Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Trống rỗng hoàn toàn

Thiền là gì? - bởi vì toàn bộ Tâm Kinh này là nói về
cái cốt lõi bên trong nhất của thiền. Chúng ta đi vào trong
nó.

Điều thứ nhất: thiền không phải là tập trung. Trong
tập trung có một cái ta đang tập trung và có một đối
tượng được tập trung vào. Có nhị nguyên. Trong thiền
không có ai ở bên trong và không có gì ở bên ngoài. Nó
không phải là việc tập trung. Không có phân chia giữa
trong và ngoài. Cái trong cứ tuôn chảy vào cái ngoài, cái
ngoài cứ tuôn chảy vào cái trong. Phân ranh giới, biên
giới, đường biên không còn nữa. Cái trong là cái ngoài,
cái ngoài là cái trong; nó là tâm thức bất nhị.
Tập trung là tâm thức nhị nguyên: đó là lí do tại sao
tập trung tạo ra mệt mỏi; đó là lí do tại sao khi bạn tập
trung, bạn cảm thấy kiệt sức. Và bạn không thể nào tập
trung được trong hai mươi tư tiếng, bạn sẽ phải lấy ngày
nghỉ để nghỉ ngơi. Tập trung chẳng bao giờ có thể trở
thành bản tính của bạn được. Thiền thì không mệt mỏi,
thiền không vắt kiệt bạn. Thiền có thể trở thành việc làm
trong hai mươi bốn tiếng - ngày tới, ngày qua, năm tới,
năm qua. Nó có thể trở thành vĩnh hằng. Nó chính là bản
thân sự thảnh thơi.
Tập trung là một hành động, một hành động có ý chí.
Thiền là trạng thái không ý chí, trạng thái không hành
động. Nó là thảnh thơi. Người ta chỉ thả mình vào bản
thể mình, và bản thể đó cũng giống hệt như bản thể của
tất cả. Trong tập trung có kế hoạch, phóng chiếu, ý
tưởng. Trong tập trung tâm trí vận hành từ kết luận: bạn
đang làm điều gì đó. Tập trung bắt nguồn từ quá khứ.
Trong thiền không có kết luận sau nó. Bạn không
làm bất kì điều gì đặc biệt, bạn chỉ đơn giản hiện hữu. Nó
không có quá khứ, không bị quá khứ vấy bẩn. Nó không
có tương lai, nó là sự thuần khiết của tất cả tương lai. Nó
là điều Lão Tử đã gọi là vi vô vi, hành động qua bất
hành. Đây là điều các thiền sư đã từng nói: ngồi im lặng
không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Nhớ lấy, ‘tự
nó’ - chẳng có gì phải làm cả. Bạn không kéo cỏ mọc
lên; xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Trạng thái đó - khi bạn
cho phép cuộc sống diễn ra theo ý riêng của nó, khi bạn
không muốn hướng dẫn nó, khi bạn không muốn đưa ra
bất kì việc điều khiển gì cho nó, khi bạn không thao túng,
khi bạn không bó buộc bất kì kỉ luật nào lên nó - trạng
thái của tự phát không kỉ luật thuần khiết đó, chính đó là
thiền.
Thiền là trong hiện tại, hiện tại thuần khiết. Thiền là
trực tiếp. Bạn không thể thiền được, nhưng bạn có thể trong thiền; bạn không thể trong tập trung được, nhưng
bạn có thể tập trung. Tập trung là con người, thiền là điều
thiêng liêng.
Tập trung có một trung tâm trong bạn; từ trung tâm
đó nó đi ra. Tập trung có cái ta trong bạn. Trong thực tế
người tập trung thật nhiều sẽ bắt đầu thu thập cái ta rất
mạnh. Người đó bắt đầu trở thành ngày một mạnh hơn,
người đó bắt đầu trở thành ngày một nhiều ý chí hơn.
Người ấy trông có vẻ tự chủ hơn, hơn là một mảnh.
Con người của thiền không trở thành mạnh mẽ:
người ấy trở thành im lặng, người ấy trở thành an bình.
Sức mạnh được tạo ra từ xung đột; tất cả các sức mạnh
đều là từ cọ sát. Từ cọ sát sinh ra điện. Bạn có thể tạo ra
điện từ nước: khi sông đổ từ núi xuống, có cọ sát giữa
sông và đá, và cọ sát sinh ra năng lượng. Đó là lí do tại
sao những người tìm kiếm sức mạnh bao giờ cũng tranh
đấu. Tranh đấu tạo ra năng lượng. Bao giờ cũng là thông
qua cọ sát mà năng lượng được tạo ra, sức mạnh được
tạo ra. Thế giới cứ đi vào trong chiến tranh mãi bởi vì thế
giới bị quá chi phối bởi ý tưởng về sức mạnh. Bạn không
thể mạnh mà không tranh đấu.
Thiền đem tới an bình. An bình có sức mạnh riêng
của nó, nhưng đó lại là một hiện tượng hoàn toàn khác.
Sức mạnh được tạo ra từ sự cọ sát là bạo hành, hung
hăng, nam tính. Sức mạnh - tôi đang dùng từ này bởi vì
không có từ khác - sức mạnh bắt nguồn từ an bình, là nữ
tính. Nó có duyên dáng của nó. Nó là sức mạnh thụ động,
nó là tiếp nhận, nó là cởi mở. Nó không bắt nguồn từ cọ
sát; đó là lí do tại sao nó lại không bạo hành.
Phật là mạnh mẽ, mạnh mẽ trong an bình của ông ấy,
trong im lặng của ông ấy. Ông ấy mạnh mẽ như hoa
hồng, ông ấy không mạnh mẽ như bom nguyên tử. Ông
ấy mạnh mẽ như nụ cười của trẻ thơ... rất mảnh mai, rất
mong manh; nhưng ông ấy không mạnh như lưỡi kiếm.
Ông ấy mạnh mẽ, như ngọn đèn đất nhỏ, ngọn lửa nhỏ
cháy sáng trong đêm tối. Đó là một chiều hướng sức
mạnh hoàn toàn khác. Sức mạnh này là cái chúng ta gọi
là sức mạnh thiêng liêng. Nó không bắt nguồn từ cọ sát.
Tập trung là cọ sát: bạn tranh đấu với tâm trí mình.
Bạn cố gắng hội tụ tâm trí theo một cách nào đó, hướng
tới một ý tưởng nào đó, hướng tới một vật nào đó. Bạn
bắt buộc nó, bạn đem nó trở lại mãi. Nó cố gắng thoát ra,
nó chạy đi, nó đi lạc lối, nó bắt đầu suy nghĩ cả nghìn lẻ
một thứ, và bạn đem nó lại và bạn bó buộc nó. Bạn đi
vào tự tranh đấu. Chắc chắn sức mạnh được tạo ra; sức
mạnh đó cũng hại như bất kì sức mạnh nào khác, sức
mạnh đó là nguy hiểm như bất kì sức mạnh nào khác.
Sức mạnh đó sẽ được dùng để làm hại ai đó, bởi vì sức
mạnh tới từ cọ sát là bạo hành. Cái gì đó bắt nguồn từ
bạo hành thì sẽ là bạo hành; nó sẽ mang tính huỷ diệt.
Sức mạnh tới từ an bình, không cọ sát, không tranh đấu,
không thao túng, là sức mạnh của hoa hồng, sức mạnh
của ngọn đèn nhỏ, sức mạnh của nụ cười trẻ nhỏ, sức
mạnh của khóc lóc của phụ nữ, sức mạnh ở trong những
giọt nước mắt và trong những giọt sương sớm. Nó là
mênh mông nhưng không nặng nề; nó là vô hạn nhưng
không bạo hành.
Tập trung sẽ làm cho bạn thành người có ý chí. Thiền
sẽ làm cho bạn thành cái trống rỗng.
Đó là điều Phật đang nói cho Sariputra.
Prajnaparamita có nghĩa đích xác là ‘thiền, trí huệ của cõi
bên kia’. 

Bạn không thể đem nó tới nhưng bạn có thể cởi mở
với nó. Bạn không cần làm bất kì điều gì để đem nó vào
trong thế giới - bạn không thể đem nó tới; nó ở bên ngoài
bạn. Bạn phải tan biến để cho nó tới. Tâm trí phải dừng
lại để thiền có đấy. Tập trung là nỗ lực của tâm trí; thiền
là trạng thái vô trí. Thiền là nhận biết thuần khiết, thiền
không có động cơ trong nó.
Thiền là cây lớn lên mà không có hạt mầm: đó là
phép mầu của thiền, điều ảo thuật, điều bí ẩn. Tập trung
có hạt mầm trong nó: bạn tập trung với một mục đích nào
đó, có động cơ, nó là nó động cơ. Thiền không có động
cơ. Thế thì tại sao người ta phải thiền nếu không có động
cơ?
Thiền đi vào trong sự tồn tại chỉ khi bạn đã nhìn vào
trong tất cả các động cơ và thấy thiếu chúng, khi bạn đã
đi qua cả vòng động cơ và bạn đã thấy cái giả dối của nó.
Bạn đã thấy rằng động cơ chẳng dẫn đến đâu cả, rằng bạn
cứ đi vòng tròn mãi; bạn vẫn còn như cũ. Động cơ cứ
tiếp tục dẫn bạn đi, hướng bạn đi, gần như đưa bạn tới
điên khùng, tạo ra ham muốn mới, nhưng chẳng đạt được
cái gì cả. Đôi tay vẫn còn trống rỗng như trước. Khi điều
này đã được thấy rõ, khi bạn đã nhìn vào cuộc sống mình
và thấy tất cả các động cơ của mình đều thất bại...
Không động cơ nào thành công cả, không động cơ
nào lại đem được hạnh phúc cho bất kì ai. Động cơ chỉ
hứa hẹn; hàng hoá chẳng bao giờ được giao. Động cơ
này thất bại thì động cơ khác tới và lại hứa hẹn nữa với
bạn... và bạn lại bị lừa nữa. Cứ bị động cơ lừa đi lừa lại
mãi, rồi một hôm bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết -
bỗng nhiên bạn nhìn vào nó, và chính cái nhìn đó là bắt
đầu cho thiền. Nó không có hạt mầm trong đó, nó không
có động cơ trong đó. Nếu bạn thiền về cái gì đó, thế thì
bạn đang tập trung, không phải là thiền. Thế thì bạn vẫn
trong thế giới - tâm trí bạn vẫn đang quan tâm tới những
đồ rẻ mạt, tầm thường. Thế thì bạn vẫn là phàm nhân.
Cho dù là bạn thiền để đạt tới Thượng đế, bạn vẫn cứ là
phàm nhân. Cho dù là bạn thiền để đạt tới niết bàn, bạn
vẫn cứ là phàm nhân - bởi vì thiền không có mục đích.
Thiền là cái nhìn sáng suốt rằng tất cả các mục đích
đều sai. Thiền là việc hiểu rằng ham muốn chẳng dẫn đến
đâu cả. Thấy điều đó đi... Và điều này không phải là
niềm tin rằng bạn có thể nhận được từ tôi hay từ Phật hay
từ Jesus. Đây không phải là tri thức; bạn sẽ phải thấy nó.
Bạn có thể thấy nó ngay bây giờ! Bạn đã sống, bạn đã
thấy nhiều động cơ, bạn đã trong rối loạn, bạn đã nghĩ về
cái gì phải làm, cái gì không làm, và bạn đã làm nhiều
thứ. Tất cả những cái đó dẫn bạn tới đâu? Nhìn vào trong
nó đi! Tôi không nói là đồng ý với tôi, tôi không nói tin
vào tôi. Tôi đơn giản làm cho bạn nhận biết về một sự
kiện mà bạn đã từng quên lãng. Đây không phải là lí
thuyết, đây là một phát biểu đơn giản về một sự kiện rất
đơn giản. Có thể bởi vì nó đơn giản thế, đó là lí do tại sao
bạn cứ tiếp tục mãi mà không nhìn vào nó. Tâm trí bao
giờ cũng quan tâm tới những cái phức tạp, bởi vì cái gì
đó có thể được làm với thứ phức tạp. Bạn không thể làm
bất kì cái gì với hiện tượng đơn giản.
Cái đơn giản bị không nhận thấy, cái đơn giản bị
lãng quên, cái đơn giản bị bỏ qua. Cái đơn giản hiển
nhiên đến mức bạn chẳng bao giờ nhìn vào nó. Bạn cứ đi
tìm kiếm cái phức tạp - cái phức tạp có thách thức ở
trong nó. Cái phức tạp của một hiện tượng, của một vấn
đề, của một tình huống, cho bạn sự thách thức. Trong
thách thức đó năng lượng, cọ sát, xung đột tới: bạn phải
giải quyết vấn đề này, bạn phải chứng minh rằng bạn có thể giải quyết vấn đề này. Khi vấn đề có đó thì bạn xúc
động bởi kích động rằng có khả năng chứng minh điều gì
đó. Nhưng điều tôi đang nói là sự kiện đơn giản, nó
không phải là vấn đề. Nó không cho bạn thách thức, nó
đơn giản có đấy. Bạn có thể nhìn vào nó hay bạn có thể
né tránh nó. Mà nó cũng chẳng hô to lên; nó đơn giản
thế. Bạn thậm chí không thể gọi nó là một tiếng nói tĩnh
lặng, nhỏ bé bên trong bạn; nó thậm chí cũng không thì
thào. Nó đơn giản có đấy - bạn có thể nhìn, bạn có thể
không nhìn.
Nhìn nó đi! Và khi tôi nói, “Nhìn nó đi,” tôi muốn
nói nhìn nó ngay bây giờ, ngay lập tức. Không cần phải
đợi. Và làm nhanh chóng khi tôi nói, “Nhìn nó!” Nhìn
nó, nhưng nhanh chóng, bởi vì nếu bạn bắt đầu nghĩ, nếu
bạn không nhìn nhanh chóng, ngay lập tức, trong giây lát
đó thì tâm trí sẽ vào và tâm trí bắt đầu đem định kiến tới.
Và bạn lại trong trạng thái triết lí - nhiều ý nghĩ. Thế thì
bạn phải chọn cái gì phải và cái gì trái, suy xét đã bắt
đầu. Bạn bỏ lỡ khoảnh khắc tồn tại.
Khoảnh khắc tồn tại là ngay bây giờ. Chỉ có nhìn, và
đó là thiền - cái nhìn đó là thiền. Chỉ thấy tính sự kiện
của điều nào đó, của trạng thái nào đó, thì là thiền. Thiền
không có động cơ, do đó không có trung tâm cho nó. Và
bởi vì không có động cơ và không trung tâm, nên không
có cái ta trong đó. Bạn không vận hành từ một trung tâm
trong thiền, bạn hành động từ cái không. Đáp ứng từ cái
không chính là tất cả điều thiền là gì.
Tâm trí tập trung: nó hành động từ quá khứ. Thiền
hành động trong hiện tại, từ hiện tại. Nó là đáp ứng thuần
khiết cho hiện tại, nó không phải là phản ứng. Nó hành
động không từ kết luận, nó hành động khi thấy sự tồn tại.
Quan sát trong cuộc sống bạn: có khác biệt lớn khi
bạn hành động từ kết luận. Bạn thấy một người, bạn cảm
thấy hấp dẫn - một người đẹp, trông rất hay, trông hồn
nhiên. Mắt người đó thật đẹp, rung động thật đẹp. Nhưng
thế rồi người đó giới thiệu mình và người đó nói, “Tôi là
người Do Thái” - còn bạn là người Ki tô giáo. Cái gì đó
lập tức nhoáng lên và có khoảng cách: bây giờ người đó
không còn hồn nhiên nữa, người đó không còn đẹp nữa.
Bạn có một ý tưởng nào đó về người Do Thái. Hay,
người đó là người Ki tô giáo còn bạn là người Do Thái;
bạn có ý tưởng nào đó về người Ki tô giáo - điều Ki tô
giáo đã làm với người Do Thái trong quá khứ, điều người
Ki tô giáo khác đã làm với người Do Thái, cách thức họ
đã tra tấn người Do Thái qua các thời đại... và bỗng
nhiên người ấy là người Ki tô giáo - và một cái gì đó lập
tức thay đổi. Đây là hành động từ kết luận, định kiến,
không nhìn vào con người này - bởi vì con người này có
thể không phải là người mà bạn nghĩ người Do Thái phải
là... bởi vì mỗi người Do Thái là một loại người khác,
mỗi người Hindu là một loại người khác, mỗi người Mô
ha mét giáo cũng vậy. Bạn không thể nào hành động từ
định kiến. Bạn không thể nào hành động bằng việc phân
loại mọi người. Bạn không thể chia tổ mọi người; không
ai có thể bị nhóm vào các phân loại. Bạn có thể bị lừa bởi
hàng trăm người cộng sản, và khi bạn gặp người cộng
sản thứ một trăm linh một, đừng cứ tin vào phân loại mà
bạn đã lập ra trong trí: rằng người cộng sản là lừa dối -
hay bất kì cái gì khác. Người này có thể là một kiểu
người khác, bởi vì không hai người nào giống nhau cả.
Bất kì khi nào bạn hành động từ kết luận, đấy đều là
tâm trí. Khi bạn nhìn vào hiện tại và bạn không cho phép
bất kì ý tưởng nào cản trở thực tại, cản trở sự kiện, bạn chỉ nhìn vào sự kiện và hành động từ cái nhìn đó, đấy là
thiền.
Thiền không phải là cái gì đó bạn làm vào buổi sáng
và bạn kết thúc nó, thiền là cái gì đó bạn phải liên tục
sống trong mọi khoảnh khắc cuộc sống bạn. Bước đi,
ngủ, ngồi, nói, nghe - nó phải là một loại không khí.
Người thảnh thơi vẫn còn trong nó. Người cứ vứt bỏ quá
khứ thì vẫn còn trong thiền. Đừng bao giờ hành động từ
kết luận; những kết luận đó là ước định của bạn, định
kiến của bạn, ham muốn của bạn, sợ hãi của bạn, và tất
cả những cái còn lại của nó. Nói ngắn gọn, bạn có đó!
Bạn có nghĩa là quá khứ bạn. Bạn có nghĩa là tất cả
kinh nghiệm của bạn về quá khứ. Bạn đừng cho phép cái
đã chết thắng thế cái sống, đừng cho phép quá khứ ảnh
hưởng tới hiện tại, đừng cho phép cái chết chế ngự cuộc
sống bạn - đó chính là thiền là gì. Nói ngắn gọn, trong
thiền, bạn không có đó. Cái chết không kiểm soát cái
sống.
Thiền là một loại kinh nghiệm đem cho bạn phẩm
chất hoàn toàn khác để sống cuộc sống của mình. Thế thì
bạn không sống như người Hindu, người Mô ha mét
giáo, người Ấn Độ hay người Đức; bạn đơn giản sống
như tâm thức. Khi bạn sống trong khoảnh khắc này và
không có gì can nhiễu tới, hành động là toàn bộ bởi vì
không có phân tán - phân tán tới từ quá khứ và tương lai.
Khi chú ý là toàn bộ, hành động là toàn bộ. Nó không để
lại cái gì. Nó liên tục giải phóng bạn, nó chưa bao giờ tạo
ra giam hãm bạn, nó chưa bao giờ bỏ tù bạn. Và đó là
mục đích tối thượng của Phật; đó là cái ông ấy gọi là niết
bàn.
‘Niết bàn’ có nghĩa là tự do - hoàn toàn, tuyệt đối,
không cản trở. Bạn trở thành bầu trời rộng mở. Không có
biên giới cho nó, nó là vô hạn. Nó đơn giản có đấy... và
thế thì chẳng có gì bao quanh bạn, bên trong và bên
ngoài. Cái không là sự vận hành của trạng thái thiền của
tâm thức. Và trong cái không đó là phúc lành. Bản thân
cái không đó là phúc lành.
Bây giờ đến lời kinh.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Trong việc thiếu vắng của ý nghĩ bao phủ
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Nhớ lấy, cái ‘do đó’ ấy bao giờ cũng là một chỉ dẫn
rằng Phật đang nhìn vào trong cái không của Sariputra -
vì ông ấy luôn cảm thấy rằng năng lượng của ông ấy
đang thảnh thơi, rằng năng lượng của ông ấy không còn
trong rối loạn nữa, rằng ông ấy không còn nghiền ngẫm
mà lắng nghe, rằng ông ấy không nghĩ mà chỉ có đó với
Phật, hiện diện, cởi mở, sẵn có. Cái ‘do đó’ ấy chỉ ra việc
bầy tỏ của bản thể Sariputra. Phật đang thấy ngày càng
nhiều cánh hoa mở ra cho nên ông ấy có thể đi thêm một
bước nữa, cho nên ông ấy có thể đưa Sariputra đi sâu
thêm một bước nữa. Sariputra đang có sẵn.
Cái ‘do đó’ này không phải là logic, cái ‘do đó’ này
là sự tồn tại. Nhìn vào trong Phật, Sariputra đang bầy tỏ
ra. Và nhìn vào trong Sariputra, Phật sẵn sàng đưa ông ấy tiến thêm chút nữa sang cõi bên kia. Mỗi phát biểu lại
càng sâu hơn và cao hơn.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc tin cậy vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Từng lời một đều phải được thiền về nó - không tập
trung, chú ý, nhưng thiền; lắng nghe, nhìn vào, không
suy tư, không nghĩ tới. Những điều này còn cao hơn ý
nghĩ, lớn hơn ý nghĩ. Ý nghĩa là đần độn trong cõi này.
Trước hết ông ấy nói:
... chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Thiền không thể được đạt tới, bởi vì thiền không thể
có động cơ. Khi bạn đạt tới cái gì đó, bạn đạt tới qua
động cơ. Khi bạn đạt tới cái gì đó, bạn bao giờ cũng phải
làm việc cho tương lai và lập kế hoạch cho tương lai.
Bạn không thể đạt tới được bất kì cái gì ngay bây giờ -
ngoại trừ thiền. Để tôi nhắc lại: Bạn không thể đạt tới
được bất kì cái gì ngay bây giờ - ngoại trừ thiền. Tại sao?
Nếu bạn muốn tiền bạc, bạn không thể đạt được điều đó
ngay bây giờ, bạn sẽ phải làm việc vất vả về nó; hợp
pháp, bất hợp pháp - nhưng bạn sẽ phải làm việc vì nó.
Có những cách thức chậm rãi, bạn có thể trở thành
doanh nhân; và có những cách thức nhanh hơn, bạn có
thể trở thành chính khách - nhưng bạn sẽ phải điều gì đó.
Dù chậm hay nhanh, nhưng thời gian vẫn cần phải có.
Thời gian là cái cần thiết. Không có thời gian bạn không
thể đạt tới tiền bạc. Nếu không có thời gian, làm sao bạn
đạt tới trong chính khoảnh khắc này? Cho dù bạn có
muốn ăn cướp nhà hàng xóm, nếu bạn muốn xoáy ví của
người đang ngồi cạnh bạn, thì thế cũng vẫn cần có thời
gian. Thời gian là cái phải có. Nếu bạn muốn trở nên nổi
tiếng, thời gian sẽ cần phải có. Nếu bạn muốn trở thành
có quyền lực chính trị, thời gian sẽ cần phải có.
Chỉ thiền mới thể được đạt tới ngay bây giờ, chính
khoảnh khắc này, ngay lúc này. Tại sao? - bởi vì đấy là
bản tính của bạn. Tại sao? - bởi vì nó đã có đấy rồi. Bạn
còn chưa đòi tới nó, vậy thôi; nhưng nó vẫn còn đấy,
chưa được đòi hỏi tới. Bạn có thể đòi nó ngay bây giờ.
Nó không một khoảnh khắc nào bị mất đi cả.
... chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Và niết bàn không là gì ngoài việc thiền đạt tới vòng
tròn đầy đủ. Thượng đế chẳng là gì khác việc nụ của
thiền đã trở thành hoa.
Đây không phải là việc đạt tới, đây là chính thực tại
của bạn. Bạn có thể cứ không chú ý tới chúng trong
nhiều thời đại, quên lãng chúng trong nhiều thời đại,
nhưng bạn không thể làm mất chúng; chúng đang có đấy,
ở ngay bên trong bạn. Bất kì ngày nào bạn nhắm mắt lại
và nhìn thì bạn sẽ bắt đầu cười. Và bạn đã tìm kiếm phúc
lạc này, mà tìm kiếm sai chỗ. Bạn đã tìm kiếm an toàn
này, đến từ cái không, nhưng bạn tìm kiếm trong tiền
bạc, số dư ngân hàng, thế này thế nọ. Và nó chẳng bao
giờ xảy ra qua điều đó. Nó không thể xảy ra điều đó
được. Không có gì bên ngoài bạn có thể làm cho cuộc
sống bạn được an toàn. Bên ngoài là bất an; làm sao nó
có thể làm cho cuộc sống bạn được an toàn? Chính phủ
không thể làm cho cuộc sống của bạn được an toàn, bởi
vì bản thân chính phủ là bất an - cách mạng có thể tới. 

Ngân hàng không thể nào làm cho cuộc sống của bạn
được an toàn vì ngân hàng có thể phá sản. Chỉ ngân hàng
mới có thể phá sản, cái gì khác còn phá sản được? Người
đàn bà mà bạn yêu không thể làm cho cuộc sống bạn
được an toàn - cô ấy có thể đi yêu người khác. Người đàn
ông bạn yêu không thể làm cuộc sống bạn được an toàn -
người ấy có thể chết.
Tất cả những điều này vẫn còn đó. Cho nên bạn càng
an toàn bên ngoài, bạn càng trở nên bất an hơn, bởi vì thế
thì bạn sợ ngân hàng vì nó có thể bị phá sản. Nếu bạn
không có tài sản, bạn chẳng bận tâm; cứ để cho nó phá
sản ngày nào đó. Nhưng nếu bạn có tài khoản ngân hàng
bạn lo nghĩ. Thế thì bạn đạt tới thêm một điều bất an -
khả năng này về việc ngân hàng phá sản. Bây giờ bạn
không thể ngủ được bởi vì bạn cứ nghĩ mãi về điều gì sắp
xảy ra.
Nếu bạn đặt tin cậy của mình vào bất kì điều gì bên
ngoài, điều đó tạo ra thêm bất ổn. Đó là lí do tại sao
người càng trở nên giầu có, lại càng bất an hơn. Nhưng
mà tôi cũng không thiên về nghèo đâu, nhớ lấy. Tôi
không nói rằng người nghèo là an toàn; anh ta có cái bất
an của mình. Người giầu có cái bất an của người giầu; tất
nhiên cái bất an của người giầu thì phức tạp hơn còn cái
bất an của người nghèo thì đơn giản - nhưng bất an vẫn
có đó. Và tôi không nói rằng nghèo là một cái gì đó rất
đặc biệt, hoặc rằng nghèo là một cái gì đó rất quan trọng
và có ý nghĩa, hoặc rằng bạn có thể khoe khoang khoác
lác rằng bạn nghèo.
Nghèo chẳng có gì liên quan với tâm linh cả. Mà
giầu cũng chẳng có liên quan gì tới tâm linh cả. Đấy là
những sự kiện không có quan hệ. Người nghèo trông bề
ngoài cũng như người giầu cả thôi. Có thể người nghèo
chỉ có một chiếc xe bò kéo còn người giầu thì có xe
Cadillac, nhưng điều đó cũng chẳng thành vấn đề. Xe bò
kéo cũng chỉ là cái bên ngoài như xe Cadillac; cả hai đều
trông từ bên ngoài. Người giầu có thể có nhiều tài khoản
ngân hàng, còn kẻ nghèo có thể chỉ có ví tiền nhỏ hay có
chút ít tiền tiết kiệm, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề -
cả hai đều là nhìn từ ngoài.
An toàn là trên con đường nội tâm, bởi vì tại đó bạn
mới nhận ra rằng chẳng ai chết cả, rằng chẳng ai đau khổ
cả, rằng chẳng có gì có thể xảy ra, rằng có bầu trời thuần
khiết. Mây tới rồi đi, còn bầu trời tồn tại mãi. Cuộc sống
tới rồi đi, hình dạng tới rồi đi, nhưng cái không thì tồn tại
mãi.
Cái không này đã có đó rồi. Đó là lí do tại sao Phật
nói điều đó có thể được đạt tới chỉ khi bạn hiểu rằng nó
là không đạt tới được. Nó có thể được đạt tới chỉ khi bạn
hiểu sự kiện cơ sở: rằng nó đã có đó, rằng nó đã là hoàn
cảnh.
Cái trống rỗng đã có đó thì không có cách nào để tiến
hoá, phát triển. Nó tràn đầy ở đó. Do đó nó có thể được
đạt tới trong một khoảnh khắc. Phật gọi nó là ‘cái trống
rỗng tràn đầy’, bởi vì cái trống rỗng chỉ có thể tràn đầy
nếu nó có đó. Nếu nó không tràn đầy, điều đó có nghĩa là
một cái gì đó khác hơn cái trống rỗng cũng đang có đó,
và cái gì đó khác này sẽ cản trở, ngăn cản, và cái gì khác
đó sẽ tạo ra nhị nguyên, và cái gì khác đó sẽ tạo ra cọ sát,
và cái gì khác đó sẽ tạo ra căng thẳng, và cái gì khác đó
sẽ tạo ra lo âu - bạn không thể thoải mái với ‘cái gì khác
đó’.
Cái trống rỗng có đó chỉ khi nó tràn đầy, khi tất cả
các chướng ngại đã bị loại bỏ, khi bạn không có bất kì cái gì bên trong, khi không ai có đó để là người quan sát
nó. Phật nói: cái trống rỗng này thậm chí không phải là
kinh nghiệm, bởi vì nếu bạn kinh nghiệm nó thì điều đó
có nghĩa là bạn vẫn có đó để kinh nghiệm nó. Nó là bạn,
cho nên bạn không thể kinh nghiệm nó. Bạn có thể kinh
nghiệm chỉ cái không là bạn. Việc kinh nghiệm có nghĩa
là nhị nguyên - người quan sát và cái được quan sát,
người biết và cái được biết, chủ thể và khách thể, người
thấy và vật được thấy. Nhưng chỉ có cái trống rỗng,
không ai thấy nó, không ai được thấy, không có gì như
một vật, không cái gì như chủ thể. Cái trống rỗng bất nhị
này là tràn đầy. Nó hoàn toàn tràn đầy. Tính đầy đặn của
nó không thể làm mịn thêm, tính đầy đặn của nó không
thể được thêm vào. Không cái gì có thể lấy ra từ nó bởi
vì không có gì cả, và cũng chẳng cái gì có thể thêm vào
nó; nó là hoàn toàn tràn đầy.
‘Trống rỗng tràn đầy’ không phải là kinh nghiệm,
bởi vì không có người kinh nghiệm trong nó. Do đó, Phật
nói: Tâm linh không phải là kinh nghiệm. Thượng đế
không thể được kinh nghiệm. Những người nói, “Tôi đã
kinh nghiệm Thượng đế,” thì hoặc là không hiểu điều họ
đang nói là gì hoặc họ dùng ngôn ngữ rất, rất không thích
hợp. Bạn không thể kinh nghiệm Thượng đế được. Trong
kinh nghiệm đó bạn không được tìm thấy. Kinh nghiệm
có đó, nhưng người kinh nghiệm không có đó - cho nên
bạn không thể nào nói nó là kinh nghiệm được. Cho nên
bất kì khi nào ai đó hỏi Phật, “Thầy đã kinh nghiệm
Thượng đế chưa?” thì ông ấy tĩnh lặng, ông ấy không nói
một lời nào. Ông ấy đổi chủ đề ngay lập tức, ông ấy bắt
đầu nói về cái gì đó khác.
Bất kì khi nào điều đó được hỏi, trong toàn bộ cuộc
đời mình, ông ấy nhất mực im lặng. Nhiều người nghĩ
rằng ông ấy chưa kinh nghiệm Thượng đế; đó là lí do tại
sao ông ấy tĩnh lặng. Nhưng ông ấy là người duy nhất
chẳng nói gì - phủ định hay khẳng định. Và đấy không
phải bởi vì ông ấy đã không kinh nghiệm. Ông ấy đã
kinh nghiệm, nhưng điều đó không thể được nói như một
kinh nghiệm; đó là lí do tại sao ông ấy giữ tĩnh lặng. Đó
là lí do tại sao Jesus vẫn còn im lặng khi Pontius Pilate
hỏi, “Chân lí là gì?”
J. Krishnamurti cứ nói mãi... và ông ấy đưa ra phân
biệt rất tinh tế giữa kinh nghiệm và việc kinh nghiệm, và
đó là phân biệt hay - ông ấy nói, “Đấy là việc kinh
nghiệm, không phải là kinh nghiệm.” Nó là quá trình,
không phải là vật. Nó là sống động, không chết. Nó vẫn
tiếp diễn, không kết thúc. Bạn đi vào Thượng đế, và thế
thì đấy là hiện tượng đang tiếp diễn: nó cứ tiếp diễn mãi
đến vĩnh viễn; bạn chẳng bao giờ ra khỏi nó. Đấy là việc
kinh nghiệm, quá trình sống - giống như dòng sông,
giống như hoa nở, và nở, nở mãi, và cứ tiếp tục nở. Và
nó chẳng bao giờ đi tới chấm dứt cả.
Nói rằng một người đã kinh nghiệm Thượng đế là
ngu xuẩn, lừa dối và đần độn. Nói rằng một người đã đạt
tới moksha, niết bàn, chân lí, là không có nghĩa lắm, bởi
vì có những điều mà không thể phân loại được như sự
thành đạt.
Cho nên Phật nói:
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Khi tâm trí đã tới điểm dừng lại và không còn quan
tâm tới việc đạt được cái gì nữa, nó đạt tới phật tính. Khi tâm trí đã đi tới dấu chấm hết và không còn đi đâu nữa,
nó bắt đầu đi vào trong, nó bắt đầu rơi vào trong bản thể
riêng của người ta, cái vực thăm thẳm đó. Cái trống rỗng
tràn đầy được đạt tới bởi không thành đạt. Cho nên bạn
đừng trở thành người thành đạt, đừng bắt đầu nghĩ dưới
dạng thành đạt - rằng bạn đã đạt được cái này cái nọ,
rằng bạn đã đạt tới Thượng đế. Đấy chỉ là trò chơi; tâm
trí lại lừa phỉnh bạn. Tên của trò chơi thay đổi, nhưng trò
chơi, trò chơi tinh vi, thì vẫn thế.
... mà bồ tát đạt tới
... qua không thành đạt ...
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ...
Đây là phát biểu rất, rất có ý nghĩa. Phật nói: người
ta không nên dựa vào bất kì cái gì. Bây giờ điều này lại
ngược với tôn giáo cho phật tử thông thường, bởi vì tôn
giáo cho phật tử thông thường có ba điều qui y nền tảng:
Buddham sharanam gachchhami, sangam sharanam
gachchhami, dhammam sharanam gachchhami. Khi đệ
tử tới với Phật, người ấy cúi đầu, buông xuôi cho ông ấy
và nói, “Tôi qui y nơi Phật” - buddham sharanam
gachchhami.
“Tôi qui y vào cộng đồng của Phật” - sangam
sharanam gachchhami: “Tôi qui y vào luật do Phật dạy”
- dhammam sharanam gachchhami. Và Phật nói ở đây là
người ta không nên dựa vào bất kì cái gì - không có qui
y, không đâu là chỗ trú ẩn cả.
Bản Tâm Kinh này đã được gọi là linh hồn của Phật
giáo, và nhà thờ Phật đã được gọi là thân thể. Ba điều qui
y này là dành cho tâm trí rất bình thường đang đi tìm chỗ
trú ẩn nào đó, chỗ chống đỡ nào đó, chỗ hỗ trợ nào đó.
Những phát biểu này là dành cho linh hồn cao nhất -
người đã tới bậc thứ sáu, và đang đi lên giữa bậc thứ sáu
và thứ bẩy, chỉ thêm một chút thúc đẩy...
Do đó, này Sariputra...
Tương truyền rằng bài thuyết pháp đầu tiên của Phật,
vẫn được gọi là bài Kinh Chuyển pháp (quay bánh xe tôn
giáo), Dhamma Chakrapravatan Sutra - là bài thuyết
pháp đầu tiên của ông ấy, tiến hành gần Varanasi - đã tạo
ra cái gọi là tôn giáo thông thường, dành cho quần chúng
bình thường. Trong bài thuyết pháp đó ông ấy tuyên bố,
“Tới và qui y vào Phật; tới và qui y vào luật mà Phật dạy;
tới và qui y vào cộng đồng, vào cộng đồng của Phật.”
Sau hai mươi năm ông ấy tuyên bố hệ thống tôn giáo
thứ hai này. Ông ấy mất hai mươi năm để đưa vài người
tới khả năng cao nhất. Điều này được biết tới như buổi
thuyết giảng thứ hai quan trọng nhất. Buổi thuyết giảng
thứ nhất là tại Saranath, gần Varanasi, khi ông ấy bảo với
mọi người, “Tới đây và qui y vào ta. Ta đã chứng ngộ!
Tới và qui y vào ta. Ta đã đạt tới! Tới và cùng chia sẻ ta.
Ta đã tới đích! Tới và theo ta.” Đó là nói cho tâm trí bình
thường; đấy là tự nhiên. Phật không thể tuyên bố Tâm
Kinh; quần chúng sẽ không thể nào hiểu nổi.
Thế rồi ông ấy làm việc trong hai mươi năm cùng đệ
tử. Bây giờ Sariputra đang tới rất gần. Bởi vì việc tới gần
đó, ông ấy nói:
Do đó, này Sariputra...
Bây giờ tôi có thể nói điều đó cho bạn. Tôi có thể nói
cho bạn rằng dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ... Chỉ một
điều mà người ta phải dựa vào, và đó là nhận biết, chăm chú. Chỉ một điều mà người ta phải dựa vào, đó là cội
nguồn nội tâm của riêng mình, bản thể mình. Mọi thứ
khác đều phải bị loại bỏ, tất cả các qui y.
Qua việc không dựa vào cái gì ngoài sự hoàn hảo của
thiền, điều người ta phải làm không phải là dựa vào bất
kì cái gì, thế gian hay cái khác, mà phải buông bỏ tất cả,
để cho cái trống rỗng kết quả được tự do chạy nhảy,
không bị cản trở bởi bất kì thái độ ủng hộ hay phản đối
nào, chấm dứt dựa vào bất kì cái gì, không tìm kiếm chỗ
trú ẩn hay hỗ trợ ở đâu cả - đó mới là từ bỏ thực.
Cái ta tách biệt của chúng ta là một thực tại giả tạo
có thể duy trì bản thân nó chỉ bởi việc tìm hỗ trợ hay ủng
hộ để nghiêng vào hay dựa vào. Trú ẩn vào tam bảo là
hành động trung tâm của tôn giáo cho phật tử - trú ẩn vào
Phật, trú ẩn vào tăng đoàn, trú ẩn vào pháp. Tại đây Phật
bác bỏ điều đó. Điều này không mâu thuẫn. Ông ấy đơn
giản nói cái bạn có thể hiểu được. Trong khẳng định của
tôi bạn sẽ tìm ra cả nghìn lẻ một mâu thuẫn, bởi vì chúng
đã được tạo ra hướng tới những người khác nhau. Bạn
càng trưởng thành hơn, tôi càng đưa ra những khẳng định
khác - bởi vì khẳng định của tôi là đáp ứng lại cho bạn.
Tôi không nói với bức tường. Tôi đang nói với bạn, và
tôi chỉ có thể cho cái mà bạn có thể hiểu được. Tâm thức
bạn càng cao hơn, tâm thức bạn càng sâu hơn, tôi sẽ nói
những điều càng khác hơn.
Một cách tự nhiên, những phát biểu khác nhau này sẽ
rất mâu thuẫn. Nếu người ta cứ theo nhất quán logic,
người ta sẽ chẳng tìm thấy gì cả. Bạn không thể tìm ra
bất kì nhất quán logic nào trong các phát biểu của Phật.
Đó là lí do tại sao, ngày Phật chết, Phật giáo đã bị phân
chia thành ba mươi sáu tông phái. Đúng ngày ông ấy
chết, và các đệ tử đã bị phân chia thành ba mươi sáu tông
phái - điều gì đã xảy ra?
Bởi vì ông ấy đã đưa ra biết bao nhiêu phát biểu cho
những người khác nhau - bởi vì tâm thức và hiểu biết
khác nhau của họ - tất cả họ đều bắt đầu cãi nhau và đánh
nhau. Họ nói, “Điều này Phật đã nói cho tôi!” Bạn cứ thử
nghĩ mà xem: năm đệ tử đầu, với họ ông ấy nói, “Ta đã
chứng ngộ - bây giờ tới ta và ta sẽ đưa các ông đến đó”...
nếu những đệ tử đầu tiên này gặp Sariputra và Sariputra
nói, “Điều ấy đạt tới qua một loại không thành đạt; người
tuyên bố rằng mình đã thành đạt là sai, bởi vì điều đó
không thể nào đạt được” - thì những đệ tử đầu tiên này sẽ
nói gì? Họ sẽ nói, “Các ông nói gì vậy? Chúng tôi là
những đệ tử lâu nhất, những người cao cấp nhất, và đây
là phát biểu đầu tiên mà Phật đã nói cho chúng tôi: ‘Ta
đã đạt tới!’ Trong thực tế chúng tôi sẽ chẳng bao giờ theo
ông ấy nếu ông ấy không tuyên bố điều đó. Bởi vì ông ấy
đã tuyên bố điều đó, cho nên chúng tôi theo ông ấy.
Động cơ chúng tôi thật rõ ràng: rằng ông ấy đã đạt tới,
chúng tôi cũng muốn đạt tới; đó là lí do tại sao chúng tôi
đã theo ông ấy. Và ông ấy đã nói với chúng tôi, ‘Ta là
chỗ trú ẩn của các ông. Tới đây và qui y vào ta. Để ta là
chỗ trú ẩn của các ông.’ Và ông đang nói về cái điều vô
nghĩa gì vậy? Phật không thể nói điều này. Ông phải đã
hiểu lầm rồi. Cái gì đó bị sai, hay ông đã bịa ra chuyện
đó?”
Bây giờ phát biểu này, Tâm Kinh này, đã được nêu
ra trong chỗ riêng tư. Nó đã được nói cho Sariputra, nó
được đặc biệt phát biểu cho Sariputra. Nó giống như một
bức thư. Sariputra không thể tạo ra bất kì bằng chứng
nào, bởi vì trong ngày xưa ấy đã làm gì có máy ghi âm.
Ông ấy chỉ đơn giản nói, ông ấy có thể đưa ra lời thề:

“Tôi không nói bất kì điều gì không đúng. Phật đã nói
cho tôi, ‘Chỉ dựa vào thiền của ông mà không vào cái gì
khác.’”
Tâm trí dựa vào cái gì đó khác thì là cái ta giả tạo,
bản ngã. Bản ngã không thể nào tồn tại mà không có cái
đỡ, nó muốn có cái chống đỡ. Cái gì đó phải đỡ cho nó.
Một khi tất cả các cột chống đã bị rút đi, bản ngã sập đổ
xuống đất và biến mất. Nhưng chỉ khi bản ngã sập đổ
xuống đất tâm thức mới nảy sinh trong bạn, cái là vĩnh
hằng, cái là vô thời gian, bất tử.
Tại đây, Phật nói: “Không có chỗ trú ẩn, Sariputra.
Không có phương thuốc, Sariputra. Không có gì và
không có đâu mà đi cả. Ông đã ở đó rồi.”
Nếu bạn tới cái trống rỗng tràn đầy này mà không
được chuẩn bị, nó sẽ làm cho bạn run lẩy bẩy. Nếu bạn bị
ai đó ném vào nó... Chẳng hạn, đôi khi mọi người tới tôi
với tình yêu và lòng kính trọng sâu sắc; họ nói, “Osho ơi,
tại sao thầy không đẩy tôi mạnh thêm chút nữa?” Nếu
bạn không sẵn sàng cho nó và bạn bị đẩy vào nó, thì
cũng chẳng có ích gì. Điều đó có thể cản trở tiến bộ của
bạn trong nhiều kiếp sắp tới. Một khi bạn đã đi vào trong
cái không đó mà không được chuẩn bị, bạn sẽ bị choáng
váng, hoảng sợ, sợ hãi tới chết, đến mức, trong ít nhất vài
kiếp sống, bạn chẳng bao giờ dám tới bất kì ai nói về cái
không, người nói về Thượng đế. Bạn sẽ tránh né. Sợ hãi
đó sẽ trở thành một hạt mầm trong bạn.
Không, bạn không thể nào bị thúc đẩy mà không
được chuẩn bị. Bạn có thể bị thúc đẩy chỉ dần dần theo
cùng tỉ lệ như bạn đã chuẩn bị.
Bạn đã bao giờ nghe lời phát biểu nổi tiếng của
Soren Kierkegaard, triết gia Đan mạch, người sáng lập ra
thuyết hiện sinh hiện đại chưa? Ông ấy nói, “Con người
run rẩy, run rẩy thường xuyên.” Tại sao? - bởi vì cái chết
có đó. Tại sao? - bởi vì sợ hãi có đó, “Ngày nào đó mình
có thể không còn nữa.”
Ông ấy nói đúng về tâm trí bình thường - mọi người
đều run rẩy. Vấn đề bao giờ cũng là, “Hiện hữu hay
không hiện hữu.” Nó bao giờ cũng treo ở đó - cái chết.
Bạn không thể quan niệm được sự biến mất vào cái
không - điều đó làm tổn thương, điều đó gây sợ hãi. Và
nếu bạn nhìn sâu vào bên trong mình, bạn sẽ thấy bản
thân mình run rẩy với ý tưởng về việc là không. Bạn
muốn là có, bạn muốn còn lại, bạn muốn vẫn còn. Bạn
muốn cứ còn mãi. Đó là lí do tại sao mọi người chẳng
biết gì về bản thể bên trong mà cứ tiếp tục tin rằng linh
hồn là bất tử - không phải bởi vì họ biết, nhưng bởi sợ
hãi. Bởi vì sự run rẩy đó mà họ phải tin rằng linh hồn là
bất tử. Đó là một loại đáp ứng mong muốn.
Cho nên bất kì kẻ ngốc nào đang nói về tính bất tử
của linh hồn cũng đều rất hấp dẫn đối với bạn. Bạn sẽ bị
mắc vào. Không phải là bạn đã hiểu điều người đó nói -
bản thân người ấy có thể chẳng hiểu - nhưng điều ấy sẽ
rất hấp dẫn. Tại Ấn Độ mọi người tin vào tính bất tử của
linh hồn, và bạn không thể nào tìm ra nhiều người hèn
nhát hơn ở bất kì đâu khác. Trong hàng nghìn năm họ
vẫn còn là nô lệ, nô lệ cho những quốc gia rất nhỏ. Bất kì
ai đã tới Ấn Độ, đều chinh phục Ấn Độ mà chẳng mấy
khó khăn gì. Điều đó quá đơn giản. Và đấy là những
người tin vào tính bất tử của linh hồn. Trong thực tế, một
quốc gia tin vào tính bất tử của linh hồn thì không thể
nào bị chinh phục được, bởi vì không ai sẽ sợ chết. Làm
sao bạn chinh phục được người không sợ chết? Họ sẽ
chết tất cả, nhưng họ sẽ không chịu bất kì khuất phục nào, họ không thể chịu thua bất kì kẻ chinh phục nào.
Nhưng trong hàng nghìn năm, Ấn Độ vẫn còn là nô lệ.
Rất dễ dàng, nó cứ còn là nô lệ.
Nước Anh là một nước rất nhỏ - có vài quận ở Ấn Độ
còn lớn hơn. Nước Anh có thể cai trị trên quốc gia to lớn
này một cách dễ dàng; chẳng khó khăn gì. Tại sao? ... Và
những người này tin rằng linh hồn là bất tử! Nhưng niềm
tin không phải là kinh nghiệm của họ, niềm tin là từ sợ
hãi. Thế thì mọi sự được giải thích. Đây là những người
hèn nhát, sợ sệt, sợ chết - do đó họ níu bám lấy ý tưởng
rằng linh hồn là bất tử. Không phải là họ biết, không phải
là họ đã kinh nghiệm; họ chưa bao giờ kinh nghiệm bất
kì điều gì giống thế, họ chỉ kinh nghiệm cái chết bao
quanh. Vì cái chết mà họ sợ đến thế. Cho nên một mặt họ
tin vào cái bất tử của linh hồn; mặt khác, bất kì ai cũng
có thể hành hạ họ và họ sẵn sàng qui phục và chạm chân.
Chính là từ sợ mà con người tin vào tính bất tử.
Chính là từ sợ mà con người tin vào Thượng đế. Nó bắt
nguồn từ run rẩy. Soren Kierkegaard cũng đúng về tâm
trí bình thường.
Một triết gia cực đoan khác, Jean-Paul Sartre, nói:
“Con người bị kết án là tự do.” Tại sao lại ‘bị kết án’?
Tại sao lại dùng cái từ xấu xí ‘bị kết án’ này? Tự do - đấy
là một loại kết án sao? Đúng đấy, với tâm trí thông
thường nó là vậy, bởi vì tự do có nghĩa là nguy hiểm. Tự
do có nghĩa là bạn không thể nào dựa vào bất kì cái gì,
bạn phải dựa vào chính mình. Tự do có nghĩa là tất cả
những cái chống đỡ đều đã bị lấy đi mất, tất cả những hỗ
trợ đều biến mất. Tự do về cơ bản có nghĩa là cái không.
Bạn tự do chỉ khi bạn là cái không.
Nghe điều Sartre nói: “Con người, khi được tự do,
trở nên khổ não.” Khổ não sao? Đúng đấy, nếu bạn
không sẵn sàng cho nó, nếu bạn không được chuẩn bị để
đi vào trong nó, thì nó là khổ não. Không ai muốn được
tự do cả, bất kể điều mọi người cứ nói. Không ai muốn tự
do cả. Mọi người muốn là nô lệ, bởi vì trong cảnh nô lệ
thì trách nhiệm có thể được ném lên người nào đó khác.
Bạn không bao giờ chịu trách nhiệm cả, bạn chỉ là một
nô lệ: bạn có thể làm gì nào? Bạn chỉ làm cái được ra
lệnh.
Nhưng khi bạn tự do, bạn sợ. Trách nhiệm nảy sinh.
Mỗi hành động, và bạn cảm thấy trách nhiệm: nếu bạn
làm điều này, điều này có thể xảy ra; hay nếu bạn làm
việc khác, cái gì đó khác có thể xảy ra. Thế thì chọn lựa
thuộc phần bạn, và chọn lựa tạo ra run rẩy. Và Jean-Paul
Sartre cũng đúng về tâm trí thông thường: tự do tạo ra
khổ não.
Ông ấy nói, “Con người bị kết án là tự do,” bởi vì tự
do tạo ra khiếp đảm. Nó là tự do khiếp đảm. Chẳng có gì
bảo đảm cho tôi trong đó tôi có thể trú ẩn được. Tôi phải
tự mình tạo ra những giá trị này. Tôi quyết định ý nghĩa
của bản thân mình và vũ trụ mình, một mình, không thể
bào chữa được và không có cớ nào cả. Tôi là trình bầy
công khai về tự do, bạn là khác. Tự do của tôi là bày tỏ
công khai về bản thể tôi, bạn cũng vậy. Tính duy nhất
của chúng ta bao gồm trong sự kiện là mỗi chúng ta làm
điều này theo cách của mình.
Nhưng Sartre nghĩ tự do tạo ra khổ não, và tự do là
một loại kết án, sự nguyền rủa. Và Kierkegaard nói,
“Con người là sự run rẩy thường xuyên.” Còn Phật lại
muốn bạn đi vào trong tự do này, vào trong cái không
này. Một cách tự nhiên, bạn phải được chuẩn bị về nó. 

Sariputra đã sẵn sàng bây giờ.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Trong việc thiếu vắng của ý nghĩ bao phủ
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí... và ông ấy
không run rẩy trong cái không này.
Điều này có vẻ gần như không thể có được cho tâm
trí thông thường: làm sao bạn có thể còn không run rẩy
khi bạn đang biến mất? Khi bạn tan chảy vào trong cái
không biết, làm sao bạn vẫn còn không hoảng sợ? Làm
sao bạn có thể đảm đương không chạy trốn? Làm sao bạn
có thể đảm đương không bắt đầu đi tìm những chống đỡ
và ủng hộ để cho bạn có thể tạo ra cảm giác về bản ngã,
về cái ta?
Đó là lí do tại sao Phật đã phải đợi hai mươi năm. Và
thế nữa, ông ấy đã phát biểu chân lí này cho Sariputra
trong một đối thoại cá nhân, không trong buổi thuyết
giáo công cộng. Và nếu mọi người không tin vào
Sariputra, họ cũng đúng - bởi vì Phật đã nói điều gì đó
khác với họ.
Nhớ điều này về tôi nữa! Nhớ điều này: phát biểu
của tôi là mâu thuẫn bởi vì chúng được đưa ra cho nhiều
người khác nhau, chúng được đưa ra cho các tâm thức
khác nhau. Và bạn càng trưởng thành hơn, tôi sẽ càng trở
nên mâu thuẫn hơn; tôi sẽ càng phải bác bẻ lại điều tôi đã
nói trước đó - bởi vì điều đó sẽ không còn liên quan tới
bạn nữa. Với tâm thức trưởng thành của bạn tôi sẽ phải
đáp ứng theo cách khác. Mỗi bước ngoặt trong tâm thức
của bạn sẽ là một bước ngoặt trong phát biểu của tôi. Và
khi tôi ra đi rồi, đừng tạo ra ba mươi sáu tông phái - bởi
vì ba mươi sáu tông phái sẽ không có tác dụng.
Cái không đem lại tự do. Tự do khỏi cái ta là tự do
tối thượng. Không có tự do nào cao hơn điều đó. Cái
không là tự do. Và nó không phải là khổ não, như Jean-
Paul Sartre nói, và nó không là run rẩy, như Kierkegaard
nói. Nó là phúc lành, nó là phúc lạc tối thượng. Nó không
là run rẩy bởi vì không có ai để run rẩy cả.
Thiền chuẩn bị cho bạn về điều đó, bởi vì khi bạn đi
vào trong thiền, hàng ngày bạn thấy bản thân mình càng
ít. Và bạn càng ít thấy bản thân mình, theo cùng tỉ lệ bạn
lại càng trưởng thành phúc lạc của mình, phúc lành của
mình, hạnh phúc của mình. Dần dần, bạn học được toán
học của thế giới nội tâm - rằng bạn càng có đấy, càng
nhiều địa ngục; bạn càng ít đấy, càng nhiều cõi trời. Cái
ngày bạn không có đấy, đó là niết bàn; ngôi nhà tối
thượng đã đạt tới. Bạn đã tới vòng tròn đầy đủ, bạn đã trở
lại thành đứa trẻ. Không còn cái ta nào nữa.
Nhớ lấy, tự do không có nghĩa là tự do của cái ta. Tự
do nghĩa là: tự do khỏi cái ta. Với Sartre điều đó có nghĩa
‘tự do của cái ta’. Đó là lí do tại sao điều đó có cảm giác
kết án; cái ta vẫn còn. Nó trở thành tự do, nhưng nó vẫn
còn - và đó là lí do tại sao có sợ hãi.
Nếu tự do là sao cho cái ta biến mất đi trong nó, và
chỉ có tự do mà không có ai tự do, thế thì ai có thể run
rẩy, và ai có thể cảm thấy khổ não, và ai có thể cảm thấy
bị kết án? Và thế thì không có vấn đề chọn lựa; tự do đó hành động theo ý riêng của nó. Người ta hành động từ vô
chọn lựa, và không có trách nhiệm nào còn lại - bởi vì
không có ai có thể cảm thấy có trách nhiệm gì. Cái không
hành động. Vi vô vi - không hành động hành động. Nó là
đáp ứng giữa cái không bên trong và cái không bên
ngoài, và không có gì cản trở.
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ...
một mình ... cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Bây giờ không ý nghĩ bao phủ. Và ý nghĩ bao phủ là
rào chắn phân chia bạn với cái không bên ngoài. Đó là
điều tôi đã nói đêm qua cho Neelamber, Mark cũ, rằng
tôi đã nói về hôm qua.
Tối hôm qua anh ấy đã đi vào tính chất sannyas; anh
ấy đã trở thành Neelamber. Neelamber có nghĩa là bầu
trời xanh. Cái gì phân chia bầu trời bên ngoài với bầu trời
bên trong? Sự bao phủ ý nghĩ của bạn. Đấy là những đám
mây không cho phép cái trần trụi của bạn tiếp xúc với
bầu trời, sự trần trụi của bạn được bắc cầu với bầu trời. Ý
nghĩ rằng bạn là người Hindu, ý nghĩ rằng bạn là người
Ki tô giáo, ý nghĩ rằng bạn là người cộng sản hay phát
xít, tạo ra chia rẽ. Ý nghĩ rằng bạn là đẹp hay xấu tạo ra
chia rẽ. Ý nghĩ rằng bạn là thông minh hay không thông
minh tạo ra chia rẽ. Bất kì loại ý nghĩ nào - và chia rẽ. Và
bạn có hàng triệu ý nghĩ. Bạn sẽ phải bóc tách mình ra
giống như bạn bóc củ hành, hết lớp nọ tới lớp kia. Bạn
bóc lớp vỏ này lớp khác lại có đó; bóc nó ra, tầng khác
lại có đó. Và một cách tự nhiên khi bạn bóc hành thì
nước mắt trào ra; nó gây cay mắt. Khi bạn bắt đầu phơi
bầy bản thể mình, điều đó còn đau đớn hơn. Không giống
như cởi quần áo, điều đó giống như việc bóc da bạn ra.
Nhưng nếu bạn cứ bóc mãi, rồi một hôm bạn đi tới
chỗ toàn bộ củ hành biến mất và chỉ cái không là còn lại
trong tay bạn. Cái không đó là phúc lạc.
Phật nói: Bồ tát sống không có việc bao phủ ý nghĩ.
Ông ấy ở đây, nhưng ông ấy là không ai cả; ông ấy ở
đây, nhưng ông ấy không có ý tưởng nào; ông ấy ở đây,
nhưng ông ấy không có ý nghĩ. Không phải là ông ấy
không thể dùng ý nghĩ... Tôi vẫn liên tục dùng ý nghĩ.
Tôi đang nói với bạn ngay bây giờ, tôi phải dùng tâm trí
và ý nghĩ - nhưng chúng không bao phủ tôi. Chúng là ở
bên cạnh. Bất kì khi nào tôi cần, tôi dùng chúng. Bất kì
khi nào tôi không dùng chúng, chúng không có đó - bầu
trời bên trong của tôi và bầu trời bên ngoài là một. Và
thậm chí trong khi tôi đang dùng chúng, tôi vẫn biết rằng
chúng không thể phân chia tôi. Chúng là công cụ, bạn có
thể dùng chúng, nhưng bạn không bị chúng che phủ theo
bất kì cách nào.
... cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Phật nói có ba loại bao phủ ý nghĩ. Loại thứ nhất là
karma averna - hành động không hoàn tất. Những hành
động không toàn bộ bao phủ bản thể bạn. Từng hành
động đều muốn được hoàn tất. Có thôi thúc nội tại trong
mọi việc để hoàn tất nó. Bất kì khi nào bạn cho phép
hành động nào đó treo quanh bạn chưa hoàn tất, nó đều
bao phủ quanh bạn: karma averna, nghiệp bao phủ quanh
bạn.
Loại thứ hai là klesas averna. Tham lam, ghét bỏ,
ghen tị và những thứ đại loại như thế: chúng được gọi là
klesas, không thuần khiết; chúng bao phủ bạn. 

Bạn đã bao giờ quan sát nó chưa? Người giận dữ gần
như bao giờ cũng giận dữ - lúc ít, lúc nhiều, nhưng tất cả
giận dữ đều là một. Người ấy sẵn sàng nhảy vào bất kì
cái gì. Người ấy sẵn sàng, với bất kì lí do gì, lao vào một
cách điên dại. Người ấy sôi sùng sục bên trong. Và người
ghen tị cũng thế: người ghen tị cứ đi tìm kiếm cái gì đó
mà với nó người ấy có thể ghen tị. Người vợ ghen tị cứ
nhìn mãi vào trong túi chồng để xem mình có thể tìm
thấy cái gì đó, trong những bức thư của chồng, trong hồ
sơ của chồng để xem mình có tìm thấy cái gì đó không.
Khi Mulla Nasruddin về tới nhà bao giờ cũng có lục
đục nào đó, vì điều này điều khác. Vợ anh ấy là một
người rất hay lục lọi đến mức chị ta bao giờ cũng tìm
thấy thứ này thứ khác. Số điện thoại nào đó trong sổ của
anh ta, và chị ta bắt đầu nghi ngờ. Một sợi tóc trên áo
choàng, và chị ta đi vào cuộc điều tra lớn - sợi tóc này từ
đâu tới?
Một hôm chị ta chẳng thể tìm thấy cái gì, thậm chí
đến một sợi tóc. Mulla đã làm mọi việc ngày hôm đó; chị
ta bắt đầu khóc lóc.
Và Mulla nói, “Nào có vấn đề gì vậy? Đến một sợi
tóc em cũng chẳng thể nào tìm thấy trên áo anh...?”
Chị vợ nói, “Đấy là lí do tại sao em khóc. Bây giờ
anh đã bắt đầu đi với bọn phụ nữ trọc đầu!”
Rất khó, thực sự, để tìm ra phụ nữ trọc đầu, nhưng đó
là tâm trí của người ghen. Đó là sự bao phủ. Phật gọi
chúng là klesas, không thuần khiết; người bản ngã bao
giờ cũng đi tìm cái gì đó để hoặc khoe khoang khoác lác
hoặc để cảm thấy bị tổn thương về nó. Người sở hữu bao
giờ cũng đi tìm cái gì đó để cho mình có thể trưng bầy sở
hữu của mình, hay trong việc tìm thấy cái gì đó tiêu cực
để cho người ấy có thể tranh đấu với nó.
Mọi người cứ tiếp tục... và tôi không nói về người
khác, tôi đang nói về bạn đấy. Quan sát tâm trí mình -
bạn cứ tiếp tục tìm kiếm vì cái gì. Quan sát tâm trí mình
trong hai mươi bốn giờ và bạn sẽ nhận ra tất cả những sự
bao phủ đó, avernas.
Có hoặc những hành động không hoàn tất, hay không
thuần khiết; hoặc loại thứ ba là ghaya avernas - những
bao phủ niềm tin, ý kiến, ý thức hệ, tri thức. Chúng
không cho phép bạn biết, chúng không cho bạn đủ không
gian để thấy. Ba lớp bao phủ này cần phải bị loại bỏ.
Khi ba lớp bao phủ này bị loại bỏ, thế thì người ta cư
ngụ trong cái không. Từ ‘ cư ngụ’ cũng cần được hiểu.
Phật nói: Ông ấy cư ngụ trong cái không. Đấy là nhà
ông ấy, cái không là nhà ông ấy. Ông ấy cư ngụ trong đó,
nó là một chỗ cư ngụ. Ông ấy yêu nó, ông ấy hoàn toàn
hoà hợp với nó. Nó không phải là xa lạ, ông ấy không
cảm thấy như người ngoài ở đó. Và ông ấy không cảm
thấy giống như ông ấy đang ở trong khách sạn và ngày
mai ông ấy sẽ phải rời bỏ nó. Nó là nơi cư ngụ của ông
ấy. Khi việc bao phủ ý nghĩ đã bị loại bỏ, cái không là
nhà bạn. Bạn hoàn toàn hài hoà với nó.
Kierkegaard và Sartre chưa bao giờ ở đó. Họ chỉ suy
xét về nó. Họ chỉ nghĩ về nó, về nó sẽ là như thế nào. Đó
là lí do tại sao Kierkegaard cảm thấy run rẩy. Ông ấy đơn
giản nghĩ, cũng như bạn nghĩ...
Thử nghĩ xem nó sẽ thế nào khi bạn chết, và bạn sẽ
được đặt lên dàn thiêu, và bạn sẽ kết thúc mãi mãi. Và
thế thì bạn sẽ không thể nào thấy những cây xinh tươi
này, những con người đẹp đẽ này, và bạn sẽ không còn cười nữa, và bạn sẽ không yêu nữa, và bạn sẽ không thấy
các vì sao nữa. Mà thế giới này vẫn tiếp tục, còn bạn sẽ
không ở đây chút nào. Chẳng lẽ bạn không cảm thấy run
lẩy bẩy sao? Chẳng lẽ bạn không cảm thấy run rẩy sao?
Tất cả sẽ tiếp tục - chim sẽ hót và mặt trời sẽ lên và đại
dương sẽ ầm ầm và chim ưng nào đó vẫn sẽ bay cao mãi
cao mãi, và hoa sẽ có đó cùng hương thơm, và hương
nồng của đất ướt - tất cả những điều đó sẽ có đó. Rồi
bỗng nhiên một ngày nào đó bạn sẽ không có đó, và thân
thể bạn sẽ chết. Cái thân thể đẹp đẽ này mà bạn đã từng
sống với nó và bạn đã từng chăm sóc nó nhiều thế - nó sẽ
ốm yếu và làm phiền nhiễu bạn - rồi một ngày nào đó nó
sẽ thành vô dụng đến mức mà mọi người đã từng yêu
mến nó, cũng cùng những người ấy thôi, sẽ đem nó lên
dàn thiêu và đưa nó vào lửa. Quán tưởng về điều đó. Suy
xét, và run rẩy sẽ tới.
Kierkegaard phải đã suy xét về nó. Ông ấy phải đã là
người có thiên hướng rất sợ sệt. Có câu chuyện kể về ông
ấy rằng ông ấy là con một người giầu có. Người bố chết;
ông ấy đã để lại đủ tiền cho Kierkegaard, cho nên ông
này chẳng bao giờ làm lụng, ông ấy tiếp tục suy tư. Ông
ấy có thể dễ dàng đảm đương việc đó - chẳng có gì phải
làm cả. Ông ấy có đủ tiền trong ngân hàng. Ngày đầu
tiên hàng tháng ông ấy sẽ ra ngân hàng - đó là toàn bộ
công việc của ông ấy - để rút tiền. Và thế rồi ông ấy sẽ
sống và thiền. Thiền theo nghĩa của ông ấy là suy tư,
nghiền ngẫm, suy nghĩ. Đó là điều từ thiền theo tiếng
Anh ngụ ý. Đấy không phải là việc dịch đúng cho chữ
dhyana.
Khi mọi người tới tôi và tôi bảo họ thiền, họ nói, “Về
cái gì?” Từ tiếng Anh có nghĩa là thiền về cái gì đó, vật
nào đó. Từ Ấn Độ dhyana có nghĩa là sống trong nó,
không phải là suy tư về cái gì đó. Nó là trạng thái, không
phải là hành động.
Cho nên ông ấy sẽ suy tư và suy nghĩ, và nghiền
ngẫm và triết lí. Nghe nói rằng ông ấy yêu một phụ nữ
đẹp, nhưng không thể quyết định được liệu có cưới vợ
hay không. Chính hiện tượng yêu trở thành run rẩy trong
ông ấy. Trong ba năm ông ấy nghiền ngẫm về nó, và cuối
cùng ông ấy quyết địng không lấy vợ. Mà ông ấy thì đã
yêu. Trong suốt cuộc đời, ông ấy không thể nào quên
được người phụ nữ này, toàn bộ cuộc đời ông ấy cảm
thấy khổ sở vì người phụ nữ này. Người phụ nữ này đã
yêu, ông ấy đã yêu; thế mà ông ấy vẫn quyết định không
lấy vợ. Tại sao? - bởi vì chính ý tưởng yêu đã tạo ra run
rẩy trong ông ấy. Tình yêu là một loại cái chết. Nếu bạn
thực sự yêu một người thì bạn chết đi trong người đó,
bạn biến mất trong người đó.
Khi bạn làm tình... Tôi phải dùng từ ‘làm’ này - nó
không đúng, nhưng không ngôn ngữ nào thực sự là đúng
cả. Cho nên nhớ lấy, tôi phải dùng từ với tất cả những
giới hạn của nó. Tình yêu không thể làm được. ‘Làm
tình’ là cách diễn đạt sai: nó xảy ra. Nhưng khi nó xảy ra,
khi bạn đang trong không gian tình yêu với ai đó, thì sợ
hãi tới bởi vì bạn đang biến mất. Đó là lí do tại sao rất,
rất nhiều người, hàng triệu người, chưa bao giờ đạt tới
cực thích - bởi vì cực thích là cái chết.
Và Kierkegaard đã yêu nhiều đến mức ông ấy trở nên
sợ rằng ông ấy có thể làm mất bản thân mình trong người
phụ nữ này. Sợ hãi đó quá nhiều. Ông ấy vứt bỏ ý tưởng
ấy. Ông ấy từ chối, ông ấy không lấy vợ. Ông ấy chịu
đựng trong suốt cuộc đời - ông ấy đã chấp nhận điều đó -
nhưng bởi vì sợ... Ông ấy là người có thiên hướng sợ sệt. 

Ông ấy sống hoàn toàn tốt, chẳng làm gì, chỉ triết lí.
Và có một chuyện tiếu lâm rất lạ về ngày ông ấy chết.
Ông ấy chết khi ông ấy từ ngân hàng về. Đó là ngày đầu
tháng; ông ấy từ ngân hàng về, đã rút tiền xong - nhưng
đây là món tiền cuối cùng. Ông ấy chết trên đường.
Người ta cứ nghĩ rằng ông ấy chết vì sợ, bởi vì bây giờ
không còn lại tiền trong ngân hàng nữa. Ông ấy hoàn
toàn mạnh khoẻ, ông ấy không ốm, chẳng có lí do nào
cho ông ấy chết bất thần đến thế. Nhưng trở về từ ngân
hàng - và viên quản lí ngân hàng đã nói, “Đây là món
tiền cuối cùng; tiền của ông đã hết” - ông ấy không thể
về được tới nhà. Ông ấy chết trên đường.
Ông ấy không thể nào kinh nghiệm được cái không
mà Phật đang nói tới. Ông ấy chắc chỉ nghĩ về nó thôi -
do đó mới sợ. Và Jean-Paul Sartre cũng không ở trong
không gian được gọi là thiền. Ông ấy không phải là thiền
nhân; ông ấy là nhà suy tưởng, người phương Tây hoàn
toàn. Ông ấy chẳng biết đến cách thức phương Đông đi
vào. Do đó tự do có vẻ giống như kết án, và tự do có vẻ
như khổ não.
Chân lí lại chính là điều ngược lại. Nếu bạn đi vào
trong tự do, vào trong cái không, có phúc lạc. Nếu bạn đi
vào trong cái chết hoàn toàn mà được gọi là tình yêu đó,
thì có satori, samadhi. Phật nói: Ông ấy cư ngụ trong cái
không đó, đấy là nhà của ông ấy. Đấy không phải là khổ
não, đấy không phải là run rẩy, đấy không phải là kết án.
Ông ấy cư ngụ ở đó. Đấy là nhà ông ấy.
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Phật không nói điều gì khác. Ông ấy nói: Ông đi vào
trong trạng thái này của cái không, thế thì niết bàn là kết
quả tự nhiên. Đến tận cùng, nó tới theo ý riêng của nó.
Ông không cần lo nghĩ về nó; ngay chỗ đầu tiên ông đã
không thể làm được điều gì về nó cả. Ông chỉ đi vào
trong cái không này, và thế thì cái không bắt đầu trưởng
thành, trưởng thành mãi, trở nên ngày một bao la hơn, rồi
một hôm nó trở thành toàn bộ sự tồn tại của ông. Thế thì
có niết bàn - ông đã dừng việc hiện hữu. Ông đã biến mất
trong vũ trụ.
Ai đó hỏi Phật, “Khi thầy qua đời và thầy sẽ không
bao giờ quay lại trong thân thể này nữa, điều gì sẽ xảy ra
cho thầy?”
Và ông ấy nói, “Ta sẽ tan biến trong sự tồn tại. Nếu
ông nếm trải sự tồn tại, ông sẽ nếm trải ta.”
Và đúng đấy, điều đó là đúng: nếu bạn nếm trải sự
tồn tại thì bạn sẽ nếm trải tất cả chư Phật - Krishna,
Christ, Phật, Mahavira, Zarathustra, Lão Tử, Kabir,
Nanak - bạn sẽ nếm trải tất cả chư Phật. Cái ngày bạn đi
vào trong cái không đó, bạn sẽ được tất cả chư Phật đón
chào. Toàn bộ sự tồn tại đang xúc động với phật tính bởi
vì biết bao nhiêu vị Phật đã tan biến trong nó. Họ đã
nâng lên chính mức của sự tồn tại.
Bạn thật may mắn, bởi vì trước bạn biết bao nhiêu vị
Phật đã đi vào sự tồn tại. Khi bạn đi vào đó, bạn sẽ không
thể nào không được đón chào.
Tất cả những người xuất hiện như chư phật
trong ba thời
đều tỉnh thức tới chứng ngộ chính đẳng, chính giác và
hoàn hảo bởi vì họ đã dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ.
Chỗ trú ẩn duy nhất là hoàn hảo của trí huệ, hoàn hảo
của thiền. Trong quá khứ nó đã là như vậy, trong hiện tại
nó đang là như vậy, trong tương lai nó sẽ là như vậy. Bất
kì ai trở thành vị Phật đều trở thành Phật qua thiền. Trú
ẩn vào thiền đi. Trú ẩn vào cái không đi.


Thiền là gì? - bởi vì toàn bộ Tâm Kinh này là nói về
cái cốt lõi bên trong nhất của thiền. Chúng ta đi vào trong
nó.

Điều thứ nhất: thiền không phải là tập trung. Trong
tập trung có một cái ta đang tập trung và có một đối
tượng được tập trung vào. Có nhị nguyên. Trong thiền
không có ai ở bên trong và không có gì ở bên ngoài. Nó
không phải là việc tập trung. Không có phân chia giữa
trong và ngoài. Cái trong cứ tuôn chảy vào cái ngoài, cái
ngoài cứ tuôn chảy vào cái trong. Phân ranh giới, biên
giới, đường biên không còn nữa. Cái trong là cái ngoài,
cái ngoài là cái trong; nó là tâm thức bất nhị.
Tập trung là tâm thức nhị nguyên: đó là lí do tại sao
tập trung tạo ra mệt mỏi; đó là lí do tại sao khi bạn tập
trung, bạn cảm thấy kiệt sức. Và bạn không thể nào tập
trung được trong hai mươi tư tiếng, bạn sẽ phải lấy ngày
nghỉ để nghỉ ngơi. Tập trung chẳng bao giờ có thể trở
thành bản tính của bạn được. Thiền thì không mệt mỏi,
thiền không vắt kiệt bạn. Thiền có thể trở thành việc làm
trong hai mươi bốn tiếng - ngày tới, ngày qua, năm tới,
năm qua. Nó có thể trở thành vĩnh hằng. Nó chính là bản
thân sự thảnh thơi.
Tập trung là một hành động, một hành động có ý chí.
Thiền là trạng thái không ý chí, trạng thái không hành
động. Nó là thảnh thơi. Người ta chỉ thả mình vào bản
thể mình, và bản thể đó cũng giống hệt như bản thể của
tất cả. Trong tập trung có kế hoạch, phóng chiếu, ý
tưởng. Trong tập trung tâm trí vận hành từ kết luận: bạn
đang làm điều gì đó. Tập trung bắt nguồn từ quá khứ.
Trong thiền không có kết luận sau nó. Bạn không
làm bất kì điều gì đặc biệt, bạn chỉ đơn giản hiện hữu. Nó
không có quá khứ, không bị quá khứ vấy bẩn. Nó không
có tương lai, nó là sự thuần khiết của tất cả tương lai. Nó
là điều Lão Tử đã gọi là vi vô vi, hành động qua bất
hành. Đây là điều các thiền sư đã từng nói: ngồi im lặng
không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Nhớ lấy, ‘tự
nó’ - chẳng có gì phải làm cả. Bạn không kéo cỏ mọc
lên; xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Trạng thái đó - khi bạn
cho phép cuộc sống diễn ra theo ý riêng của nó, khi bạn
không muốn hướng dẫn nó, khi bạn không muốn đưa ra
bất kì việc điều khiển gì cho nó, khi bạn không thao túng,
khi bạn không bó buộc bất kì kỉ luật nào lên nó - trạng
thái của tự phát không kỉ luật thuần khiết đó, chính đó là
thiền.
Thiền là trong hiện tại, hiện tại thuần khiết. Thiền là
trực tiếp. Bạn không thể thiền được, nhưng bạn có thể trong thiền; bạn không thể trong tập trung được, nhưng
bạn có thể tập trung. Tập trung là con người, thiền là điều
thiêng liêng.
Tập trung có một trung tâm trong bạn; từ trung tâm
đó nó đi ra. Tập trung có cái ta trong bạn. Trong thực tế
người tập trung thật nhiều sẽ bắt đầu thu thập cái ta rất
mạnh. Người đó bắt đầu trở thành ngày một mạnh hơn,
người đó bắt đầu trở thành ngày một nhiều ý chí hơn.
Người ấy trông có vẻ tự chủ hơn, hơn là một mảnh.
Con người của thiền không trở thành mạnh mẽ:
người ấy trở thành im lặng, người ấy trở thành an bình.
Sức mạnh được tạo ra từ xung đột; tất cả các sức mạnh
đều là từ cọ sát. Từ cọ sát sinh ra điện. Bạn có thể tạo ra
điện từ nước: khi sông đổ từ núi xuống, có cọ sát giữa
sông và đá, và cọ sát sinh ra năng lượng. Đó là lí do tại
sao những người tìm kiếm sức mạnh bao giờ cũng tranh
đấu. Tranh đấu tạo ra năng lượng. Bao giờ cũng là thông
qua cọ sát mà năng lượng được tạo ra, sức mạnh được
tạo ra. Thế giới cứ đi vào trong chiến tranh mãi bởi vì thế
giới bị quá chi phối bởi ý tưởng về sức mạnh. Bạn không
thể mạnh mà không tranh đấu.
Thiền đem tới an bình. An bình có sức mạnh riêng
của nó, nhưng đó lại là một hiện tượng hoàn toàn khác.
Sức mạnh được tạo ra từ sự cọ sát là bạo hành, hung
hăng, nam tính. Sức mạnh - tôi đang dùng từ này bởi vì
không có từ khác - sức mạnh bắt nguồn từ an bình, là nữ
tính. Nó có duyên dáng của nó. Nó là sức mạnh thụ động,
nó là tiếp nhận, nó là cởi mở. Nó không bắt nguồn từ cọ
sát; đó là lí do tại sao nó lại không bạo hành.
Phật là mạnh mẽ, mạnh mẽ trong an bình của ông ấy,
trong im lặng của ông ấy. Ông ấy mạnh mẽ như hoa
hồng, ông ấy không mạnh mẽ như bom nguyên tử. Ông
ấy mạnh mẽ như nụ cười của trẻ thơ... rất mảnh mai, rất
mong manh; nhưng ông ấy không mạnh như lưỡi kiếm.
Ông ấy mạnh mẽ, như ngọn đèn đất nhỏ, ngọn lửa nhỏ
cháy sáng trong đêm tối. Đó là một chiều hướng sức
mạnh hoàn toàn khác. Sức mạnh này là cái chúng ta gọi
là sức mạnh thiêng liêng. Nó không bắt nguồn từ cọ sát.
Tập trung là cọ sát: bạn tranh đấu với tâm trí mình.
Bạn cố gắng hội tụ tâm trí theo một cách nào đó, hướng
tới một ý tưởng nào đó, hướng tới một vật nào đó. Bạn
bắt buộc nó, bạn đem nó trở lại mãi. Nó cố gắng thoát ra,
nó chạy đi, nó đi lạc lối, nó bắt đầu suy nghĩ cả nghìn lẻ
một thứ, và bạn đem nó lại và bạn bó buộc nó. Bạn đi
vào tự tranh đấu. Chắc chắn sức mạnh được tạo ra; sức
mạnh đó cũng hại như bất kì sức mạnh nào khác, sức
mạnh đó là nguy hiểm như bất kì sức mạnh nào khác.
Sức mạnh đó sẽ được dùng để làm hại ai đó, bởi vì sức
mạnh tới từ cọ sát là bạo hành. Cái gì đó bắt nguồn từ
bạo hành thì sẽ là bạo hành; nó sẽ mang tính huỷ diệt.
Sức mạnh tới từ an bình, không cọ sát, không tranh đấu,
không thao túng, là sức mạnh của hoa hồng, sức mạnh
của ngọn đèn nhỏ, sức mạnh của nụ cười trẻ nhỏ, sức
mạnh của khóc lóc của phụ nữ, sức mạnh ở trong những
giọt nước mắt và trong những giọt sương sớm. Nó là
mênh mông nhưng không nặng nề; nó là vô hạn nhưng
không bạo hành.
Tập trung sẽ làm cho bạn thành người có ý chí. Thiền
sẽ làm cho bạn thành cái trống rỗng.
Đó là điều Phật đang nói cho Sariputra.
Prajnaparamita có nghĩa đích xác là ‘thiền, trí huệ của cõi
bên kia’. 

Bạn không thể đem nó tới nhưng bạn có thể cởi mở
với nó. Bạn không cần làm bất kì điều gì để đem nó vào
trong thế giới - bạn không thể đem nó tới; nó ở bên ngoài
bạn. Bạn phải tan biến để cho nó tới. Tâm trí phải dừng
lại để thiền có đấy. Tập trung là nỗ lực của tâm trí; thiền
là trạng thái vô trí. Thiền là nhận biết thuần khiết, thiền
không có động cơ trong nó.
Thiền là cây lớn lên mà không có hạt mầm: đó là
phép mầu của thiền, điều ảo thuật, điều bí ẩn. Tập trung
có hạt mầm trong nó: bạn tập trung với một mục đích nào
đó, có động cơ, nó là nó động cơ. Thiền không có động
cơ. Thế thì tại sao người ta phải thiền nếu không có động
cơ?
Thiền đi vào trong sự tồn tại chỉ khi bạn đã nhìn vào
trong tất cả các động cơ và thấy thiếu chúng, khi bạn đã
đi qua cả vòng động cơ và bạn đã thấy cái giả dối của nó.
Bạn đã thấy rằng động cơ chẳng dẫn đến đâu cả, rằng bạn
cứ đi vòng tròn mãi; bạn vẫn còn như cũ. Động cơ cứ
tiếp tục dẫn bạn đi, hướng bạn đi, gần như đưa bạn tới
điên khùng, tạo ra ham muốn mới, nhưng chẳng đạt được
cái gì cả. Đôi tay vẫn còn trống rỗng như trước. Khi điều
này đã được thấy rõ, khi bạn đã nhìn vào cuộc sống mình
và thấy tất cả các động cơ của mình đều thất bại...
Không động cơ nào thành công cả, không động cơ
nào lại đem được hạnh phúc cho bất kì ai. Động cơ chỉ
hứa hẹn; hàng hoá chẳng bao giờ được giao. Động cơ
này thất bại thì động cơ khác tới và lại hứa hẹn nữa với
bạn... và bạn lại bị lừa nữa. Cứ bị động cơ lừa đi lừa lại
mãi, rồi một hôm bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết -
bỗng nhiên bạn nhìn vào nó, và chính cái nhìn đó là bắt
đầu cho thiền. Nó không có hạt mầm trong đó, nó không
có động cơ trong đó. Nếu bạn thiền về cái gì đó, thế thì
bạn đang tập trung, không phải là thiền. Thế thì bạn vẫn
trong thế giới - tâm trí bạn vẫn đang quan tâm tới những
đồ rẻ mạt, tầm thường. Thế thì bạn vẫn là phàm nhân.
Cho dù là bạn thiền để đạt tới Thượng đế, bạn vẫn cứ là
phàm nhân. Cho dù là bạn thiền để đạt tới niết bàn, bạn
vẫn cứ là phàm nhân - bởi vì thiền không có mục đích.
Thiền là cái nhìn sáng suốt rằng tất cả các mục đích
đều sai. Thiền là việc hiểu rằng ham muốn chẳng dẫn đến
đâu cả. Thấy điều đó đi... Và điều này không phải là
niềm tin rằng bạn có thể nhận được từ tôi hay từ Phật hay
từ Jesus. Đây không phải là tri thức; bạn sẽ phải thấy nó.
Bạn có thể thấy nó ngay bây giờ! Bạn đã sống, bạn đã
thấy nhiều động cơ, bạn đã trong rối loạn, bạn đã nghĩ về
cái gì phải làm, cái gì không làm, và bạn đã làm nhiều
thứ. Tất cả những cái đó dẫn bạn tới đâu? Nhìn vào trong
nó đi! Tôi không nói là đồng ý với tôi, tôi không nói tin
vào tôi. Tôi đơn giản làm cho bạn nhận biết về một sự
kiện mà bạn đã từng quên lãng. Đây không phải là lí
thuyết, đây là một phát biểu đơn giản về một sự kiện rất
đơn giản. Có thể bởi vì nó đơn giản thế, đó là lí do tại sao
bạn cứ tiếp tục mãi mà không nhìn vào nó. Tâm trí bao
giờ cũng quan tâm tới những cái phức tạp, bởi vì cái gì
đó có thể được làm với thứ phức tạp. Bạn không thể làm
bất kì cái gì với hiện tượng đơn giản.
Cái đơn giản bị không nhận thấy, cái đơn giản bị
lãng quên, cái đơn giản bị bỏ qua. Cái đơn giản hiển
nhiên đến mức bạn chẳng bao giờ nhìn vào nó. Bạn cứ đi
tìm kiếm cái phức tạp - cái phức tạp có thách thức ở
trong nó. Cái phức tạp của một hiện tượng, của một vấn
đề, của một tình huống, cho bạn sự thách thức. Trong
thách thức đó năng lượng, cọ sát, xung đột tới: bạn phải
giải quyết vấn đề này, bạn phải chứng minh rằng bạn có thể giải quyết vấn đề này. Khi vấn đề có đó thì bạn xúc
động bởi kích động rằng có khả năng chứng minh điều gì
đó. Nhưng điều tôi đang nói là sự kiện đơn giản, nó
không phải là vấn đề. Nó không cho bạn thách thức, nó
đơn giản có đấy. Bạn có thể nhìn vào nó hay bạn có thể
né tránh nó. Mà nó cũng chẳng hô to lên; nó đơn giản
thế. Bạn thậm chí không thể gọi nó là một tiếng nói tĩnh
lặng, nhỏ bé bên trong bạn; nó thậm chí cũng không thì
thào. Nó đơn giản có đấy - bạn có thể nhìn, bạn có thể
không nhìn.
Nhìn nó đi! Và khi tôi nói, “Nhìn nó đi,” tôi muốn
nói nhìn nó ngay bây giờ, ngay lập tức. Không cần phải
đợi. Và làm nhanh chóng khi tôi nói, “Nhìn nó!” Nhìn
nó, nhưng nhanh chóng, bởi vì nếu bạn bắt đầu nghĩ, nếu
bạn không nhìn nhanh chóng, ngay lập tức, trong giây lát
đó thì tâm trí sẽ vào và tâm trí bắt đầu đem định kiến tới.
Và bạn lại trong trạng thái triết lí - nhiều ý nghĩ. Thế thì
bạn phải chọn cái gì phải và cái gì trái, suy xét đã bắt
đầu. Bạn bỏ lỡ khoảnh khắc tồn tại.
Khoảnh khắc tồn tại là ngay bây giờ. Chỉ có nhìn, và
đó là thiền - cái nhìn đó là thiền. Chỉ thấy tính sự kiện
của điều nào đó, của trạng thái nào đó, thì là thiền. Thiền
không có động cơ, do đó không có trung tâm cho nó. Và
bởi vì không có động cơ và không trung tâm, nên không
có cái ta trong đó. Bạn không vận hành từ một trung tâm
trong thiền, bạn hành động từ cái không. Đáp ứng từ cái
không chính là tất cả điều thiền là gì.
Tâm trí tập trung: nó hành động từ quá khứ. Thiền
hành động trong hiện tại, từ hiện tại. Nó là đáp ứng thuần
khiết cho hiện tại, nó không phải là phản ứng. Nó hành
động không từ kết luận, nó hành động khi thấy sự tồn tại.
Quan sát trong cuộc sống bạn: có khác biệt lớn khi
bạn hành động từ kết luận. Bạn thấy một người, bạn cảm
thấy hấp dẫn - một người đẹp, trông rất hay, trông hồn
nhiên. Mắt người đó thật đẹp, rung động thật đẹp. Nhưng
thế rồi người đó giới thiệu mình và người đó nói, “Tôi là
người Do Thái” - còn bạn là người Ki tô giáo. Cái gì đó
lập tức nhoáng lên và có khoảng cách: bây giờ người đó
không còn hồn nhiên nữa, người đó không còn đẹp nữa.
Bạn có một ý tưởng nào đó về người Do Thái. Hay,
người đó là người Ki tô giáo còn bạn là người Do Thái;
bạn có ý tưởng nào đó về người Ki tô giáo - điều Ki tô
giáo đã làm với người Do Thái trong quá khứ, điều người
Ki tô giáo khác đã làm với người Do Thái, cách thức họ
đã tra tấn người Do Thái qua các thời đại... và bỗng
nhiên người ấy là người Ki tô giáo - và một cái gì đó lập
tức thay đổi. Đây là hành động từ kết luận, định kiến,
không nhìn vào con người này - bởi vì con người này có
thể không phải là người mà bạn nghĩ người Do Thái phải
là... bởi vì mỗi người Do Thái là một loại người khác,
mỗi người Hindu là một loại người khác, mỗi người Mô
ha mét giáo cũng vậy. Bạn không thể nào hành động từ
định kiến. Bạn không thể nào hành động bằng việc phân
loại mọi người. Bạn không thể chia tổ mọi người; không
ai có thể bị nhóm vào các phân loại. Bạn có thể bị lừa bởi
hàng trăm người cộng sản, và khi bạn gặp người cộng
sản thứ một trăm linh một, đừng cứ tin vào phân loại mà
bạn đã lập ra trong trí: rằng người cộng sản là lừa dối -
hay bất kì cái gì khác. Người này có thể là một kiểu
người khác, bởi vì không hai người nào giống nhau cả.
Bất kì khi nào bạn hành động từ kết luận, đấy đều là
tâm trí. Khi bạn nhìn vào hiện tại và bạn không cho phép
bất kì ý tưởng nào cản trở thực tại, cản trở sự kiện, bạn chỉ nhìn vào sự kiện và hành động từ cái nhìn đó, đấy là
thiền.
Thiền không phải là cái gì đó bạn làm vào buổi sáng
và bạn kết thúc nó, thiền là cái gì đó bạn phải liên tục
sống trong mọi khoảnh khắc cuộc sống bạn. Bước đi,
ngủ, ngồi, nói, nghe - nó phải là một loại không khí.
Người thảnh thơi vẫn còn trong nó. Người cứ vứt bỏ quá
khứ thì vẫn còn trong thiền. Đừng bao giờ hành động từ
kết luận; những kết luận đó là ước định của bạn, định
kiến của bạn, ham muốn của bạn, sợ hãi của bạn, và tất
cả những cái còn lại của nó. Nói ngắn gọn, bạn có đó!
Bạn có nghĩa là quá khứ bạn. Bạn có nghĩa là tất cả
kinh nghiệm của bạn về quá khứ. Bạn đừng cho phép cái
đã chết thắng thế cái sống, đừng cho phép quá khứ ảnh
hưởng tới hiện tại, đừng cho phép cái chết chế ngự cuộc
sống bạn - đó chính là thiền là gì. Nói ngắn gọn, trong
thiền, bạn không có đó. Cái chết không kiểm soát cái
sống.
Thiền là một loại kinh nghiệm đem cho bạn phẩm
chất hoàn toàn khác để sống cuộc sống của mình. Thế thì
bạn không sống như người Hindu, người Mô ha mét
giáo, người Ấn Độ hay người Đức; bạn đơn giản sống
như tâm thức. Khi bạn sống trong khoảnh khắc này và
không có gì can nhiễu tới, hành động là toàn bộ bởi vì
không có phân tán - phân tán tới từ quá khứ và tương lai.
Khi chú ý là toàn bộ, hành động là toàn bộ. Nó không để
lại cái gì. Nó liên tục giải phóng bạn, nó chưa bao giờ tạo
ra giam hãm bạn, nó chưa bao giờ bỏ tù bạn. Và đó là
mục đích tối thượng của Phật; đó là cái ông ấy gọi là niết
bàn.
‘Niết bàn’ có nghĩa là tự do - hoàn toàn, tuyệt đối,
không cản trở. Bạn trở thành bầu trời rộng mở. Không có
biên giới cho nó, nó là vô hạn. Nó đơn giản có đấy... và
thế thì chẳng có gì bao quanh bạn, bên trong và bên
ngoài. Cái không là sự vận hành của trạng thái thiền của
tâm thức. Và trong cái không đó là phúc lành. Bản thân
cái không đó là phúc lành.
Bây giờ đến lời kinh.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Trong việc thiếu vắng của ý nghĩ bao phủ
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Nhớ lấy, cái ‘do đó’ ấy bao giờ cũng là một chỉ dẫn
rằng Phật đang nhìn vào trong cái không của Sariputra -
vì ông ấy luôn cảm thấy rằng năng lượng của ông ấy
đang thảnh thơi, rằng năng lượng của ông ấy không còn
trong rối loạn nữa, rằng ông ấy không còn nghiền ngẫm
mà lắng nghe, rằng ông ấy không nghĩ mà chỉ có đó với
Phật, hiện diện, cởi mở, sẵn có. Cái ‘do đó’ ấy chỉ ra việc
bầy tỏ của bản thể Sariputra. Phật đang thấy ngày càng
nhiều cánh hoa mở ra cho nên ông ấy có thể đi thêm một
bước nữa, cho nên ông ấy có thể đưa Sariputra đi sâu
thêm một bước nữa. Sariputra đang có sẵn.
Cái ‘do đó’ này không phải là logic, cái ‘do đó’ này
là sự tồn tại. Nhìn vào trong Phật, Sariputra đang bầy tỏ
ra. Và nhìn vào trong Sariputra, Phật sẵn sàng đưa ông ấy tiến thêm chút nữa sang cõi bên kia. Mỗi phát biểu lại
càng sâu hơn và cao hơn.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc tin cậy vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Từng lời một đều phải được thiền về nó - không tập
trung, chú ý, nhưng thiền; lắng nghe, nhìn vào, không
suy tư, không nghĩ tới. Những điều này còn cao hơn ý
nghĩ, lớn hơn ý nghĩ. Ý nghĩa là đần độn trong cõi này.
Trước hết ông ấy nói:
... chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Thiền không thể được đạt tới, bởi vì thiền không thể
có động cơ. Khi bạn đạt tới cái gì đó, bạn đạt tới qua
động cơ. Khi bạn đạt tới cái gì đó, bạn bao giờ cũng phải
làm việc cho tương lai và lập kế hoạch cho tương lai.
Bạn không thể đạt tới được bất kì cái gì ngay bây giờ -
ngoại trừ thiền. Để tôi nhắc lại: Bạn không thể đạt tới
được bất kì cái gì ngay bây giờ - ngoại trừ thiền. Tại sao?
Nếu bạn muốn tiền bạc, bạn không thể đạt được điều đó
ngay bây giờ, bạn sẽ phải làm việc vất vả về nó; hợp
pháp, bất hợp pháp - nhưng bạn sẽ phải làm việc vì nó.
Có những cách thức chậm rãi, bạn có thể trở thành
doanh nhân; và có những cách thức nhanh hơn, bạn có
thể trở thành chính khách - nhưng bạn sẽ phải điều gì đó.
Dù chậm hay nhanh, nhưng thời gian vẫn cần phải có.
Thời gian là cái cần thiết. Không có thời gian bạn không
thể đạt tới tiền bạc. Nếu không có thời gian, làm sao bạn
đạt tới trong chính khoảnh khắc này? Cho dù bạn có
muốn ăn cướp nhà hàng xóm, nếu bạn muốn xoáy ví của
người đang ngồi cạnh bạn, thì thế cũng vẫn cần có thời
gian. Thời gian là cái phải có. Nếu bạn muốn trở nên nổi
tiếng, thời gian sẽ cần phải có. Nếu bạn muốn trở thành
có quyền lực chính trị, thời gian sẽ cần phải có.
Chỉ thiền mới thể được đạt tới ngay bây giờ, chính
khoảnh khắc này, ngay lúc này. Tại sao? - bởi vì đấy là
bản tính của bạn. Tại sao? - bởi vì nó đã có đấy rồi. Bạn
còn chưa đòi tới nó, vậy thôi; nhưng nó vẫn còn đấy,
chưa được đòi hỏi tới. Bạn có thể đòi nó ngay bây giờ.
Nó không một khoảnh khắc nào bị mất đi cả.
... chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Và niết bàn không là gì ngoài việc thiền đạt tới vòng
tròn đầy đủ. Thượng đế chẳng là gì khác việc nụ của
thiền đã trở thành hoa.
Đây không phải là việc đạt tới, đây là chính thực tại
của bạn. Bạn có thể cứ không chú ý tới chúng trong
nhiều thời đại, quên lãng chúng trong nhiều thời đại,
nhưng bạn không thể làm mất chúng; chúng đang có đấy,
ở ngay bên trong bạn. Bất kì ngày nào bạn nhắm mắt lại
và nhìn thì bạn sẽ bắt đầu cười. Và bạn đã tìm kiếm phúc
lạc này, mà tìm kiếm sai chỗ. Bạn đã tìm kiếm an toàn
này, đến từ cái không, nhưng bạn tìm kiếm trong tiền
bạc, số dư ngân hàng, thế này thế nọ. Và nó chẳng bao
giờ xảy ra qua điều đó. Nó không thể xảy ra điều đó
được. Không có gì bên ngoài bạn có thể làm cho cuộc
sống bạn được an toàn. Bên ngoài là bất an; làm sao nó
có thể làm cho cuộc sống bạn được an toàn? Chính phủ
không thể làm cho cuộc sống của bạn được an toàn, bởi
vì bản thân chính phủ là bất an - cách mạng có thể tới. 

Ngân hàng không thể nào làm cho cuộc sống của bạn
được an toàn vì ngân hàng có thể phá sản. Chỉ ngân hàng
mới có thể phá sản, cái gì khác còn phá sản được? Người
đàn bà mà bạn yêu không thể làm cho cuộc sống bạn
được an toàn - cô ấy có thể đi yêu người khác. Người đàn
ông bạn yêu không thể làm cuộc sống bạn được an toàn -
người ấy có thể chết.
Tất cả những điều này vẫn còn đó. Cho nên bạn càng
an toàn bên ngoài, bạn càng trở nên bất an hơn, bởi vì thế
thì bạn sợ ngân hàng vì nó có thể bị phá sản. Nếu bạn
không có tài sản, bạn chẳng bận tâm; cứ để cho nó phá
sản ngày nào đó. Nhưng nếu bạn có tài khoản ngân hàng
bạn lo nghĩ. Thế thì bạn đạt tới thêm một điều bất an -
khả năng này về việc ngân hàng phá sản. Bây giờ bạn
không thể ngủ được bởi vì bạn cứ nghĩ mãi về điều gì sắp
xảy ra.
Nếu bạn đặt tin cậy của mình vào bất kì điều gì bên
ngoài, điều đó tạo ra thêm bất ổn. Đó là lí do tại sao
người càng trở nên giầu có, lại càng bất an hơn. Nhưng
mà tôi cũng không thiên về nghèo đâu, nhớ lấy. Tôi
không nói rằng người nghèo là an toàn; anh ta có cái bất
an của mình. Người giầu có cái bất an của người giầu; tất
nhiên cái bất an của người giầu thì phức tạp hơn còn cái
bất an của người nghèo thì đơn giản - nhưng bất an vẫn
có đó. Và tôi không nói rằng nghèo là một cái gì đó rất
đặc biệt, hoặc rằng nghèo là một cái gì đó rất quan trọng
và có ý nghĩa, hoặc rằng bạn có thể khoe khoang khoác
lác rằng bạn nghèo.
Nghèo chẳng có gì liên quan với tâm linh cả. Mà
giầu cũng chẳng có liên quan gì tới tâm linh cả. Đấy là
những sự kiện không có quan hệ. Người nghèo trông bề
ngoài cũng như người giầu cả thôi. Có thể người nghèo
chỉ có một chiếc xe bò kéo còn người giầu thì có xe
Cadillac, nhưng điều đó cũng chẳng thành vấn đề. Xe bò
kéo cũng chỉ là cái bên ngoài như xe Cadillac; cả hai đều
trông từ bên ngoài. Người giầu có thể có nhiều tài khoản
ngân hàng, còn kẻ nghèo có thể chỉ có ví tiền nhỏ hay có
chút ít tiền tiết kiệm, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề -
cả hai đều là nhìn từ ngoài.
An toàn là trên con đường nội tâm, bởi vì tại đó bạn
mới nhận ra rằng chẳng ai chết cả, rằng chẳng ai đau khổ
cả, rằng chẳng có gì có thể xảy ra, rằng có bầu trời thuần
khiết. Mây tới rồi đi, còn bầu trời tồn tại mãi. Cuộc sống
tới rồi đi, hình dạng tới rồi đi, nhưng cái không thì tồn tại
mãi.
Cái không này đã có đó rồi. Đó là lí do tại sao Phật
nói điều đó có thể được đạt tới chỉ khi bạn hiểu rằng nó
là không đạt tới được. Nó có thể được đạt tới chỉ khi bạn
hiểu sự kiện cơ sở: rằng nó đã có đó, rằng nó đã là hoàn
cảnh.
Cái trống rỗng đã có đó thì không có cách nào để tiến
hoá, phát triển. Nó tràn đầy ở đó. Do đó nó có thể được
đạt tới trong một khoảnh khắc. Phật gọi nó là ‘cái trống
rỗng tràn đầy’, bởi vì cái trống rỗng chỉ có thể tràn đầy
nếu nó có đó. Nếu nó không tràn đầy, điều đó có nghĩa là
một cái gì đó khác hơn cái trống rỗng cũng đang có đó,
và cái gì đó khác này sẽ cản trở, ngăn cản, và cái gì khác
đó sẽ tạo ra nhị nguyên, và cái gì khác đó sẽ tạo ra cọ sát,
và cái gì khác đó sẽ tạo ra căng thẳng, và cái gì khác đó
sẽ tạo ra lo âu - bạn không thể thoải mái với ‘cái gì khác
đó’.
Cái trống rỗng có đó chỉ khi nó tràn đầy, khi tất cả
các chướng ngại đã bị loại bỏ, khi bạn không có bất kì cái gì bên trong, khi không ai có đó để là người quan sát
nó. Phật nói: cái trống rỗng này thậm chí không phải là
kinh nghiệm, bởi vì nếu bạn kinh nghiệm nó thì điều đó
có nghĩa là bạn vẫn có đó để kinh nghiệm nó. Nó là bạn,
cho nên bạn không thể kinh nghiệm nó. Bạn có thể kinh
nghiệm chỉ cái không là bạn. Việc kinh nghiệm có nghĩa
là nhị nguyên - người quan sát và cái được quan sát,
người biết và cái được biết, chủ thể và khách thể, người
thấy và vật được thấy. Nhưng chỉ có cái trống rỗng,
không ai thấy nó, không ai được thấy, không có gì như
một vật, không cái gì như chủ thể. Cái trống rỗng bất nhị
này là tràn đầy. Nó hoàn toàn tràn đầy. Tính đầy đặn của
nó không thể làm mịn thêm, tính đầy đặn của nó không
thể được thêm vào. Không cái gì có thể lấy ra từ nó bởi
vì không có gì cả, và cũng chẳng cái gì có thể thêm vào
nó; nó là hoàn toàn tràn đầy.
‘Trống rỗng tràn đầy’ không phải là kinh nghiệm,
bởi vì không có người kinh nghiệm trong nó. Do đó, Phật
nói: Tâm linh không phải là kinh nghiệm. Thượng đế
không thể được kinh nghiệm. Những người nói, “Tôi đã
kinh nghiệm Thượng đế,” thì hoặc là không hiểu điều họ
đang nói là gì hoặc họ dùng ngôn ngữ rất, rất không thích
hợp. Bạn không thể kinh nghiệm Thượng đế được. Trong
kinh nghiệm đó bạn không được tìm thấy. Kinh nghiệm
có đó, nhưng người kinh nghiệm không có đó - cho nên
bạn không thể nào nói nó là kinh nghiệm được. Cho nên
bất kì khi nào ai đó hỏi Phật, “Thầy đã kinh nghiệm
Thượng đế chưa?” thì ông ấy tĩnh lặng, ông ấy không nói
một lời nào. Ông ấy đổi chủ đề ngay lập tức, ông ấy bắt
đầu nói về cái gì đó khác.
Bất kì khi nào điều đó được hỏi, trong toàn bộ cuộc
đời mình, ông ấy nhất mực im lặng. Nhiều người nghĩ
rằng ông ấy chưa kinh nghiệm Thượng đế; đó là lí do tại
sao ông ấy tĩnh lặng. Nhưng ông ấy là người duy nhất
chẳng nói gì - phủ định hay khẳng định. Và đấy không
phải bởi vì ông ấy đã không kinh nghiệm. Ông ấy đã
kinh nghiệm, nhưng điều đó không thể được nói như một
kinh nghiệm; đó là lí do tại sao ông ấy giữ tĩnh lặng. Đó
là lí do tại sao Jesus vẫn còn im lặng khi Pontius Pilate
hỏi, “Chân lí là gì?”
J. Krishnamurti cứ nói mãi... và ông ấy đưa ra phân
biệt rất tinh tế giữa kinh nghiệm và việc kinh nghiệm, và
đó là phân biệt hay - ông ấy nói, “Đấy là việc kinh
nghiệm, không phải là kinh nghiệm.” Nó là quá trình,
không phải là vật. Nó là sống động, không chết. Nó vẫn
tiếp diễn, không kết thúc. Bạn đi vào Thượng đế, và thế
thì đấy là hiện tượng đang tiếp diễn: nó cứ tiếp diễn mãi
đến vĩnh viễn; bạn chẳng bao giờ ra khỏi nó. Đấy là việc
kinh nghiệm, quá trình sống - giống như dòng sông,
giống như hoa nở, và nở, nở mãi, và cứ tiếp tục nở. Và
nó chẳng bao giờ đi tới chấm dứt cả.
Nói rằng một người đã kinh nghiệm Thượng đế là
ngu xuẩn, lừa dối và đần độn. Nói rằng một người đã đạt
tới moksha, niết bàn, chân lí, là không có nghĩa lắm, bởi
vì có những điều mà không thể phân loại được như sự
thành đạt.
Cho nên Phật nói:
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Khi tâm trí đã tới điểm dừng lại và không còn quan
tâm tới việc đạt được cái gì nữa, nó đạt tới phật tính. Khi tâm trí đã đi tới dấu chấm hết và không còn đi đâu nữa,
nó bắt đầu đi vào trong, nó bắt đầu rơi vào trong bản thể
riêng của người ta, cái vực thăm thẳm đó. Cái trống rỗng
tràn đầy được đạt tới bởi không thành đạt. Cho nên bạn
đừng trở thành người thành đạt, đừng bắt đầu nghĩ dưới
dạng thành đạt - rằng bạn đã đạt được cái này cái nọ,
rằng bạn đã đạt tới Thượng đế. Đấy chỉ là trò chơi; tâm
trí lại lừa phỉnh bạn. Tên của trò chơi thay đổi, nhưng trò
chơi, trò chơi tinh vi, thì vẫn thế.
... mà bồ tát đạt tới
... qua không thành đạt ...
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ...
Đây là phát biểu rất, rất có ý nghĩa. Phật nói: người
ta không nên dựa vào bất kì cái gì. Bây giờ điều này lại
ngược với tôn giáo cho phật tử thông thường, bởi vì tôn
giáo cho phật tử thông thường có ba điều qui y nền tảng:
Buddham sharanam gachchhami, sangam sharanam
gachchhami, dhammam sharanam gachchhami. Khi đệ
tử tới với Phật, người ấy cúi đầu, buông xuôi cho ông ấy
và nói, “Tôi qui y nơi Phật” - buddham sharanam
gachchhami.
“Tôi qui y vào cộng đồng của Phật” - sangam
sharanam gachchhami: “Tôi qui y vào luật do Phật dạy”
- dhammam sharanam gachchhami. Và Phật nói ở đây là
người ta không nên dựa vào bất kì cái gì - không có qui
y, không đâu là chỗ trú ẩn cả.
Bản Tâm Kinh này đã được gọi là linh hồn của Phật
giáo, và nhà thờ Phật đã được gọi là thân thể. Ba điều qui
y này là dành cho tâm trí rất bình thường đang đi tìm chỗ
trú ẩn nào đó, chỗ chống đỡ nào đó, chỗ hỗ trợ nào đó.
Những phát biểu này là dành cho linh hồn cao nhất -
người đã tới bậc thứ sáu, và đang đi lên giữa bậc thứ sáu
và thứ bẩy, chỉ thêm một chút thúc đẩy...
Do đó, này Sariputra...
Tương truyền rằng bài thuyết pháp đầu tiên của Phật,
vẫn được gọi là bài Kinh Chuyển pháp (quay bánh xe tôn
giáo), Dhamma Chakrapravatan Sutra - là bài thuyết
pháp đầu tiên của ông ấy, tiến hành gần Varanasi - đã tạo
ra cái gọi là tôn giáo thông thường, dành cho quần chúng
bình thường. Trong bài thuyết pháp đó ông ấy tuyên bố,
“Tới và qui y vào Phật; tới và qui y vào luật mà Phật dạy;
tới và qui y vào cộng đồng, vào cộng đồng của Phật.”
Sau hai mươi năm ông ấy tuyên bố hệ thống tôn giáo
thứ hai này. Ông ấy mất hai mươi năm để đưa vài người
tới khả năng cao nhất. Điều này được biết tới như buổi
thuyết giảng thứ hai quan trọng nhất. Buổi thuyết giảng
thứ nhất là tại Saranath, gần Varanasi, khi ông ấy bảo với
mọi người, “Tới đây và qui y vào ta. Ta đã chứng ngộ!
Tới và qui y vào ta. Ta đã đạt tới! Tới và cùng chia sẻ ta.
Ta đã tới đích! Tới và theo ta.” Đó là nói cho tâm trí bình
thường; đấy là tự nhiên. Phật không thể tuyên bố Tâm
Kinh; quần chúng sẽ không thể nào hiểu nổi.
Thế rồi ông ấy làm việc trong hai mươi năm cùng đệ
tử. Bây giờ Sariputra đang tới rất gần. Bởi vì việc tới gần
đó, ông ấy nói:
Do đó, này Sariputra...
Bây giờ tôi có thể nói điều đó cho bạn. Tôi có thể nói
cho bạn rằng dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ... Chỉ một
điều mà người ta phải dựa vào, và đó là nhận biết, chăm chú. Chỉ một điều mà người ta phải dựa vào, đó là cội
nguồn nội tâm của riêng mình, bản thể mình. Mọi thứ
khác đều phải bị loại bỏ, tất cả các qui y.
Qua việc không dựa vào cái gì ngoài sự hoàn hảo của
thiền, điều người ta phải làm không phải là dựa vào bất
kì cái gì, thế gian hay cái khác, mà phải buông bỏ tất cả,
để cho cái trống rỗng kết quả được tự do chạy nhảy,
không bị cản trở bởi bất kì thái độ ủng hộ hay phản đối
nào, chấm dứt dựa vào bất kì cái gì, không tìm kiếm chỗ
trú ẩn hay hỗ trợ ở đâu cả - đó mới là từ bỏ thực.
Cái ta tách biệt của chúng ta là một thực tại giả tạo
có thể duy trì bản thân nó chỉ bởi việc tìm hỗ trợ hay ủng
hộ để nghiêng vào hay dựa vào. Trú ẩn vào tam bảo là
hành động trung tâm của tôn giáo cho phật tử - trú ẩn vào
Phật, trú ẩn vào tăng đoàn, trú ẩn vào pháp. Tại đây Phật
bác bỏ điều đó. Điều này không mâu thuẫn. Ông ấy đơn
giản nói cái bạn có thể hiểu được. Trong khẳng định của
tôi bạn sẽ tìm ra cả nghìn lẻ một mâu thuẫn, bởi vì chúng
đã được tạo ra hướng tới những người khác nhau. Bạn
càng trưởng thành hơn, tôi càng đưa ra những khẳng định
khác - bởi vì khẳng định của tôi là đáp ứng lại cho bạn.
Tôi không nói với bức tường. Tôi đang nói với bạn, và
tôi chỉ có thể cho cái mà bạn có thể hiểu được. Tâm thức
bạn càng cao hơn, tâm thức bạn càng sâu hơn, tôi sẽ nói
những điều càng khác hơn.
Một cách tự nhiên, những phát biểu khác nhau này sẽ
rất mâu thuẫn. Nếu người ta cứ theo nhất quán logic,
người ta sẽ chẳng tìm thấy gì cả. Bạn không thể tìm ra
bất kì nhất quán logic nào trong các phát biểu của Phật.
Đó là lí do tại sao, ngày Phật chết, Phật giáo đã bị phân
chia thành ba mươi sáu tông phái. Đúng ngày ông ấy
chết, và các đệ tử đã bị phân chia thành ba mươi sáu tông
phái - điều gì đã xảy ra?
Bởi vì ông ấy đã đưa ra biết bao nhiêu phát biểu cho
những người khác nhau - bởi vì tâm thức và hiểu biết
khác nhau của họ - tất cả họ đều bắt đầu cãi nhau và đánh
nhau. Họ nói, “Điều này Phật đã nói cho tôi!” Bạn cứ thử
nghĩ mà xem: năm đệ tử đầu, với họ ông ấy nói, “Ta đã
chứng ngộ - bây giờ tới ta và ta sẽ đưa các ông đến đó”...
nếu những đệ tử đầu tiên này gặp Sariputra và Sariputra
nói, “Điều ấy đạt tới qua một loại không thành đạt; người
tuyên bố rằng mình đã thành đạt là sai, bởi vì điều đó
không thể nào đạt được” - thì những đệ tử đầu tiên này sẽ
nói gì? Họ sẽ nói, “Các ông nói gì vậy? Chúng tôi là
những đệ tử lâu nhất, những người cao cấp nhất, và đây
là phát biểu đầu tiên mà Phật đã nói cho chúng tôi: ‘Ta
đã đạt tới!’ Trong thực tế chúng tôi sẽ chẳng bao giờ theo
ông ấy nếu ông ấy không tuyên bố điều đó. Bởi vì ông ấy
đã tuyên bố điều đó, cho nên chúng tôi theo ông ấy.
Động cơ chúng tôi thật rõ ràng: rằng ông ấy đã đạt tới,
chúng tôi cũng muốn đạt tới; đó là lí do tại sao chúng tôi
đã theo ông ấy. Và ông ấy đã nói với chúng tôi, ‘Ta là
chỗ trú ẩn của các ông. Tới đây và qui y vào ta. Để ta là
chỗ trú ẩn của các ông.’ Và ông đang nói về cái điều vô
nghĩa gì vậy? Phật không thể nói điều này. Ông phải đã
hiểu lầm rồi. Cái gì đó bị sai, hay ông đã bịa ra chuyện
đó?”
Bây giờ phát biểu này, Tâm Kinh này, đã được nêu
ra trong chỗ riêng tư. Nó đã được nói cho Sariputra, nó
được đặc biệt phát biểu cho Sariputra. Nó giống như một
bức thư. Sariputra không thể tạo ra bất kì bằng chứng
nào, bởi vì trong ngày xưa ấy đã làm gì có máy ghi âm.
Ông ấy chỉ đơn giản nói, ông ấy có thể đưa ra lời thề:

“Tôi không nói bất kì điều gì không đúng. Phật đã nói
cho tôi, ‘Chỉ dựa vào thiền của ông mà không vào cái gì
khác.’”
Tâm trí dựa vào cái gì đó khác thì là cái ta giả tạo,
bản ngã. Bản ngã không thể nào tồn tại mà không có cái
đỡ, nó muốn có cái chống đỡ. Cái gì đó phải đỡ cho nó.
Một khi tất cả các cột chống đã bị rút đi, bản ngã sập đổ
xuống đất và biến mất. Nhưng chỉ khi bản ngã sập đổ
xuống đất tâm thức mới nảy sinh trong bạn, cái là vĩnh
hằng, cái là vô thời gian, bất tử.
Tại đây, Phật nói: “Không có chỗ trú ẩn, Sariputra.
Không có phương thuốc, Sariputra. Không có gì và
không có đâu mà đi cả. Ông đã ở đó rồi.”
Nếu bạn tới cái trống rỗng tràn đầy này mà không
được chuẩn bị, nó sẽ làm cho bạn run lẩy bẩy. Nếu bạn bị
ai đó ném vào nó... Chẳng hạn, đôi khi mọi người tới tôi
với tình yêu và lòng kính trọng sâu sắc; họ nói, “Osho ơi,
tại sao thầy không đẩy tôi mạnh thêm chút nữa?” Nếu
bạn không sẵn sàng cho nó và bạn bị đẩy vào nó, thì
cũng chẳng có ích gì. Điều đó có thể cản trở tiến bộ của
bạn trong nhiều kiếp sắp tới. Một khi bạn đã đi vào trong
cái không đó mà không được chuẩn bị, bạn sẽ bị choáng
váng, hoảng sợ, sợ hãi tới chết, đến mức, trong ít nhất vài
kiếp sống, bạn chẳng bao giờ dám tới bất kì ai nói về cái
không, người nói về Thượng đế. Bạn sẽ tránh né. Sợ hãi
đó sẽ trở thành một hạt mầm trong bạn.
Không, bạn không thể nào bị thúc đẩy mà không
được chuẩn bị. Bạn có thể bị thúc đẩy chỉ dần dần theo
cùng tỉ lệ như bạn đã chuẩn bị.
Bạn đã bao giờ nghe lời phát biểu nổi tiếng của
Soren Kierkegaard, triết gia Đan mạch, người sáng lập ra
thuyết hiện sinh hiện đại chưa? Ông ấy nói, “Con người
run rẩy, run rẩy thường xuyên.” Tại sao? - bởi vì cái chết
có đó. Tại sao? - bởi vì sợ hãi có đó, “Ngày nào đó mình
có thể không còn nữa.”
Ông ấy nói đúng về tâm trí bình thường - mọi người
đều run rẩy. Vấn đề bao giờ cũng là, “Hiện hữu hay
không hiện hữu.” Nó bao giờ cũng treo ở đó - cái chết.
Bạn không thể quan niệm được sự biến mất vào cái
không - điều đó làm tổn thương, điều đó gây sợ hãi. Và
nếu bạn nhìn sâu vào bên trong mình, bạn sẽ thấy bản
thân mình run rẩy với ý tưởng về việc là không. Bạn
muốn là có, bạn muốn còn lại, bạn muốn vẫn còn. Bạn
muốn cứ còn mãi. Đó là lí do tại sao mọi người chẳng
biết gì về bản thể bên trong mà cứ tiếp tục tin rằng linh
hồn là bất tử - không phải bởi vì họ biết, nhưng bởi sợ
hãi. Bởi vì sự run rẩy đó mà họ phải tin rằng linh hồn là
bất tử. Đó là một loại đáp ứng mong muốn.
Cho nên bất kì kẻ ngốc nào đang nói về tính bất tử
của linh hồn cũng đều rất hấp dẫn đối với bạn. Bạn sẽ bị
mắc vào. Không phải là bạn đã hiểu điều người đó nói -
bản thân người ấy có thể chẳng hiểu - nhưng điều ấy sẽ
rất hấp dẫn. Tại Ấn Độ mọi người tin vào tính bất tử của
linh hồn, và bạn không thể nào tìm ra nhiều người hèn
nhát hơn ở bất kì đâu khác. Trong hàng nghìn năm họ
vẫn còn là nô lệ, nô lệ cho những quốc gia rất nhỏ. Bất kì
ai đã tới Ấn Độ, đều chinh phục Ấn Độ mà chẳng mấy
khó khăn gì. Điều đó quá đơn giản. Và đấy là những
người tin vào tính bất tử của linh hồn. Trong thực tế, một
quốc gia tin vào tính bất tử của linh hồn thì không thể
nào bị chinh phục được, bởi vì không ai sẽ sợ chết. Làm
sao bạn chinh phục được người không sợ chết? Họ sẽ
chết tất cả, nhưng họ sẽ không chịu bất kì khuất phục nào, họ không thể chịu thua bất kì kẻ chinh phục nào.
Nhưng trong hàng nghìn năm, Ấn Độ vẫn còn là nô lệ.
Rất dễ dàng, nó cứ còn là nô lệ.
Nước Anh là một nước rất nhỏ - có vài quận ở Ấn Độ
còn lớn hơn. Nước Anh có thể cai trị trên quốc gia to lớn
này một cách dễ dàng; chẳng khó khăn gì. Tại sao? ... Và
những người này tin rằng linh hồn là bất tử! Nhưng niềm
tin không phải là kinh nghiệm của họ, niềm tin là từ sợ
hãi. Thế thì mọi sự được giải thích. Đây là những người
hèn nhát, sợ sệt, sợ chết - do đó họ níu bám lấy ý tưởng
rằng linh hồn là bất tử. Không phải là họ biết, không phải
là họ đã kinh nghiệm; họ chưa bao giờ kinh nghiệm bất
kì điều gì giống thế, họ chỉ kinh nghiệm cái chết bao
quanh. Vì cái chết mà họ sợ đến thế. Cho nên một mặt họ
tin vào cái bất tử của linh hồn; mặt khác, bất kì ai cũng
có thể hành hạ họ và họ sẵn sàng qui phục và chạm chân.
Chính là từ sợ mà con người tin vào tính bất tử.
Chính là từ sợ mà con người tin vào Thượng đế. Nó bắt
nguồn từ run rẩy. Soren Kierkegaard cũng đúng về tâm
trí bình thường.
Một triết gia cực đoan khác, Jean-Paul Sartre, nói:
“Con người bị kết án là tự do.” Tại sao lại ‘bị kết án’?
Tại sao lại dùng cái từ xấu xí ‘bị kết án’ này? Tự do - đấy
là một loại kết án sao? Đúng đấy, với tâm trí thông
thường nó là vậy, bởi vì tự do có nghĩa là nguy hiểm. Tự
do có nghĩa là bạn không thể nào dựa vào bất kì cái gì,
bạn phải dựa vào chính mình. Tự do có nghĩa là tất cả
những cái chống đỡ đều đã bị lấy đi mất, tất cả những hỗ
trợ đều biến mất. Tự do về cơ bản có nghĩa là cái không.
Bạn tự do chỉ khi bạn là cái không.
Nghe điều Sartre nói: “Con người, khi được tự do,
trở nên khổ não.” Khổ não sao? Đúng đấy, nếu bạn
không sẵn sàng cho nó, nếu bạn không được chuẩn bị để
đi vào trong nó, thì nó là khổ não. Không ai muốn được
tự do cả, bất kể điều mọi người cứ nói. Không ai muốn tự
do cả. Mọi người muốn là nô lệ, bởi vì trong cảnh nô lệ
thì trách nhiệm có thể được ném lên người nào đó khác.
Bạn không bao giờ chịu trách nhiệm cả, bạn chỉ là một
nô lệ: bạn có thể làm gì nào? Bạn chỉ làm cái được ra
lệnh.
Nhưng khi bạn tự do, bạn sợ. Trách nhiệm nảy sinh.
Mỗi hành động, và bạn cảm thấy trách nhiệm: nếu bạn
làm điều này, điều này có thể xảy ra; hay nếu bạn làm
việc khác, cái gì đó khác có thể xảy ra. Thế thì chọn lựa
thuộc phần bạn, và chọn lựa tạo ra run rẩy. Và Jean-Paul
Sartre cũng đúng về tâm trí thông thường: tự do tạo ra
khổ não.
Ông ấy nói, “Con người bị kết án là tự do,” bởi vì tự
do tạo ra khiếp đảm. Nó là tự do khiếp đảm. Chẳng có gì
bảo đảm cho tôi trong đó tôi có thể trú ẩn được. Tôi phải
tự mình tạo ra những giá trị này. Tôi quyết định ý nghĩa
của bản thân mình và vũ trụ mình, một mình, không thể
bào chữa được và không có cớ nào cả. Tôi là trình bầy
công khai về tự do, bạn là khác. Tự do của tôi là bày tỏ
công khai về bản thể tôi, bạn cũng vậy. Tính duy nhất
của chúng ta bao gồm trong sự kiện là mỗi chúng ta làm
điều này theo cách của mình.
Nhưng Sartre nghĩ tự do tạo ra khổ não, và tự do là
một loại kết án, sự nguyền rủa. Và Kierkegaard nói,
“Con người là sự run rẩy thường xuyên.” Còn Phật lại
muốn bạn đi vào trong tự do này, vào trong cái không
này. Một cách tự nhiên, bạn phải được chuẩn bị về nó. 

Sariputra đã sẵn sàng bây giờ.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Trong việc thiếu vắng của ý nghĩ bao phủ
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí... và ông ấy
không run rẩy trong cái không này.
Điều này có vẻ gần như không thể có được cho tâm
trí thông thường: làm sao bạn có thể còn không run rẩy
khi bạn đang biến mất? Khi bạn tan chảy vào trong cái
không biết, làm sao bạn vẫn còn không hoảng sợ? Làm
sao bạn có thể đảm đương không chạy trốn? Làm sao bạn
có thể đảm đương không bắt đầu đi tìm những chống đỡ
và ủng hộ để cho bạn có thể tạo ra cảm giác về bản ngã,
về cái ta?
Đó là lí do tại sao Phật đã phải đợi hai mươi năm. Và
thế nữa, ông ấy đã phát biểu chân lí này cho Sariputra
trong một đối thoại cá nhân, không trong buổi thuyết
giáo công cộng. Và nếu mọi người không tin vào
Sariputra, họ cũng đúng - bởi vì Phật đã nói điều gì đó
khác với họ.
Nhớ điều này về tôi nữa! Nhớ điều này: phát biểu
của tôi là mâu thuẫn bởi vì chúng được đưa ra cho nhiều
người khác nhau, chúng được đưa ra cho các tâm thức
khác nhau. Và bạn càng trưởng thành hơn, tôi sẽ càng trở
nên mâu thuẫn hơn; tôi sẽ càng phải bác bẻ lại điều tôi đã
nói trước đó - bởi vì điều đó sẽ không còn liên quan tới
bạn nữa. Với tâm thức trưởng thành của bạn tôi sẽ phải
đáp ứng theo cách khác. Mỗi bước ngoặt trong tâm thức
của bạn sẽ là một bước ngoặt trong phát biểu của tôi. Và
khi tôi ra đi rồi, đừng tạo ra ba mươi sáu tông phái - bởi
vì ba mươi sáu tông phái sẽ không có tác dụng.
Cái không đem lại tự do. Tự do khỏi cái ta là tự do
tối thượng. Không có tự do nào cao hơn điều đó. Cái
không là tự do. Và nó không phải là khổ não, như Jean-
Paul Sartre nói, và nó không là run rẩy, như Kierkegaard
nói. Nó là phúc lành, nó là phúc lạc tối thượng. Nó không
là run rẩy bởi vì không có ai để run rẩy cả.
Thiền chuẩn bị cho bạn về điều đó, bởi vì khi bạn đi
vào trong thiền, hàng ngày bạn thấy bản thân mình càng
ít. Và bạn càng ít thấy bản thân mình, theo cùng tỉ lệ bạn
lại càng trưởng thành phúc lạc của mình, phúc lành của
mình, hạnh phúc của mình. Dần dần, bạn học được toán
học của thế giới nội tâm - rằng bạn càng có đấy, càng
nhiều địa ngục; bạn càng ít đấy, càng nhiều cõi trời. Cái
ngày bạn không có đấy, đó là niết bàn; ngôi nhà tối
thượng đã đạt tới. Bạn đã tới vòng tròn đầy đủ, bạn đã trở
lại thành đứa trẻ. Không còn cái ta nào nữa.
Nhớ lấy, tự do không có nghĩa là tự do của cái ta. Tự
do nghĩa là: tự do khỏi cái ta. Với Sartre điều đó có nghĩa
‘tự do của cái ta’. Đó là lí do tại sao điều đó có cảm giác
kết án; cái ta vẫn còn. Nó trở thành tự do, nhưng nó vẫn
còn - và đó là lí do tại sao có sợ hãi.
Nếu tự do là sao cho cái ta biến mất đi trong nó, và
chỉ có tự do mà không có ai tự do, thế thì ai có thể run
rẩy, và ai có thể cảm thấy khổ não, và ai có thể cảm thấy
bị kết án? Và thế thì không có vấn đề chọn lựa; tự do đó hành động theo ý riêng của nó. Người ta hành động từ vô
chọn lựa, và không có trách nhiệm nào còn lại - bởi vì
không có ai có thể cảm thấy có trách nhiệm gì. Cái không
hành động. Vi vô vi - không hành động hành động. Nó là
đáp ứng giữa cái không bên trong và cái không bên
ngoài, và không có gì cản trở.
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ...
một mình ... cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Bây giờ không ý nghĩ bao phủ. Và ý nghĩ bao phủ là
rào chắn phân chia bạn với cái không bên ngoài. Đó là
điều tôi đã nói đêm qua cho Neelamber, Mark cũ, rằng
tôi đã nói về hôm qua.
Tối hôm qua anh ấy đã đi vào tính chất sannyas; anh
ấy đã trở thành Neelamber. Neelamber có nghĩa là bầu
trời xanh. Cái gì phân chia bầu trời bên ngoài với bầu trời
bên trong? Sự bao phủ ý nghĩ của bạn. Đấy là những đám
mây không cho phép cái trần trụi của bạn tiếp xúc với
bầu trời, sự trần trụi của bạn được bắc cầu với bầu trời. Ý
nghĩ rằng bạn là người Hindu, ý nghĩ rằng bạn là người
Ki tô giáo, ý nghĩ rằng bạn là người cộng sản hay phát
xít, tạo ra chia rẽ. Ý nghĩ rằng bạn là đẹp hay xấu tạo ra
chia rẽ. Ý nghĩ rằng bạn là thông minh hay không thông
minh tạo ra chia rẽ. Bất kì loại ý nghĩ nào - và chia rẽ. Và
bạn có hàng triệu ý nghĩ. Bạn sẽ phải bóc tách mình ra
giống như bạn bóc củ hành, hết lớp nọ tới lớp kia. Bạn
bóc lớp vỏ này lớp khác lại có đó; bóc nó ra, tầng khác
lại có đó. Và một cách tự nhiên khi bạn bóc hành thì
nước mắt trào ra; nó gây cay mắt. Khi bạn bắt đầu phơi
bầy bản thể mình, điều đó còn đau đớn hơn. Không giống
như cởi quần áo, điều đó giống như việc bóc da bạn ra.
Nhưng nếu bạn cứ bóc mãi, rồi một hôm bạn đi tới
chỗ toàn bộ củ hành biến mất và chỉ cái không là còn lại
trong tay bạn. Cái không đó là phúc lạc.
Phật nói: Bồ tát sống không có việc bao phủ ý nghĩ.
Ông ấy ở đây, nhưng ông ấy là không ai cả; ông ấy ở
đây, nhưng ông ấy không có ý tưởng nào; ông ấy ở đây,
nhưng ông ấy không có ý nghĩ. Không phải là ông ấy
không thể dùng ý nghĩ... Tôi vẫn liên tục dùng ý nghĩ.
Tôi đang nói với bạn ngay bây giờ, tôi phải dùng tâm trí
và ý nghĩ - nhưng chúng không bao phủ tôi. Chúng là ở
bên cạnh. Bất kì khi nào tôi cần, tôi dùng chúng. Bất kì
khi nào tôi không dùng chúng, chúng không có đó - bầu
trời bên trong của tôi và bầu trời bên ngoài là một. Và
thậm chí trong khi tôi đang dùng chúng, tôi vẫn biết rằng
chúng không thể phân chia tôi. Chúng là công cụ, bạn có
thể dùng chúng, nhưng bạn không bị chúng che phủ theo
bất kì cách nào.
... cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Phật nói có ba loại bao phủ ý nghĩ. Loại thứ nhất là
karma averna - hành động không hoàn tất. Những hành
động không toàn bộ bao phủ bản thể bạn. Từng hành
động đều muốn được hoàn tất. Có thôi thúc nội tại trong
mọi việc để hoàn tất nó. Bất kì khi nào bạn cho phép
hành động nào đó treo quanh bạn chưa hoàn tất, nó đều
bao phủ quanh bạn: karma averna, nghiệp bao phủ quanh
bạn.
Loại thứ hai là klesas averna. Tham lam, ghét bỏ,
ghen tị và những thứ đại loại như thế: chúng được gọi là
klesas, không thuần khiết; chúng bao phủ bạn. 

Bạn đã bao giờ quan sát nó chưa? Người giận dữ gần
như bao giờ cũng giận dữ - lúc ít, lúc nhiều, nhưng tất cả
giận dữ đều là một. Người ấy sẵn sàng nhảy vào bất kì
cái gì. Người ấy sẵn sàng, với bất kì lí do gì, lao vào một
cách điên dại. Người ấy sôi sùng sục bên trong. Và người
ghen tị cũng thế: người ghen tị cứ đi tìm kiếm cái gì đó
mà với nó người ấy có thể ghen tị. Người vợ ghen tị cứ
nhìn mãi vào trong túi chồng để xem mình có thể tìm
thấy cái gì đó, trong những bức thư của chồng, trong hồ
sơ của chồng để xem mình có tìm thấy cái gì đó không.
Khi Mulla Nasruddin về tới nhà bao giờ cũng có lục
đục nào đó, vì điều này điều khác. Vợ anh ấy là một
người rất hay lục lọi đến mức chị ta bao giờ cũng tìm
thấy thứ này thứ khác. Số điện thoại nào đó trong sổ của
anh ta, và chị ta bắt đầu nghi ngờ. Một sợi tóc trên áo
choàng, và chị ta đi vào cuộc điều tra lớn - sợi tóc này từ
đâu tới?
Một hôm chị ta chẳng thể tìm thấy cái gì, thậm chí
đến một sợi tóc. Mulla đã làm mọi việc ngày hôm đó; chị
ta bắt đầu khóc lóc.
Và Mulla nói, “Nào có vấn đề gì vậy? Đến một sợi
tóc em cũng chẳng thể nào tìm thấy trên áo anh...?”
Chị vợ nói, “Đấy là lí do tại sao em khóc. Bây giờ
anh đã bắt đầu đi với bọn phụ nữ trọc đầu!”
Rất khó, thực sự, để tìm ra phụ nữ trọc đầu, nhưng đó
là tâm trí của người ghen. Đó là sự bao phủ. Phật gọi
chúng là klesas, không thuần khiết; người bản ngã bao
giờ cũng đi tìm cái gì đó để hoặc khoe khoang khoác lác
hoặc để cảm thấy bị tổn thương về nó. Người sở hữu bao
giờ cũng đi tìm cái gì đó để cho mình có thể trưng bầy sở
hữu của mình, hay trong việc tìm thấy cái gì đó tiêu cực
để cho người ấy có thể tranh đấu với nó.
Mọi người cứ tiếp tục... và tôi không nói về người
khác, tôi đang nói về bạn đấy. Quan sát tâm trí mình -
bạn cứ tiếp tục tìm kiếm vì cái gì. Quan sát tâm trí mình
trong hai mươi bốn giờ và bạn sẽ nhận ra tất cả những sự
bao phủ đó, avernas.
Có hoặc những hành động không hoàn tất, hay không
thuần khiết; hoặc loại thứ ba là ghaya avernas - những
bao phủ niềm tin, ý kiến, ý thức hệ, tri thức. Chúng
không cho phép bạn biết, chúng không cho bạn đủ không
gian để thấy. Ba lớp bao phủ này cần phải bị loại bỏ.
Khi ba lớp bao phủ này bị loại bỏ, thế thì người ta cư
ngụ trong cái không. Từ ‘ cư ngụ’ cũng cần được hiểu.
Phật nói: Ông ấy cư ngụ trong cái không. Đấy là nhà
ông ấy, cái không là nhà ông ấy. Ông ấy cư ngụ trong đó,
nó là một chỗ cư ngụ. Ông ấy yêu nó, ông ấy hoàn toàn
hoà hợp với nó. Nó không phải là xa lạ, ông ấy không
cảm thấy như người ngoài ở đó. Và ông ấy không cảm
thấy giống như ông ấy đang ở trong khách sạn và ngày
mai ông ấy sẽ phải rời bỏ nó. Nó là nơi cư ngụ của ông
ấy. Khi việc bao phủ ý nghĩ đã bị loại bỏ, cái không là
nhà bạn. Bạn hoàn toàn hài hoà với nó.
Kierkegaard và Sartre chưa bao giờ ở đó. Họ chỉ suy
xét về nó. Họ chỉ nghĩ về nó, về nó sẽ là như thế nào. Đó
là lí do tại sao Kierkegaard cảm thấy run rẩy. Ông ấy đơn
giản nghĩ, cũng như bạn nghĩ...
Thử nghĩ xem nó sẽ thế nào khi bạn chết, và bạn sẽ
được đặt lên dàn thiêu, và bạn sẽ kết thúc mãi mãi. Và
thế thì bạn sẽ không thể nào thấy những cây xinh tươi
này, những con người đẹp đẽ này, và bạn sẽ không còn cười nữa, và bạn sẽ không yêu nữa, và bạn sẽ không thấy
các vì sao nữa. Mà thế giới này vẫn tiếp tục, còn bạn sẽ
không ở đây chút nào. Chẳng lẽ bạn không cảm thấy run
lẩy bẩy sao? Chẳng lẽ bạn không cảm thấy run rẩy sao?
Tất cả sẽ tiếp tục - chim sẽ hót và mặt trời sẽ lên và đại
dương sẽ ầm ầm và chim ưng nào đó vẫn sẽ bay cao mãi
cao mãi, và hoa sẽ có đó cùng hương thơm, và hương
nồng của đất ướt - tất cả những điều đó sẽ có đó. Rồi
bỗng nhiên một ngày nào đó bạn sẽ không có đó, và thân
thể bạn sẽ chết. Cái thân thể đẹp đẽ này mà bạn đã từng
sống với nó và bạn đã từng chăm sóc nó nhiều thế - nó sẽ
ốm yếu và làm phiền nhiễu bạn - rồi một ngày nào đó nó
sẽ thành vô dụng đến mức mà mọi người đã từng yêu
mến nó, cũng cùng những người ấy thôi, sẽ đem nó lên
dàn thiêu và đưa nó vào lửa. Quán tưởng về điều đó. Suy
xét, và run rẩy sẽ tới.
Kierkegaard phải đã suy xét về nó. Ông ấy phải đã là
người có thiên hướng rất sợ sệt. Có câu chuyện kể về ông
ấy rằng ông ấy là con một người giầu có. Người bố chết;
ông ấy đã để lại đủ tiền cho Kierkegaard, cho nên ông
này chẳng bao giờ làm lụng, ông ấy tiếp tục suy tư. Ông
ấy có thể dễ dàng đảm đương việc đó - chẳng có gì phải
làm cả. Ông ấy có đủ tiền trong ngân hàng. Ngày đầu
tiên hàng tháng ông ấy sẽ ra ngân hàng - đó là toàn bộ
công việc của ông ấy - để rút tiền. Và thế rồi ông ấy sẽ
sống và thiền. Thiền theo nghĩa của ông ấy là suy tư,
nghiền ngẫm, suy nghĩ. Đó là điều từ thiền theo tiếng
Anh ngụ ý. Đấy không phải là việc dịch đúng cho chữ
dhyana.
Khi mọi người tới tôi và tôi bảo họ thiền, họ nói, “Về
cái gì?” Từ tiếng Anh có nghĩa là thiền về cái gì đó, vật
nào đó. Từ Ấn Độ dhyana có nghĩa là sống trong nó,
không phải là suy tư về cái gì đó. Nó là trạng thái, không
phải là hành động.
Cho nên ông ấy sẽ suy tư và suy nghĩ, và nghiền
ngẫm và triết lí. Nghe nói rằng ông ấy yêu một phụ nữ
đẹp, nhưng không thể quyết định được liệu có cưới vợ
hay không. Chính hiện tượng yêu trở thành run rẩy trong
ông ấy. Trong ba năm ông ấy nghiền ngẫm về nó, và cuối
cùng ông ấy quyết địng không lấy vợ. Mà ông ấy thì đã
yêu. Trong suốt cuộc đời, ông ấy không thể nào quên
được người phụ nữ này, toàn bộ cuộc đời ông ấy cảm
thấy khổ sở vì người phụ nữ này. Người phụ nữ này đã
yêu, ông ấy đã yêu; thế mà ông ấy vẫn quyết định không
lấy vợ. Tại sao? - bởi vì chính ý tưởng yêu đã tạo ra run
rẩy trong ông ấy. Tình yêu là một loại cái chết. Nếu bạn
thực sự yêu một người thì bạn chết đi trong người đó,
bạn biến mất trong người đó.
Khi bạn làm tình... Tôi phải dùng từ ‘làm’ này - nó
không đúng, nhưng không ngôn ngữ nào thực sự là đúng
cả. Cho nên nhớ lấy, tôi phải dùng từ với tất cả những
giới hạn của nó. Tình yêu không thể làm được. ‘Làm
tình’ là cách diễn đạt sai: nó xảy ra. Nhưng khi nó xảy ra,
khi bạn đang trong không gian tình yêu với ai đó, thì sợ
hãi tới bởi vì bạn đang biến mất. Đó là lí do tại sao rất,
rất nhiều người, hàng triệu người, chưa bao giờ đạt tới
cực thích - bởi vì cực thích là cái chết.
Và Kierkegaard đã yêu nhiều đến mức ông ấy trở nên
sợ rằng ông ấy có thể làm mất bản thân mình trong người
phụ nữ này. Sợ hãi đó quá nhiều. Ông ấy vứt bỏ ý tưởng
ấy. Ông ấy từ chối, ông ấy không lấy vợ. Ông ấy chịu
đựng trong suốt cuộc đời - ông ấy đã chấp nhận điều đó -
nhưng bởi vì sợ... Ông ấy là người có thiên hướng sợ sệt. 

Ông ấy sống hoàn toàn tốt, chẳng làm gì, chỉ triết lí.
Và có một chuyện tiếu lâm rất lạ về ngày ông ấy chết.
Ông ấy chết khi ông ấy từ ngân hàng về. Đó là ngày đầu
tháng; ông ấy từ ngân hàng về, đã rút tiền xong - nhưng
đây là món tiền cuối cùng. Ông ấy chết trên đường.
Người ta cứ nghĩ rằng ông ấy chết vì sợ, bởi vì bây giờ
không còn lại tiền trong ngân hàng nữa. Ông ấy hoàn
toàn mạnh khoẻ, ông ấy không ốm, chẳng có lí do nào
cho ông ấy chết bất thần đến thế. Nhưng trở về từ ngân
hàng - và viên quản lí ngân hàng đã nói, “Đây là món
tiền cuối cùng; tiền của ông đã hết” - ông ấy không thể
về được tới nhà. Ông ấy chết trên đường.
Ông ấy không thể nào kinh nghiệm được cái không
mà Phật đang nói tới. Ông ấy chắc chỉ nghĩ về nó thôi -
do đó mới sợ. Và Jean-Paul Sartre cũng không ở trong
không gian được gọi là thiền. Ông ấy không phải là thiền
nhân; ông ấy là nhà suy tưởng, người phương Tây hoàn
toàn. Ông ấy chẳng biết đến cách thức phương Đông đi
vào. Do đó tự do có vẻ giống như kết án, và tự do có vẻ
như khổ não.
Chân lí lại chính là điều ngược lại. Nếu bạn đi vào
trong tự do, vào trong cái không, có phúc lạc. Nếu bạn đi
vào trong cái chết hoàn toàn mà được gọi là tình yêu đó,
thì có satori, samadhi. Phật nói: Ông ấy cư ngụ trong cái
không đó, đấy là nhà của ông ấy. Đấy không phải là khổ
não, đấy không phải là run rẩy, đấy không phải là kết án.
Ông ấy cư ngụ ở đó. Đấy là nhà ông ấy.
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Phật không nói điều gì khác. Ông ấy nói: Ông đi vào
trong trạng thái này của cái không, thế thì niết bàn là kết
quả tự nhiên. Đến tận cùng, nó tới theo ý riêng của nó.
Ông không cần lo nghĩ về nó; ngay chỗ đầu tiên ông đã
không thể làm được điều gì về nó cả. Ông chỉ đi vào
trong cái không này, và thế thì cái không bắt đầu trưởng
thành, trưởng thành mãi, trở nên ngày một bao la hơn, rồi
một hôm nó trở thành toàn bộ sự tồn tại của ông. Thế thì
có niết bàn - ông đã dừng việc hiện hữu. Ông đã biến mất
trong vũ trụ.
Ai đó hỏi Phật, “Khi thầy qua đời và thầy sẽ không
bao giờ quay lại trong thân thể này nữa, điều gì sẽ xảy ra
cho thầy?”
Và ông ấy nói, “Ta sẽ tan biến trong sự tồn tại. Nếu
ông nếm trải sự tồn tại, ông sẽ nếm trải ta.”
Và đúng đấy, điều đó là đúng: nếu bạn nếm trải sự
tồn tại thì bạn sẽ nếm trải tất cả chư Phật - Krishna,
Christ, Phật, Mahavira, Zarathustra, Lão Tử, Kabir,
Nanak - bạn sẽ nếm trải tất cả chư Phật. Cái ngày bạn đi
vào trong cái không đó, bạn sẽ được tất cả chư Phật đón
chào. Toàn bộ sự tồn tại đang xúc động với phật tính bởi
vì biết bao nhiêu vị Phật đã tan biến trong nó. Họ đã
nâng lên chính mức của sự tồn tại.
Bạn thật may mắn, bởi vì trước bạn biết bao nhiêu vị
Phật đã đi vào sự tồn tại. Khi bạn đi vào đó, bạn sẽ không
thể nào không được đón chào.
Tất cả những người xuất hiện như chư phật
trong ba thời
đều tỉnh thức tới chứng ngộ chính đẳng, chính giác và
hoàn hảo bởi vì họ đã dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ.
Chỗ trú ẩn duy nhất là hoàn hảo của trí huệ, hoàn hảo
của thiền. Trong quá khứ nó đã là như vậy, trong hiện tại
nó đang là như vậy, trong tương lai nó sẽ là như vậy. Bất
kì ai trở thành vị Phật đều trở thành Phật qua thiền. Trú
ẩn vào thiền đi. Trú ẩn vào cái không đi.


Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Đừng quá lành mạnh

Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu,
Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của đứa trẻ trước
việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã thức tỉnh của
vị Phật?
Có tương đồng và cũng có dị biệt. Về bản chất đứa
trẻ là vị Phật, nhưng phật tính của nó, hồn nhiên của nó,
là tự nhiên, không do kiếm được. Hồn nhiên của nó là
một loại dốt nát, không phải là nhận thức rõ. Hồn nhiên
của nó là vô ý thức - nó không biết về điều đó, nó không
để tâm tới điều đó, nó không để ý gì đến điều đó. Điều đó
có đấy mà nó quên lãng. Nó đang làm mất điều đó. Nó
phải làm mất điều đó. Cõi trời sẽ mất đi chẳng chóng thì
chầy; nó đang trên đường tiến tới điều đó. Mọi đứa trẻ
đều phải đi qua tất cả các loại hư hỏng, không thuần
khiết - thế giới này.
Hồn nhiên của trẻ con là hồn nhiên của Adam trước
khi bị đầy ra khỏi vườn Địa đàng, trước khi nếm trái tri
thức, bởi vì Adam đã trở nên có ý thức. Cũng như con
vật vậy. Nhìn vào mắt con vật mà xem - con bò, con chó
- và có thuần khiết, cùng thuần khiết đó tồn tại trong mắt
của vị Phật, nhưng với sự khác biệt.
Và khác biệt là bao la nữa: vị Phật đã về tới nhà; con
vật chưa rời khỏi nhà. Đứa trẻ vẫn còn trong vườn Địa
đàng, vẫn còn trong cõi trời. Nó sẽ phải làm mất điều đó
- bởi vì để được thì người ta phải mất. Phật đã về tới
nhà... toàn bộ vòng tròn. Ông ấy đã đi xa, ông ấy đã mất,
ông ấy đã đi lạc lối, ông ấy đã dấn thân sâu vào trong
bóng tối và tội lỗi và khổ cùng địa ngục. Những kinh
nghiệm đó là một phần của chín chắn và trưởng thành.
Không có chúng thì bạn không có xương sống nào, bạn
là loài không xương sống. Không có chúng thì hồn nhiên
của bạn là rất mong manh; nó không thể đứng lại trước
gió, nó không thể chịu đựng nổi bão tố. Nó rất yếu ớt, nó
không thể tồn tại nổi. Nó phải trải qua thử lửa cuộc đời -
phạm phải cả nghìn lẻ một sai lầm, cả nghìn lẻ một lần
bản ngã, rồi bạn lại đứng dậy trên đôi chân mình. Tất cả
những kinh nghiệm đó dần dần làm bạn chín chắn lên,
làm bạn chín muồi; bạn trở thành người lớn.
Hồn nhiên của Phật là hồn nhiên của người đã chín
chắn, hoàn toàn chín muồi. Ngây thơ là vô ý thức bản
chất; phật tính là ý thức bản chất. Ngây thơ là ngoại vi
không mang ý tưởng nào về trung tâm. Phật cũng là một ngoại vi, nhưng bắt rễ tại trung tâm, định tâm. Ngây thơ
là vô danh không ý thức; phật tính là vô danh có ý thức.
Cả hai đều không tên tuổi, cả hai đều vô hình dạng...
nhưng trẻ con còn chưa biết đến hình dạng và khổ của
nó. Điều đó cũng giống như bạn chưa bao giờ ở tù cả,
cho nên bạn không biết tự do là gì. Thế thì bạn đã ở trong
tù trong nhiều năm trời, hay nhiều kiếp, và thế rồi một
hôm bạn được thả ra... bạn đi ra khỏi cánh cửa nhà tù
nhảy múa, cực lạc! Và bạn sẽ ngạc nhiên là mọi người
đều đã ở ngoài rồi, vẫn bước đi trên phố, tiến hành công
việc của mình, tới văn phòng, tới xưởng máy, thế mà
không tận hưởng tự do của mình chút nào - họ quên lãng,
họ không biết rằng họ đang tự do. Làm sao họ biết được?
Bởi vì họ chưa bao giờ trong tù cả nên họ không biết
điều tương phản; nền tảng bị mất.
Cứ dường như là bạn viết phấn trắng lên bức tường
trắng - không ai sẽ có thể đọc được nó. Chẳng cần phải
nói tới người khác - ngay chính bạn sẽ không thể nào đọc
được điều bạn viết ra.
Tôi đã từng nghe một chuyện tiếu lâm nổi tiếng về
Mulla Nasruddin. Trong làng, anh ta là người duy nhất
có thể viết được, cho nên mọi người hay đến anh ta nếu
họ muốn viết thư hay tài liệu nào đó, hay bất kì thứ gì.
Anh ta là người duy nhất có thể viết được. Một hôm một
người tới. Nasruddin đã viết một lá thư, bất kì cái gì mà
người kia đọc ra - và đấy là một bức thư dài - rồi người
kia nói, “Xin anh đọc lại bức thư vì tôi muốn chắc rằng
mọi điều đã được viết ra và tôi không quên điều gì cả,
còn anh thì cũng không làm lộn xộn mọi thứ lên.”
Mulla nói, “Này, điều ấy khó đấy. Tôi biết viết
nhưng tôi không biết đọc. Và hơn thế nữa, bức thư lại
không gửi cho tôi cho nên đọc nó là điều bất hợp pháp
nữa.”
Và người làng được thuyết phục, ý tưởng này hoàn
toàn đúng, và người làng này nói, “Anh nói phải đấy - nó
không gửi cho anh.”
Nếu bạn viết lên tường trắng thì thậm chí bản thân
bạn cũng không thể nào đọc được nó, nhưng nếu bạn viết
lên bảng đen thì nó thành lồ lộ và rõ ràng - bạn có thể
đọc được nó. Tương phản là cần thiết. Đứa trẻ không có
tương phản; nó là lớp tráng bạc không có đám mây đen.
Phật là lớp tráng bạc trong đám mây đen.
Ban ngày vẫn có sao trên trời đấy; chúng chẳng đi
đâu cả - chúng không thể đi nhanh thế, chúng không thể
nào biến mất. Chúng đã có đó, cả ngày chúng vẫn đấy,
nhưng trong đêm bạn có thể thấy được chúng vì có bóng
tối. Chúng bắt đầu xuất hiện; khi mặt trời lặn thì chúng
bắt đầu xuất hiện. Mặt trời càng xuống thấp hơn nữa
dưới đường chân trời thì sao lại càng nở rộ hơn. Chúng
vẫn ở đó cả ngày, nhưng bởi vì bóng tối mất đi nên khó
mà thấy được chúng.
Đứa trẻ có hồn nhiên nhưng không có nền tảng. Bạn
không thể thấy nó được, bạn không thể đọc được nó; nó
không hiện rõ lắm. Vị Phật đã sống cuộc sống của mình,
đã làm tất cả những gì cần thiết - cả tốt lẫn xấu - đã chạm
tới cực này và cực kia, đã từng là tội nhân và thánh nhân.
Nhớ lấy, vị Phật không chỉ là thánh nhân; ông ấy đã từng
là tội nhân và ông ấy đã từng là thánh nhân. Còn phật
tính vượt ra ngoài cả hai. Bây giờ ông ấy đã về nhà.
Đó là lí do tại sao Phật nói trong lời kinh hôm qua:
Na jhanam, na praptir na-apraptih - ‘Không có đau khổ,
không nguồn gốc, không chấm dứt, không con đường. 

Không cảm nhận, không tri thức, không thành đạt, và
không không thành đạt.” Khi Phật trở nên thức tỉnh
người ta đã hỏi ông ấy, “Thầy đã đạt tới cái gì?” Và ông
ấy cười to, và ông ấy nói, “Ta chẳng đạt tới cái gì cả - ta
chỉ phát hiện ra cái vẫn đã có đấy. Ta chỉ đơn giản đi về
nhà. Ta đã tuyên bố rằng cái đó bao giờ cũng là của ta và
cùng với ta. Cho nên không có thành đạt nào hết cả, ta
chỉ đơn giản nhận ra nó." Đấy không phải là khám phá,
đấy là phát hiện lại. Và khi bạn trở thành vị Phật thì bạn
sẽ thấy ra vấn đề - chẳng thu được cái gì hết cả qua việc
thành Phật. Bỗng nhiên bạn thấy rằng đây là bản tính của
bạn. Nhưng để nhận ra bản tính này thì bạn phải đi lạc
lối, bạn phải đi sâu vào trong hỗn loạn của thế giới. Bạn
phải đi vào trong tất cả các nơi chốn và không gian lầy
bùn để thấy cái trong sạch tột cùng của bạn, thuần khiết
tột cùng của bạn.
Hôm nọ tôi đã nói với các bạn về bẩy cánh cửa - về
cách thức bản ngã được hình thành, về cách thức ảo
tưởng bản ngả được làm mạnh thêm. Sẽ có ích để đi sâu
thêm vào vài điều về nó.
Bẩy cánh cửa của bản ngã không phải được rõ ràng
lắm và không tách bạch hẳn lẫn nhau; chúng chờm lên
nhau. Và rất hiếm khi tìm được một người đã đạt tới bản
ngã mình từ tất cả bẩy cánh cửa này. Nếu một người đã
đạt tới bản ngã từ tất cả bẩy cánh cửa này, người ấy trở
thành một bản ngã hoàn hảo. Và chỉ bản ngã hoàn hảo
mới có khả năng tan biến đi, không phải là bản ngã bất
toàn. Khi quả chín, nó rụng xuống; khi quả chưa chín nó
vẫn còn đeo bám. Nếu bạn vẫn còn bám lấy bản ngã, nhớ
lấy, quả còn chưa chín đâu; do đó mới có níu bám. Nếu
quả chín, nó rụng xuống đất và biến mất. Đấy cũng là
trường hợp với bản ngã.
Bây giờ đây là nghịch lí: rằng chỉ bản ngã đã tiến hoá
thực sự mới có thể buông xuôi. Thông thường bạn nghĩ
rằng người bản ngã không thể buông xuôi được. Đấy
không phải là quan sát của tôi, và không phải là quan sát
của chư Phật trong nhiều thời đại. Chỉ người bản ngã
hoàn hảo thì mới có thể buông xuôi. Bởi vì chỉ người đó
mới biết đến khổ của bản ngã, chỉ người ấy mới có sức
mạnh để buông xuôi. Người ấy đã biết tất cả các khả
năng của bản ngã và đã đi vào trong thất vọng mênh
mông. Người đó đã đau khổ nhiều lắm, người đó đã biết
thế là đủ rồi, và người đó muốn có bất kì cái cớ nào để
buông xuôi theo nó. Cái cớ có thể là Thượng đế, cái cớ
có thể là một thầy, hay bất kì cớ gì, nhưng người đó
muốn buông xuôi theo nó. Gánh nặng đã quá lớn và
người đó đã phải mang đi quá lâu.
Những người còn chưa phát triển bản ngã của mình
cũng có thể buông xuôi, nhưng buông xuôi của họ sẽ
không hoàn hảo, nó sẽ không toàn bộ. Cái gì đó sâu bên
trong sẽ vẫn cứ níu bám, cái gì đó sâu bên trong sẽ vẫn
cứ hi vọng: “Có thể có cái gì đó trong bản thân nó. Tại
sao mình buông xuôi?”
Tại phương Đông, bản ngã vẫn còn chưa phát triển
lắm. Bởi vì giáo huấn về vô ngã nên việc hiểu sai đã nảy
sinh rằng nếu bản ngã cần phải bị buông xuôi, tại sao
phải phát triển nó, để làm gì? Một logic đơn giản: nếu
một ngày nào nó phải bị từ bỏ, thì bận tâm tới nó làm gì?
Thế thì sao phải mất nhiều công sức thế để tạo ra nó?
Đằng nào nó cũng phải bị loại bỏ cơ mà! Cho nên
phương Đông không bận tâm nhiều lắm vào việc phát
triển bản ngã. Và tâm trí phương Đông thấy rất dễ dàng
cúi đầu xuống trước bất kì ai. Nó thấy điều đó rất dễ
dàng, nó bao giờ cũng sẵn sàng buông xuôi. Nhưng buông xuôi này về cơ bản là không thể được, bởi vì bạn
còn chưa có bản ngã để buông xuôi nó.
Bạn sẽ ngạc nhiên: tất cả chư Phật vĩ đại ở phương
Đông đều đã là kshatriya, từ đẳng cấp chiến binh - Phật,
Mahavira, Parshwanath, Neminath. Tất cả hai mươi bốn
tirthankara của đạo Jaina đều thuộc về đẳng cấp chiến
binh, và tất cả avatara của đạo Hindu đều thuộc về đẳng
cấp kshatriya - Ram, Krishna - ngoại trừ một người,
Parashuram, người này, dường như ngẫu nhiên, được
sinh ra trong một gia đình brahmin, bởi vì bạn không thể
nào tìm ra một chiến binh lớn hơn ông ấy. Phải có ngẫu
nhiên nào đó - toàn bộ cuộc đời ông là một cuộc chiến
tranh liên tục.
Điều cũng đáng ngạc nhiên khi bạn nhận ra rằng
không một brahmin nào đã từng được công bố là vị Phật,
một avatara, một tirthankara. Tại sao? Người brahmin
khiêm tốn; ngay từ ban đầu người đó đã được nuôi nấng
trong khiêm tốn, vì tính khiêm tốn. Vô ngã đã được dạy
cho người ấy ngay từ ban đầu, cho nên bản ngã không
chín muồi, và bản ngã chưa chín thì cứ bám mãi.
Tại phương Đông người ta có bản ngã rất, rất manh
mún, và họ nghĩ thế thì dễ buông xuôi. Họ bao giờ cũng
sẵn sàng buông xuôi với bất kì ai. Đánh rơi chiếc mũ và
đã sẵn sàng buông xuôi - nhưng buông xuôi của họ chẳng
bao giờ đi rất sâu, nó vẫn còn hời hợt.
Điều đối lập lại là trường hợp của phương Tây:
người tới từ phương Tây có bản ngã rất, rất mạnh và đã
phát triển. Bởi vì toàn bộ nền giáo dục phương Tây đều
nhằm tạo ra bản ngã tiến hoá, rất xác định, rất văn hoá,
phức tạp, cho nên họ nghĩ rất khó để buông xuôi. Họ
thậm chí chưa từng nghe thấy từ buông xuôi. Chính ý
tưởng này xem ra có vẻ xấu xí, đáng mất mặt. Nhưng
nghịch lí lại là ở chỗ khi người đàn ông hay đàn bà
phương Tây buông xuôi, thì việc buông xuôi đi thực sự
sâu sắc. Nó đi tới chính cốt lõi của bản thể người đó, bởi
vì bản ngã này rất tiến hoá. Bản ngã đã tiến hoá; đó là lí
do tại sao bạn nghĩ rất khó để buông xuôi. Nhưng nếu
việc buông xuôi xảy ra thì nó đi tới chính cốt lõi, nó là
tuyệt đối. Tại phương Đông mọi người nghĩ việc buông
xuôi rất dễ dàng, nhưng bản ngã lại chưa được tiến hoá
mấy cho nên nó chẳng bao giờ đi rất sâu.
Vị Phật là người đã đi vào trong kinh nghiệm của
cuộc sống, ngọn lửa cuộc sống, địa ngục cuộc sống, và
đã làm chín muồi bản ngã của mình tới khả năng tối
thượng, tới chính cái tối đa. Và trong khoảnh khắc đó
bản ngã rơi xuống và biến mất. Lần nữa bạn lại là đứa
trẻ; đấy là tái sinh, đấy là phục sinh. Trước hết bạn phải
bị treo lên chiếc thập tự bản ngã, bạn phải đau khổ trên
cây thập tự bản ngã, và bạn phải mang cây thập tự này
trên vai mình - và tới tận cùng. Bản ngã phải được học;
chỉ thế thì bạn mới có thể gạt bỏ nó. Và thế thì có vui vẻ
lớn. Khi bạn được tự do khỏi nhà tù, bạn có điệu vũ, có
lễ hội trong bản thể mình. Bạn không thể nào tin được tại
sao những người ra khỏi tù lại đờ đẫn, như chết và kéo lê
mình đến thế. Tại sao họ lại không nhảy múa? Tại sao họ
lại không lễ hội? Họ không thể làm thế: họ còn chưa biết
tới nỗi khổ của tù đầy.
Bẩy cánh cửa này cần phải được dùng trước khi bạn
có thể trở thành vị Phật. Bạn phải đi vào cõi giới tăm tối
nhất của cuộc sống, vào đêm tối của linh hồn, vào lại
bình minh khi buổi sáng mới lên, khi mặt trời mới lên, và
tất cả đều sáng. Nhưng hiếm khi xảy ra việc bạn có bản
ngã đã phát triển đầy đủ. 

Nếu bạn hiểu tôi, thế thì toàn bộ cấu trúc của giáo
dục sẽ là nghịch lí: trước hết họ nên dạy cho bạn về bản
ngã - đó nên là phần thứ nhất của giáo dục, một nửa của
nó; thế rồi họ nên dạy cho bạn về vô ngã, cách loại bỏ nó
- đó sẽ là nửa sau. Mọi người đi vào từ một cửa hay hai
cửa hay ba cửa, và bị mắc vào trong bản ngã phân đoạn
nào đó.
Điều thứ nhất, tôi nói, là bản thân thân thể. Trẻ con
bắt đầu học dần dần: phải mất gần mười lăm tháng để
cho đứa trẻ học rằng nó là tách biệt, rằng có cái gì đó bên
trong nó và cái gì đó bên ngoài. Nó học rằng nó có một
thân thể tách biệt với các thân thể khác. Nhưng vài người
vẫn còn níu bám lấy bản ngã rất, rất manh mún đó trong
suốt cả đời mình. Đấy là những người được biết tới như
người duy vật, người cộng sản, Mác xít. Những người tin
rằng thân thể là tất cả - rằng chẳng có gì nhiều hơn thân
thể bên trong bạn, rằng thân thể là toàn bộ sự tồn tại của
bạn, rằng không có tâm thức tách biệt khỏi thân thể, ở
trên thân thể, rằng tâm thức chỉ là hiện tượng hoá học
trong thân thể, rằng bạn không tách rời khỏi thân thể và
khi thân thể chết đi thì bạn cũng chết đi, và tất cả biến
mất... cát bụi trở về với cát bụi... không có điều thiêng
liêng nào trong bạn - họ qui con người về vật chất.
Đấy là những người vẫn còn níu bám vào cánh cửa
thứ nhất; lứa tuổi tâm trí của họ dường như mới chỉ mười
lăm tháng. Bản ngã nguyên thuỷ và rất, rất sơ cấp này
vẫn còn là duy vật. Những người này vẫn còn quanh
quẩn với hai điều: dục và thức ăn. Nhưng nhớ lấy, khi tôi
nói người duy vật, người cộng sản, người mác xít, tôi
không ngụ ý rằng điều này đã hoàn chỉnh danh sách. Một
ai đó có thể là người duy tâm và có thể vẫn níu bám lấy
cánh cửa thứ nhất...
Chẳng hạn, Mahatma Gandhi: nếu bạn đọc tiểu sử
ông ấy, ông ấy gọi tiểu sử mình là Kinh nghiệm của tôi
với chân lí. Nhưng nếu bạn đọc tiểu sử của ông ấy thì
bạn sẽ thấy cái tên này không đúng; ông ấy nên đặt tên
cho nó là Kinh nghiệm của tôi với thức ăn và dục. Chẳng
tìm thấy chân lí ở đâu cả. Ông ấy cứ liên tục lo nghĩ về
thức ăn: cái gì nên ăn, cái gì không nên ăn. Toàn bộ lo
nghĩ của ông ấy dường như là chỉ là về thức ăn, và rồi về
dục: làm sao trở thành vô dục - điều này diễn ra như một
chủ đề, đây là dòng chảy ngầm. Liên tục, ngày và đêm,
ông ấy nghĩ về thức ăn và dục - người ta phải được tự do.
Bây giờ ông ấy không phải là người duy vật - ông ấy tin
vào linh hồn, ông ấy tin vào Thượng đế. Trong thực tế,
bởi vì ông ấy tin vào Thượng đế nên ông ấy đang nghĩ
quá nhiều về thức ăn - bởi vì nếu ông ấy ăn cái gì đó sai
và phạm tội, thế thì ông ấy sẽ bị xa với Thượng đế. Ông
ấy nói về Thượng đế nhưng nghĩ về thức ăn.
Và điều đó không chỉ như thế với ông ấy đâu, nó
cũng là như thế với tất cả các tu sĩ Jaina nữa. Ông ấy chịu
nhiều ảnh hưởng từ các tu sĩ Jaina. Ông ấy được sinh ra ở
Gujarat. Gujarat về cơ bản là của đạo Jaina, Jaina giáo có
ảnh hưởng lớn nhất ở Gujarat. Ngay cả những người
Hindu ở Gujarat cũng giống người Jaina hơn là người
Hindu. Gandhi mang đến chín mươi phần trăm tính cách
của người Jaina - được sinh ra trong một gia đình Hindu,
nhưng tâm trí ông ấy được các tu sĩ Jaina giáo dưỡng. Họ
liên tục nghĩ về thức ăn.
Và thế rồi ý tưởng thứ hai nảy sinh, về dục - làm sao
loại bỏ được dục. Trong cả đời ông ấy, cho tới tận cùng,
ông ấy vẫn còn bận tâm về điều đó - làm sao loại bỏ dục.
Trong những năm cuối cuộc đời, ông ấy đã thực nghiệm
với còn gái ở truồng và ngủ với họ, chỉ để kiểm tra mình bởi vì ông ấy cảm thấy rằng cái chết đang tới gần, và ông
ấy phải kiểm tra bản thân mình để xem liệu có còn chút
nào thèm khát trong mình không.
Đất nước bùng cháy, mọi người bị giết: người Mô ha
mét giáo giết người Hindu, người Hindu giết người Mô
ha mét giáo - toàn bộ đất nước trong lửa cháy. Còn ông
ấy thì ở giữa điều đó, ở Novakali - nhưng mối bận tâm
của ông ấy là về dục. Ông ấy ngủ với con gái, con gái ở
truồng; ông ấy đang kiểm tra bản thân mình, kiểm tra
xem liệu brahmacharya, cái vô dục của ông ấy, đã hoàn
hảo hay chưa.
Nhưng tại sao phải có hoài nghi này? - bởi vì kìm
nén đã lâu. Trong toàn bộ cuộc sống ông ấy đã kìm nén.
Bây giờ, đến chính lúc cuối, ông ấy trở nên sợ - bởi vì
vào độ tuổi đó ông ấy vẫn còn mơ về dục. Cho nên ông
ấy rất hoài nghi: liệu ông ấy có thể đối diện với Thượng
đế của mình được không? Bây giờ ông ấy là người duy
tâm, nhưng tôi sẽ gọi ông ấy là người duy vật, và một
người duy vật rất nguyên thuỷ. Mối quan tâm của ông ấy
là thức ăn và dục.
Dù bạn ủng hộ hay chống đối điều đó cũng chẳng
thành vấn đề - mối quan tâm của bạn chỉ ra chỗ bản ngã
bạn đang bị mắc vào. Và tôi sẽ bao hàm cả người duy
tâm vào trong đó nữa: mối quan tâm cả đời của người đó
là làm sao thu được tiền bạc, tích trữ tiền bạc - bởi vì tiền
bạc có quyền lực trên vật chất. Bạn có thể mua bất kì thứ
vật chất nào bằng tiền. Bạn không thể mua được bất kì
thứ tâm linh nào, bạn không thể nào mua bất kì thứ gì mà
có giá trị thực sự; bạn chỉ có thể mua các đồ vật. Nếu bạn
muốn mua tình yêu; bạn không thể mua được; nhưng bạn
có thể mua được dục. Dục là phần vật chất của tình yêu.
Qua tiền bạc, bạn có thể mua được, sở hữu được vật chất.
Bây giờ bạn sẽ ngạc nhiên: tôi lại bao gồm cả hai loại
người cộng sản và người tư sản vào cùng một phân loại,
và họ là kẻ thù, giống như tôi bao gồm Charvaka và
Mahatma Gandhi vào cùng phạm trù, và họ là kẻ thù. Họ
là kẻ thù, nhưng mối quan tâm của họ là như nhau.
Người tư sản cố gắng tích trữ tiền bạc, người cộng sản
chống lại điều đó. Người ấy muốn rằng không ai được
phép tích trữ tiền bạc ngoại trừ nhà nước. Nhưng mối
quan tâm của người ấy cũng là về tiền bạc, người ấy
cũng vẫn cứ liên tục nghĩ về tiền bạc. Không phải ngẫu
nhiên mà Marx đã đặt tên Das Kapital cho cuốn sách vĩ
đại về chủ nghĩa cộng sản, ‘Tư bản luận’. Đó là Kinh
thánh của người cộng sản, nhưng cái tên lại là ‘Tư bản
luận’. Đó là mối quan tâm của họ: làm sao không cho
phép bất kì ai được tích trữ tiền bạc để cho nhà nước có
thể tích trữ, và làm sao để sở hữu nhà nước - cho nên,
trong thực tế, về cơ bản, tối thượng, bạn vẫn cứ tích trữ
tiền bạc.
Có lần tôi đã nghe nói rằng Mulla Nasruddin đã trở
thành người cộng sản. Tôi biết anh ta... Tôi có đôi chút
khó xử. Đây quả là phép mầu! Tôi biết tính sở hữu của
anh ta. Cho nên tôi hỏi anh ta, “Mulla, anh có biết chủ
nghĩa cộng sản nghĩa là gì không?”
Anh ta nói, “Tôi có biết.”
Tôi nói, “Anh có biết rằng nếu anh có hai chiếc xe ô
tô và ai đó không có xe, thì anh sẽ cho người ấy một cái
chứ?”
Anh ta nói, “Tôi hoàn hoàn sẵn lòng nhường chiếc xe
cho.”
Tôi nói, “Nếu anh có hai ngôi nhà và ai đó thì không
có nhà, anh sẽ cho một ngôi nhà chứ?” 


Anh ta nói, “Tôi hoàn toàn sẵn sàng, ngay bây giờ.”
Và tôi nói, “Nếu anh có hai con lừa anh sẽ cho đi một
con cho ai đó khác mà không có lừa chứ?”
Anh ta nói, “Điều ấy tôi không đồng ý. Tôi không thể
cho được, tôi không thể làm được điều đó!”
Nhưng tôi nói, “Sao vậy? - vì đấy là cùng logic, cùng
hệ quả.”
Anh ta nói, “Không nó không cùng đâu - tôi có hai
con lừa, tôi không có hai chiếc xe.”
Tâm trí người cộng sản về cơ bản cũng là tâm trí nhà
tư bản, tâm trí nhà tư bản về cơ bản cũng là tâm trí người
cộng sản. Họ là đối tác trong cùng trò chơi - tên của trò
chơi là ‘tư bản luận’, Das Kapital.
Nhiều người, hàng triệu người, chỉ mới tiến hoá bản
ngã nguyên thuỷ này, rất sơ cấp. Nếu bạn có bản ngã này
thì rất khó buông xuôi; nó còn rất chưa chín muồi.
Cánh cửa thứ hai tôi gọi là tự đồng nhất.
Trẻ con bắt đầu làm lớn lên cái ý tưởng về nó là ai.
Khi nhìn vào trong gương, nó thấy cùng khuôn mặt. Mọi
sáng, tỉnh dậy từ giường, nó chạy vào buồng tắm, nhìn
gương, và nó nói, “Đây là tôi. Giấc ngủ không làm quấy
rối điều gì cả.” Nó bắt đầu có ý tưởng về cái ta liên tục.
Nhưng người ta trở nên quá dính dáng đến cánh cửa
này, bị móc vào cánh cửa này, chính là những cái gọi là
người duy tâm, người nghĩ rằng họ sắp lên cõi trời,
moksha, nhưng nghĩ rằng họ sẽ ở đó. Khi bạn nghĩ về cõi
trời, bạn chắc chắn nghĩ về bản thân mình rằng bạn ở đó,
bạn sẽ ở đó nữa. Có thể thân thể không có đó, nhưng sự
tiếp tục bên trong của bạn sẽ vẫn còn. Điều đó là ngớ
ngẩn! Giải thoát đó, giải thoát tối hậu đó chỉ xảy ra khi
cái ta đã tan biến và tất cả mọi đồng nhất đã tan biến.
Bạn trở thành trống rỗng...
Do đó, này Sariputra, trong cái không thì không có
hình dạng, hay: hình dạng là trống rỗng và trống rỗng là
hình dạng.
Không có tri thức bởi vì không có người biết; thậm
chí không có vigyan, không ý thức, bởi vì không có gì để
mà ý thức tới và không có ai để mà ý thức về nó. Tất cả
biến mất.
Ý tưởng rằng trẻ con có cái ta liên tục được những
người duy tâm đeo đuổi. Họ cứ đi tìm mãi: từ đâu mà
linh hồn đi vào trong thân thể, từ đâu mà linh hồn đi ra
khỏi thân thể, linh hồn mang hình dạng gì, mảnh kim loại
và môi giới, những thứ đại loại như vậy - tất cả đều là rác
rưởi và vô nghĩa. Cái ta không có hình dạng. Nó là cái
không thuần khiết, nó là bầu trời bao la không mây trong
đó. Nó là im lặng vô ý nghĩ, không bị hàm chứa, không
bị chứa bởi bất kì vật gì.
Ý tưởng đó về linh hồn trường cửu, ý tưởng về cái ta,
vẫn liên tục chơi trò chơi trong tâm trí. Ngay cả nếu thân
thể chết, bạn vẫn muốn chắc chắn rằng, “Tôi vẫn còn.”
Nhiều người hay tới Phật... bởi vì đất nước này đã
từng bị chi phối bởi cái loại bản ngã thứ hai này: mọi
người tin vào linh hồn trường cửu, linh hồn vĩnh viễn,
atman - họ cứ tới với Phật mãi và nói, “Khi tôi chết, liệu
cái gì đó sẽ còn lại hay không?” Còn Phật sẽ cười to và
ông ấy sẽ nói, “Ngay bây giờ đã chẳng có gì, cho nên tại
sao phải lo về cái chết? Chưa bao giờ có cái gì từ chính
lúc ban đầu.” Và điều này không thể nào quan niệm nổi
cho tâm trí Ấn Độ. Tâm trí Ấn Độ hầu hết bị mắc vào với kiểu bản ngã thứ hai. Đó là lí do tại sao Phật giáo không
thể nào tồn tại ở Ấn Độ được. Trong năm trăm năm, Phật
giáo đã biến mất. Nó bắt rễ tốt hơn ở Trung quốc, bởi vì
Lão Tử. Lão Tử đã thực sự tạo ra cánh đồng mầu mỡ cho
Phật giáo ở đó. Khí hậu đã sẵn sàng - dường như ai đó đã
chuẩn bị mảnh đất; chỉ cần hạt mầm. Và khi hạt mầm đạt
tới Trung quốc, nó trưởng thành cây to. Nhưng từ Ấn Độ
nó đã biến mất. Lão Tử không có ý tưởng nào về cái ta
trường cửu cả, còn tại Trung quốc mọi người cũng chẳng
bận tâm nhiều lắm.
Có ba nền văn hoá trên thế giới: một nền văn hoá,
được gọi là duy vật - rất thịnh hành ở phương Tây; nền
văn hoá khác, được gọi là duy tâm - rất thịnh hành ở Ấn
Độ; còn Trung quốc thì có loại văn hoá thứ ba, không
duy vật mà cũng chẳng duy tâm. Đó là Đạo giáo: sống
theo khoảnh khắc và không bận tâm tới tương lai, bởi vì
bận tâm tới cõi trời và địa ngục, tiên cảnh và moksha thì
về cơ bản vẫn cứ là tiếp tục bận tâm về chính mình. Nó
rất ích kỉ, nó rất định tâm vào cái ta. Theo Lão Tử, theo
Phật nữa, và cũng theo tôi nữa, người cố gắng đạt tới
thiên đường là người rất, rất định tâm vào cái ta, rất ích
kỉ. Và người ấy không biết một điều về bản thể bên trong
riêng của mình - không có cái ta.
Cánh cửa thứ ba là lòng tự trọng: trẻ con học làm
mọi thứ và tận hưởng việc làm đó. Một vài người bị mắc
vào đây - họ trở thành các nhà kĩ thuật, họ trở thành các
diễn viên, nghệ sĩ, họ trở thành chính khách, họ trở thành
các ông bầu. Chủ đề cơ bản là người làm; họ muốn
chứng tỏ cho thế giới rằng họ có thể làm điều gì đó. Nếu
thế giới cho phép họ sáng tạo nào đó, thì tốt. Nếu nó
không cho phép họ sáng tạo, họ trở thành phá hoại.
Bạn có biết rằng Adolf Hitler đã muốn vào trường
nghệ thuật không? Ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, đó là ý
tưởng của ông ta. Bởi vì ông ta bị từ chối, bởi vì ông ta
không phải là hoạ sĩ, bởi vì ông ta không thể nào qua
được kì thi vào trường nghệ thuật - việc loại bỏ đó rất
khó cho ông ta chấp thuận - tính sáng tạo của ông ta biến
thành xấu. Ông ta trở thành huỷ diệt. Nhưng về cơ bản
ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, ông ta muốn làm điều gì
đó. Bởi vì ông ta bị coi là không có khả năng làm việc
đó, nên trả thù lại, ông ta bắt đầu thành huỷ diệt.
Kẻ tội phạm và chính khách không phải là rất xa
nhau đâu, họ là anh em họ. Nếu kẻ tội phạm được trao
cho cơ hội đúng, người đó sẽ trở thành chính khách, và
nếu chính khách không gặp được cơ hội đúng để có tiếng
nói, thì người đó sẽ thành kẻ tội phạm. Chúng là các
trường hợp gần giống nhau. Vào bất kì khoảnh khắc nào,
chính khách cũng có thể trở thành tội phạm và tội phạm
có thể trở thành chính khách. Và điều này đã xảy ra trong
suốt nhiều thời đại, nhưng chúng ta còn chưa có sáng
suốt để nhìn vào trong mọi việc.
Cánh cửa thứ tư là tự mở rộng. Từ ‘của tôi’ là mấu
chốt ở đó. Người ta phải mở rộng bản thân mình bằng
việc tích luỹ tiền bạc, bằng việc tích luỹ quyền lực, bằng
việc cứ ngày một trở thành lớn nữa, lớn nữa và lớn nữa:
người yêu nước nói, “Đây là đất nước tôi, và đây là đất
nước lớn nhất trên thế giới.” Bạn có thể hỏi người yêu
nước Ấn Độ: người đó cứ tung hô khắp mọi xó xỉnh rằng
đây là punya bhumi - đây là mảnh đất của đức hạnh,
mảnh đất thuần khiết nhất trên thế giới.
Có lần cái gọi là thánh nhân tới tôi, một tu sĩ Hindu,
và ông ấy nói, “Ông không tin rằng đây là đất nước duy
nhất có biết bao nhiêu vị Phật đã được sinh ra, biết bao nhiêu avatara, bao nhiêu tirthankara - Rama, Krishna và
những người khác sao. Tại sao? - bởi vì đây là mảnh đất
đức hạnh nhất.”
Tôi bảo ông ấy, “Sự kiện là ngược lại: nếu trong nhà
hàng xóm ông thấy rằng bác sĩ cứ đến hàng ngày - lúc thì
là một vaidya, bác sĩ trị liệu, lúc thì hakim, nhà châm
cứu, rồi người dùng thiên nhiên liệu pháp, rồi thế này thế
khác - thì ông hiểu điều này là gì?”
Ông ấy nói, “Thật đơn giản! Nhà đấy ốm yếu.”
Đấy là trường hợp cho Ấn Độ: cần tới biết bao nhiêu
là vị Phật - đất nước này dường như hoàn toàn ốm yếu và
bệnh hoạn. Biết bao nhiều thầy chữa, biết bao nhiêu bác
sĩ. Phật đã nói, “Bất kì khi nào có đen tối trên thế giới,
bất kì khi nào có tội lỗi trên thế giới, và bất kì khi nào
luật vũ trụ bị phá rối, ta sẽ quay trở lại.” Cho nên tại sao
ông ấy đã tới vào lúc đó? Nó phải có cùng một lí do. Và
tại sao lại bao nhiêu lần ở Ấn Độ?
Nhưng nhà yêu nước cao ngạo, hung hăng, bản ngã.
Ông ta cứ tuyên bố, “Đất nước tôi là đặc biệt, tôn giáo tôi
là đặc biệt, nhà thờ tôi là đặc biệt, sách của tôi là đặc
biệt, thầy tôi là đặc biệt” - và mọi thứ đều là không. Đây
chỉ là lời rêu rao của bản ngã.
Vài người bị mắc vào với cái ‘của tôi’ này - người
giáo điều, nhà yêu nước, người Hindu, người Ki tô giáo,
người Mô ha mét giáo.
Cánh cửa thứ năm là tự hình dung. Trẻ con bắt đầu
nhìn vào mọi thứ, kinh nghiệm. Khi bố mẹ cảm thấy
thoải mái với đứa trẻ, nó nghĩ, “Mình tốt đây.” Khi họ
khen ngợi nó, nó cảm thấy, “Mình tốt đây.” Khi họ nhìn
nó giận dữ, họ quát tháo nó và họ nói, “Cấm làm thế!” nó
cảm thấy, “Cái gì sai trong mình rồi.” Nó chùn lại.
Một cháu nhỏ ngày đầu tiên tới trường được thầy hỏi
“Tên con là gì?”
Nó nói, “Johnny Đừng.”
Thầy giáo phân vân. Thầy nói, “Johnny Đừng à?
Chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó!”
Nó nói, “Bất ki khi nào, bất kì cái gì con làm, đây
đều là tên con - mẹ con hét lên, ‘Johnny đừng!’ Bố con
quát lên, ‘Johnny đừng!’ Cho nên con nghĩ đây là tên
con. ‘Đừng’ bao giờ cũng có đó. Điều con làm chẳng liên
quan.”
Cửa thứ năm là cánh cửa từ đó đạo đức đi vào: bạn
trở thành nhà đạo đức; bạn bắt đầu cảm thấy rất tốt,
‘thánh thiện hơn ngươi.’ Hay, trong thất vọng, trong
kháng cự, trong vật lộn, bạn trở thành người vô đạo đức
và bạn bắt đầu tranh đấu với toàn bộ thế giới, để chứng
minh cho toàn thế giới.
Fritz Perls, người sáng lập phái Trị liệu Động thái, đã
viết về một trong những kinh nghiệm của mình mà đã
chứng tỏ điều rất nền tảng cho nỗ lực cả đời của ông ấy.
Ông ấy là nhà thực hành phân tâm ở châu Phi. Việc thực
hành rất có kết quả bởi vì ông ấy là nhà phân tâm duy
nhất ở đó. Ông ấy có một chiếc xe to, một nhà gỗ một
tầng to cùng với vườn, một bể bơi - và mọi thứ mà một
tâm trí tầm thường muốn có, những đồ xa xỉ phẩm hạng
trung. Và thế rồi ông ấy tới Vienna để tham dự hội nghị
các nhà phân tâm thế giới. Tất nhiên, ông ấy là người
thành công ở châu Phi, cho nên ông ấy đã nghĩ rằng
Freud sẽ đón ông ấy, sẽ có đón chào lớn. Và Freud là cha
già cho các nhà phân tâm, cho nên ông ấy muốn được
Freud khen ngợi. Ông ấy đã viết một bài báo và đã làm
việc nhiều tháng về nó, bởi vì ông ấy muốn Freud biết ông ấy là ai. Ông ấy đọc bài báo; không có đáp ứng.
Freud rất lạnh nhạt, các nhà phân tâm khác cũng rất lạnh
nhạt. Bài báo của ông ấy gần như chẳng được chú ý tới,
không được bình luận tới. Ông ấy cảm thấy rất choáng
váng, chán nản, nhưng ông ấy vẫn hi vọng rằng ông ấy sẽ
tới gặp Freud, và thế rồi điều gì đó có thể xảy ra. Và ông
ấy tới gặp Freud. Ông ấy mới tới bậc thềm, vẫn còn chưa
đi qua cửa, còn Freud đứng đó. Và ông ấy nói với Freud,
chỉ để gây ấn tượng lên ông ta, “Tôi đã tới đây từ hàng
nghìn dặm đường.” Và thay vì đón chào ông ấy, Freud lại
nói, “Thế khi nào ông về?” Điều này làm tổn thương ông
ấy lắm: “Thế này mà là đón chào à? - ‘Thế khi nào ông
về?’” Và đó là toàn bộ cuộc phỏng vấn - kết thúc! Ông
ấy quay đi, lẩm bẩm liên tục, giống như một câu mật chú
trong đầu: “Ta sẽ cho ông biết tay, ta sẽ cho ông biết tay,
ta sẽ cho ông biết tay!” Và ông ấy đã cố gắng chứng tỏ
cho Freud: ông ấy tạo ra một phong trào lớn chống lại
phân tâm học - động thái.
Đây là phản ứng trẻ con. Hoặc là trẻ con được chấp
nhận - thế thì nó cảm thấy thoải mái, thế thì nó sẵn sàng
làm bất kì cái gì mà bố mẹ muốn; hoặc là nếu nó cứ bị
thất vọng mãi, thế thì nó bắt đầu nghĩ dưới dạng, “Không
còn khả năng nào cho mình nhận được tình yêu của họ,
nhưng mình vẫn cần sự chú ý của họ. Nếu mình không
thể nào nhận được sự chú ý qua cách đúng, thì mình sẽ
làm cho họ phải chú ý qua cách sai. Bây giờ mình sẽ hút
thuốc, mình sẽ thủ dâm, mình sẽ làm hại mình và người
khác, và mình sẽ làm đủ mọi thứ mà họ nói ‘Đừng làm,’
nhưng mình sẽ làm cho họ phải bận tâm về mình. Mình
sẽ cho họ biết tay.”
Đây là cánh cửa thứ năm, tự hình dung. Tội nhân và
thánh nhân đều bị mắc tại đây. Cõi trời và địa ngục đều
là những ý tưởng của những người bị mắc tại đây. Hàng
triệu người bị mắc lại. Họ liên tục sợ địa ngục và liên tục
tham lam về cõi trời. Họ muốn được Thượng đế khen
ngợi, và họ muốn Thượng đế nói với họ, “Con tốt đấy,
con ta. Ta sung sướng vì con.” Họ cứ hi sinh các kiếp
sống chỉ để được khen ngợi bởi hoang tưởng nào đó ở
đâu đó bên ngoài sự sống và cái chết. Họ cứ làm cả nghìn
lẻ một kiểu hành hạ chính mình chỉ để cho Thượng đế có
thể nói, “Được, con đã hi sinh bản thân mình cho ta.”
Cứ dường như là Thượng đế là kẻ tự bạo và bạo ác,
hay cái gì đó giống thế. Người ta tự hành hạ mình với ý
tưởng rằng họ sẽ làm cho Thượng đế sung sướng. Bạn
ngụ ý gì bởi điều này? Bạn nhịn ăn và bạn nghĩ Thượng
đế sẽ sung sướng với bạn sao? Bạn bỏ đói mình và bạn
nghĩ Thượng đế sẽ rất sung sướng với bạn sao? Ngài có
bạo ác không? Ngài có thích hành hạ người khác không?
Và đó là thánh gì, cái gọi là thánh, đã từng làm: tự hành
hạ mình và nhìn lên trời. Chẳng chóng thì chầy Thượng
đế sẽ nói, “Được đấy, con làm tốt lắm. Bây giờ lại đây và
tận hưởng lạc thú cõi trời. Lại đây! Rượu tuôn thành suối
ở đây, đường làm bằng vàng, và lâu đài làm bằng kim
cương. Và phụ nữ ở đây chẳng bao giờ già, họ cứ còn
mười sáu tuổi mãi. Lại đây! Con làm thế đủ rồi, con đã
được thưởng, bây giờ con có thể tận hưởng!” Toàn bộ ý
tưởng nằm sau hi sinh là thế này. Đây là ý tưởng ngu
xuẩn, bởi vì tất cả ý tưởng bản ngã đều là ngu xuẩn.
Cánh cửa thứ sáu là cái ta như lí trí. Nó tới qua giáo
dục, kinh nghiệm, đọc, học, nghe: bạn bắt đầu tích luỹ ý
tưởng, thế rồi bạn bắt đầu tạo ra hệ thống từ các ý tưởng,
các tổng thể nhất quán, các triết lí. Đây là nơi các triết
gia, các khoa học gia, các tư tưởng gia, các trí thức gia,
những người theo chủ nghĩa duy lí đều bị mắc vào. 

Nhưng điều này trở thành ngày một phức tạp hơn: so với
cánh cửa thứ nhất, cánh cửa thứ sáu là rất tinh vi.
Cánh cửa thứ bẩy là cố gắng thích đáng: nghệ sĩ, nhà
huyền môn, người không tưởng, kẻ mộng mơ - họ bị mắc
ở đó. Họ bao giờ cũng cố gắng tạo ra một nơi không
tưởng trên thế giới này. Từ nơi không tưởng là rất hay:
nó có nghĩa là cái chưa bao giờ tới. Nó bao giờ cũng
đang tới nhưng chẳng bao giờ tới thật; nó bao giờ cũng
có đó nhưng chưa bao giờ ở đây cả. Nhưng có những kẻ
ngắm trăng cứ nhìn ra xa xôi, xa xa, và họ bao giờ cũng
di chuyển trong tưởng tượng. Các nhà thơ lớn, những
người hư cấu - toàn bộ bản ngã họ đều bị thu hút vào
trong việc trở thành. Ai đó muốn trở thành Thượng đế;
người ấy là nhà huyền học.
Nhớ lấy, ‘trở thành’ là từ mấu chốt cho cánh cửa thứ
bẩy, và cánh cửa thứ bẩy là cánh cửa cuối cùng của bản
ngã. Bản ngã chín muồi nhất thì tới đây. Đó là lí do tại
sao bạn sẽ cảm thấy, bạn sẽ thấy một nhà thơ - người ấy
có thể chẳng có gì, người ấy có thể là kẻ ăn xin, nhưng
trong đôi mắt người ấy, trên mũi người ấy, bạn sẽ thấy
bản ngã lớn. Nhà huyền môn có thể đã từ bỏ toàn bộ thế
giới và có thể ngồi trong hang động Himalaya, trong cốc
núi Himalaya. Bạn tới đó và nhìn vào ông ấy: ông ấy có
thể ngồi đó mình trần - nhưng đấy là bản ngã tinh vi thế,
bản ngã tinh tế thế. Ông ấy có thể chạm chân bạn, nhưng
ông ấy đang hô lên, “Trông đây tôi khiêm tốn làm sao!”
Có bẩy cánh cửa. Khi bản ngã hoàn hảo, tất cả bẩy
cánh cửa này đã được đi qua; thế thì bản ngã chín muồi
đó có thể bị loại bỏ theo ý riêng của nó. Đứa trẻ đứng
trước bẩy bản ngã này, còn Phật đứng sau bẩy bản ngã
này. Đó là vòng tròn đầy đủ.
Bạn hỏi tôi: “Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của
đứa trẻ trước việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã
thức tỉnh của vị Phật?”
Đây là khác biệt: Phật đã đi vào trong tất cả bẩy bản
ngã này - đã thấy chúng, nhìn vào chúng, đã thấy rằng
chúng đều là ảo tưởng, và đã trở về nhà, đã trở lại thành
đứa trẻ lần nữa. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói,
“Chừng nào ông chưa trở thành giống như trẻ nhỏ, ông sẽ
không đi vào vương quốc Thượng đế của ta.”
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về Zorba người Hi
lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích cuốn sách đó
lắm. Liệu Zorba không y hệt là cách thức mà Thầy
muốn chúng tôi trở thành chứ? Ít nhất đó cũng là cách
tôi hiểu được giáo huấn của Thầy.
Tôi đã là Zorba người Hi lạp trong nhiều kiếp. Tôi
không cần đọc cuốn sách đó; đó là cuốn tự truyện của tôi.
Và đó là điều tôi muốn bạn trở thành.
Coi cuộc sống là vui vẻ đi, coi cuộc sống là dễ dàng
đi, coi cuộc sống là thảnh thơi đi, đừng tạo ra những vấn
đề không cần thiết. Chín mươi chín phần trăm những vấn
đề của bạn là do bạn tạo ra bởi vì bạn coi cuộc sống là
nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh là căn nguyên gốc rễ của
mọi vấn đề. Vui vẻ, và bạn sẽ không bỏ lỡ điều gì - bởi vì
cuộc sống là Thượng đế. Quên về Thượng đế đi; chỉ sống
động, sống một cách phong phú. Sống từng khoảnh khắc dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng. Sống nó một
cách mạnh mẽ; để cho ngọn đuốc của bạn bùng cháy từ
cả hai đầu. Cho dù nó chỉ còn một khoảnh khắc, thì thế
cũng đủ. Một khoảnh khắc của tính toàn bộ mạnh mẽ là
đủ để cho bạn hương vị của Thượng đế. Bạn có thể sống
theo cách hờ hững, theo cách tư sản, theo cách hạng
trung. Bạn có thể cứ tiếp tục sống, kéo lê mình trong
hàng triệu năm - bạn sẽ chỉ thu thập bụi bặm trên đường
chứ chẳng được cái gì khác. Một khoảnh khắc sáng tỏ,
toàn bộ, tự phát, và bạn sẽ bùng cháy như ngọn lửa. Chỉ
một khoảnh khắc là đủ! Một khoảnh khắc sẽ làm cho bạn
thành vĩnh hằng; bạn sẽ đi từ khoảnh khắc đó vào vĩnh
hằng. Đó là toàn bộ thông điệp của tôi cho các sannyasin:
sống theo cách mà bạn không cần phải ăn năn bao giờ.
Một người bạn đã gửi tới cho tôi một đoạn cắt báo.
Một bà già, tám mươi nhăm tuổi, được một nhà báo
hỏi rằng nếu bà được sống lại lần nữa, thì bà sẽ sống như
thế nào?
Bà già nói - có sáng suốt lớn trong đó, nhớ lấy điều
đó - “Nếu như tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi dám
phạm nhiều sai lầm hơn trong lần tiếp. Tôi sẽ thảnh thơi,
tôi sẽ linh hoạt. Tôi sẽ ngờ nghệch hơn là tôi đã ngờ
nghệch trong cuộc đời này. Tôi sẽ coi ít thứ nghiêm
chỉnh hơn. Tôi sẽ lấy nhiều cơ may hơn. Tôi sẽ thực hiện
nhiều chuyến đi hơn. Tôi sẽ trèo lên nhiều núi hơn và bơi
trên nhiều sông hơn. Tôi sẽ ăn nhiều kem hơn và ít đậu
hơn. Có lẽ tôi sẽ gặp nhiều rắc rối hơn, nhưng tôi sẽ có ít
điều tưởng tượng hơn.
“Anh xem đấy, tôi là một trong những người đã sống
có xét đoán và lành mạnh giờ nọ sang giờ kia, ngày nọ
tiếp ngày kia. Ôi, tôi đã có những khoảnh khắc của mình,
và nếu như tôi phải làm lại điều đó thì tôi sẽ có chúng
nhiều hơn. Trong thực tế, tôi sẽ cố gắng chẳng có gì khác
- chỉ các khoảnh khắc, cái nọ tiếp cái kia, thay vì sống
bao nhiêu năm phía trước cho từng ngày. Tôi đã là một
trong những người chưa bao giờ đi bất kì đâu mà không
có cặp nhiệt độ, chai nước nóng, áo mưa và ô. Nếu tôi
phải làm lại điều đó lần nữa thì tôi sẽ du hành nhẹ nhàng
hơn trước.
“Nếu tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi sẽ bắt đầu
đi chân không sớm hơn trong dòng suối và ở lại muộn
hơn trong dòng thác. Tôi sẽ đi nhảy nhiều hơn. Tôi sẽ
cưỡi nhiều vòng quay ngựa gỗ hơn. Tôi sẽ hái nhiều hoa
cúc hơn.”
Và đó là viễn kiến của tôi về sannyasin nữa. Sống
khoảnh khắc này toàn bộ nhất có thể được đi. Đừng quá
lành mạnh, bởi vì quá lành mạnh sẽ dẫn tới không lành
mạnh. Để cho chút ít điên khùng tồn tại trong bạn. Điều
đó sẽ thêm hương vị cho cuộc sống, làm ra nước cam lồ
cuộc sống. Để một chút ít phi lí bao giờ cũng có đó. Điều
đó làm cho bạn có khả năng chơi đùa, vui vẻ; điều đó
giúp cho bạn thảnh thơi. Người lành mạnh hoàn toàn bị
treo trên đầu, người ấy không thể xuống được từ đó.
Người ấy sống trên gác. Sống khắp mọi chỗ đi, đây là
ngôi nhà của bạn! Trên gác, tốt, dưới đất, hoàn toàn tốt -
và tầng hầm cũng đẹp nữa. Sống ở khắp mọi chỗ, đây là
ngôi nhà của bạn. Và đừng đợi tới lần sau, tôi sẽ bảo với
bà già này như thế, vì lần sau chẳng bao giờ tới cả.
Không phải là bạn sẽ không được sinh ra nữa; bạn sẽ
được sinh ra nữa, nhưng thế thì bạn sẽ quên mất. Thế thì
bạn sẽ bắt đầu lại từ ABC. Bà già này đã từng ở đây
trước kia. Bà ấy phải đã từng ở đây hàng triệu lần trước kia. Và tôi có thể nói với bạn rằng mỗi lần, gần đến độ
tuổi tám mươi nhăm, bà ấy lại quyết định theo cùng cách:
“Lần sau tôi sẽ làm điều ấy khác đi.” Nhưng lần sau bạn
không nhớ - đấy là vấn đề. Bạn mất tất cả kí ức về kiếp
sống quá khứ. Thế thì bạn lại bắt đầu từ ABC và cùng
điều như thế lại xảy ra.
Cho nên tôi sẽ không nói bạn phải đợi tới lần sau.
Nắm ngay lấy khoảnh khắc này đi! Đây là thời gian duy
nhất đang có đó, không có thời gian khác. Cho dù là bạn
đã tám mươi nhăm thì bạn vẫn có thể bắt đầu sống. Và
cái gì có đó để mà mất khi bạn đã tám mươi nhăm? Nếu
bạn đi chân trần trên bãi cát trong dòng suối, nếu bạn
lượm lặt hoa cúc - ngay cả nếu bạn có chết trong lúc đó,
thì cũng chẳng có gì sai cả. Chết khi đi chân trần trên bãi
cái là cách chết đúng đắn. Chết khi lượm lặt hoa cúc là
cách chết đúng đắn. Dù bạn tám mươi nhăm tuổi hay
mười lăm tuổi cũng chẳng thành vấn đề. Giữ lấy khoảnh
khắc này. Là một Zorba.
Bạn hỏi: “Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về
Zorba người Hi lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích
cuốn sách đó lắm.”
Chỉ yêu nó thì cũng chẳng có ích. Là nó đi! Đôi khi
việc xảy ra là bạn yêu cái đối lập với cái bạn đang là.
Bạn thích thú cái đối lập của cái bạn đang là - bởi vì nó
làm thoát ra phóng túng trong bạn. Nó cho bạn viễn kiến
về cách bạn sẽ thích là như vậy: đó là sức quyến rũ của
một Zorba.
Nhưng yêu cuốn sách thì sẽ không có ích. Đó là điều
mọi người vẫn thường làm suốt nhiều thời đại. Mọi
người yêu Kinh thánh, và không trở thành Jesus, và họ
yêu Tâm Kinh - họ lặp lại nó, họ tụng nó hàng ngày.
Hàng triệu người ở phương Đông tụng Tâm Kinh năm
lần một ngày - ở Trung quốc, ở Nhật bản, ở Triều tiên, ở
Việt Nam - họ cứ lặp lại nó. Nó là một bài kinh nhỏ; nó
có thể được lặp lại trong vài phút. Họ yêu nó, nhưng họ
không trở thành nó!
Là một Zorba đi. Nhớ điều đó: yêu sách không ích gì
đâu, chỉ sống mới có ích.
“Tôi thích cuốn sách đó lắm. Liệu Zorba không y hệt
là cách thức mà Thầy muốn chúng trở thành chứ?”
Không y hệt, bởi vì tôi không thích nhiều Zorba trên
thế giới. Không y hệt, bởi vì điều đó sẽ xấu xí và đơn
điệu và đáng chán. Bạn hãy là Zorba theo cách riêng của
mình - không y hệt.
Đừng bao giờ cố gắng bắt chước bất kì ai, đừng bao
giờ là kẻ bắt chước; đó là tự tử. Thế thì bạn sẽ chẳng bao
giờ có thể tận hưởng được. Bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn
là bản sao, bạn sẽ chẳng bao giờ là nguyên bản. Và tất cả
những điều đó xảy ra trong cuộc sống - chân lí, cái đẹp,
cái thiện, giải thoát, thiền, tình yêu - xảy ra cho cái
nguyên bản, không bao giờ xảy ra cho bản sao. Nhận biết
đi - không y hệt; đó là nguy hiểm. Nếu bạn đơn giản theo
Zorba và bắt đầu làm những điều như ông ấy làm thì bạn
sẽ gặp rắc rối. Đó là cách mà mọi người vẫn làm nó.
Nhìn những người Ki tô giáo mà xem, nhìn những
người Hindu mà xem: họ đang cố gắng là y hệt. Không ai
có thể là Phật lần nữa! Thượng đế không cho phép bất kì
lặp lại nào! Thượng đế không cho phép người bản sao,
ông ấy yêu người bản chính. Ông ấy yêu Phật. Ông ấy
yêu đến mức điều đó chấm dứt. Bây giờ không cần Phật
nữa. Đấy sẽ không còn là chuyện tình chút nào nữa. Điều
đó sẽ giống như cùng cuốn phim bạn đã xem trước đây, điều đó sẽ giống như đọc cùng cuốn sách bạn đã đọc
nhiều lần trước đây. Thượng đế không trì trệ và ngờ
nghệch, ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì ai lặp lại bất
kì ai khác: Christ chỉ có một, Phật chỉ có một - và do vậy
bạn cũng chỉ có một! Và bạn là đơn lẻ, không có ai khác
giống bạn. Chỉ có bạn là bạn thôi. Điều này tôi gọi là sự
tôn kính với cuộc sống. Điều này thực sự là tự trọng.
Học từ Zorba đi, học điều bí mật, nhưng đừng bao
giờ cố gắng bắt chước. Học theo hoàn cảnh, cách đánh
giá, đi vào nó, đồng cảm với nó, tham dự với Zorba, và
thế rồi đi theo cách riêng của bạn. Thế thì là chính bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Xin Thầy nói về đâu là điểm chung giữa cầu nguyện
và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa chúng?
Câu hỏi này là của Mark Nevejan...
Tái bút. Thầy không biết tôi bởi vì tôi chưa từng gặp
Thầy chỗ riêng tư. Arup biết tôi chút ít.
Arup không biết cô ấy, làm sao cô ấy biết bạn? - dù
chỉ một chút ít! Bạn chưa từng gặp tôi, điều đó đúng.
Nhưng tôi biết bạn, bởi vì tôi biết bản thân mình. Cái
ngày tôi nhận ra chính mình thì tôi cũng biết về mọi
người - bởi vì đấy là cùng cái không nở hoa theo nhiều
cách khác nhau.
Tôi biết bạn, Mark. Bạn có thể không biết tôi. Làm
sao bạn biết tôi được? - bạn không biết tới chính mình.
Nhưng tôi biết bạn. Tôi có thể không biết hình dạng bạn,
nhưng tôi biết bạn... và bạn không là hình dạng.
Do đó, này Sariputra...
Hình dạng là trống rỗng, trống rỗng là hình
dạng.
Tôi biết chân lí trong bạn; tôi có thể không biết cá
tính quanh bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể giúp bạn -
bởi vì tôi biết bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể đưa bạn
vượt ra ngoài - bởi vì tôi biết bạn. Nếu tôi không biết bạn
thì tôi không thể nào đưa bạn vượt ra ngoài được.
Và bạn hỏi: “Xin Thầy nói về đâu là điểm chung
giữa cầu nguyện và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa
chúng?” Tôi vừa định nói về điều đó hôm qua, nhưng có
nhiều câu hỏi quá và tôi chưa thể trả lời bạn được.
Mark đã viết câu hỏi khác ngày hôm nay:
Mùa hè của Tâm thức và Tự do kính yêu,
Hôm nọ tôi đã hỏi Thầy một câu hỏi về đâu là điểm
chung và điểm khác trong cầu nguyện và thiền. Đồng
thời, tôi đã đọc trong sách của Thầy, Tôi là lối cổng,
và tôi đã tìm ra câu trả lời. Xin cảm ơn Thầy về lời
đáp.
Bầu trời mây Hà lan tên là Mark Nevejan.
Bạn sẽ không còn mang tên Mark Nevejan lâu nữa!
Tôi nghĩ sẽ là hôm nay, bởi vì tôi không đợi cho tới mai.
Tôi sẽ tìm cho bạn một cái tên hay. Nó sẽ không là mây;
nó sẽ không là bầu trời mây Hà lan. nó sẽ là bầu trời Ấn
Độ không mây. 

Sẽ còn xảy ra nhiều lần là bạn hỏi một câu hỏi, rồi
nếu bạn tìm kiếm nó, bạn sẽ tìm thấy. Kiên nhẫn là cần
thiết, bởi vì khi tôi trả lời câu hỏi của người khác, chúng
cũng là câu hỏi của bạn nữa. Chỉ cần kiên nhẫn là đủ.
Khi tôi trả lời một câu hỏi, tôi trả lời nhiều câu hỏi -
những câu hỏi đã hỏi và những câu hỏi chưa hỏi, và
những câu hỏi sẽ hỏi trong tương lai, và những câu hỏi sẽ
không bao giờ được hỏi.
Tốt, Mark, là bạn đã chờ đợi đến một ngày mà không
giận dữ. Vài người rất giận dữ. Họ viết những bức thư
giận dữ cho tôi: “Tôi đã hỏi bao nhiêu câu hỏi và thầy
chẳng trả lời gì cho tôi cả.” Họ không nghe lời tôi, họ chỉ
tìm kiếm cho câu hỏi của họ. Đó là bản ngã của họ, câu
hỏi không quan trọng - “Câu hỏi của tôi phải được trả
lời.” Và bất kì khi nào tôi thấy rằng ai đó đã hỏi một câu
hỏi mà trong đó cái ‘của tôi’ là quan trọng hơn, thì tôi
chẳng bao giờ trả lời cả.
Mukta đang ngồi đây. Cô ấy cứ viết đi viết lại những
câu hỏi và câu hỏi: “Osho, tại sao thầy chẳng bao giờ trả
lời câu hỏi của tôi?” Cái ngày cô ấy vứt bỏ cái ‘của tôi’
của cô ấy, cô ấy sẽ bắt đầu tìm ra câu trả lời.
Tôi đang trả lời, liên tục! Nhưng khi bạn quá gắn bó
với câu hỏi của bạn, và bạn đơn giản chờ đợi khi nào câu
hỏi của bạn được trả lời, thì bạn sẽ lỡ tất cả những câu
hỏi vẫn đang tràn xuống bạn. Nhiều lần xảy ra là khi tôi
trả lời một câu hỏi thì bản thân người hỏi câu hỏi đó
không thể nhận được nó nhưng những người khác lại
nhận được nó dễ dàng, bởi vì họ không lo nghĩ, đấy
không phải là câu hỏi của họ, cho nên họ ngồi im lặng.
Họ không bị kích động về nó, họ không căng thẳng về
nó, nó chẳng có gì cá nhân cả. Họ có thể thảnh thơi và
tận hưởng câu trả lời. Khi đấy là câu hỏi của bạn thì bạn
căng thẳng và bạn sợ hãi. Và tôi chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ
hội - nếu tôi có thể đánh bạn, thì tôi đánh!
Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu,
Tôi đã nghe Thầy nó đi nói lại rằng chúng ta nên vẫn
còn trong thế giới này, trong bãi chợ. Vậy mà phần
lớn mọi người tôi gặp ở đây đều lập kế hoạch sống với
Thầy ở Gujarat, chỉ trở về phương Tây để thu thập
cho đủ tiền làm điều đó. Một cộng đồng lớn đang
được lập kế hoạch. Xin Thầy bình luận.
Thầy nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc sống
với một thầy đang sống, nhưng sau khi mối nối đã
được thiết lập Thầy bao giờ cũng cùng với chúng tôi.
Tại sao mọi người đều muốn sống trong cộng đồng
của Thầy thay vì ở trên thế giới? Điều đó chắc chắn là
tuyệt diệu, nhưng thế bãi chợ thì sao?
Nó đang trở thành bãi chợ lớn nhất mà bạn đã từng
thấy đấy. Đừng lo nghĩ về điều đó! Nó sắp sửa thành
chính thế giới này rồi - mạnh mẽ hơn, tất nhiên, mà bạn
có thể tìm thấy nó ở mọi nơi; tất nhiên hỗn loạn hơn. Và
không ai lập kế hoạch cho nó cả, nhớ lấy, nó đang tới từ
cái không. Do đó, này Sariputra...! 


Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu,
Cơ hội nào có đó cho xã hội lí tưởng của Thầy trong
khi đương đầu với các chính khách và tu sĩ và những
món lời đầu tư tư bản?
Trước hết, tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí
tưởng nào. Với vấn đề đó, tôi thậm chí không quan tâm
tới bất kì cá nhân nào. Lí tưởng thế giới là một từ bẩn
thỉu đối với tôi. Tôi không có lí tưởng nào. Lí tưởng dẫn
bạn tới điên khùng. Chính lí tưởng đã làm cho toàn bộ
trái đất này thành nhà thương điên lớn.
Lí tưởng có nghĩa là bạn không phải là cái bạn đáng
phải là. Nó tạo ra căng thẳng, lo âu, đau khổ. Nó chia rẽ
bạn, nó làm cho bạn thành tinh thần phân liệt, và lí tưởng
là tương lai còn bạn thì ở đây. Và làm sao bạn có thể
sống được chừng nào bạn chưa là điều lí tưởng? Trước
hết phải là lí tưởng, thế rồi bắt đầu sống - và điều đó
chẳng bao giờ xảy ra cả. Điều đó không thể nào xảy ra
trong chính bản chất của mọi vật. Lí tưởng là điều không
thể; đó là lí do tại sao chúng là lí tưởng. Chúng hướng
bạn tới điên khùng và làm bạn mất trí. Và việc kết án nảy
sinh, bởi vì bạn bao giờ cũng không đạt tới lí tưởng. Mặc
cảm được tạo ra. Trong thực tế, đó là điều các tu sĩ và
chính khách vẫn đang làm - họ muốn tạo ra mặc cảm
trong bạn. Để tạo ra mặc cảm, họ dùng lí tưởng; đó là cơ
chế đơn giản nhất. Trước hết đưa ra lí tưởng, thế rồi mặc
cảm tới một cách tự động.
Nếu tôi nói với bạn rằng hai mắt không đủ, bạn cần
ba mắt; mở con mắt thứ ba của bạn ra! Đọc Lobsang
Rampa - mở con mắt thứ ba ra! Và bây giờ bạn cố gắng
vất vả, cách này cách khác, và bạn trồng cây chuối, bạn
đọc mật chú - mà con mắt thứ ba vẫn không mở. Bây giờ
bạn bắt đầu thấy mặc cảm - cái gì đó đang bị lỡ... bạn
không phải là người đúng. Bạn trở nên thất vọng. Bạn cọ
sát con mắt thứ ba thật mạnh, mà nó vẫn chẳng chịu mở
ra cho.
Nhận biết về tất cả những điều vô nghĩa này. Hai con
mắt là đẹp đẽ. Và nếu bạn chỉ có một con mắt, điều đó
cũng hoàn hảo... Bởi vì Jesus nói, “Khi hai con mắt trở
thành một, thế thì toàn bộ thân thể tràn đầy ánh sáng.”
Nhưng tôi không nói rằng bạn phải cố gắng làm một mắt
thành hai. Chấp nhận bản thân mình như bạn đang thế đi.
Thượng đế đã làm cho bạn hoàn chỉnh, ngài không bỏ
điều gì bất toàn trong bạn đâu. Và nếu bạn cảm thấy bất
toàn có đó, thì đó là một phần của hoàn hảo. Bạn là bất
toàn hoàn hảo. Thượng đế biết rõ hơn: rằng chỉ trong bất
toàn mới có trưởng thành, chỉ trong bất toàn mới có
luồng chảy, chỉ trong bất toàn điều gì đó mới có thể. Nếu
bạn đã hoàn hảo bạn sẽ chết như một tảng đá. Thế thì sẽ
chẳng cái gì xảy ra cả, thế thì chẳng cái gì có thể xảy ra.
Nếu bạn hiểu tôi, tôi muốn nói với bạn: Thượng đế bao
giờ cũng bất toàn hoàn hảo; nếu không thì ngài đã chết từ
lâu rồi. Ngài sẽ không đợi được cho Friedrich Nietzsche
phải tuyên bố rằng Thượng đế chết.
Thượng đế này sẽ làm gì nếu ngài đã hoàn hảo? Thế
thì ngài chẳng thể làm được gì nữa, thế thì ngài không
thể nào có bất kì tự do nào để làm cả. Ngài không thể
trưởng thành được; chẳng có chỗ nào để đi cả. Ngài đơn
giản sẽ bị mắc kẹt ở đó. Ngài thậm chí không thể tự tử
nổi, bởi vì khi bạn hoàn hảo thì bạn không làm những
điều như thế.
Chấp nhận bản thân mình như bạn hiện thế đi. 

Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào,
không chút nào. Tôi không quan tâm thậm chí tới cá
nhân lí tưởng. Tôi không quan tâm đến chủ nghĩa lí
tưởng chút nào!
Và với tôi thì xã hội không tồn tại, chỉ có các cá
nhân. Xã hội chỉ là cấu trúc chức năng, tiện dụng. Bạn
không thể tình cờ bắt gặp xã hội. Bạn đã bao giờ tình cờ
bắt gặp xã hội chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp nhân
loại chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp Hindu giáo,
Mô ha mét giáo chưa? Không, bạn bao giờ cũng bắt gặp
cá nhân, cá nhân cụ thể, vững chắc.
Nhưng mọi người vẫn nghĩ cách cải thiện xã hội,
cách tạo ra xã hội lí tưởng. Và những người này đã
chứng tỏ là tai hoạ. Họ là mối hoạ lớn nhất. Bởi vì xã hội
lí tưởng của họ mà họ đã phá huỷ sự kính trọng của mọi
người với chính mình, và họ đã tạo ra mặc cảm trong mọi
người. Mọi người đều mặc cảm, chẳng ai dường như
hạnh phúc theo cách người ấy đang thế. Và bạn có thể
tạo ra mặc cảm cho mọi thứ - và một khi mặc cảm được
tạo ra, bạn trở thành có quyền năng. Người tạo ra mặc
cảm trong bạn lại trở thành quyền năng trên bạn - nhớ
chiến lược này - bởi vì chỉ thế thì người đó mới cứu bạn
khỏi mặc cảm. Thế thì bạn phải đi theo người đó. Các tu
sĩ trước hết tạo ra mặc cảm, rồi bạn phải tới nhà thờ. Thế
thì bạn phải tới thú tội, “Con đã phạm phải tội lỗi này,”
và người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Trước hết nhân danh Thượng đế người đó tạo ra mặc
cảm, rồi người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Nghe câu chuyện sau.
Calvin bị mẹ bắt quả tang phạm phải tội lỗi nghiêm
trọng, và lập tức được gửi tới chỗ thú tội.
“Thưa cha,” Calvin nói, “Con đã đánh bạc với chính
mình.”
“Tại sao con làm điều đó?” tu sĩ thực sự giận dữ và
quát lên.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc năm lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Một tuần sau mẹ Calvim lại bắt được nó, và lần nữa
nó bị đưa tới phòng thú tội.
“Thưa cha, con đã đánh bạc với chình mình.”
“Sao con làm thế?”
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc mười lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Tuần sau, Calvin lại phạm tội, “Quay lại nhà thú tội,”
mẹ nó nói. “Và mang cái bánh sô cô la này cho cha xứ.”
Trong khi chờ đợi một hàng dài, Calvin ăn hết cái
bánh. Trong phòng thú tội nó nói, “Thưa cha, Mẹ con sai
đem cho cha một cái bánh sô cô la, nhưng con đã ăn nó
trong khi đợi rồi.”
“Sao con làm thế?” tu sĩ hỏi.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi.”
“Thế sao con không đánh bạc với chính mình?”
Tu sĩ không quan tâm tới điều bạn làm; ông ta có mối
quan tâm bất di bất dịch - cái bánh sô cô la của mình. Và
thế thì bạn có thể tới địa ngục! Thế thì bạn có thể làm bất
kì cái gì bạn muốn, nhưng bánh sô cô la đâu? 

Họ tạo ra mặc cảm, rồi họ lại tha thứ bạn nhân danh
Thượng đế. Họ làm cho bạn thành tội nhân rồi họ nói,
“Bây giờ đến với Christ đi, ông ấy là vị cứu tinh.”
Chẳng có ai ở đó mà cứu bạn cả, bởi vì ngay chỗ đầu
tiên bạn có phạm vào tội lỗi gì đâu. Bạn không cần phải
được cứu rỗi.
Đây là thông điệp của Phật: Bạn đã có đó rồi! Bạn đã
được cứu vớt rồi! vị cứu tinh không cần tới, bạn không
phạm tội. Không có đau khổ, Sariputra, không có nguồn
gốc của đau khổ, không có chấm dứt về nó, và không có
con đường cho nó. Nó là không được đạt tới, nó là không
không đạt tới. Nó đã có đấy, nó là chính bản tính của
bạn.
Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào.
Vứt ước mơ đó đi; nó đã tạo ra những cơn ác mộng lớn
trên thế giới. Nhớ lấy, chẳng cái gì có thể xảy ra bây giờ
về chính trị cả. Chính trị là chết. Bạn có bầu cho bất kì
cái gì, phe tả hay phe hữu, làm việc đó nhưng đừng ảo
tưởng. Cần phải từ bỏ ý tưởng rằng bất kì hệ thống nào
cũng có thể là vị cứu tinh. Không hệ thống nào có thể là
cứu tinh cả - chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa Gandhi. Không xã hội nào có thể cứu bạn được, và
không xã hội nào có thể là xã hội lí tưởng. Và không có
cứu tinh - Christ, Krishna hay Rama. Bạn chỉ phải vứt bỏ
cái vô nghĩa mà bạn vẫn mang trong mình về mặc cảm
và về việc bạn là tội nhân.
Để toàn bộ năng lượng vào trong nhảy múa, lễ hội.
Và thế thì bạn là lí tưởng, tại đây và bây giờ - không phải
là bạn phải trở thành lí tưởng.
Ý thức hệ, như nó vậy, làm mất chân lí của nó. Trong
thực tế nó chưa bao giờ có đó ngay chỗ đầu tiên. Và sức
mạnh thuyết phục cũng qua đi. Vài tâm trí trịnh trọng
không còn tin vào việc người ta có thể đặt ra bản kế
hoạch tổng thể, và qua cỗ máy xã hội mà đem lại một nơi
không tưởng mới về hài hoà xã hội. Chúng ta đang sống
trong thời đại tự do hoàn toàn. Chúng ta đã tới độ tuổi.
Loài người không còn ngây thơ nữa, nó đã chín chắn
hơn. Chúng ta đang sống trong thời kì đậm sắc Socrates,
bởi vì mọi người đang hỏi tất cả những câu hỏi quan
trọng về cuộc sống. Đừng bắt đầu khao khát và thèm
muốn lí tưởng, ý tưởng, hoàn hảo tương lai nào đó. Vứt
tất cả các lí tưởng và sống ở đây và bây giờ.
Công xã của tôi không định là xã hội lí tưởng. Công
xã của tôi định là công xã ở đây và bây giờ.
Đủ cho hôm nay.


Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu,
Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của đứa trẻ trước
việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã thức tỉnh của
vị Phật?
Có tương đồng và cũng có dị biệt. Về bản chất đứa
trẻ là vị Phật, nhưng phật tính của nó, hồn nhiên của nó,
là tự nhiên, không do kiếm được. Hồn nhiên của nó là
một loại dốt nát, không phải là nhận thức rõ. Hồn nhiên
của nó là vô ý thức - nó không biết về điều đó, nó không
để tâm tới điều đó, nó không để ý gì đến điều đó. Điều đó
có đấy mà nó quên lãng. Nó đang làm mất điều đó. Nó
phải làm mất điều đó. Cõi trời sẽ mất đi chẳng chóng thì
chầy; nó đang trên đường tiến tới điều đó. Mọi đứa trẻ
đều phải đi qua tất cả các loại hư hỏng, không thuần
khiết - thế giới này.
Hồn nhiên của trẻ con là hồn nhiên của Adam trước
khi bị đầy ra khỏi vườn Địa đàng, trước khi nếm trái tri
thức, bởi vì Adam đã trở nên có ý thức. Cũng như con
vật vậy. Nhìn vào mắt con vật mà xem - con bò, con chó
- và có thuần khiết, cùng thuần khiết đó tồn tại trong mắt
của vị Phật, nhưng với sự khác biệt.
Và khác biệt là bao la nữa: vị Phật đã về tới nhà; con
vật chưa rời khỏi nhà. Đứa trẻ vẫn còn trong vườn Địa
đàng, vẫn còn trong cõi trời. Nó sẽ phải làm mất điều đó
- bởi vì để được thì người ta phải mất. Phật đã về tới
nhà... toàn bộ vòng tròn. Ông ấy đã đi xa, ông ấy đã mất,
ông ấy đã đi lạc lối, ông ấy đã dấn thân sâu vào trong
bóng tối và tội lỗi và khổ cùng địa ngục. Những kinh
nghiệm đó là một phần của chín chắn và trưởng thành.
Không có chúng thì bạn không có xương sống nào, bạn
là loài không xương sống. Không có chúng thì hồn nhiên
của bạn là rất mong manh; nó không thể đứng lại trước
gió, nó không thể chịu đựng nổi bão tố. Nó rất yếu ớt, nó
không thể tồn tại nổi. Nó phải trải qua thử lửa cuộc đời -
phạm phải cả nghìn lẻ một sai lầm, cả nghìn lẻ một lần
bản ngã, rồi bạn lại đứng dậy trên đôi chân mình. Tất cả
những kinh nghiệm đó dần dần làm bạn chín chắn lên,
làm bạn chín muồi; bạn trở thành người lớn.
Hồn nhiên của Phật là hồn nhiên của người đã chín
chắn, hoàn toàn chín muồi. Ngây thơ là vô ý thức bản
chất; phật tính là ý thức bản chất. Ngây thơ là ngoại vi
không mang ý tưởng nào về trung tâm. Phật cũng là một ngoại vi, nhưng bắt rễ tại trung tâm, định tâm. Ngây thơ
là vô danh không ý thức; phật tính là vô danh có ý thức.
Cả hai đều không tên tuổi, cả hai đều vô hình dạng...
nhưng trẻ con còn chưa biết đến hình dạng và khổ của
nó. Điều đó cũng giống như bạn chưa bao giờ ở tù cả,
cho nên bạn không biết tự do là gì. Thế thì bạn đã ở trong
tù trong nhiều năm trời, hay nhiều kiếp, và thế rồi một
hôm bạn được thả ra... bạn đi ra khỏi cánh cửa nhà tù
nhảy múa, cực lạc! Và bạn sẽ ngạc nhiên là mọi người
đều đã ở ngoài rồi, vẫn bước đi trên phố, tiến hành công
việc của mình, tới văn phòng, tới xưởng máy, thế mà
không tận hưởng tự do của mình chút nào - họ quên lãng,
họ không biết rằng họ đang tự do. Làm sao họ biết được?
Bởi vì họ chưa bao giờ trong tù cả nên họ không biết
điều tương phản; nền tảng bị mất.
Cứ dường như là bạn viết phấn trắng lên bức tường
trắng - không ai sẽ có thể đọc được nó. Chẳng cần phải
nói tới người khác - ngay chính bạn sẽ không thể nào đọc
được điều bạn viết ra.
Tôi đã từng nghe một chuyện tiếu lâm nổi tiếng về
Mulla Nasruddin. Trong làng, anh ta là người duy nhất
có thể viết được, cho nên mọi người hay đến anh ta nếu
họ muốn viết thư hay tài liệu nào đó, hay bất kì thứ gì.
Anh ta là người duy nhất có thể viết được. Một hôm một
người tới. Nasruddin đã viết một lá thư, bất kì cái gì mà
người kia đọc ra - và đấy là một bức thư dài - rồi người
kia nói, “Xin anh đọc lại bức thư vì tôi muốn chắc rằng
mọi điều đã được viết ra và tôi không quên điều gì cả,
còn anh thì cũng không làm lộn xộn mọi thứ lên.”
Mulla nói, “Này, điều ấy khó đấy. Tôi biết viết
nhưng tôi không biết đọc. Và hơn thế nữa, bức thư lại
không gửi cho tôi cho nên đọc nó là điều bất hợp pháp
nữa.”
Và người làng được thuyết phục, ý tưởng này hoàn
toàn đúng, và người làng này nói, “Anh nói phải đấy - nó
không gửi cho anh.”
Nếu bạn viết lên tường trắng thì thậm chí bản thân
bạn cũng không thể nào đọc được nó, nhưng nếu bạn viết
lên bảng đen thì nó thành lồ lộ và rõ ràng - bạn có thể
đọc được nó. Tương phản là cần thiết. Đứa trẻ không có
tương phản; nó là lớp tráng bạc không có đám mây đen.
Phật là lớp tráng bạc trong đám mây đen.
Ban ngày vẫn có sao trên trời đấy; chúng chẳng đi
đâu cả - chúng không thể đi nhanh thế, chúng không thể
nào biến mất. Chúng đã có đó, cả ngày chúng vẫn đấy,
nhưng trong đêm bạn có thể thấy được chúng vì có bóng
tối. Chúng bắt đầu xuất hiện; khi mặt trời lặn thì chúng
bắt đầu xuất hiện. Mặt trời càng xuống thấp hơn nữa
dưới đường chân trời thì sao lại càng nở rộ hơn. Chúng
vẫn ở đó cả ngày, nhưng bởi vì bóng tối mất đi nên khó
mà thấy được chúng.
Đứa trẻ có hồn nhiên nhưng không có nền tảng. Bạn
không thể thấy nó được, bạn không thể đọc được nó; nó
không hiện rõ lắm. Vị Phật đã sống cuộc sống của mình,
đã làm tất cả những gì cần thiết - cả tốt lẫn xấu - đã chạm
tới cực này và cực kia, đã từng là tội nhân và thánh nhân.
Nhớ lấy, vị Phật không chỉ là thánh nhân; ông ấy đã từng
là tội nhân và ông ấy đã từng là thánh nhân. Còn phật
tính vượt ra ngoài cả hai. Bây giờ ông ấy đã về nhà.
Đó là lí do tại sao Phật nói trong lời kinh hôm qua:
Na jhanam, na praptir na-apraptih - ‘Không có đau khổ,
không nguồn gốc, không chấm dứt, không con đường. 

Không cảm nhận, không tri thức, không thành đạt, và
không không thành đạt.” Khi Phật trở nên thức tỉnh
người ta đã hỏi ông ấy, “Thầy đã đạt tới cái gì?” Và ông
ấy cười to, và ông ấy nói, “Ta chẳng đạt tới cái gì cả - ta
chỉ phát hiện ra cái vẫn đã có đấy. Ta chỉ đơn giản đi về
nhà. Ta đã tuyên bố rằng cái đó bao giờ cũng là của ta và
cùng với ta. Cho nên không có thành đạt nào hết cả, ta
chỉ đơn giản nhận ra nó." Đấy không phải là khám phá,
đấy là phát hiện lại. Và khi bạn trở thành vị Phật thì bạn
sẽ thấy ra vấn đề - chẳng thu được cái gì hết cả qua việc
thành Phật. Bỗng nhiên bạn thấy rằng đây là bản tính của
bạn. Nhưng để nhận ra bản tính này thì bạn phải đi lạc
lối, bạn phải đi sâu vào trong hỗn loạn của thế giới. Bạn
phải đi vào trong tất cả các nơi chốn và không gian lầy
bùn để thấy cái trong sạch tột cùng của bạn, thuần khiết
tột cùng của bạn.
Hôm nọ tôi đã nói với các bạn về bẩy cánh cửa - về
cách thức bản ngã được hình thành, về cách thức ảo
tưởng bản ngả được làm mạnh thêm. Sẽ có ích để đi sâu
thêm vào vài điều về nó.
Bẩy cánh cửa của bản ngã không phải được rõ ràng
lắm và không tách bạch hẳn lẫn nhau; chúng chờm lên
nhau. Và rất hiếm khi tìm được một người đã đạt tới bản
ngã mình từ tất cả bẩy cánh cửa này. Nếu một người đã
đạt tới bản ngã từ tất cả bẩy cánh cửa này, người ấy trở
thành một bản ngã hoàn hảo. Và chỉ bản ngã hoàn hảo
mới có khả năng tan biến đi, không phải là bản ngã bất
toàn. Khi quả chín, nó rụng xuống; khi quả chưa chín nó
vẫn còn đeo bám. Nếu bạn vẫn còn bám lấy bản ngã, nhớ
lấy, quả còn chưa chín đâu; do đó mới có níu bám. Nếu
quả chín, nó rụng xuống đất và biến mất. Đấy cũng là
trường hợp với bản ngã.
Bây giờ đây là nghịch lí: rằng chỉ bản ngã đã tiến hoá
thực sự mới có thể buông xuôi. Thông thường bạn nghĩ
rằng người bản ngã không thể buông xuôi được. Đấy
không phải là quan sát của tôi, và không phải là quan sát
của chư Phật trong nhiều thời đại. Chỉ người bản ngã
hoàn hảo thì mới có thể buông xuôi. Bởi vì chỉ người đó
mới biết đến khổ của bản ngã, chỉ người ấy mới có sức
mạnh để buông xuôi. Người ấy đã biết tất cả các khả
năng của bản ngã và đã đi vào trong thất vọng mênh
mông. Người đó đã đau khổ nhiều lắm, người đó đã biết
thế là đủ rồi, và người đó muốn có bất kì cái cớ nào để
buông xuôi theo nó. Cái cớ có thể là Thượng đế, cái cớ
có thể là một thầy, hay bất kì cớ gì, nhưng người đó
muốn buông xuôi theo nó. Gánh nặng đã quá lớn và
người đó đã phải mang đi quá lâu.
Những người còn chưa phát triển bản ngã của mình
cũng có thể buông xuôi, nhưng buông xuôi của họ sẽ
không hoàn hảo, nó sẽ không toàn bộ. Cái gì đó sâu bên
trong sẽ vẫn cứ níu bám, cái gì đó sâu bên trong sẽ vẫn
cứ hi vọng: “Có thể có cái gì đó trong bản thân nó. Tại
sao mình buông xuôi?”
Tại phương Đông, bản ngã vẫn còn chưa phát triển
lắm. Bởi vì giáo huấn về vô ngã nên việc hiểu sai đã nảy
sinh rằng nếu bản ngã cần phải bị buông xuôi, tại sao
phải phát triển nó, để làm gì? Một logic đơn giản: nếu
một ngày nào nó phải bị từ bỏ, thì bận tâm tới nó làm gì?
Thế thì sao phải mất nhiều công sức thế để tạo ra nó?
Đằng nào nó cũng phải bị loại bỏ cơ mà! Cho nên
phương Đông không bận tâm nhiều lắm vào việc phát
triển bản ngã. Và tâm trí phương Đông thấy rất dễ dàng
cúi đầu xuống trước bất kì ai. Nó thấy điều đó rất dễ
dàng, nó bao giờ cũng sẵn sàng buông xuôi. Nhưng buông xuôi này về cơ bản là không thể được, bởi vì bạn
còn chưa có bản ngã để buông xuôi nó.
Bạn sẽ ngạc nhiên: tất cả chư Phật vĩ đại ở phương
Đông đều đã là kshatriya, từ đẳng cấp chiến binh - Phật,
Mahavira, Parshwanath, Neminath. Tất cả hai mươi bốn
tirthankara của đạo Jaina đều thuộc về đẳng cấp chiến
binh, và tất cả avatara của đạo Hindu đều thuộc về đẳng
cấp kshatriya - Ram, Krishna - ngoại trừ một người,
Parashuram, người này, dường như ngẫu nhiên, được
sinh ra trong một gia đình brahmin, bởi vì bạn không thể
nào tìm ra một chiến binh lớn hơn ông ấy. Phải có ngẫu
nhiên nào đó - toàn bộ cuộc đời ông là một cuộc chiến
tranh liên tục.
Điều cũng đáng ngạc nhiên khi bạn nhận ra rằng
không một brahmin nào đã từng được công bố là vị Phật,
một avatara, một tirthankara. Tại sao? Người brahmin
khiêm tốn; ngay từ ban đầu người đó đã được nuôi nấng
trong khiêm tốn, vì tính khiêm tốn. Vô ngã đã được dạy
cho người ấy ngay từ ban đầu, cho nên bản ngã không
chín muồi, và bản ngã chưa chín thì cứ bám mãi.
Tại phương Đông người ta có bản ngã rất, rất manh
mún, và họ nghĩ thế thì dễ buông xuôi. Họ bao giờ cũng
sẵn sàng buông xuôi với bất kì ai. Đánh rơi chiếc mũ và
đã sẵn sàng buông xuôi - nhưng buông xuôi của họ chẳng
bao giờ đi rất sâu, nó vẫn còn hời hợt.
Điều đối lập lại là trường hợp của phương Tây:
người tới từ phương Tây có bản ngã rất, rất mạnh và đã
phát triển. Bởi vì toàn bộ nền giáo dục phương Tây đều
nhằm tạo ra bản ngã tiến hoá, rất xác định, rất văn hoá,
phức tạp, cho nên họ nghĩ rất khó để buông xuôi. Họ
thậm chí chưa từng nghe thấy từ buông xuôi. Chính ý
tưởng này xem ra có vẻ xấu xí, đáng mất mặt. Nhưng
nghịch lí lại là ở chỗ khi người đàn ông hay đàn bà
phương Tây buông xuôi, thì việc buông xuôi đi thực sự
sâu sắc. Nó đi tới chính cốt lõi của bản thể người đó, bởi
vì bản ngã này rất tiến hoá. Bản ngã đã tiến hoá; đó là lí
do tại sao bạn nghĩ rất khó để buông xuôi. Nhưng nếu
việc buông xuôi xảy ra thì nó đi tới chính cốt lõi, nó là
tuyệt đối. Tại phương Đông mọi người nghĩ việc buông
xuôi rất dễ dàng, nhưng bản ngã lại chưa được tiến hoá
mấy cho nên nó chẳng bao giờ đi rất sâu.
Vị Phật là người đã đi vào trong kinh nghiệm của
cuộc sống, ngọn lửa cuộc sống, địa ngục cuộc sống, và
đã làm chín muồi bản ngã của mình tới khả năng tối
thượng, tới chính cái tối đa. Và trong khoảnh khắc đó
bản ngã rơi xuống và biến mất. Lần nữa bạn lại là đứa
trẻ; đấy là tái sinh, đấy là phục sinh. Trước hết bạn phải
bị treo lên chiếc thập tự bản ngã, bạn phải đau khổ trên
cây thập tự bản ngã, và bạn phải mang cây thập tự này
trên vai mình - và tới tận cùng. Bản ngã phải được học;
chỉ thế thì bạn mới có thể gạt bỏ nó. Và thế thì có vui vẻ
lớn. Khi bạn được tự do khỏi nhà tù, bạn có điệu vũ, có
lễ hội trong bản thể mình. Bạn không thể nào tin được tại
sao những người ra khỏi tù lại đờ đẫn, như chết và kéo lê
mình đến thế. Tại sao họ lại không nhảy múa? Tại sao họ
lại không lễ hội? Họ không thể làm thế: họ còn chưa biết
tới nỗi khổ của tù đầy.
Bẩy cánh cửa này cần phải được dùng trước khi bạn
có thể trở thành vị Phật. Bạn phải đi vào cõi giới tăm tối
nhất của cuộc sống, vào đêm tối của linh hồn, vào lại
bình minh khi buổi sáng mới lên, khi mặt trời mới lên, và
tất cả đều sáng. Nhưng hiếm khi xảy ra việc bạn có bản
ngã đã phát triển đầy đủ. 

Nếu bạn hiểu tôi, thế thì toàn bộ cấu trúc của giáo
dục sẽ là nghịch lí: trước hết họ nên dạy cho bạn về bản
ngã - đó nên là phần thứ nhất của giáo dục, một nửa của
nó; thế rồi họ nên dạy cho bạn về vô ngã, cách loại bỏ nó
- đó sẽ là nửa sau. Mọi người đi vào từ một cửa hay hai
cửa hay ba cửa, và bị mắc vào trong bản ngã phân đoạn
nào đó.
Điều thứ nhất, tôi nói, là bản thân thân thể. Trẻ con
bắt đầu học dần dần: phải mất gần mười lăm tháng để
cho đứa trẻ học rằng nó là tách biệt, rằng có cái gì đó bên
trong nó và cái gì đó bên ngoài. Nó học rằng nó có một
thân thể tách biệt với các thân thể khác. Nhưng vài người
vẫn còn níu bám lấy bản ngã rất, rất manh mún đó trong
suốt cả đời mình. Đấy là những người được biết tới như
người duy vật, người cộng sản, Mác xít. Những người tin
rằng thân thể là tất cả - rằng chẳng có gì nhiều hơn thân
thể bên trong bạn, rằng thân thể là toàn bộ sự tồn tại của
bạn, rằng không có tâm thức tách biệt khỏi thân thể, ở
trên thân thể, rằng tâm thức chỉ là hiện tượng hoá học
trong thân thể, rằng bạn không tách rời khỏi thân thể và
khi thân thể chết đi thì bạn cũng chết đi, và tất cả biến
mất... cát bụi trở về với cát bụi... không có điều thiêng
liêng nào trong bạn - họ qui con người về vật chất.
Đấy là những người vẫn còn níu bám vào cánh cửa
thứ nhất; lứa tuổi tâm trí của họ dường như mới chỉ mười
lăm tháng. Bản ngã nguyên thuỷ và rất, rất sơ cấp này
vẫn còn là duy vật. Những người này vẫn còn quanh
quẩn với hai điều: dục và thức ăn. Nhưng nhớ lấy, khi tôi
nói người duy vật, người cộng sản, người mác xít, tôi
không ngụ ý rằng điều này đã hoàn chỉnh danh sách. Một
ai đó có thể là người duy tâm và có thể vẫn níu bám lấy
cánh cửa thứ nhất...
Chẳng hạn, Mahatma Gandhi: nếu bạn đọc tiểu sử
ông ấy, ông ấy gọi tiểu sử mình là Kinh nghiệm của tôi
với chân lí. Nhưng nếu bạn đọc tiểu sử của ông ấy thì
bạn sẽ thấy cái tên này không đúng; ông ấy nên đặt tên
cho nó là Kinh nghiệm của tôi với thức ăn và dục. Chẳng
tìm thấy chân lí ở đâu cả. Ông ấy cứ liên tục lo nghĩ về
thức ăn: cái gì nên ăn, cái gì không nên ăn. Toàn bộ lo
nghĩ của ông ấy dường như là chỉ là về thức ăn, và rồi về
dục: làm sao trở thành vô dục - điều này diễn ra như một
chủ đề, đây là dòng chảy ngầm. Liên tục, ngày và đêm,
ông ấy nghĩ về thức ăn và dục - người ta phải được tự do.
Bây giờ ông ấy không phải là người duy vật - ông ấy tin
vào linh hồn, ông ấy tin vào Thượng đế. Trong thực tế,
bởi vì ông ấy tin vào Thượng đế nên ông ấy đang nghĩ
quá nhiều về thức ăn - bởi vì nếu ông ấy ăn cái gì đó sai
và phạm tội, thế thì ông ấy sẽ bị xa với Thượng đế. Ông
ấy nói về Thượng đế nhưng nghĩ về thức ăn.
Và điều đó không chỉ như thế với ông ấy đâu, nó
cũng là như thế với tất cả các tu sĩ Jaina nữa. Ông ấy chịu
nhiều ảnh hưởng từ các tu sĩ Jaina. Ông ấy được sinh ra ở
Gujarat. Gujarat về cơ bản là của đạo Jaina, Jaina giáo có
ảnh hưởng lớn nhất ở Gujarat. Ngay cả những người
Hindu ở Gujarat cũng giống người Jaina hơn là người
Hindu. Gandhi mang đến chín mươi phần trăm tính cách
của người Jaina - được sinh ra trong một gia đình Hindu,
nhưng tâm trí ông ấy được các tu sĩ Jaina giáo dưỡng. Họ
liên tục nghĩ về thức ăn.
Và thế rồi ý tưởng thứ hai nảy sinh, về dục - làm sao
loại bỏ được dục. Trong cả đời ông ấy, cho tới tận cùng,
ông ấy vẫn còn bận tâm về điều đó - làm sao loại bỏ dục.
Trong những năm cuối cuộc đời, ông ấy đã thực nghiệm
với còn gái ở truồng và ngủ với họ, chỉ để kiểm tra mình bởi vì ông ấy cảm thấy rằng cái chết đang tới gần, và ông
ấy phải kiểm tra bản thân mình để xem liệu có còn chút
nào thèm khát trong mình không.
Đất nước bùng cháy, mọi người bị giết: người Mô ha
mét giáo giết người Hindu, người Hindu giết người Mô
ha mét giáo - toàn bộ đất nước trong lửa cháy. Còn ông
ấy thì ở giữa điều đó, ở Novakali - nhưng mối bận tâm
của ông ấy là về dục. Ông ấy ngủ với con gái, con gái ở
truồng; ông ấy đang kiểm tra bản thân mình, kiểm tra
xem liệu brahmacharya, cái vô dục của ông ấy, đã hoàn
hảo hay chưa.
Nhưng tại sao phải có hoài nghi này? - bởi vì kìm
nén đã lâu. Trong toàn bộ cuộc sống ông ấy đã kìm nén.
Bây giờ, đến chính lúc cuối, ông ấy trở nên sợ - bởi vì
vào độ tuổi đó ông ấy vẫn còn mơ về dục. Cho nên ông
ấy rất hoài nghi: liệu ông ấy có thể đối diện với Thượng
đế của mình được không? Bây giờ ông ấy là người duy
tâm, nhưng tôi sẽ gọi ông ấy là người duy vật, và một
người duy vật rất nguyên thuỷ. Mối quan tâm của ông ấy
là thức ăn và dục.
Dù bạn ủng hộ hay chống đối điều đó cũng chẳng
thành vấn đề - mối quan tâm của bạn chỉ ra chỗ bản ngã
bạn đang bị mắc vào. Và tôi sẽ bao hàm cả người duy
tâm vào trong đó nữa: mối quan tâm cả đời của người đó
là làm sao thu được tiền bạc, tích trữ tiền bạc - bởi vì tiền
bạc có quyền lực trên vật chất. Bạn có thể mua bất kì thứ
vật chất nào bằng tiền. Bạn không thể mua được bất kì
thứ tâm linh nào, bạn không thể nào mua bất kì thứ gì mà
có giá trị thực sự; bạn chỉ có thể mua các đồ vật. Nếu bạn
muốn mua tình yêu; bạn không thể mua được; nhưng bạn
có thể mua được dục. Dục là phần vật chất của tình yêu.
Qua tiền bạc, bạn có thể mua được, sở hữu được vật chất.
Bây giờ bạn sẽ ngạc nhiên: tôi lại bao gồm cả hai loại
người cộng sản và người tư sản vào cùng một phân loại,
và họ là kẻ thù, giống như tôi bao gồm Charvaka và
Mahatma Gandhi vào cùng phạm trù, và họ là kẻ thù. Họ
là kẻ thù, nhưng mối quan tâm của họ là như nhau.
Người tư sản cố gắng tích trữ tiền bạc, người cộng sản
chống lại điều đó. Người ấy muốn rằng không ai được
phép tích trữ tiền bạc ngoại trừ nhà nước. Nhưng mối
quan tâm của người ấy cũng là về tiền bạc, người ấy
cũng vẫn cứ liên tục nghĩ về tiền bạc. Không phải ngẫu
nhiên mà Marx đã đặt tên Das Kapital cho cuốn sách vĩ
đại về chủ nghĩa cộng sản, ‘Tư bản luận’. Đó là Kinh
thánh của người cộng sản, nhưng cái tên lại là ‘Tư bản
luận’. Đó là mối quan tâm của họ: làm sao không cho
phép bất kì ai được tích trữ tiền bạc để cho nhà nước có
thể tích trữ, và làm sao để sở hữu nhà nước - cho nên,
trong thực tế, về cơ bản, tối thượng, bạn vẫn cứ tích trữ
tiền bạc.
Có lần tôi đã nghe nói rằng Mulla Nasruddin đã trở
thành người cộng sản. Tôi biết anh ta... Tôi có đôi chút
khó xử. Đây quả là phép mầu! Tôi biết tính sở hữu của
anh ta. Cho nên tôi hỏi anh ta, “Mulla, anh có biết chủ
nghĩa cộng sản nghĩa là gì không?”
Anh ta nói, “Tôi có biết.”
Tôi nói, “Anh có biết rằng nếu anh có hai chiếc xe ô
tô và ai đó không có xe, thì anh sẽ cho người ấy một cái
chứ?”
Anh ta nói, “Tôi hoàn hoàn sẵn lòng nhường chiếc xe
cho.”
Tôi nói, “Nếu anh có hai ngôi nhà và ai đó thì không
có nhà, anh sẽ cho một ngôi nhà chứ?” 


Anh ta nói, “Tôi hoàn toàn sẵn sàng, ngay bây giờ.”
Và tôi nói, “Nếu anh có hai con lừa anh sẽ cho đi một
con cho ai đó khác mà không có lừa chứ?”
Anh ta nói, “Điều ấy tôi không đồng ý. Tôi không thể
cho được, tôi không thể làm được điều đó!”
Nhưng tôi nói, “Sao vậy? - vì đấy là cùng logic, cùng
hệ quả.”
Anh ta nói, “Không nó không cùng đâu - tôi có hai
con lừa, tôi không có hai chiếc xe.”
Tâm trí người cộng sản về cơ bản cũng là tâm trí nhà
tư bản, tâm trí nhà tư bản về cơ bản cũng là tâm trí người
cộng sản. Họ là đối tác trong cùng trò chơi - tên của trò
chơi là ‘tư bản luận’, Das Kapital.
Nhiều người, hàng triệu người, chỉ mới tiến hoá bản
ngã nguyên thuỷ này, rất sơ cấp. Nếu bạn có bản ngã này
thì rất khó buông xuôi; nó còn rất chưa chín muồi.
Cánh cửa thứ hai tôi gọi là tự đồng nhất.
Trẻ con bắt đầu làm lớn lên cái ý tưởng về nó là ai.
Khi nhìn vào trong gương, nó thấy cùng khuôn mặt. Mọi
sáng, tỉnh dậy từ giường, nó chạy vào buồng tắm, nhìn
gương, và nó nói, “Đây là tôi. Giấc ngủ không làm quấy
rối điều gì cả.” Nó bắt đầu có ý tưởng về cái ta liên tục.
Nhưng người ta trở nên quá dính dáng đến cánh cửa
này, bị móc vào cánh cửa này, chính là những cái gọi là
người duy tâm, người nghĩ rằng họ sắp lên cõi trời,
moksha, nhưng nghĩ rằng họ sẽ ở đó. Khi bạn nghĩ về cõi
trời, bạn chắc chắn nghĩ về bản thân mình rằng bạn ở đó,
bạn sẽ ở đó nữa. Có thể thân thể không có đó, nhưng sự
tiếp tục bên trong của bạn sẽ vẫn còn. Điều đó là ngớ
ngẩn! Giải thoát đó, giải thoát tối hậu đó chỉ xảy ra khi
cái ta đã tan biến và tất cả mọi đồng nhất đã tan biến.
Bạn trở thành trống rỗng...
Do đó, này Sariputra, trong cái không thì không có
hình dạng, hay: hình dạng là trống rỗng và trống rỗng là
hình dạng.
Không có tri thức bởi vì không có người biết; thậm
chí không có vigyan, không ý thức, bởi vì không có gì để
mà ý thức tới và không có ai để mà ý thức về nó. Tất cả
biến mất.
Ý tưởng rằng trẻ con có cái ta liên tục được những
người duy tâm đeo đuổi. Họ cứ đi tìm mãi: từ đâu mà
linh hồn đi vào trong thân thể, từ đâu mà linh hồn đi ra
khỏi thân thể, linh hồn mang hình dạng gì, mảnh kim loại
và môi giới, những thứ đại loại như vậy - tất cả đều là rác
rưởi và vô nghĩa. Cái ta không có hình dạng. Nó là cái
không thuần khiết, nó là bầu trời bao la không mây trong
đó. Nó là im lặng vô ý nghĩ, không bị hàm chứa, không
bị chứa bởi bất kì vật gì.
Ý tưởng đó về linh hồn trường cửu, ý tưởng về cái ta,
vẫn liên tục chơi trò chơi trong tâm trí. Ngay cả nếu thân
thể chết, bạn vẫn muốn chắc chắn rằng, “Tôi vẫn còn.”
Nhiều người hay tới Phật... bởi vì đất nước này đã
từng bị chi phối bởi cái loại bản ngã thứ hai này: mọi
người tin vào linh hồn trường cửu, linh hồn vĩnh viễn,
atman - họ cứ tới với Phật mãi và nói, “Khi tôi chết, liệu
cái gì đó sẽ còn lại hay không?” Còn Phật sẽ cười to và
ông ấy sẽ nói, “Ngay bây giờ đã chẳng có gì, cho nên tại
sao phải lo về cái chết? Chưa bao giờ có cái gì từ chính
lúc ban đầu.” Và điều này không thể nào quan niệm nổi
cho tâm trí Ấn Độ. Tâm trí Ấn Độ hầu hết bị mắc vào với kiểu bản ngã thứ hai. Đó là lí do tại sao Phật giáo không
thể nào tồn tại ở Ấn Độ được. Trong năm trăm năm, Phật
giáo đã biến mất. Nó bắt rễ tốt hơn ở Trung quốc, bởi vì
Lão Tử. Lão Tử đã thực sự tạo ra cánh đồng mầu mỡ cho
Phật giáo ở đó. Khí hậu đã sẵn sàng - dường như ai đó đã
chuẩn bị mảnh đất; chỉ cần hạt mầm. Và khi hạt mầm đạt
tới Trung quốc, nó trưởng thành cây to. Nhưng từ Ấn Độ
nó đã biến mất. Lão Tử không có ý tưởng nào về cái ta
trường cửu cả, còn tại Trung quốc mọi người cũng chẳng
bận tâm nhiều lắm.
Có ba nền văn hoá trên thế giới: một nền văn hoá,
được gọi là duy vật - rất thịnh hành ở phương Tây; nền
văn hoá khác, được gọi là duy tâm - rất thịnh hành ở Ấn
Độ; còn Trung quốc thì có loại văn hoá thứ ba, không
duy vật mà cũng chẳng duy tâm. Đó là Đạo giáo: sống
theo khoảnh khắc và không bận tâm tới tương lai, bởi vì
bận tâm tới cõi trời và địa ngục, tiên cảnh và moksha thì
về cơ bản vẫn cứ là tiếp tục bận tâm về chính mình. Nó
rất ích kỉ, nó rất định tâm vào cái ta. Theo Lão Tử, theo
Phật nữa, và cũng theo tôi nữa, người cố gắng đạt tới
thiên đường là người rất, rất định tâm vào cái ta, rất ích
kỉ. Và người ấy không biết một điều về bản thể bên trong
riêng của mình - không có cái ta.
Cánh cửa thứ ba là lòng tự trọng: trẻ con học làm
mọi thứ và tận hưởng việc làm đó. Một vài người bị mắc
vào đây - họ trở thành các nhà kĩ thuật, họ trở thành các
diễn viên, nghệ sĩ, họ trở thành chính khách, họ trở thành
các ông bầu. Chủ đề cơ bản là người làm; họ muốn
chứng tỏ cho thế giới rằng họ có thể làm điều gì đó. Nếu
thế giới cho phép họ sáng tạo nào đó, thì tốt. Nếu nó
không cho phép họ sáng tạo, họ trở thành phá hoại.
Bạn có biết rằng Adolf Hitler đã muốn vào trường
nghệ thuật không? Ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, đó là ý
tưởng của ông ta. Bởi vì ông ta bị từ chối, bởi vì ông ta
không phải là hoạ sĩ, bởi vì ông ta không thể nào qua
được kì thi vào trường nghệ thuật - việc loại bỏ đó rất
khó cho ông ta chấp thuận - tính sáng tạo của ông ta biến
thành xấu. Ông ta trở thành huỷ diệt. Nhưng về cơ bản
ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, ông ta muốn làm điều gì
đó. Bởi vì ông ta bị coi là không có khả năng làm việc
đó, nên trả thù lại, ông ta bắt đầu thành huỷ diệt.
Kẻ tội phạm và chính khách không phải là rất xa
nhau đâu, họ là anh em họ. Nếu kẻ tội phạm được trao
cho cơ hội đúng, người đó sẽ trở thành chính khách, và
nếu chính khách không gặp được cơ hội đúng để có tiếng
nói, thì người đó sẽ thành kẻ tội phạm. Chúng là các
trường hợp gần giống nhau. Vào bất kì khoảnh khắc nào,
chính khách cũng có thể trở thành tội phạm và tội phạm
có thể trở thành chính khách. Và điều này đã xảy ra trong
suốt nhiều thời đại, nhưng chúng ta còn chưa có sáng
suốt để nhìn vào trong mọi việc.
Cánh cửa thứ tư là tự mở rộng. Từ ‘của tôi’ là mấu
chốt ở đó. Người ta phải mở rộng bản thân mình bằng
việc tích luỹ tiền bạc, bằng việc tích luỹ quyền lực, bằng
việc cứ ngày một trở thành lớn nữa, lớn nữa và lớn nữa:
người yêu nước nói, “Đây là đất nước tôi, và đây là đất
nước lớn nhất trên thế giới.” Bạn có thể hỏi người yêu
nước Ấn Độ: người đó cứ tung hô khắp mọi xó xỉnh rằng
đây là punya bhumi - đây là mảnh đất của đức hạnh,
mảnh đất thuần khiết nhất trên thế giới.
Có lần cái gọi là thánh nhân tới tôi, một tu sĩ Hindu,
và ông ấy nói, “Ông không tin rằng đây là đất nước duy
nhất có biết bao nhiêu vị Phật đã được sinh ra, biết bao nhiêu avatara, bao nhiêu tirthankara - Rama, Krishna và
những người khác sao. Tại sao? - bởi vì đây là mảnh đất
đức hạnh nhất.”
Tôi bảo ông ấy, “Sự kiện là ngược lại: nếu trong nhà
hàng xóm ông thấy rằng bác sĩ cứ đến hàng ngày - lúc thì
là một vaidya, bác sĩ trị liệu, lúc thì hakim, nhà châm
cứu, rồi người dùng thiên nhiên liệu pháp, rồi thế này thế
khác - thì ông hiểu điều này là gì?”
Ông ấy nói, “Thật đơn giản! Nhà đấy ốm yếu.”
Đấy là trường hợp cho Ấn Độ: cần tới biết bao nhiêu
là vị Phật - đất nước này dường như hoàn toàn ốm yếu và
bệnh hoạn. Biết bao nhiều thầy chữa, biết bao nhiêu bác
sĩ. Phật đã nói, “Bất kì khi nào có đen tối trên thế giới,
bất kì khi nào có tội lỗi trên thế giới, và bất kì khi nào
luật vũ trụ bị phá rối, ta sẽ quay trở lại.” Cho nên tại sao
ông ấy đã tới vào lúc đó? Nó phải có cùng một lí do. Và
tại sao lại bao nhiêu lần ở Ấn Độ?
Nhưng nhà yêu nước cao ngạo, hung hăng, bản ngã.
Ông ta cứ tuyên bố, “Đất nước tôi là đặc biệt, tôn giáo tôi
là đặc biệt, nhà thờ tôi là đặc biệt, sách của tôi là đặc
biệt, thầy tôi là đặc biệt” - và mọi thứ đều là không. Đây
chỉ là lời rêu rao của bản ngã.
Vài người bị mắc vào với cái ‘của tôi’ này - người
giáo điều, nhà yêu nước, người Hindu, người Ki tô giáo,
người Mô ha mét giáo.
Cánh cửa thứ năm là tự hình dung. Trẻ con bắt đầu
nhìn vào mọi thứ, kinh nghiệm. Khi bố mẹ cảm thấy
thoải mái với đứa trẻ, nó nghĩ, “Mình tốt đây.” Khi họ
khen ngợi nó, nó cảm thấy, “Mình tốt đây.” Khi họ nhìn
nó giận dữ, họ quát tháo nó và họ nói, “Cấm làm thế!” nó
cảm thấy, “Cái gì sai trong mình rồi.” Nó chùn lại.
Một cháu nhỏ ngày đầu tiên tới trường được thầy hỏi
“Tên con là gì?”
Nó nói, “Johnny Đừng.”
Thầy giáo phân vân. Thầy nói, “Johnny Đừng à?
Chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó!”
Nó nói, “Bất ki khi nào, bất kì cái gì con làm, đây
đều là tên con - mẹ con hét lên, ‘Johnny đừng!’ Bố con
quát lên, ‘Johnny đừng!’ Cho nên con nghĩ đây là tên
con. ‘Đừng’ bao giờ cũng có đó. Điều con làm chẳng liên
quan.”
Cửa thứ năm là cánh cửa từ đó đạo đức đi vào: bạn
trở thành nhà đạo đức; bạn bắt đầu cảm thấy rất tốt,
‘thánh thiện hơn ngươi.’ Hay, trong thất vọng, trong
kháng cự, trong vật lộn, bạn trở thành người vô đạo đức
và bạn bắt đầu tranh đấu với toàn bộ thế giới, để chứng
minh cho toàn thế giới.
Fritz Perls, người sáng lập phái Trị liệu Động thái, đã
viết về một trong những kinh nghiệm của mình mà đã
chứng tỏ điều rất nền tảng cho nỗ lực cả đời của ông ấy.
Ông ấy là nhà thực hành phân tâm ở châu Phi. Việc thực
hành rất có kết quả bởi vì ông ấy là nhà phân tâm duy
nhất ở đó. Ông ấy có một chiếc xe to, một nhà gỗ một
tầng to cùng với vườn, một bể bơi - và mọi thứ mà một
tâm trí tầm thường muốn có, những đồ xa xỉ phẩm hạng
trung. Và thế rồi ông ấy tới Vienna để tham dự hội nghị
các nhà phân tâm thế giới. Tất nhiên, ông ấy là người
thành công ở châu Phi, cho nên ông ấy đã nghĩ rằng
Freud sẽ đón ông ấy, sẽ có đón chào lớn. Và Freud là cha
già cho các nhà phân tâm, cho nên ông ấy muốn được
Freud khen ngợi. Ông ấy đã viết một bài báo và đã làm
việc nhiều tháng về nó, bởi vì ông ấy muốn Freud biết ông ấy là ai. Ông ấy đọc bài báo; không có đáp ứng.
Freud rất lạnh nhạt, các nhà phân tâm khác cũng rất lạnh
nhạt. Bài báo của ông ấy gần như chẳng được chú ý tới,
không được bình luận tới. Ông ấy cảm thấy rất choáng
váng, chán nản, nhưng ông ấy vẫn hi vọng rằng ông ấy sẽ
tới gặp Freud, và thế rồi điều gì đó có thể xảy ra. Và ông
ấy tới gặp Freud. Ông ấy mới tới bậc thềm, vẫn còn chưa
đi qua cửa, còn Freud đứng đó. Và ông ấy nói với Freud,
chỉ để gây ấn tượng lên ông ta, “Tôi đã tới đây từ hàng
nghìn dặm đường.” Và thay vì đón chào ông ấy, Freud lại
nói, “Thế khi nào ông về?” Điều này làm tổn thương ông
ấy lắm: “Thế này mà là đón chào à? - ‘Thế khi nào ông
về?’” Và đó là toàn bộ cuộc phỏng vấn - kết thúc! Ông
ấy quay đi, lẩm bẩm liên tục, giống như một câu mật chú
trong đầu: “Ta sẽ cho ông biết tay, ta sẽ cho ông biết tay,
ta sẽ cho ông biết tay!” Và ông ấy đã cố gắng chứng tỏ
cho Freud: ông ấy tạo ra một phong trào lớn chống lại
phân tâm học - động thái.
Đây là phản ứng trẻ con. Hoặc là trẻ con được chấp
nhận - thế thì nó cảm thấy thoải mái, thế thì nó sẵn sàng
làm bất kì cái gì mà bố mẹ muốn; hoặc là nếu nó cứ bị
thất vọng mãi, thế thì nó bắt đầu nghĩ dưới dạng, “Không
còn khả năng nào cho mình nhận được tình yêu của họ,
nhưng mình vẫn cần sự chú ý của họ. Nếu mình không
thể nào nhận được sự chú ý qua cách đúng, thì mình sẽ
làm cho họ phải chú ý qua cách sai. Bây giờ mình sẽ hút
thuốc, mình sẽ thủ dâm, mình sẽ làm hại mình và người
khác, và mình sẽ làm đủ mọi thứ mà họ nói ‘Đừng làm,’
nhưng mình sẽ làm cho họ phải bận tâm về mình. Mình
sẽ cho họ biết tay.”
Đây là cánh cửa thứ năm, tự hình dung. Tội nhân và
thánh nhân đều bị mắc tại đây. Cõi trời và địa ngục đều
là những ý tưởng của những người bị mắc tại đây. Hàng
triệu người bị mắc lại. Họ liên tục sợ địa ngục và liên tục
tham lam về cõi trời. Họ muốn được Thượng đế khen
ngợi, và họ muốn Thượng đế nói với họ, “Con tốt đấy,
con ta. Ta sung sướng vì con.” Họ cứ hi sinh các kiếp
sống chỉ để được khen ngợi bởi hoang tưởng nào đó ở
đâu đó bên ngoài sự sống và cái chết. Họ cứ làm cả nghìn
lẻ một kiểu hành hạ chính mình chỉ để cho Thượng đế có
thể nói, “Được, con đã hi sinh bản thân mình cho ta.”
Cứ dường như là Thượng đế là kẻ tự bạo và bạo ác,
hay cái gì đó giống thế. Người ta tự hành hạ mình với ý
tưởng rằng họ sẽ làm cho Thượng đế sung sướng. Bạn
ngụ ý gì bởi điều này? Bạn nhịn ăn và bạn nghĩ Thượng
đế sẽ sung sướng với bạn sao? Bạn bỏ đói mình và bạn
nghĩ Thượng đế sẽ rất sung sướng với bạn sao? Ngài có
bạo ác không? Ngài có thích hành hạ người khác không?
Và đó là thánh gì, cái gọi là thánh, đã từng làm: tự hành
hạ mình và nhìn lên trời. Chẳng chóng thì chầy Thượng
đế sẽ nói, “Được đấy, con làm tốt lắm. Bây giờ lại đây và
tận hưởng lạc thú cõi trời. Lại đây! Rượu tuôn thành suối
ở đây, đường làm bằng vàng, và lâu đài làm bằng kim
cương. Và phụ nữ ở đây chẳng bao giờ già, họ cứ còn
mười sáu tuổi mãi. Lại đây! Con làm thế đủ rồi, con đã
được thưởng, bây giờ con có thể tận hưởng!” Toàn bộ ý
tưởng nằm sau hi sinh là thế này. Đây là ý tưởng ngu
xuẩn, bởi vì tất cả ý tưởng bản ngã đều là ngu xuẩn.
Cánh cửa thứ sáu là cái ta như lí trí. Nó tới qua giáo
dục, kinh nghiệm, đọc, học, nghe: bạn bắt đầu tích luỹ ý
tưởng, thế rồi bạn bắt đầu tạo ra hệ thống từ các ý tưởng,
các tổng thể nhất quán, các triết lí. Đây là nơi các triết
gia, các khoa học gia, các tư tưởng gia, các trí thức gia,
những người theo chủ nghĩa duy lí đều bị mắc vào. 

Nhưng điều này trở thành ngày một phức tạp hơn: so với
cánh cửa thứ nhất, cánh cửa thứ sáu là rất tinh vi.
Cánh cửa thứ bẩy là cố gắng thích đáng: nghệ sĩ, nhà
huyền môn, người không tưởng, kẻ mộng mơ - họ bị mắc
ở đó. Họ bao giờ cũng cố gắng tạo ra một nơi không
tưởng trên thế giới này. Từ nơi không tưởng là rất hay:
nó có nghĩa là cái chưa bao giờ tới. Nó bao giờ cũng
đang tới nhưng chẳng bao giờ tới thật; nó bao giờ cũng
có đó nhưng chưa bao giờ ở đây cả. Nhưng có những kẻ
ngắm trăng cứ nhìn ra xa xôi, xa xa, và họ bao giờ cũng
di chuyển trong tưởng tượng. Các nhà thơ lớn, những
người hư cấu - toàn bộ bản ngã họ đều bị thu hút vào
trong việc trở thành. Ai đó muốn trở thành Thượng đế;
người ấy là nhà huyền học.
Nhớ lấy, ‘trở thành’ là từ mấu chốt cho cánh cửa thứ
bẩy, và cánh cửa thứ bẩy là cánh cửa cuối cùng của bản
ngã. Bản ngã chín muồi nhất thì tới đây. Đó là lí do tại
sao bạn sẽ cảm thấy, bạn sẽ thấy một nhà thơ - người ấy
có thể chẳng có gì, người ấy có thể là kẻ ăn xin, nhưng
trong đôi mắt người ấy, trên mũi người ấy, bạn sẽ thấy
bản ngã lớn. Nhà huyền môn có thể đã từ bỏ toàn bộ thế
giới và có thể ngồi trong hang động Himalaya, trong cốc
núi Himalaya. Bạn tới đó và nhìn vào ông ấy: ông ấy có
thể ngồi đó mình trần - nhưng đấy là bản ngã tinh vi thế,
bản ngã tinh tế thế. Ông ấy có thể chạm chân bạn, nhưng
ông ấy đang hô lên, “Trông đây tôi khiêm tốn làm sao!”
Có bẩy cánh cửa. Khi bản ngã hoàn hảo, tất cả bẩy
cánh cửa này đã được đi qua; thế thì bản ngã chín muồi
đó có thể bị loại bỏ theo ý riêng của nó. Đứa trẻ đứng
trước bẩy bản ngã này, còn Phật đứng sau bẩy bản ngã
này. Đó là vòng tròn đầy đủ.
Bạn hỏi tôi: “Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của
đứa trẻ trước việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã
thức tỉnh của vị Phật?”
Đây là khác biệt: Phật đã đi vào trong tất cả bẩy bản
ngã này - đã thấy chúng, nhìn vào chúng, đã thấy rằng
chúng đều là ảo tưởng, và đã trở về nhà, đã trở lại thành
đứa trẻ lần nữa. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói,
“Chừng nào ông chưa trở thành giống như trẻ nhỏ, ông sẽ
không đi vào vương quốc Thượng đế của ta.”
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về Zorba người Hi
lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích cuốn sách đó
lắm. Liệu Zorba không y hệt là cách thức mà Thầy
muốn chúng tôi trở thành chứ? Ít nhất đó cũng là cách
tôi hiểu được giáo huấn của Thầy.
Tôi đã là Zorba người Hi lạp trong nhiều kiếp. Tôi
không cần đọc cuốn sách đó; đó là cuốn tự truyện của tôi.
Và đó là điều tôi muốn bạn trở thành.
Coi cuộc sống là vui vẻ đi, coi cuộc sống là dễ dàng
đi, coi cuộc sống là thảnh thơi đi, đừng tạo ra những vấn
đề không cần thiết. Chín mươi chín phần trăm những vấn
đề của bạn là do bạn tạo ra bởi vì bạn coi cuộc sống là
nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh là căn nguyên gốc rễ của
mọi vấn đề. Vui vẻ, và bạn sẽ không bỏ lỡ điều gì - bởi vì
cuộc sống là Thượng đế. Quên về Thượng đế đi; chỉ sống
động, sống một cách phong phú. Sống từng khoảnh khắc dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng. Sống nó một
cách mạnh mẽ; để cho ngọn đuốc của bạn bùng cháy từ
cả hai đầu. Cho dù nó chỉ còn một khoảnh khắc, thì thế
cũng đủ. Một khoảnh khắc của tính toàn bộ mạnh mẽ là
đủ để cho bạn hương vị của Thượng đế. Bạn có thể sống
theo cách hờ hững, theo cách tư sản, theo cách hạng
trung. Bạn có thể cứ tiếp tục sống, kéo lê mình trong
hàng triệu năm - bạn sẽ chỉ thu thập bụi bặm trên đường
chứ chẳng được cái gì khác. Một khoảnh khắc sáng tỏ,
toàn bộ, tự phát, và bạn sẽ bùng cháy như ngọn lửa. Chỉ
một khoảnh khắc là đủ! Một khoảnh khắc sẽ làm cho bạn
thành vĩnh hằng; bạn sẽ đi từ khoảnh khắc đó vào vĩnh
hằng. Đó là toàn bộ thông điệp của tôi cho các sannyasin:
sống theo cách mà bạn không cần phải ăn năn bao giờ.
Một người bạn đã gửi tới cho tôi một đoạn cắt báo.
Một bà già, tám mươi nhăm tuổi, được một nhà báo
hỏi rằng nếu bà được sống lại lần nữa, thì bà sẽ sống như
thế nào?
Bà già nói - có sáng suốt lớn trong đó, nhớ lấy điều
đó - “Nếu như tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi dám
phạm nhiều sai lầm hơn trong lần tiếp. Tôi sẽ thảnh thơi,
tôi sẽ linh hoạt. Tôi sẽ ngờ nghệch hơn là tôi đã ngờ
nghệch trong cuộc đời này. Tôi sẽ coi ít thứ nghiêm
chỉnh hơn. Tôi sẽ lấy nhiều cơ may hơn. Tôi sẽ thực hiện
nhiều chuyến đi hơn. Tôi sẽ trèo lên nhiều núi hơn và bơi
trên nhiều sông hơn. Tôi sẽ ăn nhiều kem hơn và ít đậu
hơn. Có lẽ tôi sẽ gặp nhiều rắc rối hơn, nhưng tôi sẽ có ít
điều tưởng tượng hơn.
“Anh xem đấy, tôi là một trong những người đã sống
có xét đoán và lành mạnh giờ nọ sang giờ kia, ngày nọ
tiếp ngày kia. Ôi, tôi đã có những khoảnh khắc của mình,
và nếu như tôi phải làm lại điều đó thì tôi sẽ có chúng
nhiều hơn. Trong thực tế, tôi sẽ cố gắng chẳng có gì khác
- chỉ các khoảnh khắc, cái nọ tiếp cái kia, thay vì sống
bao nhiêu năm phía trước cho từng ngày. Tôi đã là một
trong những người chưa bao giờ đi bất kì đâu mà không
có cặp nhiệt độ, chai nước nóng, áo mưa và ô. Nếu tôi
phải làm lại điều đó lần nữa thì tôi sẽ du hành nhẹ nhàng
hơn trước.
“Nếu tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi sẽ bắt đầu
đi chân không sớm hơn trong dòng suối và ở lại muộn
hơn trong dòng thác. Tôi sẽ đi nhảy nhiều hơn. Tôi sẽ
cưỡi nhiều vòng quay ngựa gỗ hơn. Tôi sẽ hái nhiều hoa
cúc hơn.”
Và đó là viễn kiến của tôi về sannyasin nữa. Sống
khoảnh khắc này toàn bộ nhất có thể được đi. Đừng quá
lành mạnh, bởi vì quá lành mạnh sẽ dẫn tới không lành
mạnh. Để cho chút ít điên khùng tồn tại trong bạn. Điều
đó sẽ thêm hương vị cho cuộc sống, làm ra nước cam lồ
cuộc sống. Để một chút ít phi lí bao giờ cũng có đó. Điều
đó làm cho bạn có khả năng chơi đùa, vui vẻ; điều đó
giúp cho bạn thảnh thơi. Người lành mạnh hoàn toàn bị
treo trên đầu, người ấy không thể xuống được từ đó.
Người ấy sống trên gác. Sống khắp mọi chỗ đi, đây là
ngôi nhà của bạn! Trên gác, tốt, dưới đất, hoàn toàn tốt -
và tầng hầm cũng đẹp nữa. Sống ở khắp mọi chỗ, đây là
ngôi nhà của bạn. Và đừng đợi tới lần sau, tôi sẽ bảo với
bà già này như thế, vì lần sau chẳng bao giờ tới cả.
Không phải là bạn sẽ không được sinh ra nữa; bạn sẽ
được sinh ra nữa, nhưng thế thì bạn sẽ quên mất. Thế thì
bạn sẽ bắt đầu lại từ ABC. Bà già này đã từng ở đây
trước kia. Bà ấy phải đã từng ở đây hàng triệu lần trước kia. Và tôi có thể nói với bạn rằng mỗi lần, gần đến độ
tuổi tám mươi nhăm, bà ấy lại quyết định theo cùng cách:
“Lần sau tôi sẽ làm điều ấy khác đi.” Nhưng lần sau bạn
không nhớ - đấy là vấn đề. Bạn mất tất cả kí ức về kiếp
sống quá khứ. Thế thì bạn lại bắt đầu từ ABC và cùng
điều như thế lại xảy ra.
Cho nên tôi sẽ không nói bạn phải đợi tới lần sau.
Nắm ngay lấy khoảnh khắc này đi! Đây là thời gian duy
nhất đang có đó, không có thời gian khác. Cho dù là bạn
đã tám mươi nhăm thì bạn vẫn có thể bắt đầu sống. Và
cái gì có đó để mà mất khi bạn đã tám mươi nhăm? Nếu
bạn đi chân trần trên bãi cát trong dòng suối, nếu bạn
lượm lặt hoa cúc - ngay cả nếu bạn có chết trong lúc đó,
thì cũng chẳng có gì sai cả. Chết khi đi chân trần trên bãi
cái là cách chết đúng đắn. Chết khi lượm lặt hoa cúc là
cách chết đúng đắn. Dù bạn tám mươi nhăm tuổi hay
mười lăm tuổi cũng chẳng thành vấn đề. Giữ lấy khoảnh
khắc này. Là một Zorba.
Bạn hỏi: “Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về
Zorba người Hi lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích
cuốn sách đó lắm.”
Chỉ yêu nó thì cũng chẳng có ích. Là nó đi! Đôi khi
việc xảy ra là bạn yêu cái đối lập với cái bạn đang là.
Bạn thích thú cái đối lập của cái bạn đang là - bởi vì nó
làm thoát ra phóng túng trong bạn. Nó cho bạn viễn kiến
về cách bạn sẽ thích là như vậy: đó là sức quyến rũ của
một Zorba.
Nhưng yêu cuốn sách thì sẽ không có ích. Đó là điều
mọi người vẫn thường làm suốt nhiều thời đại. Mọi
người yêu Kinh thánh, và không trở thành Jesus, và họ
yêu Tâm Kinh - họ lặp lại nó, họ tụng nó hàng ngày.
Hàng triệu người ở phương Đông tụng Tâm Kinh năm
lần một ngày - ở Trung quốc, ở Nhật bản, ở Triều tiên, ở
Việt Nam - họ cứ lặp lại nó. Nó là một bài kinh nhỏ; nó
có thể được lặp lại trong vài phút. Họ yêu nó, nhưng họ
không trở thành nó!
Là một Zorba đi. Nhớ điều đó: yêu sách không ích gì
đâu, chỉ sống mới có ích.
“Tôi thích cuốn sách đó lắm. Liệu Zorba không y hệt
là cách thức mà Thầy muốn chúng trở thành chứ?”
Không y hệt, bởi vì tôi không thích nhiều Zorba trên
thế giới. Không y hệt, bởi vì điều đó sẽ xấu xí và đơn
điệu và đáng chán. Bạn hãy là Zorba theo cách riêng của
mình - không y hệt.
Đừng bao giờ cố gắng bắt chước bất kì ai, đừng bao
giờ là kẻ bắt chước; đó là tự tử. Thế thì bạn sẽ chẳng bao
giờ có thể tận hưởng được. Bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn
là bản sao, bạn sẽ chẳng bao giờ là nguyên bản. Và tất cả
những điều đó xảy ra trong cuộc sống - chân lí, cái đẹp,
cái thiện, giải thoát, thiền, tình yêu - xảy ra cho cái
nguyên bản, không bao giờ xảy ra cho bản sao. Nhận biết
đi - không y hệt; đó là nguy hiểm. Nếu bạn đơn giản theo
Zorba và bắt đầu làm những điều như ông ấy làm thì bạn
sẽ gặp rắc rối. Đó là cách mà mọi người vẫn làm nó.
Nhìn những người Ki tô giáo mà xem, nhìn những
người Hindu mà xem: họ đang cố gắng là y hệt. Không ai
có thể là Phật lần nữa! Thượng đế không cho phép bất kì
lặp lại nào! Thượng đế không cho phép người bản sao,
ông ấy yêu người bản chính. Ông ấy yêu Phật. Ông ấy
yêu đến mức điều đó chấm dứt. Bây giờ không cần Phật
nữa. Đấy sẽ không còn là chuyện tình chút nào nữa. Điều
đó sẽ giống như cùng cuốn phim bạn đã xem trước đây, điều đó sẽ giống như đọc cùng cuốn sách bạn đã đọc
nhiều lần trước đây. Thượng đế không trì trệ và ngờ
nghệch, ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì ai lặp lại bất
kì ai khác: Christ chỉ có một, Phật chỉ có một - và do vậy
bạn cũng chỉ có một! Và bạn là đơn lẻ, không có ai khác
giống bạn. Chỉ có bạn là bạn thôi. Điều này tôi gọi là sự
tôn kính với cuộc sống. Điều này thực sự là tự trọng.
Học từ Zorba đi, học điều bí mật, nhưng đừng bao
giờ cố gắng bắt chước. Học theo hoàn cảnh, cách đánh
giá, đi vào nó, đồng cảm với nó, tham dự với Zorba, và
thế rồi đi theo cách riêng của bạn. Thế thì là chính bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Xin Thầy nói về đâu là điểm chung giữa cầu nguyện
và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa chúng?
Câu hỏi này là của Mark Nevejan...
Tái bút. Thầy không biết tôi bởi vì tôi chưa từng gặp
Thầy chỗ riêng tư. Arup biết tôi chút ít.
Arup không biết cô ấy, làm sao cô ấy biết bạn? - dù
chỉ một chút ít! Bạn chưa từng gặp tôi, điều đó đúng.
Nhưng tôi biết bạn, bởi vì tôi biết bản thân mình. Cái
ngày tôi nhận ra chính mình thì tôi cũng biết về mọi
người - bởi vì đấy là cùng cái không nở hoa theo nhiều
cách khác nhau.
Tôi biết bạn, Mark. Bạn có thể không biết tôi. Làm
sao bạn biết tôi được? - bạn không biết tới chính mình.
Nhưng tôi biết bạn. Tôi có thể không biết hình dạng bạn,
nhưng tôi biết bạn... và bạn không là hình dạng.
Do đó, này Sariputra...
Hình dạng là trống rỗng, trống rỗng là hình
dạng.
Tôi biết chân lí trong bạn; tôi có thể không biết cá
tính quanh bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể giúp bạn -
bởi vì tôi biết bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể đưa bạn
vượt ra ngoài - bởi vì tôi biết bạn. Nếu tôi không biết bạn
thì tôi không thể nào đưa bạn vượt ra ngoài được.
Và bạn hỏi: “Xin Thầy nói về đâu là điểm chung
giữa cầu nguyện và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa
chúng?” Tôi vừa định nói về điều đó hôm qua, nhưng có
nhiều câu hỏi quá và tôi chưa thể trả lời bạn được.
Mark đã viết câu hỏi khác ngày hôm nay:
Mùa hè của Tâm thức và Tự do kính yêu,
Hôm nọ tôi đã hỏi Thầy một câu hỏi về đâu là điểm
chung và điểm khác trong cầu nguyện và thiền. Đồng
thời, tôi đã đọc trong sách của Thầy, Tôi là lối cổng,
và tôi đã tìm ra câu trả lời. Xin cảm ơn Thầy về lời
đáp.
Bầu trời mây Hà lan tên là Mark Nevejan.
Bạn sẽ không còn mang tên Mark Nevejan lâu nữa!
Tôi nghĩ sẽ là hôm nay, bởi vì tôi không đợi cho tới mai.
Tôi sẽ tìm cho bạn một cái tên hay. Nó sẽ không là mây;
nó sẽ không là bầu trời mây Hà lan. nó sẽ là bầu trời Ấn
Độ không mây. 

Sẽ còn xảy ra nhiều lần là bạn hỏi một câu hỏi, rồi
nếu bạn tìm kiếm nó, bạn sẽ tìm thấy. Kiên nhẫn là cần
thiết, bởi vì khi tôi trả lời câu hỏi của người khác, chúng
cũng là câu hỏi của bạn nữa. Chỉ cần kiên nhẫn là đủ.
Khi tôi trả lời một câu hỏi, tôi trả lời nhiều câu hỏi -
những câu hỏi đã hỏi và những câu hỏi chưa hỏi, và
những câu hỏi sẽ hỏi trong tương lai, và những câu hỏi sẽ
không bao giờ được hỏi.
Tốt, Mark, là bạn đã chờ đợi đến một ngày mà không
giận dữ. Vài người rất giận dữ. Họ viết những bức thư
giận dữ cho tôi: “Tôi đã hỏi bao nhiêu câu hỏi và thầy
chẳng trả lời gì cho tôi cả.” Họ không nghe lời tôi, họ chỉ
tìm kiếm cho câu hỏi của họ. Đó là bản ngã của họ, câu
hỏi không quan trọng - “Câu hỏi của tôi phải được trả
lời.” Và bất kì khi nào tôi thấy rằng ai đó đã hỏi một câu
hỏi mà trong đó cái ‘của tôi’ là quan trọng hơn, thì tôi
chẳng bao giờ trả lời cả.
Mukta đang ngồi đây. Cô ấy cứ viết đi viết lại những
câu hỏi và câu hỏi: “Osho, tại sao thầy chẳng bao giờ trả
lời câu hỏi của tôi?” Cái ngày cô ấy vứt bỏ cái ‘của tôi’
của cô ấy, cô ấy sẽ bắt đầu tìm ra câu trả lời.
Tôi đang trả lời, liên tục! Nhưng khi bạn quá gắn bó
với câu hỏi của bạn, và bạn đơn giản chờ đợi khi nào câu
hỏi của bạn được trả lời, thì bạn sẽ lỡ tất cả những câu
hỏi vẫn đang tràn xuống bạn. Nhiều lần xảy ra là khi tôi
trả lời một câu hỏi thì bản thân người hỏi câu hỏi đó
không thể nhận được nó nhưng những người khác lại
nhận được nó dễ dàng, bởi vì họ không lo nghĩ, đấy
không phải là câu hỏi của họ, cho nên họ ngồi im lặng.
Họ không bị kích động về nó, họ không căng thẳng về
nó, nó chẳng có gì cá nhân cả. Họ có thể thảnh thơi và
tận hưởng câu trả lời. Khi đấy là câu hỏi của bạn thì bạn
căng thẳng và bạn sợ hãi. Và tôi chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ
hội - nếu tôi có thể đánh bạn, thì tôi đánh!
Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu,
Tôi đã nghe Thầy nó đi nói lại rằng chúng ta nên vẫn
còn trong thế giới này, trong bãi chợ. Vậy mà phần
lớn mọi người tôi gặp ở đây đều lập kế hoạch sống với
Thầy ở Gujarat, chỉ trở về phương Tây để thu thập
cho đủ tiền làm điều đó. Một cộng đồng lớn đang
được lập kế hoạch. Xin Thầy bình luận.
Thầy nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc sống
với một thầy đang sống, nhưng sau khi mối nối đã
được thiết lập Thầy bao giờ cũng cùng với chúng tôi.
Tại sao mọi người đều muốn sống trong cộng đồng
của Thầy thay vì ở trên thế giới? Điều đó chắc chắn là
tuyệt diệu, nhưng thế bãi chợ thì sao?
Nó đang trở thành bãi chợ lớn nhất mà bạn đã từng
thấy đấy. Đừng lo nghĩ về điều đó! Nó sắp sửa thành
chính thế giới này rồi - mạnh mẽ hơn, tất nhiên, mà bạn
có thể tìm thấy nó ở mọi nơi; tất nhiên hỗn loạn hơn. Và
không ai lập kế hoạch cho nó cả, nhớ lấy, nó đang tới từ
cái không. Do đó, này Sariputra...! 


Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu,
Cơ hội nào có đó cho xã hội lí tưởng của Thầy trong
khi đương đầu với các chính khách và tu sĩ và những
món lời đầu tư tư bản?
Trước hết, tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí
tưởng nào. Với vấn đề đó, tôi thậm chí không quan tâm
tới bất kì cá nhân nào. Lí tưởng thế giới là một từ bẩn
thỉu đối với tôi. Tôi không có lí tưởng nào. Lí tưởng dẫn
bạn tới điên khùng. Chính lí tưởng đã làm cho toàn bộ
trái đất này thành nhà thương điên lớn.
Lí tưởng có nghĩa là bạn không phải là cái bạn đáng
phải là. Nó tạo ra căng thẳng, lo âu, đau khổ. Nó chia rẽ
bạn, nó làm cho bạn thành tinh thần phân liệt, và lí tưởng
là tương lai còn bạn thì ở đây. Và làm sao bạn có thể
sống được chừng nào bạn chưa là điều lí tưởng? Trước
hết phải là lí tưởng, thế rồi bắt đầu sống - và điều đó
chẳng bao giờ xảy ra cả. Điều đó không thể nào xảy ra
trong chính bản chất của mọi vật. Lí tưởng là điều không
thể; đó là lí do tại sao chúng là lí tưởng. Chúng hướng
bạn tới điên khùng và làm bạn mất trí. Và việc kết án nảy
sinh, bởi vì bạn bao giờ cũng không đạt tới lí tưởng. Mặc
cảm được tạo ra. Trong thực tế, đó là điều các tu sĩ và
chính khách vẫn đang làm - họ muốn tạo ra mặc cảm
trong bạn. Để tạo ra mặc cảm, họ dùng lí tưởng; đó là cơ
chế đơn giản nhất. Trước hết đưa ra lí tưởng, thế rồi mặc
cảm tới một cách tự động.
Nếu tôi nói với bạn rằng hai mắt không đủ, bạn cần
ba mắt; mở con mắt thứ ba của bạn ra! Đọc Lobsang
Rampa - mở con mắt thứ ba ra! Và bây giờ bạn cố gắng
vất vả, cách này cách khác, và bạn trồng cây chuối, bạn
đọc mật chú - mà con mắt thứ ba vẫn không mở. Bây giờ
bạn bắt đầu thấy mặc cảm - cái gì đó đang bị lỡ... bạn
không phải là người đúng. Bạn trở nên thất vọng. Bạn cọ
sát con mắt thứ ba thật mạnh, mà nó vẫn chẳng chịu mở
ra cho.
Nhận biết về tất cả những điều vô nghĩa này. Hai con
mắt là đẹp đẽ. Và nếu bạn chỉ có một con mắt, điều đó
cũng hoàn hảo... Bởi vì Jesus nói, “Khi hai con mắt trở
thành một, thế thì toàn bộ thân thể tràn đầy ánh sáng.”
Nhưng tôi không nói rằng bạn phải cố gắng làm một mắt
thành hai. Chấp nhận bản thân mình như bạn đang thế đi.
Thượng đế đã làm cho bạn hoàn chỉnh, ngài không bỏ
điều gì bất toàn trong bạn đâu. Và nếu bạn cảm thấy bất
toàn có đó, thì đó là một phần của hoàn hảo. Bạn là bất
toàn hoàn hảo. Thượng đế biết rõ hơn: rằng chỉ trong bất
toàn mới có trưởng thành, chỉ trong bất toàn mới có
luồng chảy, chỉ trong bất toàn điều gì đó mới có thể. Nếu
bạn đã hoàn hảo bạn sẽ chết như một tảng đá. Thế thì sẽ
chẳng cái gì xảy ra cả, thế thì chẳng cái gì có thể xảy ra.
Nếu bạn hiểu tôi, tôi muốn nói với bạn: Thượng đế bao
giờ cũng bất toàn hoàn hảo; nếu không thì ngài đã chết từ
lâu rồi. Ngài sẽ không đợi được cho Friedrich Nietzsche
phải tuyên bố rằng Thượng đế chết.
Thượng đế này sẽ làm gì nếu ngài đã hoàn hảo? Thế
thì ngài chẳng thể làm được gì nữa, thế thì ngài không
thể nào có bất kì tự do nào để làm cả. Ngài không thể
trưởng thành được; chẳng có chỗ nào để đi cả. Ngài đơn
giản sẽ bị mắc kẹt ở đó. Ngài thậm chí không thể tự tử
nổi, bởi vì khi bạn hoàn hảo thì bạn không làm những
điều như thế.
Chấp nhận bản thân mình như bạn hiện thế đi. 

Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào,
không chút nào. Tôi không quan tâm thậm chí tới cá
nhân lí tưởng. Tôi không quan tâm đến chủ nghĩa lí
tưởng chút nào!
Và với tôi thì xã hội không tồn tại, chỉ có các cá
nhân. Xã hội chỉ là cấu trúc chức năng, tiện dụng. Bạn
không thể tình cờ bắt gặp xã hội. Bạn đã bao giờ tình cờ
bắt gặp xã hội chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp nhân
loại chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp Hindu giáo,
Mô ha mét giáo chưa? Không, bạn bao giờ cũng bắt gặp
cá nhân, cá nhân cụ thể, vững chắc.
Nhưng mọi người vẫn nghĩ cách cải thiện xã hội,
cách tạo ra xã hội lí tưởng. Và những người này đã
chứng tỏ là tai hoạ. Họ là mối hoạ lớn nhất. Bởi vì xã hội
lí tưởng của họ mà họ đã phá huỷ sự kính trọng của mọi
người với chính mình, và họ đã tạo ra mặc cảm trong mọi
người. Mọi người đều mặc cảm, chẳng ai dường như
hạnh phúc theo cách người ấy đang thế. Và bạn có thể
tạo ra mặc cảm cho mọi thứ - và một khi mặc cảm được
tạo ra, bạn trở thành có quyền năng. Người tạo ra mặc
cảm trong bạn lại trở thành quyền năng trên bạn - nhớ
chiến lược này - bởi vì chỉ thế thì người đó mới cứu bạn
khỏi mặc cảm. Thế thì bạn phải đi theo người đó. Các tu
sĩ trước hết tạo ra mặc cảm, rồi bạn phải tới nhà thờ. Thế
thì bạn phải tới thú tội, “Con đã phạm phải tội lỗi này,”
và người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Trước hết nhân danh Thượng đế người đó tạo ra mặc
cảm, rồi người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Nghe câu chuyện sau.
Calvin bị mẹ bắt quả tang phạm phải tội lỗi nghiêm
trọng, và lập tức được gửi tới chỗ thú tội.
“Thưa cha,” Calvin nói, “Con đã đánh bạc với chính
mình.”
“Tại sao con làm điều đó?” tu sĩ thực sự giận dữ và
quát lên.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc năm lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Một tuần sau mẹ Calvim lại bắt được nó, và lần nữa
nó bị đưa tới phòng thú tội.
“Thưa cha, con đã đánh bạc với chình mình.”
“Sao con làm thế?”
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc mười lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Tuần sau, Calvin lại phạm tội, “Quay lại nhà thú tội,”
mẹ nó nói. “Và mang cái bánh sô cô la này cho cha xứ.”
Trong khi chờ đợi một hàng dài, Calvin ăn hết cái
bánh. Trong phòng thú tội nó nói, “Thưa cha, Mẹ con sai
đem cho cha một cái bánh sô cô la, nhưng con đã ăn nó
trong khi đợi rồi.”
“Sao con làm thế?” tu sĩ hỏi.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi.”
“Thế sao con không đánh bạc với chính mình?”
Tu sĩ không quan tâm tới điều bạn làm; ông ta có mối
quan tâm bất di bất dịch - cái bánh sô cô la của mình. Và
thế thì bạn có thể tới địa ngục! Thế thì bạn có thể làm bất
kì cái gì bạn muốn, nhưng bánh sô cô la đâu? 

Họ tạo ra mặc cảm, rồi họ lại tha thứ bạn nhân danh
Thượng đế. Họ làm cho bạn thành tội nhân rồi họ nói,
“Bây giờ đến với Christ đi, ông ấy là vị cứu tinh.”
Chẳng có ai ở đó mà cứu bạn cả, bởi vì ngay chỗ đầu
tiên bạn có phạm vào tội lỗi gì đâu. Bạn không cần phải
được cứu rỗi.
Đây là thông điệp của Phật: Bạn đã có đó rồi! Bạn đã
được cứu vớt rồi! vị cứu tinh không cần tới, bạn không
phạm tội. Không có đau khổ, Sariputra, không có nguồn
gốc của đau khổ, không có chấm dứt về nó, và không có
con đường cho nó. Nó là không được đạt tới, nó là không
không đạt tới. Nó đã có đấy, nó là chính bản tính của
bạn.
Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào.
Vứt ước mơ đó đi; nó đã tạo ra những cơn ác mộng lớn
trên thế giới. Nhớ lấy, chẳng cái gì có thể xảy ra bây giờ
về chính trị cả. Chính trị là chết. Bạn có bầu cho bất kì
cái gì, phe tả hay phe hữu, làm việc đó nhưng đừng ảo
tưởng. Cần phải từ bỏ ý tưởng rằng bất kì hệ thống nào
cũng có thể là vị cứu tinh. Không hệ thống nào có thể là
cứu tinh cả - chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa Gandhi. Không xã hội nào có thể cứu bạn được, và
không xã hội nào có thể là xã hội lí tưởng. Và không có
cứu tinh - Christ, Krishna hay Rama. Bạn chỉ phải vứt bỏ
cái vô nghĩa mà bạn vẫn mang trong mình về mặc cảm
và về việc bạn là tội nhân.
Để toàn bộ năng lượng vào trong nhảy múa, lễ hội.
Và thế thì bạn là lí tưởng, tại đây và bây giờ - không phải
là bạn phải trở thành lí tưởng.
Ý thức hệ, như nó vậy, làm mất chân lí của nó. Trong
thực tế nó chưa bao giờ có đó ngay chỗ đầu tiên. Và sức
mạnh thuyết phục cũng qua đi. Vài tâm trí trịnh trọng
không còn tin vào việc người ta có thể đặt ra bản kế
hoạch tổng thể, và qua cỗ máy xã hội mà đem lại một nơi
không tưởng mới về hài hoà xã hội. Chúng ta đang sống
trong thời đại tự do hoàn toàn. Chúng ta đã tới độ tuổi.
Loài người không còn ngây thơ nữa, nó đã chín chắn
hơn. Chúng ta đang sống trong thời kì đậm sắc Socrates,
bởi vì mọi người đang hỏi tất cả những câu hỏi quan
trọng về cuộc sống. Đừng bắt đầu khao khát và thèm
muốn lí tưởng, ý tưởng, hoàn hảo tương lai nào đó. Vứt
tất cả các lí tưởng và sống ở đây và bây giờ.
Công xã của tôi không định là xã hội lí tưởng. Công
xã của tôi định là công xã ở đây và bây giờ.
Đủ cho hôm nay.


HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến