Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Thiền là chết và phục sinh

Một bạn hỏi liệu có nguy hiểm trong việc thức tỉnh
kundalini không. Nếu có, nguy hiểm đó là gì? Và tại
sao kundalini phải được thức tỉnh nếu làm việc đó
nguy hiểm đến vậy?


Có nguy hiểm rất lớn tham gia vào. Thực sự, có
nguy hiểm về việc mất tất cả những điều chúng ta coi là
cuộc sống của mình. Như chúng ta hiện hữu, chúng ta
sẽ không còn là như vậy nữa sau khi kundalini được
thức tỉnh. Mọi thứ sẽ thay đổi. Mọi thứ. Mối quan hệ
của chúng ta, những xúc động của chúng ta, thế giới của
chúng ta và tất cả những cái chúng ta biết cho tới hôm
qua sẽ thay đổi. Tất cả những cái sẽ thay đổi chính là
nguy hiểm đó.
Nếu than được biến thành kim cương, nó phải chết
đi như là than. Cho nên nguy hiểm là đủ lớn. Nhưng đó
là nguy hiểm cho than. Nếu nó trở thành kim cương, nó
chỉ có thể làm như vậy chỉ nếu nó biến mất như than.
Có lẽ bạn không biết rằng không có khác biệt chung
giữa kim cương và than. Về bản chất chúng là cùng một
phần tử. Than biến thành kim cương trong một quá trình
thời gian rất dài. Về mặt hoá học thì không có khác biệt
cơ bản giữa kim cương và than. Nhưng than không thể
vẫn còn là than được nếu nó muốn là kim cương. Cho
nên than đối diện với nguy hiểm lớn.
Theo cùng cách này con người đối diện với nguy
hiểm nếu người đó đang trên đường đi tìm Thượng đế.
Người đó sẽ chết như con người. Nếu dòng sông chảy
để gặp biển cả, nó đang đối diện với nguy hiểm lớn. Nó
sẽ biến mất, nó không thể thoát được điều đó. Nhưng
chúng ta ngụ ý gì bởi nguy hiểm? Nó ngụ ý việc biến
mất. Họ một mình có thể cứ tiếp tục cuộc hành trình tới
Thượng đế, những người được chuẩn bị để biến mất, để
chết.
Cái chết không xoá chúng ta hoàn toàn như thiền,
bởi vì cái chết chỉ tách rời chúng ta từ thân thể này và
nối chúng ta với thân thể khác. Bạn không thay đổi
trong cái chết; chỉ quần áo chúng ta thay đổi. Bạn vẫn
còn như bạn hiện hữu. Cho nên cái chết không phải là
nguy hiểm lớn như tất cả chúng ta vẫn nghĩ vậy. Thiền
là nguy hiểm lớn hơn cái chết, bởi vì trong khi cái chết
chỉ vồ lấy đi quần áo khỏi chúng ta, thì thiền vồ lấy bạn
từ bạn.
Thiền là cái chết tuyệt đối.
Trong quá khứ, những người biết đều nói rằng thiền
là cái chết, cái chết toàn bộ. Trong thiền không chỉ quần áo, mà mọi thứ đều thay đổi. Nhưng nếu dòng sông
muốn trở thành biển cả, nó phải liều mạng mình. Trong
thực tế dòng sông chẳng mất gì khi nó rơi vào trong
biển cả; nó chẳng mất gì, nó lớn lên trở thành chính bản
thân biển cả. Và khi than biến thành kim cương, nó
chẳng mất gì; nó lớn lên trở thành kim cương. Nhưng
chừng nào than vẫn còn là than thì nó sợ mất bản thân
mình. Làm sao nó biết được rằng khi gặp biển cả, nó sẽ
không mất gì, nó sẽ biến thành bản thân biển cả sao?
Con người đối diện với cùng nguy hiểm đó trong
quan hệ với thiền. Cùng người bạn đó cũng hỏi tại sao
người ta phải nhận nguy cơ này nếu mối nguy hiểm là
hiển nhiên thế. Cần hiểu điều đó theo chiều sâu nào đó.
Chân lí là ở chỗ chúng ta càng liều, chúng ta càng
sống một cách nguy hiểm hơn, thì chúng ta càng sống
động hơn. Và chúng ta càng sợ, chúng ta càng chết hơn.
Trong thực tế người chết tuyệt đối không có nguy hiểm
nào để đương đầu. Nguy hiểm lớn mà người chết không
phải đương đầu là ở chỗ họ không thể chết được nữa.
Người có thể chết chỉ là người đang sống. Và người đó
càng sống động, thì người đó có thể gặp cái chết một
cách mãnh liệt hơn.
Đâu đó có một tảng đá, và rất gần nó một bông hoa
đã nở ra. Tảng đá có thể nói với bông hoa, "Mày ngu
thế. Sao mày lấy nguy cơ trở thành hoa? Mày không
biết mày sẽ héo đi trước lúc mặt trời lặn sao?" Có nguy
hiểm lớn trong việc là bông hoa thực. Nhưng không có
nguy hiểm trong việc là tảng đá. Khi bông hoa sẽ héo
tàn đi trong buổi tối, tảng đá vẫn nằm đó không suy
suyển tại chỗ của nó. Tảng đá không phải đối diện với
mấy nguy hiểm, bởi vì nó không sống. Người ta càng
sống động, nguy hiểm càng lớn hơn.
Người đang trong nguy hiểm, người đó càng sống
động tới mức độ đó. Người đó càng sống động, người
đó càng bị nguy hiểm. Thiền là nguy hiểm lớn nhất có
đó, bởi vì thiền là cánh cửa dẫn tới việc đạt tới đáy sâu
thẳm nhất trong cuộc sống - điều tối thượng.
Nhưng người bạn này muốn biết tại sao người ta
phải đi vì nó khi có nguy hiểm. Tôi nói, người ta phải đi
chính xác là vì có nguy hiểm. Và tôi nói, đừng đi khi
không có nguy hiểm. Đừng bao giờ đi nếu không có
nguy hiểm, bởi vì chẳng có gì ngoài cái chết. Và bạn
phải đi nếu có nguy hiểm, bởi vì khả năng của cuộc
sống dư thừa tồn tại ở đó.
Nhưng tất cả chúng ta đều quá đỗi yêu mến an toàn.
Chúng ta sợ những nguy hiểm của bất an, chúng ta chạy
trốn khỏi nó, chúng ta che giấu mình với nó. Và do vậy
chúng ta làm mất bản thân cuộc sống trong việc mặc cả.
Nhiều người làm mất cuộc sống trong cố gắng cứu lấy
nó. Họ một mình sống cuộc sống, những người không
cứu nó, người sống với từ bỏ, người sống một cách
nguy hiểm. Quả thực có nguy hiểm, và đó là lí do tại
sao bạn phải đi vì nó. Và đó là nguy hiểm lớn nhất có
thể có. Việc trèo lên đỉnh Everest cũng không nguy
hiểm đến thế. Việc lên tới mặt trăng nữa, cũng không
nguy hiểm đến thế, mặc dù gần đây vài nhà du hành vũ
trụ đã lạc đường đi tới nó. Nguy hiểm này lớn, nhưng
nguy hiểm này bị giới hạn vào thân thể; chỉ thân thể bị
thay đổi qua cái chết. Nhưng nguy hiểm trong thiền còn
lớn hơn là đi lên mặt trăng.
Nhưng tại sao chúng ta sợ nguy hiểm thế? Bạn đã
bao giờ nghĩ tại sao chúng ta khiếp hãi nguy hiểm nhiều
thế không? Đó là dốt nát nằm sau tất cả những khiếp hãi
đó. Chúng ta sợ rằng chúng ta có thể đi tới chấm dứt; chúng ta sợ chúng ta có thể biến mất; chúng ta sợ chúng
ta có thể chết. Cho nên chúng ta làm mọi thứ để bảo vệ,
để an toàn, để củng cố, để bao quanh và để che giấu bản
thân mình khỏi nguy hiểm. Chúng ta làm mọi thứ để
chạy trốn khỏi chúng; chúng ta nhảy vào mọi con
đường thoát chúng ta biết.
Tôi đã nghe một giai thoại. Tôi đã nghe nói rằng
một nhà vua đã xây dựng một cung điện lớn, nhưng nó
chỉ có một cổng, một lối vào duy nhất, cho nên nhà vua
có thể được bảo đảm an toàn khỏi các nguy hiểm. Cung
điện này không có cửa ra vào hay cửa sổ khác, để cho
kẻ thù không thể vào được qua chúng. Cho nên nó như
cái nhà mồ hơn là ngôi nhà. Nhưng cho dù một chiếc
cửa cũng đặt ra nguy hiểm, vì kẻ giết người có thể vào
cung điện đó và đi ra qua chính chiếc cửa này. Cho nên
nhà vua đã đặt một nghìn lính gác vũ trang tại mỗi chiếc
cửa này.
Một nhà vua lân bang tới thăm khi ông này được
biết rằng bạn mình đã xây dựng nên một cung điện với
những phương cách an ninh thế mà chưa từng vị vua
nào đã từng có. Và ông ấy hài lòng khi thấy nó - ông ấy
nói rằng cung điện này an ninh thế, nó tuyệt đối không
có nguy hiểm gì từ các kẻ thù. Và ông ấy cũng nói rằng
ông ấy sẽ xây một cung điện tương tự cho mình.
Khi hai nhà vua bước ra khỏi cung điện mới này,
nhà vua tới thăm ca tụng bạn mình một lần nữa vì việc
xây cung điện đẹp thế và an ninh thế và nói rằng ông ấy
muốn một chiếc như thế được xây cho mình. Nhưng khi
ông ấy nói lời tạm biệt bạn mình và trèo lên xe ngựa của
mình, thì một người ăn xin ngồi bên cạnh đường cất lên
tiếng cười khanh khách. Ông chủ cung điện này hỏi
người đó sao lại cười. Người ăn xin nói, "Như tôi thấy
nó, thì đã có một sai lầm trong xây dựng ngôi nhà này.
Tôi đã từng ngồi ở đây từ lúc ngôi nhà này còn đang
được xây dựng. Và kể từ đó, tôi đã chờ đợi cơ hội này
để nói với ngài về điều đó. Có một sai lầm - và chỉ một
sai lầm thôi."
Nhà vua muốn biết về điều đó, và người ăn xin nói,
"Cánh cửa mà ngài đã cho phép hiện hữu đã làm cho
bản thân nó thành nguy hiểm, nó là nguy hiểm. Có thể
không ai sẽ có khả năng đi vào trong ngôi nhà này,
nhưng cái chết chắc chắn đi vào qua cửa này. Cho nên
tôi gợi ý ngài nên ở bên trong ngôi nhà và để cho cánh
cửa này được bít lại bằng gạch từ bên trong. Thế thì
ngài sẽ tuyệt đối được bảo vệ, vì cái chết không thể vào
được."
Thế rồi nhà vua nói, "Ông điên. Trong trường hợp
đó cái chết sẽ chẳng cần đi vào cung điện, bởi vì ta sẽ
chết ngay khi cánh cửa này bị bít lại. Ngôi nhà này sẽ
trở thành nấm mồ." Bây giờ người ăn xin này nói, "Nó
đã là nấm mồ rồi, ngoại trừ mỗi cánh cửa này thôi. Và
ông nữa cũng thừa nhận rằng nó sẽ trở thành nấm mồ
nếu cánh cửa này bị bỏ đi" Khi nhà vua gật đầu thì
người ăn xin nói thêm, "Càng nhiều cửa bị bỏ đi thì nó
càng trở nên giống ngôi mộ. Bây giờ chỉ một cửa còn
lại."
Người ăn xin nói thêm, "Một thời ngay cả tôi nữa
cũng đã sống bị bao kín trong ngôi nhà. Nhưng thế rồi
tôi đã phát hiện ra rằng cuộc sống bị vây kín thì cũng
hệt như chết vậy. Bệ hạ nữa, cũng có thể thấy rằng nếu
chiếc cửa duy nhất còn trong nhà bệ hạ mà bị bít lại, thì
nó sẽ trở thành nấm mồ. Tôi đã kéo đổ tất cả các bức
tường của ngôi nhà tôi sống, và bây giờ tôi đang ở dưới
bầu trời rộng mở. Và như bệ hạ nói đấy, nếu ngôi nhà này mà hoàn toàn bị bít lại thì nó sẽ là tất cả cái chết,
cho nên tôi nói rằng nó tất cả sẽ là cuộc sống nếu nó mở
và không được bảo vệ về mọi phía. Tôi nhắc lại rằng
khi nó tất cả đều mở và không được bảo vệ thì nó đã trở
thành cuộc sống - cuộc sống dư thừa. Có đủ nguy hiểm,
nhưng nó là dư thừa cuộc sống."
Có nguy hiểm, và đó là lí do tại sao nó đang mời
gọi. Và chính bởi lí do này mà bạn không ủng hộ nó. Và
đó là than, chứ không phải là viên kim cương đối diện
với nguy hiểm. Và đó là dòng sông, chứ không phải là
đại dương đang đương đầu với nguy hiểm. Và đó là
bạn, chứ không phải là Thượng đế bên trong bạn là
người gặp nguy hiểm. Cho nên bây giờ bạn nghĩ điều đó
cho bản thân mình. Nếu bạn muốn cứu mình, bạn sẽ
phải làm mất Thượng đế. Và nếu bạn muốn tìm Thượng
đế, bạn sẽ phải làm mất bản thân mình.
Một đêm ai đó hỏi Jesus, "Tôi phải làm gì để tôi tìm
được Thượng đế mà ngài cứ nói mãi?" Jesus nói, "Ông
không phải làm gì ngoại trừ việc ông làm mất bản thân
mình. Đừng tự cứu mình." Người này nói, "Ông nói gì
vậy? Tôi sẽ được gì nếu tôi làm mất bản thân mình?"
Và Jesus trả lời, "Người mất sẽ tìm thấy bản thân mình,
còn người giữ, sẽ làm mất bản thân mình vĩnh viễn."
Các bạn có thể hỏi nếu các bạn có thêm gì để hỏi.
Câu hỏi được hỏi là:
Sự việc thế nào khi kundalini bắt đầu thức dậy có
xuất hiện ngăn cản trên con đường của nó và sự
việc thế nào nếu luồng chuyển của nó bị chặn lại?
Lí do cho điều đó là gì? Và chúng tôi có thể làm gì
để làm cho nó chuyển động tiếp?
Không có nhiều lí do mà chỉ có một lí do thôi. Đó là
việc chúng ta không cầu khẩn nó, cầu khẩn nó bằng tất
cả mọi ý chí và sức mạnh của chúng ta, và việc chúng ta
không đem tất cả năng lượng của mình vào thức tỉnh nó.
Nỗ lực của chúng ta bao giờ cũng manh mún và không
đầy đủ; chúng chưa bao giờ toàn bộ cả. Bất kì điều gì
chúng ta làm, chúng ta đều làm nó một cách nửa vời.
Chúng ta chẳng làm cái gì toàn tâm cả. Và đây là cản
trở; không có cản trở nào khác hơn điều này. Và sẽ
không có cản trở bất kì cái gì, nếu chúng ta làm mọi sự
một cách toàn bộ. Nhưng tất cả chúng ta qua các kiếp
sống của mình chúng ta đã thành thói quen chỉ đi nửa
đường thôi, chúng ta chưa bao giờ đi toàn thể con
đường. Cho dù chúng ta yêu, chúng ta cũng yêu kiểu
nửa vời; chúng ta yêu một người và chúng ta cũng ghét
người đó. Có vẻ kì lạ rằng chúng ta ghét chính người
chúng ta yêu. Chúng ta yêu một người, chúng ta muốn
sống vì người đó, và nhiều lúc chúng ta cũng nghĩ tới
việc giết người đó. Khó mà tìm được một người yêu
không nghĩ về người mình yêu bị chết.
Cuộc sống của chúng ta theo kiểu nó bao giờ cũng
bị phân chia, bao giờ cũng một nửa-và-một nửa. Và hai
nửa này bao giờ cũng kéo theo các hướng đối lập.
Không giống như hai chân chúng ta, chân phải và chân
trái, tiến lên trước theo cùng hướng, hai nửa của tâm trí
chúng ta đi vào các hướng đối lập. Và đó là cái gây cho
chúng ta căng thẳng và xung khắc. Bất ổn này của các
kiếp sống của chúng ta là gì, nếu không phải là điều chúng ta bao giờ cũng nửa nọ nửa kia - chia chẻ, manh
mún và hờ hững?
Một thanh niên tới tôi và nói rằng trong hai mươi
năm anh ta đã nghĩ mãi tới tự tử. Tôi bảo anh ta, "Bạn
điên thế, sao bạn không làm điều đó đi? Hai mươi năm
là một thời gian dài. Khi nào bạn mới định tự tử nếu bạn
đã nghĩ về nó suốt hai mươi năm trường? Bạn đằng nào
cũng sẽ chết. Bạn sẽ tự tử sau khi bạn chết chứ?" Anh
thanh niên này giật mình và anh ta nói, "Thầy nói gì
vậy? Tôi tới thầy với hi vọng rằng thầy sẽ thuyết phục
tôi đừng làm điều đó." Thế là tôi nói, "Bạn cần tôi
thuyết phục bạn sao, khi bạn đã không làm điều đó
trong hai mươi năm?" Câu trả lời của anh ta là, "Bất kì
ai tôi gặp đều thuyết phục tôi đừng tự tử."
"Đấy là bởi vì những người thuyết phục đó," tôi bảo
anh ta, "mà bạn đã chẳng sống chẳng chết. Bạn chỉ nửa
vời. Bạn nên hoặc sống hoặc chết; đừng làm cả hai điều
này cùng nhau. Nếu bạn muốn sống thì từ bỏ ý nghĩ tự
tử và bắt đầu sống một cách đầy đủ. Còn nếu bạn muốn
chết thế thì từ bỏ ý nghĩ về sống và chết một cách toàn
thể."
Anh thanh niên này ở lại với tôi hai hay ba ngày. Và
mọi ngày tôi đều bảo anh ta điều này; "Bây giờ đừng
nghĩ tới sống. Nếu bạn đã nghĩ tới chết trong hai mươi
năm rồi, thì tốt hơn cả bây giờ bạn chết đi." Ngày thứ ba
anh ta nói với tôi, "Sao thầy nói điều đó? Xin đừng nói.
Tôi muốn sống." Thế là tôi nói, "Không phải tôi yêu cầu
bạn chết đi đâu. Chính bạn là người nói rằng bạn đã
muốn chấm dứt cuộc sống mình trong suốt hai mươi
năm."
Bây giờ đấy là vấn đề đáng xem xét. Nếu một người
nghĩ về tự tử trong hai mươi năm và vậy mà vẫn chưa
chết thế thì hiển nhiên người đó cũng không sống. Làm
sao người đó có thể sống mà thường xuyên nghĩ tới chết
được? Chúng ta đều nửa nọ nửa kia. Và thói quen sống
nửa nọ nửa kia này đã thấm vào toàn bộ cuộc sống của
chúng ta. Chúng ta không thể trở thành người bạn hoàn
toàn với ai đó mà cũng không là kẻ thù toàn bộ với
người khác. Chúng ta không có khả năng là bất kì cái gì
toàn bộ. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ việc là kẻ
thù đầy đủ còn nhiều niềm vui hơn là người bạn nửa
vời.
Trong thực tế, hễ cứ làm bất kì cái gì một cách toàn
bộ thì cũng đều phúc lạc, bởi vì bất kì khi nào toàn bộ
bản thể bạn được tham gia vào, tất cả năng lượng tiềm
tàng của thân thể bạn tập hợp lại với nhau và hợp tác
với bạn. Còn bất kì khi nào bạn bị phân chia và chia
chẻ, bạn trong xung khắc và bạn vật lộn bên trong mình.
Bây giờ nếu việc đánh thức kundalini bị cản trở trên
đường của nó, điều đó chỉ có nghĩa là một mặt bạn
muốn đánh thức nó và mặt khác bạn sợ việc đánh thức
nó. Bạn đang đi tới ngôi đền và đồng thời bạn không có
dũng cảm để vào nó. Bạn đang làm cả hai cùng nhau.
Bạn chuẩn bị cho thiền và đồng thời bạn không thu
được dũng cảm để nhảy vào trong nó. Bạn muốn bơi
trong sông, bạn đã đi tới bờ sông, và vậy mà bạn vẫn
đứng trên mép bờ nghĩ xem phải làm gì. Bạn muốn bơi
vậy mà bạn không muốn vào trong nước. Cứ dường như
là bạn muốn bơi bên trong phòng ngủ của mình, cứ
dường như là bạn muốn làm việc với tay và chân mình
bằng việc nằm trên chiếc tràng kỉ có nệm và có niềm
vui của việc bơi. Không, bạn không thể tận hưởng được
việc bơi bằng việc nằm dài trên chiếc tràng kỉ thoải mái
trong phòng ngủ của bạn. Điều này là ngu xuẩn. Niềm vui thực của việc bơi được gắn liền không tách rời với
nguy hiểm.
Nếu thiếu nhiệt tình, điều đó sẽ cản trở kundalini
theo nhiều cách. Đó là lí do tại sao nhiều bạn sẽ cảm
thấy rằng mọi sự đã đi tới chỗ dừng lại.
Nếu kundalini đi tới chỗ dừng thì nhớ chỉ một
điều... và đừng tìm cớ để biện minh cho nó. Chúng ta
tìm đủ mọi loại cớ: nào nghiệp của các kiếp sống quá
khứ đang tới trên đường, nào các sao còn chưa thích
hợp, nào thời đã không đến. Không điều nào trong
những điều này mà chúng ta quen nghĩ là đúng cả. Chỉ
một điều là đúng: rằng bạn không làm hết sức để đánh
thức nó. Nếu có bất kì chướng ngại nào ở bất kì đâu,
nghĩ rằng bạn đã không lấy cú nhảy đầy đủ, và thế rồi
nhảy với lực đầy đủ. Đem tất cả năng lượng của bạn vào
nó và buông bỏ bản thân mình toàn bộ. Thế thì
kundalini sẽ không bị chặn lại tại bất kì trung tâm nào.
Chân lí là ở chỗ kundalini có thể hoàn thành toàn
thể cuộc hành trình của nó trong một khoảnh khắc; và
thậm chí nó có thể lấy đi nhiều năm. Tất cả chỉ là vấn
đề cam kết - liệu nó có là toàn bộ hay phân mảnh. Nếu ý
chí chúng ta, tâm trí chúng ta là toàn bộ, toàn thể sự
việc có thể xảy ra ngay bây giờ, chính khoảnh khắc này.
Nếu kundalini bị ngăn lại ở bất kì đâu, điều đó chỉ
có nghĩa là bạn đã không đầu tư toàn thể năng lượng
của mình vào nỗ lực của mình. Cho nên hợp tác với nó
một cách đầy đủ, và đem tất cả năng lượng của bạn vào
cho nó. Có vô hạn năng lượng được cất giữ bên trong
mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta chưa bao giờ sử
dụng bản thân mình trong bất kì cái gì theo cách lớn lao.
Chúng ta bao giờ cũng sống ở ngoại vi của cuộc sống,
chúng ta chưa bao giờ đào sâu vào trong nó. Chúng ta
chưa bao giờ cầu khẩn và triệu tập gốc rễ của mình, gốc
rễ của bản thể chúng ta; chúng ta chưa bao giờ cầu khẩn
chúng, và đó là lí do tại sao có chướng ngại. Và nhớ lấy,
không có vấn đề nào khác hơn vấn đề này.
Một bạn hỏi: Chúng tôi được sinh ra với đói, ngủ và
khát, nhưng không với khao khát về thượng đế. Sao
vậy?
Cũng có ích để hiểu điều này. Khao khát về Thượng
đế nữa, cũng tới với việc sinh thành của chúng ta,
nhưng phải mất thời gian lâu để biết nó. Chẳng hạn, trẻ
con được sinh ra với dục, nhưng chúng phải mất mười
bốn năm để biết nó. Ham muốn dục tới với việc sinh
của chúng, nhưng chúng phải mất mười bốn tới mười
lăm năm để nhận ra nó. Và tại sao phải mất nhiều thời
gian thế? Ham muốn, khát khao có đó bên trong bạn,
nhưng thân thể không được chuẩn bị cho nó. Thân thể
mất mười bốn năm để trưởng thành và chín muồi về
dục, và thế rồi ham muốn này được thức tỉnh. Cho tới
lúc đó nó vẫn còn ở trong trạng thái tiềm tàng.
Khát khao về Thượng đế nữa cũng tới với việc sinh,
nhưng thân thể chưa chín và chưa sẵn sàng. Và ngay khi
thân thể được chuẩn bị thì khát khao này được phát
sinh. Kundalini chuẩn bị cho sự trưởng thành đó, sự
chín muồi đó. Nhưng bạn có thể hỏi tại sao tự nó không
xảy ra. Đôi khi nó có xảy ra theo cách riêng của nó,
nhưng điều như thế này cần được hiểu cẩn thận.
Trong tiến hoá của nhân loại một số điều xảy ra
trước với cá nhân và rồi với nhóm người. Chẳng hạn, nếu bạn xem qua toàn thể Veda thế thì dường như là
chẳng có nhận biết gì về hương thơm hay mùi hôi trong
thời của Vedas. Trong tất cả các kinh sách của thế giới
đương đại với Rigveda, không có nhắc gì tới khứu giác
ở đâu cả. Hoa tất nhiên có được nhắc tới, nhưng không
có hương thơm. Những người biết đều nói rằng cho tới
thời của Rigveda khứu giác của con người vẫn còn chưa
được thức tỉnh. Về sau đó nó đã thức tỉnh trong trường
hợp của vài cá nhân. Thậm chí ngày nay, mùi vị cũng
không có ý nghĩa gì đối với nhiều người; chỉ với vài
người nó mới có nghĩa. Trong thực tế khứu giác phải
thức tỉnh đầy đủ trong mọi người. Các công xã càng
phát triển thì càng có nhiều khứu giác hơn, và công xã
kém phát triển người ta ít có nó nhiều hơn. Vẫn còn tồn
tại vài bộ lạc trên trái đất này không có từ dành cho
hương thơm trong ngôn ngữ của họ. Cho nên khứu giác
trước hết tới cho vài cá nhân và dần dần trưởng thành và
trở thành một phần của tâm trí tập thể.
Giống như khứu giác, nhiều điều khác tới trong
nhận biết của con người chỉ dần dần thôi. Chúng không
tồn tại trong quá khứ. Nhận biết của con người về màu
tạo ra câu chuyện đáng ngạc nhiên. Aristotle trong cuốn
sách của mình đã nói tới chỉ mỗi ba màu. Cho tới thời
của Aristotle, mọi người ở Hi Lạp đã đã nhận biết về
mỗi ba màu; họ đã không biết gì về các màu khác.
Chính qua một thời kì thời gian dài và cứ dần dần mà
một số màu khác đã trở thành thấy được đối với họ. Và
đừng nghĩ rằng ngay cả ngày nay chỉ có ngần ấy màu
như mắt chúng ta thấy được. Có nhiều màu hơn thế này,
nhưng chúng ta còn chưa nhận biết về chúng. Nhạy cảm
của chúng ta vẫn còn chưa được phát triển. Đó là lí do
tại sao đôi khi dưới ảnh hưởng của LSD hay mescaline
hay hashish hay marijuana, một số màu mới trở thành
thấy được cho mắt chúng ta, điều chúng ta chưa bao giờ
thấy trước đây. Và màu sắc là nhiều vô kể. Nhưng chỉ
dần dần và qua một khoảng thời gian dài chúng ta mới
trở nên nhạy cảm với chúng.
Ngay cả ngày nay, có một số người trên thế giới là
người mù màu, người không có cảm giác màu sắc. Nếu
có một nghìn người ngồi đây, ít nhất năm mươi người
trong số họ phải là mù với màu này màu khác. Mặc dầu
bản thân họ có thể không nhận biết về điều đó. Và vài
người có thể đến mức không thể phân biệt nổi giữa màu
lục và vàng. Gạt sang bên những người thường, ngay cả
một số người vĩ đại và lỗi lạc cũng đã được tìm ra là mù
màu.
Một người như Bernard Shaw không thể phân biệt
được màu lục với màu vàng. Và mãi cho tới độ tuổi sáu
mươi ông ấy vẫn không biết rằng mình không thể phân
biệt nổi giữa màu lục và màu vàng. Ông ấy đi tới biết ra
điều đó vào ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ sáu mươi
của mình khi ai đó tặng cho ông ấy bộ com lê xem như
món quà sinh nhật. Nó có màu lục, nhưng bộ com lê
thiếu một thứ - chiếc cà vạt. Người bạn này đã quên
mua cà vạt đi kèm bộ áo com lê. Cho nên Shaw ra chợ
để mua cà vạt hợp với bộ com lê, và ông ấy đã hỏi mua
chiếc cà vạt màu vàng. Người chủ tiệm lễ phép nói rằng
chiếc cà vạt vàng sẽ không hợp với bộ com lê màu lục.
Shaw ngạc nhiên khi nghe nói điều đó và cứ nhấn mạnh
rằng màu của cà vạt và màu của bộ com lê là một. Bây
giờ đến lượt ông chủ tiệm thấy buồn cười, và ông ấy
hỏi, "Sao chúng cùng màu được cơ chứ thưa ngài? Ngài
có trẻ con không đấy?" vì ông ấy biết rằng Shaw rất giỏi
đùa cợt. Ông ấy nói, "Có lẽ đấy chỉ là trò đùa khi ông
nói rằng bộ com lê này và chiếc cà vạt có cùng màu.
Chúng đâu cùng màu; chiếc cà vạt màu vàng trong khi bộ com lê màu lục." Nhưng dầu vậy Shaw vẫn cứ khăng
khăng và tò mò hỏi màu vàng là gì.
Thế rồi Bernard Shaw phải được đưa đi kiểm tra
mắt và bác sĩ xác nhận rằng ông ấy bị mù màu vàng.
Có thời màu vàng là không thấy được cho mắt con
người. Đây là bổ sung mới nhất vào danh sách màu con
người biết tới. Một số màu khác cũng là mới nữa.
Âm nhạc không có nghĩa cho mọi người. Nó có
nghĩa cho vài người thôi. Và chỉ vài người đánh giá
được sắc thái của nó thực sâu. Với phần còn lại nó
chẳng là gì ngoài âm thanh và tiếng ồn - chẳng mang ý
nghĩa gì. Nhận biết và đánh giá của họ về các nốt nhạc
vẫn còn chưa phát triển và chưa sâu sắc. Trong thực tế,
mãi cho tới giờ âm nhạc đã không là kinh nghiệm tập
thể của loài người.
Cho nên khi có liên quan tới Thượng đế, ngài là
kinh nghiệm rất rất xa vời, người siêu việt lên trên mọi
giác quan, người ở bên ngoài mọi giác quan. Ngài là
kinh nghiệm tối thượng; không có gì bên ngoài ngài. Đó
là lí do tại sao rất ít người trở nên được thức tỉnh, mặc
dầu tiềm năng được thức tỉnh nằm trong mọi người và
nó tới người đó cùng việc sinh.
Nhưng bất kì khi nào một người giữa chúng ta thức
tỉnh, thì việc thức tỉnh của người đó nữa cũng trở thành
một nhân tố để khuấy động khao khát tiềm ẩn về
Thượng đế trong nhiều người. Bất kì khi nào một người
như Krishna vươn lên giữa chúng ta, chính tầm nhìn của
người đó, chính sự hiện diện của người đó bắt đầu làm
thức tỉnh trong chúng ta điều đã từng ngủ từ lâu thế.
Cơn khát, cơn đói về Thượng đế đi cùng mỗi chúng
ta, và nó tới với việc sinh của chúng ta. Nhưng nó
không được phép thức dậy, nó bị kìm nén. Và có nhiều
lí do cho nó. Điều quan trọng nhất trong chúng là ở chỗ
đám đông khổng lồ bao quanh chúng ta, đám đông bao
la những người mà chúng ta sống cùng, hoàn toàn
không có khao khát đó. Đó là lí do tại sao khi khao khát
này bắt đầu dâng lên trong ai đó, người đó lập tức kìm
nén nó, bởi vì đó dường như là một loại điên khùng với
người đó. Trong một thế giới mà tất cả mọi người xung
quanh bạn đều đầy những ham muốn mãnh liệt về tiền
bạc, ham muốn mãnh liệt về danh vọng, thì ham muốn
mãnh liệt về tôn giáo có vẻ như điên khùng. Và nó làm
cho tất cả mọi người xung quanh hoài nghi về người
đang khao khát tôn giáo, họ cho rằng người đó đang ra
khỏi tâm trí mình. Cho nên con người tự kìm nén mình.
Khao khát mãnh liệt này không được phép phát sinh, nó
bị kìm nén từ đủ mọi phía.
Thế giới chúng ta vừa tạo ra không có chỗ cho
Thượng đế, và chúng ta chịu trách nhiệm cho điều đó.
Bởi vì như tôi đã nói, cho phép Thượng đế có chỗ đứng
là điều nguy hiểm, cho nên chúng ta không dành cho
ngài góc nào. Vợ sợ rằng Thượng đế có thể đi vào cuộc
sống của chồng mình, bởi vì với việc tới của ngài thì vợ
có thể biến mất, cô ấy có thể trở thành vô nghĩa với anh
ấy. Chồng theo cùng cách đó sợ rằng nếu Thượng đế tới
trong cuộc sống của vợ mình, thì vị trí riêng của anh ta
như Thượng đế thực sự của cô ấy - Thượng đế thay thế
- sẽ bị nguy hiểm. Thượng đế thay thế sẽ không có ở
đâu cả. Đó là lí do tại sao chúng ta đã không cho phép
Thượng đế có chỗ trong thế giới mà chúng ta đã tạo ra,
bởi vì Thượng đế sẽ là nhân tố gây rối loạn ở đây. Nếu
ngài tới, ngài sẽ gây rối, ngài nhất định gây rối cái này
cái nọ; ngài sẽ làm đảo lộn nhiều thứ. Tại đây việc ngủ
sẽ qua đi, tại kia cái gì đó khác sẽ xảy ra, và ở chỗ khác điều gì đó sẽ phải thay đổi. Chúng ta sẽ dừng là điều
chúng ta đang là. Đó là lí do tại sao chúng ta giữ
Thượng đế ở ngoài thế giới của mình.
Nhưng như trong trường hợp khao khát Thượng đế
nảy sinh ngẫu nhiên - để tránh nguy hiểm đó - chúng ta
đã tạo ra các thượng đế giả, các thần tượng đá, trong
nhà mình, và chúng ta tôn thờ chúng, để cho khát khao
này không trực tiếp hướng tới Thượng đế thực. Chúng
ta có các thượng đế thay thế ở khắp nơi. Điều này biểu
thị cho tinh ranh tồi tệ nhất của con người và âm mưu
lớn lao nhất của con người chống lại Thượng đế mãi.
Những thượng đế nhân tạo này là biểu tượng cho âm
mưu ghê gớm nhất chống lại tôn giáo và Thượng đế đã
từng được ngấm ngầm dự định. Và chính vì điều này
mà niềm khát khao của con người về Thượng đế đã
không được phép biến thành việc truy tìm Thượng đế -
thay vì thế bị đi lạc quanh đền chùa và nhà thờ mà vốn
dĩ chẳng đáng giá gì. Và khi con người không tìm thấy
cái gì trong đền chùa và nhà thờ, con người thất vọng và
dường như với người đó nhà riêng của mình còn tốt hơn
chúng. Rồi con người nói, "Có quái gì trong đền chùa
và nhà thờ đâu?" Thế là người đó quay về nhà sau khi
đến thăm chúng. Người đó không biết rằng đền chùa và
nhà thờ là can thiệp của tinh ranh và lừa dối lớn lao.
Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối quỉ trở về nhà
chán ngán và thất vọng và nói với vợ mình, "Ta đã bị
thành thất nghiệp tuyệt đối; ta chẳng có gì trong tay để
làm cả." Vợ quỉ nhảy lùi lại, cũng như tất cả các bà vợ
tỏ ra khi biết tin chồng mình mất việc, và cô ấy hỏi,
"Anh thất nghiệp à? Làm sao có thể như thế được? Làm
sao anh, trong tất cả mọi người, mà bị mất việc? Điều
đó là không thể được, bởi vì việc của anh là vĩnh viễn.
Việc làm biến chất mọi người sẽ diễn ra mãi mãi. Nó là
vậy nó không bao giờ có thể đi tới chấm dứt. Làm sao
anh làm mất nó được? Cái gì làm cho anh thành thất
nghiệp?" Quỉ nói, "Ta đã bị làm thành thất nghiệp theo
một cách rất kì lạ. Công việc của ta đã bị các đền chùa
và nhà thờ chiếm giữ, bởi các tu sĩ và học giả. Ta không
còn được cần tới chút nào. Ta có thể làm gì khác ngoại
trừ việc làm chệch hướng mọi người khỏi con đường đi
tới Thượng đế đây? Bây giờ không ai còn bước trên con
đường đó nữa; đền chùa và nhà thờ hồi giáo có đó để
làm lệch họ khỏi nó. Cho nên ta không có cơ hội đưa họ
đi lạc lối như ta vẫn thường làm thời gian lâu thế."
Khao khát Thượng đế có đó từ bao giờ. Nhưng
chúng ta bắt đầu giáo dục mọi người về Thượng đế từ
thời thơ ấu sớm sủa của họ và đó chính là điều gây ra tai
hại. Trước khi thực tế biết Thượng đế, một ảo tưởng
được tạo ra rằng chúng ta biết ngài. Cho nên mọi người
đều nghĩ mình biết Thượng đế. Trước khi khao khát này
được đánh thức, chúng ta đã được cho uống nước, và
điều này tạo ra chán chường và sợ hãi. Chính vì các
giáo huấn sai lầm của chúng ta mà chúng ta phát triển
việc không ưa Thượng đế; chúng ta mất đi tất cả mọi
mối quan tâm tới ngài. Chúng ta nhồi nhét vào đầu
mình đầy những Gita, Koran và Kinh Thánh, chúng ta
tống vào tâm trí mình đầy những lời của các thánh nhân
và mahatmas, điều đó trở thành buồn nôn và chúng ta
muốn vứt bỏ nó sớm còn hơn là muộn. Cho nên vấn đề
đạt tới Thượng đế không phát sinh.
Toàn thể xã hội chúng ta bắt đầu phản đối, toàn bộ
hệ thống của chúng ta chống lại Thượng đế. Và đó là lí
do tại sao khát khao về Thượng đế khó nảy sinh thế. Và
ngay cả khi nó nảy sinh, người có liên quan đối với
chúng ta dường như gàn gàn dở dở; người đó lập tức bị
coi là có vấn đề tâm thần. Điều đó là vậy bởi vì người đó bây giờ khác thế với những người chúng ta còn lại.
Người đó bắt đầu sống theo cách khác; ngay cả cách thở
của người đó cũng thay đổi, toàn bộ phong cách sống
của người đó thay đổi. Đó là thay đổi lớn lao. Người đó
thôi là một người trong chúng ta; người đó trở thành
người xa lạ với chúng ta.
Thế giới chúng ta đã xây dựng nên là chống lại
Thượng đế. Và chúng ta đã thành công nhiều thế, và
tiếp tục thành công cho tới ngày này. Chúng ta đã vứt
Thượng đế đi, chúng ta đã đuổi ngài đi hoàn toàn. Và
điều kì cục là ở chỗ chúng ta đã đuổi ngài ra khỏi thế
giới riêng của ngài. Và chúng ta đã dựng nên chướng
ngại vật không có lối mở để Thượng đế có thể vào lại
thế giới của chúng ta. Cho nên làm sao khao khát này
nảy sinh được?
Cho dù khao khát này không nảy sinh, cho dù nó
thậm chí không được biết tới, vậy mà một loại bất ổn
bên trong, và dòng chảy ngầm của nỗi thống khổ cứ
theo đuổi chúng ta qua các kiếp sống của mình. Người
ta đạt tới danh vọng, vậy mà người ta vẫn cảm thấy
trống rỗng bên trong. Người ta cóp nhặt của cải, vậy mà
người ta vẫn thấy thiếu cái gì đó, cái gì đó vẫn còn chưa
được đạt tới. Người ta thấy tình yêu, vậy mà dường như
là cái gì đó vẫn còn phải được tìm thấy, người ta vẫn
còn không được thoả nguyện. Cái gì là cái dường như bị
thiếu vào mọi lúc người ta đạt được thành công trong
cuộc sống?
Đó là khao khát bên trong mà chúng ta đã kìm nén,
cái mà chúng ta đã không cho phép nảy sinh, trưởng
thành và được thoả mãn. Khao khát đó thỉnh thoảng
ngẩng đầu lên; nó biến thành dấu hỏi trên mọi con
đường chúng ta đi. Và nó nói với chúng ta, "Mình đã
đạt tới biết bao nhiêu danh tiếng, vậy mà mình vẫn
chẳng đạt được gì cả; mình đạt tới mọi thứ vậy mà mình
vẫn trống rỗng." Khao khát đó gây đau đớn và làm
chúng ta bị thương, khao khát đó quấy nhiễu và dằn vặt
chúng ta từ mọi điểm thuận lợi trong các kiếp sống của
chúng ta. Nhưng chúng ta phủ nhận nó và tự làm mình
bận rộn mình trong công việc với niềm hăm hở đến mức
chúng ta chẳng thể nghe được tiếng nói nhỏ nhoi của
nó.
Đó là lí do tại sao người tham gia vào việc làm tiền
thì cứ đâm đầu vào nó, còn người đuổi theo danh tiếng
bắt đầu chạy như ngựa phi nước đại. Họ bít tai lại để
cho họ không phải nghe rằng họ đã chẳng tìm thấy gì
trong việc theo đuổi tham vọng của mình. Chúng ta làm
đủ mọi thứ trong quyền lực của mình để ngăn cản khao
khát này nảy sinh. Bằng không thì một ngày sẽ tới khi
trẻ con trong thế giới này sẽ được sinh ra với khao khát
Thượng đế này như chúng được sinh ra với đói, khát và
dục. Một thế giới như vậy có thể được tạo ra, và xứng
đáng tạo ra. Nhưng ai sẽ làm điều đó?
Chỉ một số người tìm kiếm Thượng đế mới có thể
tạo ra thế giới như vậy. Nhưng để làm như vậy điều cần
thiết là tất cả mọi mưu đồ chống lại Thượng đế, vẫn
hiển nhiên từ trước tới giờ, đều bị chặn đứng và đánh
bại.
Quả thực có khao khát, nhưng con người có thể
nghĩ ra các biện pháp nhân tạo để kìm nén nó. Trong
hàng nghìn năm ở Trung Quốc, đàn bà bị buộc phải đi
giầy thép để cho bàn chân họ nhỏ nhất có thể được.
Chân nhỏ được coi là biểu tượng cho cái đẹp. Bàn chân
càng nhỏ, địa vị gia đình cô gái càng ở cấp cao hơn.
Cho nên chân họ vẫn còn nhỏ tới mức đàn bà bước đi khó khăn. Trong khi thân thể họ phát triển thì chân vẫn
còn bị còi cọc và nhỏ bé. Họ không thể bước được. Và
người đàn bà không bước được được gọi là quí bà thuộc
vào hoàng gia. Vợ người nghèo không thể đảm đương
được điều đó, bởi vì cô ấy cần có chân lớn để có thể
bước đi và làm việc. Chỉ đàn bà dòng dõi quí tộc mới có
thể làm mà không bước đi; họ bước đi bằng sự giúp đỡ
của người khác. Mặc dầu họ đi khập khiễng - chẳng có
gì ngoài trạng thái khập khiễng - họ vẫn được coi là
thanh nhã và đẹp. Ở Trung Quốc ngày nay không đàn
bà nào chấp nhận điều đó. Cô ấy sẽ nói những người
chấp nhận điều đó là điên rồ. Nhưng tục lệ này đã kéo
dài hàng nghìn năm nay.
Khi một thứ trở thành mốt và phổ cập, khó mà thấy
được qua sự ngu xuẩn của nó. Khi hàng nghìn người
tuân theo nó, khi cả đám đông ở đằng sau nó, bạn
không phán xét nó, đánh giá nó. Khi cả xã hội làm cho
đàn bà phải đi giầy thép, tất cả đàn bà đều đi giầy thép.
Và nếu ai đó không tuân theo thực hành này, cô ấy sẽ bị
kết án là đàn bà điên, cô ấy bị coi như người đàn bà
đáng thương và mất danh giá. Cô ấy sẽ không lấy được
chồng tốt và đẹp trai; cô ấy sẽ không được lập gia đình
trong nhà giàu có. Đàn bà với chân to bị xem là thô tục,
vô giáo dục và vô văn hoá. Người ta đã nghĩ rằng chỉ
đàn bà nông dân mới có chân to; chân của người ưu tú
phải nhỏ. Khái niệm này đã làm què quặt đàn bà ở
Trung Quốc trong hàng nghìn năm, và họ chẳng có ý
tưởng rằng đi giầy thép là cực kì điên rồ; nhưng thực tế
này vẫn kéo dài rất lâu. Và chỉ khi nó bị bãi bỏ thì họ
mới có thể thấy sự điên khùng của nó.
Theo cùng cách đó, khi có liên quan tới Thượng đế,
tâm trí của toàn thể nhân loại đã bị làm hư hỏng, què
quặt. Khao khát của con người về Thượng đế, khao khát
của con người để đạt tới ngài đã bị phá huỷ bằng mọi
cách; nó không được phép vươn cao lên chút nào. Và
cho dù nó có vươn lên, các thượng đế thay thế cũng
được bịa ra và họ được bảo rằng nếu chúng ta muốn
Thượng đế thì chúng ta phải đi tới đền chùa, chúng ta
phải đọc Gita, Koran và Kinh Thánh, và chúng ta sẽ tìm
thấy ngài. Thực tế, chẳng cái gì được tìm thấy trong
kinh sách ngoại trừ lời, và chẳng cái gì được tìm thấy
trong đền chùa ngoại trừ các thần tượng bằng đá. Và thế
rồi con người nghĩ rằng có lẽ bản thân khao khát của
mình là giả.
Và thế rồi khao khát này cứ tới rồi đi. Vào lúc các
bạn tới đền chùa, nó qua rồi. Vào lúc bạn đọc Gita, nó
đã biến mất. Dần dần nó thành gượng gạo và mòn mỏi.
Và cuối cùng nó chết khi nó không được phép được
thoả mãn. Chung cuộc nó tàn lụi đi. Nó cũng giống như
cơn đói thể chất. Nếu bạn nhịn ăn trong ba ngày bạn sẽ
kinh nghiệm cơn đói cồn cào trong ngày nhịn thứ nhất.
Cơn đói sẽ còn cồn cào hơn trong ngày thứ hai, và cồn
cào nhất vào ngày thứ ba. Nhưng tới ngày thứ tư, nếu
bạn tiếp tục nhịn ăn, cơn đói sẽ bắt đầu suy giảm và nó
sẽ ít cồn cào hơn vào ngày thứ năm. Ngày thứ sáu nó
càng ít hơn nữa. Và sau mười lăm ngày cơn đói sẽ dừng
hiện hữu. Và nếu bạn nhịn ăn cả tháng, bạn sẽ không
còn biết đói là gì nữa. Bạn sẽ trở nên ngày một yếu hơn,
bạn sẽ ngày một hốc hác hơn, và ngày tiếp ngày bạn sẽ
mất cân vì bạn sẽ tiêu thụ thịt của mình để sống còn,
nhưng cơn đói sẽ biến mất hoàn toàn. Bởi vì nếu cơn
đói không được phép, không được thoả mãn trong cả
tháng, thì nó sẽ chết là cái chắc.
Tôi đã nghe... Có một câu chuyện ngắn do Kafka
kể. Ông ấy viết rằng có một đoàn xiếc với các kiểu diễn
viên khác nhau và đủ loại trò và các loại nhào lộn và biểu diễn. Người chủ rạp xiếc đã thuê cho nhóm diễn
viên một người tinh thông về nhịn ăn. Người này trình
diễn tiết mục của mình về nhịn ăn, và người đó có một
chiếc lều cho mình. Mọi người tới thăm rạp xiếc để xem
nhiều thứ - như các kĩ xảo của những con vật được huấn
luyện, những con vật lạ và hoang dại - và họ cũng tới
xem người nhịn ăn này, người đó cũng là một đối tượng
có sự hấp dẫn lớn. Người đó có thể sống không ăn hàng
tháng. Có lần người đó đã trải qua kì nhịn ăn ba tháng
liền. Cho nên mọi người tới xem ông ta nữa. Nhưng
cũng có giới hạn cho điều đó.
Chuyện xảy ra là trong thị trấn nào đó nhóm xiếc
này nấn ná ở đến sáu hay bảy tháng. Khán giả tới xem
người đó nhịn ăn nửa tháng hay một tháng, nhưng rồi
mối quan tâm của họ cũng phai đi. Đó là lí do tại sao
người ta nói rằng những người biểu diễn và thánh nhân
nên thường kì thay đổi chỗ của mình. Nếu họ ở một chỗ
quá lâu, họ sẽ gặp khó khăn. Mọi người sẽ đứng xem họ
được bao lâu? Cho nên hợp lí nhất là họ đi từ thị trấn
này sang thị trấn khác cứ sau hai hay ba ngày. Khi họ
tới thăm thị trấn mới, mọi người lũ lượt kéo đến họ. Tại
thị trấn khác họ rất thú vị.
Gánh xiếc trong câu chuyện của Kafka ở quá lâu
trong thị trấn đó, và kết quả là khách không đến xem
người biểu diễn nhịn ăn nữa. Họ quên mất lều của ông
ấy hoàn toàn. Và người đó gầy mòn hốc hác thế qua
việc nhịn ăn dài ngày đến mức người đó không thể đi
tới ông quản lí và thông báo cho ông ta về tình trạng của
mình. Ông ấy yếu tới mức ông ấy thậm chí không thể
ngồi dậy trên giường được, cho nên ông ấy cứ nằm và
nằm ở đó. Và vì đoàn xiếc rất lớn, nên ông ấy thực tế bị
quên mất.
Sau một quãng bốn hay năm tháng, ai đó bỗng
nhiên nhớ tới ông ấy vào một sáng đẹp trời và đi hỏi về
ông ấy. Bây giờ ông bầu trở nên lo âu, e rằng người
nhịn ăn có thể chết rồi. Ông ta chạy xô tới lều của ông
ấy, nhưng hoảng sợ khi chẳng thấy người nào ở đó
ngoại trừ một bó cỏ khô mà ông ấy vẫn nằm. Không có
dấu vết của chính con người này. Khi ông bầu gọi tên
ông ấy, không có tiếng trả lời từ ông ấy. Ông ấy mòn
mỏi đến mức không thể nói được. Thế rồi ông bầu bỏ
giường cỏ ra và ông ấy thất kinh khi thấy người nhịn ăn
thu lại thành bộ xương trần. Nhưng con mắt ông ấy bình
an và sống động.
Ông bầu nói với ông ấy, "Ông bạn ơi, tôi chân thành
xin lỗi vì đã quên mất ông, nhưng ông có mất trí không
vậy? Nếu không ai tới thăm ông nữa, thì ông phải ăn trở
lại chứ." Người này đáp, "Nhưng bây giờ thói quen ăn
của tôi đã chết rồi; nó bị chấm dứt rồi. Tôi không cảm
thấy đói chút nào. Và tôi không còn là người biểu diễn
nữa; tôi bị mắc bẫy vào chính bản thân việc biểu diễn;
tôi là tù nhân bất lực trong tay nó. Tôi không còn đóng
kịch nữa, nhưng thực sự không có đói gì cả. Trong thực
tế, bây giờ tôi không biết đói là gì, bởi vì điều người ta
gọi là đói thì không còn xảy ra cho tôi nữa."
Điều gì đã xảy ra cho con người này? Nếu bạn cứ
nhịn ăn lâu dài và kéo dài thêm một cách có phương
pháp, thì cơn đói chắc chắn sẽ chết và biến mất. Cho
nên chúng ta không cho phép cơn đói Thượng đế của
mình được thức tỉnh, bởi vì Thượng đế là nhân tố gây
khuấy động nhất trong cuộc sống chúng ta. Không có gì
trên thế giới có thể gây khuấy động hơn là ngài. Đó là lí
do tại sao chúng ta đã làm mọi việc phòng ngừa ngăn
cản ngài, và làm đủ mọi thu xếp để cho ngài khuất mắt.
Chúng ta đã khoá đường của ngài từ mọi phía và theo cách thức rất có kế hoạch, để cho ngài không vào được
thế giới của chúng ta ngay cả bằng cách lén lút.
Cho dù vậy mọi người đều được sinh ra với khao
khát về Thượng đế. Và nếu được cho cơ hội và tiện nghi
để thức tỉnh, thì tất cả mọi khao khát khác - như khao
khát giầu có và khao khát danh vọng - sẽ biến mất. Thế
thì không khao khát nào khác hơn khao khát Thượng đế
là còn lại. Tất cả chúng không thể cùng đi bên nhau
được. Cho nên để cứu lấy những khao khát này - những
khao khát về giầu có, khao khát quyền lực và danh
tiếng, khao khát về dục - chúng ta phải kìm hãm và đè
nén khao khát của mình về Thượng đế. Bởi vì nếu khao
khát thiêng liêng nảy sinh và chiếm giữ vũ đài, nó trước
hết sẽ khử bỏ đi và rồi tiêu hoá trong chính nó tất cả các
khao khát khác, và nó sẽ độc chiếm vũ đài này. Thượng
đế rất ghen tị. Khi ngài xuất hiện, ngài giữ vũ đài một
mình, tất cả cho chính ngài. Thế thì ngài sẽ không cho
phép người khác làm trò hề quanh ngài. Khi ngài chọn
bạn làm chỗ trú ngụ cho mình, ngôi đền chùa của ngài,
tất cả các nam thần nữ thánh nhỏ bé đều phải ra đi; họ
không thể sống ở đấy được nữa. Như bạn thấy một số
trong họ được tôn thờ trong các đền chùa - thần khỉ
Hanuman có đó và biết bao nhiêu thần khác; tất cả họ
đều sẽ tan biến. Thượng đế sẽ không cho phép họ sống
ở đó nữa. Khi Thượng đế tới, ngài sẽ biến thành một và
tất cả. Một mình ngài sẽ ngồi trên ngai vàng. Ngài rất
rất ghen tị.
Một bạn hỏi: chẳng phải điều một cá nhân làm thì
thực sự là do đích thân thượng đế làm đó sao?
Đây là câu hỏi đúng. Chừng nào một cá nhân làm
điều, điều đó không phải là do thượng đế làm. Chừng
nào một cá nhân còn cảm thấy rằng mình đang làm, thì
đấy không phải là việc làm của Thượng đế. Cái ngày cá
nhân này biết rằng mình không còn nữa, người đó
không là người làm, đấy chỉ là việc xảy ra, thì hành
động của người đó trở thành hành động của Thượng đế;
nó thuộc vào Thượng đế. Nhưng điều đó không trở
thành hành động của Thượng đế chừng nào mà cá nhân
còn nghĩ rằng chính mình đang làm. Cái ngày việc làm
biến thành việc xảy ra, cái ngày cá nhân này thực sự
kinh nghiệm nó như việc xảy ra, thì Thượng đế tiếp
quản; thế thì ngài làm mọi việc thông qua cá nhân này.
Nếu bạn hỏi gió, "Gió ơi, gió có thổi không?" chúng sẽ
nói, "Không, chúng tôi đang được thổi đi." Nếu bạn hỏi
cây, "Cây ơi, cây có đang lớn lên không?" chúng sẽ nói,
"Không, chúng tôi đang được lớn lên." Nếu bạn hỏi
sóng của biển cả, "Sóng ơi, sóng có xô vào bờ không?"
chúng sẽ trả lời, "Không, chúng tôi đang bị xô vào bờ."
Đây là hành động của Thượng đế.
Nhưng con người nói, "Tôi đang làm đấy." Chính
tại đây con người đi xa khỏi Thượng đế. Chính tại đây
bản ngã con người tiếp quản và con người bị bao vây
trong bản ngã của mình. Và chính tại đây con người
đứng tách rời khỏi Thượng đế như một thực thể tách
biệt. Thượng đế tiếp quản vào chính ngày con người đi
tới nhận ra rằng cách gió thổi, sóng xô, cây lớn, hoa nở,
sao dời, thì mình nữa cũng đang được cử động; có ai đó
bên trong mình cử động và nói, người đó không tách
rời. Cái ngày đó, và chỉ ngày đó thôi, Thượng đế là
người làm.
Việc chúng ta là người làm chính là ảo tưởng. Và
chính ảo tưởng này tạo ra bất hạnh và khổ. Chính ảo tưởng này vận hành như bức tường giữa chúng ta và
Thượng đế. Và cái ngày chúng ta dừng là người làm,
mọi ảo tưởng dừng lại. Thế thì còn lại mỗi mình
Thượng đế.
Trong thực tế, ngay cả bây giờ Thượng đế vẫn một
mình. Không phải bởi vì bạn là người làm mà bạn trở
thành nó. Tôi không nói điều này; tôi không ngụ ý nói
vậy. Khi bạn nghĩ rằng bạn là người làm, bạn trong ảo
tưởng. Ngay cả bây giờ một mình Thượng đế là người
làm, nhưng bạn không nhận biết về điều đó. Điều đó
cũng giống thế này: đêm nay bạn lên giường ở Nargol
và bạn mơ trong giấc ngủ rằng bạn đã tới Calcutta. Bạn
vẫn chưa tới Calcutta; bằng cách nào đó bạn mơ về
Calcutta nhưng bạn vẫn ở Nargol. Nhưng trong giấc mơ
bạn đã tới Calcutta, và bạn đang hỏi cách trở về Nargol,
bằng tầu hoả, hay bằng máy bay hay bằng đường bộ.
Bạn đang hỏi về con đường qua đó bạn sẽ quay về và
hỏi người hướng dẫn sẽ đi cùng bạn. Và bạn đang nhìn
vào bản đồ du lịch. Và bỗng nhiên giấc ngủ của bạn bị
quấy rối và bạn tỉnh dậy ngạc nhiên phát hiện ra rằng
bạn chưa đi đâu cả, rằng bạn vẫn ở Nargol. Và thế rồi
bạn không hỏi về con đường và bạn không nhìn vào bản
đồ du lịch nữa. Thế thì bạn không liên hệ với người
hướng dẫn nữa. Và nếu ai đó hỏi bạn về ý định của bạn
rời khỏi Calcutta bạn sẽ cười và nói rằng bạn đã không
đi Calcutta, bạn mới chỉ nghĩ tới điều đó thôi.
Khi một người nghĩ rằng mình là người làm, người
đó thực tế không phải là người làm; đấy chỉ là ý nghĩ, ý
tưởng, giấc mơ. Người đó chỉ mơ rằng mình là người
làm. Trong thực tế mọi thứ đều đang xảy ra. Và nếu
giấc mơ này biến mất, thế thì cái bạn gọi là biết hay
chứng ngộ xảy ra.

Ngay cả khi bạn nói rằng Thượng đế đang làm cho
bạn làm một việc, thế nữa bạn cũng trong ảo tưởng, ảo
tưởng cũ tiếp tục. Bởi vì thế nữa, bạn vẫn còn là một
thực thể, một thực thể tách biệt, và có khoảng cách giữa
Thượng đế và bạn. Bây giờ bạn tin rằng có Thượng đế,
nhưng bên cạnh ngài bạn cũng có đó. Bây giờ bạn tin
rằng Thượng đế là giám đốc còn bạn là người làm.
Không, khi bạn thực sự thức dậy từ giấc ngủ của
mình ở Nargol bạn sẽ không nói rằng bạn bây giờ đã trở
về từ Calcutta; bạn sẽ đơn giản nói bạn đã không ở đó
chút nào. Cái ngày bạn sẽ thức dậy từ giấc ngủ của bản
ngã, trong đó bạn mơ rằng bạn là người làm, bạn sẽ
không nói rằng bạn làm vì Thượng đế chỉ thị cho bạn
làm. Ngày đó bạn sẽ đơn giản nói, "Một mình Thượng
đế hiện hữu, mình không hiện hữu." Bạn sẽ nói, "Trong
thực tế mình chưa bao giờ tồn tại cả; đấy chỉ là giấc mơ
đã đi tới hồi kết thúc."
Và chúng ta có thể cứ mơ trong vô số kiếp, vô hạn
kiếp. Không có chấm dứt cho việc mơ này. Và điều
đáng ngạc nhiên nhất về việc mơ là ở chỗ khi bạn mơ
điều đó dường như tuyệt đối đúng. Bạn đã mơ mọi đêm,
và sáng hôm sau bạn đi tới nhận ra rằng nó là giấc mơ
và nó là giả. Nhưng khi bạn mơ đêm nay bạn sẽ không
biết rằng nó là giấc mơ, và rằng nó là không thật. Bạn sẽ
biết rằng nó đúng toàn thể. Và sáng hôm sau bạn sẽ nói
khi thức rằng nó không thật chút nào. Kí ức chúng ta
nghèo nàn làm sao! Điều bạn thấy là giả vào buổi sáng
trở thành thực vào buổi đêm khi bạn trở lại mơ. Và nhận
biết bạn có vào buổi sáng cứ mất đi mất lại mãi.
Không hoài nghi gì, nó không phải là nhận biết sâu
sắc, nó tất cả đều hời hợt. Nó thậm chí không sâu hơn
lớp da. Sâu bên dưới ảo tưởng cũ vẫn tiếp tục trở lại.



Chúng ta biết và hiểu mọi thứ chỉ một cách hời hợt. Ai
đó đọc một cuốn sách nói rằng bất kì điều gì chúng ta
làm thì tất cả đều là việc làm của Thượng đế, và trong
một khoảnh khắc người đó hiểu một cách hời hợt rằng
mình không phải là người làm, đó tất cả là việc làm của
Thượng đế. Nhưng cái "tôi" cũ vẫn tiếp tục, người bây
giờ nói, "Tôi không phải là người làm." Hiểu biết này sẽ
tan biến trong một khoảnh khắc. Cho người đó một cú
đánh mạnh và người đó sẽ phát rồ mà hét tướng lên,
"Ông không biết tôi là ai à?" Người đó sẽ quên mất rằng
chỉ mới trước đây người đó đã nói, "Tôi không phải là
người làm, tôi không hiện hữu; một mình Thượng đế
hiện hữu." Một cú đánh mạnh và người đó sẽ quên mất
mọi thứ. Tất cả hiểu biết của người đó sẽ biến mất trong
một phần giây, và đã nhiều lần người đó quát bạn, "Sao
ông dám đánh tôi? Ông không biết tôi là ai sao?"
Thượng đế và mọi việc nói về Thượng đế của người đó
sẽ rời bỏ người đó, và cái "tôi" của người đó sẽ quay trở
lại chỗ của nó.

Tôi đã nghe nói rằng một sư để ra ba mươi năm
trường trên Himalayas. Ông ấy để thời gian của mình
vào an bình và đơn độc lớn lao, và ông ấy quên mất tất
cả về bản ngã của mình. Để bản ngã tồn tại, người khác
là cần có. Làm sao bản ngã có thể sống được nếu người
khác không có đó? Người khác là điều phải có cho bản
ngã; nó không thể sống chỉ bằng chính nó được. Khi
bạn nhìn vào mắt người khác một cách ngạo mạn, bản
ngã của bạn đi vào hoạt động. Nếu người khác không có
đó, bạn sẽ làm gì với cảm giác tự lấy làm quan trọng,
với ngạo mạn của mình? Bạn sẽ làm thế nào để điều đó
được cảm thấy? Bạn sẽ nói với ai, "Tôi đây." Để nói
điều đó, một "người" cần có - người khác. Để làm chỗ
dựa cho cái "tôi", vốn là cái giả tạo, thì một thực thể giả
khác là cần có; đó là cái "người". Không có người khác
bản ngã không thể tồn tại được. Một mạng lưới điều dối
trá là cần có để một điều dối trá sống và phát triển.
Nhưng chân lí đứng một mình; nó không cần dựa vào
bất kì cái gì. Dối trá không thể đứng một mình được, nó
cần nhiều chỗ dựa, tất cả đều được làm từ dối trá và dối
trá một mình. Để làm chỗ dựa cho điều dối trá của cái
"tôi" bạn cần biết bao nhiêu là điều dối trá khác như
"người", 'người đó" và "họ". Chỉ thế thì điều dối trá mới
có thể được duy trì.
Sư này một mình trên núi không có người nào khác.
Không có "người", không có "người đó", không có "họ"
và không có "chúng ta". Không có ai được gọi như vậy
cả. Và do vậy người đó quên mất cái "tôi" của mình. Ba
mươi năm là một thời gian dài. Sư trở thành rất tĩnh
lặng và yên tĩnh. Cho nên bây giờ mọi người từ đồng
bằng bắt đầu tới thăm sư. Và thế rồi họ đã đưa ra yêu
cầu với sư, "Chúng tôi đang tổ chức hội chợ ở châu thổ
bên dưới kia và chúng tôi yêu cầu ông làm vinh dự cho
hội chợ bằng sự hiện diện của ông. Điều đó sẽ cho mọi
người ở đồng bằng một cơ hội chiêm ngưỡng vẻ thánh
thiện của ông, có được darshan của ông. Họ không thể
đảm đương được việc đi tới nơi núi non xa xôi này.
Chúng tôi sẽ biết ơn lắm." Sư này nghĩ rằng vì bản ngã
mình đã biến mất, nên cũng chẳng hại gì mà đi tới mọi
người. Thế là ông ấy đi xuống vùng châu thổ.
Theo cách này tâm trí lừa chúng ta biết bao nhiêu
lần; nó nói bây giờ bản ngã mất rồi cho nên chẳng hại gì
mà quay lại với mọi người.
Sư này đi xuống châu thổ. Hội chợ thật lớn và đông
đúc. Hàng trăm nghìn người, tất cả đều xa lạ với sư, đã
xúm vào hội chợ. Họ không biết về sư này, người đã xa lánh họ một thời gian dài trước đây. Ông ấy đã bị quên
lãng hoàn toàn. Cho nên khi ông ấy bước qua đám
đông, ai đó đi giầy dẫm lên ngón chân ông ấy. Ngay khi
chiếc giầy dẫm lên ngón chân ông ấy, ông ấy tóm cổ
người này và nói, "Ông không biết ta là ai sao?" Ba
mươi năm ông ấy tu trên núi mất tiêu trong một giây, cứ
dường như nó là giấc mơ vừa biến mất. Trong một phần
giây, núi non, an bình, cái trống rỗng, việc dừng lại của
bản ngã và sự xuất hiện của Thượng đế người làm mọi
việc, tất cả đều biến mất đi trong làn khói. Trong một
khoảnh khắc toàn thể sự việc bị chùi sạch cứ dường như
nó chưa từng tồn tại. Bây giờ ông ấy túm lấy cổ người
này và quát lên, "Ông không biết ta là ai sao?"
Thế rồi bỗng nhiên ông ấy sực tỉnh với cái thực của
tình huống này và kinh hoàng thấy điều mình vừa làm.
Ông ấy tự nói với mình, "Mình đã có tất cả nhưng đã
quên mất rằng mình đã tồn tại, mình đã mất bản ngã
mình. Làm sao nó trở lại đúng chỗ của nó thế nhỉ?" và
ông ấy xin lỗi mọi người và nói, "Bây giờ xin cho tôi
đi." Khi mọi người hỏi ông ấy định đi đâu, sư nói, "Tôi
không định trở về núi non đâu, thay vì thế tôi xuống
đồng bằng nơi tôi sẽ sống giữa mọi người." Và ông ấy
nói thêm, "Điều tôi đã không biết khi sống trong đơn
độc của núi non trong ba mươi năm, tôi đã biết ở đây
trong khoảnh khắc đi vào tiếp xúc với một người. Bây
giờ tôi định sống giữa mọi người và cố gắng tìm ra liệu
tôi hiện hữu hay không hiện hữu. Ba mươi năm đã bị
phí hoài, chúng bây giờ có vẻ như giấc mơ, bởi vì tôi đã
nghĩ rằng cái tôi của tôi, bản ngã của tôi đã dừng lại;
nhưng chẳng cái gì đã dừng lại thực cả, mọi thứ đều
không bị đụng chạm tới ngay tại chỗ của nó."
Đây là cách các ảo tưởng được tạo ra, nhưng ảo
tưởng không có tác dụng.
Bây giờ chúng ta sẽ chuẩn bị cho thiền.
Một bạn hỏi liệu có nguy hiểm trong việc thức tỉnh
kundalini không. Nếu có, nguy hiểm đó là gì? Và tại
sao kundalini phải được thức tỉnh nếu làm việc đó
nguy hiểm đến vậy?


Có nguy hiểm rất lớn tham gia vào. Thực sự, có
nguy hiểm về việc mất tất cả những điều chúng ta coi là
cuộc sống của mình. Như chúng ta hiện hữu, chúng ta
sẽ không còn là như vậy nữa sau khi kundalini được
thức tỉnh. Mọi thứ sẽ thay đổi. Mọi thứ. Mối quan hệ
của chúng ta, những xúc động của chúng ta, thế giới của
chúng ta và tất cả những cái chúng ta biết cho tới hôm
qua sẽ thay đổi. Tất cả những cái sẽ thay đổi chính là
nguy hiểm đó.
Nếu than được biến thành kim cương, nó phải chết
đi như là than. Cho nên nguy hiểm là đủ lớn. Nhưng đó
là nguy hiểm cho than. Nếu nó trở thành kim cương, nó
chỉ có thể làm như vậy chỉ nếu nó biến mất như than.
Có lẽ bạn không biết rằng không có khác biệt chung
giữa kim cương và than. Về bản chất chúng là cùng một
phần tử. Than biến thành kim cương trong một quá trình
thời gian rất dài. Về mặt hoá học thì không có khác biệt
cơ bản giữa kim cương và than. Nhưng than không thể
vẫn còn là than được nếu nó muốn là kim cương. Cho
nên than đối diện với nguy hiểm lớn.
Theo cùng cách này con người đối diện với nguy
hiểm nếu người đó đang trên đường đi tìm Thượng đế.
Người đó sẽ chết như con người. Nếu dòng sông chảy
để gặp biển cả, nó đang đối diện với nguy hiểm lớn. Nó
sẽ biến mất, nó không thể thoát được điều đó. Nhưng
chúng ta ngụ ý gì bởi nguy hiểm? Nó ngụ ý việc biến
mất. Họ một mình có thể cứ tiếp tục cuộc hành trình tới
Thượng đế, những người được chuẩn bị để biến mất, để
chết.
Cái chết không xoá chúng ta hoàn toàn như thiền,
bởi vì cái chết chỉ tách rời chúng ta từ thân thể này và
nối chúng ta với thân thể khác. Bạn không thay đổi
trong cái chết; chỉ quần áo chúng ta thay đổi. Bạn vẫn
còn như bạn hiện hữu. Cho nên cái chết không phải là
nguy hiểm lớn như tất cả chúng ta vẫn nghĩ vậy. Thiền
là nguy hiểm lớn hơn cái chết, bởi vì trong khi cái chết
chỉ vồ lấy đi quần áo khỏi chúng ta, thì thiền vồ lấy bạn
từ bạn.
Thiền là cái chết tuyệt đối.
Trong quá khứ, những người biết đều nói rằng thiền
là cái chết, cái chết toàn bộ. Trong thiền không chỉ quần áo, mà mọi thứ đều thay đổi. Nhưng nếu dòng sông
muốn trở thành biển cả, nó phải liều mạng mình. Trong
thực tế dòng sông chẳng mất gì khi nó rơi vào trong
biển cả; nó chẳng mất gì, nó lớn lên trở thành chính bản
thân biển cả. Và khi than biến thành kim cương, nó
chẳng mất gì; nó lớn lên trở thành kim cương. Nhưng
chừng nào than vẫn còn là than thì nó sợ mất bản thân
mình. Làm sao nó biết được rằng khi gặp biển cả, nó sẽ
không mất gì, nó sẽ biến thành bản thân biển cả sao?
Con người đối diện với cùng nguy hiểm đó trong
quan hệ với thiền. Cùng người bạn đó cũng hỏi tại sao
người ta phải nhận nguy cơ này nếu mối nguy hiểm là
hiển nhiên thế. Cần hiểu điều đó theo chiều sâu nào đó.
Chân lí là ở chỗ chúng ta càng liều, chúng ta càng
sống một cách nguy hiểm hơn, thì chúng ta càng sống
động hơn. Và chúng ta càng sợ, chúng ta càng chết hơn.
Trong thực tế người chết tuyệt đối không có nguy hiểm
nào để đương đầu. Nguy hiểm lớn mà người chết không
phải đương đầu là ở chỗ họ không thể chết được nữa.
Người có thể chết chỉ là người đang sống. Và người đó
càng sống động, thì người đó có thể gặp cái chết một
cách mãnh liệt hơn.
Đâu đó có một tảng đá, và rất gần nó một bông hoa
đã nở ra. Tảng đá có thể nói với bông hoa, "Mày ngu
thế. Sao mày lấy nguy cơ trở thành hoa? Mày không
biết mày sẽ héo đi trước lúc mặt trời lặn sao?" Có nguy
hiểm lớn trong việc là bông hoa thực. Nhưng không có
nguy hiểm trong việc là tảng đá. Khi bông hoa sẽ héo
tàn đi trong buổi tối, tảng đá vẫn nằm đó không suy
suyển tại chỗ của nó. Tảng đá không phải đối diện với
mấy nguy hiểm, bởi vì nó không sống. Người ta càng
sống động, nguy hiểm càng lớn hơn.
Người đang trong nguy hiểm, người đó càng sống
động tới mức độ đó. Người đó càng sống động, người
đó càng bị nguy hiểm. Thiền là nguy hiểm lớn nhất có
đó, bởi vì thiền là cánh cửa dẫn tới việc đạt tới đáy sâu
thẳm nhất trong cuộc sống - điều tối thượng.
Nhưng người bạn này muốn biết tại sao người ta
phải đi vì nó khi có nguy hiểm. Tôi nói, người ta phải đi
chính xác là vì có nguy hiểm. Và tôi nói, đừng đi khi
không có nguy hiểm. Đừng bao giờ đi nếu không có
nguy hiểm, bởi vì chẳng có gì ngoài cái chết. Và bạn
phải đi nếu có nguy hiểm, bởi vì khả năng của cuộc
sống dư thừa tồn tại ở đó.
Nhưng tất cả chúng ta đều quá đỗi yêu mến an toàn.
Chúng ta sợ những nguy hiểm của bất an, chúng ta chạy
trốn khỏi nó, chúng ta che giấu mình với nó. Và do vậy
chúng ta làm mất bản thân cuộc sống trong việc mặc cả.
Nhiều người làm mất cuộc sống trong cố gắng cứu lấy
nó. Họ một mình sống cuộc sống, những người không
cứu nó, người sống với từ bỏ, người sống một cách
nguy hiểm. Quả thực có nguy hiểm, và đó là lí do tại
sao bạn phải đi vì nó. Và đó là nguy hiểm lớn nhất có
thể có. Việc trèo lên đỉnh Everest cũng không nguy
hiểm đến thế. Việc lên tới mặt trăng nữa, cũng không
nguy hiểm đến thế, mặc dù gần đây vài nhà du hành vũ
trụ đã lạc đường đi tới nó. Nguy hiểm này lớn, nhưng
nguy hiểm này bị giới hạn vào thân thể; chỉ thân thể bị
thay đổi qua cái chết. Nhưng nguy hiểm trong thiền còn
lớn hơn là đi lên mặt trăng.
Nhưng tại sao chúng ta sợ nguy hiểm thế? Bạn đã
bao giờ nghĩ tại sao chúng ta khiếp hãi nguy hiểm nhiều
thế không? Đó là dốt nát nằm sau tất cả những khiếp hãi
đó. Chúng ta sợ rằng chúng ta có thể đi tới chấm dứt; chúng ta sợ chúng ta có thể biến mất; chúng ta sợ chúng
ta có thể chết. Cho nên chúng ta làm mọi thứ để bảo vệ,
để an toàn, để củng cố, để bao quanh và để che giấu bản
thân mình khỏi nguy hiểm. Chúng ta làm mọi thứ để
chạy trốn khỏi chúng; chúng ta nhảy vào mọi con
đường thoát chúng ta biết.
Tôi đã nghe một giai thoại. Tôi đã nghe nói rằng
một nhà vua đã xây dựng một cung điện lớn, nhưng nó
chỉ có một cổng, một lối vào duy nhất, cho nên nhà vua
có thể được bảo đảm an toàn khỏi các nguy hiểm. Cung
điện này không có cửa ra vào hay cửa sổ khác, để cho
kẻ thù không thể vào được qua chúng. Cho nên nó như
cái nhà mồ hơn là ngôi nhà. Nhưng cho dù một chiếc
cửa cũng đặt ra nguy hiểm, vì kẻ giết người có thể vào
cung điện đó và đi ra qua chính chiếc cửa này. Cho nên
nhà vua đã đặt một nghìn lính gác vũ trang tại mỗi chiếc
cửa này.
Một nhà vua lân bang tới thăm khi ông này được
biết rằng bạn mình đã xây dựng nên một cung điện với
những phương cách an ninh thế mà chưa từng vị vua
nào đã từng có. Và ông ấy hài lòng khi thấy nó - ông ấy
nói rằng cung điện này an ninh thế, nó tuyệt đối không
có nguy hiểm gì từ các kẻ thù. Và ông ấy cũng nói rằng
ông ấy sẽ xây một cung điện tương tự cho mình.
Khi hai nhà vua bước ra khỏi cung điện mới này,
nhà vua tới thăm ca tụng bạn mình một lần nữa vì việc
xây cung điện đẹp thế và an ninh thế và nói rằng ông ấy
muốn một chiếc như thế được xây cho mình. Nhưng khi
ông ấy nói lời tạm biệt bạn mình và trèo lên xe ngựa của
mình, thì một người ăn xin ngồi bên cạnh đường cất lên
tiếng cười khanh khách. Ông chủ cung điện này hỏi
người đó sao lại cười. Người ăn xin nói, "Như tôi thấy
nó, thì đã có một sai lầm trong xây dựng ngôi nhà này.
Tôi đã từng ngồi ở đây từ lúc ngôi nhà này còn đang
được xây dựng. Và kể từ đó, tôi đã chờ đợi cơ hội này
để nói với ngài về điều đó. Có một sai lầm - và chỉ một
sai lầm thôi."
Nhà vua muốn biết về điều đó, và người ăn xin nói,
"Cánh cửa mà ngài đã cho phép hiện hữu đã làm cho
bản thân nó thành nguy hiểm, nó là nguy hiểm. Có thể
không ai sẽ có khả năng đi vào trong ngôi nhà này,
nhưng cái chết chắc chắn đi vào qua cửa này. Cho nên
tôi gợi ý ngài nên ở bên trong ngôi nhà và để cho cánh
cửa này được bít lại bằng gạch từ bên trong. Thế thì
ngài sẽ tuyệt đối được bảo vệ, vì cái chết không thể vào
được."
Thế rồi nhà vua nói, "Ông điên. Trong trường hợp
đó cái chết sẽ chẳng cần đi vào cung điện, bởi vì ta sẽ
chết ngay khi cánh cửa này bị bít lại. Ngôi nhà này sẽ
trở thành nấm mồ." Bây giờ người ăn xin này nói, "Nó
đã là nấm mồ rồi, ngoại trừ mỗi cánh cửa này thôi. Và
ông nữa cũng thừa nhận rằng nó sẽ trở thành nấm mồ
nếu cánh cửa này bị bỏ đi" Khi nhà vua gật đầu thì
người ăn xin nói thêm, "Càng nhiều cửa bị bỏ đi thì nó
càng trở nên giống ngôi mộ. Bây giờ chỉ một cửa còn
lại."
Người ăn xin nói thêm, "Một thời ngay cả tôi nữa
cũng đã sống bị bao kín trong ngôi nhà. Nhưng thế rồi
tôi đã phát hiện ra rằng cuộc sống bị vây kín thì cũng
hệt như chết vậy. Bệ hạ nữa, cũng có thể thấy rằng nếu
chiếc cửa duy nhất còn trong nhà bệ hạ mà bị bít lại, thì
nó sẽ trở thành nấm mồ. Tôi đã kéo đổ tất cả các bức
tường của ngôi nhà tôi sống, và bây giờ tôi đang ở dưới
bầu trời rộng mở. Và như bệ hạ nói đấy, nếu ngôi nhà này mà hoàn toàn bị bít lại thì nó sẽ là tất cả cái chết,
cho nên tôi nói rằng nó tất cả sẽ là cuộc sống nếu nó mở
và không được bảo vệ về mọi phía. Tôi nhắc lại rằng
khi nó tất cả đều mở và không được bảo vệ thì nó đã trở
thành cuộc sống - cuộc sống dư thừa. Có đủ nguy hiểm,
nhưng nó là dư thừa cuộc sống."
Có nguy hiểm, và đó là lí do tại sao nó đang mời
gọi. Và chính bởi lí do này mà bạn không ủng hộ nó. Và
đó là than, chứ không phải là viên kim cương đối diện
với nguy hiểm. Và đó là dòng sông, chứ không phải là
đại dương đang đương đầu với nguy hiểm. Và đó là
bạn, chứ không phải là Thượng đế bên trong bạn là
người gặp nguy hiểm. Cho nên bây giờ bạn nghĩ điều đó
cho bản thân mình. Nếu bạn muốn cứu mình, bạn sẽ
phải làm mất Thượng đế. Và nếu bạn muốn tìm Thượng
đế, bạn sẽ phải làm mất bản thân mình.
Một đêm ai đó hỏi Jesus, "Tôi phải làm gì để tôi tìm
được Thượng đế mà ngài cứ nói mãi?" Jesus nói, "Ông
không phải làm gì ngoại trừ việc ông làm mất bản thân
mình. Đừng tự cứu mình." Người này nói, "Ông nói gì
vậy? Tôi sẽ được gì nếu tôi làm mất bản thân mình?"
Và Jesus trả lời, "Người mất sẽ tìm thấy bản thân mình,
còn người giữ, sẽ làm mất bản thân mình vĩnh viễn."
Các bạn có thể hỏi nếu các bạn có thêm gì để hỏi.
Câu hỏi được hỏi là:
Sự việc thế nào khi kundalini bắt đầu thức dậy có
xuất hiện ngăn cản trên con đường của nó và sự
việc thế nào nếu luồng chuyển của nó bị chặn lại?
Lí do cho điều đó là gì? Và chúng tôi có thể làm gì
để làm cho nó chuyển động tiếp?
Không có nhiều lí do mà chỉ có một lí do thôi. Đó là
việc chúng ta không cầu khẩn nó, cầu khẩn nó bằng tất
cả mọi ý chí và sức mạnh của chúng ta, và việc chúng ta
không đem tất cả năng lượng của mình vào thức tỉnh nó.
Nỗ lực của chúng ta bao giờ cũng manh mún và không
đầy đủ; chúng chưa bao giờ toàn bộ cả. Bất kì điều gì
chúng ta làm, chúng ta đều làm nó một cách nửa vời.
Chúng ta chẳng làm cái gì toàn tâm cả. Và đây là cản
trở; không có cản trở nào khác hơn điều này. Và sẽ
không có cản trở bất kì cái gì, nếu chúng ta làm mọi sự
một cách toàn bộ. Nhưng tất cả chúng ta qua các kiếp
sống của mình chúng ta đã thành thói quen chỉ đi nửa
đường thôi, chúng ta chưa bao giờ đi toàn thể con
đường. Cho dù chúng ta yêu, chúng ta cũng yêu kiểu
nửa vời; chúng ta yêu một người và chúng ta cũng ghét
người đó. Có vẻ kì lạ rằng chúng ta ghét chính người
chúng ta yêu. Chúng ta yêu một người, chúng ta muốn
sống vì người đó, và nhiều lúc chúng ta cũng nghĩ tới
việc giết người đó. Khó mà tìm được một người yêu
không nghĩ về người mình yêu bị chết.
Cuộc sống của chúng ta theo kiểu nó bao giờ cũng
bị phân chia, bao giờ cũng một nửa-và-một nửa. Và hai
nửa này bao giờ cũng kéo theo các hướng đối lập.
Không giống như hai chân chúng ta, chân phải và chân
trái, tiến lên trước theo cùng hướng, hai nửa của tâm trí
chúng ta đi vào các hướng đối lập. Và đó là cái gây cho
chúng ta căng thẳng và xung khắc. Bất ổn này của các
kiếp sống của chúng ta là gì, nếu không phải là điều chúng ta bao giờ cũng nửa nọ nửa kia - chia chẻ, manh
mún và hờ hững?
Một thanh niên tới tôi và nói rằng trong hai mươi
năm anh ta đã nghĩ mãi tới tự tử. Tôi bảo anh ta, "Bạn
điên thế, sao bạn không làm điều đó đi? Hai mươi năm
là một thời gian dài. Khi nào bạn mới định tự tử nếu bạn
đã nghĩ về nó suốt hai mươi năm trường? Bạn đằng nào
cũng sẽ chết. Bạn sẽ tự tử sau khi bạn chết chứ?" Anh
thanh niên này giật mình và anh ta nói, "Thầy nói gì
vậy? Tôi tới thầy với hi vọng rằng thầy sẽ thuyết phục
tôi đừng làm điều đó." Thế là tôi nói, "Bạn cần tôi
thuyết phục bạn sao, khi bạn đã không làm điều đó
trong hai mươi năm?" Câu trả lời của anh ta là, "Bất kì
ai tôi gặp đều thuyết phục tôi đừng tự tử."
"Đấy là bởi vì những người thuyết phục đó," tôi bảo
anh ta, "mà bạn đã chẳng sống chẳng chết. Bạn chỉ nửa
vời. Bạn nên hoặc sống hoặc chết; đừng làm cả hai điều
này cùng nhau. Nếu bạn muốn sống thì từ bỏ ý nghĩ tự
tử và bắt đầu sống một cách đầy đủ. Còn nếu bạn muốn
chết thế thì từ bỏ ý nghĩ về sống và chết một cách toàn
thể."
Anh thanh niên này ở lại với tôi hai hay ba ngày. Và
mọi ngày tôi đều bảo anh ta điều này; "Bây giờ đừng
nghĩ tới sống. Nếu bạn đã nghĩ tới chết trong hai mươi
năm rồi, thì tốt hơn cả bây giờ bạn chết đi." Ngày thứ ba
anh ta nói với tôi, "Sao thầy nói điều đó? Xin đừng nói.
Tôi muốn sống." Thế là tôi nói, "Không phải tôi yêu cầu
bạn chết đi đâu. Chính bạn là người nói rằng bạn đã
muốn chấm dứt cuộc sống mình trong suốt hai mươi
năm."
Bây giờ đấy là vấn đề đáng xem xét. Nếu một người
nghĩ về tự tử trong hai mươi năm và vậy mà vẫn chưa
chết thế thì hiển nhiên người đó cũng không sống. Làm
sao người đó có thể sống mà thường xuyên nghĩ tới chết
được? Chúng ta đều nửa nọ nửa kia. Và thói quen sống
nửa nọ nửa kia này đã thấm vào toàn bộ cuộc sống của
chúng ta. Chúng ta không thể trở thành người bạn hoàn
toàn với ai đó mà cũng không là kẻ thù toàn bộ với
người khác. Chúng ta không có khả năng là bất kì cái gì
toàn bộ. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ việc là kẻ
thù đầy đủ còn nhiều niềm vui hơn là người bạn nửa
vời.
Trong thực tế, hễ cứ làm bất kì cái gì một cách toàn
bộ thì cũng đều phúc lạc, bởi vì bất kì khi nào toàn bộ
bản thể bạn được tham gia vào, tất cả năng lượng tiềm
tàng của thân thể bạn tập hợp lại với nhau và hợp tác
với bạn. Còn bất kì khi nào bạn bị phân chia và chia
chẻ, bạn trong xung khắc và bạn vật lộn bên trong mình.
Bây giờ nếu việc đánh thức kundalini bị cản trở trên
đường của nó, điều đó chỉ có nghĩa là một mặt bạn
muốn đánh thức nó và mặt khác bạn sợ việc đánh thức
nó. Bạn đang đi tới ngôi đền và đồng thời bạn không có
dũng cảm để vào nó. Bạn đang làm cả hai cùng nhau.
Bạn chuẩn bị cho thiền và đồng thời bạn không thu
được dũng cảm để nhảy vào trong nó. Bạn muốn bơi
trong sông, bạn đã đi tới bờ sông, và vậy mà bạn vẫn
đứng trên mép bờ nghĩ xem phải làm gì. Bạn muốn bơi
vậy mà bạn không muốn vào trong nước. Cứ dường như
là bạn muốn bơi bên trong phòng ngủ của mình, cứ
dường như là bạn muốn làm việc với tay và chân mình
bằng việc nằm trên chiếc tràng kỉ có nệm và có niềm
vui của việc bơi. Không, bạn không thể tận hưởng được
việc bơi bằng việc nằm dài trên chiếc tràng kỉ thoải mái
trong phòng ngủ của bạn. Điều này là ngu xuẩn. Niềm vui thực của việc bơi được gắn liền không tách rời với
nguy hiểm.
Nếu thiếu nhiệt tình, điều đó sẽ cản trở kundalini
theo nhiều cách. Đó là lí do tại sao nhiều bạn sẽ cảm
thấy rằng mọi sự đã đi tới chỗ dừng lại.
Nếu kundalini đi tới chỗ dừng thì nhớ chỉ một
điều... và đừng tìm cớ để biện minh cho nó. Chúng ta
tìm đủ mọi loại cớ: nào nghiệp của các kiếp sống quá
khứ đang tới trên đường, nào các sao còn chưa thích
hợp, nào thời đã không đến. Không điều nào trong
những điều này mà chúng ta quen nghĩ là đúng cả. Chỉ
một điều là đúng: rằng bạn không làm hết sức để đánh
thức nó. Nếu có bất kì chướng ngại nào ở bất kì đâu,
nghĩ rằng bạn đã không lấy cú nhảy đầy đủ, và thế rồi
nhảy với lực đầy đủ. Đem tất cả năng lượng của bạn vào
nó và buông bỏ bản thân mình toàn bộ. Thế thì
kundalini sẽ không bị chặn lại tại bất kì trung tâm nào.
Chân lí là ở chỗ kundalini có thể hoàn thành toàn
thể cuộc hành trình của nó trong một khoảnh khắc; và
thậm chí nó có thể lấy đi nhiều năm. Tất cả chỉ là vấn
đề cam kết - liệu nó có là toàn bộ hay phân mảnh. Nếu ý
chí chúng ta, tâm trí chúng ta là toàn bộ, toàn thể sự
việc có thể xảy ra ngay bây giờ, chính khoảnh khắc này.
Nếu kundalini bị ngăn lại ở bất kì đâu, điều đó chỉ
có nghĩa là bạn đã không đầu tư toàn thể năng lượng
của mình vào nỗ lực của mình. Cho nên hợp tác với nó
một cách đầy đủ, và đem tất cả năng lượng của bạn vào
cho nó. Có vô hạn năng lượng được cất giữ bên trong
mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta chưa bao giờ sử
dụng bản thân mình trong bất kì cái gì theo cách lớn lao.
Chúng ta bao giờ cũng sống ở ngoại vi của cuộc sống,
chúng ta chưa bao giờ đào sâu vào trong nó. Chúng ta
chưa bao giờ cầu khẩn và triệu tập gốc rễ của mình, gốc
rễ của bản thể chúng ta; chúng ta chưa bao giờ cầu khẩn
chúng, và đó là lí do tại sao có chướng ngại. Và nhớ lấy,
không có vấn đề nào khác hơn vấn đề này.
Một bạn hỏi: Chúng tôi được sinh ra với đói, ngủ và
khát, nhưng không với khao khát về thượng đế. Sao
vậy?
Cũng có ích để hiểu điều này. Khao khát về Thượng
đế nữa, cũng tới với việc sinh thành của chúng ta,
nhưng phải mất thời gian lâu để biết nó. Chẳng hạn, trẻ
con được sinh ra với dục, nhưng chúng phải mất mười
bốn năm để biết nó. Ham muốn dục tới với việc sinh
của chúng, nhưng chúng phải mất mười bốn tới mười
lăm năm để nhận ra nó. Và tại sao phải mất nhiều thời
gian thế? Ham muốn, khát khao có đó bên trong bạn,
nhưng thân thể không được chuẩn bị cho nó. Thân thể
mất mười bốn năm để trưởng thành và chín muồi về
dục, và thế rồi ham muốn này được thức tỉnh. Cho tới
lúc đó nó vẫn còn ở trong trạng thái tiềm tàng.
Khát khao về Thượng đế nữa cũng tới với việc sinh,
nhưng thân thể chưa chín và chưa sẵn sàng. Và ngay khi
thân thể được chuẩn bị thì khát khao này được phát
sinh. Kundalini chuẩn bị cho sự trưởng thành đó, sự
chín muồi đó. Nhưng bạn có thể hỏi tại sao tự nó không
xảy ra. Đôi khi nó có xảy ra theo cách riêng của nó,
nhưng điều như thế này cần được hiểu cẩn thận.
Trong tiến hoá của nhân loại một số điều xảy ra
trước với cá nhân và rồi với nhóm người. Chẳng hạn, nếu bạn xem qua toàn thể Veda thế thì dường như là
chẳng có nhận biết gì về hương thơm hay mùi hôi trong
thời của Vedas. Trong tất cả các kinh sách của thế giới
đương đại với Rigveda, không có nhắc gì tới khứu giác
ở đâu cả. Hoa tất nhiên có được nhắc tới, nhưng không
có hương thơm. Những người biết đều nói rằng cho tới
thời của Rigveda khứu giác của con người vẫn còn chưa
được thức tỉnh. Về sau đó nó đã thức tỉnh trong trường
hợp của vài cá nhân. Thậm chí ngày nay, mùi vị cũng
không có ý nghĩa gì đối với nhiều người; chỉ với vài
người nó mới có nghĩa. Trong thực tế khứu giác phải
thức tỉnh đầy đủ trong mọi người. Các công xã càng
phát triển thì càng có nhiều khứu giác hơn, và công xã
kém phát triển người ta ít có nó nhiều hơn. Vẫn còn tồn
tại vài bộ lạc trên trái đất này không có từ dành cho
hương thơm trong ngôn ngữ của họ. Cho nên khứu giác
trước hết tới cho vài cá nhân và dần dần trưởng thành và
trở thành một phần của tâm trí tập thể.
Giống như khứu giác, nhiều điều khác tới trong
nhận biết của con người chỉ dần dần thôi. Chúng không
tồn tại trong quá khứ. Nhận biết của con người về màu
tạo ra câu chuyện đáng ngạc nhiên. Aristotle trong cuốn
sách của mình đã nói tới chỉ mỗi ba màu. Cho tới thời
của Aristotle, mọi người ở Hi Lạp đã đã nhận biết về
mỗi ba màu; họ đã không biết gì về các màu khác.
Chính qua một thời kì thời gian dài và cứ dần dần mà
một số màu khác đã trở thành thấy được đối với họ. Và
đừng nghĩ rằng ngay cả ngày nay chỉ có ngần ấy màu
như mắt chúng ta thấy được. Có nhiều màu hơn thế này,
nhưng chúng ta còn chưa nhận biết về chúng. Nhạy cảm
của chúng ta vẫn còn chưa được phát triển. Đó là lí do
tại sao đôi khi dưới ảnh hưởng của LSD hay mescaline
hay hashish hay marijuana, một số màu mới trở thành
thấy được cho mắt chúng ta, điều chúng ta chưa bao giờ
thấy trước đây. Và màu sắc là nhiều vô kể. Nhưng chỉ
dần dần và qua một khoảng thời gian dài chúng ta mới
trở nên nhạy cảm với chúng.
Ngay cả ngày nay, có một số người trên thế giới là
người mù màu, người không có cảm giác màu sắc. Nếu
có một nghìn người ngồi đây, ít nhất năm mươi người
trong số họ phải là mù với màu này màu khác. Mặc dầu
bản thân họ có thể không nhận biết về điều đó. Và vài
người có thể đến mức không thể phân biệt nổi giữa màu
lục và vàng. Gạt sang bên những người thường, ngay cả
một số người vĩ đại và lỗi lạc cũng đã được tìm ra là mù
màu.
Một người như Bernard Shaw không thể phân biệt
được màu lục với màu vàng. Và mãi cho tới độ tuổi sáu
mươi ông ấy vẫn không biết rằng mình không thể phân
biệt nổi giữa màu lục và màu vàng. Ông ấy đi tới biết ra
điều đó vào ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ sáu mươi
của mình khi ai đó tặng cho ông ấy bộ com lê xem như
món quà sinh nhật. Nó có màu lục, nhưng bộ com lê
thiếu một thứ - chiếc cà vạt. Người bạn này đã quên
mua cà vạt đi kèm bộ áo com lê. Cho nên Shaw ra chợ
để mua cà vạt hợp với bộ com lê, và ông ấy đã hỏi mua
chiếc cà vạt màu vàng. Người chủ tiệm lễ phép nói rằng
chiếc cà vạt vàng sẽ không hợp với bộ com lê màu lục.
Shaw ngạc nhiên khi nghe nói điều đó và cứ nhấn mạnh
rằng màu của cà vạt và màu của bộ com lê là một. Bây
giờ đến lượt ông chủ tiệm thấy buồn cười, và ông ấy
hỏi, "Sao chúng cùng màu được cơ chứ thưa ngài? Ngài
có trẻ con không đấy?" vì ông ấy biết rằng Shaw rất giỏi
đùa cợt. Ông ấy nói, "Có lẽ đấy chỉ là trò đùa khi ông
nói rằng bộ com lê này và chiếc cà vạt có cùng màu.
Chúng đâu cùng màu; chiếc cà vạt màu vàng trong khi bộ com lê màu lục." Nhưng dầu vậy Shaw vẫn cứ khăng
khăng và tò mò hỏi màu vàng là gì.
Thế rồi Bernard Shaw phải được đưa đi kiểm tra
mắt và bác sĩ xác nhận rằng ông ấy bị mù màu vàng.
Có thời màu vàng là không thấy được cho mắt con
người. Đây là bổ sung mới nhất vào danh sách màu con
người biết tới. Một số màu khác cũng là mới nữa.
Âm nhạc không có nghĩa cho mọi người. Nó có
nghĩa cho vài người thôi. Và chỉ vài người đánh giá
được sắc thái của nó thực sâu. Với phần còn lại nó
chẳng là gì ngoài âm thanh và tiếng ồn - chẳng mang ý
nghĩa gì. Nhận biết và đánh giá của họ về các nốt nhạc
vẫn còn chưa phát triển và chưa sâu sắc. Trong thực tế,
mãi cho tới giờ âm nhạc đã không là kinh nghiệm tập
thể của loài người.
Cho nên khi có liên quan tới Thượng đế, ngài là
kinh nghiệm rất rất xa vời, người siêu việt lên trên mọi
giác quan, người ở bên ngoài mọi giác quan. Ngài là
kinh nghiệm tối thượng; không có gì bên ngoài ngài. Đó
là lí do tại sao rất ít người trở nên được thức tỉnh, mặc
dầu tiềm năng được thức tỉnh nằm trong mọi người và
nó tới người đó cùng việc sinh.
Nhưng bất kì khi nào một người giữa chúng ta thức
tỉnh, thì việc thức tỉnh của người đó nữa cũng trở thành
một nhân tố để khuấy động khao khát tiềm ẩn về
Thượng đế trong nhiều người. Bất kì khi nào một người
như Krishna vươn lên giữa chúng ta, chính tầm nhìn của
người đó, chính sự hiện diện của người đó bắt đầu làm
thức tỉnh trong chúng ta điều đã từng ngủ từ lâu thế.
Cơn khát, cơn đói về Thượng đế đi cùng mỗi chúng
ta, và nó tới với việc sinh của chúng ta. Nhưng nó
không được phép thức dậy, nó bị kìm nén. Và có nhiều
lí do cho nó. Điều quan trọng nhất trong chúng là ở chỗ
đám đông khổng lồ bao quanh chúng ta, đám đông bao
la những người mà chúng ta sống cùng, hoàn toàn
không có khao khát đó. Đó là lí do tại sao khi khao khát
này bắt đầu dâng lên trong ai đó, người đó lập tức kìm
nén nó, bởi vì đó dường như là một loại điên khùng với
người đó. Trong một thế giới mà tất cả mọi người xung
quanh bạn đều đầy những ham muốn mãnh liệt về tiền
bạc, ham muốn mãnh liệt về danh vọng, thì ham muốn
mãnh liệt về tôn giáo có vẻ như điên khùng. Và nó làm
cho tất cả mọi người xung quanh hoài nghi về người
đang khao khát tôn giáo, họ cho rằng người đó đang ra
khỏi tâm trí mình. Cho nên con người tự kìm nén mình.
Khao khát mãnh liệt này không được phép phát sinh, nó
bị kìm nén từ đủ mọi phía.
Thế giới chúng ta vừa tạo ra không có chỗ cho
Thượng đế, và chúng ta chịu trách nhiệm cho điều đó.
Bởi vì như tôi đã nói, cho phép Thượng đế có chỗ đứng
là điều nguy hiểm, cho nên chúng ta không dành cho
ngài góc nào. Vợ sợ rằng Thượng đế có thể đi vào cuộc
sống của chồng mình, bởi vì với việc tới của ngài thì vợ
có thể biến mất, cô ấy có thể trở thành vô nghĩa với anh
ấy. Chồng theo cùng cách đó sợ rằng nếu Thượng đế tới
trong cuộc sống của vợ mình, thì vị trí riêng của anh ta
như Thượng đế thực sự của cô ấy - Thượng đế thay thế
- sẽ bị nguy hiểm. Thượng đế thay thế sẽ không có ở
đâu cả. Đó là lí do tại sao chúng ta đã không cho phép
Thượng đế có chỗ trong thế giới mà chúng ta đã tạo ra,
bởi vì Thượng đế sẽ là nhân tố gây rối loạn ở đây. Nếu
ngài tới, ngài sẽ gây rối, ngài nhất định gây rối cái này
cái nọ; ngài sẽ làm đảo lộn nhiều thứ. Tại đây việc ngủ
sẽ qua đi, tại kia cái gì đó khác sẽ xảy ra, và ở chỗ khác điều gì đó sẽ phải thay đổi. Chúng ta sẽ dừng là điều
chúng ta đang là. Đó là lí do tại sao chúng ta giữ
Thượng đế ở ngoài thế giới của mình.
Nhưng như trong trường hợp khao khát Thượng đế
nảy sinh ngẫu nhiên - để tránh nguy hiểm đó - chúng ta
đã tạo ra các thượng đế giả, các thần tượng đá, trong
nhà mình, và chúng ta tôn thờ chúng, để cho khát khao
này không trực tiếp hướng tới Thượng đế thực. Chúng
ta có các thượng đế thay thế ở khắp nơi. Điều này biểu
thị cho tinh ranh tồi tệ nhất của con người và âm mưu
lớn lao nhất của con người chống lại Thượng đế mãi.
Những thượng đế nhân tạo này là biểu tượng cho âm
mưu ghê gớm nhất chống lại tôn giáo và Thượng đế đã
từng được ngấm ngầm dự định. Và chính vì điều này
mà niềm khát khao của con người về Thượng đế đã
không được phép biến thành việc truy tìm Thượng đế -
thay vì thế bị đi lạc quanh đền chùa và nhà thờ mà vốn
dĩ chẳng đáng giá gì. Và khi con người không tìm thấy
cái gì trong đền chùa và nhà thờ, con người thất vọng và
dường như với người đó nhà riêng của mình còn tốt hơn
chúng. Rồi con người nói, "Có quái gì trong đền chùa
và nhà thờ đâu?" Thế là người đó quay về nhà sau khi
đến thăm chúng. Người đó không biết rằng đền chùa và
nhà thờ là can thiệp của tinh ranh và lừa dối lớn lao.
Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối quỉ trở về nhà
chán ngán và thất vọng và nói với vợ mình, "Ta đã bị
thành thất nghiệp tuyệt đối; ta chẳng có gì trong tay để
làm cả." Vợ quỉ nhảy lùi lại, cũng như tất cả các bà vợ
tỏ ra khi biết tin chồng mình mất việc, và cô ấy hỏi,
"Anh thất nghiệp à? Làm sao có thể như thế được? Làm
sao anh, trong tất cả mọi người, mà bị mất việc? Điều
đó là không thể được, bởi vì việc của anh là vĩnh viễn.
Việc làm biến chất mọi người sẽ diễn ra mãi mãi. Nó là
vậy nó không bao giờ có thể đi tới chấm dứt. Làm sao
anh làm mất nó được? Cái gì làm cho anh thành thất
nghiệp?" Quỉ nói, "Ta đã bị làm thành thất nghiệp theo
một cách rất kì lạ. Công việc của ta đã bị các đền chùa
và nhà thờ chiếm giữ, bởi các tu sĩ và học giả. Ta không
còn được cần tới chút nào. Ta có thể làm gì khác ngoại
trừ việc làm chệch hướng mọi người khỏi con đường đi
tới Thượng đế đây? Bây giờ không ai còn bước trên con
đường đó nữa; đền chùa và nhà thờ hồi giáo có đó để
làm lệch họ khỏi nó. Cho nên ta không có cơ hội đưa họ
đi lạc lối như ta vẫn thường làm thời gian lâu thế."
Khao khát Thượng đế có đó từ bao giờ. Nhưng
chúng ta bắt đầu giáo dục mọi người về Thượng đế từ
thời thơ ấu sớm sủa của họ và đó chính là điều gây ra tai
hại. Trước khi thực tế biết Thượng đế, một ảo tưởng
được tạo ra rằng chúng ta biết ngài. Cho nên mọi người
đều nghĩ mình biết Thượng đế. Trước khi khao khát này
được đánh thức, chúng ta đã được cho uống nước, và
điều này tạo ra chán chường và sợ hãi. Chính vì các
giáo huấn sai lầm của chúng ta mà chúng ta phát triển
việc không ưa Thượng đế; chúng ta mất đi tất cả mọi
mối quan tâm tới ngài. Chúng ta nhồi nhét vào đầu
mình đầy những Gita, Koran và Kinh Thánh, chúng ta
tống vào tâm trí mình đầy những lời của các thánh nhân
và mahatmas, điều đó trở thành buồn nôn và chúng ta
muốn vứt bỏ nó sớm còn hơn là muộn. Cho nên vấn đề
đạt tới Thượng đế không phát sinh.
Toàn thể xã hội chúng ta bắt đầu phản đối, toàn bộ
hệ thống của chúng ta chống lại Thượng đế. Và đó là lí
do tại sao khát khao về Thượng đế khó nảy sinh thế. Và
ngay cả khi nó nảy sinh, người có liên quan đối với
chúng ta dường như gàn gàn dở dở; người đó lập tức bị
coi là có vấn đề tâm thần. Điều đó là vậy bởi vì người đó bây giờ khác thế với những người chúng ta còn lại.
Người đó bắt đầu sống theo cách khác; ngay cả cách thở
của người đó cũng thay đổi, toàn bộ phong cách sống
của người đó thay đổi. Đó là thay đổi lớn lao. Người đó
thôi là một người trong chúng ta; người đó trở thành
người xa lạ với chúng ta.
Thế giới chúng ta đã xây dựng nên là chống lại
Thượng đế. Và chúng ta đã thành công nhiều thế, và
tiếp tục thành công cho tới ngày này. Chúng ta đã vứt
Thượng đế đi, chúng ta đã đuổi ngài đi hoàn toàn. Và
điều kì cục là ở chỗ chúng ta đã đuổi ngài ra khỏi thế
giới riêng của ngài. Và chúng ta đã dựng nên chướng
ngại vật không có lối mở để Thượng đế có thể vào lại
thế giới của chúng ta. Cho nên làm sao khao khát này
nảy sinh được?
Cho dù khao khát này không nảy sinh, cho dù nó
thậm chí không được biết tới, vậy mà một loại bất ổn
bên trong, và dòng chảy ngầm của nỗi thống khổ cứ
theo đuổi chúng ta qua các kiếp sống của mình. Người
ta đạt tới danh vọng, vậy mà người ta vẫn cảm thấy
trống rỗng bên trong. Người ta cóp nhặt của cải, vậy mà
người ta vẫn thấy thiếu cái gì đó, cái gì đó vẫn còn chưa
được đạt tới. Người ta thấy tình yêu, vậy mà dường như
là cái gì đó vẫn còn phải được tìm thấy, người ta vẫn
còn không được thoả nguyện. Cái gì là cái dường như bị
thiếu vào mọi lúc người ta đạt được thành công trong
cuộc sống?
Đó là khao khát bên trong mà chúng ta đã kìm nén,
cái mà chúng ta đã không cho phép nảy sinh, trưởng
thành và được thoả mãn. Khao khát đó thỉnh thoảng
ngẩng đầu lên; nó biến thành dấu hỏi trên mọi con
đường chúng ta đi. Và nó nói với chúng ta, "Mình đã
đạt tới biết bao nhiêu danh tiếng, vậy mà mình vẫn
chẳng đạt được gì cả; mình đạt tới mọi thứ vậy mà mình
vẫn trống rỗng." Khao khát đó gây đau đớn và làm
chúng ta bị thương, khao khát đó quấy nhiễu và dằn vặt
chúng ta từ mọi điểm thuận lợi trong các kiếp sống của
chúng ta. Nhưng chúng ta phủ nhận nó và tự làm mình
bận rộn mình trong công việc với niềm hăm hở đến mức
chúng ta chẳng thể nghe được tiếng nói nhỏ nhoi của
nó.
Đó là lí do tại sao người tham gia vào việc làm tiền
thì cứ đâm đầu vào nó, còn người đuổi theo danh tiếng
bắt đầu chạy như ngựa phi nước đại. Họ bít tai lại để
cho họ không phải nghe rằng họ đã chẳng tìm thấy gì
trong việc theo đuổi tham vọng của mình. Chúng ta làm
đủ mọi thứ trong quyền lực của mình để ngăn cản khao
khát này nảy sinh. Bằng không thì một ngày sẽ tới khi
trẻ con trong thế giới này sẽ được sinh ra với khao khát
Thượng đế này như chúng được sinh ra với đói, khát và
dục. Một thế giới như vậy có thể được tạo ra, và xứng
đáng tạo ra. Nhưng ai sẽ làm điều đó?
Chỉ một số người tìm kiếm Thượng đế mới có thể
tạo ra thế giới như vậy. Nhưng để làm như vậy điều cần
thiết là tất cả mọi mưu đồ chống lại Thượng đế, vẫn
hiển nhiên từ trước tới giờ, đều bị chặn đứng và đánh
bại.
Quả thực có khao khát, nhưng con người có thể
nghĩ ra các biện pháp nhân tạo để kìm nén nó. Trong
hàng nghìn năm ở Trung Quốc, đàn bà bị buộc phải đi
giầy thép để cho bàn chân họ nhỏ nhất có thể được.
Chân nhỏ được coi là biểu tượng cho cái đẹp. Bàn chân
càng nhỏ, địa vị gia đình cô gái càng ở cấp cao hơn.
Cho nên chân họ vẫn còn nhỏ tới mức đàn bà bước đi khó khăn. Trong khi thân thể họ phát triển thì chân vẫn
còn bị còi cọc và nhỏ bé. Họ không thể bước được. Và
người đàn bà không bước được được gọi là quí bà thuộc
vào hoàng gia. Vợ người nghèo không thể đảm đương
được điều đó, bởi vì cô ấy cần có chân lớn để có thể
bước đi và làm việc. Chỉ đàn bà dòng dõi quí tộc mới có
thể làm mà không bước đi; họ bước đi bằng sự giúp đỡ
của người khác. Mặc dầu họ đi khập khiễng - chẳng có
gì ngoài trạng thái khập khiễng - họ vẫn được coi là
thanh nhã và đẹp. Ở Trung Quốc ngày nay không đàn
bà nào chấp nhận điều đó. Cô ấy sẽ nói những người
chấp nhận điều đó là điên rồ. Nhưng tục lệ này đã kéo
dài hàng nghìn năm nay.
Khi một thứ trở thành mốt và phổ cập, khó mà thấy
được qua sự ngu xuẩn của nó. Khi hàng nghìn người
tuân theo nó, khi cả đám đông ở đằng sau nó, bạn
không phán xét nó, đánh giá nó. Khi cả xã hội làm cho
đàn bà phải đi giầy thép, tất cả đàn bà đều đi giầy thép.
Và nếu ai đó không tuân theo thực hành này, cô ấy sẽ bị
kết án là đàn bà điên, cô ấy bị coi như người đàn bà
đáng thương và mất danh giá. Cô ấy sẽ không lấy được
chồng tốt và đẹp trai; cô ấy sẽ không được lập gia đình
trong nhà giàu có. Đàn bà với chân to bị xem là thô tục,
vô giáo dục và vô văn hoá. Người ta đã nghĩ rằng chỉ
đàn bà nông dân mới có chân to; chân của người ưu tú
phải nhỏ. Khái niệm này đã làm què quặt đàn bà ở
Trung Quốc trong hàng nghìn năm, và họ chẳng có ý
tưởng rằng đi giầy thép là cực kì điên rồ; nhưng thực tế
này vẫn kéo dài rất lâu. Và chỉ khi nó bị bãi bỏ thì họ
mới có thể thấy sự điên khùng của nó.
Theo cùng cách đó, khi có liên quan tới Thượng đế,
tâm trí của toàn thể nhân loại đã bị làm hư hỏng, què
quặt. Khao khát của con người về Thượng đế, khao khát
của con người để đạt tới ngài đã bị phá huỷ bằng mọi
cách; nó không được phép vươn cao lên chút nào. Và
cho dù nó có vươn lên, các thượng đế thay thế cũng
được bịa ra và họ được bảo rằng nếu chúng ta muốn
Thượng đế thì chúng ta phải đi tới đền chùa, chúng ta
phải đọc Gita, Koran và Kinh Thánh, và chúng ta sẽ tìm
thấy ngài. Thực tế, chẳng cái gì được tìm thấy trong
kinh sách ngoại trừ lời, và chẳng cái gì được tìm thấy
trong đền chùa ngoại trừ các thần tượng bằng đá. Và thế
rồi con người nghĩ rằng có lẽ bản thân khao khát của
mình là giả.
Và thế rồi khao khát này cứ tới rồi đi. Vào lúc các
bạn tới đền chùa, nó qua rồi. Vào lúc bạn đọc Gita, nó
đã biến mất. Dần dần nó thành gượng gạo và mòn mỏi.
Và cuối cùng nó chết khi nó không được phép được
thoả mãn. Chung cuộc nó tàn lụi đi. Nó cũng giống như
cơn đói thể chất. Nếu bạn nhịn ăn trong ba ngày bạn sẽ
kinh nghiệm cơn đói cồn cào trong ngày nhịn thứ nhất.
Cơn đói sẽ còn cồn cào hơn trong ngày thứ hai, và cồn
cào nhất vào ngày thứ ba. Nhưng tới ngày thứ tư, nếu
bạn tiếp tục nhịn ăn, cơn đói sẽ bắt đầu suy giảm và nó
sẽ ít cồn cào hơn vào ngày thứ năm. Ngày thứ sáu nó
càng ít hơn nữa. Và sau mười lăm ngày cơn đói sẽ dừng
hiện hữu. Và nếu bạn nhịn ăn cả tháng, bạn sẽ không
còn biết đói là gì nữa. Bạn sẽ trở nên ngày một yếu hơn,
bạn sẽ ngày một hốc hác hơn, và ngày tiếp ngày bạn sẽ
mất cân vì bạn sẽ tiêu thụ thịt của mình để sống còn,
nhưng cơn đói sẽ biến mất hoàn toàn. Bởi vì nếu cơn
đói không được phép, không được thoả mãn trong cả
tháng, thì nó sẽ chết là cái chắc.
Tôi đã nghe... Có một câu chuyện ngắn do Kafka
kể. Ông ấy viết rằng có một đoàn xiếc với các kiểu diễn
viên khác nhau và đủ loại trò và các loại nhào lộn và biểu diễn. Người chủ rạp xiếc đã thuê cho nhóm diễn
viên một người tinh thông về nhịn ăn. Người này trình
diễn tiết mục của mình về nhịn ăn, và người đó có một
chiếc lều cho mình. Mọi người tới thăm rạp xiếc để xem
nhiều thứ - như các kĩ xảo của những con vật được huấn
luyện, những con vật lạ và hoang dại - và họ cũng tới
xem người nhịn ăn này, người đó cũng là một đối tượng
có sự hấp dẫn lớn. Người đó có thể sống không ăn hàng
tháng. Có lần người đó đã trải qua kì nhịn ăn ba tháng
liền. Cho nên mọi người tới xem ông ta nữa. Nhưng
cũng có giới hạn cho điều đó.
Chuyện xảy ra là trong thị trấn nào đó nhóm xiếc
này nấn ná ở đến sáu hay bảy tháng. Khán giả tới xem
người đó nhịn ăn nửa tháng hay một tháng, nhưng rồi
mối quan tâm của họ cũng phai đi. Đó là lí do tại sao
người ta nói rằng những người biểu diễn và thánh nhân
nên thường kì thay đổi chỗ của mình. Nếu họ ở một chỗ
quá lâu, họ sẽ gặp khó khăn. Mọi người sẽ đứng xem họ
được bao lâu? Cho nên hợp lí nhất là họ đi từ thị trấn
này sang thị trấn khác cứ sau hai hay ba ngày. Khi họ
tới thăm thị trấn mới, mọi người lũ lượt kéo đến họ. Tại
thị trấn khác họ rất thú vị.
Gánh xiếc trong câu chuyện của Kafka ở quá lâu
trong thị trấn đó, và kết quả là khách không đến xem
người biểu diễn nhịn ăn nữa. Họ quên mất lều của ông
ấy hoàn toàn. Và người đó gầy mòn hốc hác thế qua
việc nhịn ăn dài ngày đến mức người đó không thể đi
tới ông quản lí và thông báo cho ông ta về tình trạng của
mình. Ông ấy yếu tới mức ông ấy thậm chí không thể
ngồi dậy trên giường được, cho nên ông ấy cứ nằm và
nằm ở đó. Và vì đoàn xiếc rất lớn, nên ông ấy thực tế bị
quên mất.
Sau một quãng bốn hay năm tháng, ai đó bỗng
nhiên nhớ tới ông ấy vào một sáng đẹp trời và đi hỏi về
ông ấy. Bây giờ ông bầu trở nên lo âu, e rằng người
nhịn ăn có thể chết rồi. Ông ta chạy xô tới lều của ông
ấy, nhưng hoảng sợ khi chẳng thấy người nào ở đó
ngoại trừ một bó cỏ khô mà ông ấy vẫn nằm. Không có
dấu vết của chính con người này. Khi ông bầu gọi tên
ông ấy, không có tiếng trả lời từ ông ấy. Ông ấy mòn
mỏi đến mức không thể nói được. Thế rồi ông bầu bỏ
giường cỏ ra và ông ấy thất kinh khi thấy người nhịn ăn
thu lại thành bộ xương trần. Nhưng con mắt ông ấy bình
an và sống động.
Ông bầu nói với ông ấy, "Ông bạn ơi, tôi chân thành
xin lỗi vì đã quên mất ông, nhưng ông có mất trí không
vậy? Nếu không ai tới thăm ông nữa, thì ông phải ăn trở
lại chứ." Người này đáp, "Nhưng bây giờ thói quen ăn
của tôi đã chết rồi; nó bị chấm dứt rồi. Tôi không cảm
thấy đói chút nào. Và tôi không còn là người biểu diễn
nữa; tôi bị mắc bẫy vào chính bản thân việc biểu diễn;
tôi là tù nhân bất lực trong tay nó. Tôi không còn đóng
kịch nữa, nhưng thực sự không có đói gì cả. Trong thực
tế, bây giờ tôi không biết đói là gì, bởi vì điều người ta
gọi là đói thì không còn xảy ra cho tôi nữa."
Điều gì đã xảy ra cho con người này? Nếu bạn cứ
nhịn ăn lâu dài và kéo dài thêm một cách có phương
pháp, thì cơn đói chắc chắn sẽ chết và biến mất. Cho
nên chúng ta không cho phép cơn đói Thượng đế của
mình được thức tỉnh, bởi vì Thượng đế là nhân tố gây
khuấy động nhất trong cuộc sống chúng ta. Không có gì
trên thế giới có thể gây khuấy động hơn là ngài. Đó là lí
do tại sao chúng ta đã làm mọi việc phòng ngừa ngăn
cản ngài, và làm đủ mọi thu xếp để cho ngài khuất mắt.
Chúng ta đã khoá đường của ngài từ mọi phía và theo cách thức rất có kế hoạch, để cho ngài không vào được
thế giới của chúng ta ngay cả bằng cách lén lút.
Cho dù vậy mọi người đều được sinh ra với khao
khát về Thượng đế. Và nếu được cho cơ hội và tiện nghi
để thức tỉnh, thì tất cả mọi khao khát khác - như khao
khát giầu có và khao khát danh vọng - sẽ biến mất. Thế
thì không khao khát nào khác hơn khao khát Thượng đế
là còn lại. Tất cả chúng không thể cùng đi bên nhau
được. Cho nên để cứu lấy những khao khát này - những
khao khát về giầu có, khao khát quyền lực và danh
tiếng, khao khát về dục - chúng ta phải kìm hãm và đè
nén khao khát của mình về Thượng đế. Bởi vì nếu khao
khát thiêng liêng nảy sinh và chiếm giữ vũ đài, nó trước
hết sẽ khử bỏ đi và rồi tiêu hoá trong chính nó tất cả các
khao khát khác, và nó sẽ độc chiếm vũ đài này. Thượng
đế rất ghen tị. Khi ngài xuất hiện, ngài giữ vũ đài một
mình, tất cả cho chính ngài. Thế thì ngài sẽ không cho
phép người khác làm trò hề quanh ngài. Khi ngài chọn
bạn làm chỗ trú ngụ cho mình, ngôi đền chùa của ngài,
tất cả các nam thần nữ thánh nhỏ bé đều phải ra đi; họ
không thể sống ở đấy được nữa. Như bạn thấy một số
trong họ được tôn thờ trong các đền chùa - thần khỉ
Hanuman có đó và biết bao nhiêu thần khác; tất cả họ
đều sẽ tan biến. Thượng đế sẽ không cho phép họ sống
ở đó nữa. Khi Thượng đế tới, ngài sẽ biến thành một và
tất cả. Một mình ngài sẽ ngồi trên ngai vàng. Ngài rất
rất ghen tị.
Một bạn hỏi: chẳng phải điều một cá nhân làm thì
thực sự là do đích thân thượng đế làm đó sao?
Đây là câu hỏi đúng. Chừng nào một cá nhân làm
điều, điều đó không phải là do thượng đế làm. Chừng
nào một cá nhân còn cảm thấy rằng mình đang làm, thì
đấy không phải là việc làm của Thượng đế. Cái ngày cá
nhân này biết rằng mình không còn nữa, người đó
không là người làm, đấy chỉ là việc xảy ra, thì hành
động của người đó trở thành hành động của Thượng đế;
nó thuộc vào Thượng đế. Nhưng điều đó không trở
thành hành động của Thượng đế chừng nào mà cá nhân
còn nghĩ rằng chính mình đang làm. Cái ngày việc làm
biến thành việc xảy ra, cái ngày cá nhân này thực sự
kinh nghiệm nó như việc xảy ra, thì Thượng đế tiếp
quản; thế thì ngài làm mọi việc thông qua cá nhân này.
Nếu bạn hỏi gió, "Gió ơi, gió có thổi không?" chúng sẽ
nói, "Không, chúng tôi đang được thổi đi." Nếu bạn hỏi
cây, "Cây ơi, cây có đang lớn lên không?" chúng sẽ nói,
"Không, chúng tôi đang được lớn lên." Nếu bạn hỏi
sóng của biển cả, "Sóng ơi, sóng có xô vào bờ không?"
chúng sẽ trả lời, "Không, chúng tôi đang bị xô vào bờ."
Đây là hành động của Thượng đế.
Nhưng con người nói, "Tôi đang làm đấy." Chính
tại đây con người đi xa khỏi Thượng đế. Chính tại đây
bản ngã con người tiếp quản và con người bị bao vây
trong bản ngã của mình. Và chính tại đây con người
đứng tách rời khỏi Thượng đế như một thực thể tách
biệt. Thượng đế tiếp quản vào chính ngày con người đi
tới nhận ra rằng cách gió thổi, sóng xô, cây lớn, hoa nở,
sao dời, thì mình nữa cũng đang được cử động; có ai đó
bên trong mình cử động và nói, người đó không tách
rời. Cái ngày đó, và chỉ ngày đó thôi, Thượng đế là
người làm.
Việc chúng ta là người làm chính là ảo tưởng. Và
chính ảo tưởng này tạo ra bất hạnh và khổ. Chính ảo tưởng này vận hành như bức tường giữa chúng ta và
Thượng đế. Và cái ngày chúng ta dừng là người làm,
mọi ảo tưởng dừng lại. Thế thì còn lại mỗi mình
Thượng đế.
Trong thực tế, ngay cả bây giờ Thượng đế vẫn một
mình. Không phải bởi vì bạn là người làm mà bạn trở
thành nó. Tôi không nói điều này; tôi không ngụ ý nói
vậy. Khi bạn nghĩ rằng bạn là người làm, bạn trong ảo
tưởng. Ngay cả bây giờ một mình Thượng đế là người
làm, nhưng bạn không nhận biết về điều đó. Điều đó
cũng giống thế này: đêm nay bạn lên giường ở Nargol
và bạn mơ trong giấc ngủ rằng bạn đã tới Calcutta. Bạn
vẫn chưa tới Calcutta; bằng cách nào đó bạn mơ về
Calcutta nhưng bạn vẫn ở Nargol. Nhưng trong giấc mơ
bạn đã tới Calcutta, và bạn đang hỏi cách trở về Nargol,
bằng tầu hoả, hay bằng máy bay hay bằng đường bộ.
Bạn đang hỏi về con đường qua đó bạn sẽ quay về và
hỏi người hướng dẫn sẽ đi cùng bạn. Và bạn đang nhìn
vào bản đồ du lịch. Và bỗng nhiên giấc ngủ của bạn bị
quấy rối và bạn tỉnh dậy ngạc nhiên phát hiện ra rằng
bạn chưa đi đâu cả, rằng bạn vẫn ở Nargol. Và thế rồi
bạn không hỏi về con đường và bạn không nhìn vào bản
đồ du lịch nữa. Thế thì bạn không liên hệ với người
hướng dẫn nữa. Và nếu ai đó hỏi bạn về ý định của bạn
rời khỏi Calcutta bạn sẽ cười và nói rằng bạn đã không
đi Calcutta, bạn mới chỉ nghĩ tới điều đó thôi.
Khi một người nghĩ rằng mình là người làm, người
đó thực tế không phải là người làm; đấy chỉ là ý nghĩ, ý
tưởng, giấc mơ. Người đó chỉ mơ rằng mình là người
làm. Trong thực tế mọi thứ đều đang xảy ra. Và nếu
giấc mơ này biến mất, thế thì cái bạn gọi là biết hay
chứng ngộ xảy ra.

Ngay cả khi bạn nói rằng Thượng đế đang làm cho
bạn làm một việc, thế nữa bạn cũng trong ảo tưởng, ảo
tưởng cũ tiếp tục. Bởi vì thế nữa, bạn vẫn còn là một
thực thể, một thực thể tách biệt, và có khoảng cách giữa
Thượng đế và bạn. Bây giờ bạn tin rằng có Thượng đế,
nhưng bên cạnh ngài bạn cũng có đó. Bây giờ bạn tin
rằng Thượng đế là giám đốc còn bạn là người làm.
Không, khi bạn thực sự thức dậy từ giấc ngủ của
mình ở Nargol bạn sẽ không nói rằng bạn bây giờ đã trở
về từ Calcutta; bạn sẽ đơn giản nói bạn đã không ở đó
chút nào. Cái ngày bạn sẽ thức dậy từ giấc ngủ của bản
ngã, trong đó bạn mơ rằng bạn là người làm, bạn sẽ
không nói rằng bạn làm vì Thượng đế chỉ thị cho bạn
làm. Ngày đó bạn sẽ đơn giản nói, "Một mình Thượng
đế hiện hữu, mình không hiện hữu." Bạn sẽ nói, "Trong
thực tế mình chưa bao giờ tồn tại cả; đấy chỉ là giấc mơ
đã đi tới hồi kết thúc."
Và chúng ta có thể cứ mơ trong vô số kiếp, vô hạn
kiếp. Không có chấm dứt cho việc mơ này. Và điều
đáng ngạc nhiên nhất về việc mơ là ở chỗ khi bạn mơ
điều đó dường như tuyệt đối đúng. Bạn đã mơ mọi đêm,
và sáng hôm sau bạn đi tới nhận ra rằng nó là giấc mơ
và nó là giả. Nhưng khi bạn mơ đêm nay bạn sẽ không
biết rằng nó là giấc mơ, và rằng nó là không thật. Bạn sẽ
biết rằng nó đúng toàn thể. Và sáng hôm sau bạn sẽ nói
khi thức rằng nó không thật chút nào. Kí ức chúng ta
nghèo nàn làm sao! Điều bạn thấy là giả vào buổi sáng
trở thành thực vào buổi đêm khi bạn trở lại mơ. Và nhận
biết bạn có vào buổi sáng cứ mất đi mất lại mãi.
Không hoài nghi gì, nó không phải là nhận biết sâu
sắc, nó tất cả đều hời hợt. Nó thậm chí không sâu hơn
lớp da. Sâu bên dưới ảo tưởng cũ vẫn tiếp tục trở lại.



Chúng ta biết và hiểu mọi thứ chỉ một cách hời hợt. Ai
đó đọc một cuốn sách nói rằng bất kì điều gì chúng ta
làm thì tất cả đều là việc làm của Thượng đế, và trong
một khoảnh khắc người đó hiểu một cách hời hợt rằng
mình không phải là người làm, đó tất cả là việc làm của
Thượng đế. Nhưng cái "tôi" cũ vẫn tiếp tục, người bây
giờ nói, "Tôi không phải là người làm." Hiểu biết này sẽ
tan biến trong một khoảnh khắc. Cho người đó một cú
đánh mạnh và người đó sẽ phát rồ mà hét tướng lên,
"Ông không biết tôi là ai à?" Người đó sẽ quên mất rằng
chỉ mới trước đây người đó đã nói, "Tôi không phải là
người làm, tôi không hiện hữu; một mình Thượng đế
hiện hữu." Một cú đánh mạnh và người đó sẽ quên mất
mọi thứ. Tất cả hiểu biết của người đó sẽ biến mất trong
một phần giây, và đã nhiều lần người đó quát bạn, "Sao
ông dám đánh tôi? Ông không biết tôi là ai sao?"
Thượng đế và mọi việc nói về Thượng đế của người đó
sẽ rời bỏ người đó, và cái "tôi" của người đó sẽ quay trở
lại chỗ của nó.

Tôi đã nghe nói rằng một sư để ra ba mươi năm
trường trên Himalayas. Ông ấy để thời gian của mình
vào an bình và đơn độc lớn lao, và ông ấy quên mất tất
cả về bản ngã của mình. Để bản ngã tồn tại, người khác
là cần có. Làm sao bản ngã có thể sống được nếu người
khác không có đó? Người khác là điều phải có cho bản
ngã; nó không thể sống chỉ bằng chính nó được. Khi
bạn nhìn vào mắt người khác một cách ngạo mạn, bản
ngã của bạn đi vào hoạt động. Nếu người khác không có
đó, bạn sẽ làm gì với cảm giác tự lấy làm quan trọng,
với ngạo mạn của mình? Bạn sẽ làm thế nào để điều đó
được cảm thấy? Bạn sẽ nói với ai, "Tôi đây." Để nói
điều đó, một "người" cần có - người khác. Để làm chỗ
dựa cho cái "tôi", vốn là cái giả tạo, thì một thực thể giả
khác là cần có; đó là cái "người". Không có người khác
bản ngã không thể tồn tại được. Một mạng lưới điều dối
trá là cần có để một điều dối trá sống và phát triển.
Nhưng chân lí đứng một mình; nó không cần dựa vào
bất kì cái gì. Dối trá không thể đứng một mình được, nó
cần nhiều chỗ dựa, tất cả đều được làm từ dối trá và dối
trá một mình. Để làm chỗ dựa cho điều dối trá của cái
"tôi" bạn cần biết bao nhiêu là điều dối trá khác như
"người", 'người đó" và "họ". Chỉ thế thì điều dối trá mới
có thể được duy trì.
Sư này một mình trên núi không có người nào khác.
Không có "người", không có "người đó", không có "họ"
và không có "chúng ta". Không có ai được gọi như vậy
cả. Và do vậy người đó quên mất cái "tôi" của mình. Ba
mươi năm là một thời gian dài. Sư trở thành rất tĩnh
lặng và yên tĩnh. Cho nên bây giờ mọi người từ đồng
bằng bắt đầu tới thăm sư. Và thế rồi họ đã đưa ra yêu
cầu với sư, "Chúng tôi đang tổ chức hội chợ ở châu thổ
bên dưới kia và chúng tôi yêu cầu ông làm vinh dự cho
hội chợ bằng sự hiện diện của ông. Điều đó sẽ cho mọi
người ở đồng bằng một cơ hội chiêm ngưỡng vẻ thánh
thiện của ông, có được darshan của ông. Họ không thể
đảm đương được việc đi tới nơi núi non xa xôi này.
Chúng tôi sẽ biết ơn lắm." Sư này nghĩ rằng vì bản ngã
mình đã biến mất, nên cũng chẳng hại gì mà đi tới mọi
người. Thế là ông ấy đi xuống vùng châu thổ.
Theo cách này tâm trí lừa chúng ta biết bao nhiêu
lần; nó nói bây giờ bản ngã mất rồi cho nên chẳng hại gì
mà quay lại với mọi người.
Sư này đi xuống châu thổ. Hội chợ thật lớn và đông
đúc. Hàng trăm nghìn người, tất cả đều xa lạ với sư, đã
xúm vào hội chợ. Họ không biết về sư này, người đã xa lánh họ một thời gian dài trước đây. Ông ấy đã bị quên
lãng hoàn toàn. Cho nên khi ông ấy bước qua đám
đông, ai đó đi giầy dẫm lên ngón chân ông ấy. Ngay khi
chiếc giầy dẫm lên ngón chân ông ấy, ông ấy tóm cổ
người này và nói, "Ông không biết ta là ai sao?" Ba
mươi năm ông ấy tu trên núi mất tiêu trong một giây, cứ
dường như nó là giấc mơ vừa biến mất. Trong một phần
giây, núi non, an bình, cái trống rỗng, việc dừng lại của
bản ngã và sự xuất hiện của Thượng đế người làm mọi
việc, tất cả đều biến mất đi trong làn khói. Trong một
khoảnh khắc toàn thể sự việc bị chùi sạch cứ dường như
nó chưa từng tồn tại. Bây giờ ông ấy túm lấy cổ người
này và quát lên, "Ông không biết ta là ai sao?"
Thế rồi bỗng nhiên ông ấy sực tỉnh với cái thực của
tình huống này và kinh hoàng thấy điều mình vừa làm.
Ông ấy tự nói với mình, "Mình đã có tất cả nhưng đã
quên mất rằng mình đã tồn tại, mình đã mất bản ngã
mình. Làm sao nó trở lại đúng chỗ của nó thế nhỉ?" và
ông ấy xin lỗi mọi người và nói, "Bây giờ xin cho tôi
đi." Khi mọi người hỏi ông ấy định đi đâu, sư nói, "Tôi
không định trở về núi non đâu, thay vì thế tôi xuống
đồng bằng nơi tôi sẽ sống giữa mọi người." Và ông ấy
nói thêm, "Điều tôi đã không biết khi sống trong đơn
độc của núi non trong ba mươi năm, tôi đã biết ở đây
trong khoảnh khắc đi vào tiếp xúc với một người. Bây
giờ tôi định sống giữa mọi người và cố gắng tìm ra liệu
tôi hiện hữu hay không hiện hữu. Ba mươi năm đã bị
phí hoài, chúng bây giờ có vẻ như giấc mơ, bởi vì tôi đã
nghĩ rằng cái tôi của tôi, bản ngã của tôi đã dừng lại;
nhưng chẳng cái gì đã dừng lại thực cả, mọi thứ đều
không bị đụng chạm tới ngay tại chỗ của nó."
Đây là cách các ảo tưởng được tạo ra, nhưng ảo
tưởng không có tác dụng.
Bây giờ chúng ta sẽ chuẩn bị cho thiền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog