói, 'Mặt trời là thượng đế.' Họ
nói, 'Mặt trăng là thượng đế.' Họ đã thờ cây là đấng
thiêng liêng. Họ đã thờ sông, núi.
Điều đó rất có ý nghĩa. Bất kì chỗ nào điều đó xảy
ra là họ đã gặp thượng đế... ngồi bên cạnh dòng sông,
nghe âm nhạc hay của dòng sông, thấy những hình
mẫu đẹp của gợn sóng, nếu họ được tan chảy, tan
biến, dòng sông trở thành thượng đế. Điều đó đã xảy
ra ở đó. Ngồi trên núi đơn độc, họ đã tan biến và biến
mất - núi đó trở thành thượng đế của họ.
Thượng đế tới bạn trong hàng triệu cách thức,
nhưng bản ngã của bạn chưa bao giờ cho phép bạn
thấy ngài. Và ngài tới theo cách thông thường đến
mức bạn bỏ lỡ. Ngài chưa bao giờ tới như một quốc
vương với đám rước lớn, với đoàn tuỳ tùng lớn và ồn
ào nhộn nhịp. Ngài chưa bao giờ tới như thế. Chỉ
những người ngu mới làm điều đó. Thượng đế tới rất
im lặng - ngài chưa bao giờ tới mà hò hét, ngài tới
bằng thì thào. Bạn sẽ phải rất im lặng để hiểu thông
điệp của ngài. Đó là tiếng thì thào tình yêu. Và con
người có khuynh hướng quên mất cái tự nhiên.
Tôi đã nghe một chuyện đùa rất hay:
Một người Mĩ rất ngây thơ tới Paris và lâm vào
cuộc tranh luận với một người Do Thái Pháp về số
lượng cách làm tình.
'Có sáu mươi chín cách làm tình, thưa tôn ông,'
người Do Thái Pháp nói.
'Tôi nghĩ chỉ có một thôi - đàn ông ở trên đàn bà,'
người Mĩ nói.
Người Do Thái xin lỗi, 'Thưa tôn ông,' ông ta nói,
'Tôi rất tiếc. Tôi đã tính lầm. Có bẩy mươi cách làm
tình.'
Bây giờ điều đơn giản nhất, điều tự nhiên nhất,
tâm trí có xu hướng quên mất. Tâm trí bao giờ cũng
quan tâm tới cái gì đó ngoại lệ - bởi vì đó là mối quan
tâm của bản ngã. Bản ngã không quan tâm tới cái
thông thường - mà thượng đế lại rất thông thường.

Bản ngã không quan tâm tới cái đơn giản - mà thượng
đế lại rất đơn giản. Bản ngã không quan tâm tới cái ở
gần - mà thượng đế lại rất gần. Đó là cách bạn cứ bỏ
lỡ phúc lạc và bạn trở nên khổ.
Vấn đề là tuỳ ở bạn thay đổi nó. Đó là chọn lựa
của bạn. Từng khoảnh khắc của cuộc sống đều đem
bạn tới hai phương án: bị khổ hay được hạnh phúc.
Điều đó tuỳ thuộc vào chọn lựa của bạn. Bất kì điều
gì bạn chọn bạn sẽ trở thành nó.
Người ta kể về nhà huyền môn sufi, Bayazid, rằng
ông ấy là con người cực kì hạnh phúc, gần như cực
lạc. Không ai đã bao giờ thấy ông ấy bất hạnh, không
ai đã bao giờ thấy ông ấy buồn bã, không ai đã bao
giờ thấy ông ấy làm điều gì như càu nhàu, như phàn
nàn. Bất kì cái gì có đó - và ông ấy hạnh phúc. Điều
đó không phải bao giờ cũng tốt đâu, điều đó không
phải bao giờ cũng đúng cho người khác. Đôi khi
không có thức ăn, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc. Đôi
khi trong vài ngày ông ấy sẽ sống mà không có thức
ăn, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc. Đôi khi không có
quần áo, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc. Đôi khi ông ấy
phải ngủ dưới trời, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc.
Hạnh phúc của ông ấy vẫn còn không bị quấy rối. Nó
là vô điều kiện.
Người ta cứ hỏi đi hỏi lại ông ấy, nhưng ông ấy
cười và chẳng bao giờ nói. Khi ông ấy sắp chết ai đó
hỏi, 'Bayazid, bây giờ ông cho chúng tôi chìa khoá
của ông, bí mật của ông. Ông chẳng mấy chốc sẽ ra
đi. Bí mật của ông là gì?'
Ông ấy nói, 'Chẳng có gì như bí mật cả. Đó là
điều đơn giản. Mọi sáng khi tôi mở mắt ra, Thượng đế
cho tôi hai phương án. Ông ấy nói, "Bayazid, con
muốn hạnh phúc hay bất hạnh?"
Tôi nói, "Nhưng thưa Thượng đế, con muốn hạnh
phúc." Và tôi chọn hạnh phúc và tôi vẫn còn hạnh
phúc. Đó là chọn lựa đơn giản, không có bí mật.'
Bạn thử điều đó đi. Mọi sáng khi bạn thức dậy,
điều đầu tiên, quyết định. Nếu bạn quyết định là bất
hạnh, chẳng có gì sai trong điều đó. Đấy là quyết định
của bạn. Nhưng thế thì bám lấy nó: vẫn còn bất hạnh
dù bất kì điều gì xảy ra. Cho dù bạn có được sổ xố,
cũng đừng lo nghĩ - vẫn còn bất hạnh. Cho dù bạn có
được chọn làm thủ tướng hay tổng thống, vẫn còn bất
hạnh, bám lấy chọn lựa của bạn. Và thế thì bạn sẽ
thấy - bạn có thể vẫn còn bất hạnh nếu bạn chọn.
Cùng điều đó là đúng với hạnh phúc nữa. Nếu bạn
chọn, bạn có thể vẫn còn hạnh phúc.
Ngày bạn quyết định rằng chính quyết định của
bạn tạo ra hạnh phúc hay bất hạnh, bạn đã nắm cuộc
sống trong tay mình - bạn đã trở thành người chủ. Bây
giờ bạn sẽ không bao giờ nói rằng ai đó khác đang
làm cho bạn bất hạnh. Đó là tuyên bố của sự nô lệ.
Phật đi ngang qua. Vài người tụ tập và họ xúc
phạm ông ấy nhiều lắm. Ông ấy lắng nghe họ rất
chăm chú, rất đáng yêu. Khi họ chấm dứt, ông ấy nói,
'Nếu các ông đã nói tất cả những điều các ông muốn
nói rồi, ta có thể đi bây giờ được chứ? - bởi vì ta phải tới làng bên cạnh đúng lúc mặt trời lặn. Nếu các ông
vẫn còn cái gì đó cần nói thêm nữa thì ta sẽ quay lại
sau vài ngày; các ông có thể nói với ta vào lúc đó.'
Nhưng ông ấy tuyệt đối không bị quấy rối, im lặng
của ông ấy vẫn còn như cũ, hạnh phúc của ông ấy vẫn
còn như cũ, rung động của ông ấy vẫn còn như cũ.
Những người đó thấy phân vân khó hiểu. Họ nói,
'Ông không giận chúng tôi sao? Chúng tôi đã xúc
phạm ông, chúng tôi đã chửi tên cúng cơm của ông.'
Phật nói, 'Các ông phải vẫn còn phân vân khó
hiểu thôi. Các ông tới chậm chút ít rồi. Các ông đáng
phải tới sớm quãng mười năm trước - thế thì các ông
chắc đã thành công trong việc làm rối ta. Thế thì ta
không phải là người chủ riêng của mình. Bây giờ, xúc
phạm ta là tự do của các ông, nhận nó hay không là tự
do của ta. Ta không nhận nó. Các ông xúc phạm ta,
đúng. Đó là quyết định của các ông. Ta tự do để nhận
nó hay không nhận nó, và ta nói ta không nhận nó.
Các ông sẽ làm gì với nó đây? Ta cũng bị phân vân -
bởi vì ở làng trước mọi người đã mang bánh kẹo tới,
và ta đã nói rằng ta không cần chúng, cho nên họ phải
đem về. Ta hỏi các ông, họ phải làm gì với đống bánh
kẹo đó?'
Những người đó nói, 'Họ phải đã phân phát chúng
ở trong làng hay tự họ phải đã ăn chúng.'
Phật nói, 'Bây giờ nghĩ về các ông đi. Các ông tới
với những lời xúc phạm này và ta nói, "Đủ rồi. Ta đã
được kết thúc với điều này. Chẳng có gì làm cả." Các
ông sẽ làm gì? Các ông sẽ phải đem chúng về. Ta
cũng rất tiếc cho các ông.'
Đó là quyết định của bạn. Cuộc sống là quyết
định của bạn, là tự do của bạn. Đó là lí do tại sao tôi
gọi các sannyasin của mình là 'swami'. 'Swami' nghĩa
là người chủ. Đó chỉ là một chỉ báo rằng từ khoảnh
khắc này bạn sẽ cố gắng nhiều hơn để là người chủ
chứ không là nô lệ.
Câu hỏi thứ hai
Thầy nói với việc chỉ hiện hữu ở đây ngay bây giờ
là tất cả mọi điều chúng ta cần để biết tới chân lí.
Sao tôi thấy điều đó lại là điều khó làm nhất vậy?
Và nếu tôi làm điều đó, ai ở đây?
Chân lí ở đây - bạn chẳng có gì để làm cho nó cả;
bạn chỉ phải hiện hữu. Chân lí đã có đó rồi. Bạn
không định phát minh ra nó, bạn chỉ phải phát hiện ra
nó. Cho dù từ đó là không đúng, bởi vì chân lí không
bị che đậy - bản thể bạn bị che đậy.
Cứ dường như mặt trời đã mọc nhưng bạn vẫn
ngồi với mắt nhắm. Mặt trời không bị che phủ, chỉ
mắt bạn bị che phủ. Mở mắt ra và ánh sáng có đó.
Nếu bạn trong bóng tối thì đó là vì bạn đang giữ cho
mắt mình khép kín. 

Khi tôi nói hiện hữu, tôi ngụ ý cởi mở. Tôi ngụ ý
đừng cố gắng là cái gì đó khác. Bởi vì trong chính nỗ
lực là ai đó khác bạn sẽ bị kéo căng, bạn sẽ bị căng
thẳng, bạn sẽ bị dồn nén, và bạn sẽ vẫn còn bị khép
kín. Bạn chỉ có thể cởi mở khi bạn chấp nhận bất kì
điều gì bạn đang là.
Nếu hoa hồng cố gắng là hoa sen, sẽ không có
khả năng nào cho nó là hoa hồng được. Toàn thể nỗ
lực sẽ làm cho nó căng thẳng thế. Hoa hồng là hoa
hồng; đó là lí do tại sao nó nở ra và trở thành hoa
hồng. Không có vấn đề về nó. Đừng cố gắng là cái gì
đó khác hơn cái bạn đang là. Đừng cố gắng trở thành
lí tưởng nào đó. Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói chỉ
hiện hữu.
Hiện hữu là trạng thái của việc mở ra vô cùng,
của im lặng mênh mông, không ham muốn, không nỗ
lực. Bạn chỉ ở đây, hiện diện. Bạn chỉ là sự hiện diện.
Trong hiện diện đó tất cả đều xảy ra - bởi vì trong
hiện diện đó bạn tỉnh táo tới mức không cái gì đi vòng
qua bạn được. Trong im lặng đó bạn bắt đầu nghe
thấy thượng đế, bạn bắt đầu thấy thượng đế. Trong im
lặng đó tầm nhìn mở ra, cánh cửa của cái không biết
mở ra. Bí ẩn là rõ ràng. Nhưng bạn phải ở trong trạng
thái đó. Đó là điều thiền tất cả chỉ là về việc hiện hữu
mà thôi.
Bạn hỏi: Thầy nói với việc chỉ hiện hữu ở đây
ngay bây giờ là tất cả mọi điều chúng ta cần để biết
tới chân lí...
Vâng, tôi nhắc lại điều đó lần nữa.
Sao tôi thấy điều đó lại là điều khó làm nhất vậy?
Bởi vì toàn thể cuộc sống của bạn đã từng huấn luyện
bản thân bạn phải là ai đó khác. Toàn thể cuộc sống
của bạn đã từng mang ý thức hệ nào đó trong đầu.
Điều đó đã trở thành hình mẫu máy móc. Bạn muốn
đẹp hơn, bạn muốn thông minh hơn, bạn muốn thế
này, bạn muốn thế nọ. Bạn đang mang chính trị lớn
trong mình, bạn tham vọng - tham vọng đó làm cho
bạn căng thẳng.
Nhớ lấy, đây là hai chiều của cuộc sống: mang
tính chính trị hay mang tính tôn giáo. Mang tính chính
trị nghĩa là cạnh tranh, vật lộn, đấu tranh; bạn phải
chứng minh rằng bạn là ai đó. Đó là lí do tại sao tất cả
các chính khách đều ngu xuẩn, theo cách tinh tế. Họ
phải vậy.
Tôi đã nghe:
Mulla Nasruddin và vợ anh ta trìu mến nhìn vào
cái nôi con mình. 'Anh nghĩ nó sẽ thành chính khách,'
Mulla nói.
'À, làm sao anh có thể nói được điều đó?' cô vợ
hỏi.
'Thế này, nó nói nhiều điều có vẻ hay và tuyệt đối
chẳng ngụ ý gì còn hơn bất kì người nào khác mà anh
đã từng thấy. Nó sẽ là chính khách đấy.'
Chính khách là đống lộn xộn. Ông ta bao giờ
cũng cố gắng chứng minh rằng ông ta là ai đó. Điều
đó ngụ ý rằng ông ta phải chịu phức cảm tự ti. Mọi chính khách đều phải chịu phức cảm tự ti. Trong một
thế giới tốt hơn họ sẽ không ở các thủ đô, họ sẽ ở trên
các tràng kỉ tâm lí. Họ nên được đưa vào nhà thương
điên. Người điên cũng không nguy hiểm đến thế; họ
chưa bao giờ làm điều gì sai.
Bạn đã bao giờ nghe nói về người điên nào làm
điều gì sai như Adolf Hitler hay Josef Stalin hay
Tamerlane hay Genghis Khan, hay Mao Trạch Đông?
Người điên chưa bao giờ làm điều gì sai cả. Nhưng
các chính khách... Chính nỗ lực của họ để chứng tỏ
rằng 'Tôi là ai đó' lại chỉ ra rằng đâu bên dưới họ đang
chịu đựng chứng tự ti - họ cảm thấy họ không là ai cả.
Họ phải chứng minh và biểu diễn. Họ cảm thấy họ
không là ai cả nếu họ không ở vị trí quyền lực lớn. Họ
cho rằng họ không là ai cả nếu họ không có quyền để
nghiền nát, để phá huỷ mọi người. Đây là phức cảm
tự ti sâu sắc đang đi tìm kiếm được là cao siêu.
Người tôn giáo là người được thoả mãn vô cùng;
người nói, 'Tôi đây - không có nhu cầu biểu diễn,
không có nhu cầu chứng minh.' Người tôn giáo là
người nói, 'Cuộc sống hiện hữu và tôi hiện hữu. Sao
lại không tận hưởng? sao không vui sướng trong nó?
sao không mở hội?' Người tôn giáo là người nói,
'Thượng đế hiện hữu và tôi hiện hữu. Bây giờ sao
không cầm tay ngài và nhảy múa? có chút ít tham dự?
để có cực thích sâu sắc giữa bạn và sự tồn tại.'
Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói: ở đây bây giờ.
Đây là thời gian duy nhất để hiện hữu - không có thời
gian khác. Và đây là chỗ duy nhất để hiện hữu -
không có chỗ khác. Tất cả mọi điều đã từng xảy ra
đều đã xảy ra chỉ trong bây giờ và ở đây. Bây giờ là
thời gian duy nhất và ở đây là không gian duy nhất.
Đừng nghĩ tới rồi thì và ở kia.
Chính khách nghĩ tới rồi thì và ở kia. Ông ta nói,
'Vâng, một ngày nào đó tôi sẽ tận hưởng. Nhưng đợi
đã, cứ để tôi thu xếp trước đã.' Ông ấy chuẩn bị. Ông
ấy là người điên trong việc chuẩn bị. Ông ấy cứ chuẩn
bị, ông ấy cứ chuẩn bị hoài.
Tôi đã nghe nói về một người sưu tập hàng triệu
cuốn sách. Người đó không có thời gian để đọc bởi vì
việc sưu tập chiếm quá nhiều thời gian. Người đó sưu
tập và sưu tập - thư viện của người đó trở thành thư
viện tốt nhất thế giới - nhưng người đó lại chẳng đọc
gì. Thế rồi cái chết của người đó tới, và bác sĩ nói,
'Ông sẽ không sống hơn được một tuần đâu.'
Ông ta nói, 'Nhưng điều này là không công bằng!
Trong cả đời mình tôi đã từng sưu tập và chờ đợi rằng
một ngày nào đó tôi sẽ về hưu và đọc, nhưng bây giờ
lại không có thời gian. Phải làm gì?'
Ai đó gợi ý, 'Ông có thể thuê các học giả. Họ có
thể đọc tất cả sách và dưới dạng tóm tắt, trước khi ông
chết, họ có thể trao cho ông ý chính.' Thế là các học
giả được tập hợp lại, họ đọc tất cả các sách, và họ
chuẩn bị các chú thích ngắn, nhưng dầu vậy nó vẫn là
một thứ quá lớn. Lần nữa nó lại giống như cuốn Kinh
Thánh; và người này sắp chết.
Vào ngày thứ bẩy họ đem tới cuốn sách. Ông ta
nói, 'Các ông có điên không đấy? Không còn thời gian
nữa! làm cho nó ngắn hơn!' 

Đến tối họ lại tới. Họ đã làm ngắn nó lại chỉ một
đoạn, nhưng người này đã vô ý thức rồi. Thế là họ
nói, 'Đợi đã! Chúng tôi đã làm ngắn nó rồi!' Nhưng
người này không có đó, ông ta đã rơi lại vào vô thức.
Ông ta đã chết mà không tận hưởng được một cuốn
sách.
Đừng cho rằng đây chỉ là chuyện ngụ ngôn. Đây
là câu chuyện của hàng triệu người đấy. Bạn cứ sưu
tập. Tôi đã thấy người giầu tích trữ tiền, chẳng bao
giờ tận hưởng nó. Ngay cả người nghèo đôi khi cũng
không nghèo đến thế. Người giầu là rất nghèo, họ
chưa bao giờ tận hưởng cả. Họ nói, 'Thêm chút nữa
đi. Để chúng tôi tích trữ cho đủ trước hết đã.' Nhưng
chẳng bao giờ đủ cả, không bao giờ có thể đủ được.
Tâm trí không bao giờ nói 'đủ'. Nó nói 'thêm chút nữa
đi, thêm chút nữa đi, thêm chút nữa đi'. Nó cứ đòi hỏi
ngày một nhiều. Nó là kẻ đòi hỏi điên cuồng.
Bạn có thể tích trữ tiền; điều đó sẽ không làm cho
bạn giầu - trừ phi bạn tận hưởng nó. Bạn có thể có
hàng triệu cuốn sách; điều đó sẽ không làm cho bạn
thành có học thức - trừ phi bạn tận hưởng chúng. Bạn
có thể có nhiều hoa; điều đó sẽ không cho bạn cảm
giác về cái đẹp - trừ phi bạn nhảy múa với chúng
trong không khí, trong gió, trong mưa... trừ phi bạn có
chút ít nhảy múa với chúng.
Cuộc sống hiện hữu, thượng đế hiện hữu, phúc lạc
hiện hữu. Thượng đế không bao giờ trong thời quá
khứ: bạn không thể nói 'thượng đế đã có'. Thượng đế
không bao giờ trong thời tương lai: bạn không thể nói
'thượng đế sẽ có'. Thượng đế chỉ có trong thời hiện tại
- thượng đế hiện hữu, cuộc sống hiện hữu, chân lí
hiện hữu. Bây giờ bạn cũng hiện hữu. Ngay lập tức sẽ
có gặp gỡ. Ngay lập tức bạn sẽ đối diện với ông ấy,
bạn sẽ đương đầu với ông ấy. Thậm chí không cần
phải phí hoài một phần giây.
Nhưng tôi biết khó khăn của bạn. Tất cả cuộc
sống của bạn đã từng được huấn luyện và bạn đã tự
huấn luyện mình vì cái gì đó chẳng bao giờ xảy ra.
Bạn không sẵn sàng cho cái đang đó; bạn bao giờ
cũng sẵn sàng cho cái phải có. Bạn đang chịu chứng
bệnh có tên là 'phải'.
Từ chính thời thơ ấu người mẹ, người bố, xã hội,
nền giáo dục, tu sĩ, chính khách - họ bao giờ cũng nói,
'Bạn phải giống thế này'. Không ai nói, 'Bạn đã đấy
rồi - hân hoan đi!' Ngoại trừ đôi khi một Jesus tới với
mọi người và nói, 'Hân hoan đi! Thượng đế đang đó!'
Bạn bao giờ cũng được bảo trở thành cái gì đó,
chứng tỏ cái gì đó - rằng bạn xứng đáng; tranh đấu,
tham vọng. Và tất nhiên không bằng lòng của bạn về
điều đó ở sâu bên dưới, nhưng dầu vậy bạn vẫn phải
tuân theo nó bởi vì bạn không biết cái gì khác có thể
được làm. Bạn chưa bao giờ bắt gặp một người đơn
giản nói, 'Hân hoan đi!' Lời nói đó đã trở nên gần như
vắng bóng trên thế giới này - thế giới của nhân loại,
thế giới của con người. Bạn không bằng lòng, nhưng
dầu vậy bạn vẫn cứ làm.
Mọi người tới tôi và họ nói, 'Chúng tôi không
bằng lòng với kỉ luật, chúng tôi không bằng lòng với
ai đó nói cho chúng tôi "Làm điều này!"' Và liền một
hơi tiếp, họ hỏi tôi, 'Osho ơi, bảo chúng tôi, chúng tôi
phải làm gì?' Bây giờ phải làm gì với những người này. Họ không bằng lòng, họ nói, ai đó bảo cho họ, và
dầu vậy họ đã tới tôi để hỏi, 'Osho ơi, phải làm gì
đây?'
Bạn đã được huấn luyện, cho nên bạn cứ không
bằng lòng. Bạn không muốn tuân theo, dầu vậy bạn
vẫn cứ hỏi 'phải làm gì? phải theo cái gì? theo ai? đi
đâu? lí tưởng là gì?' Bạn chưa bao giờ được dạy rằng
bạn mang tính nguyên thuỷ, bạn không cần là bản sao.
Thói quen có thể trở thành thâm căn cố đế tới mức
ngay cả khi bạn muốn nổi dậy, bạn lại muốn ai đó dạy
cho bạn cách nổi dậy.
Chuyện xảy ra:
Có lần Mulla Nasruddin đánh mất niềm tin của
mình, và trở thành kẻ vô thần ngoan cố. Bây giờ điều
đó là rất khó cho người Mô ha mét giáo, rất khó,
nhưng anh ta đã trở thành người vô thần. Cương lĩnh
mới của anh ta là - anh ta tới tôi và anh ta nói, 'Đây là
cương lĩnh mới của tôi: Không có thượng đế - và
Mohammed là nhà tiên tri về ông ấy.'
Thói quen cũ đấy - Mohammed phải là nhà tiên tri
dù thượng đế có hay không.
Bạn tới tôi và nói, 'Chúng tôi không bằng lòng với
kỉ luật... và Osho ơi, nói cho chúng tôi phải làm gì.'
Mohammed là nhà tiên tri của bạn và không có
thượng đế đấy. Bây giờ nếu bạn bao giờ cũng trong
xung đột, điều đó hiểu thực đơn giản.
Chuyện xảy ra:
Hai cậu bé bẩy tuổi đang xem phim. Một đứa
trong chúng khịt mũi to. Người đàn bàn bên cạnh
chung cuộc đã khuyên nó xì mũi, với giọng cáu kỉnh.
Đứa trẻ lại khịt mũi nữa.
'Cậu tốt hơn cả là làm điều bác ấy nói đi,' bạn nó
khuyên. 'Nói cho cùng, bác ấy cũng không phải là mẹ
cậu.'
Nghe điều nó nói: 'Nói cho cùng, bác ấy cũng
không phải là mẹ cậu. Cậu tốt hơn cả là làm điều bác
ấy nói đi!' Ai bận tâm nghe mẹ? Ai bận tâm nghe bố?
Người ta đơn giản giả vờ nghe thôi. Nhưng dầu vậy,
ngay cả trong giả vờ đó, chất độc đang đi vào bạn.
Bạn bao giờ cũng được dạy không là chính bản
thân mình - là ai đó khác. Là một Phật, là một
Krishna, là một Jesus - đừng bao giờ là bản thân
mình. Nhưng bạn có quan sát không? Jesus không bao
giờ được lặp lại, không bao giờ có lần nữa. Phật
không bao giờ được lặp lại, Krishna không bao giờ
được lặp lại. Thượng đế là đấng sáng tạo nguyên bản
thế, ông ấy không bao giờ lặp lại, ông ấy bao giờ cũng
tạo ra người mới. Ông ấy tạo ra con người cho trái đất
bằng sinh linh mới. Ông ấy không trông đợi bạn trở
thành ai đó khác, ông ấy nhìn vào bạn để trở thành
bạn.
Một nhà tu khổ hạnh Hassid, Joshua, sắp chết. Ai
đó nói, 'Joshua ơi, ông có hoà hợp với Moses không?'

Ông ta là người Do Thái, người Hassid. Joshua mở
mắt ra và ông ấy nói, 'Chấm dứt điều vô nghĩa đi. Thế
là đủ rồi! Sao tôi lại phải hoà hợp với Moses? Thực
tế, tôi đã lo lắng sâu sắc rằng khi tôi tới trước thượng
đế - mà chẳng mấy chốc tôi sẽ hiện diện trước ông ấy
- ông ấy sẽ không hỏi tôi, "Joshua, sao con không
giống Moses?" Ông ấy sẽ hỏi tôi, "Joshua, sao con
không là Joshua?" Đó là rắc rối của tôi. Tôi đã bỏ lỡ
bản thể mình. Cố gắng để là ai đó khác, tôi đã bỏ lỡ
mục đích của mình.'
Bạn chỉ có thể là bản thân mình thôi, bạn không
bao giờ có thể là bất kì ai khác. Bạn là con người
nguyên bản, bạn không phải là bản sao. Khi tôi nói
hiện hữu, tôi ngụ ý chỉ là bản thân mình, yêu lấy bản
thân mình, chấp nhận bản thân mình. Đừng cứ phủ
nhận, đừng cứ ghét bản thân mình. Nếu bạn ghét bản
thân mình, bạn sẽ không bao giờ có khả năng yêu bất
kì ai khác. Yêu lấy bản thân mình, tôi nói với bạn. Tôi
nói kính trọng bản thân mình. Hạnh phúc rằng bạn là
cái bạn đang là. Cám ơn thượng đế về bản thể bạn,
cách ông ấy đã làm ra bạn. Đừng phàn nàn.
Đó là điều tôi ngụ ý bởi chiều hướng tôn giáo.
Đừng mang tính chính trị, đừng tham vọng, đừng
mang tính cạnh tranh. Bạn một mình như bạn. Như
bạn, bạn là người duy nhất. Bạn là vô song. Đừng ngu
xuẩn, đừng mang tính cạnh tranh.
Một chính khách ở bữa tiệc cốc tai nói với Mulla
Nasruddin, 'Tôi nghe thấy anh dùng từ "thằng ngốc".
Tôi hi vọng là anh không ám chỉ tôi?'
'Đừng kiêu ngạo thế,' Mulla nói, 'cứ dường như
không có thằng ngốc nào khác trên thế giới này.'
Tôi nhớ tới một chuyện đùa khác. Có một trường
hợp, một chính khách đi kiện một người ra toà. Ông ta
nói, 'Trong khách sạn, người này đã gọi tôi là thằng
ngốc.' Mulla Nasruddin có đó để hỗ trợ cho chính
khách này. 'Vâng, ông ấy đúng đấy, người này đã gọi
ông ấy là thằng ngốc.'
Ở Ấn Độ các nhà lãnh đạo, các nhà lãnh đạo
chính trị, đều được gọi là netaji. Có thời đó đã là một
từ tôn kính. Vào những ngày của cuộc đấu tranh vì tự
do, trước năm 1947, netaji, người lãnh đạo, đã là một
từ rất tôn kính. Thế rồi nó bị suy đồi đi. Bây giờ nó đã
đi ra cống rãnh. Bây giờ gọi ai đó là 'netaji' tức là sỉ
nhục người đó. Bây giờ netaji nghĩa là kẻ lừa gạt nào
đó, kẻ giả dối, thằng cha tinh ranh.
Ai đó đã gọi netaji, người lãnh đạo, là thằng ngốc.
Quan toà hỏi Mulla Nasruddin, 'trong khách sạn có
biết bao nhiêu người - làm sao anh có thể nói rằng
người này đã gọi netaji là thằng ngốc? Đã có biết bao
nhiêu người - người đó có thể đã gọi ai đó khác là
thằng ngốc chứ. Làm sao anh có thể chứng minh được
điều đó?'
Nasruddin nói, 'Điều đó tuyệt đối có thể được
chứng minh. Đã có gần hai trăm người ở khách sạn đó, tôi biết điều đó, nhưng người này đã gọi netaji là
thằng ngốc.'
Quan toà nói, 'Anh nói cho chúng tôi - bằng
chứng của anh là gì?'
Mulla Nasruddin nói, 'Bởi vì không có thằng ngốc
khác hiện diện vào lúc đó.'
Đừng ngu xuẩn. Là bản thân mình và bạn sẽ là
thông minh. Đó là điều tôi ngụ ý. Nếu bạn chỉ là bản
thân mình thôi, bạn sẽ là người thông minh. Nếu bạn
là bản thân mình, chấp nhận bản thân mình một cách
toàn bộ - không chỉ chấp nhận mà còn đón chào, hạnh
phúc, biết ơn được là cái bạn đang là - thông minh của
bạn sẽ bắt đầu nở hoa. Nếu bạn cạnh tranh, bạn sẽ trở
nên ngu xuẩn, bạn sẽ trở nên tầm thường - bởi vì bạn
sẽ đi ngược lại tự nhiên. Nếu bạn cạnh tranh và bạn cố
gắng trở thành ai đó khác, bạn sẽ phá huỷ tính tự phát
bên trong của mình. Đó chính là ngu xuẩn đấy. Bạn sẽ
bị chậm tiến.
Mang tính tôn giáo, đừng bao giờ mang tính chính
trị. Và khi tôi nói đừng bao giờ mang tính chính trị,
tôi không chỉ ngụ ý đừng là thành viên của đảng phái
chính trị; với chính trị tôi ngụ ý đừng tham vọng. Mọi
tham vọng đều là chính trị, mọi đấu tranh điều đầu
tiên đều là chính trị. Tâm trí không đấu tranh, không
xung đột mới mang tính tôn giáo. Chỉ hiện hữu.
Bạn đã không được dạy điều đó, tôi biết. Bây giờ
khó để dỡ bỏ những thói quen cũ - nhưng chúng có
thể được dỡ bỏ. Bất kì điều gì được học cũng đều có
thể được dỡ bỏ. Điều đó là khó, nhưng không phải là
không thể được.
Thầy nói với việc chỉ hiện hữu ở đây ngay bây giờ
là tất cả mọi điều chúng ta cần để biết tới chân lí. Sao
tôi thấy điều đó lại là điều khó làm nhất vậy? Mọi
người đều thấy điều đó, bởi vì toàn thể việc huấn
luyện của bạn đi ngược lại điều đó, tất cả các thói
quen của bạn đi ngược lại điều đó. Nó là vất vả, khó
khăn, nhưng không phải là không thể được. Và một
khi bạn hiểu ra vấn đề, nó sẽ trở thành dễ dàng. Và
một khi bạn cho phép bản tính của bạn được tuôn
chảy, được hiện hữu, nó sẽ trở thành điều dễ nhất trên
thế giới.
Thực tế, là ai đó khác mới là điều gian nan nhất.
Cần có nỗ lực vô cùng để là ai đó khác. Thế nữa, thất
bại vẫn là chắc chắn. Người ta không bao giờ thành
công trong việc là ai đó khác. Điều đó là khổ. Đó là lí
do tại sao lại có nhiều thất bại thế khắp xung quanh.
Bạn không thấy nhiều thất bại thế trong cây cối trong
chim chóc, trong con vật đâu, bởi vì chúng không
mang tính chính trị.
Hay đôi khi trong một Phật, Mahavira, Moses,
Mohammed, bạn thấy việc nở hoa của bản tính tự
nhiên... tự phát, như con vật, hồn nhiên. Chỉ hiện hữu
- thượng đế đã có đó chờ đợi bạn rồi. Bình thản chút ít
đi; đừng vội vàng thế để đi đâu đó khác. Đừng bỏ lỡ
khoảnh khắc này, khoảnh khắc phúc lạc vô cùng này -
vui sướng trong nó. Hân hoan! Và để cho niềm vui
của bạn là lời cầu nguyện của bạn. Và để chỉ tĩnh
lặng, im lặng, chỉ hiện hữu, là việc thiền của bạn... và
thượng đế sẽ xô tới bạn.

Không ai cần tìm kiếm thượng đế, thượng đế
đang tìm bạn. Bạn chỉ cần im lặng, yên tĩnh, để cho
ngài có thể tìm thấy bạn. Bạn đang xô đi, chạy đi, còn
thượng đế lại cố gắng tìm bạn. Nhưng bạn chẳng bao
giờ được tìm thấy, bởi vì bạn không bao giờ trong
hiện tại. Tâm trí tham vọng sống trong tương lai, tâm
trí tôn giáo sống trong hiện tại. Tâm trí tôn giáo
không biết tới thời gian khác. Thời gian duy nhất của
ngài là bây giờ, không gian duy nhất của ngài là ở
đây. Bây giờ-ở đây! - để điều đó là câu mật chú của
bạn.
Nếu bạn bỏ lỡ bây giờ, bạn bao giờ cũng sẽ bỏ lỡ.
Nếu bạn bỏ lỡ ở đây, bạn sẽ bỏ lỡ ở kia. Để bây giờ-ở
đây là toàn thể mật chú của bạn. Nếu đây không phải
là mật chú của bạn thế thì thượng đế là không ở đâu
cả.
Swami Ram thường hay kể một câu chuyện đơn
giản về một người vô thần. Người đó là một giáo sư,
một người có học, rất logic, và người đó rất chống lại
thượng đế. Người đó đã viết trên tường nhà mình một
câu nhỏ để phủ nhận thượng đế: thượng đế là nowhere
(không ở đâu cả). Thế rồi một đứa trẻ được
sinh ra cho người đó, một đứa trẻ nhỏ, và đứa trẻ này
học đọc. 'Nowhere' là một từ quá lớn với nó, cho nên
nó chia từ đó thành hai. Nó đọc 'Thượng đế
là'...'nowhere' nó không thể đọc được; nó là từ quá
lớn, cho nên nó đọc, 'Thượng đế là now-here (bây
giờ-ở đây).'
Là đứa trẻ đó đi. Thượng đế là bây giờ-ở đây. Nếu
bạn không là đứa trẻ đó, thế thì thượng đế là không
đâu cả. Vâng, Jesus là phải khi ông ấy nói 'Chỉ những
người như trẻ nhỏ, chỉ họ mới có khả năng đi vào
trong vương quốc của thượng đế của ta.'
Câu hỏi thứ nhất
Khi bản thân cuộc sống đang thoả mãn thế, phúc
lạc thế, thì cái gì làm cho con người thành khổ?

Cuộc sống là việc tràn ngập, cuộc sống là phúc
lạc, nhưng con người đã đánh mất tiếp xúc với cuộc
sống. Con người đã trở nên quá tự ý thức. Việc tự ý
thức đó hoạt động như rào chắn, và người ta vẫn còn
sống, vậy mà không sống động thực sự. Tự ý thức là
bệnh tật.
Chim chóc hạnh phúc, cây cối hạnh phúc, mây và
sông hạnh phúc, nhưng chúng không tự ý thức. Chúng
đơn giản hạnh phúc. Chúng không biết rằng chúng
hạnh phúc.
Phật là hạnh phúc, Krishna là hạnh phúc, Christ là
hạnh phúc, nhưng họ là tâm thức thuần khiết. Họ là
hạnh phúc, nhưng họ không biết rằng họ là hạnh
phúc.
Có sự tương tự giữa tự nhiên vô ý thức và con
người siêu ý thức. Tự nhiên vô ý thức không có cái
ngã, con người siêu ý thức cũng không có cái ngã.
Con người ở ngay giữa. Con người không còn là con
vật, không còn là cây cối, không còn là tảng đá, và
chưa là vị phật. Việc treo ở giữa là khổ.
Mới hôm nọ một người tìm kiếm từ phương Tây
đã viết cho tôi bức thư nói: 'Osho ơi, tôi không muốn
trở thành sannyasin. Tôi không muốn trở thành siêu
phàm - Phật hay Christ. Tôi đơn giản muốn trở thành
con người thôi. Xin giúp tôi trở thành mỗi con người
thôi.'
Bây giờ, điều này cũng quá tham vọng, và là điều
không thể được. Chỉ là con người là điều không thể
được. Cố hiểu điều đó đi. Bởi vì điều đó nghĩa là bạn
đang nói 'Để tôi vẫn còn là quá trình này, để tôi ở giữa
đi.' Con người không phải là trạng thái, con người chỉ
là quá trình. Chẳng hạn nếu đứa trẻ nói, 'Con không
muốn thành thanh niên đâu, con không muốn thành
người già đâu. Để con vẫn là đứa trẻ,' có được không?
Nó đã trong việc trở thành thanh niên rồi, nó đang
trên đường. Tuổi thơ ấu không phải là trạng thái. Bạn
không thể vẫn còn trong nó, bạn không thể bám lấy
nó được. Nó là quá trình. Thời thơ ấu đang trôi qua,
thời thanh niên đang tới. Và thời thanh niên cũng trôi
qua như vậy. Dù bạn có cố gắng vất vả thế nào để vẫn còn trẻ trung, nỗ lực của bạn mang định mệnh thất
bại, bởi vì thời thanh niên đã chuyển vào tuổi già.
Bạn yêu cầu chỉ là con người. Bạn yêu cầu điều
không thể được. Bạn quá tham vọng rồi. Bạn có thể
trở thành vị phật. Điều đó đơn giản hơn. Bạn có thể
trở thành thượng đế, điều đó đơn giản hơn. Nhưng
yêu cầu rằng bạn sẽ vẫn còn là con người lại là điều
không thể được. Bởi vì nhân loại chỉ là bước chuyển
thôi, là cuộc hành trình, cuộc du hành, cuộc hành
hương. Nó là quá trình, không phải là trạng thái. Bạn
không thể vẫn còn là con người được. Nếu bạn cố
gắng vất vả để vẫn còn là con người, bạn sẽ trở thành
phi con người. Bạn sẽ bắt đầu sa ngã. Nếu bạn không
tiến lên trước, bạn sẽ bắt đầu tụt lại sau. Nhưng bạn sẽ
phải đi đâu đó. Bạn không thể vẫn còn tĩnh tại được.
Là con người đơn giản nghĩa là trên con đường
của việc là thượng đế chứ không gì khác. Thượng đế
là mục đích. Là con người là cuộc hành trình, con
đường. Con đường không bao giờ có thể là thường
hằng, nó không thể trở thành vĩnh hằng được. Bằng
không nó sẽ rất mệt mỏi. Mục đích sẽ không bao giờ
tới cả, và bạn sẽ chỉ trên cuộc hành trình, trên cuộc
hành trình, trên cuộc hành trình.
Hi vọng tức là con người. Nhưng hi vọng nghĩa là
hi vọng để vượt ra ngoài. Hi vọng nghĩa là ham muốn
vượt ra ngoài. Hi vọng nghĩa là hi vọng vượt qua, siêu
việt lên. Đây mới thực là trạng thái của con người -
rằng con người bao giờ cũng vượt qua, đi lên... đâu đó
khác là mục đích.
Người đã hỏi điều này phải là người hay. Thực tế,
đã sẵn sàng cho tính chất sannyas - nhưng người đó
không hiểu điều mình nói.
Con người khổ bởi vì con người phải khổ. Điều
đó không có gì là lỗi của bạn cả, không có gì giống
như bạn đang trong lỗi lầm nào đó. Là con người là
mang tính khổ, bởi vì là con người là đang ở giữa -
không ở đây không ở kia... treo ở tình trạng lấp lửng.
Đau khổ nảy sinh bởi vì sự căng thẳng.
Nhà này bị mất - ngôi nhà nơi chim chóc vẫn hót
vang, con vật vẫn đi lại, cây cối vẫn nở hoa - khu
vườn Địa đàng. Ngôi nhà đó bị mất. Adam đã bị biến
mất. Adam đã trở thành con người.
Khi Adam còn ở trong vườn Địa đàng anh ta là
con vật; anh ta đã không phải là Adam, anh ta đã
không phải là con người. Thượng đế đã tống anh ta ra
khỏi vườn. Chính việc đuổi ra đó trở thành loài người.
Con người bị đuổi khỏi nhà này để cho con người
có thể tìm kiếm nhà khác - lớn hơn, cao hơn, sâu sắc
hơn, vĩ đại hơn. Nhà này bị mất. Có nỗi buồn. Con
người muốn trở thành con vật. Rất khó quên vườn Địa
đàng đó; nó đẹp thế. Và có những khoảnh khắc chúng
ta trở thành tựa như con vật - trong giận dữ sâu sắc,
trong bạo hành, trong chiến tranh, chúng ta trở thành
tựa như con vật. Đó là thích thú của giận dữ.
Sao bạn cảm thấy hả lòng hả dạ thế trong giận
dữ? Sao bạn cảm thấy năng lượng xô tới thế để phá
huỷ cái gì đó? Sao trong thời chiến mọi người lại
trông rạng ngời hơn, lành mạnh hơn, sắc bén hơn,
thông minh hơn? - cứ dường như cuộc sống không còn là sự chán chường nữa. Điều gì đã xảy ra? Con
người sa ngã xuống. Cho dù vài ngày, vài tháng, con
người lại là con vật. Thế thì người đó không biết tới
luật pháp, thế thì người đó không biết tới nhân loại,
thế thì người đó không biết tới thượng đế. Thế thì
người đó đơn giản đi... vứt bỏ tự ý thức của mình, trở
thành vô ý thức; kẻ giết người, sát hại, hãm hiếp - mọi
thứ đều được phép trong chiến tranh.
Đó là lí do tại sao con người cần chiến tranh liên
tục. Sau mỗi mười năm lại cần tới một cuộc chiến
tranh lớn, và chiến tranh nhỏ phải được tiếp diễn liên
tục. Bằng không sẽ khó cho con người sống.
Con người trở thành người say, trở thành người
nghiện ma tuý. Qua thuốc hoá chất, con người cố
gắng giành lấy ngôi nhà bị mất, thiên đường bị mất.
Khi bạn dưới ảnh hưởng của LSD, bạn quay trở lại
trong vườn Địa đàng - từ cửa sau; LSD là cửa sau của
vườn Địa đàng. Cuộc sống lại dường như phiêu diêu,
mầu sắc; cây cối lại trông chói sáng như chúng phải
đã được Adam và Eve nhìn thấy, như chúng phải đã
được con chim cúc cu và con hổ và con khỉ nhìn thấy
ngay bây giờ. Mầu lục có sự chói sáng trong nó. Mọi
thứ đều trông đẹp thế. Bạn không còn là con người
nữa. Bạn đã tụt lùi lại. Bạn đã buộc bản thể mình tụt
lùi lại. Do đó sự hấp dẫn vô cùng mới tồn tại cho
nước giải khát có cồn.
Ngay từ chính lúc ban đầu của lịch sử con người,
con người đã từng dùng ma tuý. Vào thời Vedas họ đã
gọi nó là soma, bây giờ họ gọi nó là LSD. Nhưng nó
không phải là thứ khác. Đôi khi nó là ganja, bhang,
bây giờ nó là marijuana và những thứ khác, nhưng nó
vẫn là cùng trò chơi cũ.
Về mặt hoá chất có thể tụt lùi lại, nhưng bạn
không thể thực sự đi lùi được. Không có đường đi lùi;
thời gian không cho phép điều đó. Người ta phải đi
tiếp.
Bạn không thể đi ngược lại theo thời gian được.
Bánh răng ngược không tồn tại. Khi Ford làm chiếc
xe hơi đầu tiên, đã không có bánh răng ngược. Chỉ
mãi về sau họ mới nghĩ rằng rất khó quay trở về nhà.
Bạn phải lấy chỗ rẽ dài, nhiều dặm không cần thiết;
thế rồi bạn mới có thể về nhà. Thế rồi bánh răng
ngược được thêm vào như một ý nghĩ muộn mằn.
Nhưng vào thời xưa, thượng đế lại chưa thêm vào
báng răng ngược; bạn không thể đi ngược được.
Con người đã mơ ước về điều đó, đã mơ màng
viển vông về điều đó. Đã có những chuyện viễn tưởng
khoa học mà trong đó con người có thể đi ngược lại
thời gian. H. G. Wells có một ý tưởng về máy thời
gian. Hừ? bạn ngồi trong cái máy đó và bạn ấn vào
bánh răng ngược và bạn bắt đầu đi ngược về trước.
Bạn là thanh niên, bạn trở thành trẻ con, rồi bạn trở
thành đứa trẻ mới sinh, rồi bạn trong bụng mẹ. Bạn
bắt đầu đi ngược. Nhưng chẳng máy thời gian nào tồn
tại cả. Nó chỉ tồn tại trong tâm trí nhà thơ, trong mơ
màng viển vông mà thôi.
Đi ngược lại là không thể được. Chỉ có một khả
năng thôi - tiến lên trước.
Con người phải vẫn còn trong khổ sở. Chỉ có hai
con đường - hoặc làm cho việc đi ngược thành có thể, hoặc đi vượt ra ngoài nhân loại. Nhân loại là cây cầu.
Bạn không thể làm nhà trên nó được. Nó phải được đi
qua. Nó không định dành cho sống ở đó.
Khi hoàng đế Mông Cổ người Mô ha mét giáo
Akbar, làm ra một thành phố đặc biệt, Fatehpur
Sikari, ông ta yêu cầu những người trí huệ tìm ra cái
gì đó, câu châm ngôn để đặt lên đỉnh cây cầu nối
thành này với thế giới. Họ đã nhìn, họ đã tìm và họ
thấy lời của Jesus. Nó không tồn tại trong Kinh
Thánh; nó phải đã tới từ nguồn khác nào đó, từ Sufis.
Có nhiều người Sufis ở triều đình của Akbar. Câu
châm ngôn là: Thế giới này giống như cây cầu - đừng
làm nhà bạn trên nó. Câu châm ngôn này vẫn còn đó
trên cây cầu này. Đó là cách nó vậy đấy.
Nhân loại là cây cầu. Đừng cố gắng chỉ là con
người, bằng không bạn sẽ trở thành phi con người.
Thử trở thành siêu nhân; đó là cách duy nhất để là con
người. Thử trở thành thượng đế; đó là cách duy nhất
để là con người. Không có cách khác. Có mục đích ở
đâu đó trên các vì sao, chỉ thế thì bạn mới lớn lên.
Và con người là một hiện tượng phát triển, một
quá trình. Nếu bạn không có mục đích nào, trưởng
thành dừng lại. Thế thì bạn bị mắc kẹt, thế thì bạn trở
thành tù đọng và cũ rích. Đó là điều đã xảy ra cho
hàng triệu người trên thế giới này. Cứ nhìn vào khuôn
mặt họ mà xem - họ trông như những kẻ sống dở chết
dở, cứ dường như họ đang ngủ hay đang bị đánh
thuốc ngủ, đờ ra.
Điều gì đang xảy ra cho trái tim của những người
này? Họ không biểu lộ tươi tắn nào, sống động nào,
không trào ra cuộc sống, không ngọn lửa... đờ đẫn.
Điều gì đang xảy ra cho họ? Họ đã bỏ lỡ cái gì đó. Họ
đang bỏ lỡ cái gì đó. Họ không làm cái mà họ đã được
làm ra để làm, họ không hoàn thành định mệnh đáng
phải được hoàn thành.
Con người ở đây là để trở thành siêu nhân. Để
siêu nhân là mục đích của bạn đi. Chỉ thế thì bạn mới
có khả năng là con người, và thoải mái.
Bạn càng biến đổi thành siêu nhân, bạn sẽ càng
thấy mình không khổ, không trong lo âu. Nụ chẳng
mấy chốc sắp tới, sẽ có hân hoan vô cùng. Chẳng mấy
chốc sẽ có nở hoa. Bạn có thể chờ đợi, bạn có thể hi
vọng, bạn có thể mơ mộng.
Khi bạn không đi đâu cả, khi bạn đang cố gắng
chỉ là con người thôi, thế thì dòng sông đã dừng chảy.
Thế thì dòng sông không đi tới đại dương. Bởi vì đi
tới đại dương nghĩa là có ham muốn trở thành đại
dương. Bằng không thì sao phải đi tới đại dương? Đi
tới đại dương nghĩa là hội nhập vào trong đại dương,
trở thành đại dương.
Thượng đế là mục đích. Bạn có thể là con người
chỉ nếu bạn cứ làm mọi nỗ lực, mọi nỗ lực có thể có
để trở thành điều thiêng liêng. Trong chính những nỗ
lực đó, tính con người của bạn sẽ bắt đầu sáng lên.
Trong chính những nỗ lực đó, bạn sẽ trở nên sống
động.
Khi bản thân cuộc sống là sự đáp ứng thế...
Cuộc sống đang đáp ứng, nhưng bạn không trong
tiếp xúc với cuộc sống. Mối tiếp xúc cũ bị mất rồi,
mối tiếp xúc mới vẫn chưa được tạo ra. Bạn đang
trong chuyển biến, do đó bạn đờ đẫn thế, do đó cuộc sống có vẻ tẻ nhạt thế, buồn bã, đáng chán thế - thậm
chí còn vô ích nữa.
Jean-Paul Sartre nói: Con người là niềm đam mê
vô dụng - niềm đam mê vô tích sự, bất lực, làm ồn ào
không cần thiết về cuộc sống, và chẳng có gì trong nó
cả... vô nghĩa là cuộc sống. Bạn càng trở nên bị khép
kín trong cái ngã của mình, cuộc sống càng trở nên vô
nghĩa. Thế thì bạn khổ. Thế thì khổ có cái giá phải trả
nào đó.
Khi bạn hạnh phúc bạn là bình thường, bởi vì
hạnh phúc chính là tự nhiên. Khổ mới trở thành phi
thường. Chẳng có gì đặc biệt trong hạnh phúc cả - cây
cối hạnh phúc, chim chóc hạnh phúc, con vật hạnh
phúc, trẻ con hạnh phúc. Cái gì đặc biệt trong đó nào?
Đó chỉ là điều thông thường trong sự tồn tại. Sự tồn
tại được làm từ chất liệu được gọi là hạnh phúc. Nhìn
xem! - bạn không thể thấy những cây này sao?... hạnh
phúc thế. Bạn không thể thấy chim chóc đang hót
sao?... hạnh phúc thế. Hạnh phúc chẳng có gì đặc biệt
trong nó cả. Hạnh phúc là điều rất bình thường.
Là phúc lạc chính là tuyệt đối bình thường. Cái
ngã, bản ngã, không cho phép điều đó. Đó là lí do tại
sao mọi người nói quá nhiều về khổ của họ. Họ trở
nên đặc biệt chỉ bởi việc nói về những khổ sở của
mình. Mọi người cứ nói về bệnh tật của họ, đau đầu
của họ, đau dạ dầy, cái này cái nọ của họ. Tất cả mọi
người đều bị chứng nghi bệnh theo cách này khác. Và
nếu ai đó không tin vào khổ của bạn, bạn cảm thấy bị
tổn thương. Nếu ai đó thông cảm với bạn và tin vào
khổ của bạn - ngay cả trong lời nói phóng đại của bạn
về điều đó - bạn cảm thấy rất sung sướng. Đây là cái
gì đó ngu xuẩn, nhưng phải được hiểu.
Khổ làm cho bạn thành đặc biệt. Khổ làm cho bạn
bản ngã nhiều hơn. Người khổ có thể có bản ngã được
tập trung nhiều hơn người hạnh phúc. Người hạnh
phúc thực sự không thể có bản ngã được, bởi vì một
người trở nên hạnh phúc chỉ khi không có bản ngã.
Càng nhiều vô ngã, càng nhiều hạnh phúc; càng nhiều
hạnh phúc, càng nhiều vô ngã. Bạn tan biến vào trong
hạnh phúc. Bạn không thể tồn tại cùng với hạnh phúc
được; bạn chỉ tồn tại khi có khổ. Trong hạnh phúc có
tan biến.
Bạn đã bao giờ thấy khoảnh khắc hạnh phúc nào
không? có quan sát nó không? Trong hạnh phúc, bạn
không có. Khi bạn đang trong tình yêu, bạn không có.
Nếu tình yêu đã tạo ra chỗ trú ngụ của nó trong lòng
bạn, cho dù vài khoảnh khắc thôi, bạn không có. Khi
bạn thấy mặt trời lên đẹp, hay đêm đầy trăng, hay cái
hồ im lặng, hay bông sen, bỗng nhiên bạn không có.
Khi có cái đẹp, bạn không có. Khi có tình yêu, bạn
không có.
Nghe ai đó, nếu bạn cảm thấy chân lí, bạn đơn
giản biến mất trong khoảnh khắc đó. Bạn không có,
chân lí hiện hữu. Bất kì khi nào có cái gì đó của cõi
bên kia, bạn đều không có; bạn phải tạo ra không gian
cho nó chứ. Bạn chỉ có khi có khổ sở. Bạn chỉ có khi
có dối trá. Bạn chỉ có khi có cái gì đó sai. Bạn chỉ có
khi giầy không vừa.
Khi giầy vừa hoàn hảo, bạn không có. Khi giầy
vừa hoàn hảo bạn quên mất chân, bạn quên mất giầy.
Khi không có đau đầu thì không có đầu. Nếu bạn muốn cảm thấy đầu mình, bạn sẽ cần đau đầu, đó là
cách duy nhất.
Có đấy là khổ. Hạnh phúc là không có đấy. Đó là
lí do tại sao Phật nói không có cái ngã. Ông ấy đang
tạo ra con đường cho bạn trở nên tuyệt đối phúc lạc.
Ông ấy đang nói sẽ không có cái ngã để cho bạn có
thể vứt bỏ nó. Dễ dàng vứt bỏ cái gì đó khi nó không
có. Dễ dàng vứt bỏ cái gì đó khi bạn hiểu rằng nó
không có, nó chỉ là tưởng tượng.
Một hôm Mulla Nasruddin kể cho bạn trong quán
rượu về gia đình mình. 'Chín thằng nhóc,' anh ta nói,
'và tất cả đều tốt ngoại trừ mỗi Abdul. Nó đã học đọc.'
Bây giờ khi một người học đọc, khó khăn nảy
sinh; bây giờ cái ngã đang nảy sinh. Ở thôn làng, mọi
người hạnh phúc hơn. Họ gần con vật hơn trong các
thành phố lớn - họ còn ở xa xôi. Trong các xã hội
nguyên thuỷ, các thổ dân còn hạnh phúc hơn. Họ gần
với cây cối và tự nhiên hơn ở London, Tokyo,
Bombay, New York. Cây cối đã biến mất, chỉ có các
con đường trải nhựa - tuyệt đối giả dối - các toà nhà
bê tông, toàn nhân tạo.
Thực tế, nếu bỗng nhiên ai đó từ không gian bên
ngoài mà tới Bombay, New York, Tokyo, London,
người đó sẽ không tìm thấy dấu hiệu nào của thượng
đế ở đó. Tất cả đều nhân tạo. Nhìn vào Tokyo hay
Bombay, người ta sẽ nghĩ con người đã làm ra thế
giới này. Những toà nhà bê tông này, những con
đường trải nhựa này, công nghệ này - tất cả đều nhân
tạo. Bạn càng đi xa hơn khỏi tự nhiên, bạn càng đi xa
hơn khỏi hạnh phúc... bạn ngày càng học nhiều để
đọc.
Thượng đế đã đuổi Adam bởi vì anh ta đã ăn từ
cây tri thức - anh ta đã bắt đầu học đọc. Ngài đã tống
anh ta ra - anh ta đã trở nên thông thái. Con người
nhất định sẽ khổ hơn nếu con người thông thái hơn.
Khổ này bao giờ cũng theo đích xác tỉ lệ với thông
thái của bạn.
Thông thái không phải là biết. Biết mang tính hồn
nhiên; thông thái mang tính tinh ranh. Rất khó cho
người có giáo dục không tinh ranh. Điều đó gần như
là không thể được, bởi vì toàn thể việc huấn luyện là
để tinh ranh. Huấn luyện là về logic, không về tình
yêu. Và huấn luyện là vì hoài nghi, không vì tin cậy.
Và huấn luyện là để mang tính nghi ngờ, không để
mang tính tin cậy. Và huấn luyện là ở chỗ mọi người
đều cố gắng lừa bạn, cho nên hãy nhận biết. Và trước
khi ai đó khác cố gắng lừa bạn, hãy lừa đi - bởi vì đó
là cách duy nhất để được bảo vệ.
Machiavelli nói: cách tốt nhất để tự bảo vệ mình
là hung hăng. Bạn thấy đấy, tất cả các chính phủ trên
thế giới đều gọi tổ chức quân sự của mình, quân đội,
là 'quốc phòng'. Họ tất cả đều là cách bố trí để tấn
công - họ gọi nó là 'quốc phòng'. Ngay cả Hitler cũng
đã gọi quân đội của mình là 'quốc phòng'. Trong suốt
nhiều thời đại không ai đã từng nói, 'Tôi tấn công
đấy.' Họ nói, 'Chúng ta phòng thủ.' Họ tất cả đều theo
Machiavelli. Họ tất cả đều kính trọng Mahavira,
Mohammed, Moses, và họ tất cả đều theo
Machiavelli. Khi có liên quan tới kính trọng, đi tới đền chùa, đọc Kinh Thánh. Nhưng khi có liên quan
tới cuộc sống thực tế, đọc Hoàng tử, đọc Machiavelli,
đọc Chanakya.
Ở Delhi, thủ đô của Ấn Độ nơi các chính khách
sống, họ gọi nó là Chanakya Puri - thành phố của
Machiavelli. Chanak là người Ấn Độ tương ứng với
Machiavelli, thậm chí còn nguy hiểm hơn
Machiavelli. Một người càng trở nên được giáo dục,
càng mang tính chất Machiavelli nhiều hơn, tinh ranh.
Khi cuốn sách Hoàng tử của Machiavelli được
xuất bản, ông ấy cho rằng tất cả các vua chúa châu Âu
sẽ mời ông ấy, và ông ấy sẽ được tôn lên vị trí cao
như cố vấn cho vua nào đó. Nhưng chẳng ai mời ông
ấy cả. Cuốn sách được đọc, cuốn sách được theo,
nhưng không ai mời Machiavelli cả. Ông ấy ngạc
nhiên. Ông ấy dò hỏi. Thế rồi ông ấy đi tới biết rằng
đọc cuốn sách của ông ấy họ đã trở nên sợ ông ấy.
Ông ấy tinh ranh đến mức trao cho ông ấy địa vị quan
trọng là nguy hiểm. Nếu ông ấy mà theo cuốn sách
của mình, ông ấy sẽ phá huỷ, ông ấy sẽ lật đổ nhà
vua. Chẳng chóng thì chầy ông ấy sẽ trở thành vua.
Ông ấy đã sống cuộc sống của người nghèo, ông ấy
không bao giờ có thể đi vào bất kì địa vị quyền lực
nào.
Giáo dục làm bạn thành tinh ranh hơn. Tất nhiên,
giáo dục làm cho bạn khổ hơn. Mang tính tôn giáo là
lau sạch tất cả những cái vô nghĩa này. Mang tính tôn
giáo nghĩa là học cách tháo dỡ, cách hoàn tác giáo dục
bản thân bạn lần nữa. Bất kì cái gì thế giới đã huấn
luyện bạn, bạn đều phải tháo dỡ nó ra. Bằng không
bạn đang bị bắt giữ. Con người khổ bởi vì con người
bị mắc vào mạng lưới riêng của mình. Con người phải
thoát ra khỏi nó - và chỉ ngôi sao xa xăm mới có ích.
Có thể không có thượng đế. Tôi không lo nghĩ về
nó. Nhưng bạn cần thượng đế, ngôi sao xa xăm để đi
tới. Có thể đến lúc bạn đạt tới đó thì bạn sẽ không tìm
thấy thượng đế đâu, nhưng bạn sẽ trở thành thượng đế
vào lúc đó. Đạt tới ngôi sao đó, bạn sẽ trưởng thành.
Con người bị khổ bởi vì con người đã học thủ
đoạn để khổ. Bản ngã là cơ sở của nó. Con người khổ
bởi vì phúc lạc, hạnh phúc, là sẵn có hiển nhiên thế -
điều đó tạo ra rắc rối.
Lần đầu tiên tôi gặp Mulla Nasruddin đã xảy ra
như thế này: tôi thấy anh ấy đang câu cá trên hồ. Tôi
chưa nghe nói về anh ấy. Tôi quan sát anh ấy. Hàng
giờ trôi qua, chẳng được con cá nào. Tôi hỏi anh ấy,
'Anh làm gì ở đây thế này? Ngay cạnh đó là một cái
hồ khác, mà anh không biết à? - có nhiều cá ở đó lắm.'
Anh ta nói, 'Tôi biết chứ. Có nhiều cá trong cái hồ
đó tới mức thậm chí chúng khó mà bơi được. Hồ đầy
những cá.'
'Nhưng thế thì sao anh lại vẫn ngồi đây? Tôi
chẳng thấy con cá nào cả.'
Anh ấy nói, ‘Đó là lí do tại sao tôi lại ngồi đây.
Phỏng có ích gì mà đi câu cá ở cái hồ kia? Bất kì kẻ
ngốc nào cũng có thể làm được điều đó. Câu cá ở đây
mới là cái gì đó chứ!' 

Bản ngã cứ đi câu cá ở cái hồ không có cá. Điều
hiển nhiên, điều sẵn có, không mang tính hấp dẫn. Đó
là lí do tại sao chúng ta bỏ lỡ thượng đế. Thượng đế là
có sẵn, thượng đế là chính xung quanh bạn. Ngài là
chính bầu khí quyển mà chúng ta đang thở vào thở ra.
Ngài chính là cuộc sống của chúng ta. Ngài là đại
dương mà trong đó chúng ta sống, được sinh ra, và sẽ
tan biến đi. Nhưng ngài gần thế, không khoảng cách.
Làm sao cảm thấy ngài?
Quan sát điều đó trong cuộc sống riêng của bạn
đi. Bất kì cái gì bạn có cũng đều làm mất mối quan
tâm với bạn. Bạn có ngôi nhà đẹp. Nó đẹp chỉ cho
hàng xóm của bạn thôi, không đẹp cho bạn. Bạn có
chiếc xe đẹp. Nó là đẹp chỉ cho người khác những
người không có xe, nó không đẹp cho bạn. Bạn có
người đàn bà đẹp hay người đàn ông đẹp - điều đó
không tạo ra hấp dẫn gì. Bạn có nó, thế là đủ. Mọi
người bị hấp dẫn chỉ vào cái họ không có. Cái không
tồn tại mới hấp dẫn.
Tôi đã nghe:
'Này, Ramon,' Mulla Nasruddin nói, khi họ gặp
nhau trên phố một ngày nào đó, 'tớ có ý định hỏi cậu
đôi điều.'
'Hỏi đi, Mulla,' bạn anh ta nói.
'Vợ tớ là một loại phẳng tẹt. Thực tế khi cô ấy cởi
thắt lưng của cô ấy ra vào ban đêm cô ấy là một giọt
nước lớn. Vợ cậu có giống thế không?' Nasruddin hỏi.
'À, không. Vợ tớ có thân hình lộng lẫy. Thực tế cô
ấy thon thả thế cô ấy không mặc đồ lót nào, và cô ấy
mới thực là cừ khôi,' Ramon đáp.
'Được,' Nasruddin tiếp tục, 'vợ tớ xấu thế, cô ấy
sơn phết khuôn mặt mình vào lúc đi ngủ bằng kem và
phấn. Vợ cậu có làm điều đó không?'
'À, không. Vợ tớ không cần kem phấn gì cả, và
tóc cô ấy mới tuyệt chứ,' người bạn đáp.
'Này, Ramon, tớ chỉ còn một câu hỏi nữa. Làm
sao mà cậu lại săn đuổi được vợ cậu?' Nasruddin hỏi.
Đó là cách thức của bản ngã - bao giờ cũng săn
đuổi vợ của ai đó khác, bao giờ cũng săn đuổi cái gì
đó mà bạn không có. Một khi bạn có rồi, mọi mối
quan tâm mất đi.
Cho nên người bản ngã vẫn còn khổ, bởi vì để
hạnh phúc người ta phải hạnh phúc với cái người ta
có. Bạn không thể hạnh phúc với cái bạn không có;
bạn chỉ có thể bất hạnh với cái đó. Bạn có thể hạnh
phúc chỉ với cái bạn có. Làm sao bạn có thể hạnh
phúc với cái mà bạn không có? Và bản ngã bao giờ
cũng quan tâm chỉ với cái mà bạn không có.
Bạn có mười nghìn ru pi - bản ngã không còn
quan tâm tới nó nữa. Nó quan tâm tới hai mươi nghìn.
Đến lúc bạn có hai mươi nghìn, nó không còn quan
tâm tới điều đó nữa. Nó chỉ quan tâm tới ba mươi
nghìn. Và cứ thế, cứ thế... điều đó cứ tiếp diễn.
Bản ngã chỉ cho bạn mục đích, nhưng bất kì khi
nào những mục đích đó tới, nó lại không cho phép bạn mở hội. Người ta trở nên ngày một khổ hơn! Khi
cuộc sống trôi qua, chúng ta cứ thu thập lấy khổ,
chúng ta cứ chồng chất khổ. Và rất khó để nhận ra
điều này - rằng bạn là nguyên nhân cho khổ của riêng
mình; điều đó chống lại bản ngã. Cho nên bạn đổ
trách nhiệm lên người khác.
Nếu bạn khổ bạn nghĩ xã hội là như vậy, cha mẹ
bạn đã sai. Nếu bạn nghe những người theo Freud, họ
sẽ nói điều đó là vì cha mẹ bạn, huấn luyện của cha
mẹ bạn. Nếu bạn nghe những người theo Marx, họ sẽ
nói đấy là vì cấu trúc xã hội, vì xã hội. Nếu bạn nghe
theo các chính khách, họ nói bởi vì đó là kiểu chính
phủ sai. Nếu bạn nghe các nhà giáo dục, họ nói bởi vì
kiểu giáo dục nào đó khác là cần.
Không ai nói rằng bạn chịu trách nhiệm cả - trách
nhiệm được đổ lên người khác. Thế thì không thể nào
hạnh phúc được, bởi vì nếu người khác đang làm cho
bạn khổ, thế thì hạnh phúc là ở ngoài bạn rồi - trừ phi
toàn thế giới thay đổi theo bạn.
Bây giờ khó mà chọn được cha mẹ bạn. Điều đó
đã xảy ra rồi. Làm gì đây?
Ai đó hỏi Mark Twain, 'Người ta cần cái gì để
được thực sự hạnh phúc?'
Ông ấy nói, 'Điều đầu tiên là ở chỗ người ta phải
chọn cha mẹ cho đúng.'
Bây giờ điều đó là không thể được, nó đã xảy ra
rồi. Bạn không thể chọn được cha mẹ mình bây giờ.
Người ta phải chọn xã hội đúng. Nhưng bạn bao giờ
cũng trong xã hội rồi. Bạn không chọn nó. Bạn bao
giờ cũng ở giữa nó rồi. Và nếu bạn muốn tạo ra nó
cho ham muốn của trái tim mình, toàn thể cuộc sống
của bạn sẽ bị phí hoài. Và điều đó sẽ không bao giờ
thay đổi được bởi vì nó là hiện tượng lớn thế, và bạn
lại tí hon thế.
Niềm hi vọng duy nhất của bất kì biến đổi nào là
ở chỗ bạn có thể thay đổi bản thân mình. Đó là niềm
hi vọng duy nhất, không có hi vọng khác.
Nhưng bản ngã không muốn nhận trách nhiệm.
Nó cứ đổ trách nhiệm lên người khác. Trong việc đổ
trách nhiệm lên người khác, bạn đang ném đi tự do
của mình nữa, nhớ lấy. Chịu trách nhiệm là được tự
do. Trao trách nhiệm cho ai đó khác là thành tù nhân.
Đó là quan điểm tôn giáo. Tôn giáo nói bạn chịu
trách nhiệm. Đó là lí do tại sao Marx chống lại tôn
giáo nhiều thế. Lập luận của ông ấy là rõ ràng. Ông ấy
biết điều đó rất rõ - rằng hoặc tôn giáo có thể tồn tại
trên thế giới hoặc chủ nghĩa cộng sản. Cả hai không
thể cùng tồn tại. Và ông ấy phải: cả hai không thể
cùng tồn tại được. Tôi cũng đồng ý với ông ấy.
Chọn lựa của chúng tôi là khác nhau. Tôi muốn
tôn giáo tồn tại, ông ấy muốn chủ nghĩa cộng sản tồn
tại, nhưng chúng tôi đồng ý rằng cả hai không thể
cùng tồn tại được. Bởi vì toàn thể quan điểm của chủ
nghĩa cộng sản là ở chỗ người khác chịu trách nhiệm
cho khổ của bạn. Và quan điểm tôn giáo là ở chỗ
ngoại trừ bạn, không ai khác chịu trách nhiệm cả.
Người cộng sản nói cách mạng xã hội là cần cho thế giới hạnh phúc. Người tôn giáo nói cách mạng cá
nhân là cần để là con người hạnh phúc.
Thế giới này không bao giờ sẽ hạnh phúc, nó
chưa bao giờ như vậy, và nó không bao giờ sẽ như
vậy. Thế giới này nhất định là bất hạnh, chỉ cá nhân
mới có thể hạnh phúc được. Nó là cái gì đó cá nhân.
Nó cần có ý thức để hạnh phúc. Nó cần sự mãnh
liệt để hạnh phúc. Nó cần nhận biết để hạnh phúc. Thế
giới không bao giờ có thể hạnh phúc được bởi vì nó
không có nhận biết. Xã hội không có linh hồn, chỉ con
người mới có. Nhưng rất khó cho bản ngã chấp nhận
điều này.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin làm cho cuộc sống thành rất khó
khăn cho các bạn đồng liêu của mình vì anh ta tin anh
ta không thể nào sai lầm được. Chung cuộc một trong
các công nhân của anh ta nói toạc ra. 'Nasruddin,' anh
ta nói, 'anh có chắc chắn không sai tất cả mọi lần
không?'
'Có một lần tôi sai,' Mulla thú nhận.
'Khi nào thì có điều đó?' người công nhân ngạc
nhiên hỏi. Anh ta không thể nào tin nổi rằng
Nasruddin lại đã thú nhận rằng anh ta đã sai, cho dù
một lần. Anh ta không thể nào tin được vào tai mình.
Anh ta nói, 'Khi nào thì có điều đó?'
'Một lần thôi,' Mulla Nasruddin nhớ lại, 'khi tôi
nghĩ tôi là sai, nhưng thực sự thì không.'
Bản ngã cực kì mang tính phòng thủ. Bản ngã
không bao giờ sai, do đó bạn mới khổ. Bản ngã bao
giờ cũng không thể sai được, do đó bạn mới khổ.
Bắt đầu nhìn vào những lỗ hổng đi. Làm cho bản
ngã của bạn có thể sai - và nó sẽ rơi rụng và biến mất.
Đừng hỗ trợ cho nó, bằng không bạn đang hỗ trợ cho
khổ riêng của mình đấy. Nhưng chúng ta cứ hỗ trợ
cho nó. Theo cách tốt, theo cách xấu, chúng ta cứ hỗ
trợ cho nó.
Bạn gọi ai đó là người tốt, người đạo đức, người
rất đáng kính. Người đó có hỗ trợ và ủng hộ riêng của
mình cho bản ngã mình. Người đó cứ đi tới đền chùa
mọi ngày, tới nhà thờ, đọc Kinh Thánh hay Gita, tuân
theo luật lệ của xã hội. Nhưng người đó đang cố gắng
tìm chỗ ủng hộ cho bản ngã của mình - người đó là
người tôn giáo, người đáng kính, người đạo đức.
Thế rồi có ai đó khác người không bao giờ tuân
theo qui tắc của xã hội - không bao giờ đi nhà thờ. Bất
kì khi nào người đó tìm ra cơ hội để phá vỡ mọi luật
lệ, người đó đều thích thú việc đó. Người đó tận
hưởng một loại bản ngã khác - bản ngã của tội đồ, bản
ngã của người vô đạo đức. Người đó nói, 'Tôi không
quan tâm.' Nhưng cả hai đều đang tìm sự hỗ trợ cho
cùng một điều khổ. Cả hai sẽ trong khổ sở.
Khi Muldoon bước đi trên phố, anh ta cấu véo
người đàn bà lạ đằng sau, ném gạch vào tủ kính cửa
hiệu đồ châu báu, và chửi rủa một bà già đáng thương.
'Điều đó là đủ rồi!' anh ta tự nhủ mình. 'Khi mình đi
xưng tội mình sẽ có đủ điều để nói.' 

Ngay cả khi mọi người đi xưng tội, họ cũng
không muốn thú nhận những tội nhỏ - chúng không
xứng đáng để xưng tội. Đây là kinh nghiệm của nhiều
tu sĩ thuộc nhiều tôn giáo - rằng mọi người phóng đại
tội lỗi của mình lên. Khi họ tới xưng tội, họ nói quá
lên. Họ có thể đã giết một con kiến và họ nghĩ họ đã
giết con voi. Họ phóng đại lên, bởi vì làm những điều
nhỏ bé thế không thoả mãn cho bản ngã.
Con đường của bản ngã rất tinh vi. Nếu bạn vào
nhà tù và bạn nghe câu chuyện của những người bị
giam ở đó, bạn sẽ ngạc nhiên. Họ tất cả đều ba hoa
rằng họ đã làm nhiều vụ cướp thế, và họ đã giết nhiều
người thế. Họ có thể chưa làm chút nào, nhưng ở đó -
đó là cách thức của bản ngã. Thế rồi bạn khổ, và thế
rồi bạn trở nên lo nghĩ. Tại sao? Bạn tạo ra rào chắn
giữa bạn và cuộc sống. Bản ngã không là gì ngoài rào
chắn.
Khi tôi nói vứt bỏ bản ngã tôi ngụ ý vứt bỏ tất cả
mọi lằn ranh. Bạn không tách rời khỏi cuộc sống, bạn
là một phần của nó... Giống như sóng, bạn là một
phần của đại dương. Bạn không tách rời chút nào. Là
thánh nhân bạn không tách rời, là tội nhân bạn cũng
không tách rời. Bạn không tách rời chút nào. Bạn là
một với cuộc sống. Bạn không phụ thuộc vào cuộc
sống, bạn không độc lập với cuộc sống - bạn là liên
thuộc.
Khi bạn hiểu rằng chúng ta tất cả đều liên thuộc,
được nối với nhau... Cuộc sống là một; chúng ta chỉ là
biểu hiện của nó... thế thì bạn bắt đầu trở nên phúc
lạc. Thế thì không ai có thể ngăn cản được bạn khỏi
phúc lạc.
Phúc lạc là rất hiển nhiên. Phúc lạc là rất gần gũi.
Phúc lạc là tự nhiên và gần gũi tới mức tâm trí có xu
hướng quên mất nó. Mọi đứa trẻ được sinh ra đều
trong trạng thái phúc lạc, và mọi người - gần như mọi
người - đều chết đi trong khổ vô cùng. Chỉ hiếm khi
mới có ai đó - một Phật, một Jesus - chết đi trong
trạng thái phúc lạc. Điều gì xảy ra? Điều gì đi sai?
Khi đứa trẻ được sinh ra nó không tách rời. Khi
đứa trẻ ở trong bụng mẹ nó là một phần của người
mẹ, nó không tồn tại tách biệt. Thế rồi nó được sinh ra
- thế nữa nó vẫn còn là một phần của người mẹ. Nó
được người mẹ nuôi dưỡng. Thế rồi nó cứ quanh quẩn
bên mẹ. Thế rồi, dần dần, nó lớn lên.
Việc lớn lên này có thể có hai kiểu. Nếu nó lớn
lên như người bình thường lớn lên, thế thì nó lớn lên
trong bản ngã, nó trở thành cứng rắn, nó tụ tập vỏ
cứng quanh bản thân mình, và điều đó sẽ làm cho nó
khổ. Đó không phải là con đường đúng để lớn lên. Cái
gì đó đã chua ra, cái gì đó đã đi sai.
Với tôi, nếu người mẹ mang tính tôn giáo, nếu
người cha mang tính tôn giáo, nếu gia đình mang tính
tôn giáo... và khi tôi nói tính tôn giáo, tôi không ngụ ý
rằng họ là người Ki tô giáo hay Mô ha mét giáo hay
Jaina giáo hay Phật giáo - cái đó chẳng liên quan gì
tới tôn giáo cả. Thực tế, tất cả những điều này chưa
bao giờ cho phép tôn giáo tiến hoá. Nếu đứa trẻ bị ép
buộc vào một giáo điều, vào một ý thức hệ giáo điều,
thế thì bản ngã sẽ tụ lại, thế thì bản ngã sẽ trở thành
người Ki tô giáo, và bản ngã sẽ chống lại người Hindu và chống lại người Mô ha mét giáo. Thế thì
bản ngã sẽ trở thành người Hindu, và sẽ chống lại
người Ki tô giáo và chống lại người Mô ha mét giáo.
Nhưng nếu ngôi nhà thực sự mang tính tôn giáo -
với tôn giáo tôi ngụ ý tính thiền, yêu thương - chúng
giúp cho đứa trẻ hiện hữu, nhưng dầu vậy không có
bản ngã. Chúng giúp cho đứa trẻ càng ngày càng cảm
thấy sự gần gũi, sự thống nhất đang tồn tại. Đứa trẻ
phải được giúp đỡ; đứa trẻ bất lực, nó không biết nó ở
đâu, nó không biết nó đang đi đâu. Nếu nó được yêu
và có nhịp điệu thiền trong gia đình và gia đình rung
động với im lặng, hiểu biết, thì đứa trẻ sẽ bắt đầu lớn
lên theo cách hữu cơ hơn. Nó sẽ không cảm thấy
mình tách rời, nó sẽ bắt đầu học cách trở thành một
phần.
Điều đó đã không xảy ra. Tôi không bảo bạn có
mối ác cảm nào về nó - nhưng bạn có thể làm điều đó
ngay bây giờ. Bạn có thể dừng giúp đỡ bản ngã mình
và bạn có thể bắt đầu vứt bỏ gánh nặng này. Làm
thành vấn đề là không bỏ lỡ cơ hội nào khi bạn có thể
cảm thấy là một với bất kì cái gì. Nếu đó là đêm
trăng, cảm thấy là một với đêm trăng. Cho phép tuôn
chảy... chảy cùng nó, nhảy múa, ca hát... và vứt bỏ
bản ngã của bạn.
Không có gì tốt hơn nhảy múa để vứt bỏ bản ngã;
do đó tôi nhấn mạnh rằng tất cả các thiền nhân nên
nhảy múa. Bởi vì nếu bạn thực sự đi vào trong cơn
xoáy lốc, nếu bạn thực sự là luồng năng lượng xoáy
lốc, nếu bạn thực sự trong điệu vũ, vũ công bị mất đi.
Trong điệu vũ, vũ công bao giờ cũng mất đi. Nếu nó
không mất đi thế thì bạn không nhảy múa đâu. Thế thì
bạn có thể trình diễn, thế thì bạn có thể thao tác, thế
thì bạn có thể làm bài tập thân thể, nhưng bạn không
nhảy múa.
Nhảy múa nghĩa là mất hút thế, say sưa thế - và
tận hưởng năng lượng được tạo ra bởi điệu vũ. Dần
dần bạn sẽ thấy thân thể mình không còn cứng nhắc
như nó đã vậy trước đây. Dần dần bạn sẽ thấy rằng
bạn đang tan ra; biên giới đang mất đi sắc nét của nó,
nó đang trở nên mơ hồ hơn một chút. Bạn không thể
cảm thấy đích xác nơi nào bạn chấm dứt và nơi nào
thế giới bắt đầu. Vũ công đang ở trong cơn xoáy lốc
thế, người đó trở thành sự rung động tới mức toàn thể
cuộc sống đều được cảm thấy như một nhịp điệu.
Cho nên bất kì khi nào bạn có thể tìm ra thời gian,
nơi chốn, tình huống... bạn đang trong tình yêu với ai
đó; đừng bỏ lỡ cơ hội này. Đừng nói điều vô nghĩa,
đừng mang bản ngã của bạn vào và ba hoa. Vứt cái đó
đi! Tình yêu là điều thiêng liêng vô cùng, thượng đế
đã gõ cửa nhà bạn. Mất hút đi. Cầm tay người đàn bà
của bạn, hay người đàn ông của bạn, hay với người
bạn của bạn. Mất hút! Hát cùng nhau, hay nhảy múa
cùng nhau - nhưng mất đi. Hay ngồi cùng nhau -
nhưng mất đi! Và cảm thấy rằng bạn không còn là cá
nhân nữa. Ngồi bên cạnh cái cây, mất hút.
Đó là cách điều đó đã xảy ra cho Phật. Trong
khoảnh khắc đó cây bồ đề và Phật trở thành một.
Trong năm trăm năm sau Phật, tượng của Phật đã
không được xây dựng. Thay vì vậy, chỉ có bức tranh
cây bồ đề là được thờ. Điều đó cực kì hay. Những
người đó phải đã hiểu ra. Chỉ cây bồ đề là được thờ.
Trong đền chùa Phật giáo chỉ một biểu tượng về cây bồ đề. Bởi vì trong khoảnh khắc đó Phật hoàn toàn
biến mất. Ông ấy không có đó, chỉ cây bồ đề có đó.
Ông ấy đã hoàn toàn mất hút.
Biến mất, bạn xuất hiện. Không hiện hữu là cách
thức của bản thể thực của bạn.
Và điều này có thể xảy ra trong cuộc sống bình
thường. Bạn không cần đi lên Himalaya hay tới tu
viện. Có hàng triệu cơ hội trong cuộc sống bình
thường, hàng triệu tình huống quan trọng nơi điều này
có thể xảy ra. Bạn chỉ phải có chút ít tính quan sát và
chút ít dũng cảm để sử dụng chúng. Một khi bạn bắt
đầu dùng chúng, ngày càng nhiều tình huống hơn sẽ
tới. Chúng bao giờ cũng tới, nhưng bạn không nhận
biết cho nên bạn bỏ lỡ chúng.
Ngồi trên bãi biển tắm nắng, tan chảy với mặt
trời. Đó là một kinh nghiệm năng lượng. Bỗng nhiên
bạn thấy mình không là gì ngoài năng lượng mặt trời.
Tan chảy và gặp gỡ với mặt trời, người Hindu đã đi
tới thờ mặt trời. Họ nói, 'Mặt trời là thượng đế.' Họ
nói, 'Mặt trăng là thượng đế.' Họ đã thờ cây là đấng
thiêng liêng. Họ đã thờ sông, núi.
Điều đó rất có ý nghĩa. Bất kì chỗ nào điều đó xảy
ra là họ đã gặp thượng đế... ngồi bên cạnh dòng sông,
nghe âm nhạc hay của dòng sông, thấy những hình
mẫu đẹp của gợn sóng, nếu họ được tan chảy, tan
biến, dòng sông trở thành thượng đế. Điều đó đã xảy
ra ở đó. Ngồi trên núi đơn độc, họ đã tan biến và biến
mất - núi đó trở thành thượng đế của họ.
Thượng đế tới bạn trong hàng triệu cách thức,
nhưng bản ngã của bạn chưa bao giờ cho phép bạn
thấy ngài. Và ngài tới theo cách thông thường đến
mức bạn bỏ lỡ. Ngài chưa bao giờ tới như một quốc
vương với đám rước lớn, với đoàn tuỳ tùng lớn và ồn
ào nhộn nhịp. Ngài chưa bao giờ tới như thế. Chỉ
những người ngu mới làm điều đó. Thượng đế tới rất
im lặng - ngài chưa bao giờ tới mà hò hét, ngài tới
bằng thì thào. Bạn sẽ phải rất im lặng để hiểu thông
điệp của ngài. Đó là tiếng thì thào tình yêu. Và con
người có khuynh hướng quên mất cái tự nhiên.
Tôi đã nghe một chuyện đùa rất hay:
Một người Mĩ rất ngây thơ tới Paris và lâm vào
cuộc tranh luận với một người Do Thái Pháp về số
lượng cách làm tình.
'Có sáu mươi chín cách làm tình, thưa tôn ông,'
người Do Thái Pháp nói.
'Tôi nghĩ chỉ có một thôi - đàn ông ở trên đàn bà,'
người Mĩ nói.
Người Do Thái xin lỗi, 'Thưa tôn ông,' ông ta nói,
'Tôi rất tiếc. Tôi đã tính lầm. Có bẩy mươi cách làm
tình.'
Bây giờ điều đơn giản nhất, điều tự nhiên nhất,
tâm trí có xu hướng quên mất. Tâm trí bao giờ cũng
quan tâm tới cái gì đó ngoại lệ - bởi vì đó là mối quan
tâm của bản ngã. Bản ngã không quan tâm tới cái
thông thường - mà thượng đế lại rất thông thường.

Bản ngã không quan tâm tới cái đơn giản - mà thượng
đế lại rất đơn giản. Bản ngã không quan tâm tới cái ở
gần - mà thượng đế lại rất gần. Đó là cách bạn cứ bỏ
lỡ phúc lạc và bạn trở nên khổ.
Vấn đề là tuỳ ở bạn thay đổi nó. Đó là chọn lựa
của bạn. Từng khoảnh khắc của cuộc sống đều đem
bạn tới hai phương án: bị khổ hay được hạnh phúc.
Điều đó tuỳ thuộc vào chọn lựa của bạn. Bất kì điều
gì bạn chọn bạn sẽ trở thành nó.
Người ta kể về nhà huyền môn sufi, Bayazid, rằng
ông ấy là con người cực kì hạnh phúc, gần như cực
lạc. Không ai đã bao giờ thấy ông ấy bất hạnh, không
ai đã bao giờ thấy ông ấy buồn bã, không ai đã bao
giờ thấy ông ấy làm điều gì như càu nhàu, như phàn
nàn. Bất kì cái gì có đó - và ông ấy hạnh phúc. Điều
đó không phải bao giờ cũng tốt đâu, điều đó không
phải bao giờ cũng đúng cho người khác. Đôi khi
không có thức ăn, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc. Đôi
khi trong vài ngày ông ấy sẽ sống mà không có thức
ăn, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc. Đôi khi không có
quần áo, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc. Đôi khi ông ấy
phải ngủ dưới trời, nhưng ông ấy vẫn hạnh phúc.
Hạnh phúc của ông ấy vẫn còn không bị quấy rối. Nó
là vô điều kiện.
Người ta cứ hỏi đi hỏi lại ông ấy, nhưng ông ấy
cười và chẳng bao giờ nói. Khi ông ấy sắp chết ai đó
hỏi, 'Bayazid, bây giờ ông cho chúng tôi chìa khoá
của ông, bí mật của ông. Ông chẳng mấy chốc sẽ ra
đi. Bí mật của ông là gì?'
Ông ấy nói, 'Chẳng có gì như bí mật cả. Đó là
điều đơn giản. Mọi sáng khi tôi mở mắt ra, Thượng đế
cho tôi hai phương án. Ông ấy nói, "Bayazid, con
muốn hạnh phúc hay bất hạnh?"
Tôi nói, "Nhưng thưa Thượng đế, con muốn hạnh
phúc." Và tôi chọn hạnh phúc và tôi vẫn còn hạnh
phúc. Đó là chọn lựa đơn giản, không có bí mật.'
Bạn thử điều đó đi. Mọi sáng khi bạn thức dậy,
điều đầu tiên, quyết định. Nếu bạn quyết định là bất
hạnh, chẳng có gì sai trong điều đó. Đấy là quyết định
của bạn. Nhưng thế thì bám lấy nó: vẫn còn bất hạnh
dù bất kì điều gì xảy ra. Cho dù bạn có được sổ xố,
cũng đừng lo nghĩ - vẫn còn bất hạnh. Cho dù bạn có
được chọn làm thủ tướng hay tổng thống, vẫn còn bất
hạnh, bám lấy chọn lựa của bạn. Và thế thì bạn sẽ
thấy - bạn có thể vẫn còn bất hạnh nếu bạn chọn.
Cùng điều đó là đúng với hạnh phúc nữa. Nếu bạn
chọn, bạn có thể vẫn còn hạnh phúc.
Ngày bạn quyết định rằng chính quyết định của
bạn tạo ra hạnh phúc hay bất hạnh, bạn đã nắm cuộc
sống trong tay mình - bạn đã trở thành người chủ. Bây
giờ bạn sẽ không bao giờ nói rằng ai đó khác đang
làm cho bạn bất hạnh. Đó là tuyên bố của sự nô lệ.
Phật đi ngang qua. Vài người tụ tập và họ xúc
phạm ông ấy nhiều lắm. Ông ấy lắng nghe họ rất
chăm chú, rất đáng yêu. Khi họ chấm dứt, ông ấy nói,
'Nếu các ông đã nói tất cả những điều các ông muốn
nói rồi, ta có thể đi bây giờ được chứ? - bởi vì ta phải tới làng bên cạnh đúng lúc mặt trời lặn. Nếu các ông
vẫn còn cái gì đó cần nói thêm nữa thì ta sẽ quay lại
sau vài ngày; các ông có thể nói với ta vào lúc đó.'
Nhưng ông ấy tuyệt đối không bị quấy rối, im lặng
của ông ấy vẫn còn như cũ, hạnh phúc của ông ấy vẫn
còn như cũ, rung động của ông ấy vẫn còn như cũ.
Những người đó thấy phân vân khó hiểu. Họ nói,
'Ông không giận chúng tôi sao? Chúng tôi đã xúc
phạm ông, chúng tôi đã chửi tên cúng cơm của ông.'
Phật nói, 'Các ông phải vẫn còn phân vân khó
hiểu thôi. Các ông tới chậm chút ít rồi. Các ông đáng
phải tới sớm quãng mười năm trước - thế thì các ông
chắc đã thành công trong việc làm rối ta. Thế thì ta
không phải là người chủ riêng của mình. Bây giờ, xúc
phạm ta là tự do của các ông, nhận nó hay không là tự
do của ta. Ta không nhận nó. Các ông xúc phạm ta,
đúng. Đó là quyết định của các ông. Ta tự do để nhận
nó hay không nhận nó, và ta nói ta không nhận nó.
Các ông sẽ làm gì với nó đây? Ta cũng bị phân vân -
bởi vì ở làng trước mọi người đã mang bánh kẹo tới,
và ta đã nói rằng ta không cần chúng, cho nên họ phải
đem về. Ta hỏi các ông, họ phải làm gì với đống bánh
kẹo đó?'
Những người đó nói, 'Họ phải đã phân phát chúng
ở trong làng hay tự họ phải đã ăn chúng.'
Phật nói, 'Bây giờ nghĩ về các ông đi. Các ông tới
với những lời xúc phạm này và ta nói, "Đủ rồi. Ta đã
được kết thúc với điều này. Chẳng có gì làm cả." Các
ông sẽ làm gì? Các ông sẽ phải đem chúng về. Ta
cũng rất tiếc cho các ông.'
Đó là quyết định của bạn. Cuộc sống là quyết
định của bạn, là tự do của bạn. Đó là lí do tại sao tôi
gọi các sannyasin của mình là 'swami'. 'Swami' nghĩa
là người chủ. Đó chỉ là một chỉ báo rằng từ khoảnh
khắc này bạn sẽ cố gắng nhiều hơn để là người chủ
chứ không là nô lệ.
Câu hỏi thứ hai
Thầy nói với việc chỉ hiện hữu ở đây ngay bây giờ
là tất cả mọi điều chúng ta cần để biết tới chân lí.
Sao tôi thấy điều đó lại là điều khó làm nhất vậy?
Và nếu tôi làm điều đó, ai ở đây?
Chân lí ở đây - bạn chẳng có gì để làm cho nó cả;
bạn chỉ phải hiện hữu. Chân lí đã có đó rồi. Bạn
không định phát minh ra nó, bạn chỉ phải phát hiện ra
nó. Cho dù từ đó là không đúng, bởi vì chân lí không
bị che đậy - bản thể bạn bị che đậy.
Cứ dường như mặt trời đã mọc nhưng bạn vẫn
ngồi với mắt nhắm. Mặt trời không bị che phủ, chỉ
mắt bạn bị che phủ. Mở mắt ra và ánh sáng có đó.
Nếu bạn trong bóng tối thì đó là vì bạn đang giữ cho
mắt mình khép kín. 

Khi tôi nói hiện hữu, tôi ngụ ý cởi mở. Tôi ngụ ý
đừng cố gắng là cái gì đó khác. Bởi vì trong chính nỗ
lực là ai đó khác bạn sẽ bị kéo căng, bạn sẽ bị căng
thẳng, bạn sẽ bị dồn nén, và bạn sẽ vẫn còn bị khép
kín. Bạn chỉ có thể cởi mở khi bạn chấp nhận bất kì
điều gì bạn đang là.
Nếu hoa hồng cố gắng là hoa sen, sẽ không có
khả năng nào cho nó là hoa hồng được. Toàn thể nỗ
lực sẽ làm cho nó căng thẳng thế. Hoa hồng là hoa
hồng; đó là lí do tại sao nó nở ra và trở thành hoa
hồng. Không có vấn đề về nó. Đừng cố gắng là cái gì
đó khác hơn cái bạn đang là. Đừng cố gắng trở thành
lí tưởng nào đó. Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói chỉ
hiện hữu.
Hiện hữu là trạng thái của việc mở ra vô cùng,
của im lặng mênh mông, không ham muốn, không nỗ
lực. Bạn chỉ ở đây, hiện diện. Bạn chỉ là sự hiện diện.
Trong hiện diện đó tất cả đều xảy ra - bởi vì trong
hiện diện đó bạn tỉnh táo tới mức không cái gì đi vòng
qua bạn được. Trong im lặng đó bạn bắt đầu nghe
thấy thượng đế, bạn bắt đầu thấy thượng đế. Trong im
lặng đó tầm nhìn mở ra, cánh cửa của cái không biết
mở ra. Bí ẩn là rõ ràng. Nhưng bạn phải ở trong trạng
thái đó. Đó là điều thiền tất cả chỉ là về việc hiện hữu
mà thôi.
Bạn hỏi: Thầy nói với việc chỉ hiện hữu ở đây
ngay bây giờ là tất cả mọi điều chúng ta cần để biết
tới chân lí...
Vâng, tôi nhắc lại điều đó lần nữa.
Sao tôi thấy điều đó lại là điều khó làm nhất vậy?
Bởi vì toàn thể cuộc sống của bạn đã từng huấn luyện
bản thân bạn phải là ai đó khác. Toàn thể cuộc sống
của bạn đã từng mang ý thức hệ nào đó trong đầu.
Điều đó đã trở thành hình mẫu máy móc. Bạn muốn
đẹp hơn, bạn muốn thông minh hơn, bạn muốn thế
này, bạn muốn thế nọ. Bạn đang mang chính trị lớn
trong mình, bạn tham vọng - tham vọng đó làm cho
bạn căng thẳng.
Nhớ lấy, đây là hai chiều của cuộc sống: mang
tính chính trị hay mang tính tôn giáo. Mang tính chính
trị nghĩa là cạnh tranh, vật lộn, đấu tranh; bạn phải
chứng minh rằng bạn là ai đó. Đó là lí do tại sao tất cả
các chính khách đều ngu xuẩn, theo cách tinh tế. Họ
phải vậy.
Tôi đã nghe:
Mulla Nasruddin và vợ anh ta trìu mến nhìn vào
cái nôi con mình. 'Anh nghĩ nó sẽ thành chính khách,'
Mulla nói.
'À, làm sao anh có thể nói được điều đó?' cô vợ
hỏi.
'Thế này, nó nói nhiều điều có vẻ hay và tuyệt đối
chẳng ngụ ý gì còn hơn bất kì người nào khác mà anh
đã từng thấy. Nó sẽ là chính khách đấy.'
Chính khách là đống lộn xộn. Ông ta bao giờ
cũng cố gắng chứng minh rằng ông ta là ai đó. Điều
đó ngụ ý rằng ông ta phải chịu phức cảm tự ti. Mọi chính khách đều phải chịu phức cảm tự ti. Trong một
thế giới tốt hơn họ sẽ không ở các thủ đô, họ sẽ ở trên
các tràng kỉ tâm lí. Họ nên được đưa vào nhà thương
điên. Người điên cũng không nguy hiểm đến thế; họ
chưa bao giờ làm điều gì sai.
Bạn đã bao giờ nghe nói về người điên nào làm
điều gì sai như Adolf Hitler hay Josef Stalin hay
Tamerlane hay Genghis Khan, hay Mao Trạch Đông?
Người điên chưa bao giờ làm điều gì sai cả. Nhưng
các chính khách... Chính nỗ lực của họ để chứng tỏ
rằng 'Tôi là ai đó' lại chỉ ra rằng đâu bên dưới họ đang
chịu đựng chứng tự ti - họ cảm thấy họ không là ai cả.
Họ phải chứng minh và biểu diễn. Họ cảm thấy họ
không là ai cả nếu họ không ở vị trí quyền lực lớn. Họ
cho rằng họ không là ai cả nếu họ không có quyền để
nghiền nát, để phá huỷ mọi người. Đây là phức cảm
tự ti sâu sắc đang đi tìm kiếm được là cao siêu.
Người tôn giáo là người được thoả mãn vô cùng;
người nói, 'Tôi đây - không có nhu cầu biểu diễn,
không có nhu cầu chứng minh.' Người tôn giáo là
người nói, 'Cuộc sống hiện hữu và tôi hiện hữu. Sao
lại không tận hưởng? sao không vui sướng trong nó?
sao không mở hội?' Người tôn giáo là người nói,
'Thượng đế hiện hữu và tôi hiện hữu. Bây giờ sao
không cầm tay ngài và nhảy múa? có chút ít tham dự?
để có cực thích sâu sắc giữa bạn và sự tồn tại.'
Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói: ở đây bây giờ.
Đây là thời gian duy nhất để hiện hữu - không có thời
gian khác. Và đây là chỗ duy nhất để hiện hữu -
không có chỗ khác. Tất cả mọi điều đã từng xảy ra
đều đã xảy ra chỉ trong bây giờ và ở đây. Bây giờ là
thời gian duy nhất và ở đây là không gian duy nhất.
Đừng nghĩ tới rồi thì và ở kia.
Chính khách nghĩ tới rồi thì và ở kia. Ông ta nói,
'Vâng, một ngày nào đó tôi sẽ tận hưởng. Nhưng đợi
đã, cứ để tôi thu xếp trước đã.' Ông ấy chuẩn bị. Ông
ấy là người điên trong việc chuẩn bị. Ông ấy cứ chuẩn
bị, ông ấy cứ chuẩn bị hoài.
Tôi đã nghe nói về một người sưu tập hàng triệu
cuốn sách. Người đó không có thời gian để đọc bởi vì
việc sưu tập chiếm quá nhiều thời gian. Người đó sưu
tập và sưu tập - thư viện của người đó trở thành thư
viện tốt nhất thế giới - nhưng người đó lại chẳng đọc
gì. Thế rồi cái chết của người đó tới, và bác sĩ nói,
'Ông sẽ không sống hơn được một tuần đâu.'
Ông ta nói, 'Nhưng điều này là không công bằng!
Trong cả đời mình tôi đã từng sưu tập và chờ đợi rằng
một ngày nào đó tôi sẽ về hưu và đọc, nhưng bây giờ
lại không có thời gian. Phải làm gì?'
Ai đó gợi ý, 'Ông có thể thuê các học giả. Họ có
thể đọc tất cả sách và dưới dạng tóm tắt, trước khi ông
chết, họ có thể trao cho ông ý chính.' Thế là các học
giả được tập hợp lại, họ đọc tất cả các sách, và họ
chuẩn bị các chú thích ngắn, nhưng dầu vậy nó vẫn là
một thứ quá lớn. Lần nữa nó lại giống như cuốn Kinh
Thánh; và người này sắp chết.
Vào ngày thứ bẩy họ đem tới cuốn sách. Ông ta
nói, 'Các ông có điên không đấy? Không còn thời gian
nữa! làm cho nó ngắn hơn!' 

Đến tối họ lại tới. Họ đã làm ngắn nó lại chỉ một
đoạn, nhưng người này đã vô ý thức rồi. Thế là họ
nói, 'Đợi đã! Chúng tôi đã làm ngắn nó rồi!' Nhưng
người này không có đó, ông ta đã rơi lại vào vô thức.
Ông ta đã chết mà không tận hưởng được một cuốn
sách.
Đừng cho rằng đây chỉ là chuyện ngụ ngôn. Đây
là câu chuyện của hàng triệu người đấy. Bạn cứ sưu
tập. Tôi đã thấy người giầu tích trữ tiền, chẳng bao
giờ tận hưởng nó. Ngay cả người nghèo đôi khi cũng
không nghèo đến thế. Người giầu là rất nghèo, họ
chưa bao giờ tận hưởng cả. Họ nói, 'Thêm chút nữa
đi. Để chúng tôi tích trữ cho đủ trước hết đã.' Nhưng
chẳng bao giờ đủ cả, không bao giờ có thể đủ được.
Tâm trí không bao giờ nói 'đủ'. Nó nói 'thêm chút nữa
đi, thêm chút nữa đi, thêm chút nữa đi'. Nó cứ đòi hỏi
ngày một nhiều. Nó là kẻ đòi hỏi điên cuồng.
Bạn có thể tích trữ tiền; điều đó sẽ không làm cho
bạn giầu - trừ phi bạn tận hưởng nó. Bạn có thể có
hàng triệu cuốn sách; điều đó sẽ không làm cho bạn
thành có học thức - trừ phi bạn tận hưởng chúng. Bạn
có thể có nhiều hoa; điều đó sẽ không cho bạn cảm
giác về cái đẹp - trừ phi bạn nhảy múa với chúng
trong không khí, trong gió, trong mưa... trừ phi bạn có
chút ít nhảy múa với chúng.
Cuộc sống hiện hữu, thượng đế hiện hữu, phúc lạc
hiện hữu. Thượng đế không bao giờ trong thời quá
khứ: bạn không thể nói 'thượng đế đã có'. Thượng đế
không bao giờ trong thời tương lai: bạn không thể nói
'thượng đế sẽ có'. Thượng đế chỉ có trong thời hiện tại
- thượng đế hiện hữu, cuộc sống hiện hữu, chân lí
hiện hữu. Bây giờ bạn cũng hiện hữu. Ngay lập tức sẽ
có gặp gỡ. Ngay lập tức bạn sẽ đối diện với ông ấy,
bạn sẽ đương đầu với ông ấy. Thậm chí không cần
phải phí hoài một phần giây.
Nhưng tôi biết khó khăn của bạn. Tất cả cuộc
sống của bạn đã từng được huấn luyện và bạn đã tự
huấn luyện mình vì cái gì đó chẳng bao giờ xảy ra.
Bạn không sẵn sàng cho cái đang đó; bạn bao giờ
cũng sẵn sàng cho cái phải có. Bạn đang chịu chứng
bệnh có tên là 'phải'.
Từ chính thời thơ ấu người mẹ, người bố, xã hội,
nền giáo dục, tu sĩ, chính khách - họ bao giờ cũng nói,
'Bạn phải giống thế này'. Không ai nói, 'Bạn đã đấy
rồi - hân hoan đi!' Ngoại trừ đôi khi một Jesus tới với
mọi người và nói, 'Hân hoan đi! Thượng đế đang đó!'
Bạn bao giờ cũng được bảo trở thành cái gì đó,
chứng tỏ cái gì đó - rằng bạn xứng đáng; tranh đấu,
tham vọng. Và tất nhiên không bằng lòng của bạn về
điều đó ở sâu bên dưới, nhưng dầu vậy bạn vẫn phải
tuân theo nó bởi vì bạn không biết cái gì khác có thể
được làm. Bạn chưa bao giờ bắt gặp một người đơn
giản nói, 'Hân hoan đi!' Lời nói đó đã trở nên gần như
vắng bóng trên thế giới này - thế giới của nhân loại,
thế giới của con người. Bạn không bằng lòng, nhưng
dầu vậy bạn vẫn cứ làm.
Mọi người tới tôi và họ nói, 'Chúng tôi không
bằng lòng với kỉ luật, chúng tôi không bằng lòng với
ai đó nói cho chúng tôi "Làm điều này!"' Và liền một
hơi tiếp, họ hỏi tôi, 'Osho ơi, bảo chúng tôi, chúng tôi
phải làm gì?' Bây giờ phải làm gì với những người này. Họ không bằng lòng, họ nói, ai đó bảo cho họ, và
dầu vậy họ đã tới tôi để hỏi, 'Osho ơi, phải làm gì
đây?'
Bạn đã được huấn luyện, cho nên bạn cứ không
bằng lòng. Bạn không muốn tuân theo, dầu vậy bạn
vẫn cứ hỏi 'phải làm gì? phải theo cái gì? theo ai? đi
đâu? lí tưởng là gì?' Bạn chưa bao giờ được dạy rằng
bạn mang tính nguyên thuỷ, bạn không cần là bản sao.
Thói quen có thể trở thành thâm căn cố đế tới mức
ngay cả khi bạn muốn nổi dậy, bạn lại muốn ai đó dạy
cho bạn cách nổi dậy.
Chuyện xảy ra:
Có lần Mulla Nasruddin đánh mất niềm tin của
mình, và trở thành kẻ vô thần ngoan cố. Bây giờ điều
đó là rất khó cho người Mô ha mét giáo, rất khó,
nhưng anh ta đã trở thành người vô thần. Cương lĩnh
mới của anh ta là - anh ta tới tôi và anh ta nói, 'Đây là
cương lĩnh mới của tôi: Không có thượng đế - và
Mohammed là nhà tiên tri về ông ấy.'
Thói quen cũ đấy - Mohammed phải là nhà tiên tri
dù thượng đế có hay không.
Bạn tới tôi và nói, 'Chúng tôi không bằng lòng với
kỉ luật... và Osho ơi, nói cho chúng tôi phải làm gì.'
Mohammed là nhà tiên tri của bạn và không có
thượng đế đấy. Bây giờ nếu bạn bao giờ cũng trong
xung đột, điều đó hiểu thực đơn giản.
Chuyện xảy ra:
Hai cậu bé bẩy tuổi đang xem phim. Một đứa
trong chúng khịt mũi to. Người đàn bàn bên cạnh
chung cuộc đã khuyên nó xì mũi, với giọng cáu kỉnh.
Đứa trẻ lại khịt mũi nữa.
'Cậu tốt hơn cả là làm điều bác ấy nói đi,' bạn nó
khuyên. 'Nói cho cùng, bác ấy cũng không phải là mẹ
cậu.'
Nghe điều nó nói: 'Nói cho cùng, bác ấy cũng
không phải là mẹ cậu. Cậu tốt hơn cả là làm điều bác
ấy nói đi!' Ai bận tâm nghe mẹ? Ai bận tâm nghe bố?
Người ta đơn giản giả vờ nghe thôi. Nhưng dầu vậy,
ngay cả trong giả vờ đó, chất độc đang đi vào bạn.
Bạn bao giờ cũng được dạy không là chính bản
thân mình - là ai đó khác. Là một Phật, là một
Krishna, là một Jesus - đừng bao giờ là bản thân
mình. Nhưng bạn có quan sát không? Jesus không bao
giờ được lặp lại, không bao giờ có lần nữa. Phật
không bao giờ được lặp lại, Krishna không bao giờ
được lặp lại. Thượng đế là đấng sáng tạo nguyên bản
thế, ông ấy không bao giờ lặp lại, ông ấy bao giờ cũng
tạo ra người mới. Ông ấy tạo ra con người cho trái đất
bằng sinh linh mới. Ông ấy không trông đợi bạn trở
thành ai đó khác, ông ấy nhìn vào bạn để trở thành
bạn.
Một nhà tu khổ hạnh Hassid, Joshua, sắp chết. Ai
đó nói, 'Joshua ơi, ông có hoà hợp với Moses không?'

Ông ta là người Do Thái, người Hassid. Joshua mở
mắt ra và ông ấy nói, 'Chấm dứt điều vô nghĩa đi. Thế
là đủ rồi! Sao tôi lại phải hoà hợp với Moses? Thực
tế, tôi đã lo lắng sâu sắc rằng khi tôi tới trước thượng
đế - mà chẳng mấy chốc tôi sẽ hiện diện trước ông ấy
- ông ấy sẽ không hỏi tôi, "Joshua, sao con không
giống Moses?" Ông ấy sẽ hỏi tôi, "Joshua, sao con
không là Joshua?" Đó là rắc rối của tôi. Tôi đã bỏ lỡ
bản thể mình. Cố gắng để là ai đó khác, tôi đã bỏ lỡ
mục đích của mình.'
Bạn chỉ có thể là bản thân mình thôi, bạn không
bao giờ có thể là bất kì ai khác. Bạn là con người
nguyên bản, bạn không phải là bản sao. Khi tôi nói
hiện hữu, tôi ngụ ý chỉ là bản thân mình, yêu lấy bản
thân mình, chấp nhận bản thân mình. Đừng cứ phủ
nhận, đừng cứ ghét bản thân mình. Nếu bạn ghét bản
thân mình, bạn sẽ không bao giờ có khả năng yêu bất
kì ai khác. Yêu lấy bản thân mình, tôi nói với bạn. Tôi
nói kính trọng bản thân mình. Hạnh phúc rằng bạn là
cái bạn đang là. Cám ơn thượng đế về bản thể bạn,
cách ông ấy đã làm ra bạn. Đừng phàn nàn.
Đó là điều tôi ngụ ý bởi chiều hướng tôn giáo.
Đừng mang tính chính trị, đừng tham vọng, đừng
mang tính cạnh tranh. Bạn một mình như bạn. Như
bạn, bạn là người duy nhất. Bạn là vô song. Đừng ngu
xuẩn, đừng mang tính cạnh tranh.
Một chính khách ở bữa tiệc cốc tai nói với Mulla
Nasruddin, 'Tôi nghe thấy anh dùng từ "thằng ngốc".
Tôi hi vọng là anh không ám chỉ tôi?'
'Đừng kiêu ngạo thế,' Mulla nói, 'cứ dường như
không có thằng ngốc nào khác trên thế giới này.'
Tôi nhớ tới một chuyện đùa khác. Có một trường
hợp, một chính khách đi kiện một người ra toà. Ông ta
nói, 'Trong khách sạn, người này đã gọi tôi là thằng
ngốc.' Mulla Nasruddin có đó để hỗ trợ cho chính
khách này. 'Vâng, ông ấy đúng đấy, người này đã gọi
ông ấy là thằng ngốc.'
Ở Ấn Độ các nhà lãnh đạo, các nhà lãnh đạo
chính trị, đều được gọi là netaji. Có thời đó đã là một
từ tôn kính. Vào những ngày của cuộc đấu tranh vì tự
do, trước năm 1947, netaji, người lãnh đạo, đã là một
từ rất tôn kính. Thế rồi nó bị suy đồi đi. Bây giờ nó đã
đi ra cống rãnh. Bây giờ gọi ai đó là 'netaji' tức là sỉ
nhục người đó. Bây giờ netaji nghĩa là kẻ lừa gạt nào
đó, kẻ giả dối, thằng cha tinh ranh.
Ai đó đã gọi netaji, người lãnh đạo, là thằng ngốc.
Quan toà hỏi Mulla Nasruddin, 'trong khách sạn có
biết bao nhiêu người - làm sao anh có thể nói rằng
người này đã gọi netaji là thằng ngốc? Đã có biết bao
nhiêu người - người đó có thể đã gọi ai đó khác là
thằng ngốc chứ. Làm sao anh có thể chứng minh được
điều đó?'
Nasruddin nói, 'Điều đó tuyệt đối có thể được
chứng minh. Đã có gần hai trăm người ở khách sạn đó, tôi biết điều đó, nhưng người này đã gọi netaji là
thằng ngốc.'
Quan toà nói, 'Anh nói cho chúng tôi - bằng
chứng của anh là gì?'
Mulla Nasruddin nói, 'Bởi vì không có thằng ngốc
khác hiện diện vào lúc đó.'
Đừng ngu xuẩn. Là bản thân mình và bạn sẽ là
thông minh. Đó là điều tôi ngụ ý. Nếu bạn chỉ là bản
thân mình thôi, bạn sẽ là người thông minh. Nếu bạn
là bản thân mình, chấp nhận bản thân mình một cách
toàn bộ - không chỉ chấp nhận mà còn đón chào, hạnh
phúc, biết ơn được là cái bạn đang là - thông minh của
bạn sẽ bắt đầu nở hoa. Nếu bạn cạnh tranh, bạn sẽ trở
nên ngu xuẩn, bạn sẽ trở nên tầm thường - bởi vì bạn
sẽ đi ngược lại tự nhiên. Nếu bạn cạnh tranh và bạn cố
gắng trở thành ai đó khác, bạn sẽ phá huỷ tính tự phát
bên trong của mình. Đó chính là ngu xuẩn đấy. Bạn sẽ
bị chậm tiến.
Mang tính tôn giáo, đừng bao giờ mang tính chính
trị. Và khi tôi nói đừng bao giờ mang tính chính trị,
tôi không chỉ ngụ ý đừng là thành viên của đảng phái
chính trị; với chính trị tôi ngụ ý đừng tham vọng. Mọi
tham vọng đều là chính trị, mọi đấu tranh điều đầu
tiên đều là chính trị. Tâm trí không đấu tranh, không
xung đột mới mang tính tôn giáo. Chỉ hiện hữu.
Bạn đã không được dạy điều đó, tôi biết. Bây giờ
khó để dỡ bỏ những thói quen cũ - nhưng chúng có
thể được dỡ bỏ. Bất kì điều gì được học cũng đều có
thể được dỡ bỏ. Điều đó là khó, nhưng không phải là
không thể được.
Thầy nói với việc chỉ hiện hữu ở đây ngay bây giờ
là tất cả mọi điều chúng ta cần để biết tới chân lí. Sao
tôi thấy điều đó lại là điều khó làm nhất vậy? Mọi
người đều thấy điều đó, bởi vì toàn thể việc huấn
luyện của bạn đi ngược lại điều đó, tất cả các thói
quen của bạn đi ngược lại điều đó. Nó là vất vả, khó
khăn, nhưng không phải là không thể được. Và một
khi bạn hiểu ra vấn đề, nó sẽ trở thành dễ dàng. Và
một khi bạn cho phép bản tính của bạn được tuôn
chảy, được hiện hữu, nó sẽ trở thành điều dễ nhất trên
thế giới.
Thực tế, là ai đó khác mới là điều gian nan nhất.
Cần có nỗ lực vô cùng để là ai đó khác. Thế nữa, thất
bại vẫn là chắc chắn. Người ta không bao giờ thành
công trong việc là ai đó khác. Điều đó là khổ. Đó là lí
do tại sao lại có nhiều thất bại thế khắp xung quanh.
Bạn không thấy nhiều thất bại thế trong cây cối trong
chim chóc, trong con vật đâu, bởi vì chúng không
mang tính chính trị.
Hay đôi khi trong một Phật, Mahavira, Moses,
Mohammed, bạn thấy việc nở hoa của bản tính tự
nhiên... tự phát, như con vật, hồn nhiên. Chỉ hiện hữu
- thượng đế đã có đó chờ đợi bạn rồi. Bình thản chút ít
đi; đừng vội vàng thế để đi đâu đó khác. Đừng bỏ lỡ
khoảnh khắc này, khoảnh khắc phúc lạc vô cùng này -
vui sướng trong nó. Hân hoan! Và để cho niềm vui
của bạn là lời cầu nguyện của bạn. Và để chỉ tĩnh
lặng, im lặng, chỉ hiện hữu, là việc thiền của bạn... và
thượng đế sẽ xô tới bạn.

Không ai cần tìm kiếm thượng đế, thượng đế
đang tìm bạn. Bạn chỉ cần im lặng, yên tĩnh, để cho
ngài có thể tìm thấy bạn. Bạn đang xô đi, chạy đi, còn
thượng đế lại cố gắng tìm bạn. Nhưng bạn chẳng bao
giờ được tìm thấy, bởi vì bạn không bao giờ trong
hiện tại. Tâm trí tham vọng sống trong tương lai, tâm
trí tôn giáo sống trong hiện tại. Tâm trí tôn giáo
không biết tới thời gian khác. Thời gian duy nhất của
ngài là bây giờ, không gian duy nhất của ngài là ở
đây. Bây giờ-ở đây! - để điều đó là câu mật chú của
bạn.
Nếu bạn bỏ lỡ bây giờ, bạn bao giờ cũng sẽ bỏ lỡ.
Nếu bạn bỏ lỡ ở đây, bạn sẽ bỏ lỡ ở kia. Để bây giờ-ở
đây là toàn thể mật chú của bạn. Nếu đây không phải
là mật chú của bạn thế thì thượng đế là không ở đâu
cả.
Swami Ram thường hay kể một câu chuyện đơn
giản về một người vô thần. Người đó là một giáo sư,
một người có học, rất logic, và người đó rất chống lại
thượng đế. Người đó đã viết trên tường nhà mình một
câu nhỏ để phủ nhận thượng đế: thượng đế là nowhere
(không ở đâu cả). Thế rồi một đứa trẻ được
sinh ra cho người đó, một đứa trẻ nhỏ, và đứa trẻ này
học đọc. 'Nowhere' là một từ quá lớn với nó, cho nên
nó chia từ đó thành hai. Nó đọc 'Thượng đế
là'...'nowhere' nó không thể đọc được; nó là từ quá
lớn, cho nên nó đọc, 'Thượng đế là now-here (bây
giờ-ở đây).'
Là đứa trẻ đó đi. Thượng đế là bây giờ-ở đây. Nếu
bạn không là đứa trẻ đó, thế thì thượng đế là không
đâu cả. Vâng, Jesus là phải khi ông ấy nói 'Chỉ những
người như trẻ nhỏ, chỉ họ mới có khả năng đi vào
trong vương quốc của thượng đế của ta.'

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến