Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Chúng ta trong cái đó!


Trong khoang tim, nằm bên trong thân thể, những kiếp
sống vĩnh hằng không sinh.
Đất là thân thể của nó, nó cư ngụ trong đất nhưng đất
không biết về nó.
Nước là thân thể của nó, nó cư ngụ trong nước nhưng
nước không biết về nó.
Ánh sáng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong ánh sáng
nhưng ánh sáng không biết về nó.
Không khí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong không khí
nhưng không khí không biết về nó.
Bầu trời là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bầu trời
nhưng bầu trời không biết về nó.
Tâm trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí nhưng
tâm trí không biết về nó.
Trí năng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong trí năng
nhưng trí năng không biết về nó.
Bản ngã là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bản ngã
nhưng bản ngã không biết về nó.
Tâm trí lí trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí
lí trí nhưng tâm trí lí trí không biết về nó.
Cái không biểu hiện là thân thể của nó, nó cư ngụ trong
cái không biểu hiện nhưng cái không biểu hiện không
biết về nó.
Cái không huỷ diệt được là thân thể của nó, nó cư ngụ
trong cái không huỷ diệt được nhưng cái không huỷ diệt
được không biết về nó.
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là một thượng đế
thiêng liêng Narayana - người nâng đỡ cho mọi con
người.
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Cá trong biển vẫn còn là kẻ xa lạ với biển cả, không phải
bởi vì biển xa với cá mà bởi vì biển quá gần. Bất kì cái gì ở
khoảng cách xa đều được thấy nhưng cái ở rất gần trở thành
vô hình với mắt. Không khó biết khoảng cách, khó biết cái ở
gần. Và không thể nào biết được rằng cái nào là cái gần nhất
của cái gần. Để cho điểu này được hiểu đúng đi, bởi vì nó là
cái gì đó phải được biết cho cuộc hành trình bên trong.
Mọi người hỏi tìm Thượng đế ở đâu. Họ hỏi, “Làm sao
chúng ta quên rằng cái nào đang bị che giấu bên trong? Làm
sao cái đã bị tách ra ở gần chúng ta hơn là nhịp tim chúng ta,
ở gần ta hơn nhịp thở của chúng ta? Làm sao cái đã bị quên
lãng là bản thân tôi?” Và câu hỏi của họ dường như là logic.
Dường như là điều họ đang hỏi có tính hợp lệ và rằng điều
đó không nên xảy ra giống thế này.
Nếu tôi không thể nào biết ngay cả cái đang bị giấu kín
trong tôi, nếu ngay cả điều đó tôi vẫn còn chưa biết, thế thì
chúng ta sẽ biết ai khác, chúng ta sẽ nhận ra ai khác? Khi
ngay cả điều gần gũi cũng còn trượt khỏi tay thì làm sao
chúng ta có thể đạt tới cái ở xa được? Và không phải nó chỉ
tới gần với chúng ta hôm nay; nó bao giờ cũng ở gần chúng
ta, từ thời vô tận. Thậm chí chúng ta chưa từng tách biệt hay
xa rời khỏi nó dù chỉ một khoảnh khắc. Dù chúng ta đi đâu
nó cũng đi cùng chúng ta; bất kì chỗ nào chúng ta đi, nó đều
đi cùng chúng ta. Nó du hành cùng chúng ta tới địa ngục
cũng như tới cõi trời; nó bên chúng ta trong tội lỗi cũng như
trong đức hạnh. Nói rằng nó bên ta cũng chưa đúng, vì ngay
cả ‘bên ta’ cũng vẫn còn có khoảng cách. Thực tại bản thể
chúng ta và bản thể của nó là một và cùng một thứ.
Nếu điều này đúng, thế thì chính phép màu lớn lao trên
thế gian là chúng ta đã đánh mất cái ta riêng của mình - điều
dường như là không thể có được. Làm sao người ta có thể
đánh mất cái ta riêng của mình được? Không thể đánh mất
được ngay cả cái bóng của mình, và chúng ta đã đánh mất
linh hồn mình. Làm sao điều này có thể được? Nhưng điều
này đã xảy ra. Cách thức việc mất này về cái ta xảy ra, đó là
tinh hoa của kinh này. Trước khi chúng ta đi vào trong kinh,
chúng ta cần hiểu những nền tảng cơ sở của nó.
Mắt có giới hạn về tầm nhìn, một miền. Nếu một vật bên
ngoài miền đó mắt không thể thấy được. Nếu một vật nằm
bên trong miền đó nhưng quá xa về cả hai phía, thế nữa mắt
cũng không thể thấy được nó. Mắt có miền nhìn. Một vật
được đưa tới quá gần mắt không thể được thấy và nếu nó bị
đem ra quá xa nó cũng không được nhìn thấy. Bên ngoài cả
hai phía của miền nhìn nào đó, mắt không thể thấy được, thế
thì chúng là mù. Bây giờ, bạn đang gần với bản thân bạn đến
mức bạn không chỉ gần với mắt mà bạn còn ở đằng sau
chúng - và đó là vấn đề.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Nếu bạn đang đứng
trước một tấm gương, ở một khoảng cách nào đó hình ảnh
bạn rất rõ. Nếu bạn đi quá xa khỏi gương, sẽ không có hình
ảnh nữa. Nếu bạn lại quá gần gương, gần đến mức bạn chạm
mắt vào nó, thế thì bạn không thể thấy được hình ảnh mình
chút nào. Nhưng ở đây tình huống là ở chỗ bạn đang đứng
đằng sau gương; do vậy không có khả năng có bất kì hình
ảnh nào của bạn trong gương - mắt ngay phía trước và bạn ở
sau chúng.
Mắt thấy cái ở trước chúng. Làm sao mắt thấy được cái ở
sau chúng được? Tai nghe thấy cái ở bên ngoài tai. Làm sao
tai nghe được cái ở bên trong tai? Mắt mở hướng ra ngoài,
tai cũng mở hướng ra ngoài. Tôi có thể chạm vào bạn, nhưng
làm sao tôi có thể chạm vào tôi được? Và cho dù tôi có khả
năng chạm vào thân thể tôi thì đấy cũng chỉ vì tôi không là
thân thể - thân thể nữa cũng là cái khác, do đó tôi mới có thể
chạm vào nó. Nhưng làm sao tôi có thể chạm tới một người
mà là tôi, một người đang chạm? Tôi có thể chạm vào bằng
cái gì?
Do đó tay chạm vào mọi thứ nhưng không thể chạm vào
bản thân chúng. Mắt nhìn mọi thứ nhưng không thể nhìn
được bản thân chúng. Đối với cái ta riêng của chúng ta,
chúng ta mù; không một giác quan nào mà chúng ta đã biết
có thể dùng được vào đây. Chừng nào một số giác quan khác
còn chưa khai mở - con mắt nào đó có thể nhìn vào bên
trong, nhìn ra đằng sau, theo chiều ngược lại, hay tai nào đó
có thể nghe được âm thanh bên trong - chừng ấy vẫn không có cách nào để
cho chúng ta có thể thấy và nghe và biết bản
thân mình. Cho đến khi điều đó xảy ra thì không có cách nào
chạm vào bản thân chúng ta. Cái ở gần bị bỏ lỡ; cái ở gần
nhất trong tất cả là không thể nào được biết. Đây là lí do tại
sao cá không có khả năng biết biển.
Điều thứ hai: cá được sinh ra trong biển, nó sống trong
biển; biển là thức ăn của nó, biển là nước uống của nó, biển
là cuộc sống của nó, biển là mọi thứ của nó. Thế rồi nó chết
và tan biến trong biển, nhưng nó không bao giờ có được cơ
hội để biết biển vì nó không có bất kì khoảng cách nào với
biển. Tuy nhiên, cá đi tới biết biển là gì nếu ai đó tới và vớt
nó ra khỏi biển. Đây là điều rất mâu thuẫn: cá đi tới biết biển
khi nó xa khỏi biển - khi nó đang giẫy dụa để sống còn trên
cát dưới cái nóng mặt trời, thế thì nó biết biển là gì. Để biết,
khoảng cách như thế là cần thiết.
Làm sao chúng ta có thể biết được cái một, cái đã tồn tại
ngay trước khi chúng ta được sinh ra và cái sẽ còn lại ngay
cả sau khi chúng ta chết? Làm sao chúng ta có thể biết cái
một trong đó chúng ta được sinh ra và trong đó chúng ta sẽ
tan biến đi? Để biết, phân cách nào đó là điều phải có. Đó là
lí do tại sao cá không biết tới biển; chỉ khi ai đó ném nó lên
bờ thì nó mới nhận ra được.
Con người đang trong khó khăn lớn hơn. Điều thiêng
liêng là đại dương bao quanh chúng ta. Nó không có bờ nơi
bạn có thể bị vứt lên, nơi bạn có thể bắt đầu quằn quại với
nỗi đau như con cá. Vấn đề sẽ rất dễ dàng nếu có một bờ như
thế, nhưng không có bờ như thế. Thượng đế là đại dương.
Đây là lí do tại sao những người đi tìm Thượng đế như bờ
không bao giờ có khả năng tìm được ngài. Bờ có sẵn chỉ đối
với những người đã sẵn sàng đắm chìm trong đại dương của
điều thiêng liêng.
Đơn thuần không có bờ nào cho nên không có cách nào
để tìm thấy nó. Làm sao có thể có được bờ? Mọi thứ khác
đều có thể có bờ; cái toàn thể không thể có bờ - vì cái gì đó
khác được cần tới để tạo nên bờ. Bờ sông được tạo nên từ cái
gì đó khác hơn sông. Bờ của biển được tạo nên từ cái gì đó
khác hơn biển. Nhưng không có gì khác hơn Thượng đế để
có thể tạo nên bờ.
Chính ý nghĩa của Thượng đế là ở chỗ không tồn tại cái
gì khác hơn nó. Thượng đế không có nghĩa là ai đó ngồi ở
đâu đó trên trời và cai quản thế giới từ đó. Không, đấy chỉ là
chuyện cho trẻ con. Điều được ngụ ý qua Thượng đế là ở chỗ
phần tử khác hơn Thượng đế là không tồn tại. Đây là định
nghĩa khoa học về Thượng đế.
Thượng đế có nghĩa là cái toàn thể, cái toàn bộ, mọi thứ -
bất kì cái gì đang có. Cái mà không thể có bờ, vì không còn
gì khác hơn để tạo nên bờ. Do đó Thượng đế là mọi nơi;
không có bờ. Người sẵn sàng chìm là được cứu. Người cố
gắng để được cứu, bị chìm.
Chúng ta ở trong nó. Chúng ta đang trong cái chúng ta
đang cố tìm ra.
Không cần phải cầu tới người chúng ta vẫn cầu, bởi vì
thậm chí không có lỗ hổng nào để người ta phải cầu. Đó là lí
do tại sao Kabir hỏi, “Thượng đế của ông có bị điếc không
mà ông phải kêu ajan to thế?” Thượng đế ở gần đến mức
thậm chí không cần phải cầu gọi ngài. Cho dù có im lặng bên
trong, điều đó nữa cũng sẽ được ngài nghe thấy - ngài ở gần
thế. Nếu bạn phải cầu người khác, bạn phải nói. Nhưng để
cầu bản thân mình, cần gì phải nói? Người ta có thể nghe
người khác chỉ khi lời nói được phát ra, nhưng ngay cả im
lặng của riêng người ta cũng được nghe thấy.
Ở gần thế là khó khăn. Để điều này được hiểu cho đúng: chúng ta đã bỏ lỡ
chân lí bởi vì chúng ta được sinh ra trong
nó. Thịt chúng ta, tuỷ chúng ta, xương chúng ta, toàn bộ thân
thể đều được làm từ nó. Nó là hơi thở của chúng ta, cuộc
sống chúng ta, mọi thứ. Theo nhiều cách thức, qua nhiều
cánh cửa, chúng ta là tổ hợp từ nó - chúng ta là trò chơi của
nó. Không có lỗ lổng chút nào, do đó không có kí ức; do đó
việc hồi tưởng về nó trở thành không thể được. Do đó chúng
ta thấy thế giới, nhưng chân lí không được thấy chút nào.
Thế giới là ở khoảng cách, có lỗ hổng giữa hai điều này; đó
là lí do tại sao đam mê về thế giới nảy sinh.
Nghĩa của đam mê là gì? Đam mê nghĩa là ý định khép
lại khoảng cách giữa bạn và đối thể mà từ đó bạn có cảm
giác về khoảng cách. Không có đam mê về Thượng đế bởi vì
không có khoảng cách giữa bạn và Thượng đế. Hay ngay cả
ai đó dường như đi tìm Thượng đế, đấy có vẻ là một đam mê
giả. Người đó dường như đi tìm cái gì đó khác nhân danh
Thượng đế. Người đó làm Thượng đế trở thành cái cớ nhưng
người đó muốn cái gì đó khác. Có thể người đó muốn quyền
lực, có thể người đó muốn danh vọng, của cải, địa vị hay cái
gì đó khác.
Một người bạn tới và bảo tôi, “Từ lúc tôi bắt đầu cuốn
hút bản thân mình vào kinh nghiệm thiền trong trại của thầy,
tôi đã được lợi nhiều lắm.”
Tôi hỏi, “Bạn được lợi gì?”
Anh ta trả lời, “Lợi ích tâm linh không có đâu nhưng lợi
ích tài chính bắt đầu!”


Rất tốt! Đâu cần hấp tấp về tâm linh? - nó có thể để hoãn
lại dịp khác. Lợi ích tiền bạc là nhu cầu tức khắc!
Chúng ta tìm kiếm cái gì đó trong khi chúng ta gọi nó là
cái gì đó khác. Bất kì ở đâu chúng ta đã đặt nhãn Thượng đế
lên, nếu chúng ta xé bỏ cái nhãn đó đi chúng ta sẽ thấy cái gì
đó khác ẩn bên dưới. Chúng ta muốn cái gì đó khác. Người
muốn cái gì đó khác nhân danh Thượng đế là người kém
trung thực hơn người công khai tìm kiếm hoan lạc trần thế.
Chí ít còn có trung thực, đích thực. Người này nói, “Tôi
muốn tiền bạc,” người kia nói, “Tôi muốn hoan lạc dục,” rồi
người khác lại nói, “Tôi muốn địa vị, tôi muốn đáp ứng bản
ngã,” và còn có người nói, “Tôi muốn Thượng đế,” nhưng
trong ham muốn này về Thượng đế còn có cả cảm giác của
người đó rằng một ngày nào đó người đó sẽ chứng tỏ cho thế
giới rằng Thượng đế nữa cũng là trong nắm tay người đó.
Do đó, quan sát người tìm kiếm Thượng đế một cách cẩn
thận vào. Nếu bản ngã của người đó tăng lên, hiểu rằng việc
tìm kiếm của người đó vì cái gì đó khác; nếu bản ngã của
người đó giảm đi, tan tành, biến mất thì việc tìm kiếm của
người đó mới thực sự là vì Thượng đế.
Tính tự phụ của sannyasin và cái gọi là các thánh nhân
của bạn được biết rõ; thậm chí tính tự phụ của chính khách
lớn cũng không có chỗ đứng nào so với nó. Ít nhất chính việc
tìm kiếm của chính khách là để dành cho cái tự phụ đó, cho
nên nó là thoả đáng; nó là một vấn đề dứt khoát, không có gì
giả trong đó cả. Trò vui về việc là cái gì đó đặc biệt là toàn
bộ trò chơi với họ. Nhưng với thánh nhân vấn đề lại khác.
Ông ta nói rằng ông ta đang tìm kiếm việc là cái không... và
thế rồi ông ta cứ trở thành cái gì đó. Nếu hai thánh nhân gặp
nhau, họ không thể được để ngồi cùng một bục bởi vì sẽ có
vấn đề ai ngồi đâu, cao hơn hay thấp hơn. Cho nên thông
thường các thánh nhân đơn thuần không gặp lẫn nhau, vì
nhiều vấn đề nảy sinh.
Có một người bạn hơi chút lập dị - lập dị theo nghĩa là
người đó cố gắng thu xếp cho các thánh nhân gặp lẫn nhau.
Một lần người đó bảo tôi rằng có những vấn đề lớn nổi lên
bề mặt. Ngay cả vấn đề như ai nên đưa tay ra trước để chào
đón cũng phát sinh. Một tình huống khó khăn. Ngay cả phàm
nhân cũng không có vẻ trần tục đến thế. Họ có thể không
muốn đón chào ai đó bằng việc chắp tay, vậy mà họ cứ làm
điều đó. Trong tâm trí, họ có thể nghĩ rằng giá mà người kia
chắp tay trước thì tốt hơn, nhưng họ che giấu cảm giác đó;
nó có vẻ không hào hiệp. Với một số thánh nhân điều ấy
dường như là không hào hiệp - những thánh nhân đó thậm
chí còn không đáp ứng với việc chào đón, họ đã dừng ngay
việc thu xếp gặp gỡ. Họ chỉ ban ân huệ.
Người bạn đó rất bận thu xếp cuộc gặp gỡ cho thánh
nhân nọ với thánh nhân kia. Thánh nhân kia nói, “Mọi thứ
khác đều tốt cả, nhưng nếu tôi không đón chào ông ta và ông
ta lập tức lại ban cho tôi ân huệ thì điều đó sẽ làm hỏng mọi
thứ.”
Tìm kiếm của chúng ta là về cái gì đó khác, nó chẳng
liên quan gì tới tôn giáo hay với điều thiêng liêng. Chúng ta
ham muốn cái gì đó khác, chúng ta yêu cầu điều gì đó khác,
nhưng chúng ta không trung thực và chúng ta che phủ bản
thân mình bằng những yêu sách khác. Làm sao việc tìm kiếm
Thượng đế bắt đầu được? - bởi vì không có khoảng cách.
Nếu có khoảng cách, đam mê nảy sinh. Nếu có khoảng cách,
người ta cảm thấy thích chạy. Nếu có khoảng cách, ham
muốn nảy sinh để thắng. Nếu có khó khăn, bản ngã trở nên
quan tâm tới thất bại, tới thắng lợi. Nhưng chừng nào có liên
quan tới Thượng đế, không có khoảng cách. Tình huống là ở
chỗ Thượng đế đã ở cùng chúng ta.
Khi Tensing và Hillary trèo lên đỉnh Everest, niềm vui
của họ là gì? Họ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại
đứng trên đỉnh núi cao nhất. Không có gì khác trên Everest.
Nhưng người đầu tiên trên đỉnh Everest! - lịch sử đã được
tạo ra; bản ngã tìm thấy sự quan trọng trong hành động này.
Bây giờ chừng nào còn Everest trên thế giới thì chừng ấy tên
của Hillary và Tensing không thể bị xoá đi.
Có biết bao cạnh tranh để lên tới mặt trăng cho mãi tới
gần đây. Điều rất thú vị là biết chúng ta đã để lại gì trên mặt
trăng. Những người đã lên đến mặt trăng đều là người Ki tô
giáo, nhưng họ không để lại bức tượng của Jesus ở đó, họ đã
để lại lá cờ Mĩ. Nghĩ mà xem: cờ là thực, Jesus không thực!
Ngay cả ý tưởng này cũng không thoáng qua tâm trí người
Mĩ để mang ít nhất một bức tượng nhỏ của Jesus. Họ đã
mang lá cờ! Lá cờ là bản ngã thực của con người. Và nếu tên
của Jesus đôi khi còn được nhớ tới, điều đó cũng có nghĩa là
một loại lá cờ, nó không có ý nghĩa gì khác. Khi đấy là vấn
đề chiến đấu, vấn đề giương cao lá cờ, vào thời đó Jesus,
Rama, Krishna, Phật đều được ghi nhớ; nhưng việc dùng họ
thì không nhiều hơn việc dùng lá cờ. Họ cũng là một lá cờ
trên bản ngã con người.
Trên mặt trăng chúng ta đã để lại sau các lá cờ. Con
người bận bịu ham muốn tìm ra cái gì đó mà chỉ người đó
mới có thể làm để cho bản ngã người đó thu được tầm quan
trọng. Nhưng nếu như bạn được sinh ra trên đỉnh Everest bạn
sẽ gặp khó khăn lớn vì còn đâu để kéo cờ nữa.
Con người được sinh ra trong Thượng đế; chỉ ngài hiện
hữu. Bạn đã ở đấy, bạn chưa bao giờ đi xa. Đó là mảnh đất
của bạn mà trên đó bạn đã đứng. Do đó, trong việc đạt tới
Thượng đế không có cơ hội cho bất kì bản ngã nào. Bản ngã
không được quan tâm tới trong điều đó. Thế thì làm sao khao
khát và ước ao nảy sinh được khi không có ham muốn về
Thượng đế?
Khao khát về điều thiêng liêng nảy sinh theo cách rất kì lạ. Hiểu điều
này cho đúng, bởi vì không có cách nào khác
hơn cách này. Khát khao về thế giới nảy sinh bởi vì khoảng
cách. Nếu khoảng cách là không thể vượt qua được, hấp dẫn
trở nên cực kì lớn. Và đây là lí do tại sao, trong thế giới, bất
kì khi nào mọi thứ được đạt tới mối quan tâm của người ta
đều mất đi, bởi vì khoảng cách đã bị vượt qua rồi. Bạn đã
ham muốn người đàn bà, bạn đã tìm thấy cô ta; bạn đã ham
muốn xây nhà, bạn đã xây nó; bạn đã ham muốn chóp vàng
trên nhà mình và bạn đặt nó ở đó - cái gì tiếp?
Cho nên bất kì cái gì được đạt tới, thế thì nó trở thành vô
giá trị vì nó đã tới gần bạn, nó không còn khoảng cách nữa.
Nếu nó ở xa và có khó khăn theo cách không ai đạt tới được
nó, chỉ thế thì bạn mới cảm thấy xúc động, thấy vui về nó.
Vui về giầu có không có trong bản thân sự giầu có, nó là
trong cái nghèo của nhiều người khác. Nếu mọi người đều
trở thành giầu, toàn bộ mọi sự bị hỏng. Đấy là vấn đề ở Mĩ:
vui của việc thành giầu đang trở nên ngày càng ít đi. Người
nghèo đang mặc cùng kiểu quần áo như người giầu, lái cùng
kiểu xe ô tô, sống trong những ngôi nhà tương tự. Không có
khác biệt cơ bản nhiều mấy giữa người giầu và người nghèo.
Cái vui của người giầu đang bị mất đi. Người giầu đang cảm
thấy bị bối rối do điều đó; họ đang tìm những trò mới mà chỉ
có họ mới có khả năng hưởng thú.
Chúng ta là trong Thượng đế, do đó không có việc cầu
gọi, không lời mời trong đó cho bản ngã; không có thách
thức, không có động cơ cho bản ngã. Vậy thì làm sao khát
khao về điều thiêng liêng có thể nảy sinh được? Khát khao
về những thứ trần thế nảy sinh là do khoảng cách của chúng
và do sự thách thức và mời gọi của chúng. Khát khao về
Thượng đế nảy sinh từ thất bại của những điều trần tục.
Để điều này được hiểu. Khi bạn chạy theo mọi hướng và
ở đâu cũng thất bại; khi bạn đã đạt được mọi thứ và tất cả
đều chứng tỏ vô giá trị; khi tìm kiếm của bạn về mọi thứ đã
hoàn thành, và với hoàn thành này nảy sinh tiêu cực, mọi thứ
trở thành con số không; chỉ thế thì mới nảy sinh khao khát về
Thượng đế. Mọi thứ dường như vàng từ nơi xa nhưng tất cả
chúng lại chứng tỏ là đống bùn khi chúng lọt vào tay bạn.
Khoảng cách càng xa, vàng càng nguyên chất. Khi nó bắt
đầu lại gần hơn, nó cũng bắt đầu trở nên kém nguyên chất đi.
Gần hơn nữa nó bắt đầu biến thành đất sét.
Có câu chuyện về vua Midas ở Hi lạp - có trào phúng lớn
trong đó. Midas được ân huệ có một quyền năng siêu nhiên;
món quà của thần là ở chỗ bất kì cái gì ông ta sờ vào đều trở
thành vàng. Tất cả chúng ta là điều ngược của Midas: bất kì
cái gì chúng ta mó tay vào đều trở thành đống bùn!
Nhưng điều đó rất thú vị... Ngay cả Midas cũng trong rắc
rối lớn - làm sao có thể có bất kì kết thúc nào cho rắc rối của
chúng ta? Bất kì cái gì Midas sờ vào đều trở thành vàng. Ông
ta chạm vào vợ, bà ấy trở thành vàng. Ông ta chạm vào thức
ăn, nó thành vàng. Ông ta cầm cốc nước, trước khi nó tới
môi ông ta, nó đã thành vàng. Midas đáng thương! Ông ta
trong khó khăn lớn. Bạn không thể nào làm dịu cơn khát của
mình bằng vàng được. Chúng ta có nói nhiều đến đâu về
“một thân thể tựa như vàng lấp lánh,” cũng không thành vấn
đề, không có sự thoả mãn nào nảy sinh từ thân thể như thế.
Người yêu có thể ca tụng thân thể của người mình yêu như
“một tấm thân vàng” đến đâu đi chăng nữa thì cũng không
thành vấn đề, người đó sẽ hiểu điều gì xảy ra nếu tấm thân
đó thực sự trở thành vàng. Người đó sẽ phải đập đầu mình
nếu như điều như thế xảy ra. Người đó sẽ cảm thấy rằng tấm
thân trước còn tốt hơn.
Cho nên Midas đã gặp khó khăn lớn. Ông ta đã bị vàng hấp dẫn bởi việc nói
chuyện với các nhà thơ. Bây giờ sao?
Mọi thứ đều thành vàng - vợ, nước, thức ăn! Mọi người bắt
đầu chạy trốn khỏi ông ta. Con riêng của ông ta cũng bắt đầu
giữ khoảng cách với ông ta - ai biết được khi nào ông ấy có
thể chạm phải bạn! Không bạn bè nào dám lại gần ông ta.
Midas trở nên rất đơn độc. Ông ta là vua, và ông ta trở nên
đơn độc. Các quan thượng thư sẽ không tới quá gần ông ta;
họ giữ một khoảng cách an toàn từ xa để cho họ có thể chạy
trốn nếu cần. Midas bắt đầu chết đói. Ông ta không thể ăn
thức ăn nào, ông ta không thể uống nước. Ông ta bắt đầu la
hét và kêu to, “Ôi, lạy trời, xin ngài rút lại món quà này đi!
Tốt hơn cả là con vẫn như trước! Ân huệ này đã thành tai
hoạ.”
Midas đã trong trạng thái đó - mọi thứ mà ông ta sờ tới
đều biến thành vàng. Hình dung xem hoàn cảnh của chúng ta
sẽ như thế nào nếu bất kì cái gì chúng ta động tới cũng đều
biến thành đống đất sét. Vợ dường như đẹp đẽ và như vàng
khi cô ấy ở xa xa; cái ngày hôn nhân xảy ra, cô ấy bắt đầu
biến thành đất đen. Trong bốn hay năm năm cô ấy trở thành
như bùn. Mọi thứ đều biến thành bùn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng mọi chạy đua đều trở thành vô
tích sự, bạn đi đến một cái dừng chết dí ngay nơi Thượng đế
hiện hữu. Cái ngày bạn đi tới biết rằng bạn đã không thu
được gì bởi việc chạy đua, bạn sẽ không chạy đua thêm nữa.
Và bởi vì bạn không chạy đua, bây giờ bạn thấy điều mà
trước đây không thấy được bởi vì chạy đua.
Khi tâm trí mê mải trong chạy đua, mọi thứ đã từng ở xa
đều được thấy. Khi chạy đua trở thành vô dụng, mắt trở lại
khung cảnh gần hơn. Và nếu chạy đua dừng lại toàn bộ, mắt
bắt đầu nhìn theo chiều ngược. Mãi cho đến nay chúng đã
chỉ nhìn bên ngoài, bây giờ chúng bắt đầu nhìn bên trong.
Gương thực hiện việc quay ngược lại. Thế thì bạn không tìm
thứ gì đáng nhìn trong thế giới nữa, hay đáng kiếm và đáng
tìm trong thế giới nữa. Bây giờ thế giới không còn là ham
muốn chút nào nữa. Đó là lí do tại sao Phật, Mahavira và
Upanishad đã đặt nhiều nhấn mạnh thế vào sự kiện là vô ham
muốn là cánh cửa.
Ham muốn là cánh cửa đi ra xa; vô ham muốn là cánh
cửa về lại gần.
Bây giờ chúng ta hiểu câu kinh này: “Bên trong thân thể
ẩn giấu cái không sinh và vĩnh hằng.”
Nó chưa bao giờ sinh ra, nó có đó mãi mãi. Cái vĩnh
hằng và không sinh đang ẩn bên trong thân thể nhưng thân
thể không biết về nó. Thân thể là một phần của đất; nó bị che
giấu bên trong đất nhưng đất không biết về nó. Trong kinh
này cùng điều đó được lặp lại từ những góc độ khác nhau.
Cái không sinh và vĩnh hằng bị ẩn giấu trong lửa, nhưng
lửa không biết nó. Nó được ẩn giấu ở mọi nơi, nhưng người
đứng sau cái bị che giấu không biết đến nó bởi vì người
đứng sau cái bị che giấu đang chạy đua bên ngoài. Bạn đã
bao giờ nhận ra điều này chưa? Nếu bạn có thể kinh nghiệm
được việc chạy đua bên trong của thân thể bạn, bạn sẽ đạt tới
samadhi. Bạn đã kinh nghiệm mỗi việc chạy đua bên ngoài
của thân thể - một thân thể đẹp được thấy và xúc động chạy
qua thân thể bạn; mọi tế bào thân thể bạn bắt đầu chạy đua
theo nó. Một đoá hoa đẹp được thấy và mắt bắt đầu chạy
đua. Một giai điệu du dương được nghe thấy và tai bắt đầu
chạy đua.
Thân thể bao giờ cũng chạy đua bên ngoài. Bạn đã bao
giờ kinh nghiệm thân thể chạy đua bên trong chưa? Không,
bạn chưa kinh nghiệm đâu. Thế thì làm sao thân thể đáng
thương này biết được ai đang ẩn náu bên trong? Nơi thân thể chưa bao giờ
đi, nơi thân thể chưa bao giờ ngó tới, chưa bao
giờ nghe thấy, chưa bao giờ thám hiểm... làm sao thân thể có
thể biết được cái gì có đó bên trong? Do đó thân thể vẫn còn
là kẻ xa lạ với người sở hữu thân thể đó. Tất cả chạy đua đều
hướng theo bên ngoài, do đó dốt nát tràn ngập bên trong.
Kinh này là việc lặp lại cho cùng một thứ nhưng từ những
cánh cửa khác nhau.
Cái ẩn kín bên trong không khí, không khí không biết.
Tâm trí không biết về người sở hữu thân thể đó. Bản ngã
không hay về người sở hữu thân thể đó. Tâm trí lí trí, cái bất
diệt, cái không biểu hiện - tất cả chúng đều không biết đến
người có thân thể chính là chúng và người ẩn kín bên trong
chúng. Ngay cả cái chết cũng vẫn còn không quen biết với
người có cái chết xảy ra. Phát biểu này có đôi chút kì lạ: cái
chết vẫn còn không quen biết với người chết. Không có gì
chết khi người ta chết cả.
Khi cái chết xảy ra, ai thực sự chết? Không ai cả. Thân
thể không chết, bởi vì nó bao giờ cũng chết rồi; không có
vấn đề về việc chết của nó. Người ẩn kín bên trong thân thể
là bất tử vĩnh viễn; không có vấn đề về việc chết của người
đó. Chỉ mối quan hệ tan vỡ. Trong cái chết mối quan hệ giữa
người chết và người bất tử tan vỡ. Nhưng bản thân cái chết,
cho dù sau khi tới gần đến thế, cũng vẫn còn không biết gì về
người bất tử.
Bao nhiêu lần chúng ta đã chết, vậy mà chúng ta vẫn
chưa đi tới biết người bất tử ở bên trong chúng ta. Chính tình
huống này có nghĩa là ngay cả trong khi tới gần chúng ta vẫn
không có khả năng nhìn vào trong; cái nhìn của chúng ta tiếp
tục hội tụ bản thân nó ra ngoài. Nhìn một người đang nằm
trên giường chết: người đó vẫn cứ nhìn ra ngoài. Thậm chí
bây giờ người đó không cảm thấy thích nhìn vào bên trong.
Cái chết đang kéo và lôi người đó khỏi thân thể, nhưng
người đó vẫn níu bám lấy thân thể - níu bám còn mạnh hơn,
mạnh hơn hẳn trước đó.
Đây là lí do tại sao người già trở nên xấu còn người trẻ
trông đẹp. Nếu chúng ta nhìn điều đó sâu sắc, lí do cho điều
này không phải là một mình thân thể. Người trẻ không níu
bám lấy thân thể, người đó vẫn còn tin tưởng vào nó. Người
già bắt đầu níu bám lấy thân thể; và bởi vì níu bám đó mà
mọi thứ xấu sinh ra. Người già bắt đầu sợ hãi: cái chết đến
đây... bây giờ cái chết tới... cái chết ở cạnh kề. Người già
càng sợ chết càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống. Và
người càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống, người đó càng
trở nên xấu hơn.
Trẻ con trông đáng yêu làm sao! Chúng đơn giản không
níu bám chút nào. Chúng không có ý tưởng rằng cái chết tồn
tại. Nhìn chim chóc và muông thú mà xem: chúng già đến
đâu chúng trông cũng vẫn thế. Tôi đang nói về những con
vật và những con chim còn chưa bị hư hỏng qua việc đồng
hành cùng con người. Con người chỉ làm hỏng mọi thứ. Cho
nên điều dường như rất lạ là trong rừng hoang chim chóc và
muông thú có vẻ không bị già đi. Kiểu tuổi già bắt giữ con
người dường như không bắt giữ chim chóc và muông thú.
Chúng vẫn còn giống như trẻ con. Theo một nghĩa sâu sắc
nào đó chúng không nhận biết chút nào rằng cái chết sẽ tới,
do đó không có níu bám vào thân thể.
Tính tươi tắn ở trẻ con bởi vì cuộc sống là tự nhiên,
không có sợ chết. Điều đó trở thành khó khăn cho tuổi già;
cái chết trở nên rõ ràng hơn. Cuộc sống là nỗ lực bây giờ,
người già sống bằng nỗ lực. Mọi li của cuộc hành trình
người đó đều ý thức tới cái chết bây giờ. Điều đó tạo ra bất
định; căng thẳng tăng lên bên trong người đó và lo âu cùng buồn khổ bắt
giữ người đó thường xuyên, và điều đó làm cho
tâm trí thành xấu.
Bản thân cái chết không đi tới biết người bất tử ẩn bên
trong thân thể. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ hiện
tượng nhìn vào trong chỉ xảy ra khi việc nhìn ra ngoài đã trở
thành vô tích sự và vô nghĩa. Để điều này được hiểu đúng.
Nó dường như đã trở thành vô nghĩa nhiều lần rồi, nhưng
vẫn chưa trở thành thực sự như vậy. Không phải là cái vô
nghĩa đó không bừng dậy trong bạn - nó có bừng dậy trong
bạn đấy. Bạn đã nghĩ về việc mua một chiếc xe rồi bạn mua
nó. Khi bạn chưa mua nó, bạn mơ về nó trong đêm. Vào cái
đêm trước hôm nó được giao cho bạn, thậm chí bạn còn
không ngủ được ngon - cả đêm ròng!
Ai đó đã viết về người bạn mình, người mua một chiếc
xe rất đẹp, chiếc Ferarri. Nó là chiếc xe rất đắt. Trong chính
ngày đầu tiên người đó đã lái nó, chiếc xe bị xước một chút
xíu.
Người bạn đó không còn là đứa trẻ nữa, ông ta đã năm
mươi tuổi; và ông ta cũng không phải là người thiếu học vấn,
ông ta là một giáo sư đại học - giáo sư triết học hẳn hoi.
Nhưng người ta đã thấy ông ấy khóc hôm đó, gục đầu vào
vai mẹ mình. Chỉ bởi vì chiếc Ferarri bị xước! Chiếc xe đắt
thế. Ông ta đã mơ ước biết bao về nó. Vết xước đó của chiếc
xe hẳn đã phải ăn sâu vào ông ta, vào chính linh hồn ông ta;
đấy là lí do tại sao ông ta khóc.
Khóc thì tất cả các bạn đều làm. Người đàn ông đó phải
là một người chân thật hơn. Trên con đường thoáng đãng,
gục đầu vào vai mẹ, ông ta bắt đầu khóc. Nhưng trạng thái
này kéo dài được bao lâu? Trong vài ngày chiếc Ferarri sẽ
trở nên cũ. Sau một hay hai tháng người này sẽ ngồi trong
cũng chiếc xe đó nhưng ông ta thậm chí sẽ không cảm thấy
mình đang ngồi trong chiếc xe nào nữa. Ông ta sẽ chán với
chiếc xe này - nhưng chưa chán với xe. Mơ ước về một chiếc
xe khác nào đó sẽ bắt giữ ông ta. Bây giờ ông ta có thể nghĩ
tới việc làm chủ chiếc Rolls Royce, hay chiếc xe khác nào
đó. Tâm trí sẽ chán với một người đàn bà hay một người đàn
ông, nhưng nó sẽ không chán với đàn bà như vậy hay đàn
ông như vậy.
Tất cả chúng ta đều thấy chán, nhưng cái chán của chúng
ta vẫn còn gắn với những thứ đặc biệt. Còn chính thực tại
của việc chán này không trở thành một phần của kinh
nghiệm của chúng ta. Khi chúng ta mệt mỏi về thứ này,
chúng ta chọn thứ khác cùng kiểu, và quá trình này cứ tiếp
tục mãi. Đây là khác biệt duy nhất giữa bạn và vị phật.
Bạn chán với một người đàn bà nhưng mối quan tâm của
bạn vẫn tiếp tục trong người đàn bà khác. Nếu bạn chán với
vợ mình, mối quan tâm của bạn tiếp tục ở vợ của ai đó khác.
Bất kì cái gì gần gũi và có sẵn đều trở thành vô dụng, nhưng
cái ở xa duy trì mối quan tâm của bạn. Cái ở xa đó rồi cũng
sẽ trở thành vô dụng vào ngày mai khi nó lại gần bạn. Nhưng
không thể nào mọi thứ đều có thể lại gần người ta được. Một
số thứ vẫn tiếp tục còn ở xa; do vậy mối quan tâm vẫn tiếp
diễn, ham muốn vẫn cứ chạy đua.
Chán một đàn bà, vị phật chán luôn với mọi đàn bà.
Sống trong một lâu đài, vị phật đã sống trong mọi lâu đài.
Với vị phật, chỉ một việc xảy ra là đủ. Đây là cách tiếp cận
khoa học. Nếu một giọt nước đã được biết, thế thì toàn bộ
biển cả đã được biết. Ông ấy sẽ là nhà khoa học điên khùng
nếu cứ tiếp tục kiểm thử mọi đại dương và nói, “Khi tôi hoàn
thành việc kiểm thử mọi giọt nước của mọi đại dương, tôi sẽ
tuyên bố rằng nước được tạo nên từ hidro và oxi.” Chúng ta
đang trong một loại điên khùng tương tự. Nhà khoa học kiểm thử một giọt
nước, phát hiện ra rằng nước được tạo nên từ
các nguyên tử hidro và oxi, và rằng H2O là phương trình cho
các thành tố của nước, và thế là vấn đề xong với ông ta. Mọi
nước trong mọi biển bây giờ đều được biết. Bất kì nơi đâu có
nước, ngay cả trên bất kì hành tinh khác nào - và các nhà
khoa học nói có ít nhất năm mươi ngàn trái đất tương tự như
trái đất của chúng ta - hay ở bất kì đâu trong vũ trụ, nó đều
được tạo nên từ việc bố trí của các nguyên tử: H2O.
Mọi nước được biết bằng việc biết một giọt nước.
Với việc hiểu mẫu hình và hành vi của một ham muốn,
người đó đi tới biết toàn thể bản chất của mọi ham muốn và
trở thành vị phật. Biết một ham muốn, người đó, người thấy
được cái vô tích sự của nó - cái phù phiếm phổ cập - và cái
thất bại không tránh khỏi của nó, ham muốn của người đó
đơn giản rụng đi. Ham muốn rụng đi tựa như cái nạng của
người què bất thần rơi xuống. Người đó đã bước đi với trợ
giúp của cái nạng; người đó đã không có chân để bước,
người đó đã có chân gỗ. Bỗng nhiên chiếc nạng rơi ra và
người què đổ sập xuống. Điều tương tự cũng xảy ra khi cái
nạng ham muốn rơi rụng đi. Không có chân thực để bước
trong cuộc sống trần gian; chúng là nhân tạo, cứng đơ, được
làm bằng những ham muốn. Ham muốn rơi đi chính là chiếc
nạng rơi đi, và người ta bỗng nhiên thấy bản thân mình ở đó
- từ nơi mà người đó chưa bao giờ đi, nơi người đó bao giờ
cũng ở đấy, trong bản tính thực của mình. Đó là Thượng đế,
đó là linh hồn.
Đoạn cuối của kinh giải thích điều này:
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là thiên thần
thiêng liêng Narayana
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Điều cuối cùng là kinh này. Cuộc chạy đua theo các ham
muốn là do sự kiện rằng mơ nào đó bao giờ cũng có vẻ gần
đạt tới hoàn thành ở đâu đó nơi xa xa. Người trong sa mạc
nhìn thấy một hồ nước gần chân trời, chạy lại lấy nước, và
khi tới đó phát hiện ra rằng không có nước, rằng không có gì
ngoài cát và cát. Nhưng rồi cái hồ lại xuất hiện đâu đó khác.
Điều này được gọi là ảo cảnh.
Khi tia sáng mặt trời trở nên nóng và được phản xạ trên
cát thì các tia sáng rung rinh tạo ra ảo cảnh về gợn sóng và
sóng. Gợn sóng và sóng lăn tăn cứ liên tục lan rộng, việc
phản xạ trải trên bề mặt xuất hiện. Nếu có cây cối gần đó, cả
cây đó cũng được phản xạ lên bề mặt đó, bề mặt có tác dụng
tựa như chiếc gương. Khi từ một khoảng cách xa bạn thấy
không chỉ có nước mà còn cả phản xạ của đám mây bay qua
in trên nước, làm sao bạn không tin được? Nếu có cả phản xạ
của đàn chim bay trên trời trong cái gọi là nước đó, và nếu
cây cối gần đó cũng được phản xạ vào trong nước, niềm tin
của bạn vào sự tồn tại của nước lại càng được xác nhận.


Không chỉ sóng nước được trông thấy, ngay cả những phản
xạ trong nước cũng được thấy. Nhưng khi bạn lại gần hơn,
phản xạ dừng xuất hiện, và khi tiến lại chỗ ấy bạn không tìm
thấy gì ngoài cát.
Adhyas, hay ảo tưởng, nghĩa là thấy cái không có đó.
Shankara yêu từ này lắm, và với Upanishad nó là chính nền
tảng. Adhyas nghĩa là phóng chiếu, thấy cái không có đó: cái
được thấy không thực có đó, bạn đang phóng chiếu nó từ bên
trong. Bạn là nguyên nhân của việc phóng chiếu.
Một khuôn mặt dường như đẹp với bạn: liệu cái đẹp đó
đang có đó hay bạn đang phóng chiếu về nó?... vì ngày mai
cũng cùng khuôn mặt đó lại có thể tỏ ra xấu với bạn. Có thể
nó đã không có vẻ đẹp với bạn ngày hôm qua. Hôm nay
bỗng nhiên con mắt thiêng liêng của bạn đã mở ra và khuôn
mặt này đã bắt đầu trông đẹp với bạn. Với bạn bè của bạn nó
vẫn trông không đẹp.
Người ta nói rằng Laila không đẹp, chỉ có Majnu mới
trông cô ấy là đẹp. Cả làng đều khó xử, và mọi người cố
gắng thuyết phục Majnu: “Cậu ngây thơ lắm. Có bao nhiêu
gái đẹp trong làng; cậu cứ bị ám ảnh không cần thiết với
Laila làm gì.” Majnu trả lời, “Nếu bác muốn thấy Laila, bác
phải có con mắt của Majnu.” Đây là adhyas, ảo tưởng. Vấn
đề không phải là Laila mà vấn đề là con mắt của Majnu. Vấn
đề không phải là cái được thấy mà vấn đề là người đang thấy
cô ấy. Cho nên Majnu nói, “Thấy bằng mắt tôi đây này, thế
thì bác sẽ có thể thấy được Laila.” Không hoài nghi gì rằng
dưới con mắt của Majnu thì cô ấy sẽ trông đẹp. Nếu như có
thể mượn được cặp mắt của Majnu thì Laila sẽ thành đẹp đối
với bạn như cô ấy đã đẹp đối với Majnu.
Mắt cũng có một kiểu kính. Mầu của kính phóng chiếu
lên vật được thấy. Tất cả các giác quan bạn đều đang phóng
chiếu. Bạn đang tạo ra một thế giới khắp quanh bạn. Tâm trí
bạn không chỉ là người nhận, nó là đấng sáng tạo nữa. Bạn
đang sáng tạo ra một thế giới quanh bạn - về cái đẹp, về
hương thơm, thế này, thế nọ.
Thế giới này không phải như bạn thấy nó. Nó tuỳ thuộc
vào bạn. Nếu bạn thay đổi, thế giới cũng thay đổi theo.
Thanh niên nhìn thấy thế giới này, người già thấy thế giới
khác, và trẻ con lại thấy thế giới khác nữa. Cái gì tạo ra khác
biệt này? Thế giới vẫn như vậy thôi. Nhưng trẻ con không có
cùng con mắt như thanh niên. Trẻ con vẫn còn quan tâm tới
việc nhặt đá và sỏi - chỉ mầu sắc của mọi thứ là đủ. Thanh
niên nói, “Vứt quách những thứ ấy đi! Có gì trong đó nào?
Chúng có giá trị gì nào?” Với thanh niên tiền bạc đã trở nên
giá trị. Người đó bắt đầu hiểu giá trị của tiền. Bây giờ nhặt
đá sỏi không có tác dụng. Bây giờ chẳng ích gì mà đuổi theo
bướm cả.
Trẻ con bắt bướm; bướm trông như cõi trời với chúng.
Thanh niên coi trẻ con là dốt nát, nhưng khi người này già đi,
các giác quan người đó cũng mệt mỏi; kinh nghiệm của
người đó chuyển thành chua chát và cay đắng và người đó
cảm thấy dường như mồm đầy một kiểu vô vị. Bây giờ ngay
cả thanh niên cũng dường như là giống trẻ con đối với người
này. Với người đó, thanh niên đang đuổi theo các loại bướm
bướm khác. Chỉ có loại bướm là thay đổi, nhưng không phải
là con bướm.
Người già cứ hay nói năng, giải thích, rằng đấy là bướm,
nhưng không thanh niên nào chịu nghe họ. Bản thân họ đã
không nghe bố họ và ông họ. Có lí do để không nghe, và đó
là việc họ có con mắt khác. Nếu thanh niên có đôi mắt của
người già, người đó sẽ thấy cùng một sự việc. Và nhớ lấy,
điều thú vị là ở chỗ nếu người già có thể có được đôi mắt của
thanh niên lần nữa, người đó sẽ quên mọi kinh nghiệm này.
Người đó sẽ quên mọi khôn ngoan mà người đó đang thể
hiện; thế giới một lần nữa lại sẽ trở thành đầy mầu sắc với
người đó.
Tôi đã từng nghe: một chánh án của Toà Thượng thẩm Mĩ đã tới Paris khi
ông ta còn trẻ và đã xây dựng gia đình.
Sau ba mươi năm, khi ông ấy đã già, và sau khi con ông ấy
cũng đã xây dựng gia đình và ghé thăm Paris, vị chánh án lại
trở lại Paris cùng với vợ. Tên ông ta là Peare. Ông ấy nhìn
Paris, và nói với vợ, “Đấy không còn là cùng Paris đó nữa.
Mầu sắc của nó đã phôi phai rồi. Cái đẹp là ở những ngày đó
khi chúng ta tới Paris lần đầu tiên. Mọi thứ đều không thể so
sánh được; Paris đã khác rồi!”
Vợ ông trả lời, “Xin lỗi ông, ông quên mất rồi. Lần đầu
tiên chúng ta tới thì Peare là con người khác; Paris vẫn thế.
Nếu ông có thể thấy được Paris bằng con mắt của thanh niên
thì nó vẫn thế. Làm sao Paris thay đổi được?” Mọi người
thay đổi và cái nhìn của họ thay đổi.
Nếu thế giới dường như bị thay đổi với thay đổi trong cái
nhìn của bạn, hiểu cho rõ rằng cái bạn đã thấy và đã nghĩ nó
chỉ là adhyas, ảo tưởng thôi. Nó đã được tạo ra bởi phóng
chiếu của bạn, nó không phải là thế giới như nó đang đấy.
Liệu có cách nào để thế giới được thấy không có phóng
chiếu của bạn không? Nếu có, chỉ có thế người ta mới thấy
được thế giới như nó đang đấy.
Phóng chiếu là ảo tưởng. Do đó, nhớ lấy, thấy không có
nghĩa là chỉ nhìn bằng mắt. Thấy nghĩa là trạng thái mà tất cả
những phóng chiếu của bạn đều dừng lại, khi bạn không có
quan điểm nào. Khi bạn không có con mắt cá nhân riêng để
áp đặt các điều kiện, khi bạn không có xúc động và ham
muốn phóng chiếu, thế thì việc thấy xảy ra.
Nhìn sa mạc khi bạn không khát: thế thì sa mạc không
thể lừa bạn. Lừa dối xảy ra bởi vì cơn khát. Bạn cần nước, và
khi bạn không có nước, ham muốn trở thành ngày một mạnh
hơn. Và khi ham muốn trở nên quá mạnh, tâm trí bạn phát rồ
và nó muốn tin ngay cả những cái mà thực tế không có đó.
Nhưng có một trạng thái mọi cái nhìn đều dừng và việc
thấy nảy sinh. Khi nào thì cái nhìn dừng lại? Cái nhìn dừng
lại chỉ khi mọi ham muốn dừng lại, bởi vì mọi cái nhìn đều là
trò chơi của ham muốn của bạn, sự mở rộng của các ham
muốn của bạn.
Kinh nói:
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Qua sự trung thành với Brahman - trung thành với cái ta.
Trung thành của chúng ta bao giờ cũng là với người
khác, với ai đó khác, không phải với cái ta riêng của chúng
ta. Chúng ta chạy theo những thứ khác, không hướng về
trung tâm riêng của mình. Chúng ta bao giờ cũng đi đâu đó
khác, né tránh người ở bên trong.
Trung thành với Brahman nghĩa là cuộc đua của các ham
muốn đã qua rồi, người ta đã đạt tới cái ta của mình. Người
ta phải đi tới chỗ không có tâm trí nữa, không giác quan,
không thân thể, nhưng chỉ còn tâm thức thuần khiết. Trong
việc được bắt rễ vào đó, mọi ảo tưởng đều lập tức tan tành;
thế thì không còn thế giới mà chỉ có Brahman, thực tại tuyệt
đối.
Khi tôi đang nói tiếng Hindu - nhiều người không hiểu
tiếng Hindu nhưng họ cũng có thể dùng được cơ hội này.
Những người không hiểu tiếng Hindu nên nhắm mắt lại và
lắng nghe chỉ âm thanh. Họ nên ngồi im lặng dường như trong thiền. Và
nhiều lần chân lí mà người ta không hiểu qua
lời người ta đi tới hiểu đơn thuần bởi việc lắng nghe âm
thanh.
Khi tôi nói tiếng Anh, những bạn không hiểu tiếng Anh
không nên nghĩ rằng điều này vô dụng cho họ. Họ nên nhắm
mắt lại và thiền theo âm thanh của lời tôi mà không dự định
hiểu ngôn ngữ. Không cần cố hiểu ngôn ngữ mà bạn không
biết. Ngồi im lặng, trở thành giống như người dốt nát, và
thiền về tác động của âm thanh. Chỉ lắng nghe. Lắng nghe đó
sẽ trở thành thiền và nó sẽ có ích lợi.
Vấn đề thực sự không phải là việc hiểu, mà là trở nên im
lặng. Nghe không phải là vấn đề, trở nên im lặng mới là vấn
đề. Biết bao nhiêu lần điều xảy ra là cái bạn đã hiểu trở thành
rào chắn, và điều tốt là lắng nghe cái gì đó bạn không hiểu
chút nào; thế thì suy nghĩ không thể can nhiễu được. Khi cái
gì đó không được hiểu, không có cách nào cho suy nghĩ
chuyển động; chúng đơn giản dừng lại.
Do đó, đôi khi lắng nghe tiếng gió xào xạc trong lùm
cây, nghe tiếng chim hót, tiếng nước chảy, còn tốt hơn là
lắng nghe người thấy và hiền nhân. Upanishad thực đang
tuôn chảy ở đó, nhưng bạn sẽ không hiểu chúng. Và nếu bạn
hiểu và bạn có thể lắng nghe, trí năng của bạn sẽ không mấy
chốc mà lắng xuống bởi vì nó không được cần nữa. Và khi
trí năng của bạn đã lặng yên, bạn được đưa lên chỗ bạn đang
tìm kiếm.

Trong khoang tim, nằm bên trong thân thể, những kiếp
sống vĩnh hằng không sinh.
Đất là thân thể của nó, nó cư ngụ trong đất nhưng đất
không biết về nó.
Nước là thân thể của nó, nó cư ngụ trong nước nhưng
nước không biết về nó.
Ánh sáng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong ánh sáng
nhưng ánh sáng không biết về nó.
Không khí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong không khí
nhưng không khí không biết về nó.
Bầu trời là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bầu trời
nhưng bầu trời không biết về nó.
Tâm trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí nhưng
tâm trí không biết về nó.
Trí năng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong trí năng
nhưng trí năng không biết về nó.
Bản ngã là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bản ngã
nhưng bản ngã không biết về nó.
Tâm trí lí trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí
lí trí nhưng tâm trí lí trí không biết về nó.
Cái không biểu hiện là thân thể của nó, nó cư ngụ trong
cái không biểu hiện nhưng cái không biểu hiện không
biết về nó.
Cái không huỷ diệt được là thân thể của nó, nó cư ngụ
trong cái không huỷ diệt được nhưng cái không huỷ diệt
được không biết về nó.
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là một thượng đế
thiêng liêng Narayana - người nâng đỡ cho mọi con
người.
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Cá trong biển vẫn còn là kẻ xa lạ với biển cả, không phải
bởi vì biển xa với cá mà bởi vì biển quá gần. Bất kì cái gì ở
khoảng cách xa đều được thấy nhưng cái ở rất gần trở thành
vô hình với mắt. Không khó biết khoảng cách, khó biết cái ở
gần. Và không thể nào biết được rằng cái nào là cái gần nhất
của cái gần. Để cho điểu này được hiểu đúng đi, bởi vì nó là
cái gì đó phải được biết cho cuộc hành trình bên trong.
Mọi người hỏi tìm Thượng đế ở đâu. Họ hỏi, “Làm sao
chúng ta quên rằng cái nào đang bị che giấu bên trong? Làm
sao cái đã bị tách ra ở gần chúng ta hơn là nhịp tim chúng ta,
ở gần ta hơn nhịp thở của chúng ta? Làm sao cái đã bị quên
lãng là bản thân tôi?” Và câu hỏi của họ dường như là logic.
Dường như là điều họ đang hỏi có tính hợp lệ và rằng điều
đó không nên xảy ra giống thế này.
Nếu tôi không thể nào biết ngay cả cái đang bị giấu kín
trong tôi, nếu ngay cả điều đó tôi vẫn còn chưa biết, thế thì
chúng ta sẽ biết ai khác, chúng ta sẽ nhận ra ai khác? Khi
ngay cả điều gần gũi cũng còn trượt khỏi tay thì làm sao
chúng ta có thể đạt tới cái ở xa được? Và không phải nó chỉ
tới gần với chúng ta hôm nay; nó bao giờ cũng ở gần chúng
ta, từ thời vô tận. Thậm chí chúng ta chưa từng tách biệt hay
xa rời khỏi nó dù chỉ một khoảnh khắc. Dù chúng ta đi đâu
nó cũng đi cùng chúng ta; bất kì chỗ nào chúng ta đi, nó đều
đi cùng chúng ta. Nó du hành cùng chúng ta tới địa ngục
cũng như tới cõi trời; nó bên chúng ta trong tội lỗi cũng như
trong đức hạnh. Nói rằng nó bên ta cũng chưa đúng, vì ngay
cả ‘bên ta’ cũng vẫn còn có khoảng cách. Thực tại bản thể
chúng ta và bản thể của nó là một và cùng một thứ.
Nếu điều này đúng, thế thì chính phép màu lớn lao trên
thế gian là chúng ta đã đánh mất cái ta riêng của mình - điều
dường như là không thể có được. Làm sao người ta có thể
đánh mất cái ta riêng của mình được? Không thể đánh mất
được ngay cả cái bóng của mình, và chúng ta đã đánh mất
linh hồn mình. Làm sao điều này có thể được? Nhưng điều
này đã xảy ra. Cách thức việc mất này về cái ta xảy ra, đó là
tinh hoa của kinh này. Trước khi chúng ta đi vào trong kinh,
chúng ta cần hiểu những nền tảng cơ sở của nó.
Mắt có giới hạn về tầm nhìn, một miền. Nếu một vật bên
ngoài miền đó mắt không thể thấy được. Nếu một vật nằm
bên trong miền đó nhưng quá xa về cả hai phía, thế nữa mắt
cũng không thể thấy được nó. Mắt có miền nhìn. Một vật
được đưa tới quá gần mắt không thể được thấy và nếu nó bị
đem ra quá xa nó cũng không được nhìn thấy. Bên ngoài cả
hai phía của miền nhìn nào đó, mắt không thể thấy được, thế
thì chúng là mù. Bây giờ, bạn đang gần với bản thân bạn đến
mức bạn không chỉ gần với mắt mà bạn còn ở đằng sau
chúng - và đó là vấn đề.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Nếu bạn đang đứng
trước một tấm gương, ở một khoảng cách nào đó hình ảnh
bạn rất rõ. Nếu bạn đi quá xa khỏi gương, sẽ không có hình
ảnh nữa. Nếu bạn lại quá gần gương, gần đến mức bạn chạm
mắt vào nó, thế thì bạn không thể thấy được hình ảnh mình
chút nào. Nhưng ở đây tình huống là ở chỗ bạn đang đứng
đằng sau gương; do vậy không có khả năng có bất kì hình
ảnh nào của bạn trong gương - mắt ngay phía trước và bạn ở
sau chúng.
Mắt thấy cái ở trước chúng. Làm sao mắt thấy được cái ở
sau chúng được? Tai nghe thấy cái ở bên ngoài tai. Làm sao
tai nghe được cái ở bên trong tai? Mắt mở hướng ra ngoài,
tai cũng mở hướng ra ngoài. Tôi có thể chạm vào bạn, nhưng
làm sao tôi có thể chạm vào tôi được? Và cho dù tôi có khả
năng chạm vào thân thể tôi thì đấy cũng chỉ vì tôi không là
thân thể - thân thể nữa cũng là cái khác, do đó tôi mới có thể
chạm vào nó. Nhưng làm sao tôi có thể chạm tới một người
mà là tôi, một người đang chạm? Tôi có thể chạm vào bằng
cái gì?
Do đó tay chạm vào mọi thứ nhưng không thể chạm vào
bản thân chúng. Mắt nhìn mọi thứ nhưng không thể nhìn
được bản thân chúng. Đối với cái ta riêng của chúng ta,
chúng ta mù; không một giác quan nào mà chúng ta đã biết
có thể dùng được vào đây. Chừng nào một số giác quan khác
còn chưa khai mở - con mắt nào đó có thể nhìn vào bên
trong, nhìn ra đằng sau, theo chiều ngược lại, hay tai nào đó
có thể nghe được âm thanh bên trong - chừng ấy vẫn không có cách nào để
cho chúng ta có thể thấy và nghe và biết bản
thân mình. Cho đến khi điều đó xảy ra thì không có cách nào
chạm vào bản thân chúng ta. Cái ở gần bị bỏ lỡ; cái ở gần
nhất trong tất cả là không thể nào được biết. Đây là lí do tại
sao cá không có khả năng biết biển.
Điều thứ hai: cá được sinh ra trong biển, nó sống trong
biển; biển là thức ăn của nó, biển là nước uống của nó, biển
là cuộc sống của nó, biển là mọi thứ của nó. Thế rồi nó chết
và tan biến trong biển, nhưng nó không bao giờ có được cơ
hội để biết biển vì nó không có bất kì khoảng cách nào với
biển. Tuy nhiên, cá đi tới biết biển là gì nếu ai đó tới và vớt
nó ra khỏi biển. Đây là điều rất mâu thuẫn: cá đi tới biết biển
khi nó xa khỏi biển - khi nó đang giẫy dụa để sống còn trên
cát dưới cái nóng mặt trời, thế thì nó biết biển là gì. Để biết,
khoảng cách như thế là cần thiết.
Làm sao chúng ta có thể biết được cái một, cái đã tồn tại
ngay trước khi chúng ta được sinh ra và cái sẽ còn lại ngay
cả sau khi chúng ta chết? Làm sao chúng ta có thể biết cái
một trong đó chúng ta được sinh ra và trong đó chúng ta sẽ
tan biến đi? Để biết, phân cách nào đó là điều phải có. Đó là
lí do tại sao cá không biết tới biển; chỉ khi ai đó ném nó lên
bờ thì nó mới nhận ra được.
Con người đang trong khó khăn lớn hơn. Điều thiêng
liêng là đại dương bao quanh chúng ta. Nó không có bờ nơi
bạn có thể bị vứt lên, nơi bạn có thể bắt đầu quằn quại với
nỗi đau như con cá. Vấn đề sẽ rất dễ dàng nếu có một bờ như
thế, nhưng không có bờ như thế. Thượng đế là đại dương.
Đây là lí do tại sao những người đi tìm Thượng đế như bờ
không bao giờ có khả năng tìm được ngài. Bờ có sẵn chỉ đối
với những người đã sẵn sàng đắm chìm trong đại dương của
điều thiêng liêng.
Đơn thuần không có bờ nào cho nên không có cách nào
để tìm thấy nó. Làm sao có thể có được bờ? Mọi thứ khác
đều có thể có bờ; cái toàn thể không thể có bờ - vì cái gì đó
khác được cần tới để tạo nên bờ. Bờ sông được tạo nên từ cái
gì đó khác hơn sông. Bờ của biển được tạo nên từ cái gì đó
khác hơn biển. Nhưng không có gì khác hơn Thượng đế để
có thể tạo nên bờ.
Chính ý nghĩa của Thượng đế là ở chỗ không tồn tại cái
gì khác hơn nó. Thượng đế không có nghĩa là ai đó ngồi ở
đâu đó trên trời và cai quản thế giới từ đó. Không, đấy chỉ là
chuyện cho trẻ con. Điều được ngụ ý qua Thượng đế là ở chỗ
phần tử khác hơn Thượng đế là không tồn tại. Đây là định
nghĩa khoa học về Thượng đế.
Thượng đế có nghĩa là cái toàn thể, cái toàn bộ, mọi thứ -
bất kì cái gì đang có. Cái mà không thể có bờ, vì không còn
gì khác hơn để tạo nên bờ. Do đó Thượng đế là mọi nơi;
không có bờ. Người sẵn sàng chìm là được cứu. Người cố
gắng để được cứu, bị chìm.
Chúng ta ở trong nó. Chúng ta đang trong cái chúng ta
đang cố tìm ra.
Không cần phải cầu tới người chúng ta vẫn cầu, bởi vì
thậm chí không có lỗ hổng nào để người ta phải cầu. Đó là lí
do tại sao Kabir hỏi, “Thượng đế của ông có bị điếc không
mà ông phải kêu ajan to thế?” Thượng đế ở gần đến mức
thậm chí không cần phải cầu gọi ngài. Cho dù có im lặng bên
trong, điều đó nữa cũng sẽ được ngài nghe thấy - ngài ở gần
thế. Nếu bạn phải cầu người khác, bạn phải nói. Nhưng để
cầu bản thân mình, cần gì phải nói? Người ta có thể nghe
người khác chỉ khi lời nói được phát ra, nhưng ngay cả im
lặng của riêng người ta cũng được nghe thấy.
Ở gần thế là khó khăn. Để điều này được hiểu cho đúng: chúng ta đã bỏ lỡ
chân lí bởi vì chúng ta được sinh ra trong
nó. Thịt chúng ta, tuỷ chúng ta, xương chúng ta, toàn bộ thân
thể đều được làm từ nó. Nó là hơi thở của chúng ta, cuộc
sống chúng ta, mọi thứ. Theo nhiều cách thức, qua nhiều
cánh cửa, chúng ta là tổ hợp từ nó - chúng ta là trò chơi của
nó. Không có lỗ lổng chút nào, do đó không có kí ức; do đó
việc hồi tưởng về nó trở thành không thể được. Do đó chúng
ta thấy thế giới, nhưng chân lí không được thấy chút nào.
Thế giới là ở khoảng cách, có lỗ hổng giữa hai điều này; đó
là lí do tại sao đam mê về thế giới nảy sinh.
Nghĩa của đam mê là gì? Đam mê nghĩa là ý định khép
lại khoảng cách giữa bạn và đối thể mà từ đó bạn có cảm
giác về khoảng cách. Không có đam mê về Thượng đế bởi vì
không có khoảng cách giữa bạn và Thượng đế. Hay ngay cả
ai đó dường như đi tìm Thượng đế, đấy có vẻ là một đam mê
giả. Người đó dường như đi tìm cái gì đó khác nhân danh
Thượng đế. Người đó làm Thượng đế trở thành cái cớ nhưng
người đó muốn cái gì đó khác. Có thể người đó muốn quyền
lực, có thể người đó muốn danh vọng, của cải, địa vị hay cái
gì đó khác.
Một người bạn tới và bảo tôi, “Từ lúc tôi bắt đầu cuốn
hút bản thân mình vào kinh nghiệm thiền trong trại của thầy,
tôi đã được lợi nhiều lắm.”
Tôi hỏi, “Bạn được lợi gì?”
Anh ta trả lời, “Lợi ích tâm linh không có đâu nhưng lợi
ích tài chính bắt đầu!”


Rất tốt! Đâu cần hấp tấp về tâm linh? - nó có thể để hoãn
lại dịp khác. Lợi ích tiền bạc là nhu cầu tức khắc!
Chúng ta tìm kiếm cái gì đó trong khi chúng ta gọi nó là
cái gì đó khác. Bất kì ở đâu chúng ta đã đặt nhãn Thượng đế
lên, nếu chúng ta xé bỏ cái nhãn đó đi chúng ta sẽ thấy cái gì
đó khác ẩn bên dưới. Chúng ta muốn cái gì đó khác. Người
muốn cái gì đó khác nhân danh Thượng đế là người kém
trung thực hơn người công khai tìm kiếm hoan lạc trần thế.
Chí ít còn có trung thực, đích thực. Người này nói, “Tôi
muốn tiền bạc,” người kia nói, “Tôi muốn hoan lạc dục,” rồi
người khác lại nói, “Tôi muốn địa vị, tôi muốn đáp ứng bản
ngã,” và còn có người nói, “Tôi muốn Thượng đế,” nhưng
trong ham muốn này về Thượng đế còn có cả cảm giác của
người đó rằng một ngày nào đó người đó sẽ chứng tỏ cho thế
giới rằng Thượng đế nữa cũng là trong nắm tay người đó.
Do đó, quan sát người tìm kiếm Thượng đế một cách cẩn
thận vào. Nếu bản ngã của người đó tăng lên, hiểu rằng việc
tìm kiếm của người đó vì cái gì đó khác; nếu bản ngã của
người đó giảm đi, tan tành, biến mất thì việc tìm kiếm của
người đó mới thực sự là vì Thượng đế.
Tính tự phụ của sannyasin và cái gọi là các thánh nhân
của bạn được biết rõ; thậm chí tính tự phụ của chính khách
lớn cũng không có chỗ đứng nào so với nó. Ít nhất chính việc
tìm kiếm của chính khách là để dành cho cái tự phụ đó, cho
nên nó là thoả đáng; nó là một vấn đề dứt khoát, không có gì
giả trong đó cả. Trò vui về việc là cái gì đó đặc biệt là toàn
bộ trò chơi với họ. Nhưng với thánh nhân vấn đề lại khác.
Ông ta nói rằng ông ta đang tìm kiếm việc là cái không... và
thế rồi ông ta cứ trở thành cái gì đó. Nếu hai thánh nhân gặp
nhau, họ không thể được để ngồi cùng một bục bởi vì sẽ có
vấn đề ai ngồi đâu, cao hơn hay thấp hơn. Cho nên thông
thường các thánh nhân đơn thuần không gặp lẫn nhau, vì
nhiều vấn đề nảy sinh.
Có một người bạn hơi chút lập dị - lập dị theo nghĩa là
người đó cố gắng thu xếp cho các thánh nhân gặp lẫn nhau.
Một lần người đó bảo tôi rằng có những vấn đề lớn nổi lên
bề mặt. Ngay cả vấn đề như ai nên đưa tay ra trước để chào
đón cũng phát sinh. Một tình huống khó khăn. Ngay cả phàm
nhân cũng không có vẻ trần tục đến thế. Họ có thể không
muốn đón chào ai đó bằng việc chắp tay, vậy mà họ cứ làm
điều đó. Trong tâm trí, họ có thể nghĩ rằng giá mà người kia
chắp tay trước thì tốt hơn, nhưng họ che giấu cảm giác đó;
nó có vẻ không hào hiệp. Với một số thánh nhân điều ấy
dường như là không hào hiệp - những thánh nhân đó thậm
chí còn không đáp ứng với việc chào đón, họ đã dừng ngay
việc thu xếp gặp gỡ. Họ chỉ ban ân huệ.
Người bạn đó rất bận thu xếp cuộc gặp gỡ cho thánh
nhân nọ với thánh nhân kia. Thánh nhân kia nói, “Mọi thứ
khác đều tốt cả, nhưng nếu tôi không đón chào ông ta và ông
ta lập tức lại ban cho tôi ân huệ thì điều đó sẽ làm hỏng mọi
thứ.”
Tìm kiếm của chúng ta là về cái gì đó khác, nó chẳng
liên quan gì tới tôn giáo hay với điều thiêng liêng. Chúng ta
ham muốn cái gì đó khác, chúng ta yêu cầu điều gì đó khác,
nhưng chúng ta không trung thực và chúng ta che phủ bản
thân mình bằng những yêu sách khác. Làm sao việc tìm kiếm
Thượng đế bắt đầu được? - bởi vì không có khoảng cách.
Nếu có khoảng cách, đam mê nảy sinh. Nếu có khoảng cách,
người ta cảm thấy thích chạy. Nếu có khoảng cách, ham
muốn nảy sinh để thắng. Nếu có khó khăn, bản ngã trở nên
quan tâm tới thất bại, tới thắng lợi. Nhưng chừng nào có liên
quan tới Thượng đế, không có khoảng cách. Tình huống là ở
chỗ Thượng đế đã ở cùng chúng ta.
Khi Tensing và Hillary trèo lên đỉnh Everest, niềm vui
của họ là gì? Họ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại
đứng trên đỉnh núi cao nhất. Không có gì khác trên Everest.
Nhưng người đầu tiên trên đỉnh Everest! - lịch sử đã được
tạo ra; bản ngã tìm thấy sự quan trọng trong hành động này.
Bây giờ chừng nào còn Everest trên thế giới thì chừng ấy tên
của Hillary và Tensing không thể bị xoá đi.
Có biết bao cạnh tranh để lên tới mặt trăng cho mãi tới
gần đây. Điều rất thú vị là biết chúng ta đã để lại gì trên mặt
trăng. Những người đã lên đến mặt trăng đều là người Ki tô
giáo, nhưng họ không để lại bức tượng của Jesus ở đó, họ đã
để lại lá cờ Mĩ. Nghĩ mà xem: cờ là thực, Jesus không thực!
Ngay cả ý tưởng này cũng không thoáng qua tâm trí người
Mĩ để mang ít nhất một bức tượng nhỏ của Jesus. Họ đã
mang lá cờ! Lá cờ là bản ngã thực của con người. Và nếu tên
của Jesus đôi khi còn được nhớ tới, điều đó cũng có nghĩa là
một loại lá cờ, nó không có ý nghĩa gì khác. Khi đấy là vấn
đề chiến đấu, vấn đề giương cao lá cờ, vào thời đó Jesus,
Rama, Krishna, Phật đều được ghi nhớ; nhưng việc dùng họ
thì không nhiều hơn việc dùng lá cờ. Họ cũng là một lá cờ
trên bản ngã con người.
Trên mặt trăng chúng ta đã để lại sau các lá cờ. Con
người bận bịu ham muốn tìm ra cái gì đó mà chỉ người đó
mới có thể làm để cho bản ngã người đó thu được tầm quan
trọng. Nhưng nếu như bạn được sinh ra trên đỉnh Everest bạn
sẽ gặp khó khăn lớn vì còn đâu để kéo cờ nữa.
Con người được sinh ra trong Thượng đế; chỉ ngài hiện
hữu. Bạn đã ở đấy, bạn chưa bao giờ đi xa. Đó là mảnh đất
của bạn mà trên đó bạn đã đứng. Do đó, trong việc đạt tới
Thượng đế không có cơ hội cho bất kì bản ngã nào. Bản ngã
không được quan tâm tới trong điều đó. Thế thì làm sao khao
khát và ước ao nảy sinh được khi không có ham muốn về
Thượng đế?
Khao khát về điều thiêng liêng nảy sinh theo cách rất kì lạ. Hiểu điều
này cho đúng, bởi vì không có cách nào khác
hơn cách này. Khát khao về thế giới nảy sinh bởi vì khoảng
cách. Nếu khoảng cách là không thể vượt qua được, hấp dẫn
trở nên cực kì lớn. Và đây là lí do tại sao, trong thế giới, bất
kì khi nào mọi thứ được đạt tới mối quan tâm của người ta
đều mất đi, bởi vì khoảng cách đã bị vượt qua rồi. Bạn đã
ham muốn người đàn bà, bạn đã tìm thấy cô ta; bạn đã ham
muốn xây nhà, bạn đã xây nó; bạn đã ham muốn chóp vàng
trên nhà mình và bạn đặt nó ở đó - cái gì tiếp?
Cho nên bất kì cái gì được đạt tới, thế thì nó trở thành vô
giá trị vì nó đã tới gần bạn, nó không còn khoảng cách nữa.
Nếu nó ở xa và có khó khăn theo cách không ai đạt tới được
nó, chỉ thế thì bạn mới cảm thấy xúc động, thấy vui về nó.
Vui về giầu có không có trong bản thân sự giầu có, nó là
trong cái nghèo của nhiều người khác. Nếu mọi người đều
trở thành giầu, toàn bộ mọi sự bị hỏng. Đấy là vấn đề ở Mĩ:
vui của việc thành giầu đang trở nên ngày càng ít đi. Người
nghèo đang mặc cùng kiểu quần áo như người giầu, lái cùng
kiểu xe ô tô, sống trong những ngôi nhà tương tự. Không có
khác biệt cơ bản nhiều mấy giữa người giầu và người nghèo.
Cái vui của người giầu đang bị mất đi. Người giầu đang cảm
thấy bị bối rối do điều đó; họ đang tìm những trò mới mà chỉ
có họ mới có khả năng hưởng thú.
Chúng ta là trong Thượng đế, do đó không có việc cầu
gọi, không lời mời trong đó cho bản ngã; không có thách
thức, không có động cơ cho bản ngã. Vậy thì làm sao khát
khao về điều thiêng liêng có thể nảy sinh được? Khát khao
về những thứ trần thế nảy sinh là do khoảng cách của chúng
và do sự thách thức và mời gọi của chúng. Khát khao về
Thượng đế nảy sinh từ thất bại của những điều trần tục.
Để điều này được hiểu. Khi bạn chạy theo mọi hướng và
ở đâu cũng thất bại; khi bạn đã đạt được mọi thứ và tất cả
đều chứng tỏ vô giá trị; khi tìm kiếm của bạn về mọi thứ đã
hoàn thành, và với hoàn thành này nảy sinh tiêu cực, mọi thứ
trở thành con số không; chỉ thế thì mới nảy sinh khao khát về
Thượng đế. Mọi thứ dường như vàng từ nơi xa nhưng tất cả
chúng lại chứng tỏ là đống bùn khi chúng lọt vào tay bạn.
Khoảng cách càng xa, vàng càng nguyên chất. Khi nó bắt
đầu lại gần hơn, nó cũng bắt đầu trở nên kém nguyên chất đi.
Gần hơn nữa nó bắt đầu biến thành đất sét.
Có câu chuyện về vua Midas ở Hi lạp - có trào phúng lớn
trong đó. Midas được ân huệ có một quyền năng siêu nhiên;
món quà của thần là ở chỗ bất kì cái gì ông ta sờ vào đều trở
thành vàng. Tất cả chúng ta là điều ngược của Midas: bất kì
cái gì chúng ta mó tay vào đều trở thành đống bùn!
Nhưng điều đó rất thú vị... Ngay cả Midas cũng trong rắc
rối lớn - làm sao có thể có bất kì kết thúc nào cho rắc rối của
chúng ta? Bất kì cái gì Midas sờ vào đều trở thành vàng. Ông
ta chạm vào vợ, bà ấy trở thành vàng. Ông ta chạm vào thức
ăn, nó thành vàng. Ông ta cầm cốc nước, trước khi nó tới
môi ông ta, nó đã thành vàng. Midas đáng thương! Ông ta
trong khó khăn lớn. Bạn không thể nào làm dịu cơn khát của
mình bằng vàng được. Chúng ta có nói nhiều đến đâu về
“một thân thể tựa như vàng lấp lánh,” cũng không thành vấn
đề, không có sự thoả mãn nào nảy sinh từ thân thể như thế.
Người yêu có thể ca tụng thân thể của người mình yêu như
“một tấm thân vàng” đến đâu đi chăng nữa thì cũng không
thành vấn đề, người đó sẽ hiểu điều gì xảy ra nếu tấm thân
đó thực sự trở thành vàng. Người đó sẽ phải đập đầu mình
nếu như điều như thế xảy ra. Người đó sẽ cảm thấy rằng tấm
thân trước còn tốt hơn.
Cho nên Midas đã gặp khó khăn lớn. Ông ta đã bị vàng hấp dẫn bởi việc nói
chuyện với các nhà thơ. Bây giờ sao?
Mọi thứ đều thành vàng - vợ, nước, thức ăn! Mọi người bắt
đầu chạy trốn khỏi ông ta. Con riêng của ông ta cũng bắt đầu
giữ khoảng cách với ông ta - ai biết được khi nào ông ấy có
thể chạm phải bạn! Không bạn bè nào dám lại gần ông ta.
Midas trở nên rất đơn độc. Ông ta là vua, và ông ta trở nên
đơn độc. Các quan thượng thư sẽ không tới quá gần ông ta;
họ giữ một khoảng cách an toàn từ xa để cho họ có thể chạy
trốn nếu cần. Midas bắt đầu chết đói. Ông ta không thể ăn
thức ăn nào, ông ta không thể uống nước. Ông ta bắt đầu la
hét và kêu to, “Ôi, lạy trời, xin ngài rút lại món quà này đi!
Tốt hơn cả là con vẫn như trước! Ân huệ này đã thành tai
hoạ.”
Midas đã trong trạng thái đó - mọi thứ mà ông ta sờ tới
đều biến thành vàng. Hình dung xem hoàn cảnh của chúng ta
sẽ như thế nào nếu bất kì cái gì chúng ta động tới cũng đều
biến thành đống đất sét. Vợ dường như đẹp đẽ và như vàng
khi cô ấy ở xa xa; cái ngày hôn nhân xảy ra, cô ấy bắt đầu
biến thành đất đen. Trong bốn hay năm năm cô ấy trở thành
như bùn. Mọi thứ đều biến thành bùn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng mọi chạy đua đều trở thành vô
tích sự, bạn đi đến một cái dừng chết dí ngay nơi Thượng đế
hiện hữu. Cái ngày bạn đi tới biết rằng bạn đã không thu
được gì bởi việc chạy đua, bạn sẽ không chạy đua thêm nữa.
Và bởi vì bạn không chạy đua, bây giờ bạn thấy điều mà
trước đây không thấy được bởi vì chạy đua.
Khi tâm trí mê mải trong chạy đua, mọi thứ đã từng ở xa
đều được thấy. Khi chạy đua trở thành vô dụng, mắt trở lại
khung cảnh gần hơn. Và nếu chạy đua dừng lại toàn bộ, mắt
bắt đầu nhìn theo chiều ngược. Mãi cho đến nay chúng đã
chỉ nhìn bên ngoài, bây giờ chúng bắt đầu nhìn bên trong.
Gương thực hiện việc quay ngược lại. Thế thì bạn không tìm
thứ gì đáng nhìn trong thế giới nữa, hay đáng kiếm và đáng
tìm trong thế giới nữa. Bây giờ thế giới không còn là ham
muốn chút nào nữa. Đó là lí do tại sao Phật, Mahavira và
Upanishad đã đặt nhiều nhấn mạnh thế vào sự kiện là vô ham
muốn là cánh cửa.
Ham muốn là cánh cửa đi ra xa; vô ham muốn là cánh
cửa về lại gần.
Bây giờ chúng ta hiểu câu kinh này: “Bên trong thân thể
ẩn giấu cái không sinh và vĩnh hằng.”
Nó chưa bao giờ sinh ra, nó có đó mãi mãi. Cái vĩnh
hằng và không sinh đang ẩn bên trong thân thể nhưng thân
thể không biết về nó. Thân thể là một phần của đất; nó bị che
giấu bên trong đất nhưng đất không biết về nó. Trong kinh
này cùng điều đó được lặp lại từ những góc độ khác nhau.
Cái không sinh và vĩnh hằng bị ẩn giấu trong lửa, nhưng
lửa không biết nó. Nó được ẩn giấu ở mọi nơi, nhưng người
đứng sau cái bị che giấu không biết đến nó bởi vì người
đứng sau cái bị che giấu đang chạy đua bên ngoài. Bạn đã
bao giờ nhận ra điều này chưa? Nếu bạn có thể kinh nghiệm
được việc chạy đua bên trong của thân thể bạn, bạn sẽ đạt tới
samadhi. Bạn đã kinh nghiệm mỗi việc chạy đua bên ngoài
của thân thể - một thân thể đẹp được thấy và xúc động chạy
qua thân thể bạn; mọi tế bào thân thể bạn bắt đầu chạy đua
theo nó. Một đoá hoa đẹp được thấy và mắt bắt đầu chạy
đua. Một giai điệu du dương được nghe thấy và tai bắt đầu
chạy đua.
Thân thể bao giờ cũng chạy đua bên ngoài. Bạn đã bao
giờ kinh nghiệm thân thể chạy đua bên trong chưa? Không,
bạn chưa kinh nghiệm đâu. Thế thì làm sao thân thể đáng
thương này biết được ai đang ẩn náu bên trong? Nơi thân thể chưa bao giờ
đi, nơi thân thể chưa bao giờ ngó tới, chưa bao
giờ nghe thấy, chưa bao giờ thám hiểm... làm sao thân thể có
thể biết được cái gì có đó bên trong? Do đó thân thể vẫn còn
là kẻ xa lạ với người sở hữu thân thể đó. Tất cả chạy đua đều
hướng theo bên ngoài, do đó dốt nát tràn ngập bên trong.
Kinh này là việc lặp lại cho cùng một thứ nhưng từ những
cánh cửa khác nhau.
Cái ẩn kín bên trong không khí, không khí không biết.
Tâm trí không biết về người sở hữu thân thể đó. Bản ngã
không hay về người sở hữu thân thể đó. Tâm trí lí trí, cái bất
diệt, cái không biểu hiện - tất cả chúng đều không biết đến
người có thân thể chính là chúng và người ẩn kín bên trong
chúng. Ngay cả cái chết cũng vẫn còn không quen biết với
người có cái chết xảy ra. Phát biểu này có đôi chút kì lạ: cái
chết vẫn còn không quen biết với người chết. Không có gì
chết khi người ta chết cả.
Khi cái chết xảy ra, ai thực sự chết? Không ai cả. Thân
thể không chết, bởi vì nó bao giờ cũng chết rồi; không có
vấn đề về việc chết của nó. Người ẩn kín bên trong thân thể
là bất tử vĩnh viễn; không có vấn đề về việc chết của người
đó. Chỉ mối quan hệ tan vỡ. Trong cái chết mối quan hệ giữa
người chết và người bất tử tan vỡ. Nhưng bản thân cái chết,
cho dù sau khi tới gần đến thế, cũng vẫn còn không biết gì về
người bất tử.
Bao nhiêu lần chúng ta đã chết, vậy mà chúng ta vẫn
chưa đi tới biết người bất tử ở bên trong chúng ta. Chính tình
huống này có nghĩa là ngay cả trong khi tới gần chúng ta vẫn
không có khả năng nhìn vào trong; cái nhìn của chúng ta tiếp
tục hội tụ bản thân nó ra ngoài. Nhìn một người đang nằm
trên giường chết: người đó vẫn cứ nhìn ra ngoài. Thậm chí
bây giờ người đó không cảm thấy thích nhìn vào bên trong.
Cái chết đang kéo và lôi người đó khỏi thân thể, nhưng
người đó vẫn níu bám lấy thân thể - níu bám còn mạnh hơn,
mạnh hơn hẳn trước đó.
Đây là lí do tại sao người già trở nên xấu còn người trẻ
trông đẹp. Nếu chúng ta nhìn điều đó sâu sắc, lí do cho điều
này không phải là một mình thân thể. Người trẻ không níu
bám lấy thân thể, người đó vẫn còn tin tưởng vào nó. Người
già bắt đầu níu bám lấy thân thể; và bởi vì níu bám đó mà
mọi thứ xấu sinh ra. Người già bắt đầu sợ hãi: cái chết đến
đây... bây giờ cái chết tới... cái chết ở cạnh kề. Người già
càng sợ chết càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống. Và
người càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống, người đó càng
trở nên xấu hơn.
Trẻ con trông đáng yêu làm sao! Chúng đơn giản không
níu bám chút nào. Chúng không có ý tưởng rằng cái chết tồn
tại. Nhìn chim chóc và muông thú mà xem: chúng già đến
đâu chúng trông cũng vẫn thế. Tôi đang nói về những con
vật và những con chim còn chưa bị hư hỏng qua việc đồng
hành cùng con người. Con người chỉ làm hỏng mọi thứ. Cho
nên điều dường như rất lạ là trong rừng hoang chim chóc và
muông thú có vẻ không bị già đi. Kiểu tuổi già bắt giữ con
người dường như không bắt giữ chim chóc và muông thú.
Chúng vẫn còn giống như trẻ con. Theo một nghĩa sâu sắc
nào đó chúng không nhận biết chút nào rằng cái chết sẽ tới,
do đó không có níu bám vào thân thể.
Tính tươi tắn ở trẻ con bởi vì cuộc sống là tự nhiên,
không có sợ chết. Điều đó trở thành khó khăn cho tuổi già;
cái chết trở nên rõ ràng hơn. Cuộc sống là nỗ lực bây giờ,
người già sống bằng nỗ lực. Mọi li của cuộc hành trình
người đó đều ý thức tới cái chết bây giờ. Điều đó tạo ra bất
định; căng thẳng tăng lên bên trong người đó và lo âu cùng buồn khổ bắt
giữ người đó thường xuyên, và điều đó làm cho
tâm trí thành xấu.
Bản thân cái chết không đi tới biết người bất tử ẩn bên
trong thân thể. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ hiện
tượng nhìn vào trong chỉ xảy ra khi việc nhìn ra ngoài đã trở
thành vô tích sự và vô nghĩa. Để điều này được hiểu đúng.
Nó dường như đã trở thành vô nghĩa nhiều lần rồi, nhưng
vẫn chưa trở thành thực sự như vậy. Không phải là cái vô
nghĩa đó không bừng dậy trong bạn - nó có bừng dậy trong
bạn đấy. Bạn đã nghĩ về việc mua một chiếc xe rồi bạn mua
nó. Khi bạn chưa mua nó, bạn mơ về nó trong đêm. Vào cái
đêm trước hôm nó được giao cho bạn, thậm chí bạn còn
không ngủ được ngon - cả đêm ròng!
Ai đó đã viết về người bạn mình, người mua một chiếc
xe rất đẹp, chiếc Ferarri. Nó là chiếc xe rất đắt. Trong chính
ngày đầu tiên người đó đã lái nó, chiếc xe bị xước một chút
xíu.
Người bạn đó không còn là đứa trẻ nữa, ông ta đã năm
mươi tuổi; và ông ta cũng không phải là người thiếu học vấn,
ông ta là một giáo sư đại học - giáo sư triết học hẳn hoi.
Nhưng người ta đã thấy ông ấy khóc hôm đó, gục đầu vào
vai mẹ mình. Chỉ bởi vì chiếc Ferarri bị xước! Chiếc xe đắt
thế. Ông ta đã mơ ước biết bao về nó. Vết xước đó của chiếc
xe hẳn đã phải ăn sâu vào ông ta, vào chính linh hồn ông ta;
đấy là lí do tại sao ông ta khóc.
Khóc thì tất cả các bạn đều làm. Người đàn ông đó phải
là một người chân thật hơn. Trên con đường thoáng đãng,
gục đầu vào vai mẹ, ông ta bắt đầu khóc. Nhưng trạng thái
này kéo dài được bao lâu? Trong vài ngày chiếc Ferarri sẽ
trở nên cũ. Sau một hay hai tháng người này sẽ ngồi trong
cũng chiếc xe đó nhưng ông ta thậm chí sẽ không cảm thấy
mình đang ngồi trong chiếc xe nào nữa. Ông ta sẽ chán với
chiếc xe này - nhưng chưa chán với xe. Mơ ước về một chiếc
xe khác nào đó sẽ bắt giữ ông ta. Bây giờ ông ta có thể nghĩ
tới việc làm chủ chiếc Rolls Royce, hay chiếc xe khác nào
đó. Tâm trí sẽ chán với một người đàn bà hay một người đàn
ông, nhưng nó sẽ không chán với đàn bà như vậy hay đàn
ông như vậy.
Tất cả chúng ta đều thấy chán, nhưng cái chán của chúng
ta vẫn còn gắn với những thứ đặc biệt. Còn chính thực tại
của việc chán này không trở thành một phần của kinh
nghiệm của chúng ta. Khi chúng ta mệt mỏi về thứ này,
chúng ta chọn thứ khác cùng kiểu, và quá trình này cứ tiếp
tục mãi. Đây là khác biệt duy nhất giữa bạn và vị phật.
Bạn chán với một người đàn bà nhưng mối quan tâm của
bạn vẫn tiếp tục trong người đàn bà khác. Nếu bạn chán với
vợ mình, mối quan tâm của bạn tiếp tục ở vợ của ai đó khác.
Bất kì cái gì gần gũi và có sẵn đều trở thành vô dụng, nhưng
cái ở xa duy trì mối quan tâm của bạn. Cái ở xa đó rồi cũng
sẽ trở thành vô dụng vào ngày mai khi nó lại gần bạn. Nhưng
không thể nào mọi thứ đều có thể lại gần người ta được. Một
số thứ vẫn tiếp tục còn ở xa; do vậy mối quan tâm vẫn tiếp
diễn, ham muốn vẫn cứ chạy đua.
Chán một đàn bà, vị phật chán luôn với mọi đàn bà.
Sống trong một lâu đài, vị phật đã sống trong mọi lâu đài.
Với vị phật, chỉ một việc xảy ra là đủ. Đây là cách tiếp cận
khoa học. Nếu một giọt nước đã được biết, thế thì toàn bộ
biển cả đã được biết. Ông ấy sẽ là nhà khoa học điên khùng
nếu cứ tiếp tục kiểm thử mọi đại dương và nói, “Khi tôi hoàn
thành việc kiểm thử mọi giọt nước của mọi đại dương, tôi sẽ
tuyên bố rằng nước được tạo nên từ hidro và oxi.” Chúng ta
đang trong một loại điên khùng tương tự. Nhà khoa học kiểm thử một giọt
nước, phát hiện ra rằng nước được tạo nên từ
các nguyên tử hidro và oxi, và rằng H2O là phương trình cho
các thành tố của nước, và thế là vấn đề xong với ông ta. Mọi
nước trong mọi biển bây giờ đều được biết. Bất kì nơi đâu có
nước, ngay cả trên bất kì hành tinh khác nào - và các nhà
khoa học nói có ít nhất năm mươi ngàn trái đất tương tự như
trái đất của chúng ta - hay ở bất kì đâu trong vũ trụ, nó đều
được tạo nên từ việc bố trí của các nguyên tử: H2O.
Mọi nước được biết bằng việc biết một giọt nước.
Với việc hiểu mẫu hình và hành vi của một ham muốn,
người đó đi tới biết toàn thể bản chất của mọi ham muốn và
trở thành vị phật. Biết một ham muốn, người đó, người thấy
được cái vô tích sự của nó - cái phù phiếm phổ cập - và cái
thất bại không tránh khỏi của nó, ham muốn của người đó
đơn giản rụng đi. Ham muốn rụng đi tựa như cái nạng của
người què bất thần rơi xuống. Người đó đã bước đi với trợ
giúp của cái nạng; người đó đã không có chân để bước,
người đó đã có chân gỗ. Bỗng nhiên chiếc nạng rơi ra và
người què đổ sập xuống. Điều tương tự cũng xảy ra khi cái
nạng ham muốn rơi rụng đi. Không có chân thực để bước
trong cuộc sống trần gian; chúng là nhân tạo, cứng đơ, được
làm bằng những ham muốn. Ham muốn rơi đi chính là chiếc
nạng rơi đi, và người ta bỗng nhiên thấy bản thân mình ở đó
- từ nơi mà người đó chưa bao giờ đi, nơi người đó bao giờ
cũng ở đấy, trong bản tính thực của mình. Đó là Thượng đế,
đó là linh hồn.
Đoạn cuối của kinh giải thích điều này:
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là thiên thần
thiêng liêng Narayana
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Điều cuối cùng là kinh này. Cuộc chạy đua theo các ham
muốn là do sự kiện rằng mơ nào đó bao giờ cũng có vẻ gần
đạt tới hoàn thành ở đâu đó nơi xa xa. Người trong sa mạc
nhìn thấy một hồ nước gần chân trời, chạy lại lấy nước, và
khi tới đó phát hiện ra rằng không có nước, rằng không có gì
ngoài cát và cát. Nhưng rồi cái hồ lại xuất hiện đâu đó khác.
Điều này được gọi là ảo cảnh.
Khi tia sáng mặt trời trở nên nóng và được phản xạ trên
cát thì các tia sáng rung rinh tạo ra ảo cảnh về gợn sóng và
sóng. Gợn sóng và sóng lăn tăn cứ liên tục lan rộng, việc
phản xạ trải trên bề mặt xuất hiện. Nếu có cây cối gần đó, cả
cây đó cũng được phản xạ lên bề mặt đó, bề mặt có tác dụng
tựa như chiếc gương. Khi từ một khoảng cách xa bạn thấy
không chỉ có nước mà còn cả phản xạ của đám mây bay qua
in trên nước, làm sao bạn không tin được? Nếu có cả phản xạ
của đàn chim bay trên trời trong cái gọi là nước đó, và nếu
cây cối gần đó cũng được phản xạ vào trong nước, niềm tin
của bạn vào sự tồn tại của nước lại càng được xác nhận.


Không chỉ sóng nước được trông thấy, ngay cả những phản
xạ trong nước cũng được thấy. Nhưng khi bạn lại gần hơn,
phản xạ dừng xuất hiện, và khi tiến lại chỗ ấy bạn không tìm
thấy gì ngoài cát.
Adhyas, hay ảo tưởng, nghĩa là thấy cái không có đó.
Shankara yêu từ này lắm, và với Upanishad nó là chính nền
tảng. Adhyas nghĩa là phóng chiếu, thấy cái không có đó: cái
được thấy không thực có đó, bạn đang phóng chiếu nó từ bên
trong. Bạn là nguyên nhân của việc phóng chiếu.
Một khuôn mặt dường như đẹp với bạn: liệu cái đẹp đó
đang có đó hay bạn đang phóng chiếu về nó?... vì ngày mai
cũng cùng khuôn mặt đó lại có thể tỏ ra xấu với bạn. Có thể
nó đã không có vẻ đẹp với bạn ngày hôm qua. Hôm nay
bỗng nhiên con mắt thiêng liêng của bạn đã mở ra và khuôn
mặt này đã bắt đầu trông đẹp với bạn. Với bạn bè của bạn nó
vẫn trông không đẹp.
Người ta nói rằng Laila không đẹp, chỉ có Majnu mới
trông cô ấy là đẹp. Cả làng đều khó xử, và mọi người cố
gắng thuyết phục Majnu: “Cậu ngây thơ lắm. Có bao nhiêu
gái đẹp trong làng; cậu cứ bị ám ảnh không cần thiết với
Laila làm gì.” Majnu trả lời, “Nếu bác muốn thấy Laila, bác
phải có con mắt của Majnu.” Đây là adhyas, ảo tưởng. Vấn
đề không phải là Laila mà vấn đề là con mắt của Majnu. Vấn
đề không phải là cái được thấy mà vấn đề là người đang thấy
cô ấy. Cho nên Majnu nói, “Thấy bằng mắt tôi đây này, thế
thì bác sẽ có thể thấy được Laila.” Không hoài nghi gì rằng
dưới con mắt của Majnu thì cô ấy sẽ trông đẹp. Nếu như có
thể mượn được cặp mắt của Majnu thì Laila sẽ thành đẹp đối
với bạn như cô ấy đã đẹp đối với Majnu.
Mắt cũng có một kiểu kính. Mầu của kính phóng chiếu
lên vật được thấy. Tất cả các giác quan bạn đều đang phóng
chiếu. Bạn đang tạo ra một thế giới khắp quanh bạn. Tâm trí
bạn không chỉ là người nhận, nó là đấng sáng tạo nữa. Bạn
đang sáng tạo ra một thế giới quanh bạn - về cái đẹp, về
hương thơm, thế này, thế nọ.
Thế giới này không phải như bạn thấy nó. Nó tuỳ thuộc
vào bạn. Nếu bạn thay đổi, thế giới cũng thay đổi theo.
Thanh niên nhìn thấy thế giới này, người già thấy thế giới
khác, và trẻ con lại thấy thế giới khác nữa. Cái gì tạo ra khác
biệt này? Thế giới vẫn như vậy thôi. Nhưng trẻ con không có
cùng con mắt như thanh niên. Trẻ con vẫn còn quan tâm tới
việc nhặt đá và sỏi - chỉ mầu sắc của mọi thứ là đủ. Thanh
niên nói, “Vứt quách những thứ ấy đi! Có gì trong đó nào?
Chúng có giá trị gì nào?” Với thanh niên tiền bạc đã trở nên
giá trị. Người đó bắt đầu hiểu giá trị của tiền. Bây giờ nhặt
đá sỏi không có tác dụng. Bây giờ chẳng ích gì mà đuổi theo
bướm cả.
Trẻ con bắt bướm; bướm trông như cõi trời với chúng.
Thanh niên coi trẻ con là dốt nát, nhưng khi người này già đi,
các giác quan người đó cũng mệt mỏi; kinh nghiệm của
người đó chuyển thành chua chát và cay đắng và người đó
cảm thấy dường như mồm đầy một kiểu vô vị. Bây giờ ngay
cả thanh niên cũng dường như là giống trẻ con đối với người
này. Với người đó, thanh niên đang đuổi theo các loại bướm
bướm khác. Chỉ có loại bướm là thay đổi, nhưng không phải
là con bướm.
Người già cứ hay nói năng, giải thích, rằng đấy là bướm,
nhưng không thanh niên nào chịu nghe họ. Bản thân họ đã
không nghe bố họ và ông họ. Có lí do để không nghe, và đó
là việc họ có con mắt khác. Nếu thanh niên có đôi mắt của
người già, người đó sẽ thấy cùng một sự việc. Và nhớ lấy,
điều thú vị là ở chỗ nếu người già có thể có được đôi mắt của
thanh niên lần nữa, người đó sẽ quên mọi kinh nghiệm này.
Người đó sẽ quên mọi khôn ngoan mà người đó đang thể
hiện; thế giới một lần nữa lại sẽ trở thành đầy mầu sắc với
người đó.
Tôi đã từng nghe: một chánh án của Toà Thượng thẩm Mĩ đã tới Paris khi
ông ta còn trẻ và đã xây dựng gia đình.
Sau ba mươi năm, khi ông ấy đã già, và sau khi con ông ấy
cũng đã xây dựng gia đình và ghé thăm Paris, vị chánh án lại
trở lại Paris cùng với vợ. Tên ông ta là Peare. Ông ấy nhìn
Paris, và nói với vợ, “Đấy không còn là cùng Paris đó nữa.
Mầu sắc của nó đã phôi phai rồi. Cái đẹp là ở những ngày đó
khi chúng ta tới Paris lần đầu tiên. Mọi thứ đều không thể so
sánh được; Paris đã khác rồi!”
Vợ ông trả lời, “Xin lỗi ông, ông quên mất rồi. Lần đầu
tiên chúng ta tới thì Peare là con người khác; Paris vẫn thế.
Nếu ông có thể thấy được Paris bằng con mắt của thanh niên
thì nó vẫn thế. Làm sao Paris thay đổi được?” Mọi người
thay đổi và cái nhìn của họ thay đổi.
Nếu thế giới dường như bị thay đổi với thay đổi trong cái
nhìn của bạn, hiểu cho rõ rằng cái bạn đã thấy và đã nghĩ nó
chỉ là adhyas, ảo tưởng thôi. Nó đã được tạo ra bởi phóng
chiếu của bạn, nó không phải là thế giới như nó đang đấy.
Liệu có cách nào để thế giới được thấy không có phóng
chiếu của bạn không? Nếu có, chỉ có thế người ta mới thấy
được thế giới như nó đang đấy.
Phóng chiếu là ảo tưởng. Do đó, nhớ lấy, thấy không có
nghĩa là chỉ nhìn bằng mắt. Thấy nghĩa là trạng thái mà tất cả
những phóng chiếu của bạn đều dừng lại, khi bạn không có
quan điểm nào. Khi bạn không có con mắt cá nhân riêng để
áp đặt các điều kiện, khi bạn không có xúc động và ham
muốn phóng chiếu, thế thì việc thấy xảy ra.
Nhìn sa mạc khi bạn không khát: thế thì sa mạc không
thể lừa bạn. Lừa dối xảy ra bởi vì cơn khát. Bạn cần nước, và
khi bạn không có nước, ham muốn trở thành ngày một mạnh
hơn. Và khi ham muốn trở nên quá mạnh, tâm trí bạn phát rồ
và nó muốn tin ngay cả những cái mà thực tế không có đó.
Nhưng có một trạng thái mọi cái nhìn đều dừng và việc
thấy nảy sinh. Khi nào thì cái nhìn dừng lại? Cái nhìn dừng
lại chỉ khi mọi ham muốn dừng lại, bởi vì mọi cái nhìn đều là
trò chơi của ham muốn của bạn, sự mở rộng của các ham
muốn của bạn.
Kinh nói:
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Qua sự trung thành với Brahman - trung thành với cái ta.
Trung thành của chúng ta bao giờ cũng là với người
khác, với ai đó khác, không phải với cái ta riêng của chúng
ta. Chúng ta chạy theo những thứ khác, không hướng về
trung tâm riêng của mình. Chúng ta bao giờ cũng đi đâu đó
khác, né tránh người ở bên trong.
Trung thành với Brahman nghĩa là cuộc đua của các ham
muốn đã qua rồi, người ta đã đạt tới cái ta của mình. Người
ta phải đi tới chỗ không có tâm trí nữa, không giác quan,
không thân thể, nhưng chỉ còn tâm thức thuần khiết. Trong
việc được bắt rễ vào đó, mọi ảo tưởng đều lập tức tan tành;
thế thì không còn thế giới mà chỉ có Brahman, thực tại tuyệt
đối.
Khi tôi đang nói tiếng Hindu - nhiều người không hiểu
tiếng Hindu nhưng họ cũng có thể dùng được cơ hội này.
Những người không hiểu tiếng Hindu nên nhắm mắt lại và
lắng nghe chỉ âm thanh. Họ nên ngồi im lặng dường như trong thiền. Và
nhiều lần chân lí mà người ta không hiểu qua
lời người ta đi tới hiểu đơn thuần bởi việc lắng nghe âm
thanh.
Khi tôi nói tiếng Anh, những bạn không hiểu tiếng Anh
không nên nghĩ rằng điều này vô dụng cho họ. Họ nên nhắm
mắt lại và thiền theo âm thanh của lời tôi mà không dự định
hiểu ngôn ngữ. Không cần cố hiểu ngôn ngữ mà bạn không
biết. Ngồi im lặng, trở thành giống như người dốt nát, và
thiền về tác động của âm thanh. Chỉ lắng nghe. Lắng nghe đó
sẽ trở thành thiền và nó sẽ có ích lợi.
Vấn đề thực sự không phải là việc hiểu, mà là trở nên im
lặng. Nghe không phải là vấn đề, trở nên im lặng mới là vấn
đề. Biết bao nhiêu lần điều xảy ra là cái bạn đã hiểu trở thành
rào chắn, và điều tốt là lắng nghe cái gì đó bạn không hiểu
chút nào; thế thì suy nghĩ không thể can nhiễu được. Khi cái
gì đó không được hiểu, không có cách nào cho suy nghĩ
chuyển động; chúng đơn giản dừng lại.
Do đó, đôi khi lắng nghe tiếng gió xào xạc trong lùm
cây, nghe tiếng chim hót, tiếng nước chảy, còn tốt hơn là
lắng nghe người thấy và hiền nhân. Upanishad thực đang
tuôn chảy ở đó, nhưng bạn sẽ không hiểu chúng. Và nếu bạn
hiểu và bạn có thể lắng nghe, trí năng của bạn sẽ không mấy
chốc mà lắng xuống bởi vì nó không được cần nữa. Và khi
trí năng của bạn đã lặng yên, bạn được đưa lên chỗ bạn đang
tìm kiếm.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến