Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Ân huệ của Thượng đế và nỗ lực của chúng ta

Một bạn hỏi: người ta có đạt tới thiền qua ân huệ
của thượng đế không?

Sẽ có ích để hiểu điều này, bởi vì nó đã đưa tới
nhiều hiểu lầm và sai lầm. Số khá đông mọi người vẫn
nghĩ rằng nếu thiền được đạt tới qua ân huệ của Thượng
đế thế thì không có nhu cầu làm gì cả, và họ đã không
làm việc. Bạn sai lầm nghiêm trọng nếu bạn ngụ ý bằng
ân huệ của Thượng đế bạn không phải làm gì cả.
Một hiểu lầm khác bắt nguồn từ nó là ở chỗ ân huệ
của Thượng đế không sẵn có như nhau cho mọi người,
ở chỗ người này nhận nhiều hơn và người khác nhận ít
hơn. Nhưng trong thực tế, không ai là người được
Thượng đế chọn cả; không ai là người được mến
chuộng của ngài. Và cho dù Thượng đế có người mến
chuộng thì cũng không có hi vọng nào về bình đẳng
trong thế giới này. Nếu bạn ngụ ý ân huệ của Thượng
đế là Thượng đế tốt với ai đó và không tốt với người
khác thế thì bạn sai lầm nghiêm trọng.
Nhưng phát biểu rằng người ta đạt tới thiền qua ân
huệ của Thượng đế hoàn toàn đúng theo nghĩa khác.
Thực sự đó không phải là phát biểu của người còn chưa
đạt tới thiền. Đó là phát biểu của người đã chứng ngộ -
những người đã đạt tới nó. Nó là vậy bởi vì khi nó xảy
ra, khi người ta tới với nó, nỗ lực người đó đã làm
dường như hoàn toàn chẳng liên quan gì cả. Trong hoàn
cảnh của việc đạt tới, bao la thế, nỗ lực này có vẻ nhỏ
bé đến mức người ta đơn giản không thể nói được rằng
mình đã tới nó qua nỗ lực. Khi người ta đi tới nó người
ta cảm thấy bị tràn ngập với sự mênh mông của nó tới
mức người ta nói, "Làm sao nó có thể đã xảy ra qua nỗ
lực của mình được? Mình đã làm gì để tìm ra nó? Mình
đã trả giá nào? Mình đã đặt cược cái gì vào nó? Mình có
cái mà mình có thể đã cúng dường không? Chẳng có gì
cả." Khi phúc lạc vô hạn vô vàn của Thượng đế mưa rào
lên bất kì ai, người đó chỉ kêu lên, "Chính là qua từ bi
của ngài, hỡi Thượng đế, chính qua ân huệ của ngài, mà
tôi đi tới ngài! Bằng không thì nó ở bên ngoài tôi, bên
ngoài tôi không thể tới được."
Nhưng nhớ rằng đây là phát biểu của người được
phúc lành, người chứng ngộ. Nếu người chưa chứng
ngộ, người mới điểm đạo mà níu bám lấy nó, họ sẽ bị
lạc đường mãi mãi. Nỗ lực là điều bản chất; người ta
phải làm nỗ lực.

Việc xảy ra của thiền hay chứng ngộ hay bất kì cái
gì bạn gọi nó đều giống như việc mở cánh cửa ngôi nhà
trong bóng tối để cho mặt trời chiếu vào. Mặc dầu mặt
trời đã mọc ở phương đông, nếu chúng ta để cửa nhà
đóng kín, chúng ta bao giờ cũng trong bóng tối. Còn
nếu chúng ta mở cửa và chờ đợi, mặt trời sẽ vào theo
cách riêng của nó. Không nỗ lực nào cần có để đem mặt
trời vào; chúng ta không thể đặt ngài hay ánh sáng của
ngài vào bình chứa và đem vào nhà mình được. Mặt trời
tới theo cách riêng của nó. Điều trớ trêu là ở chỗ trong
khi nỗ lực của chúng ta không thể đem ngài vào, thì
chúng chắc chắn có thể giữ ngài ở ngoài, ngăn cản
không cho ngài vào. Nếu chúng ta đóng cửa hay nhắm
mắt, ngay cả mặt trời cũng thành bất lực chẳng làm
được gì. Chúng ta có thể giữ mặt trời ở ngoài nhà mình,
chúng ta có khả năng dừng mặt trời lại; nhưng chúng ta
không có khả năng dẫn ngài đi vào. Chỉ để cửa mở và
ngài sẽ vào. Và khi mặt trời vào rồi, chúng ta không thể
nói rằng chúng ta đã đem ngài vào được, chúng ta
không thể nhận công lao đó được. Chúng ta chỉ có thể
nói rằng chính bởi lòng tốt của ngài mà ngài đã vào nhà
chúng ta. Và chúng ta chỉ có thể nói rằng chúng ta đã
nhân từ với chính mình tới mức không đóng cửa của
mình lại.
Con người chỉ có thể là lối mở, là cánh cửa cho
Thượng đế vào. Nỗ lực của chúng ta chỉ mở ra cánh
cửa; việc tới của ngài phụ thuộc vào ngài, vào từ bi của
ngài. Và từ bi của ngài là vô hạn, nó hiện diện mãi mãi
tại mọi ngưỡng cửa. Nhưng ngài có thể làm được gì nếu
ngài thấy nhiều cánh cửa đóng lại với ngài? Thượng đế
gõ mọi cửa và quay đi khi ngài thấy cửa đóng. Và
chúng ta đã đóng cửa của mình chắc thế. Cho nên bất kì
khi nào ngài tới và gõ cửa, chúng ta giải thích duy lí
điều đó, chúng ta giải thích điều đó theo bao nhiêu cách,
và chúng ta vẫn còn bằng lòng với điều đó.
Tôi muốn kể cho các bạn một câu chuyện tôi thích
kể.
Có một ngôi đền lớn với hàng trăm tu sĩ chăm nom
nó. Một đêm ông chủ đền đi ngủ và mơ rằng Thượng đế
đã báo mộng rằng ngài sẽ tới thăm ngôi đền vào ngày
hôm sau. Ông ấy không tin vào điều đó, bởi vì khó mà
bắt gặp một người nhiều hoài nghi hơn tu sĩ này. Ông
ấy không tin vào giấc mơ của mình bởi lí do khác nữa.
Những lái buôn trong tôn giáo không bao giờ tin vào
tôn giáo. Họ chỉ khai thác tôn giáo, cái không bao giờ
trở thành niềm tin của họ, chân lí của họ. Không ai trên
thế giới không có niềm tin tôn giáo hơn người đã biến
niềm tin thành phương tiện khai thác. Cho nên ông chủ
đền này không thể tin được vào Thượng đế thực sự tới
thăm đền này.
Tu sĩ này chưa bao giờ tin vào những điều như vậy,
mặc dầu ông ấy đã là tu sĩ trong nhiều năm. Ông ấy đã
tôn thờ Thượng đế từ lâu và ông ấy biết rằng Thượng đế
chưa bao giờ viếng thăm ngôi đền của ông ấy cho dù
một lần. Mỗi ngày ông ấy đều cúng dường thức ăn cho
Thượng đế, và ông ấy biết rằng ông ấy thực tế đã cúng
dường nó cho bản thân mình. Ông ấy cũng đã cầu
nguyện Thượng đế hàng ngày, nhưng ông ấy biết rõ
rằng lời cầu nguyện của mình mất tăm mất tích trên
thinh không, bởi vì chẳng có ai ở đó để nghe chúng.
Cho nên ông ấy nghĩ rằng thông điệp này là không
đúng, nó chỉ là mơ, và mơ hiếm khi biến thành thực tại.

Nhưng thế rồi ông ấy sợ nữa, e rằng giấc mơ nhỡ
đúng thì sao. Vào nhiều lúc điều chúng ta gọi là mơ
biến thành thực tại và thực tại như chúng ta biết nó
chứng tỏ là mơ. Đôi khi điều chúng ta nghĩ là mơ, thực
tế trở thành thực tại. Cho nên ông chủ đền này cuối
cùng quyết định báo cho các đồng môn gần gũi của
mình về giấc mơ đêm qua của mình. Ông ấy nói với các
tu sĩ khác, "Mặc dầu điều đó dường như là trò đùa, vậy
mà tôi vẫn phải kể cho các ông về điều đó. Đêm qua tôi
đã mơ rằng Thượng đế nói rằng ngài sẽ tới thăm chúng
ta hôm nay." Các tu sĩ khác đều cười và họ nói, "Ông có
điên không mà đi tin vào giấc mơ? Tuy nhiên, chớ có kể
cho người khác về điều đó; bằng không họ sẽ coi ông là
điên đấy." Nhưng ông chủ đền nói, "Trong trường hợp
ngài tới, chúng ta nên được chuẩn bị về điều đó. Cũng
chẳng hại gì nếu ngài không xuất hiện, nhưng nếu ngộ
nhỡ ngài tới, chúng ta sẽ không bị coi là ngu."
Cho nên cả ngôi đền và các vườn tược đều được lau
chùi, dọn dẹp, tẩy rửa và làm sạch chu đáo. Nó được
trang hoàng bằng hoa và cờ và tràng hoa. Đèn được
thắp lên và hương được đốt. Mùi hương bốc lên và mọi
loại chuẩn bị được thực hiện. Các tu sĩ mệt nhoài trong
suốt cả ngày, mà Thượng đế chẳng hiện lên. Mọi người
thỉnh thoảng ngó ra đường, họ thất vọng, và họ nói,
"Mơ sau rốt cũng chỉ là mơ thôi; Thượng đế không định
tới đâu. Chúng ta đều là kẻ ngu mà tin vào điều như
vậy. Cũng tốt là chúng ta đã không thông báo cho mọi
người trong thị trấn; bằng không thì họ đơn giản đã cười
chúng ta."
Đến tối các tu sĩ từ bỏ hi vọng, và họ nói, "Bây giờ
chúng ta ăn thức ăn xa hoa được nấu cho Thượng đế đi.
Chưa bao giờ có được như vậy: cái chúng ta cúng
dường cho Thượng đế chung cuộc được chúng ta ăn.
Chẳng ai định hiện lên cả. Chúng ta đủ điên mà đi tin
vào giấc mơ. Điều trớ trêu là ở chỗ chúng ta chủ định
làm thức ăn này cho chúng ta. Nếu người khác phát
điên, họ có thể được miễn lỗi, bởi vì họ không biết.
Nhưng chúng ta biết Thượng đế chẳng bao giờ tới cả.
Thượng đế ở đâu? Có thần tượng này trong đền; tất cả
mọi thứ có đó để cho nó. Và đó là công việc của chúng
ta, nghề nghiệp của chúng ta để tôn thờ ngài." Và thế rồi
họ ăn ngon lành và đi ngủ sớm vì họ đều mệt nhoài.
Khi nửa đêm tới một chiếc xe được kéo tới cổng
ngôi đền, và người ta nghe thấy tiếng động của nó. Một
trong các tu sĩ đang ngủ nghe thấy điều đó và nghĩ rằng
đó là xe của Thượng đế. Ông ta kêu lên cho những
người khác, "Nghe này các bạn và thức dậy đi. Dường
như là ngài đấy, người chúng ta đã trông đợi cả ngày,
sau cùng đã tới. Tôi nghe thấy tiếng động của xe." Các
tu sĩ khác làm cụt hứng người này khi nói, "Câm đi, ông
điên rồi. Chúng ta đã có đủ điên khùng cả ngày ngày
rồi, bây giờ đang đêm để chúng tôi ngủ cho ngon. Đấy
không phải là tiếng động của xe kéo đâu, mà chỉ là tiếng
sấm của mây trên trời thôi." Cho nên họ luận giải xong
sự việc này và trở lại giường mình.
Thế rồi chiếc xe dừng lại cạnh cổng, và ai đó bước
lên các bậc của ngôi đền và gõ vào cửa. Và lần nữa một
trong các tu sĩ thức dậy từ giấc ngủ và kêu lên với bạn
đồng liêu của mình, "Dường như vị khách đã tới người
mà chúng ta đã chờ đợi cả ngày dài. Ngài đang gõ cửa
đấy." Các tu sĩ khác mắng mỏ ông này như họ đã làm
với người thứ nhất. Họ nói, "Ông có điên không đấy?
Ông không cho chúng tôi ngủ sao? Đấy chỉ là việc
chạm của gió vào cửa chứ không phải việc gõ của người
gọi đâu." Thế rồi họ luận giải rồi trở lại giường của
mình.

Sáng hôm sau họ thức dậy và bước ra cổng đền. Và
họ sững sờ khi thấy vài dấu chân trên bậc của đền. Chắc
chắn là ai đó đã trèo lên chúng trong đêm. Và thế rồi họ
để ý một số dấu hiệu của bánh xe trên đường, và bây
giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa là chiếc xe đã tới
cổng đền trong đêm. Và điều kì lạ là dấu chân trên bậc
tuyệt đối không bình thường và không được biết tới.
Bây giờ các tu sĩ bật khóc và khuỵu xuống và bắt đầu
lăn lộn trên đất nơi chiếc xe đã dừng lại. Và ngay lúc đó
cả làng đã kéo đến cổng đền. Mọi người trong đám
đông đều hỏi với sự hoang mang, "Có chuyện gì thế
nhỉ?" Các tu sĩ nói, "Đừng hỏi có chuyện gì. Thượng đế
đã gõ cửa ngôi đền chúng tôi đêm qua, nhưng chúng tôi
đã luận giải mọi việc. Chúng tôi bây giờ đáng bị nguyền
rủa. Ngài đã gõ cửa và chúng tôi cứ nghĩ rằng đấy là âm
thanh của gió gõ vào cửa. Xe của ngài đã tới, và chúng
tôi cứ nghĩ rằng đó là tiếng sấm trên trời. Sự thực là ở
chỗ chúng tôi đã không hiểu cái gì cả. Chúng tôi chỉ
giải thích những điều đó cho qua, bởi vì chúng tôi muốn
hưởng giấc ngủ của mình."
Thượng đế gõ mọi cánh cửa. Ân huệ của ngài tới
thăm mọi nhà. Nhưng cánh cửa của chúng ta đóng im
ỉm. Và thậm chí khi chúng ta nghe thấy tiếng gõ chúng
ta lập tức luận giải nó và giải thích nó cho xong.
Ngày xưa họ có câu nói rằng "Khách là Thượng
đế". Có hơi chút sai lầm trong câu cách ngôn này. Chân
lí là ở chỗ Thượng đế là khách. Thượng đế đang đợi
như vị khách tại bậc cửa nhà chúng ta, nhưng cánh cửa
bị đóng. Ân huệ của ngài là sẵn có như nhau cho tất cả
mọi người. Do đó đừng hỏi liệu người ta có đạt tới qua
ân huệ của ngài không; người ta đạt tới qua ân huệ của
một mình ngài. Và khi có liên quan tới nỗ lực của chúng
ta, thì nỗ lực là sự giúp đỡ trong việc mở cánh cửa,
trong việc loại bỏ rào cản hỏi con đường.
Khi ngài tới, ngài tới theo ý riêng của ngài.
Một bạn khác đã hỏi: Thầy đã nói về bốn giai đoạn
của thiền. Xin thầy giải thích chúng một cách đầy
đủ?
Trước hết, bạn nên biết rằng ba giai đoạn đầu trong
chúng đơn thuần là các bước tới thiền, không phải là
bản thân thiền. Giai đoạn thứ tư là cánh cửa, trong khi
ba giai đoạn kia là các bậc cửa. Các bậc không làm
thành cửa, chúng chỉ dẫn tới cửa. Giai đoạn thứ tư là
cánh cửa tới thiền, là việc thảnh thơi và nghỉ ngơi, trống
rỗng và hư không, buông xuôi và dừng lại, tan biến và
chết, hay bất kì điều gì bạn gọi nó. Đó là cánh cửa, và
ba bước đầu tiên đưa chúng ta tới nó.
Và nguyên tắc nền tảng nằm sau ba giai đoạn đầu
tiên là một. Nếu người ta định thảnh thơi, người đó sẽ
phải trải qua trạng thái căng thẳng tuyệt đối; thế thì việc
chuyển qua thảnh thơi trở thành khá dễ dàng. Nếu một
người làm việc cả ngày, người đó có thể ngủ ngon trong
đêm. Người càng làm việc vất vả thì người đó ngủ càng
say. Người ta có thể tranh luận rằng vì ngủ là đối lập
với làm, làm sao người làm việc vất vả có thể ngủ
được? Người đó phải không có khả năng ngủ, bởi vì lao
động và nghỉ ngơi đối lập lẫn nhau thế. Một cách logic
việc ngủ nên có sẵn cho người nghỉ cả ngày trên giường. Nhưng chân lí là ở chỗ người đó sẽ không thể
ngủ được vào ban đêm nếu người đó nghỉ cả ngày rồi.
Đó là lí do tại sao, khi cuộc sống con người càng
thoải mái hơn, việc ngủ của người đó đã biến mất khỏi
thế giới theo cùng mức độ. Chúng ta càng có thoải mái
và an nhàn, chúng ta sẽ có giấc ngủ càng ít hơn. Và điều
trớ trêu là ở chỗ chúng ta cứ thêm mãi những tiện nghi
với hi vọng rằng chúng sẽ giúp chúng ta ngủ không bị
quấy rối. Nhưng điều ngược lại xảy ra. Với sự phát triển
của văn minh và an nhàn, giấc ngủ sẽ biến mất, bởi vì
công việc vất vả là điều tiên quyết cho giấc ngủ. Khi
người ta làm việc thì người ta ngủ. Tương tự khi căng
thẳng của con người tăng lên và đạt tới cực đỉnh của nó
thì người này dễ trượt vào thảnh thơi sâu.
Ba bước đầu tiên hoàn toàn mâu thuẫn với bước thứ
tư, chính là thiền. Người ta có thể hỏi, làm sao người
nào có thể thảnh thơi được sau khi cố gắng vất vả thế,
sau khi trải qua những đỉnh căng thẳng và hỗn loạn
chạm tới điên khùng thế? Tôi nói, chỉ thế thì người đó
mới có thể thảnh thơi được. Sự thực là ở chỗ việc thảnh
thơi đó đi sau căng thẳng như đêm theo sau ngày, như
thung lũng tiếp nối đỉnh cao. Đỉnh càng cao, thung lũng
càng sâu. Bạn ngã từ núi càng cao, bạn rơi vào hẻm núi
càng sâu. Đừng quên rằng mọi núi đều có thung lũng
của nó. Trong thực tế không thể có núi mà không có
thung lũng được. Khi núi vươn lên cao nó tạo ra thung
lũng sâu bao khắp quanh nó. Đó là cách mà khi căng
thẳng của bạn tăng lên, ngay bên cạnh đó bạn đang thu
thập năng lượng để thảnh thơi và nghỉ ngơi. Đỉnh căng
thẳng càng cao, thung lũng nghỉ ngơi càng sâu. Đó là lí
do tôi yêu cầu các bạn đem tất cả năng lượng của mình
vào trong nó, dùng hết sức của bạn, đặt cược tất cả mọi
thứ của bạn và không giữ lại cho mình dù chỉ là chút ít.
Đó là cách bạn sẽ đạt tới chiều cao của căng thẳng và
thế rồi đi xuống hố, đáy của thảnh thơi và nghỉ ngơi. Và
chính trong khoảnh khắc đó của nghỉ ngơi tuyệt đối
thiền xảy ra.
Điều cơ bản là ở chỗ bạn phải đạt tới đỉnh căng
thẳng và thế rồi vứt bỏ căng thẳng đi. Nhiều người tới
tôi để hỏi chẳng lẽ không thể thảnh thơi được mà không
đi vào căng thẳng sao. Không, điều đó đơn giản là
không thể được. Và cho dù nó có thể đi chăng nữa thì
nó cũng chỉ là thảnh thơi trên danh nghĩa mà thôi. Nếu
bạn muốn chìm sâu vào trong nước thì sẽ cần phải nhảy
từ bàn nhảy cao. Bàn nhảy càng cao việc chìm càng sâu.
Nhìn vào những cây thông này, chúng phải cao đến cỡ
mười hai mét. Để đạt tới chiều cao đó rễ của chúng phải
ăn sâu vào lòng đất mười hai mét. Cây càng vươn lên
cao hơn, thì rễ càng ăn sâu vào đất hơn. Rễ càng ăn sâu
vào đất, cây càng vươn cao hơn. Bây giờ cây thông này
có thể hỏi, "Có hại gì nếu rễ của mình chỉ ăn sâu một
mét rưỡi thôi?" Điều đó sẽ chẳng hại gì nếu bản thân
cây này chỉ cao mét rưỡi. Và nếu rễ không phát triển
chút nào thì cũng không có cơ hội nào cho cây hiện hữu
cả.
Nietzsche đã viết một câu cách ngôn sáng suốt lắm.
Ông ấy nói rằng nếu người ta muốn đạt tới chiều cao
của thiên đường, người ta phải chạm tới chính chiều sâu
của địa ngục. Đấy thực sự là một phát biểu sáng suốt
lớn lao. Nếu con người muốn đạt tới chiều cao của thiên
đường, con người sẽ phải đi tới chiều sâu của địa ngục.
Đó là lí do tại sao người tầm thường không bao giờ có
thể đạt tới chiều cao của tôn giáo, trong khi tội phạm
thường đạt tới. Bởi vì người đi sâu vào trong tội lỗi có
thể vươn lên chiều cao của ngay thẳng đạo đức.

Kĩ thuật thiền là một cách biến đổi qua các cực
điểm. Mọi biến đổi xảy ra khi cực điểm được đạt tới.
Nếu một hiện tượng đạt tới cực điểm của nó, thay đổi
xảy ra. Bạn đã bao giờ quan sát quả lắc của đồng hồ
treo tường chuyển động chưa? Nếu nó đi sang trái, nó
cứ đi sang bên trái cho tới khi nó đạt tới điểm cực trái
và thế rồi nó đi ngược lại sang phải. Bạn có thể không
để ý rằng khi quả lắc của đồng hồ đi sang trái đồng thời
nó cũng tích đà để đi sang phải. Và nó sẽ đi sang phải
với cùng mức độ như nó đi sang trái. Trường hợp con
lắc của tâm trí bạn cũng như vậy. Nếu nó được đưa tới
cực điểm của căng thẳng, nó sẽ đung đưa lại từ đó và đi
vào trong cốt lõi sâu nhất của thảnh thơi. Bạn không thể
thảnh thơi nếu bạn không được đưa tới điểm căng thẳng
cực đại.
Một số người tới tôi với những câu hỏi rất lạ.
Dường như là họ đi ra để lấy hoa mà không đi vào rắc
rối của việc trồng cây. Dường như là họ muốn được thu
hoạch mà không gieo hạt và không chăm nom mùa
màng.
Một người bạn muốn biết liệu có khó khăn nào
không nếu người đó không rung thân thể và không cho
phép nó run lên. Sẽ không có khó khăn nào cả. Khó
khăn gì có đó nếu bạn không muốn làm cái gì cả? Nếu
người đó sợ chuyển động thân thể, người đó sẽ làm gì
khi năng lượng bên trong bắt đầu chuyển động? Nếu
người đó muốn kìm hãm thân thể không cho rung lên,
người đó sẽ làm gì khi kundalini bắt đầu đi lên? Không,
người đó muốn cái bên trong xảy ra và vậy mà người đó
vẫn phải được nhìn từ bên ngoài vẫn là người văn minh
và văn hoá mà người đó tự nghĩ về mình là vậy. Người
đó muốn rằng mình sẽ đứng như bức tượng sáp ong, và
vậy mà cái gì đó phải xảy ra bên trong người đó. Người
đó không biết rằng tượng sáp ong của mình sẽ tan chảy
ra và biến mất trong không khí loãng một khi năng
lượng bên trong dâng lên. Nó sẽ tan biến, tạo ra chỗ cho
cái gì đó không biết.
Làm việc cật lực để cho căng thẳng của bạn đạt tới
đỉnh của nó và chỉ thế thì bạn mới có thể đạt tới đỉnh
thảnh thơi. Thế thì phần còn lại sẽ xảy ra theo cách
riêng của nó. Bạn chỉ phải tạo ra căng thẳng; an bình sẽ
tới qua ân huệ của Thượng đế. Bạn chỉ có thể nâng cơn
bão của căng thẳng lên cực đỉnh của nó; thế rồi cơn bão
sẽ lắng xuống theo cách riêng của nó và an bình sẽ ngự
trị. Không có an bình nào giống như an bình tới sau cơn
bão. An bình đi theo cơn bão là an bình sống, bởi vì nó
được sinh ra từ cơn bão. Và để đi tới an bình sống này
điều bản chất, và tôi nhấn mạnh, là tất cả các giai đoạn
thiền nên được trải qua hết, không giai đoạn nào có thể
bị bỏ qua. Cho nên sẽ không ai tới tôi và hỏi liệu giai
đoạn này hay giai đoạn kia có thể được bỏ bớt đi không
hay liệu người ta có thể làm mà không có thở sâu,
không rung lên hay không hỏi "Tôi là ai?" Không, ba
giai đoạn đầu tiên được ngụ ý để đưa các bạn từ cực
điểm này sang cực điểm khác theo một cách thức rất hệ
thống và khoa học.
Chính với lí do này mà tôi nhấn mạnh rằng chỉ khi
một giai đoạn đạt tới cực đỉnh của nó chúng ta mới có
thể chuyển sang giai đoạn tiếp. Điều đó giống như việc
chuyển số khi lái xe. Nếu bạn đang lái xe đi số một, ban
đầu bạn đưa nó lên hết tốc độ rồi đổi qua số thứ hai. Và
chừng nào mà tốc độ trong số thứ hai còn thấp, bạn
không đưa xe vào số thứ ba. Tất cả mọi sự thay đổi xảy
ra tại tột đỉnh. Đấycũng là trường hợp cho việc biến đổi
tâm trí; nó xảy ra tại tột đỉnh nữa.

Bạn phải hiểu đầy đủ ý nghĩa của ba giai đoạn này.
Giai đoạn thứ nhất bao gồm việc thở, thở sâu và nhanh.
Việc thở sẽ tiếp tục qua toàn bộ chiều dài của cả ba giai
đoạn; nó được mang qua giai đoạn thứ hai và ba nữa.
Và việc thở phải là cả sâu và nhanh. Bạn phải thở sâu
nhất có thể được, và bạn phải thở nhanh nhất có thể
được. Và qui tắc thở sâu và nhanh này nên ngự trị cả
việc hít vào và thở ra. Nhưng tại sao? Thở sẽ làm cái gì?
Thở là yếu tố bí ẩn nhất trong cuộc sống con người.
Chính qua trung gian của hơi thở mà thân thể được hợp
nhất với linh hồn. Đó là lí do tại sao chúng ta nói rằng
một người là sống chừng nào người đó còn thở. Với
việc thở mất đi, cuộc sống đi tới chấm dứt.
Gần đây tôi ngẫu nhiên tới thăm một gia đình có
người đàn bà nằm trong trạng thái hôn mê trong chín
tháng. Và các bác sĩ nói rằng cô ấy bây giờ sẽ không
bao giờ có lại được ý thức của mình nữa, mặc dầu cô ấy
có thể sống thêm ba năm nữa. Người đàn bà này được
giữ sống với sự trợ giúp của thuốc và thức ăn được tiêm
vào thân thể cô ấy trong trạng thái hôn mê. Cô ấy hoàn
toàn vô ý thức; trong chín tháng cô ấy đã không thu lại
được ý thức cho dù chỉ một lần. Tôi đã tới thăm gia
đình cô ấy và tôi bảo bà mẹ cô ấy rằng cô ấy hầu như
chết rồi. Bà già nói, "Không, chừng nào việc thở vẫn
còn kéo dài thì bao giờ cũng còn có hi vọng. Các bác sĩ
nói không có hi vọng, nhưng ai biết được? Các bác sĩ
không phải bao giờ cũng đúng. Ai biết được? Nó có thể
thu lại ý thức chứ, bởi vì nó vẫn tiếp tục thở. Có hơi
thở; cây cầu vẫn còn chưa bị sập. Nó có thể trở lại ý
thức."
Hơi thở là cây cầu nối linh hồn với thân thể. Khi
bạn thở sâu và nhanh, không chỉ thân thể bị rung lên,
ngay cả từng thớ của linh hồn bên trong cũng rung lên.
Chẳng hạn, có một cái chai nằm trên giá của bạn lâu rồi.
Nó chứa đầy chất lỏng nào đó và nó đã không bị lắc
trong một thời gian dài. Cho nên dường như là cái chai
và chất lỏng trong nó là hai điều tách biệt. Không bị
khuấy lên trong một thời gian dài cái chai và chất lỏng
trong nó dường như là một mảnh. Bây giờ bạn lắc mạnh
cái chai. Cùng với cái chai, chất lỏng bên trong nó cũng
bị lắc. Chỉ thế thì sự tách biệt giữa chúng mới trở nên rõ
ràng. Tương tự khi bạn thở tại mức độ cao nhất bạn tạo
ra cơn bão không chỉ làm rung chuyển thân thể bạn mà
còn làm rung chuyển mọi thớ linh hồn bên trong. Và
chính trong khoảnh khắc của run rẩy đó mà bạn cảm
thấy rõ ràng rằng thân thể và linh hồn là tách biệt.
Bây giờ bạn tới và hỏi, "Điều gì xảy ra nếu tôi
không thở sâu? Có hại không?" Điều đó sẽ chỉ hại theo
kiểu này - rằng bạn sẽ chẳng bao giờ biết được bạn là
tách rời với thân thể mình. Đó là lí do tại sao điều kiện
cơ sở đã được gắn với việc thở, rằng bạn phải là nhân
chứng cho nó. Bạn thở sâu và bạn quan sát đồng thời
rằng hơi thở này đi vào và hơi thở khác đi ra. Khi bạn
quan sát những chuyển động hơi thở đi vào và đi ra, bạn
biết rằng không chỉ thân thể là tách rời, ngay cả hơi thở
cũng tách khỏi bạn. Thế thì bạn biết rằng bạn chỉ là
người quan sát tách rời khỏi cả thân thể và hơi thở. Sự
tách rời của người ta với thân thể có thể được biết qua
một mình việc thở, nhưng việc tách rời khỏi hơi thở có
thể được nhận ra qua chứng kiến việc thở.
Cho nên hai điều, thở sâu và chứng kiến, làm ra giai
đoạn thứ nhất, và chúng chạy suốt qua giai đoạn thứ hai
cho tới cuối - tức là, giai đoạn thứ ba.

Tôi yêu cầu các bạn buông bỏ thân thể trong giai
đoạn thứ hai. Thở sâu sẽ tiếp tục, và thêm vào đó các
bạn phải buông bỏ thân thể. Nó có nhiều ngụ ý, và tôi
định đi vào vài điều trong chúng ở đây.
Thứ nhất, có hàng nghìn mối căng thẳng trong thân
thể các bạn và các bạn không nhận biết về chúng, mặc
dầu đây là tuyển tập của các bạn. Nền văn minh đã làm
cho các kiếp sống của chúng ta thành phi tự nhiên đến
mức ngay cả khi các bạn giận ai đó, các bạn vẫn nở nụ
cười trước người đó. Thân thể các bạn không nhận biết
về thái độ lịch sự của bạn; nó cảm thấy muốn bóp nghẹt
người có liên quan. Nắm đấm của bạn tự chúng siết lại,
nhưng bạn nở nụ cười giả tạo và bạn không cho phép
nắm đấm siết lại, bạn kìm nén chúng. Thế thì thần kinh
thân thể vốn đã tự chuẩn bị sẵn sàng cho nắm đấm siết
lại thấy khó khăn lớn. Chúng đơn giản không hiểu tất cả
những điều này là gì. Và trạng thái bất ổn được tạo ra
trong thân thể. Nắm đấm đáng phải được siết lại.
Những người nghiên cứu và hiểu sâu về giận dữ đều
nói - và tôi cũng nói cùng điều đó - rằng bất kì khi nào
bạn giận dữ thế, hãy chỉ làm một điều thôi. Đừng nở nụ
cười giả tạo, thay vào đó siết nắm đấm dưới gầm bàn,
nếu bạn có chiếc bàn trước mình, và siết chặt rồi thả
chúng ra một cách mạnh mẽ trong năm phút. Và thế rồi
bạn sẽ cười to, và đó sẽ là tiếng cười khác hẳn.
Thân thể không biết chút gì rằng con người đã trở
nên văn minh. Thân thể vận hành hoàn toàn như cái
máy. Nhưng con người đã đặt những ràng buộc lớn lên
hoạt động của nó; thân thể đã bị làm mất tự nhiên theo
đủ mọi cách. Và chính vì những việc thiếu tự nhiên này
mà thân thể bạn đã trở thành nhà kho chứa mọi thứ căng
thẳng; hàng nghìn căng thẳng được tụ tập bên trong
thân thể bạn.
Và quá nhiều căng thẳng tạo nên phức cảm - những
cái nút căng thẳng.
Cho nên khi tôi yêu cầu các bạn buông bỏ thân thể
và các bạn làm như vậy, thế thì những phức cảm này, đã
từng có đó từ thời trẻ thơ của các bạn, bắt đầu chùng
dần ra và tan biến đi. Việc chùng dần ra và tan biến đi
của chúng là rất cần thiết; bằng không bạn sẽ chẳng bao
giờ đạt tới vô thân thể, bạn sẽ chẳng bao giờ siêu việt
lên trên thân thể và đi ra ngoài nó. Với tan biến của
phức cảm, thân thể bạn sẽ trở thành nhẹ như hoa.
Có lẽ bạn đã nghe nói về cái tên được đặt cho
Mahavira, tirthankara của người Jaina. Một trong
những cái tên của ông ấy là Nirgrantha, tên độc đáo.
Theo từng chữ nó có nghĩa là vô phức cảm - người
không có phức cảm. Nirgrantha là người có tất cả các
phức cả đã bị tan biến và biến mất, người tự do khỏi
mọi cái nút bên trong, người không có phức cảm nào,
người đã trở thành tuyệt đối đơn giản và hồn nhiên.
Khi mạng lưới các phức cảm muốn chùng đi, muốn
tự do, bạn không cho phép nó, bạn kháng cự lại. Văn
minh của bạn, văn hoá của bạn, ước định của bạn, kiềm
chế của bạn, vị trí là đàn ông hay đàn bà của bạn, việc
bạn là thế này thế nọ - tất cả những điều này bắt giữ bạn
mạnh đến mức bạn không buông bỏ thân thể mình.
Mới sáng nay một phụ nữ tới tôi và nói rằng cô ấy
sợ khi đang thiền tay ai đó có thể sờ vào thân thể cô ấy.
Ngay bây giờ người đàn bà đáng thương này phải đang
ngồi cách thật xa tất cả các bạn. Nhưng mặc cho điều đó
nếu thân thể của ai đó lăn ra và tiến tới cô ấy, cô ấy sẽ là đống lộn xộn lần nữa. Cô ấy muốn biết liệu cô ấy có thể
ngồi tách ra được không. Tôi bảo cô ấy, "Ai biết được,
thượng đế ở trên trời có thể phái người tới bất kì chỗ
nào bạn sẽ đi. Cũng tốt là ai đó tới bạn. Người đó sẽ tới
với bạn ở bất kì chỗ nào bạn sẽ đi. Cho nên đừng thay
đổi vị trí của bạn. Và có hại gì nếu ai đó chạm vào thân
thể bạn?"
Cách thức của đàn bà thường hay là thế cho dù
Thượng đế có đi ngang qua đường của họ thì họ sẽ co
tránh ngài, cứ sợ rằng ngài sẽ chạm vào thân thể họ.
Toàn bộ thân thể họ bị đè nặng bởi những phức cảm. Từ
thời trẻ thơ họ đã được huấn luyện và qui định theo
cách là họ nhìn vào thân thể mình cứ dường như đó là
bệnh tật họ phải mang. Họ không sống trong thân thể;
đấy chỉ là một tải trọng họ miễn cưỡng mang theo mình.
Thân thể giống như cái áo choàng họ mang, cứ lo lắng
mọi lúc làm sao bảo vệ nó, mặc dầu chẳng có gì về nó
đáng bảo vệ cả. Nhưng một ưa chuộng nhỏ mọn như
vậy kiềm chế chúng ta theo cách rất to tát.
Nếu một người được giáo dục tốt, người đó có thể
nghĩ... Mới hôm nay, một quí ông bảo tôi rằng chỉ
người xúc cảm, và không phải là trí thức, mới trải qua
những kinh nghiệm như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là
nếu một người qua được vài cấp là người đó trở thành
trí thức. Nếu mẹ người đó chết, người đó sẽ khóc hay
không khóc cho bà ấy? Người đó sẽ yêu hay không yêu
ai đó, bởi vì người đó là người trí thức? Bởi vì người đó
đã học qua vài cấp và được đảm bảo bằng chứng chỉ từ
đại học nào đó, người đó sẽ nghĩ hai lần trước khi hôn
người yêu của mình, bởi vì vài con vi trùng có thể được
truyền từ người này sang người khác. Người đó sẽ tra
cứu sách vở và suy nghĩ cân nhắc liệu người đó có nên
cho phép xúc động của mình ảnh hưởng tới mình hay
không. Trí năng của chúng ta đã trở thành một loại bệnh
tật; nó không có hương thơm mà nó đáng phải có. Nó
có thể đã là niềm vinh quang của chúng ta, nhưng nó đã
biến thành bệnh tật.
Cho nên người ta nghĩ rằng bởi vì người đó là người
trí thức, nên những điều như vậy không thể xảy ra được
cho người đó; chúng chỉ xảy ra cho những người thiên
về xúc động. Tại sao? Xúc cảm có sai không? Bất kì cái
gì có ý nghĩa trong cuộc sống đều tới qua xúc cảm,
không qua trí tuệ. Tất nhiên, các vấn đề của nhà toán
học và kế toán viên và những điều giống thế này đều
được trí tuệ xử trí; nhưng chẳng cái gì có ý nghĩa cả.
Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ ngay cả những khám
phá của khoa học, điều là bộ môn trí thức vĩ đại nhất,
cũng tới qua xúc cảm chứ không qua trí năng. Nếu ai đó
hỏi Einstein ông ấy đã phát hiện ra lí thuyết tương đối
như thế nào thì ông ấy sẽ nói, "Tôi không biết, điều đó
chỉ xảy ra thôi." Đây là một phát biểu rất mang tính tôn
giáo. Nếu bà Curie được hỏi bà ấy đã khám phá ra tia
phóng xạ thế nào thì bà ấy sẽ nói, "Tôi không thể nói
thế nào được; nó chỉ tới. Nó ở bên ngoài khả năng của
tôi." Bất kì nhà khoa học lớn nào cũng đều sẽ nói cùng
điều đó. Người đó sẽ nói, "Nó đã không tới qua việc tìm
kiếm của tôi; nó là cái gì đó bên ngoài tôi. Nó tới từ cõi
bên kia. Tôi chỉ là một công cụ, một trung gian." Đây
chính xác là ngôn ngữ của tôn giáo.
Xúc cảm có chiều sâu lớn lao, trong khi trí năng
nông cạn, hời hợt. Trí năng không là gì khác hơn tiện
dụng. Nó giống như người dẫn đường đi trước chiếc xe
của thống đốc khi ông ấy đi thăm các nơi. Đừng lấy
người dẫn đường làm viên thống đốc. Trí năng không là
gì khác hơn người dẫn đường đi dọn đường và điều khiển giao thông để cho xe của thống đốc có thể đi qua
không bị quấy rối. Cho nên chủ tới sau tớ. Xúc cảm là
chủ còn trí năng là tớ. Tất cả những điều có ý nghĩa và
đẹp đẽ trong cuộc sống đều tuôn chảy từ xúc cảm, từ
cảm giác. Nhưng có những người coi người dẫn đường
là thống đốc và cúi chào ông ta. Họ nói, "Chúng tôi là
những nhà trí thức, chúng tôi coi người dẫn đường là
thống đốc." Cứ để họ nói điều họ thích; ngay cả người
dẫn đường cũng cười.
Một số người nghĩ chỉ người yếu mới run lên và la
hét; người mạnh là những người thấy khó đi vào trong
nó. Họ không biết, họ không biết chút nào. Vấn đề
ngược lại; điều đó chỉ xảy ra cho người mạnh, trong khi
người yếu đứng sang bên. Bởi vì ở vào một tư thế đặc
biệt trong suốt một giờ chỉ có thể dành cho những người
có ý chí rất mạnh, không dành cho kẻ có ý chí yếu.
Người yếu thở sâu được một hai phút thôi, rồi họ từ bỏ.
Và chính họ là người nói rằng điều đó dành cho người
yếu, rằng đó là tính mềm yếu. Họ thậm chí không thể
nào thở sâu trong một giờ được; họ không thể hỏi "Tôi
là ai?" trong mười phút. Xin đừng che giấu những ảo
tưởng như vậy.
Đây chỉ là những biện giải, cách thức trí năng trốn
chạy khỏi thiền. Đây là cách chúng ta bảo vệ bản ngã
của mình và chạy trốn. Cho nên chúng ta nói điều đó
chỉ xảy ra cho người yếu, trong khi chúng ta là những
người rất mạnh. Đây là phát biểu đáng ngạc nhiên. Sự
thực là ở chỗ mọi thứ lớn lao và có ý nghĩa trong thế
giới này đều đạt được bởi người mạnh; người yếu chẳng
tốt cho cái gì cả. Và thiền thì sao? Thiền đòi hỏi sức
mạnh tối thượng. Cái gọi là người trí thức sẽ nói rằng
chỉ người yếu mới trải qua những kinh nghiệm này. Còn
bản thân người đó không thể làm được điều đó bởi vì
người ngồi cạnh người đó đang khóc; bởi vì người này
mà người đó không làm được. Nhưng người đang khóc
kia thậm chí không ý thức tới điều đó, người này thậm
chí không nhận biết liệu có ai đang quan sát mình và
nghĩ về mình không. Người này hoàn toàn tham gia vào
nỗ lực riêng của mình. Và tham dự với sự kiên trì là một
điều mang sức mạnh lớn lao; người yếu không thể có
được điều đó.
Do đó đừng cố bảo vệ bản ngã của bạn chẳng vì cái
gì cả. Và đừng nói bạn là mạnh, là có ý chí mạnh và
rằng bạn là nhà trí thức và ngừng làm điều đó. Biết rõ
điều này - rằng bạn không thể làm được điều đó - và
đừng tìm cớ để không làm gì, và đừng trang điểm cho
cái yếu của bạn bằng những lời hay. Nếu bạn làm vinh
quang cho cái yếu của mình, điều đó sẽ trở thành một
thứ quí chuộng cho bạn, và thế thì bạn sẽ bỏ lỡ thiền
mãi mãi. Đơn giản biết rằng điều này không xảy ra cho
bạn. Nếu nó không xảy ra, điều đó đơn giản nghĩa là
bạn yếu và bạn thiếu cái gì đó. Cố gắng tìm ra và hiểu
cái yếu của bạn và chữa trị nó đi. Đừng nhận lầm cái
yếu của bạn thành cái mạnh; đừng cho nó cái tên mĩ
miều.
Một người bạn tới và nói rằng dường như tất cả đều
mắc chứng cuồng loạn rồi, dường như vài người bị bệnh
kích động. Anh ta không biết chút nào cái gì đang ẩn
kín trong thái bình của cuộc sống. Bằng việc gọi nó là
chứng cuồng loạn anh ta chỉ bảo vệ cho bản ngã của
mình. Cho nên anh ta đã đi tới kết luận rằng những
người rung lắc và la hét là những người điên. Và anh ta
nghĩ bản thân mình không thể trải qua những kinh
nghiệm như vậy bởi vì anh ta lành mạnh. Nhưng nếu
anh ta là phải thì Phật là điên và Mahavira và Jesus và
Socrates và Rumi và Mansoor cũng vậy. Nhưng gia nhập vào bộ lạc của những người điên được phúc lạc
này còn tốt hơn rất nhiều vẫn còn ở với cái gọi là người
lành mạnh. Và chúng ta đang gia nhập với họ, bởi vì
điều những người điên này đã có, thì những người lành
mạnh kia không bao giờ có thể có được.
Khi năng lượng dâng lên với cường độ mạnh, nó
dấy lên cơn bão thực sự bên trong bạn. Điều đó không
phải là không lành mạnh. Nếu nó là vậy, chúng ta
không thể nào tĩnh lặng và yên tĩnh trở lại được. Và
chúng ta trở nên tĩnh lặng và yên tĩnh sau khi hoàn
thành ba giai đoạn này, điều có nghĩa là không có gì
cuồng loạn về nó cả. Thử yêu cầu một người đang
cuồng loạn hãy thảnh thơi, hãy yên tĩnh mà xem; người
đó không thể làm được như vậy; điều đó đơn giản
không trong tay người đó. Nhưng bất kì điều gì đang
xảy ra ở đây đều trong kiểm soát của chúng ta; nó xảy
ra bởi vì chúng ta giúp cho nó xảy ra, bởi vì chúng ta
hợp tác với nó. Đó là lí do tại sao khoảnh khắc chúng ta
rút sự hợp tác của chúng ta đi nó lập tức đi tới chấm
dứt.
Chỉ có một tiêu chuẩn để biết lành mạnh từ không
lành mạnh. Người là người chủ riêng của mình là lành
mạnh còn người không là người chủ của mình là không
lành mạnh. Bây giờ đây là một tiêu chí rất thú vị. Khi
tôi yêu cầu những người ở đây, những người đang trải
qua những kinh nghiệm như vậy hãy thảnh thơi và yên
tĩnh, họ lập tức làm như vậy. Nhưng nếu tôi yêu cầu cái
gọi là người lành mạnh, người cũng ở đây, hãy tĩnh lặng
và làm yên tĩnh ý nghĩ của họ, thì họ sẽ nói không thể
nào làm được điều như vậy - dù họ có cố gắng thế nào,
họ vẫn không thể làm yên tĩnh các ý nghĩ của họ được.
Cho nên chính họ mới là người không lành mạnh, người
điên. Điều bạn không thể điều khiển được là cái không
lành mạnh còn điều bạn có thể điều khiển được là lành
mạnh, là mạnh khoẻ.
Khi bạn sẽ có khả năng bật hay tắt tâm trí mình theo
ý muốn, khi bạn sẽ nói "Thôi đủ rồi", và tâm trí sẽ dừng
lại đây đó, chỉ thế thì bạn mới có thể cho rằng mình
lành mạnh, rằng bạn mạnh khoẻ. Nhưng thực tế là điều
ngược lại. Bạn nói "Thôi đủ rồi" còn tâm trí bạn nói,
"Cứ nói điều gì cậu có thể nói đi, nhưng tớ sẽ làm điều
tớ muốn, tớ sẽ đi tới nơi tớ muốn đi." Bạn đi lên trời và
xuống đất để làm yên tĩnh các ý nghĩ của mình, nhưng
chúng đơn giản không nghe lời, chúng đi theo đường
của chúng. Bạn ngồi trong đền tụng bài thánh ca ca ngợi
Thượng đế còn tâm trí bạn đồng thời đang xem bộ phim
trong rạp chiếu bóng. Không, bất kì bhajans của bạn và
lời cầu nguyện của bạn không thể nào dừng được tâm trí
khỏi việc xem phim. Nó không cho đến một hào với
mọi lời cầu xin của bạn.
Nhưng con người rất tinh ranh. Con người che giấu
những cái yếu của mình đằng sau những lời lẽ hoa mĩ,
và cảm thấy thoải mái bằng việc gièm pha cái tốt của
người khác, bằng việc gọi các cái tên. Nhận biết về điều
này. Tốt nhất là không nghĩ về điều đó chút nào cả. Ai
đang trải qua cái gì là rất khó biết. Cuộc sống bí ẩn đến
mức tốt hơn cả là đừng nghĩ về người khác. Nếu bạn có
thể nghĩ và chăm nom cho chính mình là đủ rồi. Thử
nghĩ về điều này thôi - dù bạn không lành mạnh, yếu
hay mạnh - và chỉ nghĩ về bản thân mình. Nhưng chúng
ta bao giờ cũng làm điều ngược lại, chúng ta nghĩ về
người khác. Điều này rất sai.
Như tôi đã nói, việc buông bỏ thân thể trước hết dẫn
tới việc thanh tâm các căng thẳng bị kìm nén và làm tan
biến các khối chắn và phức cảm thân thể. Và điều thứ hai, khi thân thể tự nó chuyển động - bạn không thao tác
nó, thay vì thế nó thao tác theo đà riêng của nó - thế thì
việc tách biệt của nó với bạn, với linh hồn trở thành rõ
ràng. Bởi vì khi bạn thấy rằng thân thể bây giờ xoay
tròn, rằng nó bây giờ dừng lại, rằng tay đang rung -
không phải là bạn rung chúng, thay vì thế chúng rung
theo cách của chúng - thế thì bạn lần đầu tiên biết rằng
bản thể bạn và thân thể bạn là khác nhau và tách rời.
Thế thì bạn cũng sẽ biết rằng nó không phải là bạn,
nhưng thân thể bạn đã trở thành trẻ trung; và lần nữa nó
không phải là bạn, nhưng thân thể đang trở nên già đi.
Và nếu nhận biết này sâu sắc lên thì bạn cũng sẽ biết
rằng bạn sẽ không chết; chỉ thân thể sẽ chết.
Khi thân thể quay như cái máy, bạn sẽ biết trong
chiều sâu, rằng thân thể thực sự tách rời với bạn. Điều
này bạn chỉ biết khi bạn tuyệt đối buông bỏ thân thể.
Và trong giai đoạn thứ ba chúng ta hỏi: "Tôi là ai?"
Ngay cả khi một người biết rằng mình không là thân
thể, ngay cả khi một người biết rằng mình không là hơi
thở, thì người ta vẫn không biết mình là ai. Chính việc
biết mang tính phủ định là về việc người ta không là
thân thể, việc người ta không là hơi thở; điều đó không
mang tính khẳng định. Việc biết có tính khẳng định là
gì? Đó là việc biết mình là ai, điều người đó chưa được
biết. Cho nên trong giai đoạn thứ ba chúng ta hỏi: "Tôi
là ai?" Nhưng chúng ta hỏi ai? Chúng ta hướng trực tiếp
câu hỏi này vào bản thân mình, và không vào ai khác.
Chúng ta làm cho mình ngập lụt hoàn toàn với câu hỏi
này "Tôi là ai?" Cái ngày bạn sẽ được chất đầy tuyệt đối
bằng câu hỏi này sẽ tới, và nó sẽ tới từ bên trong bạn.
Bởi vì không thể có chuyện tại mức bên trong nhất của
mình, bạn không biết mình là ai. Nếu bạn hiện hữu, bạn
cũng biết mình là ai.
Nhưng cần lấy câu hỏi này vào chiều sâu bên trong
nhất. Chẳng hạn, có nước trong đất, và chúng ta khát ở
đây đang ngồi trên mặt đất. Nếu chúng ta muốn làm dịu
cơn khát của mình, sẽ cần đào giếng sâu quãng mười
mét tới nơi có nước. Nếu chúng ta có câu hỏi "Tôi là
ai?'', thì câu trả lời của nó nằm ở đâu đó mười mét sâu
trong chúng ta. Nhưng có nhiều tầng giữa chúng ta và
câu trả lời đó, và những tầng này phải bị loại bỏ để đạt
tới câu trả lời. Cho nên câu hỏi "Tôi là ai?" có tác dụng
như cái mai. Tốc độ và lực mà chúng ta hỏi câu hỏi này
càng lớn, chúng ta đào chiếc giếng càng sâu. Nhưng
chúng ta không hỏi với tốc độ và lực đó.
Nhiều lần những điều rất lạ xảy ra. Một người bạn
đã trải qua một kinh nghiệm phi thường trong buổi thiền
sáng trong hai ngày qua. Và điều đó cũng đáng hiểu.
Người đó hỏi câu hỏi này với tất cả sức mạnh của mình,
và người đó làm việc cật lực. Không có gì thiếu trong
nỗ lực của người đó. Và người đó cũng không thiếu về
ý chí. Nhưng, như tôi đã nói, tâm trí có hết tầng nọ tới
tầng kia. Người đó hỏi từ tầng trên "Tôi là ai?", và
người đó hỏi nó với lực mạnh đến mức người đó thốt ra
câu hỏi này "Tôi là ai?" nhiều lần. Nhưng ở giữa việc
lặp lại câu hỏi này, các câu hỏi khác bật ra: "Nó sẽ có
tác dụng gì? Nó sẽ có tác dụng gì?" gợi ý rằng việc hỏi
này sẽ không làm ra điều gì cả. Ai đang hỏi câu hỏi thứ
hai này? Bạn hỏi "Tôi là ai?" nhưng thế rồi người đó là
ai, người hỏi "Nó sẽ có tác dụng gì?" Đó là một tầng
khác của tâm trí riêng của bạn, nơi nói, "Việc hỏi này sẽ
chẳng có tác dụng đâu, mình cứ hỏi một cách vô ích nó
lặp đi lặp lại mãi; tốt hơn cả là giữ yên tĩnh."
Cho nên trong khi tầng này của tâm trí chúng ta hỏi
"Tôi là ai?" thì tầng khác bước ra với lời bắt bẻ, "Điều
này chẳng có tác dụng đâu, tốt hơn cả là giữ yên tĩnh."


Nếu tâm trí bạn vẫn còn bị phân mảnh, bạn sẽ
không thể đi được rất sâu. Đó là lí do tại sao tôi yêu cầu
bạn mang tất cả năng lượng của mình vào việc hỏi "Tôi
là ai?" để cho dần dần toàn thể tâm trí bạn được tham
dự vào trong nó và bạn hỏi với tâm trí toàn bộ "Tôi là
ai?" Và khi chỉ mỗi câu hỏi này còn lại, không cái gì
khác ngoài câu hỏi này, nó sẽ chìm vào trong bạn như
mũi tên và câu trả lời sẽ tới. Thế thì câu trả lời này sẽ
không tới chậm cho dù là một giây.
Câu trả lời là ở bên trong chúng ta.
Tri thức ở bên trong, nhưng chúng ta chưa bao giờ
cầu khẩn nó, chúng ta chưa bao giờ khêu gợi nó, đánh
thức nó. Nó bao giờ cũng được chuẩn bị để thức dậy.
Ba giai đoạn này được ngụ ý cho ý định này. Nhưng
những giai đoạn này giống như các bậc lên ngôi đền của
thiền; chúng ở bên ngoài nó. Chúng đưa các bạn tới
cổng và để các bạn lại đó. Việc vào qua cánh cổng này
xảy ra ở giai đoạn thứ tư. Nhưng người không trèo qua
ba bậc này không thể hi vọng đi vào được giai đoạn thứ
tư - cánh cổng. Cho nên nhớ lấy, điều bản chất là bạn
đầu tư tất cả năng lượng của mình vào buổi thiền ngày
mai, vì nó sẽ là ngày cuối cùng của trại này. Đem tất cả
năng lượng của bạn vào ba giai đoạn này. Nếu bạn làm
như vậy, giai đoạn thứ tư sẽ xảy ra theo cách riêng của
nó. Bạn sẽ không phải làm giai đoạn thứ tư, nó sẽ xảy
ra.
Ba giai đoạn bạn sẽ làm, giai đoạn thứ tư sẽ xảy ra.
Một phụ nữ hỏi: với việc đạt tới giai đoạn thứ tư thì
ba giai đoạn đầu sẽ bị bỏ đi chứ?
Thế thì không có câu hỏi. Nếu giai đoạn thứ tư được
đạt tới, thế thì không có câu hỏi. Thế thì người ta sẽ tự
thấy cho mình bất kì cái gì cần được làm. Nếu nhu cầu
được cảm thấy thì người đó sẽ tiếp tục làm nó; bằng
không nó sẽ dừng lại. Nhưng cho dù điều này thì sự
việc cũng không thể được nói trước. Nó không thể được
nói trước, bởi vì nếu chúng ta nêu ra câu hỏi này trước
khi giai đoạn thứ tư đã thực tế được đạt tới, điều đó
nghĩa là chúng ta không muốn làm ba giai đoạn này và
do vậy chúng ta đang cố gắng trốn chúng. Các bạn
dường như lo lắng để loại bỏ những điều này hơn, và đó
là lí do tại sao tôi không định nói rằng chúng sẽ bị bỏ đi.
Bởi vì nếu tôi nói điều đó, các bạn sẽ không đi với
chúng chút nào, các bạn sẽ vứt bỏ chúng ngay bây giờ.
Chúng sẽ bị bỏ đi, nhưng đó là vấn đề phải tới sau khi
giai đoạn thứ tư đã được đạt tới. Nó không nên được
nêu ra từ trước.
Tâm trí chúng ta lừa dối chúng ta theo nhiều cách.
Khi bạn hỏi câu hỏi này bạn không nhận biết tại sao bạn
hỏi nó. Bạn hỏi nó với động cơ để gạt bỏ ba giai đoạn
này. Nhưng nếu bạn gạt bỏ những giai đoạn này, biết rõ
rằng giai đoạn thứ tư sẽ không bao giờ xảy ra cả. Nhưng
tại sao có nỗi sợ ba giai đoạn này?
Nỗi sợ có đó. Và những giai đoạn này được ngụ ý
để chùi sạch nỗi sợ này.
Nỗi sợ là ở chỗ thân thể có thể làm bất kì điều gì, và
có những điều bạn không muốn nó làm. Nhưng nó có
thể làm được gì? Bạn có thể nhảy múa, bạn có thể kêu
khóc, bạn có thể la hét, bạn có thể lăn lộn ngã ra. Nhưng
khó khăn cho tất cả những điều này là gì? Bạn thở sâu ở
giai đoạn thứ nhất, và trong giai đoạn thứ hai bạn tiếp tục thở và buông bỏ thân thể. Đáng phải không có bất kì
cái gì khó khăn trong việc thở sâu và nhanh và việc
buông bỏ thân thể. Bạn không phải làm nỗ lực gì để
nhảy múa; nếu bạn nhảy múa, nó sẽ ngăn cản việc thở
sâu. Nhưng nếu nhảy múa xảy ra theo cách riêng của
nó, thì được. Bất kì cái gì xảy ra, cứ để cho xảy ra.
Khó khăn của chúng ta là ở chỗ hoặc chúng ta làm
một điều hoặc chúng ta chống lại nó; chúng ta không
cho phép cái gì xảy ra theo cách riêng của nó. Chúng ta
sẵn sàng làm bất kì cái gì; chúng ta sẽ hoặc nhảy múa
hoặc ngăn cản nó. Nhưng chúng ta sẽ không buông bỏ
cái gì, chúng ta sẽ không cho phép nó xảy ra một cách
tự phát. Toàn thể nền văn minh của con người đều mang
tính đàn áp. Chúng ta đã đàn áp nhiều điều bên trong
mình, và chúng ta sợ việc mở cái hộp Pandora. Chúng
ta thực sự sợ hãi; chúng ta dường như ngồi trên núi lửa.
Chúng ta bị đè lên bởi nhiều nỗi sợ; không chỉ là vấn đề
nhảy múa. Nỗi sợ bắt rễ sâu.
Chúng ta đã kìm nén bản thân mình vô cùng, và
chúng ta cũng biết cái gì có thể thoát ra từ tầng ngầm
của tâm trí chúng ta. Đứa con muốn giết bố nó, và nó sợ
rằng ý nghĩ này có thể trồi lên bề mặt. Người chồng đã
nghĩ tới việc bóp nghẹt cổ vợ, mặc dầu đồng thời anh ta
nói với cô ấy rằng anh ta không thể sống nổi nếu thiếu
cô ấy cho dù một khoảnh khắc. Ham muốn giết vợ này
bị kìm nén trong tâm trí anh ta, và anh ta sợ nó có thể
bùng phát vào bất kì lúc nào.
Gurdjieff là một nhà huyền môn và ông ấy là một
trong những người xuất sắc nhất của thời đại chúng ta.
Bất kì khi nào một người tới với ông ấy để hỏi về hướng
dẫn tâm linh, điều đầu tiên ông ấy làm là làm cho người
này say dài hàng ngày trong mười lăm ngày và nghiên
cứu người đó trong trạng thái ngất ngây say của người
đó. Và chừng nào ông ấy còn chưa nghiên cứu người
này trong trạng thái ngất ngây say thì ông ấy còn chưa
điểm đạo cho người này vào sadhana hay bộ môn tâm
linh. Ông ấy sẽ làm cho người này say sưa mọi ngày để
cho tất cả mọi chứng thần kinh bị kìm nén của người đó
bị lộ tẩy ra trước ông ấy và ông ấy biết người này thuộc
kiểu người nào và người này đã kìm nén cái gì trong vô
thức của mình. Chỉ thế thì ông ấy mới gợi ý sadhana
cần thiết - điều ông ấy gọi là Công việc - cho người này.
Nếu người này từ chối uống rượu với ông ấy trong
mười lăm ngày, Gurdjieff lập tức sẽ yêu cầu người này
về nhà. Có lẽ không Thầy nào trên thế giới đã dùng việc
uống rượu theo cách này. Nhưng ông ấy là người rất
thông minh và khôn ngoan, và hiểu biết của ông ấy về
con người là rất sâu và có giá trị. Bởi vì chúng ta đã kìm
nén quá nhiều rồi, không có chỗ chấm dứt cho việc kìm
nén của chúng ta. Và chúng là trong tính toán.
Chính bởi vì những kìm nén này mà chúng ta sợ
hãi; chúng ta sợ sự phơi bày của chúng. Chúng ta sợ
chúng ta sẽ nói ra điều gì đó mà chúng ta không muốn
nói, mà chúng ta không muốn người khác biết. Bây giờ
nếu ai đó phạm tội trộm cắp, rất có thể là khi người đó
hỏi "Tôi là ai?" người đó có thể buột mồm nói ra mình
là kẻ trộm, kẻ lừa đảo, kẻ chợ đen. Cho nên người đó sợ
việc hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" Và cho dù người đó có hỏi
điều đó thì người đó làm việc này theo tiếng nói yếu ớt,
bởi vì người đó biết rằng mình là kẻ trộm. Người đó sợ
và do vậy người đó kìm nén câu hỏi này. Người đó
không muốn người ngồi bên cạnh mình nghe thấy nó
nếu người đó thốt ra rằng mình là kẻ trộm. Và người đó
có thể buột mồm lắm chứ, chẳng có khó khăn gì mấy về
điều đó cả. Cho nên có những lí do tốt cho chúng ta hỏi liệu ba giai đoạn đầu này có thể được bỏ đi không và
liệu chúng ta có thể làm mà không có chúng không.
Nhưng không, các bạn sẽ phải trải qua những giai
đoạn này. Chúng có thể bị bỏ đi, nhưng chỉ sau khi các
bạn đã làm chúng một cách kĩ lưỡng. Và bất kì điều gì
đi ra từ bên trong các bạn cũng nên được phép tự do đi
ra; đừng cản trở nó. Bất kì lời nói tục tĩu nào ẩn ở đó;
nó sẽ trồi lên bề mặt và làm thanh tâm.
Những mặt nạ mà chúng ta đeo không phải là khuôn
mặt thật của chúng ta; đó là lí do tại sao chúng ta sợ bị
ảnh hưởng mạnh thế. Bây giờ một người đã tô điểm lên
khuôn mặt mình đầy những kem, son và phấn; người đó
sẽ rất sợ phải vứt bỏ son phấn của mình. Nếu người đó
làm như vậy, khuôn mặt thật của người đó, xấu xí và
gớm ghiếc, sẽ lộ tẩy bản thân nó. Và người đó sợ rằng
người khác sẽ thấy khuôn mặt thật của mình. Người đó
đã rất chú ý, đứng trước tấm gương lớn, để cho mình
làn da mặt căng đẹp. Cho nên người đó hoảng hốt rằng
nếu người đó từ bỏ nó, khuôn mặt mình có thể trở thành
kinh khủng tới mức không cách hoá trang nào giúp
được mình. Người đó sẽ nói mình có thể vứt bỏ mọi thứ
nhưng không bỏ được cái vẻ ngoài của mình, việc hoá
trang của mình. Người đó sẽ cố gắng cứu lấy nó bằng
mọi giá. Tất cả các khuôn mặt của chúng ta đều được
hoá trang và giả tạo; chúng không thật. Và đừng nghĩ
rằng những người không dùng mĩ phẩm trang điểm thì
không hoá trang cho khuôn mặt họ. Có đủ mọi loại hoá
trang, và cách hoá trang nào đó là tinh vi tới mức nó
chẳng cần đồ mĩ phẩm.
Chính bởi lí do này mà các bạn sợ, rằng nếu các bạn
buông bỏ bản thân mình trong thiền, mặt nạ của bạn có
thể rơi ra làm phô bầy khuôn mặt thật của bạn, và rằng
ai đó có thể nhìn thấy nó.
Nhưng những nỗi sợ này là nguy hiểm, và chúng sẽ
không cho phép bạn đi vào bên trong. Cho nên chúng
phải bị vứt bỏ.
Một câu hỏi cuối cùng.
Một bạn hỏi: Shaktipat hay việc truyền năng lượng
là gì? Và liệu có khả năng rằng một ai đó có thể
truyền năng lượng thiêng liêng không?
Không ai có thể làm shaktipat được, không ai có thể
truyền năng lượng được; nhưng ai đó có thể là phương
tiện cho việc truyền như vậy. Đúng là không ai có thể
làm được điều đó. Và nếu ai đó tuyên bố rằng người đó
có thể làm được việc đó, người đó đang đam mê lừa dối
tuyệt đối. Không ai có thể làm được điều đó, và dầu vậy
trong khoảnh khắc nào đó việc truyền năng lượng có thể
xảy ra qua ai đó. Nếu ai đó này hoàn toàn trống rỗng và
buông xuôi, shaktipat có thể xảy ra trong sự hiện diện
của người đó. Người đó có thể làm việc như chất dẫn,
như tác nhân xúc tác, không có chủ tâm. Qua người đó
năng lượng vô hạn của Thượng đế có thể đi vào người
khác.
Không ai có thể là tác nhân xúc tác một cách có chủ
tâm, bởi vì điều kiện đầu tiên để hành động như chất
dẫn là ở chỗ bạn phải không biết nó, ở chỗ bạn không
có bản ngã. Bản ngã làm cho người ta không đủ tư cách
là người trung gian cho shaktipat. Với bản ngã người ta
trở thành người không có khả năng truyền dẫn năng lượng; năng lượng thiêng liêng không thể tuôn chảy qua
người đó. Cho nên nếu có một người với bản ngã đã
hoàn toàn bị lau sạch, người tuyệt đối trống rỗng bên
trong và là hư không toàn bộ, người không làm gì cho
bạn cả, thực sự người không làm đến một việc - thì qua
trống rỗng của người đó, qua hư không của người đó,
cái hoạt động như lối đi, năng lượng của Thượng đế
chắc chắn có thể đạt tới bạn. Và tốc độ của nó có thể rất
nhanh. Nhớ điều này khi bạn tới đây cho việc thiền
ngày mai.
Với điều này tôi cũng cho các bạn vài thông tin về
ngày mai.
Shaktipat nghĩa là năng lượng của Thượng đế đã
giáng lên bạn. Nó có thể có theo hai cách. Hoặc là nó
nảy sinh từ bạn và nối với năng lượng của Thượng đế
hoặc nó tuôn chảy từ Thượng đế và nối với bạn. Đó là
cùng một điều được xem xét từ hai phía; hay đây là hai
cách nhìn vào cùng một điều. Chẳng hạn, có một cốc
vại nước đầy một nửa. Ai đó có thể nói rằng nó được rót
đầy một nửa và người khác có thể nói rằng nó rỗng một
nửa. Và nếu họ là các triết gia, họ có thể tranh luận về
điều đó vô tận và chẳng đi tới kết luận nào, bởi vì cả hai
phát biểu đều đúng. Năng lượng giáng xuống từ trên và
nó có thể thăng lên từ phía dưới nữa. Và khi hai năng
lượng này gặp nhau, khi năng lượng tiềm tàng của bạn
gặp với năng lượng của cái vô hạn - bùng nổ xảy ra.
Bùng nổ này là không thể tiên đoán được; mà cũng
không thể nói được bùng nổ này làm cái gì. Và điều gì
xảy ra sau bùng nổ này, điều này nữa cũng không thể
được nói ra. Trong suốt lịch sử, những người đã được
ân huệ với bùng nổ năng lượng này đều đã kêu lên từ
mái nhà: "Lại đây, tất cả lại đây, và đi qua bùng nổ này
và tự mình thấy nó là gì. Cái gì đó đã xảy ra ở đây, cái
đơn giản không thể diễn đạt nổi, hoàn toàn không mô tả
được."
Shaktipat nghĩa là việc giáng xuống của năng lượng
từ cõi bên kia. Nó có thể giáng xuống. Thực tế nó giáng
xuống mọi ngày. Và năng lượng này chọn phương tiện
của nó là một người trống rỗng theo mọi cách, người
hoàn toàn vô ngã. Người đó một mình biến thành tác
nhân xúc tác của nó, chỉ là phương tiện chứ không là gì
khác. Nhưng ngay cả khi một chút ít dấu vết của bản
ngã có đó, ngay cả khi người đó nghĩ rằng người đó có
thể làm điều đó, người đó dừng là người truyền dẫn.
Thế thì năng lượng này không thể tuôn chảy từ người
đó.
Bây giờ nhớ trong đầu hai thông tin cho buổi thiền
ngày mai, cả hai buổi thiền sáng và giữa ngày. Ngày
mai là ngày cuối cùng của trại, và nó sẽ đầy các khả
năng. Cho nên các bạn phải được tràn đầy hi vọng và tin
cậy mênh mông khi các bạn làm việc thiền ngày mai.
Thứ nhất, tất cả những người có loại kinh nghiệm
nào đó ở đây sẽ làm việc thiền đứng. Nếu bất kì điều gì
đã xảy ra cho các bạn, cho dù chút ít đã xảy ra cho thân
thể các bạn, các bạn sẽ làm tốt việc đứng sáng mai và
thiền. Bởi vì các chuyển động ở tư thế đứng có thể
nhanh nhất và mạnh nhất nữa. Trong tư thế đứng luồng
năng lượng ở tại chỗ cao nhất của nó.
Cho tới nay tôi đã không yêu cầu các bạn đứng bởi
vì các bạn thiếu dũng cảm ngay cả cho việc làm nó khi
ngồi. Bây giờ nếu các bạn làm nó khi đứng, tác động
của năng lượng lên các bạn sẽ nhiều lắm. Như tôi đã nói
rằng các bạn có thể bùng vào điệu vũ, điệu vũ điên khùng, điều đó thực sự có thể xảy ra khi bạn làm nó mà
đứng. Vì mai sẽ là ngày cuối cùng, và mười cho tới hai
mươi bạn đã đạt tới chiều sâu tốt trong thiền, nên đặc
biệt họ sẽ chắc chắn đứng dậy. Tôi không định nêu tên
họ; họ nên làm điều đó theo cách riêng của mình. Và nó
phải là như vậy ngay từ đầu buổi thiền. Tất nhiên, người
ta có thể đứng bất kì lúc nào nếu người ta cảm thấy
thích làm như vậy. Và nhớ rằng bạn phải cho phép mọi
thứ xảy ra không bị cản trở.
Và vài lời cho phiên giữa ngày của việc thiền im
lặng.
Khi chúng ta ngồi đây cho việc thiền im lặng ngày
mai thì phải có đủ chỗ trống gần tôi. Và khi các bạn tới
tôi từng người một và ngồi bên tôi, và khi tôi đặt tay lên
đầu bạn, thế thì cho phép mọi thứ xảy ra cho bạn vào
khoảnh khắc đó. Nếu bạn la hét và tay bạn và chân bạn
rung lên hay bạn ngã ra hay vươn dậy, bất kì nó là gì, cứ
để cho nó tự do, đừng kháng cự lại chút nào. Nó sẽ
giống như điều chúng ta làm trong việc thiền sáng:
Buông bỏ. Cho nên để đủ không gian gần tôi.
Và những người có thể tập trung lòng dũng cảm sẽ
làm việc thiền sáng tất cả đều ở tư thế đứng. Trước khi
tôi tới, các bạn nên lấy sẵn tư thế cho mình và đứng yên
tĩnh. Và đứng thẳng không dựa vào cái gì, chẳng hạn
như cây gần bạn. Không nâng đỡ, dù là bất kì cái gì;
đứng theo cách riêng của bạn.
Các bạn muốn biết về shaktipat. Tư thế đứng này sẽ
tạo ra tình huống tốt cho việc truyền năng lượng. Bầu
không khí rất truyền dẫn đã đi vào hiện hữu ở đây và nó
có thể được sử dụng hoàn toàn. Và vì sắp là ngày cuối
cùng của trại này, nên các bạn phải đem toàn thể ý chí
và năng lượng vào vở kịch ngày mai.
Một bạn khác hỏi: Vừa rồi thầy đã nói về ba giai
đoạn. Thầy có thể giải thích chúng có tác động nào
lên trạng thái của thân thể, tim, não và tâm trí?
Tác động sẽ có nhiều.
(Một giọng nói) chúng có gây ra đau tim không?
Sẽ là tốt nếu đau tim. Chẳng cái gì giống như nó.
Đó là điều được mong muốn. Cứ để tim bị đau. Dù bạn
có cố gắng đến đâu để cứu nó, thì nó cũng sẽ hỏng một
ngày nào đó. Cho nên vì sao cứu nó? Buông bỏ nó đi. Ít
nhất bạn sẽ thoả mãn rằng nó đã hỏng trong khi nó đang
trên đường tới Thượng đế. Thế là đủ.
Người bạn này muốn biết ba giai đoạn này sẽ có tác
động nào lên chúng ta. Chúng sẽ có nhiều tác động.
Việc thực hành thiền, cách thiền mà tôi dạy, sẽ có nhiều
kết quả sinh lí học. Nhiều bệnh thể chất có thể biến mất,
sống lâu có thể tăng lên và nhiều thay đổi hoá học có
thể xảy ra trong thân thể. Nhiều tuyến của thân thể vào
khoảnh khắc đó hầu như chết rồi, có thể được kích hoạt.
Chúng ta không có ý tưởng các nhà tâm lí học bây
giờ nói gì, ngay cả các nhà sinh lí học nói, về giận dữ.
Khi người ta giận dữ, họ nói, một loại chất độc đặc biệt
được tiết ra từ thân thể. Nhưng mãi cho tới nay họ vẫn
không thể biết được cái gì xảy ra trong trường hợp yêu.
Như trong giận dữ, một loại chất độc đặc biệt được tiết
ra, trong yêu một loại cam lồ đặc biệt được tiết ra trong
thân thể. Nhưng bởi vì yêu là hiện tượng hiếm hoi trong
thế giới chúng ta, vậy mà người đang yêu phải đi tới phòng thí nghiệm của nhà khoa học. Đó là lí do tại sao
nhà khoa học đã không thể phát hiện được ra nó. Nếu
thiền có tác động đầy đủ của nó, thì thân thể bắt đầu tiết
ra chất cam lồ hay mật ong biểu tượng cho bất tử.
Thiền thực sự có tác động hoá học sâu lên thân thể.
Những người đi sâu vào thiền bắt đầu thấy mầu sắc phi
thường, ngửi thấy mùi thơm khác thường và nghe thấy
những âm thanh chưa từng nghe thấy. Những đợt sóng
ánh sáng và âm thanh phi thường bắt đầu tuôn chảy qua
họ. Đây tất cả đều là những tác động hoá học của thiền.
Các bạn sẽ thấy những màu sắc dị thường mà các bạn
chưa bao giờ thấy. Thực tế, toàn thể hoá học của thân
thể trải qua thay đổi lớn lao. Thân thể bắt đầu cảm nhận,
suy nghĩ và hiểu mọi thứ theo một cách khác. Tất cả
mạch điện của thân thể đều thay đổi.
Cũng như rất nhiều điều xảy ra ở mức độ thân thể,
rất nhiều điều xảy ra ở mức độ của tâm trí nữa. Nhưng
đây là vấn đề chi tiết, và tôi sẽ nói riêng cho người hỏi
về nó.
Các khả năng là rất lớn.
Câu hỏi khác: cái gì là tác động của thở sâu lên
não, tim v.v..?
Ngay khi các bạn bắt đầu thở sâu, tỉ lệ ô xi và các
bô nic trong thân thể sẽ thay đổi. Có một khối lượng các
bô nic và ô xi trong thân thể chúng ta; thở sâu sẽ làm
thay đổi tỉ lệ của nó. Và ngay khi tỉ lệ này thay đổi,
những thay đổi hệ quả xảy ra trong toàn bộ thân thể kể
cả não, máu và hệ thần kinh. Tỉ lệ của ô xi và các bô nic
nói riêng tạo nên toàn thể cơ sở của sự tồn tại của chúng
ta. Và thay đổi trong tỉ lệ của chúng làm thay đổi mọi
thứ. Nhưng đó là vấn đề kĩ thuật và người hỏi có thể
gặp riêng tôi về sau để thảo luận về nó, bởi vì mọi
người có thể không quan tâm tới điều đó.
Một bạn khác hỏi: Có phải vấn đề thiền là một với
tự thôi miên không?
Việc thiền này thống nhất với tự thôi miên tới mức
độ lớn, nhưng tại điểm cuối cùng thì nó chia thành bạn
bè. Nó được móc nối phần lớn với thôi miên; ba giai
đoạn đầu của nó, ngoại trừ phần chứng kiến của nó,
thuộc vào thôi miên. Việc chứng kiến, cần tới trong
toàn bộ thực hành của nó, nhận biết về phần của thiền
nhân rằng hơi thở đi vào và ra, rằng thân thể đang rung
lên và quay, rằng người đó là người quan sát trên núi -
việc chứng kiến này chẳng có liên quan gì tới thôi miên
cả. Đây là khác biệt. Và khác biệt này là cơ bản, cơ sở.
Nhưng phần còn lại của nó là quá trình thôi miên.
Quá trình thôi miên là rất có ý nghĩa; được móc nối
với chứng kiến, nó trở thành thiền. Nhưng thôi miên bị
tách khỏi chứng kiến trở thành vô ý thức. Bạn sẽ trở
thành vô ý thức, nếu bạn dùng một mình thôi miên. Và
bạn sẽ được thức tỉnh nếu bạn dùng chứng kiến cùng
thôi miên. Cho nên khác biệt giữa hai điều này là bao la.
Nhưng cách thức của chúng là tương tự tới mức độ lớn;
chỉ ở cuối cùng chúng mới tách ra lẫn nhau.
Vài câu hỏi vẫn còn cần được trả lời. Tôi sẽ nêu
chúng vào buổi tối mai.
Một bạn hỏi: người ta có đạt tới thiền qua ân huệ
của thượng đế không?

Sẽ có ích để hiểu điều này, bởi vì nó đã đưa tới
nhiều hiểu lầm và sai lầm. Số khá đông mọi người vẫn
nghĩ rằng nếu thiền được đạt tới qua ân huệ của Thượng
đế thế thì không có nhu cầu làm gì cả, và họ đã không
làm việc. Bạn sai lầm nghiêm trọng nếu bạn ngụ ý bằng
ân huệ của Thượng đế bạn không phải làm gì cả.
Một hiểu lầm khác bắt nguồn từ nó là ở chỗ ân huệ
của Thượng đế không sẵn có như nhau cho mọi người,
ở chỗ người này nhận nhiều hơn và người khác nhận ít
hơn. Nhưng trong thực tế, không ai là người được
Thượng đế chọn cả; không ai là người được mến
chuộng của ngài. Và cho dù Thượng đế có người mến
chuộng thì cũng không có hi vọng nào về bình đẳng
trong thế giới này. Nếu bạn ngụ ý ân huệ của Thượng
đế là Thượng đế tốt với ai đó và không tốt với người
khác thế thì bạn sai lầm nghiêm trọng.
Nhưng phát biểu rằng người ta đạt tới thiền qua ân
huệ của Thượng đế hoàn toàn đúng theo nghĩa khác.
Thực sự đó không phải là phát biểu của người còn chưa
đạt tới thiền. Đó là phát biểu của người đã chứng ngộ -
những người đã đạt tới nó. Nó là vậy bởi vì khi nó xảy
ra, khi người ta tới với nó, nỗ lực người đó đã làm
dường như hoàn toàn chẳng liên quan gì cả. Trong hoàn
cảnh của việc đạt tới, bao la thế, nỗ lực này có vẻ nhỏ
bé đến mức người ta đơn giản không thể nói được rằng
mình đã tới nó qua nỗ lực. Khi người ta đi tới nó người
ta cảm thấy bị tràn ngập với sự mênh mông của nó tới
mức người ta nói, "Làm sao nó có thể đã xảy ra qua nỗ
lực của mình được? Mình đã làm gì để tìm ra nó? Mình
đã trả giá nào? Mình đã đặt cược cái gì vào nó? Mình có
cái mà mình có thể đã cúng dường không? Chẳng có gì
cả." Khi phúc lạc vô hạn vô vàn của Thượng đế mưa rào
lên bất kì ai, người đó chỉ kêu lên, "Chính là qua từ bi
của ngài, hỡi Thượng đế, chính qua ân huệ của ngài, mà
tôi đi tới ngài! Bằng không thì nó ở bên ngoài tôi, bên
ngoài tôi không thể tới được."
Nhưng nhớ rằng đây là phát biểu của người được
phúc lành, người chứng ngộ. Nếu người chưa chứng
ngộ, người mới điểm đạo mà níu bám lấy nó, họ sẽ bị
lạc đường mãi mãi. Nỗ lực là điều bản chất; người ta
phải làm nỗ lực.

Việc xảy ra của thiền hay chứng ngộ hay bất kì cái
gì bạn gọi nó đều giống như việc mở cánh cửa ngôi nhà
trong bóng tối để cho mặt trời chiếu vào. Mặc dầu mặt
trời đã mọc ở phương đông, nếu chúng ta để cửa nhà
đóng kín, chúng ta bao giờ cũng trong bóng tối. Còn
nếu chúng ta mở cửa và chờ đợi, mặt trời sẽ vào theo
cách riêng của nó. Không nỗ lực nào cần có để đem mặt
trời vào; chúng ta không thể đặt ngài hay ánh sáng của
ngài vào bình chứa và đem vào nhà mình được. Mặt trời
tới theo cách riêng của nó. Điều trớ trêu là ở chỗ trong
khi nỗ lực của chúng ta không thể đem ngài vào, thì
chúng chắc chắn có thể giữ ngài ở ngoài, ngăn cản
không cho ngài vào. Nếu chúng ta đóng cửa hay nhắm
mắt, ngay cả mặt trời cũng thành bất lực chẳng làm
được gì. Chúng ta có thể giữ mặt trời ở ngoài nhà mình,
chúng ta có khả năng dừng mặt trời lại; nhưng chúng ta
không có khả năng dẫn ngài đi vào. Chỉ để cửa mở và
ngài sẽ vào. Và khi mặt trời vào rồi, chúng ta không thể
nói rằng chúng ta đã đem ngài vào được, chúng ta
không thể nhận công lao đó được. Chúng ta chỉ có thể
nói rằng chính bởi lòng tốt của ngài mà ngài đã vào nhà
chúng ta. Và chúng ta chỉ có thể nói rằng chúng ta đã
nhân từ với chính mình tới mức không đóng cửa của
mình lại.
Con người chỉ có thể là lối mở, là cánh cửa cho
Thượng đế vào. Nỗ lực của chúng ta chỉ mở ra cánh
cửa; việc tới của ngài phụ thuộc vào ngài, vào từ bi của
ngài. Và từ bi của ngài là vô hạn, nó hiện diện mãi mãi
tại mọi ngưỡng cửa. Nhưng ngài có thể làm được gì nếu
ngài thấy nhiều cánh cửa đóng lại với ngài? Thượng đế
gõ mọi cửa và quay đi khi ngài thấy cửa đóng. Và
chúng ta đã đóng cửa của mình chắc thế. Cho nên bất kì
khi nào ngài tới và gõ cửa, chúng ta giải thích duy lí
điều đó, chúng ta giải thích điều đó theo bao nhiêu cách,
và chúng ta vẫn còn bằng lòng với điều đó.
Tôi muốn kể cho các bạn một câu chuyện tôi thích
kể.
Có một ngôi đền lớn với hàng trăm tu sĩ chăm nom
nó. Một đêm ông chủ đền đi ngủ và mơ rằng Thượng đế
đã báo mộng rằng ngài sẽ tới thăm ngôi đền vào ngày
hôm sau. Ông ấy không tin vào điều đó, bởi vì khó mà
bắt gặp một người nhiều hoài nghi hơn tu sĩ này. Ông
ấy không tin vào giấc mơ của mình bởi lí do khác nữa.
Những lái buôn trong tôn giáo không bao giờ tin vào
tôn giáo. Họ chỉ khai thác tôn giáo, cái không bao giờ
trở thành niềm tin của họ, chân lí của họ. Không ai trên
thế giới không có niềm tin tôn giáo hơn người đã biến
niềm tin thành phương tiện khai thác. Cho nên ông chủ
đền này không thể tin được vào Thượng đế thực sự tới
thăm đền này.
Tu sĩ này chưa bao giờ tin vào những điều như vậy,
mặc dầu ông ấy đã là tu sĩ trong nhiều năm. Ông ấy đã
tôn thờ Thượng đế từ lâu và ông ấy biết rằng Thượng đế
chưa bao giờ viếng thăm ngôi đền của ông ấy cho dù
một lần. Mỗi ngày ông ấy đều cúng dường thức ăn cho
Thượng đế, và ông ấy biết rằng ông ấy thực tế đã cúng
dường nó cho bản thân mình. Ông ấy cũng đã cầu
nguyện Thượng đế hàng ngày, nhưng ông ấy biết rõ
rằng lời cầu nguyện của mình mất tăm mất tích trên
thinh không, bởi vì chẳng có ai ở đó để nghe chúng.
Cho nên ông ấy nghĩ rằng thông điệp này là không
đúng, nó chỉ là mơ, và mơ hiếm khi biến thành thực tại.

Nhưng thế rồi ông ấy sợ nữa, e rằng giấc mơ nhỡ
đúng thì sao. Vào nhiều lúc điều chúng ta gọi là mơ
biến thành thực tại và thực tại như chúng ta biết nó
chứng tỏ là mơ. Đôi khi điều chúng ta nghĩ là mơ, thực
tế trở thành thực tại. Cho nên ông chủ đền này cuối
cùng quyết định báo cho các đồng môn gần gũi của
mình về giấc mơ đêm qua của mình. Ông ấy nói với các
tu sĩ khác, "Mặc dầu điều đó dường như là trò đùa, vậy
mà tôi vẫn phải kể cho các ông về điều đó. Đêm qua tôi
đã mơ rằng Thượng đế nói rằng ngài sẽ tới thăm chúng
ta hôm nay." Các tu sĩ khác đều cười và họ nói, "Ông có
điên không mà đi tin vào giấc mơ? Tuy nhiên, chớ có kể
cho người khác về điều đó; bằng không họ sẽ coi ông là
điên đấy." Nhưng ông chủ đền nói, "Trong trường hợp
ngài tới, chúng ta nên được chuẩn bị về điều đó. Cũng
chẳng hại gì nếu ngài không xuất hiện, nhưng nếu ngộ
nhỡ ngài tới, chúng ta sẽ không bị coi là ngu."
Cho nên cả ngôi đền và các vườn tược đều được lau
chùi, dọn dẹp, tẩy rửa và làm sạch chu đáo. Nó được
trang hoàng bằng hoa và cờ và tràng hoa. Đèn được
thắp lên và hương được đốt. Mùi hương bốc lên và mọi
loại chuẩn bị được thực hiện. Các tu sĩ mệt nhoài trong
suốt cả ngày, mà Thượng đế chẳng hiện lên. Mọi người
thỉnh thoảng ngó ra đường, họ thất vọng, và họ nói,
"Mơ sau rốt cũng chỉ là mơ thôi; Thượng đế không định
tới đâu. Chúng ta đều là kẻ ngu mà tin vào điều như
vậy. Cũng tốt là chúng ta đã không thông báo cho mọi
người trong thị trấn; bằng không thì họ đơn giản đã cười
chúng ta."
Đến tối các tu sĩ từ bỏ hi vọng, và họ nói, "Bây giờ
chúng ta ăn thức ăn xa hoa được nấu cho Thượng đế đi.
Chưa bao giờ có được như vậy: cái chúng ta cúng
dường cho Thượng đế chung cuộc được chúng ta ăn.
Chẳng ai định hiện lên cả. Chúng ta đủ điên mà đi tin
vào giấc mơ. Điều trớ trêu là ở chỗ chúng ta chủ định
làm thức ăn này cho chúng ta. Nếu người khác phát
điên, họ có thể được miễn lỗi, bởi vì họ không biết.
Nhưng chúng ta biết Thượng đế chẳng bao giờ tới cả.
Thượng đế ở đâu? Có thần tượng này trong đền; tất cả
mọi thứ có đó để cho nó. Và đó là công việc của chúng
ta, nghề nghiệp của chúng ta để tôn thờ ngài." Và thế rồi
họ ăn ngon lành và đi ngủ sớm vì họ đều mệt nhoài.
Khi nửa đêm tới một chiếc xe được kéo tới cổng
ngôi đền, và người ta nghe thấy tiếng động của nó. Một
trong các tu sĩ đang ngủ nghe thấy điều đó và nghĩ rằng
đó là xe của Thượng đế. Ông ta kêu lên cho những
người khác, "Nghe này các bạn và thức dậy đi. Dường
như là ngài đấy, người chúng ta đã trông đợi cả ngày,
sau cùng đã tới. Tôi nghe thấy tiếng động của xe." Các
tu sĩ khác làm cụt hứng người này khi nói, "Câm đi, ông
điên rồi. Chúng ta đã có đủ điên khùng cả ngày ngày
rồi, bây giờ đang đêm để chúng tôi ngủ cho ngon. Đấy
không phải là tiếng động của xe kéo đâu, mà chỉ là tiếng
sấm của mây trên trời thôi." Cho nên họ luận giải xong
sự việc này và trở lại giường mình.
Thế rồi chiếc xe dừng lại cạnh cổng, và ai đó bước
lên các bậc của ngôi đền và gõ vào cửa. Và lần nữa một
trong các tu sĩ thức dậy từ giấc ngủ và kêu lên với bạn
đồng liêu của mình, "Dường như vị khách đã tới người
mà chúng ta đã chờ đợi cả ngày dài. Ngài đang gõ cửa
đấy." Các tu sĩ khác mắng mỏ ông này như họ đã làm
với người thứ nhất. Họ nói, "Ông có điên không đấy?
Ông không cho chúng tôi ngủ sao? Đấy chỉ là việc
chạm của gió vào cửa chứ không phải việc gõ của người
gọi đâu." Thế rồi họ luận giải rồi trở lại giường của
mình.

Sáng hôm sau họ thức dậy và bước ra cổng đền. Và
họ sững sờ khi thấy vài dấu chân trên bậc của đền. Chắc
chắn là ai đó đã trèo lên chúng trong đêm. Và thế rồi họ
để ý một số dấu hiệu của bánh xe trên đường, và bây
giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa là chiếc xe đã tới
cổng đền trong đêm. Và điều kì lạ là dấu chân trên bậc
tuyệt đối không bình thường và không được biết tới.
Bây giờ các tu sĩ bật khóc và khuỵu xuống và bắt đầu
lăn lộn trên đất nơi chiếc xe đã dừng lại. Và ngay lúc đó
cả làng đã kéo đến cổng đền. Mọi người trong đám
đông đều hỏi với sự hoang mang, "Có chuyện gì thế
nhỉ?" Các tu sĩ nói, "Đừng hỏi có chuyện gì. Thượng đế
đã gõ cửa ngôi đền chúng tôi đêm qua, nhưng chúng tôi
đã luận giải mọi việc. Chúng tôi bây giờ đáng bị nguyền
rủa. Ngài đã gõ cửa và chúng tôi cứ nghĩ rằng đấy là âm
thanh của gió gõ vào cửa. Xe của ngài đã tới, và chúng
tôi cứ nghĩ rằng đó là tiếng sấm trên trời. Sự thực là ở
chỗ chúng tôi đã không hiểu cái gì cả. Chúng tôi chỉ
giải thích những điều đó cho qua, bởi vì chúng tôi muốn
hưởng giấc ngủ của mình."
Thượng đế gõ mọi cánh cửa. Ân huệ của ngài tới
thăm mọi nhà. Nhưng cánh cửa của chúng ta đóng im
ỉm. Và thậm chí khi chúng ta nghe thấy tiếng gõ chúng
ta lập tức luận giải nó và giải thích nó cho xong.
Ngày xưa họ có câu nói rằng "Khách là Thượng
đế". Có hơi chút sai lầm trong câu cách ngôn này. Chân
lí là ở chỗ Thượng đế là khách. Thượng đế đang đợi
như vị khách tại bậc cửa nhà chúng ta, nhưng cánh cửa
bị đóng. Ân huệ của ngài là sẵn có như nhau cho tất cả
mọi người. Do đó đừng hỏi liệu người ta có đạt tới qua
ân huệ của ngài không; người ta đạt tới qua ân huệ của
một mình ngài. Và khi có liên quan tới nỗ lực của chúng
ta, thì nỗ lực là sự giúp đỡ trong việc mở cánh cửa,
trong việc loại bỏ rào cản hỏi con đường.
Khi ngài tới, ngài tới theo ý riêng của ngài.
Một bạn khác đã hỏi: Thầy đã nói về bốn giai đoạn
của thiền. Xin thầy giải thích chúng một cách đầy
đủ?
Trước hết, bạn nên biết rằng ba giai đoạn đầu trong
chúng đơn thuần là các bước tới thiền, không phải là
bản thân thiền. Giai đoạn thứ tư là cánh cửa, trong khi
ba giai đoạn kia là các bậc cửa. Các bậc không làm
thành cửa, chúng chỉ dẫn tới cửa. Giai đoạn thứ tư là
cánh cửa tới thiền, là việc thảnh thơi và nghỉ ngơi, trống
rỗng và hư không, buông xuôi và dừng lại, tan biến và
chết, hay bất kì điều gì bạn gọi nó. Đó là cánh cửa, và
ba bước đầu tiên đưa chúng ta tới nó.
Và nguyên tắc nền tảng nằm sau ba giai đoạn đầu
tiên là một. Nếu người ta định thảnh thơi, người đó sẽ
phải trải qua trạng thái căng thẳng tuyệt đối; thế thì việc
chuyển qua thảnh thơi trở thành khá dễ dàng. Nếu một
người làm việc cả ngày, người đó có thể ngủ ngon trong
đêm. Người càng làm việc vất vả thì người đó ngủ càng
say. Người ta có thể tranh luận rằng vì ngủ là đối lập
với làm, làm sao người làm việc vất vả có thể ngủ
được? Người đó phải không có khả năng ngủ, bởi vì lao
động và nghỉ ngơi đối lập lẫn nhau thế. Một cách logic
việc ngủ nên có sẵn cho người nghỉ cả ngày trên giường. Nhưng chân lí là ở chỗ người đó sẽ không thể
ngủ được vào ban đêm nếu người đó nghỉ cả ngày rồi.
Đó là lí do tại sao, khi cuộc sống con người càng
thoải mái hơn, việc ngủ của người đó đã biến mất khỏi
thế giới theo cùng mức độ. Chúng ta càng có thoải mái
và an nhàn, chúng ta sẽ có giấc ngủ càng ít hơn. Và điều
trớ trêu là ở chỗ chúng ta cứ thêm mãi những tiện nghi
với hi vọng rằng chúng sẽ giúp chúng ta ngủ không bị
quấy rối. Nhưng điều ngược lại xảy ra. Với sự phát triển
của văn minh và an nhàn, giấc ngủ sẽ biến mất, bởi vì
công việc vất vả là điều tiên quyết cho giấc ngủ. Khi
người ta làm việc thì người ta ngủ. Tương tự khi căng
thẳng của con người tăng lên và đạt tới cực đỉnh của nó
thì người này dễ trượt vào thảnh thơi sâu.
Ba bước đầu tiên hoàn toàn mâu thuẫn với bước thứ
tư, chính là thiền. Người ta có thể hỏi, làm sao người
nào có thể thảnh thơi được sau khi cố gắng vất vả thế,
sau khi trải qua những đỉnh căng thẳng và hỗn loạn
chạm tới điên khùng thế? Tôi nói, chỉ thế thì người đó
mới có thể thảnh thơi được. Sự thực là ở chỗ việc thảnh
thơi đó đi sau căng thẳng như đêm theo sau ngày, như
thung lũng tiếp nối đỉnh cao. Đỉnh càng cao, thung lũng
càng sâu. Bạn ngã từ núi càng cao, bạn rơi vào hẻm núi
càng sâu. Đừng quên rằng mọi núi đều có thung lũng
của nó. Trong thực tế không thể có núi mà không có
thung lũng được. Khi núi vươn lên cao nó tạo ra thung
lũng sâu bao khắp quanh nó. Đó là cách mà khi căng
thẳng của bạn tăng lên, ngay bên cạnh đó bạn đang thu
thập năng lượng để thảnh thơi và nghỉ ngơi. Đỉnh căng
thẳng càng cao, thung lũng nghỉ ngơi càng sâu. Đó là lí
do tôi yêu cầu các bạn đem tất cả năng lượng của mình
vào trong nó, dùng hết sức của bạn, đặt cược tất cả mọi
thứ của bạn và không giữ lại cho mình dù chỉ là chút ít.
Đó là cách bạn sẽ đạt tới chiều cao của căng thẳng và
thế rồi đi xuống hố, đáy của thảnh thơi và nghỉ ngơi. Và
chính trong khoảnh khắc đó của nghỉ ngơi tuyệt đối
thiền xảy ra.
Điều cơ bản là ở chỗ bạn phải đạt tới đỉnh căng
thẳng và thế rồi vứt bỏ căng thẳng đi. Nhiều người tới
tôi để hỏi chẳng lẽ không thể thảnh thơi được mà không
đi vào căng thẳng sao. Không, điều đó đơn giản là
không thể được. Và cho dù nó có thể đi chăng nữa thì
nó cũng chỉ là thảnh thơi trên danh nghĩa mà thôi. Nếu
bạn muốn chìm sâu vào trong nước thì sẽ cần phải nhảy
từ bàn nhảy cao. Bàn nhảy càng cao việc chìm càng sâu.
Nhìn vào những cây thông này, chúng phải cao đến cỡ
mười hai mét. Để đạt tới chiều cao đó rễ của chúng phải
ăn sâu vào lòng đất mười hai mét. Cây càng vươn lên
cao hơn, thì rễ càng ăn sâu vào đất hơn. Rễ càng ăn sâu
vào đất, cây càng vươn cao hơn. Bây giờ cây thông này
có thể hỏi, "Có hại gì nếu rễ của mình chỉ ăn sâu một
mét rưỡi thôi?" Điều đó sẽ chẳng hại gì nếu bản thân
cây này chỉ cao mét rưỡi. Và nếu rễ không phát triển
chút nào thì cũng không có cơ hội nào cho cây hiện hữu
cả.
Nietzsche đã viết một câu cách ngôn sáng suốt lắm.
Ông ấy nói rằng nếu người ta muốn đạt tới chiều cao
của thiên đường, người ta phải chạm tới chính chiều sâu
của địa ngục. Đấy thực sự là một phát biểu sáng suốt
lớn lao. Nếu con người muốn đạt tới chiều cao của thiên
đường, con người sẽ phải đi tới chiều sâu của địa ngục.
Đó là lí do tại sao người tầm thường không bao giờ có
thể đạt tới chiều cao của tôn giáo, trong khi tội phạm
thường đạt tới. Bởi vì người đi sâu vào trong tội lỗi có
thể vươn lên chiều cao của ngay thẳng đạo đức.

Kĩ thuật thiền là một cách biến đổi qua các cực
điểm. Mọi biến đổi xảy ra khi cực điểm được đạt tới.
Nếu một hiện tượng đạt tới cực điểm của nó, thay đổi
xảy ra. Bạn đã bao giờ quan sát quả lắc của đồng hồ
treo tường chuyển động chưa? Nếu nó đi sang trái, nó
cứ đi sang bên trái cho tới khi nó đạt tới điểm cực trái
và thế rồi nó đi ngược lại sang phải. Bạn có thể không
để ý rằng khi quả lắc của đồng hồ đi sang trái đồng thời
nó cũng tích đà để đi sang phải. Và nó sẽ đi sang phải
với cùng mức độ như nó đi sang trái. Trường hợp con
lắc của tâm trí bạn cũng như vậy. Nếu nó được đưa tới
cực điểm của căng thẳng, nó sẽ đung đưa lại từ đó và đi
vào trong cốt lõi sâu nhất của thảnh thơi. Bạn không thể
thảnh thơi nếu bạn không được đưa tới điểm căng thẳng
cực đại.
Một số người tới tôi với những câu hỏi rất lạ.
Dường như là họ đi ra để lấy hoa mà không đi vào rắc
rối của việc trồng cây. Dường như là họ muốn được thu
hoạch mà không gieo hạt và không chăm nom mùa
màng.
Một người bạn muốn biết liệu có khó khăn nào
không nếu người đó không rung thân thể và không cho
phép nó run lên. Sẽ không có khó khăn nào cả. Khó
khăn gì có đó nếu bạn không muốn làm cái gì cả? Nếu
người đó sợ chuyển động thân thể, người đó sẽ làm gì
khi năng lượng bên trong bắt đầu chuyển động? Nếu
người đó muốn kìm hãm thân thể không cho rung lên,
người đó sẽ làm gì khi kundalini bắt đầu đi lên? Không,
người đó muốn cái bên trong xảy ra và vậy mà người đó
vẫn phải được nhìn từ bên ngoài vẫn là người văn minh
và văn hoá mà người đó tự nghĩ về mình là vậy. Người
đó muốn rằng mình sẽ đứng như bức tượng sáp ong, và
vậy mà cái gì đó phải xảy ra bên trong người đó. Người
đó không biết rằng tượng sáp ong của mình sẽ tan chảy
ra và biến mất trong không khí loãng một khi năng
lượng bên trong dâng lên. Nó sẽ tan biến, tạo ra chỗ cho
cái gì đó không biết.
Làm việc cật lực để cho căng thẳng của bạn đạt tới
đỉnh của nó và chỉ thế thì bạn mới có thể đạt tới đỉnh
thảnh thơi. Thế thì phần còn lại sẽ xảy ra theo cách
riêng của nó. Bạn chỉ phải tạo ra căng thẳng; an bình sẽ
tới qua ân huệ của Thượng đế. Bạn chỉ có thể nâng cơn
bão của căng thẳng lên cực đỉnh của nó; thế rồi cơn bão
sẽ lắng xuống theo cách riêng của nó và an bình sẽ ngự
trị. Không có an bình nào giống như an bình tới sau cơn
bão. An bình đi theo cơn bão là an bình sống, bởi vì nó
được sinh ra từ cơn bão. Và để đi tới an bình sống này
điều bản chất, và tôi nhấn mạnh, là tất cả các giai đoạn
thiền nên được trải qua hết, không giai đoạn nào có thể
bị bỏ qua. Cho nên sẽ không ai tới tôi và hỏi liệu giai
đoạn này hay giai đoạn kia có thể được bỏ bớt đi không
hay liệu người ta có thể làm mà không có thở sâu,
không rung lên hay không hỏi "Tôi là ai?" Không, ba
giai đoạn đầu tiên được ngụ ý để đưa các bạn từ cực
điểm này sang cực điểm khác theo một cách thức rất hệ
thống và khoa học.
Chính với lí do này mà tôi nhấn mạnh rằng chỉ khi
một giai đoạn đạt tới cực đỉnh của nó chúng ta mới có
thể chuyển sang giai đoạn tiếp. Điều đó giống như việc
chuyển số khi lái xe. Nếu bạn đang lái xe đi số một, ban
đầu bạn đưa nó lên hết tốc độ rồi đổi qua số thứ hai. Và
chừng nào mà tốc độ trong số thứ hai còn thấp, bạn
không đưa xe vào số thứ ba. Tất cả mọi sự thay đổi xảy
ra tại tột đỉnh. Đấycũng là trường hợp cho việc biến đổi
tâm trí; nó xảy ra tại tột đỉnh nữa.

Bạn phải hiểu đầy đủ ý nghĩa của ba giai đoạn này.
Giai đoạn thứ nhất bao gồm việc thở, thở sâu và nhanh.
Việc thở sẽ tiếp tục qua toàn bộ chiều dài của cả ba giai
đoạn; nó được mang qua giai đoạn thứ hai và ba nữa.
Và việc thở phải là cả sâu và nhanh. Bạn phải thở sâu
nhất có thể được, và bạn phải thở nhanh nhất có thể
được. Và qui tắc thở sâu và nhanh này nên ngự trị cả
việc hít vào và thở ra. Nhưng tại sao? Thở sẽ làm cái gì?
Thở là yếu tố bí ẩn nhất trong cuộc sống con người.
Chính qua trung gian của hơi thở mà thân thể được hợp
nhất với linh hồn. Đó là lí do tại sao chúng ta nói rằng
một người là sống chừng nào người đó còn thở. Với
việc thở mất đi, cuộc sống đi tới chấm dứt.
Gần đây tôi ngẫu nhiên tới thăm một gia đình có
người đàn bà nằm trong trạng thái hôn mê trong chín
tháng. Và các bác sĩ nói rằng cô ấy bây giờ sẽ không
bao giờ có lại được ý thức của mình nữa, mặc dầu cô ấy
có thể sống thêm ba năm nữa. Người đàn bà này được
giữ sống với sự trợ giúp của thuốc và thức ăn được tiêm
vào thân thể cô ấy trong trạng thái hôn mê. Cô ấy hoàn
toàn vô ý thức; trong chín tháng cô ấy đã không thu lại
được ý thức cho dù chỉ một lần. Tôi đã tới thăm gia
đình cô ấy và tôi bảo bà mẹ cô ấy rằng cô ấy hầu như
chết rồi. Bà già nói, "Không, chừng nào việc thở vẫn
còn kéo dài thì bao giờ cũng còn có hi vọng. Các bác sĩ
nói không có hi vọng, nhưng ai biết được? Các bác sĩ
không phải bao giờ cũng đúng. Ai biết được? Nó có thể
thu lại ý thức chứ, bởi vì nó vẫn tiếp tục thở. Có hơi
thở; cây cầu vẫn còn chưa bị sập. Nó có thể trở lại ý
thức."
Hơi thở là cây cầu nối linh hồn với thân thể. Khi
bạn thở sâu và nhanh, không chỉ thân thể bị rung lên,
ngay cả từng thớ của linh hồn bên trong cũng rung lên.
Chẳng hạn, có một cái chai nằm trên giá của bạn lâu rồi.
Nó chứa đầy chất lỏng nào đó và nó đã không bị lắc
trong một thời gian dài. Cho nên dường như là cái chai
và chất lỏng trong nó là hai điều tách biệt. Không bị
khuấy lên trong một thời gian dài cái chai và chất lỏng
trong nó dường như là một mảnh. Bây giờ bạn lắc mạnh
cái chai. Cùng với cái chai, chất lỏng bên trong nó cũng
bị lắc. Chỉ thế thì sự tách biệt giữa chúng mới trở nên rõ
ràng. Tương tự khi bạn thở tại mức độ cao nhất bạn tạo
ra cơn bão không chỉ làm rung chuyển thân thể bạn mà
còn làm rung chuyển mọi thớ linh hồn bên trong. Và
chính trong khoảnh khắc của run rẩy đó mà bạn cảm
thấy rõ ràng rằng thân thể và linh hồn là tách biệt.
Bây giờ bạn tới và hỏi, "Điều gì xảy ra nếu tôi
không thở sâu? Có hại không?" Điều đó sẽ chỉ hại theo
kiểu này - rằng bạn sẽ chẳng bao giờ biết được bạn là
tách rời với thân thể mình. Đó là lí do tại sao điều kiện
cơ sở đã được gắn với việc thở, rằng bạn phải là nhân
chứng cho nó. Bạn thở sâu và bạn quan sát đồng thời
rằng hơi thở này đi vào và hơi thở khác đi ra. Khi bạn
quan sát những chuyển động hơi thở đi vào và đi ra, bạn
biết rằng không chỉ thân thể là tách rời, ngay cả hơi thở
cũng tách khỏi bạn. Thế thì bạn biết rằng bạn chỉ là
người quan sát tách rời khỏi cả thân thể và hơi thở. Sự
tách rời của người ta với thân thể có thể được biết qua
một mình việc thở, nhưng việc tách rời khỏi hơi thở có
thể được nhận ra qua chứng kiến việc thở.
Cho nên hai điều, thở sâu và chứng kiến, làm ra giai
đoạn thứ nhất, và chúng chạy suốt qua giai đoạn thứ hai
cho tới cuối - tức là, giai đoạn thứ ba.

Tôi yêu cầu các bạn buông bỏ thân thể trong giai
đoạn thứ hai. Thở sâu sẽ tiếp tục, và thêm vào đó các
bạn phải buông bỏ thân thể. Nó có nhiều ngụ ý, và tôi
định đi vào vài điều trong chúng ở đây.
Thứ nhất, có hàng nghìn mối căng thẳng trong thân
thể các bạn và các bạn không nhận biết về chúng, mặc
dầu đây là tuyển tập của các bạn. Nền văn minh đã làm
cho các kiếp sống của chúng ta thành phi tự nhiên đến
mức ngay cả khi các bạn giận ai đó, các bạn vẫn nở nụ
cười trước người đó. Thân thể các bạn không nhận biết
về thái độ lịch sự của bạn; nó cảm thấy muốn bóp nghẹt
người có liên quan. Nắm đấm của bạn tự chúng siết lại,
nhưng bạn nở nụ cười giả tạo và bạn không cho phép
nắm đấm siết lại, bạn kìm nén chúng. Thế thì thần kinh
thân thể vốn đã tự chuẩn bị sẵn sàng cho nắm đấm siết
lại thấy khó khăn lớn. Chúng đơn giản không hiểu tất cả
những điều này là gì. Và trạng thái bất ổn được tạo ra
trong thân thể. Nắm đấm đáng phải được siết lại.
Những người nghiên cứu và hiểu sâu về giận dữ đều
nói - và tôi cũng nói cùng điều đó - rằng bất kì khi nào
bạn giận dữ thế, hãy chỉ làm một điều thôi. Đừng nở nụ
cười giả tạo, thay vào đó siết nắm đấm dưới gầm bàn,
nếu bạn có chiếc bàn trước mình, và siết chặt rồi thả
chúng ra một cách mạnh mẽ trong năm phút. Và thế rồi
bạn sẽ cười to, và đó sẽ là tiếng cười khác hẳn.
Thân thể không biết chút gì rằng con người đã trở
nên văn minh. Thân thể vận hành hoàn toàn như cái
máy. Nhưng con người đã đặt những ràng buộc lớn lên
hoạt động của nó; thân thể đã bị làm mất tự nhiên theo
đủ mọi cách. Và chính vì những việc thiếu tự nhiên này
mà thân thể bạn đã trở thành nhà kho chứa mọi thứ căng
thẳng; hàng nghìn căng thẳng được tụ tập bên trong
thân thể bạn.
Và quá nhiều căng thẳng tạo nên phức cảm - những
cái nút căng thẳng.
Cho nên khi tôi yêu cầu các bạn buông bỏ thân thể
và các bạn làm như vậy, thế thì những phức cảm này, đã
từng có đó từ thời trẻ thơ của các bạn, bắt đầu chùng
dần ra và tan biến đi. Việc chùng dần ra và tan biến đi
của chúng là rất cần thiết; bằng không bạn sẽ chẳng bao
giờ đạt tới vô thân thể, bạn sẽ chẳng bao giờ siêu việt
lên trên thân thể và đi ra ngoài nó. Với tan biến của
phức cảm, thân thể bạn sẽ trở thành nhẹ như hoa.
Có lẽ bạn đã nghe nói về cái tên được đặt cho
Mahavira, tirthankara của người Jaina. Một trong
những cái tên của ông ấy là Nirgrantha, tên độc đáo.
Theo từng chữ nó có nghĩa là vô phức cảm - người
không có phức cảm. Nirgrantha là người có tất cả các
phức cả đã bị tan biến và biến mất, người tự do khỏi
mọi cái nút bên trong, người không có phức cảm nào,
người đã trở thành tuyệt đối đơn giản và hồn nhiên.
Khi mạng lưới các phức cảm muốn chùng đi, muốn
tự do, bạn không cho phép nó, bạn kháng cự lại. Văn
minh của bạn, văn hoá của bạn, ước định của bạn, kiềm
chế của bạn, vị trí là đàn ông hay đàn bà của bạn, việc
bạn là thế này thế nọ - tất cả những điều này bắt giữ bạn
mạnh đến mức bạn không buông bỏ thân thể mình.
Mới sáng nay một phụ nữ tới tôi và nói rằng cô ấy
sợ khi đang thiền tay ai đó có thể sờ vào thân thể cô ấy.
Ngay bây giờ người đàn bà đáng thương này phải đang
ngồi cách thật xa tất cả các bạn. Nhưng mặc cho điều đó
nếu thân thể của ai đó lăn ra và tiến tới cô ấy, cô ấy sẽ là đống lộn xộn lần nữa. Cô ấy muốn biết liệu cô ấy có thể
ngồi tách ra được không. Tôi bảo cô ấy, "Ai biết được,
thượng đế ở trên trời có thể phái người tới bất kì chỗ
nào bạn sẽ đi. Cũng tốt là ai đó tới bạn. Người đó sẽ tới
với bạn ở bất kì chỗ nào bạn sẽ đi. Cho nên đừng thay
đổi vị trí của bạn. Và có hại gì nếu ai đó chạm vào thân
thể bạn?"
Cách thức của đàn bà thường hay là thế cho dù
Thượng đế có đi ngang qua đường của họ thì họ sẽ co
tránh ngài, cứ sợ rằng ngài sẽ chạm vào thân thể họ.
Toàn bộ thân thể họ bị đè nặng bởi những phức cảm. Từ
thời trẻ thơ họ đã được huấn luyện và qui định theo
cách là họ nhìn vào thân thể mình cứ dường như đó là
bệnh tật họ phải mang. Họ không sống trong thân thể;
đấy chỉ là một tải trọng họ miễn cưỡng mang theo mình.
Thân thể giống như cái áo choàng họ mang, cứ lo lắng
mọi lúc làm sao bảo vệ nó, mặc dầu chẳng có gì về nó
đáng bảo vệ cả. Nhưng một ưa chuộng nhỏ mọn như
vậy kiềm chế chúng ta theo cách rất to tát.
Nếu một người được giáo dục tốt, người đó có thể
nghĩ... Mới hôm nay, một quí ông bảo tôi rằng chỉ
người xúc cảm, và không phải là trí thức, mới trải qua
những kinh nghiệm như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là
nếu một người qua được vài cấp là người đó trở thành
trí thức. Nếu mẹ người đó chết, người đó sẽ khóc hay
không khóc cho bà ấy? Người đó sẽ yêu hay không yêu
ai đó, bởi vì người đó là người trí thức? Bởi vì người đó
đã học qua vài cấp và được đảm bảo bằng chứng chỉ từ
đại học nào đó, người đó sẽ nghĩ hai lần trước khi hôn
người yêu của mình, bởi vì vài con vi trùng có thể được
truyền từ người này sang người khác. Người đó sẽ tra
cứu sách vở và suy nghĩ cân nhắc liệu người đó có nên
cho phép xúc động của mình ảnh hưởng tới mình hay
không. Trí năng của chúng ta đã trở thành một loại bệnh
tật; nó không có hương thơm mà nó đáng phải có. Nó
có thể đã là niềm vinh quang của chúng ta, nhưng nó đã
biến thành bệnh tật.
Cho nên người ta nghĩ rằng bởi vì người đó là người
trí thức, nên những điều như vậy không thể xảy ra được
cho người đó; chúng chỉ xảy ra cho những người thiên
về xúc động. Tại sao? Xúc cảm có sai không? Bất kì cái
gì có ý nghĩa trong cuộc sống đều tới qua xúc cảm,
không qua trí tuệ. Tất nhiên, các vấn đề của nhà toán
học và kế toán viên và những điều giống thế này đều
được trí tuệ xử trí; nhưng chẳng cái gì có ý nghĩa cả.
Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ ngay cả những khám
phá của khoa học, điều là bộ môn trí thức vĩ đại nhất,
cũng tới qua xúc cảm chứ không qua trí năng. Nếu ai đó
hỏi Einstein ông ấy đã phát hiện ra lí thuyết tương đối
như thế nào thì ông ấy sẽ nói, "Tôi không biết, điều đó
chỉ xảy ra thôi." Đây là một phát biểu rất mang tính tôn
giáo. Nếu bà Curie được hỏi bà ấy đã khám phá ra tia
phóng xạ thế nào thì bà ấy sẽ nói, "Tôi không thể nói
thế nào được; nó chỉ tới. Nó ở bên ngoài khả năng của
tôi." Bất kì nhà khoa học lớn nào cũng đều sẽ nói cùng
điều đó. Người đó sẽ nói, "Nó đã không tới qua việc tìm
kiếm của tôi; nó là cái gì đó bên ngoài tôi. Nó tới từ cõi
bên kia. Tôi chỉ là một công cụ, một trung gian." Đây
chính xác là ngôn ngữ của tôn giáo.
Xúc cảm có chiều sâu lớn lao, trong khi trí năng
nông cạn, hời hợt. Trí năng không là gì khác hơn tiện
dụng. Nó giống như người dẫn đường đi trước chiếc xe
của thống đốc khi ông ấy đi thăm các nơi. Đừng lấy
người dẫn đường làm viên thống đốc. Trí năng không là
gì khác hơn người dẫn đường đi dọn đường và điều khiển giao thông để cho xe của thống đốc có thể đi qua
không bị quấy rối. Cho nên chủ tới sau tớ. Xúc cảm là
chủ còn trí năng là tớ. Tất cả những điều có ý nghĩa và
đẹp đẽ trong cuộc sống đều tuôn chảy từ xúc cảm, từ
cảm giác. Nhưng có những người coi người dẫn đường
là thống đốc và cúi chào ông ta. Họ nói, "Chúng tôi là
những nhà trí thức, chúng tôi coi người dẫn đường là
thống đốc." Cứ để họ nói điều họ thích; ngay cả người
dẫn đường cũng cười.
Một số người nghĩ chỉ người yếu mới run lên và la
hét; người mạnh là những người thấy khó đi vào trong
nó. Họ không biết, họ không biết chút nào. Vấn đề
ngược lại; điều đó chỉ xảy ra cho người mạnh, trong khi
người yếu đứng sang bên. Bởi vì ở vào một tư thế đặc
biệt trong suốt một giờ chỉ có thể dành cho những người
có ý chí rất mạnh, không dành cho kẻ có ý chí yếu.
Người yếu thở sâu được một hai phút thôi, rồi họ từ bỏ.
Và chính họ là người nói rằng điều đó dành cho người
yếu, rằng đó là tính mềm yếu. Họ thậm chí không thể
nào thở sâu trong một giờ được; họ không thể hỏi "Tôi
là ai?" trong mười phút. Xin đừng che giấu những ảo
tưởng như vậy.
Đây chỉ là những biện giải, cách thức trí năng trốn
chạy khỏi thiền. Đây là cách chúng ta bảo vệ bản ngã
của mình và chạy trốn. Cho nên chúng ta nói điều đó
chỉ xảy ra cho người yếu, trong khi chúng ta là những
người rất mạnh. Đây là phát biểu đáng ngạc nhiên. Sự
thực là ở chỗ mọi thứ lớn lao và có ý nghĩa trong thế
giới này đều đạt được bởi người mạnh; người yếu chẳng
tốt cho cái gì cả. Và thiền thì sao? Thiền đòi hỏi sức
mạnh tối thượng. Cái gọi là người trí thức sẽ nói rằng
chỉ người yếu mới trải qua những kinh nghiệm này. Còn
bản thân người đó không thể làm được điều đó bởi vì
người ngồi cạnh người đó đang khóc; bởi vì người này
mà người đó không làm được. Nhưng người đang khóc
kia thậm chí không ý thức tới điều đó, người này thậm
chí không nhận biết liệu có ai đang quan sát mình và
nghĩ về mình không. Người này hoàn toàn tham gia vào
nỗ lực riêng của mình. Và tham dự với sự kiên trì là một
điều mang sức mạnh lớn lao; người yếu không thể có
được điều đó.
Do đó đừng cố bảo vệ bản ngã của bạn chẳng vì cái
gì cả. Và đừng nói bạn là mạnh, là có ý chí mạnh và
rằng bạn là nhà trí thức và ngừng làm điều đó. Biết rõ
điều này - rằng bạn không thể làm được điều đó - và
đừng tìm cớ để không làm gì, và đừng trang điểm cho
cái yếu của bạn bằng những lời hay. Nếu bạn làm vinh
quang cho cái yếu của mình, điều đó sẽ trở thành một
thứ quí chuộng cho bạn, và thế thì bạn sẽ bỏ lỡ thiền
mãi mãi. Đơn giản biết rằng điều này không xảy ra cho
bạn. Nếu nó không xảy ra, điều đó đơn giản nghĩa là
bạn yếu và bạn thiếu cái gì đó. Cố gắng tìm ra và hiểu
cái yếu của bạn và chữa trị nó đi. Đừng nhận lầm cái
yếu của bạn thành cái mạnh; đừng cho nó cái tên mĩ
miều.
Một người bạn tới và nói rằng dường như tất cả đều
mắc chứng cuồng loạn rồi, dường như vài người bị bệnh
kích động. Anh ta không biết chút nào cái gì đang ẩn
kín trong thái bình của cuộc sống. Bằng việc gọi nó là
chứng cuồng loạn anh ta chỉ bảo vệ cho bản ngã của
mình. Cho nên anh ta đã đi tới kết luận rằng những
người rung lắc và la hét là những người điên. Và anh ta
nghĩ bản thân mình không thể trải qua những kinh
nghiệm như vậy bởi vì anh ta lành mạnh. Nhưng nếu
anh ta là phải thì Phật là điên và Mahavira và Jesus và
Socrates và Rumi và Mansoor cũng vậy. Nhưng gia nhập vào bộ lạc của những người điên được phúc lạc
này còn tốt hơn rất nhiều vẫn còn ở với cái gọi là người
lành mạnh. Và chúng ta đang gia nhập với họ, bởi vì
điều những người điên này đã có, thì những người lành
mạnh kia không bao giờ có thể có được.
Khi năng lượng dâng lên với cường độ mạnh, nó
dấy lên cơn bão thực sự bên trong bạn. Điều đó không
phải là không lành mạnh. Nếu nó là vậy, chúng ta
không thể nào tĩnh lặng và yên tĩnh trở lại được. Và
chúng ta trở nên tĩnh lặng và yên tĩnh sau khi hoàn
thành ba giai đoạn này, điều có nghĩa là không có gì
cuồng loạn về nó cả. Thử yêu cầu một người đang
cuồng loạn hãy thảnh thơi, hãy yên tĩnh mà xem; người
đó không thể làm được như vậy; điều đó đơn giản
không trong tay người đó. Nhưng bất kì điều gì đang
xảy ra ở đây đều trong kiểm soát của chúng ta; nó xảy
ra bởi vì chúng ta giúp cho nó xảy ra, bởi vì chúng ta
hợp tác với nó. Đó là lí do tại sao khoảnh khắc chúng ta
rút sự hợp tác của chúng ta đi nó lập tức đi tới chấm
dứt.
Chỉ có một tiêu chuẩn để biết lành mạnh từ không
lành mạnh. Người là người chủ riêng của mình là lành
mạnh còn người không là người chủ của mình là không
lành mạnh. Bây giờ đây là một tiêu chí rất thú vị. Khi
tôi yêu cầu những người ở đây, những người đang trải
qua những kinh nghiệm như vậy hãy thảnh thơi và yên
tĩnh, họ lập tức làm như vậy. Nhưng nếu tôi yêu cầu cái
gọi là người lành mạnh, người cũng ở đây, hãy tĩnh lặng
và làm yên tĩnh ý nghĩ của họ, thì họ sẽ nói không thể
nào làm được điều như vậy - dù họ có cố gắng thế nào,
họ vẫn không thể làm yên tĩnh các ý nghĩ của họ được.
Cho nên chính họ mới là người không lành mạnh, người
điên. Điều bạn không thể điều khiển được là cái không
lành mạnh còn điều bạn có thể điều khiển được là lành
mạnh, là mạnh khoẻ.
Khi bạn sẽ có khả năng bật hay tắt tâm trí mình theo
ý muốn, khi bạn sẽ nói "Thôi đủ rồi", và tâm trí sẽ dừng
lại đây đó, chỉ thế thì bạn mới có thể cho rằng mình
lành mạnh, rằng bạn mạnh khoẻ. Nhưng thực tế là điều
ngược lại. Bạn nói "Thôi đủ rồi" còn tâm trí bạn nói,
"Cứ nói điều gì cậu có thể nói đi, nhưng tớ sẽ làm điều
tớ muốn, tớ sẽ đi tới nơi tớ muốn đi." Bạn đi lên trời và
xuống đất để làm yên tĩnh các ý nghĩ của mình, nhưng
chúng đơn giản không nghe lời, chúng đi theo đường
của chúng. Bạn ngồi trong đền tụng bài thánh ca ca ngợi
Thượng đế còn tâm trí bạn đồng thời đang xem bộ phim
trong rạp chiếu bóng. Không, bất kì bhajans của bạn và
lời cầu nguyện của bạn không thể nào dừng được tâm trí
khỏi việc xem phim. Nó không cho đến một hào với
mọi lời cầu xin của bạn.
Nhưng con người rất tinh ranh. Con người che giấu
những cái yếu của mình đằng sau những lời lẽ hoa mĩ,
và cảm thấy thoải mái bằng việc gièm pha cái tốt của
người khác, bằng việc gọi các cái tên. Nhận biết về điều
này. Tốt nhất là không nghĩ về điều đó chút nào cả. Ai
đang trải qua cái gì là rất khó biết. Cuộc sống bí ẩn đến
mức tốt hơn cả là đừng nghĩ về người khác. Nếu bạn có
thể nghĩ và chăm nom cho chính mình là đủ rồi. Thử
nghĩ về điều này thôi - dù bạn không lành mạnh, yếu
hay mạnh - và chỉ nghĩ về bản thân mình. Nhưng chúng
ta bao giờ cũng làm điều ngược lại, chúng ta nghĩ về
người khác. Điều này rất sai.
Như tôi đã nói, việc buông bỏ thân thể trước hết dẫn
tới việc thanh tâm các căng thẳng bị kìm nén và làm tan
biến các khối chắn và phức cảm thân thể. Và điều thứ hai, khi thân thể tự nó chuyển động - bạn không thao tác
nó, thay vì thế nó thao tác theo đà riêng của nó - thế thì
việc tách biệt của nó với bạn, với linh hồn trở thành rõ
ràng. Bởi vì khi bạn thấy rằng thân thể bây giờ xoay
tròn, rằng nó bây giờ dừng lại, rằng tay đang rung -
không phải là bạn rung chúng, thay vì thế chúng rung
theo cách của chúng - thế thì bạn lần đầu tiên biết rằng
bản thể bạn và thân thể bạn là khác nhau và tách rời.
Thế thì bạn cũng sẽ biết rằng nó không phải là bạn,
nhưng thân thể bạn đã trở thành trẻ trung; và lần nữa nó
không phải là bạn, nhưng thân thể đang trở nên già đi.
Và nếu nhận biết này sâu sắc lên thì bạn cũng sẽ biết
rằng bạn sẽ không chết; chỉ thân thể sẽ chết.
Khi thân thể quay như cái máy, bạn sẽ biết trong
chiều sâu, rằng thân thể thực sự tách rời với bạn. Điều
này bạn chỉ biết khi bạn tuyệt đối buông bỏ thân thể.
Và trong giai đoạn thứ ba chúng ta hỏi: "Tôi là ai?"
Ngay cả khi một người biết rằng mình không là thân
thể, ngay cả khi một người biết rằng mình không là hơi
thở, thì người ta vẫn không biết mình là ai. Chính việc
biết mang tính phủ định là về việc người ta không là
thân thể, việc người ta không là hơi thở; điều đó không
mang tính khẳng định. Việc biết có tính khẳng định là
gì? Đó là việc biết mình là ai, điều người đó chưa được
biết. Cho nên trong giai đoạn thứ ba chúng ta hỏi: "Tôi
là ai?" Nhưng chúng ta hỏi ai? Chúng ta hướng trực tiếp
câu hỏi này vào bản thân mình, và không vào ai khác.
Chúng ta làm cho mình ngập lụt hoàn toàn với câu hỏi
này "Tôi là ai?" Cái ngày bạn sẽ được chất đầy tuyệt đối
bằng câu hỏi này sẽ tới, và nó sẽ tới từ bên trong bạn.
Bởi vì không thể có chuyện tại mức bên trong nhất của
mình, bạn không biết mình là ai. Nếu bạn hiện hữu, bạn
cũng biết mình là ai.
Nhưng cần lấy câu hỏi này vào chiều sâu bên trong
nhất. Chẳng hạn, có nước trong đất, và chúng ta khát ở
đây đang ngồi trên mặt đất. Nếu chúng ta muốn làm dịu
cơn khát của mình, sẽ cần đào giếng sâu quãng mười
mét tới nơi có nước. Nếu chúng ta có câu hỏi "Tôi là
ai?'', thì câu trả lời của nó nằm ở đâu đó mười mét sâu
trong chúng ta. Nhưng có nhiều tầng giữa chúng ta và
câu trả lời đó, và những tầng này phải bị loại bỏ để đạt
tới câu trả lời. Cho nên câu hỏi "Tôi là ai?" có tác dụng
như cái mai. Tốc độ và lực mà chúng ta hỏi câu hỏi này
càng lớn, chúng ta đào chiếc giếng càng sâu. Nhưng
chúng ta không hỏi với tốc độ và lực đó.
Nhiều lần những điều rất lạ xảy ra. Một người bạn
đã trải qua một kinh nghiệm phi thường trong buổi thiền
sáng trong hai ngày qua. Và điều đó cũng đáng hiểu.
Người đó hỏi câu hỏi này với tất cả sức mạnh của mình,
và người đó làm việc cật lực. Không có gì thiếu trong
nỗ lực của người đó. Và người đó cũng không thiếu về
ý chí. Nhưng, như tôi đã nói, tâm trí có hết tầng nọ tới
tầng kia. Người đó hỏi từ tầng trên "Tôi là ai?", và
người đó hỏi nó với lực mạnh đến mức người đó thốt ra
câu hỏi này "Tôi là ai?" nhiều lần. Nhưng ở giữa việc
lặp lại câu hỏi này, các câu hỏi khác bật ra: "Nó sẽ có
tác dụng gì? Nó sẽ có tác dụng gì?" gợi ý rằng việc hỏi
này sẽ không làm ra điều gì cả. Ai đang hỏi câu hỏi thứ
hai này? Bạn hỏi "Tôi là ai?" nhưng thế rồi người đó là
ai, người hỏi "Nó sẽ có tác dụng gì?" Đó là một tầng
khác của tâm trí riêng của bạn, nơi nói, "Việc hỏi này sẽ
chẳng có tác dụng đâu, mình cứ hỏi một cách vô ích nó
lặp đi lặp lại mãi; tốt hơn cả là giữ yên tĩnh."
Cho nên trong khi tầng này của tâm trí chúng ta hỏi
"Tôi là ai?" thì tầng khác bước ra với lời bắt bẻ, "Điều
này chẳng có tác dụng đâu, tốt hơn cả là giữ yên tĩnh."


Nếu tâm trí bạn vẫn còn bị phân mảnh, bạn sẽ
không thể đi được rất sâu. Đó là lí do tại sao tôi yêu cầu
bạn mang tất cả năng lượng của mình vào việc hỏi "Tôi
là ai?" để cho dần dần toàn thể tâm trí bạn được tham
dự vào trong nó và bạn hỏi với tâm trí toàn bộ "Tôi là
ai?" Và khi chỉ mỗi câu hỏi này còn lại, không cái gì
khác ngoài câu hỏi này, nó sẽ chìm vào trong bạn như
mũi tên và câu trả lời sẽ tới. Thế thì câu trả lời này sẽ
không tới chậm cho dù là một giây.
Câu trả lời là ở bên trong chúng ta.
Tri thức ở bên trong, nhưng chúng ta chưa bao giờ
cầu khẩn nó, chúng ta chưa bao giờ khêu gợi nó, đánh
thức nó. Nó bao giờ cũng được chuẩn bị để thức dậy.
Ba giai đoạn này được ngụ ý cho ý định này. Nhưng
những giai đoạn này giống như các bậc lên ngôi đền của
thiền; chúng ở bên ngoài nó. Chúng đưa các bạn tới
cổng và để các bạn lại đó. Việc vào qua cánh cổng này
xảy ra ở giai đoạn thứ tư. Nhưng người không trèo qua
ba bậc này không thể hi vọng đi vào được giai đoạn thứ
tư - cánh cổng. Cho nên nhớ lấy, điều bản chất là bạn
đầu tư tất cả năng lượng của mình vào buổi thiền ngày
mai, vì nó sẽ là ngày cuối cùng của trại này. Đem tất cả
năng lượng của bạn vào ba giai đoạn này. Nếu bạn làm
như vậy, giai đoạn thứ tư sẽ xảy ra theo cách riêng của
nó. Bạn sẽ không phải làm giai đoạn thứ tư, nó sẽ xảy
ra.
Ba giai đoạn bạn sẽ làm, giai đoạn thứ tư sẽ xảy ra.
Một phụ nữ hỏi: với việc đạt tới giai đoạn thứ tư thì
ba giai đoạn đầu sẽ bị bỏ đi chứ?
Thế thì không có câu hỏi. Nếu giai đoạn thứ tư được
đạt tới, thế thì không có câu hỏi. Thế thì người ta sẽ tự
thấy cho mình bất kì cái gì cần được làm. Nếu nhu cầu
được cảm thấy thì người đó sẽ tiếp tục làm nó; bằng
không nó sẽ dừng lại. Nhưng cho dù điều này thì sự
việc cũng không thể được nói trước. Nó không thể được
nói trước, bởi vì nếu chúng ta nêu ra câu hỏi này trước
khi giai đoạn thứ tư đã thực tế được đạt tới, điều đó
nghĩa là chúng ta không muốn làm ba giai đoạn này và
do vậy chúng ta đang cố gắng trốn chúng. Các bạn
dường như lo lắng để loại bỏ những điều này hơn, và đó
là lí do tại sao tôi không định nói rằng chúng sẽ bị bỏ đi.
Bởi vì nếu tôi nói điều đó, các bạn sẽ không đi với
chúng chút nào, các bạn sẽ vứt bỏ chúng ngay bây giờ.
Chúng sẽ bị bỏ đi, nhưng đó là vấn đề phải tới sau khi
giai đoạn thứ tư đã được đạt tới. Nó không nên được
nêu ra từ trước.
Tâm trí chúng ta lừa dối chúng ta theo nhiều cách.
Khi bạn hỏi câu hỏi này bạn không nhận biết tại sao bạn
hỏi nó. Bạn hỏi nó với động cơ để gạt bỏ ba giai đoạn
này. Nhưng nếu bạn gạt bỏ những giai đoạn này, biết rõ
rằng giai đoạn thứ tư sẽ không bao giờ xảy ra cả. Nhưng
tại sao có nỗi sợ ba giai đoạn này?
Nỗi sợ có đó. Và những giai đoạn này được ngụ ý
để chùi sạch nỗi sợ này.
Nỗi sợ là ở chỗ thân thể có thể làm bất kì điều gì, và
có những điều bạn không muốn nó làm. Nhưng nó có
thể làm được gì? Bạn có thể nhảy múa, bạn có thể kêu
khóc, bạn có thể la hét, bạn có thể lăn lộn ngã ra. Nhưng
khó khăn cho tất cả những điều này là gì? Bạn thở sâu ở
giai đoạn thứ nhất, và trong giai đoạn thứ hai bạn tiếp tục thở và buông bỏ thân thể. Đáng phải không có bất kì
cái gì khó khăn trong việc thở sâu và nhanh và việc
buông bỏ thân thể. Bạn không phải làm nỗ lực gì để
nhảy múa; nếu bạn nhảy múa, nó sẽ ngăn cản việc thở
sâu. Nhưng nếu nhảy múa xảy ra theo cách riêng của
nó, thì được. Bất kì cái gì xảy ra, cứ để cho xảy ra.
Khó khăn của chúng ta là ở chỗ hoặc chúng ta làm
một điều hoặc chúng ta chống lại nó; chúng ta không
cho phép cái gì xảy ra theo cách riêng của nó. Chúng ta
sẵn sàng làm bất kì cái gì; chúng ta sẽ hoặc nhảy múa
hoặc ngăn cản nó. Nhưng chúng ta sẽ không buông bỏ
cái gì, chúng ta sẽ không cho phép nó xảy ra một cách
tự phát. Toàn thể nền văn minh của con người đều mang
tính đàn áp. Chúng ta đã đàn áp nhiều điều bên trong
mình, và chúng ta sợ việc mở cái hộp Pandora. Chúng
ta thực sự sợ hãi; chúng ta dường như ngồi trên núi lửa.
Chúng ta bị đè lên bởi nhiều nỗi sợ; không chỉ là vấn đề
nhảy múa. Nỗi sợ bắt rễ sâu.
Chúng ta đã kìm nén bản thân mình vô cùng, và
chúng ta cũng biết cái gì có thể thoát ra từ tầng ngầm
của tâm trí chúng ta. Đứa con muốn giết bố nó, và nó sợ
rằng ý nghĩ này có thể trồi lên bề mặt. Người chồng đã
nghĩ tới việc bóp nghẹt cổ vợ, mặc dầu đồng thời anh ta
nói với cô ấy rằng anh ta không thể sống nổi nếu thiếu
cô ấy cho dù một khoảnh khắc. Ham muốn giết vợ này
bị kìm nén trong tâm trí anh ta, và anh ta sợ nó có thể
bùng phát vào bất kì lúc nào.
Gurdjieff là một nhà huyền môn và ông ấy là một
trong những người xuất sắc nhất của thời đại chúng ta.
Bất kì khi nào một người tới với ông ấy để hỏi về hướng
dẫn tâm linh, điều đầu tiên ông ấy làm là làm cho người
này say dài hàng ngày trong mười lăm ngày và nghiên
cứu người đó trong trạng thái ngất ngây say của người
đó. Và chừng nào ông ấy còn chưa nghiên cứu người
này trong trạng thái ngất ngây say thì ông ấy còn chưa
điểm đạo cho người này vào sadhana hay bộ môn tâm
linh. Ông ấy sẽ làm cho người này say sưa mọi ngày để
cho tất cả mọi chứng thần kinh bị kìm nén của người đó
bị lộ tẩy ra trước ông ấy và ông ấy biết người này thuộc
kiểu người nào và người này đã kìm nén cái gì trong vô
thức của mình. Chỉ thế thì ông ấy mới gợi ý sadhana
cần thiết - điều ông ấy gọi là Công việc - cho người này.
Nếu người này từ chối uống rượu với ông ấy trong
mười lăm ngày, Gurdjieff lập tức sẽ yêu cầu người này
về nhà. Có lẽ không Thầy nào trên thế giới đã dùng việc
uống rượu theo cách này. Nhưng ông ấy là người rất
thông minh và khôn ngoan, và hiểu biết của ông ấy về
con người là rất sâu và có giá trị. Bởi vì chúng ta đã kìm
nén quá nhiều rồi, không có chỗ chấm dứt cho việc kìm
nén của chúng ta. Và chúng là trong tính toán.
Chính bởi vì những kìm nén này mà chúng ta sợ
hãi; chúng ta sợ sự phơi bày của chúng. Chúng ta sợ
chúng ta sẽ nói ra điều gì đó mà chúng ta không muốn
nói, mà chúng ta không muốn người khác biết. Bây giờ
nếu ai đó phạm tội trộm cắp, rất có thể là khi người đó
hỏi "Tôi là ai?" người đó có thể buột mồm nói ra mình
là kẻ trộm, kẻ lừa đảo, kẻ chợ đen. Cho nên người đó sợ
việc hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" Và cho dù người đó có hỏi
điều đó thì người đó làm việc này theo tiếng nói yếu ớt,
bởi vì người đó biết rằng mình là kẻ trộm. Người đó sợ
và do vậy người đó kìm nén câu hỏi này. Người đó
không muốn người ngồi bên cạnh mình nghe thấy nó
nếu người đó thốt ra rằng mình là kẻ trộm. Và người đó
có thể buột mồm lắm chứ, chẳng có khó khăn gì mấy về
điều đó cả. Cho nên có những lí do tốt cho chúng ta hỏi liệu ba giai đoạn đầu này có thể được bỏ đi không và
liệu chúng ta có thể làm mà không có chúng không.
Nhưng không, các bạn sẽ phải trải qua những giai
đoạn này. Chúng có thể bị bỏ đi, nhưng chỉ sau khi các
bạn đã làm chúng một cách kĩ lưỡng. Và bất kì điều gì
đi ra từ bên trong các bạn cũng nên được phép tự do đi
ra; đừng cản trở nó. Bất kì lời nói tục tĩu nào ẩn ở đó;
nó sẽ trồi lên bề mặt và làm thanh tâm.
Những mặt nạ mà chúng ta đeo không phải là khuôn
mặt thật của chúng ta; đó là lí do tại sao chúng ta sợ bị
ảnh hưởng mạnh thế. Bây giờ một người đã tô điểm lên
khuôn mặt mình đầy những kem, son và phấn; người đó
sẽ rất sợ phải vứt bỏ son phấn của mình. Nếu người đó
làm như vậy, khuôn mặt thật của người đó, xấu xí và
gớm ghiếc, sẽ lộ tẩy bản thân nó. Và người đó sợ rằng
người khác sẽ thấy khuôn mặt thật của mình. Người đó
đã rất chú ý, đứng trước tấm gương lớn, để cho mình
làn da mặt căng đẹp. Cho nên người đó hoảng hốt rằng
nếu người đó từ bỏ nó, khuôn mặt mình có thể trở thành
kinh khủng tới mức không cách hoá trang nào giúp
được mình. Người đó sẽ nói mình có thể vứt bỏ mọi thứ
nhưng không bỏ được cái vẻ ngoài của mình, việc hoá
trang của mình. Người đó sẽ cố gắng cứu lấy nó bằng
mọi giá. Tất cả các khuôn mặt của chúng ta đều được
hoá trang và giả tạo; chúng không thật. Và đừng nghĩ
rằng những người không dùng mĩ phẩm trang điểm thì
không hoá trang cho khuôn mặt họ. Có đủ mọi loại hoá
trang, và cách hoá trang nào đó là tinh vi tới mức nó
chẳng cần đồ mĩ phẩm.
Chính bởi lí do này mà các bạn sợ, rằng nếu các bạn
buông bỏ bản thân mình trong thiền, mặt nạ của bạn có
thể rơi ra làm phô bầy khuôn mặt thật của bạn, và rằng
ai đó có thể nhìn thấy nó.
Nhưng những nỗi sợ này là nguy hiểm, và chúng sẽ
không cho phép bạn đi vào bên trong. Cho nên chúng
phải bị vứt bỏ.
Một câu hỏi cuối cùng.
Một bạn hỏi: Shaktipat hay việc truyền năng lượng
là gì? Và liệu có khả năng rằng một ai đó có thể
truyền năng lượng thiêng liêng không?
Không ai có thể làm shaktipat được, không ai có thể
truyền năng lượng được; nhưng ai đó có thể là phương
tiện cho việc truyền như vậy. Đúng là không ai có thể
làm được điều đó. Và nếu ai đó tuyên bố rằng người đó
có thể làm được việc đó, người đó đang đam mê lừa dối
tuyệt đối. Không ai có thể làm được điều đó, và dầu vậy
trong khoảnh khắc nào đó việc truyền năng lượng có thể
xảy ra qua ai đó. Nếu ai đó này hoàn toàn trống rỗng và
buông xuôi, shaktipat có thể xảy ra trong sự hiện diện
của người đó. Người đó có thể làm việc như chất dẫn,
như tác nhân xúc tác, không có chủ tâm. Qua người đó
năng lượng vô hạn của Thượng đế có thể đi vào người
khác.
Không ai có thể là tác nhân xúc tác một cách có chủ
tâm, bởi vì điều kiện đầu tiên để hành động như chất
dẫn là ở chỗ bạn phải không biết nó, ở chỗ bạn không
có bản ngã. Bản ngã làm cho người ta không đủ tư cách
là người trung gian cho shaktipat. Với bản ngã người ta
trở thành người không có khả năng truyền dẫn năng lượng; năng lượng thiêng liêng không thể tuôn chảy qua
người đó. Cho nên nếu có một người với bản ngã đã
hoàn toàn bị lau sạch, người tuyệt đối trống rỗng bên
trong và là hư không toàn bộ, người không làm gì cho
bạn cả, thực sự người không làm đến một việc - thì qua
trống rỗng của người đó, qua hư không của người đó,
cái hoạt động như lối đi, năng lượng của Thượng đế
chắc chắn có thể đạt tới bạn. Và tốc độ của nó có thể rất
nhanh. Nhớ điều này khi bạn tới đây cho việc thiền
ngày mai.
Với điều này tôi cũng cho các bạn vài thông tin về
ngày mai.
Shaktipat nghĩa là năng lượng của Thượng đế đã
giáng lên bạn. Nó có thể có theo hai cách. Hoặc là nó
nảy sinh từ bạn và nối với năng lượng của Thượng đế
hoặc nó tuôn chảy từ Thượng đế và nối với bạn. Đó là
cùng một điều được xem xét từ hai phía; hay đây là hai
cách nhìn vào cùng một điều. Chẳng hạn, có một cốc
vại nước đầy một nửa. Ai đó có thể nói rằng nó được rót
đầy một nửa và người khác có thể nói rằng nó rỗng một
nửa. Và nếu họ là các triết gia, họ có thể tranh luận về
điều đó vô tận và chẳng đi tới kết luận nào, bởi vì cả hai
phát biểu đều đúng. Năng lượng giáng xuống từ trên và
nó có thể thăng lên từ phía dưới nữa. Và khi hai năng
lượng này gặp nhau, khi năng lượng tiềm tàng của bạn
gặp với năng lượng của cái vô hạn - bùng nổ xảy ra.
Bùng nổ này là không thể tiên đoán được; mà cũng
không thể nói được bùng nổ này làm cái gì. Và điều gì
xảy ra sau bùng nổ này, điều này nữa cũng không thể
được nói ra. Trong suốt lịch sử, những người đã được
ân huệ với bùng nổ năng lượng này đều đã kêu lên từ
mái nhà: "Lại đây, tất cả lại đây, và đi qua bùng nổ này
và tự mình thấy nó là gì. Cái gì đó đã xảy ra ở đây, cái
đơn giản không thể diễn đạt nổi, hoàn toàn không mô tả
được."
Shaktipat nghĩa là việc giáng xuống của năng lượng
từ cõi bên kia. Nó có thể giáng xuống. Thực tế nó giáng
xuống mọi ngày. Và năng lượng này chọn phương tiện
của nó là một người trống rỗng theo mọi cách, người
hoàn toàn vô ngã. Người đó một mình biến thành tác
nhân xúc tác của nó, chỉ là phương tiện chứ không là gì
khác. Nhưng ngay cả khi một chút ít dấu vết của bản
ngã có đó, ngay cả khi người đó nghĩ rằng người đó có
thể làm điều đó, người đó dừng là người truyền dẫn.
Thế thì năng lượng này không thể tuôn chảy từ người
đó.
Bây giờ nhớ trong đầu hai thông tin cho buổi thiền
ngày mai, cả hai buổi thiền sáng và giữa ngày. Ngày
mai là ngày cuối cùng của trại, và nó sẽ đầy các khả
năng. Cho nên các bạn phải được tràn đầy hi vọng và tin
cậy mênh mông khi các bạn làm việc thiền ngày mai.
Thứ nhất, tất cả những người có loại kinh nghiệm
nào đó ở đây sẽ làm việc thiền đứng. Nếu bất kì điều gì
đã xảy ra cho các bạn, cho dù chút ít đã xảy ra cho thân
thể các bạn, các bạn sẽ làm tốt việc đứng sáng mai và
thiền. Bởi vì các chuyển động ở tư thế đứng có thể
nhanh nhất và mạnh nhất nữa. Trong tư thế đứng luồng
năng lượng ở tại chỗ cao nhất của nó.
Cho tới nay tôi đã không yêu cầu các bạn đứng bởi
vì các bạn thiếu dũng cảm ngay cả cho việc làm nó khi
ngồi. Bây giờ nếu các bạn làm nó khi đứng, tác động
của năng lượng lên các bạn sẽ nhiều lắm. Như tôi đã nói
rằng các bạn có thể bùng vào điệu vũ, điệu vũ điên khùng, điều đó thực sự có thể xảy ra khi bạn làm nó mà
đứng. Vì mai sẽ là ngày cuối cùng, và mười cho tới hai
mươi bạn đã đạt tới chiều sâu tốt trong thiền, nên đặc
biệt họ sẽ chắc chắn đứng dậy. Tôi không định nêu tên
họ; họ nên làm điều đó theo cách riêng của mình. Và nó
phải là như vậy ngay từ đầu buổi thiền. Tất nhiên, người
ta có thể đứng bất kì lúc nào nếu người ta cảm thấy
thích làm như vậy. Và nhớ rằng bạn phải cho phép mọi
thứ xảy ra không bị cản trở.
Và vài lời cho phiên giữa ngày của việc thiền im
lặng.
Khi chúng ta ngồi đây cho việc thiền im lặng ngày
mai thì phải có đủ chỗ trống gần tôi. Và khi các bạn tới
tôi từng người một và ngồi bên tôi, và khi tôi đặt tay lên
đầu bạn, thế thì cho phép mọi thứ xảy ra cho bạn vào
khoảnh khắc đó. Nếu bạn la hét và tay bạn và chân bạn
rung lên hay bạn ngã ra hay vươn dậy, bất kì nó là gì, cứ
để cho nó tự do, đừng kháng cự lại chút nào. Nó sẽ
giống như điều chúng ta làm trong việc thiền sáng:
Buông bỏ. Cho nên để đủ không gian gần tôi.
Và những người có thể tập trung lòng dũng cảm sẽ
làm việc thiền sáng tất cả đều ở tư thế đứng. Trước khi
tôi tới, các bạn nên lấy sẵn tư thế cho mình và đứng yên
tĩnh. Và đứng thẳng không dựa vào cái gì, chẳng hạn
như cây gần bạn. Không nâng đỡ, dù là bất kì cái gì;
đứng theo cách riêng của bạn.
Các bạn muốn biết về shaktipat. Tư thế đứng này sẽ
tạo ra tình huống tốt cho việc truyền năng lượng. Bầu
không khí rất truyền dẫn đã đi vào hiện hữu ở đây và nó
có thể được sử dụng hoàn toàn. Và vì sắp là ngày cuối
cùng của trại này, nên các bạn phải đem toàn thể ý chí
và năng lượng vào vở kịch ngày mai.
Một bạn khác hỏi: Vừa rồi thầy đã nói về ba giai
đoạn. Thầy có thể giải thích chúng có tác động nào
lên trạng thái của thân thể, tim, não và tâm trí?
Tác động sẽ có nhiều.
(Một giọng nói) chúng có gây ra đau tim không?
Sẽ là tốt nếu đau tim. Chẳng cái gì giống như nó.
Đó là điều được mong muốn. Cứ để tim bị đau. Dù bạn
có cố gắng đến đâu để cứu nó, thì nó cũng sẽ hỏng một
ngày nào đó. Cho nên vì sao cứu nó? Buông bỏ nó đi. Ít
nhất bạn sẽ thoả mãn rằng nó đã hỏng trong khi nó đang
trên đường tới Thượng đế. Thế là đủ.
Người bạn này muốn biết ba giai đoạn này sẽ có tác
động nào lên chúng ta. Chúng sẽ có nhiều tác động.
Việc thực hành thiền, cách thiền mà tôi dạy, sẽ có nhiều
kết quả sinh lí học. Nhiều bệnh thể chất có thể biến mất,
sống lâu có thể tăng lên và nhiều thay đổi hoá học có
thể xảy ra trong thân thể. Nhiều tuyến của thân thể vào
khoảnh khắc đó hầu như chết rồi, có thể được kích hoạt.
Chúng ta không có ý tưởng các nhà tâm lí học bây
giờ nói gì, ngay cả các nhà sinh lí học nói, về giận dữ.
Khi người ta giận dữ, họ nói, một loại chất độc đặc biệt
được tiết ra từ thân thể. Nhưng mãi cho tới nay họ vẫn
không thể biết được cái gì xảy ra trong trường hợp yêu.
Như trong giận dữ, một loại chất độc đặc biệt được tiết
ra, trong yêu một loại cam lồ đặc biệt được tiết ra trong
thân thể. Nhưng bởi vì yêu là hiện tượng hiếm hoi trong
thế giới chúng ta, vậy mà người đang yêu phải đi tới phòng thí nghiệm của nhà khoa học. Đó là lí do tại sao
nhà khoa học đã không thể phát hiện được ra nó. Nếu
thiền có tác động đầy đủ của nó, thì thân thể bắt đầu tiết
ra chất cam lồ hay mật ong biểu tượng cho bất tử.
Thiền thực sự có tác động hoá học sâu lên thân thể.
Những người đi sâu vào thiền bắt đầu thấy mầu sắc phi
thường, ngửi thấy mùi thơm khác thường và nghe thấy
những âm thanh chưa từng nghe thấy. Những đợt sóng
ánh sáng và âm thanh phi thường bắt đầu tuôn chảy qua
họ. Đây tất cả đều là những tác động hoá học của thiền.
Các bạn sẽ thấy những màu sắc dị thường mà các bạn
chưa bao giờ thấy. Thực tế, toàn thể hoá học của thân
thể trải qua thay đổi lớn lao. Thân thể bắt đầu cảm nhận,
suy nghĩ và hiểu mọi thứ theo một cách khác. Tất cả
mạch điện của thân thể đều thay đổi.
Cũng như rất nhiều điều xảy ra ở mức độ thân thể,
rất nhiều điều xảy ra ở mức độ của tâm trí nữa. Nhưng
đây là vấn đề chi tiết, và tôi sẽ nói riêng cho người hỏi
về nó.
Các khả năng là rất lớn.
Câu hỏi khác: cái gì là tác động của thở sâu lên
não, tim v.v..?
Ngay khi các bạn bắt đầu thở sâu, tỉ lệ ô xi và các
bô nic trong thân thể sẽ thay đổi. Có một khối lượng các
bô nic và ô xi trong thân thể chúng ta; thở sâu sẽ làm
thay đổi tỉ lệ của nó. Và ngay khi tỉ lệ này thay đổi,
những thay đổi hệ quả xảy ra trong toàn bộ thân thể kể
cả não, máu và hệ thần kinh. Tỉ lệ của ô xi và các bô nic
nói riêng tạo nên toàn thể cơ sở của sự tồn tại của chúng
ta. Và thay đổi trong tỉ lệ của chúng làm thay đổi mọi
thứ. Nhưng đó là vấn đề kĩ thuật và người hỏi có thể
gặp riêng tôi về sau để thảo luận về nó, bởi vì mọi
người có thể không quan tâm tới điều đó.
Một bạn khác hỏi: Có phải vấn đề thiền là một với
tự thôi miên không?
Việc thiền này thống nhất với tự thôi miên tới mức
độ lớn, nhưng tại điểm cuối cùng thì nó chia thành bạn
bè. Nó được móc nối phần lớn với thôi miên; ba giai
đoạn đầu của nó, ngoại trừ phần chứng kiến của nó,
thuộc vào thôi miên. Việc chứng kiến, cần tới trong
toàn bộ thực hành của nó, nhận biết về phần của thiền
nhân rằng hơi thở đi vào và ra, rằng thân thể đang rung
lên và quay, rằng người đó là người quan sát trên núi -
việc chứng kiến này chẳng có liên quan gì tới thôi miên
cả. Đây là khác biệt. Và khác biệt này là cơ bản, cơ sở.
Nhưng phần còn lại của nó là quá trình thôi miên.
Quá trình thôi miên là rất có ý nghĩa; được móc nối
với chứng kiến, nó trở thành thiền. Nhưng thôi miên bị
tách khỏi chứng kiến trở thành vô ý thức. Bạn sẽ trở
thành vô ý thức, nếu bạn dùng một mình thôi miên. Và
bạn sẽ được thức tỉnh nếu bạn dùng chứng kiến cùng
thôi miên. Cho nên khác biệt giữa hai điều này là bao la.
Nhưng cách thức của chúng là tương tự tới mức độ lớn;
chỉ ở cuối cùng chúng mới tách ra lẫn nhau.
Vài câu hỏi vẫn còn cần được trả lời. Tôi sẽ nêu
chúng vào buổi tối mai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog