Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Cứ đi tiếp

Câu hỏi thứ nhất:
Sao tôi hỏi nhiều câu hỏi ngu xuẩn thế?

Bởi vì không có câu hỏi khôn ngoan, và không
thể có được. Câu hỏi khôn ngoan không tồn tại. Việc
hỏi như thế cũng là ngu xuẩn. Tôi không kết án nó, tôi
không nói đừng hỏi. Nhưng nhớ lấy, tâm trí hỏi là tâm
trí lẫn lộn, và từ lẫn lộn mới phát sinh ra câu hỏi; bất
kì câu trả lời nào được trao cho nó cũng sẽ đi vào tâm
trí lẫn lộn này lần nữa. Câu trả lời đó sẽ bị bóp méo.
Tâm trí lẫn lộn sẽ bắt đầu chơi đùa trên nó và sẽ tạo ra
nhiều câu hỏi hơn từ nó. Nó là xoắn ốc luẩn quẩn.
Không câu trả lời nào sẽ có ích chừng nào bạn
còn chưa hiểu rằng việc hỏi đó trong bản thân nó là
vô tích sự, chừng nào mà hiểu biết còn chưa phát triển
sâu rằng việc hỏi đó là vô nghĩa. Không có ai trả lời
câu hỏi của bạn. Sự tồn tại có đó mà không lời giải
thích nào - và nó tuyệt đối im lặng. Bạn cứ hỏi, nó
không đáp lại. Dần dần bạn sẽ hiểu rằng các câu hỏi là
vô nghĩa - thế thì chúng biến mất.
Cái ngày các câu hỏi biến mất là một ngày vĩ đại.
Vào chính ngày đó câu trả lời trở thành có sẵn. Câu
trả lời không bao giờ tới qua việc hỏi, nó tới khi việc
hỏi đã biến mất. Thực tế, nói nó tới là không đúng:
khi việc hỏi đã biến mất bạn bỗng nhiên thấy rằng bạn
là câu trả lời, chính bản thể bạn là câu trả lời. Đó là
điều bạn đã từng tìm kiếm mãi.
Tất cả các câu hỏi đều ngu xuẩn; chúng phải như
thế thôi. Và tất cả mọi câu trả lời đều là dối trá; chúng
phải như thế thôi - bởi vì bạn không thể trả lời câu hỏi
ngu xuẩn bằng chân lí được. Sẽ không có gặp gỡ giữa
chúng. Bạn hỏi một câu hỏi, thầy cứ trả lời nó - trong
niềm hi vọng rằng dần dần việc hỏi của bạn sẽ biến
mất. Đó là khác biệt giữa thầy và thầy giáo.
Thầy giáo tin rằng mình có thể trả lời câu hỏi của
bạn. Ông ấy cũng là người ngu, như bạn vậy. Thầy thì
biết không có câu trả lời, nhưng thầy cứ trả lời bạn
trong hi vọng rằng dần dần bạn sẽ bắt đầu nhìn sâu
hơn. Việc hiểu của bạn sẽ trưởng thành, và một ngày
nào đó bỗng nhiên câu hỏi của bạn sẽ biến mất. Bạn
sẽ nhìn vào bên trong và bạn sẽ không thấy câu hỏi
nào cả. Chính khoảnh khắc đó bạn trở thành câu trả
lời... bạn là câu trả lời.
Trong lúc đó, tiếp tục hỏi đi. Nó là quá trình làm
nhẹ gánh: chỉ bằng việc hỏi bạn sẽ đi tới thấy rằng các câu hỏi đều vô tích sự. Và người ta phải nói bất kì cái
gì đang đó.
Tôi đã nghe...
Một người đàn ông chạy xô vào nhà thờ, nhà thờ
Cơ đốc giáo, đi vào phòng thú tội và nói, "Thưa cha,
con đã làm tình với một người đàn bà từ sáng cho tới
giờ, hai mươi nhăm lần!"
Ngay cả Cha cũng ngạc nhiên: ông ta đã nghe
nhiều việc thú tội, cả đời ông ấy chỉ toàn nghe thú tội,
nhưng đây là cái gì đó mới - hai mươi nhăm lần từ
sáng sao?
Ông ấy hỏi, "Con có vợ chưa?"
Người này nói, "Dạ có ạ, thưa Cha, với cùng
người đàn bà đó." Thế là Cha thấy nhẹ cả người và
ông ấy nói, "Không có vấn đề gì; đó là vợ con, con có
thể làm tình."
Anh ta nói, "Con biết. Và hơn nữa, con không
phải là người Ki tô giáo, cũng chẳng là người Cơ đốc
giáo: con là người Do Thái. Nhưng con phải nói cho
ai đó!"
Nếu cái gì đó đang làm nặng gánh bạn, đang trĩu
nặng bạn, thì bạn phải kể cho ai đó. Bạn có thể hỏi
tôi; cứ để cho chúng là ngu xuẩn.
Cho nên khi tôi nói rằng tất cả mọi câu hỏi đều
ngu xuẩn, tôi không nói dừng hỏi. Bằng không, anh
bạn già Paritosh sẽ gặp rắc rối - anh ấy phải đem tới
câu hỏi chứ. Bạn cứ tiếp tục hỏi đi...
Và bởi việc không hỏi bạn sẽ không thể hiểu được
rằng câu hỏi là ngu xuẩn, nhưng bằng việc hỏi, và
bằng việc trả lời thường xuyên của tôi vậy mà chẳng
trả lời chúng. Đây là toàn thể quá trình nhận biết. Bạn
hỏi câu hỏi; khi bạn hỏi một câu hỏi, bạn nghĩ nó là
rất nghiêm chỉnh, bạn hỏi câu hỏi và bạn nghĩ nó rất
sâu sắc, và thế rồi tôi trả lời nó và tôi trả lời nó với
chuyện đùa. Toàn thể tính sâu sắc, cái nghiêm chỉnh
đi đâu mất; bạn bắt đầu cười. Một khả năng lớn có đó
rằng bạn bắt đầu cười vào câu hỏi của mình, vào cái
lố bịch của nó.
Cuộc sống có đó để mà được sống. Cuộc sống
không có dấu hỏi; nó là bí ẩn, không có giải thích. Và
điều tốt là chẳng có gì: sẽ là bất hạnh lớn nếu như có
lời giải thích. Nếu như có câu trả lời mà có thể thoả
mãn được bạn, thử nghĩ mọi sự sẽ trở thành phẳng tẹt
làm sao, chán mớ làm sao, đơn điệu làm sao - bởi vì
không câu trả lời nào có thể trả lời cho câu hỏi của
bạn được. Cuộc sống vẫn còn là cuộc phiêu lưu, nó
vẫn còn là việc tìm kiếm thường xuyên.
Tìm kiếm, một ngày nào đó bạn đi tới một điểm
mà bạn hiểu rằng bạn đang làm phí hoài năng lượng
của mình vào việc tìm kiếm. Cùng năng lượng đó có
thể đưa vào lễ hội. Bạn có thể tận hưởng.
Đây là hai cách tiếp cận tới cuộc sống: cách tiếp
cận của người hỏi, người tìm kiếm, nhà tư tưởng, triết
gia; và cách tiếp cận của người tôn giáo, nhà huyền
môn, nhà thơ, hoạ sĩ, con người của trái tim. Khi nhà
tư tưởng đi ra vườn ông ấy bắt đầu hỏi các câu hỏi: 

"Sao cây lại xanh? Sao hoa hồng lại đỏ?" Khi nhà thơ
đi vào ông ta bắt đầu cất lên bài ca về hoa hồng đỏ và
cây xanh. Khi hoạ sĩ tới, ông ta vẽ. Khi nhà huyền
môn tới, ông ấy đơn giản đứng đó trong kính nể vô
cùng. Hơi thở ông ấy dừng lại, thời gian dừng lại; nó
cực lạc thế. Câu hỏi không nảy sinh chút nào.
Triết gia cứ hỏi. Nghệ sĩ cứ vẽ, tạo ra cùng cái
đẹp lặp đi lặp lại. Nhà huyền môn chẳng làm gì: ông
ấy không hỏi cũng không tạo ra đoá hoa. Ông ấy đơn
giản ở đó, đứng sâu trong thiền, tận hưởng. Nhà
huyền môn biết cách thức của vui vẻ.
Học cách thức của vui vẻ, học cách thức của điệu
vũ, ít nhất học cách thức của thơ ca đi; và tháo dỡ
cách thức của nhà tư tưởng, tháo dỡ cách thức tạo ra
câu hỏi trong bạn.
Nhưng điều đó sẽ xảy ra dần dần thôi. Bạn sẽ phải
hỏi nhiều câu hỏi.
Một người tù ngồi trong xà lim của mình chờ đợi
phiên toà xử giết người. Viên luật sự trong bộ cánh
diện bước vào.
Luật sư nói, "Tôi là người rất tốt. Anh chẳng có gì
phải lo nghĩ cả. Tôi sẽ chứng minh rằng anh hoàn
toàn điên khùng, hay đã ở châu Âu vào thời gian của
vụ giết người. Cũng thế, nhân chứng đã được trả tiền
và ông cậu tôi là chánh án cho vụ xử của anh. Trong
lúc đó, thử trốn đi."
Không có câu trả lời cho bất kì câu hỏi nào.
Không có ai để trả lời chúng, chúng chưa bao giờ
được trả lời cả, chúng không thể được trả lời - bởi
chính bản chất của mọi sự. Trong lúc đó, hỏi đi. Bởi
vì nếu bạn không hỏi thì bạn sẽ không đi khỏi trạng
thái bạn đang ở, và người ta phải đi chứ.
Đó là một trong những bí mật lớn lao nhất của
cuộc sống, rằng cuộc sống là chuyển động. Và nếu
bạn bị mắc kẹt ở đâu đó thì bạn mất tiếp xúc với cuộc
sống. Thế thì bạn bị che mờ và vẩn đục; thế thì bạn bị
lạc, và bạn không biết bạn là ai, và bạn đang đi đâu,
và cái gì đang xảy ra. Bạn bỏ lỡ tất cả mọi manh mối.
Đi đi. Dù bạn ở bất kì đâu, một điều cần phải
được ghi nhớ: đừng bị mắc kẹt. Nếu việc hỏi của bạn
giúp cho bạn đi, tốt. Một chút ít di chuyển khỏi bất kì
chỗ nào bạn đang ở cũng đều là tốt; từ chỗ đó bạn
phải tìm ra chỗ khác - bởi vì bạn đang trong tiếp xúc
với cuộc sống chỉ khi bạn năng động, di chuyển. Cuộc
sống là một luồng, cuộc sống là luồng chảy. Bất kì khi
nào bạn tù đọng, bạn đều mất tiếp xúc.
Trong tiếng Anh có một từ hay: 'affluence' sung
mãn. Nó đã mất nghĩa nguyên thuỷ của nó. Nó chẳng
có liên quan gì tới giàu có cả, nó chẳng có liên quan
gì tới xa hoa, vật dụng công nghệ, lâu đài lớn và xe
hơi lớn và số dư ngân hàng lớn - nó chẳng có liên
quan gì tới những điều này. Bạn có thể là triệu phú và
bạn có thể không sung mãn.
'Affluence-sung mãn' nghĩa là: người đang trong
luồng chảy, người đang tuôn chảy. Trong luồng chảy
là sung mãn. Nghĩa nguyên thuỷ của từ này là: trong
luồng chảy, chuyển động, tuôn chảy, không mắc kẹt. 

Nếu bạn đang tuôn chảy, di chuyển cùng cuộc sống,
thì bạn giầu có - và đó là giầu có duy nhất có đó. Tất
cả mọi giầu có khác đều là thứ thay thế giả tạo.
Cho nên nếu câu hỏi của bạn giúp cho bạn chuyển
động - tôi không nói rằng chúng sẽ giúp cho bạn tìm
ra câu trả lời, bởi vì không có - nhưng nếu việc hỏi
của bạn giúp cho bạn di chuyển dù chỉ một bước thêm
nữa, thì tốt. Đó là lúc bạn nên di chuyển.
Branihan đang lái xe dọc theo con đường. Bởi
cách chiếc xe luồn lách đánh võng qua luồng xe đi,
bạn có thể nói rằng Branihan đã bị say với các cô gái.
"Anh cho rằng anh đang đi đâu đấy?" viên cảnh
sát đi mô tô hỏi, sau khi đã dừng anh ta lại được.
"Tôi về nhà - hic - từ bữa tiệc mừng đêm năm
mới."
"Anh có trẻ con không đấy?" viên cảnh sát hỏi.
"Năm mới đã qua ba tuần rồi!"
"Tôi biết," Branihan nói. "Đó là lí do tại sao tôi
lại hình dung ra đường về nhà khá hơn."
Bạn đã từng ở xa khỏi nhà mình đủ lâu rồi. Bạn
nên trở về nhà bây giờ thôi.
Bất kì cái gì chuyển động cũng đều tốt. Câu hỏi,
nếu thực sự, đều giúp cho bạn chuyển động. Lần nữa,
để tôi nhắc lại: nó sẽ không giúp cho bạn tìm ra câu
trả lời đâu, bởi vì không có câu trả lời. Nhưng câu hỏi
đích thực nảy sinh từ bản thể bạn là có nghĩa cho bạn
- nó có thể ngu xuẩn với tôi nhưng lại có liên quan tới
bạn; nó có thể không liên quan tới hiểu biết tối thượng
về mọi thứ, nhưng nếu nó có liên quan tới bạn thì cứ
để cho nó ngu xuẩn đi, cứ để cho nó ngớ ngẩn đi - bạn
hỏi nó. Và câu trả lời của tôi sẽ cho bạn cú huých.
Bạn sẽ chuyển động.
Giữ chuyển động. Một điều cần phải được ghi
nhớ: giữ chuyển động. Thế thì bạn sẽ sống động. Đó
là lí do tại sao câu hỏi lại quan trọng hơn đức tin. Tôi
nói tất cả mọi câu hỏi đều ngu xuẩn, nhưng chúng
không là gì nếu so với đức tin. Đức tin là tuyệt đối
xuẩn ngốc. Câu hỏi chỉ là ngu thôi. Là người ngu thì
vẫn có thể vui đùa, nhưng là người xuẩn ngốc thì xấu,
là kẻ ngu si là ốm yếu.
Đức tin là ngu si. Ai đó nói, “Tôi là người
Hindu," ai đó nói, "Tôi là người Ki tô giáo," ai đó nói,
"Tôi là người Jaina," ai đó nói, “Tôi là Phật tử" - đây
là những kẻ ngốc, bởi vì đức tin nghĩa là họ đã đi tới
câu trả lời. Người hỏi thì ít nhất cũng còn chuyển
động; người đó chưa đi tới câu trả lời. Người đó nghĩ
mình có thể đi tới bằng việc hỏi; đó là lí do tại sao
người đó lại ngu. Nhưng dầu vậy, người đó còn chưa
đi tới câu trả lời. Con người của đức tin, người nói
"Tôi là người Ki tô giáo" đã đi tới. Người đó nghĩ
người đó đã tìm thấy câu trả lời. Bây giờ, người đó
tuyệt đối là kẻ ngốc. Người đó bị mắc kẹt, tuôn chảy
của người đó đã mất hoàn toàn. Đó là lí do tại sao bạn
không bao giờ thấy cái gọi là người tôn giáo vui vẻ.
Bạn sẽ không bao giờ thấy họ tuôn chảy với cuộc
sống, nở hoa.

Từ 'flower-hoa' nữa cũng phải bắt nguồn từ tuôn
chảy - flow. Tôi không biết đích xác liệu nó có bắt
nguồn từ 'flow' hay không, nhưng nó phải bắt nguồn
từ đó. Về mặt nhận thức, về mặt ngôn ngữ, nó có thể
không bắt nguồn từ đó - tôi không bận tâm, tôi không
quan tâm chút ít nào. Nhưng nó phải bắt nguồn chứ.
Flower - flow. Và nhìn vào đoá hoa; đó chính là flow
- tuôn chảy là gì đấy. Toàn thể cây đã đi tới đỉnh của
sự nở hoa của nó. Từ rễ cho tới hoa có luồng chảy liên
tục của cuộc sống, sinh lực, nhựa sống. Và trong hoa
cây đã nở ra; việc tuôn chảy đó đã tới từ việc hát bài
ca. Có điệu vũ, cây đã nở hoa.
Khi tất cả các câu hỏi của bạn biến mất - không
cho bạn đức tin nào; tất cả mọi đức tin đều mất, tất cả
mọi câu hỏi đều mất - thế thì tất cả mọi ngu xuẩn, tất
cả mọi ngu đần sẽ mất đi. Thế thì có việc nở hoa, việc
bừng nở hoa, và việc nở hoa đó là câu trả lời. Điều đó
trả lời cho tất cả các câu hỏi. Bỗng nhiên bạn ở trong
cái biết. Không có tri thức, nhưng bạn ở trong cái biết.
Bỗng nhiên bạn ở nhà. Thế thì bạn không tranh đấu
với cuộc sống và không truy tìm nó là cái gì. Bây giờ
bạn biết, từ cốt lõi sâu sắc nhất của bản thể, nó là gì.
Bạn đã trở thành nó, bạn đã cho phép nó tuôn chảy
qua bạn. Bây giờ bạn không còn tách rời khỏi nó.
Từ tiếng Anh 'religion - tôn giáo' là hay: nó ngụ ý
ở cùng, lấy nhau, được gắn cùng nhau, được trong
thống nhất. Nó ngụ ý đích xác điều từ tiếng Phạn
'yoga' ngụ ý - là một. Khi luồng chảy nhỏ của bạn là
một với với luồng chảy của cái toàn thể, bạn mang
tính tôn giáo. Khi dòng sông nhỏ của bạn đổ vào con
sông Hằng vĩ đại, và bạn bắt đầu tuôn chảy với sông
Hằng và bạn mất đi biên giới của mình, bạn mang tính
tôn giáo.
'Tôn giáo' là từ hay như 'yoga'. Nó ngụ ý: bạn bây
giờ đã đi tới cuộc hôn nhân tối thượng với cái toàn
thể. Ngay bây giờ khi bạn bị mắc kẹt bạn đang trong
trạng thái li dị, ít nhất cũng tách rời. Bạn đang đi như
dòng suối nhỏ - thậm chí không chuyển động; bạn đã
trở thành cái vũng: tù đọng, chết, bốc mùi. Thoát ra
khỏi điều đó đi.
Nếu câu hỏi của bạn giúp bạn di chuyển, thì hỏi.
Hỏi còn tốt hơn là tin, bởi vì người tin đã dừng việc
hỏi các câu hỏi. Chuyển động của người đó đã dừng.
Bạn ngụ ý gì khi bạn nói "Tôi là người Ki tô
giáo", hay "Tôi là người Hindu", hay "Tôi là người
Mô ha mét giáo"? Bạn ngụ ý gì? - bạn ngụ ý, "Bây
giờ không có việc hỏi trong tôi. Tôi phát mệt về việc
hỏi rồi; tôi đã bắt đầu tin." Thế thì toàn thể cuộc sống
của bạn đã co lại. Thế thì bạn không còn mở rộng
nữa, thế thì bạn không còn thám hiểm, thế thì bạn
không còn truy tìm.
Là người Mô ha mét giáo, là người Hindu, là
người Ki tô giáo, còn tồi tệ hơn là người hỏi và người
bất khả tri. Tốt hơn cứ là người bất khả tri và cứ hỏi -
bởi vì nếu bạn cứ hỏi, và nếu bạn đủ dũng cảm để cứ
hỏi tới tận cùng, một ngày nào đó nó tới: bạn vẫn còn
và câu hỏi biến mất. Không phải là đức tin được trao
cho bạn đâu; câu hỏi này đơn giản biến mất và tin cậy
nảy sinh, tin cậy vào cuộc sống. Không tin cậy vào
Kinh Thánh, không tin cậy vào Veda, không tin cậy
vào Koran - mà tin cậy vào cuộc sống nơi tất cả Veda và tất cả Koran, và tất cả Kinh Thánh đều tới và biến
mất. Tin cậy đó là câu trả lời.
Trở thành luồng chảy đi. Và cứ dùng bất kì cái gì
có ích. Cứ hỏi. Tôi sẽ không cho bạn câu trả lời nào
đâu. Tôi không phải là thầy giáo. Đó là lí do tại sao
nhiều lần bạn cảm thấy chút ít lo nghĩ. Bạn bắt đầu
nghĩ, "Sao thầy cứ né tránh?" Nếu bạn quan sát, tôi
không bao giờ trả lời thẳng câu hỏi của bạn đâu, tôi
trả lời cái gì đó khác. Tôi đẩy bạn đi tiếp. Tôi trả lời
bạn theo cách mà bạn có thể hỏi nhiều câu hỏi nữa.
Việc đẩy năng lượng của bạn hướng tới điều tối
thượng sẽ đem tới đỉnh cao nơi tâm trí hỏi bùng nổ.
Và khi câu hỏi không có, bỗng nhiên bản thân tâm trí
đã biến mất. Trong trạng thái của vô trí đó bạn ở nhà.
Bạn đã tới nhà.
Câu hỏi thứ hai
Đôi khi tôi nghĩ thầy sống trong thế giới mơ.
Theo quan điểm của bạn thì có thể nói thế - bởi vì
bất kì điều gì bạn nghĩ cũng đều là thực còn tôi nghĩ
là không thực. Cho nên một cách tự nhiên, bất kì điều
gì tôi nghĩ là thực đều có vẻ không thực với bạn.
Nhưng có một ưu thế mà trong đó tôi có mà bạn
không có; và ưu thế đó là: tôi đã sống trong thực tại
của bạn, trong cái gọi là thực tại của bạn. Tôi biết cả
hai; bạn chỉ biết một thực tại.
Tôi đã ở chỗ bạn đang ở, cho nên tôi biết thực tại
của bạn, và tôi biết thực tại của tôi bây giờ. Tôi ở tình
huống tốt hơn để đánh giá ai là thực và ai là không
thực. Bạn chỉ biết trạng thái của bạn, bạn không biết
trạng thái của tôi. Cho nên đợi thêm chút nữa thay vì
đánh giá nó. Đi tới trạng thái của tôi đã; thế thì bạn có
tự do toàn bộ để đánh giá.
Nhưng bất kì ai đã đi tới trạng thái này đều không
bao giờ nói rằng thế giới của bạn là thực. Thế giới của
bạn là ảo vọng - maya: không thực, ảo tưởng. Để đánh
giá bạn cần biết cả hai; chỉ thế thì bạn mới có thể so
sánh được. Bạn không thể so sánh bằng việc biết chỉ
một thế giới - làm sao bạn sẽ so sánh được?
Trong đêm khi bạn rơi vào giấc ngủ bạn bắt đầu
mơ. Trong mơ, mơ có vẻ như thật - bởi vì trong mơ
bạn mất mọi tiếp xúc với thế giới, với thế giới mà bạn
đã biết khi bạn thức. Bây giờ không có so sánh; bạn
không thể so sánh được. Chẳng hạn: nếu bạn thấy hòn
đá, tảng đá, trong giấc mơ của mình, bạn không thể so
sánh với tảng đá thực mà bạn đã thấy khi bạn còn
thức bởi vì cả hai tảng đá chẳng bao giờ ở cùng nhau.
Cho nên tất nhiên tảng đá mơ cũng có vẻ thực. Làm
sao đánh giá nó là không thực được? bởi vì chẳng có
gì ngoại trừ nó để mà đánh giá. Không có tiêu chuẩn.
Khi bạn thức vào buổi sáng thế thì bạn nhận ra rằng
nó là không thực. Nhưng lần nữa đánh giá của bạn lại
không đúng bởi vì tảng đá mơ lại thiếu. Bây giờ bạn
có tảng đá thực, cái gọi là tảng đá thực, và tảng đá mơ
lại thiếu. Lần nữa đánh giá của bạn lại không đúng:
chỉ một tảng đá có đấy và tảng đá kia bị thiếu. Làm
sao bạn có thể đánh giá được chừng nào bạn còn chưa
có đồng thời cả hai, ở ngay trước bạn? 

Có việc thức tỉnh khác. Đó là điều chúng ta gọi là
phật tính: việc thức tỉnh tối thượng - khi bạn không
chỉ thức tỉnh khỏi giấc mơ của mình, mà bạn còn thức
tỉnh khỏi cái gọi là trạng thái thức nữa. Thế thì chúng
cả hai đều có sẵn, và thế thì bạn có thể thấy rằng cả
hai đều là mơ.
Vài giấc mơ được thấy bằng mắt nhắm, vài giấc
mơ được thấy bằng mắt mở, nhưng cả hai đều là giấc
mơ. Và khi bạn đã thức tỉnh và việc ngủ không còn lại
trong bạn, khi không phần nào của bản thể bạn là vô ý
thức, bạn tuyệt đối ý thức và toàn thể bản thể bạn đầy
ánh sáng, chói sáng, chỉ thế thì bạn mới biết thực tại
là gì. Ngay bây giờ bạn đang ngủ; mọi điều bạn biết
đều là mơ.
Nhưng tôi có thể hiểu câu hỏi này. Từ nơi bạn
đang hiện hữu thì nó sẽ gần như là tôi đang mơ. Tôi
nói về tình yêu; bạn cũng biết tình yêu. Nhưng nghe
tôi bạn trở nên nhận biết rằng tôi đang nói về cái gì đó
khác mà không thể có. Làm sao tình yêu có thể không
có tính sở hữu được? Làm sao tình yêu có thể là việc
chia sẻ thuần khiết được, mà không có cái ta nào,
không có động cơ nào? Làm sao tình yêu có thể vô
điều kiện được? Bạn nghe tôi, bạn nghe lời của tôi,
nhưng bạn không thể cảm thấy thực tại của những lời
đó - bởi vì bạn biết tình yêu có điều kiện; bạn biết tình
yêu bao giờ cũng có động cơ; bạn biết tình yêu bao
giờ cũng dựa trên ích kỉ, ham muốn; bạn biết tình yêu
là thủ đoạn để chi phối và sở hữu; bạn biết tình yêu
thực sự bạo hành, hung hăng.
Cho nên khi bạn so sánh tình yêu của bạn với tình
yêu của tôi, tình yêu của bạn có vẻ thực với bạn, và
tình yêu của tôi có vẻ không tưởng, như tưởng tượng.
Đó là lí do tại sao thế giới chưa bao giờ tin cậy vào
chư phật - bởi vì họ nói về điều gì đó chẳng liên quan
gì tới kinh nghiệm của bạn. Nó ở bên ngoài thế, nó
siêu việt thế, nó ở xa tới mức bạn không thể nào hiểu
được nó. Nó là không thể nào hiểu nổi. Bạn không thể
nào hình dung ra được nó là gì. Trong thất vọng cùng
cực bạn níu bám lấy thực tại của bạn và bạn nói,
"Thôi quên hết về điều đó đi - những người này hoặc
là các nhà huyền môn hoặc là người điên; nhà thơ của
cái không biết, những tay mơ, gàn gàn, lập dị. Thôi
quên hết họ đi!"
Bạn cũng không thể nào quên được; đấy mới là
vấn đề - bởi vì bất kì khi nào bạn tới gần vị phật thì
ông ấy động vào cái gì đó sâu trong tim bạn. Tâm trí
bạn có thể cứ nói rằng người đó là tay mơ, nhưng ở
đâu đó trái tim bạn lại bắt đầu cảm thấy điều người đó
đang nói. Hương thơm của nó tiến tới, đạt tới trái tim.
Điều người đó đang hát được nghe thấy ở đâu đó, ở
mức độ nào đó của bản thể bạn. Có thể nó không rất ý
thức, có thể nó chỉ giống như dò dẫm trong bóng tối,
nhưng bạn đã nghe thấy. Và khi bạn quan sát vị phật,
và nếu bạn đủ may mắn ở gần ông ấy, nếu bạn đủ ân
huệ để trở thành đệ tử, để trở thành người được điểm
đạo, thế thì dần dần thực tại của ông ấy sẽ trở nên
thực hơn thực tại riêng của bạn. Đó là nghĩa của
buông xuôi.
Nhiều lần bạn hỏi tôi, "Nghĩa của buông xuôi là
gì?" Từ này to lớn thế; có nhiều nghĩa. Đây là một
trong những nghĩa sâu sắc nhất: khi bạn đi tới một
người và bạn cảm thấy rằng người đó đã vượt ra
ngoài.... Tất nhiên, bạn có thể chỉ cảm thấy thôi; bạn không có khả năng quan niệm nào, không có bất kì hệ
thống tâm trí nào để hiểu nó. Bạn có thể chỉ cảm thấy
thôi. Trời rất, rất tối, nhưng bạn có thể cảm thấy rằng
nó rất sống động nữa. Bạn có thể cảm thấy rằng cái gì
đó đã xảy ra. Tâm trí bạn muốn phủ nhận nó, bản ngã
bạn muốn phủ nhận nó, nhưng trái tim bạn bắt đầu
cảm thấy bị thôi miên - cứ dường như một từ lực lớn
đang kéo bạn hướng tới trung tâm không biết nào đó.
Buông xuôi nghĩa là: rơi vào tình yêu với ai đó,
người gần như không thực với bạn, và vậy mà lại có
sự hấp dẫn. Bạn buông xuôi thực tại của mình; bạn
nói, "Thôi được rồi, thực tại của mình là giấc mơ và
thực tại của thầy là thực. Bây giờ tôi sẵn sàng: xin đưa
tôi tới thực tại của thầy."
Thực tại của bạn thực sự là gì? Thực sự, thực tại
của bạn là gì? Nó là gì ngoại trừ khổ? Nó là gì ngoại
trừ vài thoáng nhìn nhỏ nhoi về hạnh phúc, rất phù
du? Bạn không thể bắt giữ được và chúng bị mất đi,
và lại có khổ. Thực tại của bạn là gì ngoại trừ kinh
nghiệm trong địa ngục?
Tôi đã đọc:
Một người tới địa ngục và được quỉ dẫn đi thăm
một tua.
"Ông có thể chọn ở vĩnh viễn trong một trong ba
phòng này," quỉ nói.
Trong phòng thứ nhất mọi người đều đứng nước
nóng ngập tới cổ. Nước sôi sùng sục và bay hơi.
Người này rùng mình và đóng cửa lại.
Trong phòng tiếp mọi người đứng ngập trong
nước lạnh và băng đá tới tận cổ, và họ đang run lập
cập. Điều này không hấp dẫn người này.
Với nụ cười, quỉ mở căn phòng cuối cùng. Người
này ngạc nhiên và thấy nhẹ nhõm, vì mọi người đều
bước đi vòng quanh trong một đống phân bò dầy 30
cm, uống cà phê và buôn chuyện vui vẻ.
Người này nói, "Phòng này dành cho tôi," và bắt
đầu hoà nhập vào.
Vài phút sau một trong các quỉ trợ tá tới và gọi,
"Nghỉ giải lao kết thúc. Trở về đầu các ông!"
Cho nên mọi hạnh phúc bạn biết chỉ là việc nghỉ
giải lao, và lần nữa lại về với đầu bạn!
Chỉ là những quyến rũ tạm thời...
Hàng tháng và hàng năm khổ, và thế rồi tới một
khoảnh khắc nhỏ. Và bạn lại ham muốn khoảnh khắc
đó, và bạn lại sẵn sàng chịu đựng nữa. Và cho dù
những khoảnh khắc đó chẳng có gì nhiều nhặn trong
nó. Nếu bạn nhìn vào trong nó bạn sẽ thấy nó hổng
hoác bên trong. Điều bạn gọi là vui thích đó có gì bản
chất trong nó không? Hay đấy chỉ là hi vọng để cho
bạn có thể bằng cách nào đó mang theo trong địa ngục
này? Không có hi vọng điều đó sẽ quá khó. Nếu như
không có hi vọng nào, làm sao bạn sống được? Ngay
cả một ngày cũng khó; ngay cả để dậy ra khỏi giường
vào buổi sáng cũng khó. Để làm gì? Câu hỏi sẽ nảy
sinh, "Tại sao? Tại sao lại dậy nữa, và tại sao lại đi tới
văn phòng nữa, và đi cùng con đường cũ rích thường lệ ấy, và lại cùng ông chủ ấy, cùng bà vợ ấy, cùng lũ
trẻ con ấy? Để làm gì? Thế là đủ rồi!" Bạn sẽ đơn
giản thảnh thơi và chết trong giường mình. Phỏng có
ích gì mà dậy ra khỏi nó? Nhưng hi vọng rằng cái
chưa xảy ra có thể xảy ra hôm nay thì sao... "Có thể
cơ hội bây giờ mới tới cho những điều vẫn còn chưa
xảy ra. Người ta nên dậy và nhận lấy cơ hội này khi
nó tới."
Và nó thực sự chẳng bao giờ tới cả. Mọi vui thích
đều trong chờ đợi, trong hi vọng. Tất cả mọi vui thích
đều trong tương lai, trong ham muốn; nó chưa bao giờ
là thực tại cả. Và bạn gọi nó là thực sao?
Phúc lạc của tôi không ở trong hi vọng. Tôi không
hi vọng vào cái gì cả, tôi đã bỏ tất cả hi vọng rồi.
Thực tế, cái ngày tôi bỏ đi tất cả mọi hi vọng thì thực
tại đã xảy ra cho tôi. Qua hi vọng bạn không cho phép
thực tại xảy ra. Cái ngày bạn vứt bỏ ham muốn, phúc
lạc lớn lao giáng xuống bạn. Nó bao giờ cũng có đó,
nhưng bởi vì ham muốn của mình mà bạn đã bỏ lỡ nó.
Bạn đã quá bận bịu thường xuyên với ham muốn đến
mức bạn không sẵn có cho nó, bạn đã bị đóng lại. Một
khi ham muốn biến mất, bạn mở ra, bạn trở thành sẵn
có.
Tôi đã biết thực tại của bạn. Tôi đã sống trong
khổ đó lâu như bạn đã sống trong nó - trong hàng
nghìn năm, trong nhiều kiếp sống. Chắc chắn khó mà
tin được vào phúc lạc của tôi, vào chân lí của tôi. Và
câu hỏi nảy sinh, "Người này có thể đang mơ."
Nhưng một điều tôi muốn nói với bạn: cho dù đây
là mơ, cho dù nó có vẻ giống mơ, nó vẫn còn tốt hơn
thực tại của bạn. Thử nó đi. Bạn chẳng có gì để mất
cả - nhưng dầu vậy bạn vẫn sợ mất nó thế. Có thể bạn
sợ mất nó tới mức bạn cứ nghĩ rằng bạn có cái gì đó.
Nỗi sợ là bạn có thể mất nó giữ bạn cảm thấy rằng
bạn có cái gì đó để mất. Nhưng bạn đã nhìn vào trong
túi mình chưa? Chẳng có gì cả. Thực tế có lỗ thủng
lớn. Túi bạn chẳng giữ cái gì cả. Nhưng sợ rằng mình
có thể bắt gặp chân lí, bạn không bao giờ nhìn vào túi
mình.
Có lần tôi đi du hành với Mulla Nasruddin. Người
soát vé tới và Nasruddin nhìn vào trong túi này túi nọ,
rồi nhìn vào sổ nhật kí, rồi vào túi và va li. Anh ta tìm
mọi thứ, ngay cả trong va li của tôi nữa! Và thế rồi
anh bắt đầu nhìn vào túi tôi. Tôi nói, "Nasruddin, đợi
đã! Anh làm gì thế?"
Anh ta nói, "Vé của tôi mất rồi."
"Nó không thể ở trong túi tôi hay va li của tôi
được. Anh có điên không đấy?" Tôi đã quan sát, và
tôi bảo anh ta, "Tôi thấy rằng anh còn chưa nhìn vào
túi bên phải của anh."
Anh ta nói, "Tôi không thể nhìn vào đó được."
Tôi nói, "Tại sao?"
Anh ta nói, "Nếu nó không có đó, thế thì đi đứt!
Thế thì nó chẳng ở đâu cả! Cho nên trước hết để tôi
tìm nó ở mọi nơi đã. Đó là điều cuối cùng - bởi vì
điều đó nghĩa là tôi không có vé!"
Bạn không nhìn bởi vì bạn sợ; có thể chẳng có gì
cả. 

Cooperman bán dâu tây từ xe tải của mình trong
vùng ngoại ô. Anh ta gõ cửa một nhà: "Ai mua dâu
tây không?"
"Quay lại đây đi," một cô gái tóc hung xinh xắn
trả lời.
Cooperman bước về đuôi xe, rung chuông và
người đàn bà mở cửa ra. Cooperman choáng người
khi thấy cô ấy đứng đó hoàn toàn trần truồng, không
một mảnh quần áo. Cooperman bắt đầu khóc. "Có
chuyện gì thế?" cô tóc hung hỏi.
"Hôm nay vợ tôi chạy theo thằng bạn tốt nhất của
tôi," Cooperman giải thích. "Tôi mất ba nghìn đô la
trên thị trường chứng khoán. Và bây giờ cô lại định
hiếp tôi trên đống dâu tây của tôi nữa!"
Bây giờ, chỉ còn mỗi dâu tây... nhưng anh ta
khóc, sợ rằng bây giờ dâu tây cũng mất nốt.
Bạn có gì với bạn? Thậm chí chẳng có cả dâu
tây... Và bạn sợ thế, e sợ thế, liên tục run rẩy thế.
Chẳng có gì mà mất cả!
Thử thực tại của tôi nữa; bạn sẽ không phải là
người mất đâu. Và tôi nói điều đó với sự chắc chắn
thế bởi vì tôi biết cả hai thực tại. Thực tại của bạn chỉ
là giả; thực tại của tôi mới là thật.
Bạn trong thực tại chỉ khi bạn là thật. Khi nhận
biết của bạn là thật thì bạn sống trong thực tại; khi
nhận biết của bạn là giả bạn sống trong không thực.
Và bạn tạo ra nó mọi ngày, nhưng bạn dường như
không nhận biết.
Điều gì xảy ra khi bạn rơi vào giấc ngủ? Sao các
giấc mơ lại tới khi bạn ngủ? - tâm thức của bạn hạ
thấp xuống, xuống rất thấp; nó gần như biến mất. Thế
thì giấc mơ nổi bọt lên. Bạn đã bị say chưa? Bạn uống
rượu, và bạn lại trong thế giới mơ. Hay bạn uống chất
cay, bạn uống LSD hay cái gì đó giống thế; tâm thức
bạn bị hạ thấp, bạn lại trong thế giới mơ.
Đó là lí do tại sao điều xảy ra là LSD có thể
không cho bạn cùng kinh nghiệm như nó cho bạn của
bạn. Ai đó có thể đi lên trời, và ai đó có thể đi vào địa
ngục - bởi vì điều đó tuỳ thuộc vào tâm trí bạn mà bạn
có thể tạo ra kiểu mơ nào. LSD hay bất kì chất ma tuý
nào cũng đều có thể hạ thấp tâm thức của bạn xuống.
Nó đơn giản loại bỏ đi mọi rào chắn, nó đơn giản giúp
bạn đi vào thế giới riêng tư - thế giới của mơ. Và tất
nhiên khi bạn đang trong nếm trải ma tuý thì mọi sự
đều cực kì đẹp đẽ, rất phiêu diêu, rất mầu sắc...
Nhưng điều đó còn tuỳ. Nếu bạn là nhà thơ và bạn
đã sống cùng cây cối và hoa và chim chóc, bạn sẽ có
thế giới rất đẹp mở ra. Nhưng nếu bạn là người hàng
thịt, thế thì cẩn thận; thế thì bạn có thế giới của nhà
hàng thịt - ác mộng.
Đó là lí do tại sao những người khác nhau khi đi
vào các nếm trải ma tuý trở lại với những kinh
nghiệm khác nhau. Một số người nói nó là cõi trời, và
một số nói nó là địa ngục. Điều đó tuỳ ở bạn.
Bạn tạo ra giấc mơ. Ma tuý không phải là thứ tạo
ra giấc mơ, ma tuý đơn giản hạ thấp tâm thức bạn xuống, điều không cho phép mơ. Giấc ngủ là cần cho
mơ. Bạn càng nhận biết, càng ít khả năng có việc mơ.
Khi bạn hoàn toàn nhận biết mơ biến mất. Thế thì bạn
không tạo ra mơ; thế thì bạn đơn giản đối diện với cái
đang đó.
Khi bạn là thực bạn sống trong thế giới thực. Và
tôi ngụ ý gì khi tôi nói ‘khi bạn là thực'? - tôi ngụ ý
khi bạn nhận biết. Đó là chính là thông điệp của Phật
đấy.
Câu hỏi thứ ba:
Giáo dục có đưa tới thiền không? Xin thầy giải
thích về giáo dục và tôn giáo.
Thông thường cái vẫn được gọi là giáo dục thì
gần như chống lại thiền. Nó đáng phải không như thế
nhưng nó lại như thế. Nghĩa nguyên thuỷ của từ
'education-giáo dục' thì không chống lại thiền. Nghĩa
nguyên thuỷ này là: kéo ra. Giáo dục nghĩa là kéo ra;
bất kì cái gì bị ẩn kín trong cá nhân đều phải được kéo
ra. Cá nhân phải nở hoa - đó là nghĩa nguyên thuỷ của
giáo dục.
Đó cũng là điều thiền là gì đấy: bạn phải nở hoa
trong bản thể riêng của mình. Bạn không biết mình
định đi đâu, bạn không biết hoa nào sẽ tới với bạn,
mầu sắc của chúng là gì và hương thơm của chúng là
gì - bạn không biết. Bạn đi vào cái không biết. Bạn
đơn giản tin cậy vào năng lượng cuộc sống. Nó đã
đem việc sinh thành cho bạn, nó là nền tảng của bạn,
nó là bản thể bạn. Bạn tin cậy vào nó. Bạn biết rằng
bạn là đứa trẻ của vũ trụ này, và vũ trụ này, nếu nó đã
đem việc sinh thành cho bạn, nó sẽ chăm nom nữa.
Khi bạn tin cậy vào bản thân mình bạn cũng tin
cậy vào toàn thể vũ trụ. Và vũ trụ này là đẹp. Xem
đấy... biết bao nhiêu hoa được sinh ra trong vũ trụ
này; làm sao bạn có thể không tin cậy vào nó được?
Cái đẹp vô cùng như thế ở khắp xung quanh; làm sao
bạn có thể không tin cậy vào nó được? Vĩ đại thế,
duyên dáng thế, từ một hạt bụi nhỏ cho tới các vì sao;
đối xứng thế, hài hoà thế; làm sao bạn có thể không
tin cậy vào nó được?
Basho đã nói, "Nếu hoa được sinh ra từ vũ trụ
này, thế thì tôi tin cậy vào nó." Đúng chứ? Đó là đủ
logic, một luận cứ vĩ đại: “Nếu vũ trụ này có thể cho
sinh thành ra nhiều hoa đẹp thế, nếu hoa hồng là có
thể, tôi tin cậy vào nó. Nếu hoa sen là có thể. Tôi tin
cậy vào nó."
Giáo dục là việc tin cậy vào bản thân bạn và tin
cậy vào sự tồn tại, là việc cho phép bất kì cái gì đang
ẩn kín trong bạn được hiển lộ ra; là việc đem bất kì
cái gì có bên trong ra ngoài.
Nhưng điều đó là không đúng cho cái gọi là giáo
dục đang diễn ra trên thế giới. Thay vì đem ra, nó lại
ép buộc mọi thứ vào trong. Nó đơn giản đổ thông tin
vào. Lần nữa từ ‘information-thông tin' là sai; nó đáng
ra không nên được dùng - nó phải là 'out-formation'. 

'Information' nghĩa là: hình thành bên trong bạn. Cái
gì đó phải trưởng thành bên trong bạn - thế thì nó là
information. Nhưng chẳng ai bận tâm tới bạn cả. Xã
hội bận tâm về những ý tưởng riêng của nó, các ý
thức hệ, các định kiến, công nghệ; họ cứ áp đặt lên
bạn. Đầu bạn được dùng như một chỗ trống, cho nên
họ phải cung cấp đồ đạc. Giáo dục thông thường, hay
bất kì cái gì là có sẵn nhân danh giáo dục, đều không
là gì ngoài việc nhồi tri thức vào tâm trí bạn - bởi vì
tri thức có tiện dụng nào đó. Không ai bận tâm tới
bạn, không ai bận tâm về định mệnh của bạn. Họ cần
nhiều bác sĩ hơn, họ cần nhiều kĩ sư hơn, họ cần nhiều
tướng lĩnh hơn, họ cần nhiều nhà kĩ thuật hơn, nhiều
thợ ống nước, nhiều thợ điện hơn. Cho nên họ cần
những người đó; họ buộc bạn phải trở thành thợ nước,
hay họ buộc bạn trở thành bác sĩ, hay họ buộc bạn trở
thành kĩ sư.
Tôi không nói có cái gì đó sai với việc là kĩ sư
hay bác sĩ, nhưng chắc chắn có cái gì đó sai nếu nó bị
ép buộc từ bên ngoài. Nếu ai đó nở hoa thành bác sĩ,
thế thì bạn sẽ thấy việc chữa lành lớn xảy ra quanh
người đó. Thế thì người đó sẽ được sinh ra là thầy
chữa. Người đó sẽ thực sự là bác sĩ trị liệu, việc chạm
của người đó sẽ là vàng. Người đó được sinh ra để là
điều đó.
Nhưng khi điều đó bị ép buộc từ bên ngoài và
người ta lấy nó làm nghề nghiệp, bởi vì người ta phải
sống và người ta phải học và kiếm sống, người ta tiếp
quản nó. Thế thì người ta bị què quặt và bị nghiền nát
dưới sức nặng. Người ta đơn giản cứ kéo lê và kéo lê,
và một ngày nào đó, chết. Chưa bao giờ có một
khoảnh khắc của lễ hội trong cuộc sống đó. Tất nhiên,
người đó sẽ để lại nhiều tiền cho con mình để đến
lượt chúng trở thành bác sĩ, để vào đại học, để vào
cùng đại học nơi người đó đã bị phá huỷ. Và người đó
sẽ làm cùng điều đó với con cái họ, và đây là cách
mọi sự cứ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Không, tôi không gọi điều này là giáo dục. Nó là tội
ác. Điều thực sự là phép màu là ở chỗ mặc cho việc
giáo dục này đôi khi vị phật vẫn nở hoa trong thế giới
này. Đó là phép màu. Điều đơn giản không thể nào tin
nổi là làm sao ai đó có thể thoát ra khỏi nó: đó là
phương pháp luận để giết bạn, nó đã được thu xếp
theo cách như vậy. Và trẻ nhỏ bị mắc vào trong cơ
chế của nó, không biết chúng đang đi đâu, không biết
cái gì đang được làm cho chúng. Đến lúc chúng trở
nên nhận biết, chúng đã hoàn toàn bị biến chất, bị phá
huỷ. Đến lúc chúng có thể nghĩ về phải làm gì với
cuộc đời mình, chúng gần như không còn khả năng đi
theo bất kì hướng nào khác.
Đến lúc bạn hai mươi nhăm tuổi hay ba mươi
tuổi, nửa cuộc sống đã mất rồi. Bây giờ thay đổi
dường như quá mạo hiểm. Bạn đã trở thành bác sĩ,
việc hành nghề của bạn đang diễn ra tốt đẹp; bỗng
nhiên một hôm nào đó bạn nhận rằng đây không phải
là điều bạn đã được ngụ ý là. Điều này không dành
cho bạn - nhưng bây giờ phải làm gì? Cho nên cứ giả
vờ rằng bạn là bác sĩ. Và nếu bác sĩ không hạnh phúc,
trong việc là bác sĩ, thì ông ấy sẽ không giúp ích cho
bệnh nhân nào. Ông ấy có thể pha thuốc cho bệnh
nhân, ông ấy có thể kê thuốc, nhưng ông ấy sẽ không
thực sự là lực chữa lành. Khi bác sĩ thực sự là bác sĩ,
bác sĩ bẩm sinh... và mọi người đều là cái gì đó bẩn
sinh. Bạn có thể bỏ lỡ nó, bạn thậm chí không thể biết tới nó. Ai đó là nhà thơ bẩm sinh; và bạn không thể
làm ra nhà thơ được. Không có cách nào để chế tạo ra
nhà thơ. Ai đó là hoạ sĩ bẩm sinh; bạn không thể chế
tạo ra hoạ sĩ được.
Nhưng mọi sự đều bị đặt rất sai chỗ: hoạ sĩ đang
làm việc như bác sĩ, bác sĩ đang làm việc như hoạ sĩ.
Chính khách có đó: có thể ông ấy đã là thợ nước tốt
nhưng ông ấy đã trở thành thủ tướng hay tổng thống.
Và người có thể là thủ tướng thì lại là thợ nước.
Đây là lí do tại sao trong thế giới có nhiều hỗn
độn thế: mọi người đều bị đặt sai chỗ, không ai ở đích
xác nơi người đó đáng ở. Giáo dục đúng sẽ đích xác
là con đường tới thiền. Giáo dục sai là rào chắn cho
thiền bởi vì giáo dục sai dạy bạn những điều không
khớp với bạn. Và chừng nào cái gì đó còn chưa khớp
với bạn và bạn chưa khớp với nó, bạn không bao giờ
có thể lành mạnh và toàn thể được. Bạn sẽ khổ sở.
Cho nên thông thường khi người có giáo dục trở
nên quan tâm tới thiền, người đó phải tháo dỡ bất kì
cái gì người đó đã học. Người đó phải quay lại thời
thơ ấu của mình lần nữa và bắt đầu từ đó, từ ABC. Đó
là lí do tại sao nhấn mạnh của tôi là dành cho cách
thiền nào đó mà bạn có thể trở lại thành đứa trẻ.
Khi bạn nhảy múa, bạn giống đứa trẻ hơn người
lớn. Đó là lí do tại sao bạn không thấy các chức sắc
tới tôi và tới việc thiền của tôi. Ai đó là uỷ viên hội
đồng, người thu thuế - ông ta không thể tới được, bởi
vì ông ta không thể nhảy múa được. Ông ta là uỷ viên
hội đồng, hay ông ta là thống đốc - làm sao ông ta có
thể nhảy múa với người thường được?
Nhưng nếu bạn không thể nhảy múa được, bạn có
thể là thống đốc, nhưng bạn chết. Nếu bạn không thể
hát như đứa trẻ, bạn là gánh nặng trên trái đất. Tốt
hơn cả bạn tự tử đi cho rồi. Ít nhất thì bạn sẽ bỏ trống
chỗ nào đó cho ai đó khác trưởng thành và nở hoa.
Bạn không định nở hoa; điều đó là chắc chắn.
Những người có sự kính trọng nào đó trở thành
rất bị mắc kẹt bởi vì họ không thể làm gì được - họ
không thể mạo hiểm sự kính trọng của mình. Họ sợ.
Họ không hạnh phúc, họ không biết phúc lạc là gì, họ
không biết đích xác sống động nghĩa là gì - nhưng họ
đáng kính trọng. Cho nên họ níu bám lấy sự kính
trọng của mình, và thế rồi chết. Họ chưa bao giờ
sống; họ chết trước khi họ bắt đầu sống. Họ đã là
nhiều người chết trước khi họ đã từng sống.
Việc thiền của tôi là để đem bạn trở lại với thời
thơ ấu của bạn - khi bạn không được kính trọng, khi
bạn có thể làm những điều điên rồ, khi bạn còn hồn
nhiên, không bị xã hội làm biến chất, khi bạn còn
chưa học bất kì thủ đoạn nào của thế giới, khi bạn còn
là người thế giới khác, không trần tục. Tôi muốn bạn
trở lại điểm đó; từ đó, bắt đầu lại. Và đây là cuộc sống
của bạn. Kính trọng hay tiền bạc là những giải thưởng
khuyến khích, chúng không phải là giải thưởng thực.
Đừng bị lừa dối bởi chúng.
Bạn không thể ăn được kính trọng, và bạn không
thể ăn được tiền bạc, và bạn không thể ăn được danh
tiếng. Chúng chỉ là những trò chơi: vô nghĩa, ngu
xuẩn, tầm thường. Nếu bạn đủ thông minh bạn sẽ hiểu
rằng bạn phải sống cuộc sống của mình và bạn không
bận tâm về những điều khác. Tất cả những quan tâm khác đều vô nghĩa: nó là cuộc sống của bạn. Bạn phải
sống nó một cách đích thực, đáng yêu, với đam mê
lớn lao và với từ bi lớn lao, với năng lượng lớn lao.
Bạn phải trở thành con sóng triều của phúc lạc. Bất kì
điều gì được cần tới để làm cho nó, làm đi.
Tháo dỡ sẽ là cần thiết. Tháo dỡ nghĩa là bạn
dừng những con đường sai đó, bạn dừng đi vào những
con đường sai đó mà xã hội đã áp đặt, thuyết phục
bạn, cám dỗ bạn đi vào. Bạn nhận trách nhiệm về
cuộc sống riêng của mình; bạn trở thành người chủ
riêng của mình.
Đó là nghĩa của tính chất sannyas. Đó là lí do tại
sao tôi goi các sannyasins là swami. 'Swami' nghĩa là:
người đã trở thành người chủ cuộc sống riêng của
mình. Nó chẳng liên quan gì tới swami chính thống;
họ không phải là người chủ của các kiếp sống riêng
của họ. Họ lại đi trên cùng một con tầu, với cùng xã
hội, với cùng những quyền lực, uy tín, chính trị ngu
xuẩn.
Sannyasin thực là người không bận tâm tới ý kiến
của người khác, người đã quyết định sống cuộc sống
của mình như người đó muốn sống nó. Tôi không ngụ
ý bạn là vô trách nhiệm đâu. Khi bạn bắt đầu sống
cuộc sống của mình một cách có trách nhiệm, bạn
không chỉ chăm nom về bản thân mình, bạn cũng
chăm nom cả người khác - nhưng theo cách hoàn toàn
khác.
Bây giờ bạn sẽ nhận mọi chăm nom mà bạn
không can thiệp vào cuộc sống của bất kì ai khác -
đây chính là trách nhiệm là gì. Bạn không cho phép
bất kì ai can thiệp vào cuộc sống của bạn, và một cách
tự nhiên, bạn sẽ không can thiệp vào cuộc sống của
bất kì ai. Bạn không muốn bất kì ai hướng dẫn cuộc
sống của mình, bạn không muốn cuộc sống của mình
bị hướng dẫn theo dây kéo. Tua du lịch có hướng dẫn
không phải là tua chút nào. Bạn muốn thám hiểm theo
cách riêng của mình. Bạn muốn đi vào rừng mà không
có bản đồ nào, để cho bạn cũng có thể là người khám
phá, để cho bạn cũng đi tới những điểm tươi tắn nào
đó lần đầu tiên.
Nếu bạn mang bản đồ bạn bao giờ cũng tới chỗ
mà nhiều người đã tới trước đây. Nó chưa bao giờ
mới, nó chưa bao giờ nguyên bản, nó chưa bao giờ
nguyên si. Nó đã ô nhiễm, biến chất. Nhiều người đã
đi lên nó: bản đồ đã có.
Khi tôi là đứa bé, trong ngôi đền mà bố mẹ tôi
vẫn thường tới thăm, tôi đã ngạc nhiên: có bản đồ của
cõi trời và địa ngục và moksha. Một hôm tôi nói với
bố tôi, "Nếu bản đồ mà có với moksha, thế thì con
chẳng quan tâm tới nó."
Ông ấy nói, "Sao thế?" Tôi nói, "Nếu có bản đồ,
thế thì nó đã cũ rích rồi. Nhiều người đã đạt tới đó,
ngay cả người làm bản đồ cũng đã đạt tới đó. Mọi thứ
đều được đo, và họ biết mọi chỗ, đặt tên và đánh
nhãn. Điều này dường như chỉ là việc kéo dài của
cùng thế giới cũ. Nó chẳng có gì mới. Con thích đi
vào thế giới không có bản đồ. Con muốn là người
thám hiểm." Ngày hôm đó tôi chấm dứt đi vào đền.
Bố tôi hỏi tôi, "Sao bây giờ con không tới?"
Tôi nói, "Bố bỏ những bản đồ đó đi. Con không
chịu được những bản đồ đó ở đó. Chúng rất xúc phạm. Nghĩ về điều đó: ngay cả moksha mà cũng đo
được sao? Thế thì chẳng có gì là không thể đo được!"
Và tất cả chư phật đều đã nói rằng chân lí là
không thể đo được; tất cả chư phật đều đã nói rằng
chân lí không chỉ là không biết, nó là không thể biết
được. Nó là biển cả không bản đồ: bạn đem con
thuyền nhỏ của mình và bạn đi vào vùng biển chưa có
bản đồ. Bạn nhận cuộc phiêu lưu. Điều đó mạo hiểm,
nó là nguy hiểm. Nhưng trong mạo hiểm và nguy
hiểm linh hồn nở hoa, trở nên được hoà nhập.
Với tôi, nếu giáo dục là đúng thì nó sẽ là một
phần của thiền; thiền sẽ là điểm cuối cùng trong nó.
Nếu giáo dục là đúng, thế thì các đại học không nên
chống lại hài hoà. Chúng nên là chỗ huấn luyện, bàn
nhảy vào hà hoà. Nếu giáo dục là đúng, thế thì nó sẽ
không quan tâm tới tiền, và nó sẽ không quan tâm tới
quyền lực và danh tiếng. Thế thì nó sẽ không mang
tính chính trị chút nào.
Nếu giáo dục là đúng nó sẽ quan tâm tới phúc lạc
của bạn, hạnh phúc của bạn, âm nhạc, tình yêu, thơ
ca, điệu vũ. Nó sẽ dạy bạn cách hiển lộ. Nó sẽ không
cứ đơn giản nhét thông tin vào đầu bạn. Nó sẽ giúp
bạn đi ra từ bản thể mình, để nở hoa, để trưởng thành,
để lan toả, để mở rộng. Nó sẽ là việc giáo dục hoàn
toàn khác.
Và một cách tự nhiên nếu giáo dục trở nên được
bao hàm với thiền, nó trở thành có tính tôn giáo. Tôi
không gọi giáo dục là mang tính tôn giáo bởi vì nó
dạy giáo lí của Ki tô giáo, hay nó dạy Hindu giáo. Đó
không phải là tính tôn giáo. Giáo dục mang tính tôn
giáo nếu nó làm cho bạn đủ dũng cảm để chấp nhận
bản thân mình, và sống cuộc sống của bạn, và trở
thành việc cúng dường cho Thượng đế trên con đường
riêng của bạn, theo cách duy nhất riêng của bạn.
Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy, Osho ơi, thầy có thể kể cho chúng tôi
chút ít giai thoại về sannyasin tham năng lượng
cũng như thầy kể về người Do Thái tham tiền
được không?
Mọi tham lam đều mang tính Do Thái. 'Jew - Do
Thái' không phải là tên của giống nòi nào đó. Không,
bất kì ai có tính tham thì đều là người Do Thái. Và
tham chẳng liên quan gì tới tiền bạc. Tiền chỉ là một
đối tượng của tham lam; bất kì cái gì cũng có thể trở
thành đối tượng.
Kundalini có thể trở thành đối tượng của tham
lam; năng lượng tâm linh, niết bàn, quyền năng siêu
linh, chứng ngộ, đều có thể trở thành đối tượng của
tham lam... nhưng thế thì bạn là người Do Thái.
Nhớ lấy, 'Do Thái' chỉ là từ tượng trưng: nó đại
diện cho tham lam. Và không có nhu cầu có giai thoại
mới. Các giai thoại cũ hoàn toàn tốt, và chúng có tác
dụng.
Bởi vì bạn đã hỏi câu hỏi này, bạn đã cám dỗ... 

Ông mục sư mới bắt được một giáo dân của mình
vừa ra khỏi quán rượu Lí tưởng. "Tôi rất tiếc," ông ta
nói, "khi thấy ông đi ra từ chỗ như vậy. Con ta, uống
rượu là thứ của quỉ đấy. Khi quỉ bảo ông đi cùng nó,
sao ông không từ chối?"
"Con muốn chứ, thưa cha," người này nói.
“Nhưng nó có thể tức giận và không bảo con lần
nữa."
Bạn đã cám dỗ tôi, cho nên tôi sẽ kể cho bạn vài
giai thoại. Bạn có thể không hỏi lần nữa. Và nhớ lấy,
những giai thoại Do Thái này mà tôi sẽ kể cho các
bạn chẳng có liên quan gì tới người Do Thái cả,
chúng có cái gì đó liên quan tới tham lam bên trong
của bạn. Bằng việc thay đổi đối tượng, chẳng cái gì
được thay đổi cả. Cho nên vấn đề không phải là thay
đổi đối tượng, vấn đề là hiểu khổ mà tham đem lại.
Một khi bạn hiểu nó, tham bị loại bỏ.
Một người bước đi dọc theo Broadway thì giáp
mặt với tiếng thì thào của một cô thương gia, "Bán
tình đây."
Anh ta nói, "Chắc hẳn rồi, nếu cô có thể làm nó
theo cách thức của người Do Thái."
Cô ta nói, "Nếu anh dạy cho tôi cách làm nó theo
cách người Do Thái, tôi sẽ đem nó cho anh với nửa
giá thôi."
Anh ta nói, "Đấy là cách của người Do Thái đấy."
Họ hàng của ông già Feinstein tụ tập để đọc di
chúc của ông ấy sau cái chết của ông ấy.
"Là một tâm trí lành mạnh," viên luật sư của ông
ấy đọc, "tôi đã tiêu mọi xu cuối cùng trước khi tôi
chết."
"Là một tâm trí lành mạnh tôi đã tiêu mọi đồng xu
cuối cùng trước khi tôi chết." Mọi người thực sự sống
trong một thế giới coi mình là trung tâm. Một cách tự
nhiên, nếu họ trở nên khổ, chẳng ai có lỗi ngoại trừ
bản thân họ - bởi vì tất cả mọi sự xảy ra lớn lao trong
cuộc sống đều xảy ra khi bạn không là cái ngã, khi
bạn không tham lam, khi bạn sẵn sàng chia sẻ.
Tình yêu xảy ra khi bạn sẵn sàng chia sẻ với
người khác. Lời cầu nguyện xảy ra khi bạn sẵn sàng
chia sẻ với Thượng đế. Thiền xảy ra khi bạn sẵn sàng
chia sẻ với sự tồn tại. Cái đẹp xảy ra khi bạn sẵn sàng
chia sẽ với đoá hoa, hay với vì sao, hay với con chim
đang tung cánh.
Bất kì khi nào bạn chia sẻ, đều có cái đẹp, đều có
chân lí, đều có hạnh phúc. Bất kì khi nào bạn tích trữ,
bất kì khi nào bạn sống vì bản thân mình, bạn không
thực sự sống. Sống vì bản thân mình là sống trong
nấm mồ. Nếu bạn thực sự muốn sống, bắt đầu chia sẻ
ngày một nhiều hơn đi, ngày một ít tham hơn đi. Và
cuộc sống sẽ xảy ra cho bạn ngày một nhiều hơn. Nó
là việc chia sẻ lớn lao. Nếu bạn hít vào và bạn cứ giữ
cho miệng mình và mũi mình đóng lại, sợ rằng nếu
bạn thở ra thì không khí sẽ đi ra, sẽ không còn là của bạn nữa; nếu bạn trở thành người tích trữ không khí,
bạn sẽ chết. Nhưng bạn lấy nó vào, nó lại đi ra; bạn
lấy nó vào, nó lại đi ra: cũng giống như hít vào và thở
ra là toàn thể nhịp điệu của cuộc sống.
Một ông già Do Thái phải đi mổ mở tim. Ông ấy
gọi điện tới hội y tế và hỏi thăm vị bác sĩ giỏi nhất ở
New York để thực hiện ca mổ này. Họ giới thiệu một
bác sĩ giải phẫu nổi tiếng nhất, và ông già Finkelstein
đi thẳng tới văn phòng của bác sĩ và thu xếp để có
cuộc mổ. Cuộc mổ đã hoàn toàn thành công và ông
già Do Thái nhanh chóng được hồi phục.
Sau khi ông ta từ bệnh viện về nhà, ông ta nhận
được một hoá đơn từ bác sĩ quãng một nghìn rưởi đô
la. Ông ấy gọi điện cho bác sĩ và yêu cầu gặp ông ta.
Finkelstein nhìn bác sĩ và nói, "Bác sĩ ơi, tôi là
một ông già. Với tôi, trả ông một nghìn rưởi đô la có
nghĩa là tiêu gần hết tiền tiết kiệm cả đời tôi."
Bác sĩ nói, "Thôi được. Tôi thường lấy nghìn rưởi
đô la cho ca mổ này, nhưng trong hoàn cảnh này tôi
sẽ lấy bẩy trăm rưởi thôi vậy."
Finkelstein trông rất buồn. Ông ấy đáp, "Bác sĩ ơi,
bẩy trăm rưởi đô la vẫn là nhiều tiền lắm với một ông
già như tôi. Sau rốt, tôi không còn làm việc nữa, và
tôi phải mất lâu lắm mới tiết kiệm được lại ngần ấy
tiền."
Bác sĩ, hoàn toàn thất vọng, trả lời, "Thôi vậy.
Hai trăm đô la thì sao?"
Ông già Do Thái nói, "Hai trăm đô la tôi biết có
vẻ không nhiều nhặn gì cho ông, nhưng với tôi nó vẫn
là cả triệu đô la đấy."
Bác sĩ, hết sức bực mình, nhìn vào ông già và nói,
"Ông được quả này! Tôi sẽ không lấy tiền của ông vì
ca mổ này nữa. Coi như chuyện nhà. Chỉ còn một
điều tôi muốn biết: trước khi ông tới tôi ông đã biết
tôi là một trong những bác sĩ giải phẫu đắt nhất ở Mĩ.
Vậy sao ông vẫn tới?"
Finkelstein đáp, "Khi có liên quan tới sức khoẻ
của tôi, thì tiền không thành vấn đề."
Tâm trí đầy những tham lam, tâm trí thường
xuyên bị ám ảnh bởi tiền, là đã trong địa ngục. Nó đã
ở ngoài cõi trời - bởi vì cõi trời là nơi bạn đơn giản
không níu bám vào bất kì cái gì. Trạng thái không níu
bám của tâm trí là cõi trời.
Thông thường chúng ta cứ níu bám. Bạn rời khỏi
thế giới này; thế rồi bạn bắt đầu níu bám lấy cái gì đó
ở thế giới khác. Bạn vứt bỏ cuộc giành giật vì tiền, thế
rồi bạn bắt đầu cuộc đua khác về tâm linh, quyền lực
siêu linh, niết bàn. Nhưng bạn vẫn còn như cũ: vẫn
cùng tâm trí cạnh tranh đó, cùng tham vọng đi trước
tất cả mọi người khác.
Chấp nhận bản thân mình ở bất kì đâu bạn đang
hiện hữu đi... Và đừng nghĩ dưới dạng cạnh tranh!
Bạn không cần ở bất kì đâu khác. Bất kì chỗ nào bạn
đang ở, nếu bạn có thể hạnh phúc ở đó, thì bạn đã trở
nên mang tính tôn giáo, bạn đã trở nên mang tính tâm
linh. Tâm linh không biết tới cạnh tranh, tâm linh không biết tới tham lam, tâm linh không biết tới tham
vọng - bởi vì tâm linh nghĩa là vô ham muốn.
Nhưng mọi người cứ thay đổi từ phía nọ sang
phía kia, từ cực đoan này sang cực đoan khác. Đó là lí
do tại sao Phật nhấn mạnh nhiều thế vào việc ở giữa.
Bạn có thể vứt tất cả tiền bạc của mình, bạn có thể
phân phát số dư ngân hàng của mình, bạn có thể từ bỏ
thế giới này, nhưng thế rồi bạn sẽ bắt đầu tích trữ tiền
tinh vi nào đó, tiền đức hạnh tinh vi nào đó, punya.
Bạn sẽ bắt đầu thu thập: "Mình đã nhịn ăn được bao
nhiêu lần rồi và mình đã làm bao nhiêu hành vi tốt?"
Bạn sẽ giữa một bản kê để trình cho Thượng đế:
"Những điều tốt này con đã làm đấy: bây giờ phần
thưởng của con là gì?"
Nghĩ dưới dạng phần thưởng và kết quả là nghĩ
dưới dạng tham lam. Nghĩ dưới dạng vui vẻ, vui vẻ ở
đây bây giờ, với bất kì điều gì bạn đang làm, và
không bao giờ bận tâm tới kết quả của nó, là thoát
khỏi tham lam. Thế thì bạn có thể sống trong cung
điện và bạn có thể được bao quanh với đủ mọi giầu có
có thể được - và dầu vậy bạn vẫn không tham lam.
Hay bạn có thể từ bỏ thế giới và sống trong hang động
ở Himalaya, nhưng nếu bạn vẫn tham vọng, ham
muốn, thế thì bạn tham lam và bạn trần tục.
Là vô ham muốn là ở thế giới khác.
Giai thoại cuối cùng:
Harry và Tilly cùng mở hội kỉ niệm lễ cưới lần
thứ năm mươi và mời ba con trai cùng vợ họ và các
cháu tới dự tiệc mừng.
Người con cả đứng dậy và đề nghị nâng cốc chúc
mừng bố mẹ. Anh ta nói, "Thưa bố mẹ, con muốn bố
mẹ biết rằng chẳng thành vấn đề về cái gì con có thể
nghĩ tới để tặng cho bố mẹ như một món quà, con
thực sự không thể nghĩ được cái gì đủ kì diệu để tặng
bố mẹ như bố mẹ."
Người con thứ đứng dậy và nói, "Thưa bố mẹ,
con hi vọng bố mẹ hiểu được tại sao con lại không
mang quà tới lễ kỉ niệm nhân cơ hội này. Nhưng con
chắc bố mẹ hiểu rằng chúng con đang ở lưng chừng
việc mua đồ đạc mới cho gia đình vào mùa hè và
chúng con chỉ phải mỗi tội không còn thời gian."
Người con thứ ba, mỉm cười, nói, "Thưa bố mẹ,
con chắc bố mẹ biết con yêu bố mẹ làm sao. Đem quà
cho bố mẹ sẽ không biểu lộ được cho bố mẹ sự chân
thành con đang có trong xúc động của mình."
Thế rồi người bố đứng dậy quay về phía những
người con, và nói, "Các con yêu mến của bố, bây giờ
mẹ và bố đã kỉ niệm năm mươi năm sống chung nhau,
bố cảm thấy bây giờ là lúc phải nói cho các con vài
điều. Các con biết đấy, khi mẹ và bố gặp nhau bố
nghèo mẹ cũng nghèo, bố không có việc làm, chúng
ta thậm chí không biết bữa tiếp tới từ đâu. Các con có
tin được điều đó không? Chúng ta thậm chí đã không
có đủ tiền để mua giấy giá thú."
Người con cả đứng dậy, và hỏi, "Bố định bảo
chúng con rằng chúng con là con hoang sao?"
Người bố mỉm cười và trả lời, "Đúng đấy, và rẻ
nữa!" 

Trong thế giới thông thường tất cả các mối quan
hệ của chúng ta đều là mối quan hệ tiền bạc. Tất cả
các mối quan hệ đều là mối quan hệ tiền bạc: mối
quan hệ quyền lực nào đó, mối quan hệ tiền bạc nào
đó, chi phối, bản ngã. Nhưng nếu tất cả các mối quan
hệ của bạn chỉ là các mối quan hệ tiền bạc, mối quan
hệ tham lam, thế thì bạn không biết cách quan hệ. Và
nếu bạn không biết cách quan hệ thì bạn không bao
giờ được đáp ứng. Bởi vì chính trong mối quan hệ sâu
sắc mà đáp ứng mới nảy sinh.
Có một câu ngạn ngữ rất cổ đại ở Tây Tạng: Bất
kì khi nào Thượng đế cho bạn cái gì đó, ngài không
bao giờ cho bạn, ngài cho qua bạn.
Tôi đã suy tư về câu ngạn ngữ đó khá lâu: nó thực
sự có ý nghĩa vô cùng. Khi Thượng đế cho bạn cái gì
đó, ngài không bao giờ cho bạn đâu, ngài cho qua
bạn. Ngài cho bạn, nhưng cách thức của ngài là cho
qua bạn.
Cho nên nếu bạn không chia sẻ, bạn sẽ bắt đầu bỏ
lỡ các món quà từ Thượng đế. Nếu bạn chia sẻ, nếu
bạn không tham lam, nếu bạn đơn giản cứ chia sẻ bất
kì cái gì bạn có - giống như đoá hoa chia sẻ hương
thơm của nó, bạn cứ chia sẻ; giống như đám mây chia
sẻ nước mưa cho đất, bạn cứ chia sẻ; giống như mặt
trời chia sẻ các tia sáng của nó với mọi cây cối, và tất
cả mọi người, và tất cả con vật, bạn cứ chia sẻ bất kì
cái gì xảy ra cho bạn - bạn trưởng thành, nhiều thứ bắt
đầu tới từ bạn.
Bạn càng cho nhiều, bạn càng nhận nhiều - bởi vì
Thượng đế cho qua bạn, ngài không bao giờ cho bạn
cả. Bạn đơn giản vận hành như lối chuyển. Nếu bạn
dừng việc cho, lối chuyển của bạn co lại và khép lại.
Khi lối chuyển của bạn bị khép lại thì không cái gì có
thể vào trong bạn được.
Điều đó cũng gần giống như khi bạn đào giếng:
nếu bạn cứ đào nước sẽ chảy ra từ nó, nước trong sạch
cứ trào lên từ nó. Cái giếng được cung cấp từ nhiều
nguồn nước sâu trong đất, nước sạch cứ tới. Nếu bạn
dừng đào nước, trở nên tham lam, bắt đầu nghĩ dưới
dạng của keo kiệt: "Nếu mình cứ lấy nước đi, một
ngày nào đó nước có thể biến mất và có thể không có
nước trong giếng. Thế thì mình sẽ làm gì?" Thế là bạn
đậy cái giếng lại, bạn dừng việc lấy nước từ nó. Ngay
cả khi bạn cần nước cho bản thân mình, bạn đi ra
sông, hay bạn đi tới chỗ công cộng và bạn lấy nước từ
đó. Và bạn giữ cho giếng được đóng kín hoàn toàn.
Điều gì sẽ xảy ra cho giếng của bạn? Bạn có biết
không? Bây giờ không nước sạch nào tới nó nữa - bởi
vì để nước sạch tới, cần có không gian. Cái cũ choán
đầy không gian rồi, cái mới không thể tới được. Và
cái cũ sẽ dần trở nên tù đọng, chết, và sẽ bắt đầu bốc
mùi. Thế thì bạn sẽ không thể nào uống được nó. Nó
có thể trở thành độc.
Nước tanh bao giờ cũng trở thành độc. Tốt hơn
cả, nếu bạn khôn ngoan, bạn sẽ không chỉ lấy nước
lên cho mình, bạn sẽ mời hàng xóm tới múc nước từ
giếng của bạn. Và bạn sẽ cảm thấy biết ơn rằng họ đã
lấy nước từ giếng của bạn bởi vì nước sạch sẽ tới
ngày một nhiều hơn. Bạn càng múc nước ra, càng
nhiều nước sạch lại có sẵn.
Và cùng điều đó cũng đúng với thế giới bên trong
nhất của bạn: bạn là cái giếng, và đài phun nước của bạn được nối với điều thiêng liêng, với trung tâm của
sự tồn tại.
Chia sẻ... và nhiều thứ sẽ tới với bạn. Nếu bạn có
thể chia sẽ một cách toàn bộ, không giữ lại cái gì, thì
cái toàn bộ sẽ tới với bạn. Việc tới từ Thượng đế sẽ
đích xác theo cùng tỉ lệ như bạn đã cho người khác.
Sannyasin là người đã vứt bỏ ham muốn và đã bắt
đầu chia sẻ. Sannyasin không thể là người Do Thái
được; và nếu người Do Thái là một sannyasin thế thì
anh ta sẽ phải chọn hoặc vẫn còn là người Do Thái
hoặc trở thành sannyasin. Bạn không thể trở thành cả
hai được, bạn không thể đồng thời là cả hai được.
Người Do Thái phải biến mất để sannyasin hiện
hữu.
Câu hỏi thứ nhất:
Sao tôi hỏi nhiều câu hỏi ngu xuẩn thế?

Bởi vì không có câu hỏi khôn ngoan, và không
thể có được. Câu hỏi khôn ngoan không tồn tại. Việc
hỏi như thế cũng là ngu xuẩn. Tôi không kết án nó, tôi
không nói đừng hỏi. Nhưng nhớ lấy, tâm trí hỏi là tâm
trí lẫn lộn, và từ lẫn lộn mới phát sinh ra câu hỏi; bất
kì câu trả lời nào được trao cho nó cũng sẽ đi vào tâm
trí lẫn lộn này lần nữa. Câu trả lời đó sẽ bị bóp méo.
Tâm trí lẫn lộn sẽ bắt đầu chơi đùa trên nó và sẽ tạo ra
nhiều câu hỏi hơn từ nó. Nó là xoắn ốc luẩn quẩn.
Không câu trả lời nào sẽ có ích chừng nào bạn
còn chưa hiểu rằng việc hỏi đó trong bản thân nó là
vô tích sự, chừng nào mà hiểu biết còn chưa phát triển
sâu rằng việc hỏi đó là vô nghĩa. Không có ai trả lời
câu hỏi của bạn. Sự tồn tại có đó mà không lời giải
thích nào - và nó tuyệt đối im lặng. Bạn cứ hỏi, nó
không đáp lại. Dần dần bạn sẽ hiểu rằng các câu hỏi là
vô nghĩa - thế thì chúng biến mất.
Cái ngày các câu hỏi biến mất là một ngày vĩ đại.
Vào chính ngày đó câu trả lời trở thành có sẵn. Câu
trả lời không bao giờ tới qua việc hỏi, nó tới khi việc
hỏi đã biến mất. Thực tế, nói nó tới là không đúng:
khi việc hỏi đã biến mất bạn bỗng nhiên thấy rằng bạn
là câu trả lời, chính bản thể bạn là câu trả lời. Đó là
điều bạn đã từng tìm kiếm mãi.
Tất cả các câu hỏi đều ngu xuẩn; chúng phải như
thế thôi. Và tất cả mọi câu trả lời đều là dối trá; chúng
phải như thế thôi - bởi vì bạn không thể trả lời câu hỏi
ngu xuẩn bằng chân lí được. Sẽ không có gặp gỡ giữa
chúng. Bạn hỏi một câu hỏi, thầy cứ trả lời nó - trong
niềm hi vọng rằng dần dần việc hỏi của bạn sẽ biến
mất. Đó là khác biệt giữa thầy và thầy giáo.
Thầy giáo tin rằng mình có thể trả lời câu hỏi của
bạn. Ông ấy cũng là người ngu, như bạn vậy. Thầy thì
biết không có câu trả lời, nhưng thầy cứ trả lời bạn
trong hi vọng rằng dần dần bạn sẽ bắt đầu nhìn sâu
hơn. Việc hiểu của bạn sẽ trưởng thành, và một ngày
nào đó bỗng nhiên câu hỏi của bạn sẽ biến mất. Bạn
sẽ nhìn vào bên trong và bạn sẽ không thấy câu hỏi
nào cả. Chính khoảnh khắc đó bạn trở thành câu trả
lời... bạn là câu trả lời.
Trong lúc đó, tiếp tục hỏi đi. Nó là quá trình làm
nhẹ gánh: chỉ bằng việc hỏi bạn sẽ đi tới thấy rằng các câu hỏi đều vô tích sự. Và người ta phải nói bất kì cái
gì đang đó.
Tôi đã nghe...
Một người đàn ông chạy xô vào nhà thờ, nhà thờ
Cơ đốc giáo, đi vào phòng thú tội và nói, "Thưa cha,
con đã làm tình với một người đàn bà từ sáng cho tới
giờ, hai mươi nhăm lần!"
Ngay cả Cha cũng ngạc nhiên: ông ta đã nghe
nhiều việc thú tội, cả đời ông ấy chỉ toàn nghe thú tội,
nhưng đây là cái gì đó mới - hai mươi nhăm lần từ
sáng sao?
Ông ấy hỏi, "Con có vợ chưa?"
Người này nói, "Dạ có ạ, thưa Cha, với cùng
người đàn bà đó." Thế là Cha thấy nhẹ cả người và
ông ấy nói, "Không có vấn đề gì; đó là vợ con, con có
thể làm tình."
Anh ta nói, "Con biết. Và hơn nữa, con không
phải là người Ki tô giáo, cũng chẳng là người Cơ đốc
giáo: con là người Do Thái. Nhưng con phải nói cho
ai đó!"
Nếu cái gì đó đang làm nặng gánh bạn, đang trĩu
nặng bạn, thì bạn phải kể cho ai đó. Bạn có thể hỏi
tôi; cứ để cho chúng là ngu xuẩn.
Cho nên khi tôi nói rằng tất cả mọi câu hỏi đều
ngu xuẩn, tôi không nói dừng hỏi. Bằng không, anh
bạn già Paritosh sẽ gặp rắc rối - anh ấy phải đem tới
câu hỏi chứ. Bạn cứ tiếp tục hỏi đi...
Và bởi việc không hỏi bạn sẽ không thể hiểu được
rằng câu hỏi là ngu xuẩn, nhưng bằng việc hỏi, và
bằng việc trả lời thường xuyên của tôi vậy mà chẳng
trả lời chúng. Đây là toàn thể quá trình nhận biết. Bạn
hỏi câu hỏi; khi bạn hỏi một câu hỏi, bạn nghĩ nó là
rất nghiêm chỉnh, bạn hỏi câu hỏi và bạn nghĩ nó rất
sâu sắc, và thế rồi tôi trả lời nó và tôi trả lời nó với
chuyện đùa. Toàn thể tính sâu sắc, cái nghiêm chỉnh
đi đâu mất; bạn bắt đầu cười. Một khả năng lớn có đó
rằng bạn bắt đầu cười vào câu hỏi của mình, vào cái
lố bịch của nó.
Cuộc sống có đó để mà được sống. Cuộc sống
không có dấu hỏi; nó là bí ẩn, không có giải thích. Và
điều tốt là chẳng có gì: sẽ là bất hạnh lớn nếu như có
lời giải thích. Nếu như có câu trả lời mà có thể thoả
mãn được bạn, thử nghĩ mọi sự sẽ trở thành phẳng tẹt
làm sao, chán mớ làm sao, đơn điệu làm sao - bởi vì
không câu trả lời nào có thể trả lời cho câu hỏi của
bạn được. Cuộc sống vẫn còn là cuộc phiêu lưu, nó
vẫn còn là việc tìm kiếm thường xuyên.
Tìm kiếm, một ngày nào đó bạn đi tới một điểm
mà bạn hiểu rằng bạn đang làm phí hoài năng lượng
của mình vào việc tìm kiếm. Cùng năng lượng đó có
thể đưa vào lễ hội. Bạn có thể tận hưởng.
Đây là hai cách tiếp cận tới cuộc sống: cách tiếp
cận của người hỏi, người tìm kiếm, nhà tư tưởng, triết
gia; và cách tiếp cận của người tôn giáo, nhà huyền
môn, nhà thơ, hoạ sĩ, con người của trái tim. Khi nhà
tư tưởng đi ra vườn ông ấy bắt đầu hỏi các câu hỏi: 

"Sao cây lại xanh? Sao hoa hồng lại đỏ?" Khi nhà thơ
đi vào ông ta bắt đầu cất lên bài ca về hoa hồng đỏ và
cây xanh. Khi hoạ sĩ tới, ông ta vẽ. Khi nhà huyền
môn tới, ông ấy đơn giản đứng đó trong kính nể vô
cùng. Hơi thở ông ấy dừng lại, thời gian dừng lại; nó
cực lạc thế. Câu hỏi không nảy sinh chút nào.
Triết gia cứ hỏi. Nghệ sĩ cứ vẽ, tạo ra cùng cái
đẹp lặp đi lặp lại. Nhà huyền môn chẳng làm gì: ông
ấy không hỏi cũng không tạo ra đoá hoa. Ông ấy đơn
giản ở đó, đứng sâu trong thiền, tận hưởng. Nhà
huyền môn biết cách thức của vui vẻ.
Học cách thức của vui vẻ, học cách thức của điệu
vũ, ít nhất học cách thức của thơ ca đi; và tháo dỡ
cách thức của nhà tư tưởng, tháo dỡ cách thức tạo ra
câu hỏi trong bạn.
Nhưng điều đó sẽ xảy ra dần dần thôi. Bạn sẽ phải
hỏi nhiều câu hỏi.
Một người tù ngồi trong xà lim của mình chờ đợi
phiên toà xử giết người. Viên luật sự trong bộ cánh
diện bước vào.
Luật sư nói, "Tôi là người rất tốt. Anh chẳng có gì
phải lo nghĩ cả. Tôi sẽ chứng minh rằng anh hoàn
toàn điên khùng, hay đã ở châu Âu vào thời gian của
vụ giết người. Cũng thế, nhân chứng đã được trả tiền
và ông cậu tôi là chánh án cho vụ xử của anh. Trong
lúc đó, thử trốn đi."
Không có câu trả lời cho bất kì câu hỏi nào.
Không có ai để trả lời chúng, chúng chưa bao giờ
được trả lời cả, chúng không thể được trả lời - bởi
chính bản chất của mọi sự. Trong lúc đó, hỏi đi. Bởi
vì nếu bạn không hỏi thì bạn sẽ không đi khỏi trạng
thái bạn đang ở, và người ta phải đi chứ.
Đó là một trong những bí mật lớn lao nhất của
cuộc sống, rằng cuộc sống là chuyển động. Và nếu
bạn bị mắc kẹt ở đâu đó thì bạn mất tiếp xúc với cuộc
sống. Thế thì bạn bị che mờ và vẩn đục; thế thì bạn bị
lạc, và bạn không biết bạn là ai, và bạn đang đi đâu,
và cái gì đang xảy ra. Bạn bỏ lỡ tất cả mọi manh mối.
Đi đi. Dù bạn ở bất kì đâu, một điều cần phải
được ghi nhớ: đừng bị mắc kẹt. Nếu việc hỏi của bạn
giúp cho bạn đi, tốt. Một chút ít di chuyển khỏi bất kì
chỗ nào bạn đang ở cũng đều là tốt; từ chỗ đó bạn
phải tìm ra chỗ khác - bởi vì bạn đang trong tiếp xúc
với cuộc sống chỉ khi bạn năng động, di chuyển. Cuộc
sống là một luồng, cuộc sống là luồng chảy. Bất kì khi
nào bạn tù đọng, bạn đều mất tiếp xúc.
Trong tiếng Anh có một từ hay: 'affluence' sung
mãn. Nó đã mất nghĩa nguyên thuỷ của nó. Nó chẳng
có liên quan gì tới giàu có cả, nó chẳng có liên quan
gì tới xa hoa, vật dụng công nghệ, lâu đài lớn và xe
hơi lớn và số dư ngân hàng lớn - nó chẳng có liên
quan gì tới những điều này. Bạn có thể là triệu phú và
bạn có thể không sung mãn.
'Affluence-sung mãn' nghĩa là: người đang trong
luồng chảy, người đang tuôn chảy. Trong luồng chảy
là sung mãn. Nghĩa nguyên thuỷ của từ này là: trong
luồng chảy, chuyển động, tuôn chảy, không mắc kẹt. 

Nếu bạn đang tuôn chảy, di chuyển cùng cuộc sống,
thì bạn giầu có - và đó là giầu có duy nhất có đó. Tất
cả mọi giầu có khác đều là thứ thay thế giả tạo.
Cho nên nếu câu hỏi của bạn giúp cho bạn chuyển
động - tôi không nói rằng chúng sẽ giúp cho bạn tìm
ra câu trả lời, bởi vì không có - nhưng nếu việc hỏi
của bạn giúp cho bạn di chuyển dù chỉ một bước thêm
nữa, thì tốt. Đó là lúc bạn nên di chuyển.
Branihan đang lái xe dọc theo con đường. Bởi
cách chiếc xe luồn lách đánh võng qua luồng xe đi,
bạn có thể nói rằng Branihan đã bị say với các cô gái.
"Anh cho rằng anh đang đi đâu đấy?" viên cảnh
sát đi mô tô hỏi, sau khi đã dừng anh ta lại được.
"Tôi về nhà - hic - từ bữa tiệc mừng đêm năm
mới."
"Anh có trẻ con không đấy?" viên cảnh sát hỏi.
"Năm mới đã qua ba tuần rồi!"
"Tôi biết," Branihan nói. "Đó là lí do tại sao tôi
lại hình dung ra đường về nhà khá hơn."
Bạn đã từng ở xa khỏi nhà mình đủ lâu rồi. Bạn
nên trở về nhà bây giờ thôi.
Bất kì cái gì chuyển động cũng đều tốt. Câu hỏi,
nếu thực sự, đều giúp cho bạn chuyển động. Lần nữa,
để tôi nhắc lại: nó sẽ không giúp cho bạn tìm ra câu
trả lời đâu, bởi vì không có câu trả lời. Nhưng câu hỏi
đích thực nảy sinh từ bản thể bạn là có nghĩa cho bạn
- nó có thể ngu xuẩn với tôi nhưng lại có liên quan tới
bạn; nó có thể không liên quan tới hiểu biết tối thượng
về mọi thứ, nhưng nếu nó có liên quan tới bạn thì cứ
để cho nó ngu xuẩn đi, cứ để cho nó ngớ ngẩn đi - bạn
hỏi nó. Và câu trả lời của tôi sẽ cho bạn cú huých.
Bạn sẽ chuyển động.
Giữ chuyển động. Một điều cần phải được ghi
nhớ: giữ chuyển động. Thế thì bạn sẽ sống động. Đó
là lí do tại sao câu hỏi lại quan trọng hơn đức tin. Tôi
nói tất cả mọi câu hỏi đều ngu xuẩn, nhưng chúng
không là gì nếu so với đức tin. Đức tin là tuyệt đối
xuẩn ngốc. Câu hỏi chỉ là ngu thôi. Là người ngu thì
vẫn có thể vui đùa, nhưng là người xuẩn ngốc thì xấu,
là kẻ ngu si là ốm yếu.
Đức tin là ngu si. Ai đó nói, “Tôi là người
Hindu," ai đó nói, "Tôi là người Ki tô giáo," ai đó nói,
"Tôi là người Jaina," ai đó nói, “Tôi là Phật tử" - đây
là những kẻ ngốc, bởi vì đức tin nghĩa là họ đã đi tới
câu trả lời. Người hỏi thì ít nhất cũng còn chuyển
động; người đó chưa đi tới câu trả lời. Người đó nghĩ
mình có thể đi tới bằng việc hỏi; đó là lí do tại sao
người đó lại ngu. Nhưng dầu vậy, người đó còn chưa
đi tới câu trả lời. Con người của đức tin, người nói
"Tôi là người Ki tô giáo" đã đi tới. Người đó nghĩ
người đó đã tìm thấy câu trả lời. Bây giờ, người đó
tuyệt đối là kẻ ngốc. Người đó bị mắc kẹt, tuôn chảy
của người đó đã mất hoàn toàn. Đó là lí do tại sao bạn
không bao giờ thấy cái gọi là người tôn giáo vui vẻ.
Bạn sẽ không bao giờ thấy họ tuôn chảy với cuộc
sống, nở hoa.

Từ 'flower-hoa' nữa cũng phải bắt nguồn từ tuôn
chảy - flow. Tôi không biết đích xác liệu nó có bắt
nguồn từ 'flow' hay không, nhưng nó phải bắt nguồn
từ đó. Về mặt nhận thức, về mặt ngôn ngữ, nó có thể
không bắt nguồn từ đó - tôi không bận tâm, tôi không
quan tâm chút ít nào. Nhưng nó phải bắt nguồn chứ.
Flower - flow. Và nhìn vào đoá hoa; đó chính là flow
- tuôn chảy là gì đấy. Toàn thể cây đã đi tới đỉnh của
sự nở hoa của nó. Từ rễ cho tới hoa có luồng chảy liên
tục của cuộc sống, sinh lực, nhựa sống. Và trong hoa
cây đã nở ra; việc tuôn chảy đó đã tới từ việc hát bài
ca. Có điệu vũ, cây đã nở hoa.
Khi tất cả các câu hỏi của bạn biến mất - không
cho bạn đức tin nào; tất cả mọi đức tin đều mất, tất cả
mọi câu hỏi đều mất - thế thì tất cả mọi ngu xuẩn, tất
cả mọi ngu đần sẽ mất đi. Thế thì có việc nở hoa, việc
bừng nở hoa, và việc nở hoa đó là câu trả lời. Điều đó
trả lời cho tất cả các câu hỏi. Bỗng nhiên bạn ở trong
cái biết. Không có tri thức, nhưng bạn ở trong cái biết.
Bỗng nhiên bạn ở nhà. Thế thì bạn không tranh đấu
với cuộc sống và không truy tìm nó là cái gì. Bây giờ
bạn biết, từ cốt lõi sâu sắc nhất của bản thể, nó là gì.
Bạn đã trở thành nó, bạn đã cho phép nó tuôn chảy
qua bạn. Bây giờ bạn không còn tách rời khỏi nó.
Từ tiếng Anh 'religion - tôn giáo' là hay: nó ngụ ý
ở cùng, lấy nhau, được gắn cùng nhau, được trong
thống nhất. Nó ngụ ý đích xác điều từ tiếng Phạn
'yoga' ngụ ý - là một. Khi luồng chảy nhỏ của bạn là
một với với luồng chảy của cái toàn thể, bạn mang
tính tôn giáo. Khi dòng sông nhỏ của bạn đổ vào con
sông Hằng vĩ đại, và bạn bắt đầu tuôn chảy với sông
Hằng và bạn mất đi biên giới của mình, bạn mang tính
tôn giáo.
'Tôn giáo' là từ hay như 'yoga'. Nó ngụ ý: bạn bây
giờ đã đi tới cuộc hôn nhân tối thượng với cái toàn
thể. Ngay bây giờ khi bạn bị mắc kẹt bạn đang trong
trạng thái li dị, ít nhất cũng tách rời. Bạn đang đi như
dòng suối nhỏ - thậm chí không chuyển động; bạn đã
trở thành cái vũng: tù đọng, chết, bốc mùi. Thoát ra
khỏi điều đó đi.
Nếu câu hỏi của bạn giúp bạn di chuyển, thì hỏi.
Hỏi còn tốt hơn là tin, bởi vì người tin đã dừng việc
hỏi các câu hỏi. Chuyển động của người đó đã dừng.
Bạn ngụ ý gì khi bạn nói "Tôi là người Ki tô
giáo", hay "Tôi là người Hindu", hay "Tôi là người
Mô ha mét giáo"? Bạn ngụ ý gì? - bạn ngụ ý, "Bây
giờ không có việc hỏi trong tôi. Tôi phát mệt về việc
hỏi rồi; tôi đã bắt đầu tin." Thế thì toàn thể cuộc sống
của bạn đã co lại. Thế thì bạn không còn mở rộng
nữa, thế thì bạn không còn thám hiểm, thế thì bạn
không còn truy tìm.
Là người Mô ha mét giáo, là người Hindu, là
người Ki tô giáo, còn tồi tệ hơn là người hỏi và người
bất khả tri. Tốt hơn cứ là người bất khả tri và cứ hỏi -
bởi vì nếu bạn cứ hỏi, và nếu bạn đủ dũng cảm để cứ
hỏi tới tận cùng, một ngày nào đó nó tới: bạn vẫn còn
và câu hỏi biến mất. Không phải là đức tin được trao
cho bạn đâu; câu hỏi này đơn giản biến mất và tin cậy
nảy sinh, tin cậy vào cuộc sống. Không tin cậy vào
Kinh Thánh, không tin cậy vào Veda, không tin cậy
vào Koran - mà tin cậy vào cuộc sống nơi tất cả Veda và tất cả Koran, và tất cả Kinh Thánh đều tới và biến
mất. Tin cậy đó là câu trả lời.
Trở thành luồng chảy đi. Và cứ dùng bất kì cái gì
có ích. Cứ hỏi. Tôi sẽ không cho bạn câu trả lời nào
đâu. Tôi không phải là thầy giáo. Đó là lí do tại sao
nhiều lần bạn cảm thấy chút ít lo nghĩ. Bạn bắt đầu
nghĩ, "Sao thầy cứ né tránh?" Nếu bạn quan sát, tôi
không bao giờ trả lời thẳng câu hỏi của bạn đâu, tôi
trả lời cái gì đó khác. Tôi đẩy bạn đi tiếp. Tôi trả lời
bạn theo cách mà bạn có thể hỏi nhiều câu hỏi nữa.
Việc đẩy năng lượng của bạn hướng tới điều tối
thượng sẽ đem tới đỉnh cao nơi tâm trí hỏi bùng nổ.
Và khi câu hỏi không có, bỗng nhiên bản thân tâm trí
đã biến mất. Trong trạng thái của vô trí đó bạn ở nhà.
Bạn đã tới nhà.
Câu hỏi thứ hai
Đôi khi tôi nghĩ thầy sống trong thế giới mơ.
Theo quan điểm của bạn thì có thể nói thế - bởi vì
bất kì điều gì bạn nghĩ cũng đều là thực còn tôi nghĩ
là không thực. Cho nên một cách tự nhiên, bất kì điều
gì tôi nghĩ là thực đều có vẻ không thực với bạn.
Nhưng có một ưu thế mà trong đó tôi có mà bạn
không có; và ưu thế đó là: tôi đã sống trong thực tại
của bạn, trong cái gọi là thực tại của bạn. Tôi biết cả
hai; bạn chỉ biết một thực tại.
Tôi đã ở chỗ bạn đang ở, cho nên tôi biết thực tại
của bạn, và tôi biết thực tại của tôi bây giờ. Tôi ở tình
huống tốt hơn để đánh giá ai là thực và ai là không
thực. Bạn chỉ biết trạng thái của bạn, bạn không biết
trạng thái của tôi. Cho nên đợi thêm chút nữa thay vì
đánh giá nó. Đi tới trạng thái của tôi đã; thế thì bạn có
tự do toàn bộ để đánh giá.
Nhưng bất kì ai đã đi tới trạng thái này đều không
bao giờ nói rằng thế giới của bạn là thực. Thế giới của
bạn là ảo vọng - maya: không thực, ảo tưởng. Để đánh
giá bạn cần biết cả hai; chỉ thế thì bạn mới có thể so
sánh được. Bạn không thể so sánh bằng việc biết chỉ
một thế giới - làm sao bạn sẽ so sánh được?
Trong đêm khi bạn rơi vào giấc ngủ bạn bắt đầu
mơ. Trong mơ, mơ có vẻ như thật - bởi vì trong mơ
bạn mất mọi tiếp xúc với thế giới, với thế giới mà bạn
đã biết khi bạn thức. Bây giờ không có so sánh; bạn
không thể so sánh được. Chẳng hạn: nếu bạn thấy hòn
đá, tảng đá, trong giấc mơ của mình, bạn không thể so
sánh với tảng đá thực mà bạn đã thấy khi bạn còn
thức bởi vì cả hai tảng đá chẳng bao giờ ở cùng nhau.
Cho nên tất nhiên tảng đá mơ cũng có vẻ thực. Làm
sao đánh giá nó là không thực được? bởi vì chẳng có
gì ngoại trừ nó để mà đánh giá. Không có tiêu chuẩn.
Khi bạn thức vào buổi sáng thế thì bạn nhận ra rằng
nó là không thực. Nhưng lần nữa đánh giá của bạn lại
không đúng bởi vì tảng đá mơ lại thiếu. Bây giờ bạn
có tảng đá thực, cái gọi là tảng đá thực, và tảng đá mơ
lại thiếu. Lần nữa đánh giá của bạn lại không đúng:
chỉ một tảng đá có đấy và tảng đá kia bị thiếu. Làm
sao bạn có thể đánh giá được chừng nào bạn còn chưa
có đồng thời cả hai, ở ngay trước bạn? 

Có việc thức tỉnh khác. Đó là điều chúng ta gọi là
phật tính: việc thức tỉnh tối thượng - khi bạn không
chỉ thức tỉnh khỏi giấc mơ của mình, mà bạn còn thức
tỉnh khỏi cái gọi là trạng thái thức nữa. Thế thì chúng
cả hai đều có sẵn, và thế thì bạn có thể thấy rằng cả
hai đều là mơ.
Vài giấc mơ được thấy bằng mắt nhắm, vài giấc
mơ được thấy bằng mắt mở, nhưng cả hai đều là giấc
mơ. Và khi bạn đã thức tỉnh và việc ngủ không còn lại
trong bạn, khi không phần nào của bản thể bạn là vô ý
thức, bạn tuyệt đối ý thức và toàn thể bản thể bạn đầy
ánh sáng, chói sáng, chỉ thế thì bạn mới biết thực tại
là gì. Ngay bây giờ bạn đang ngủ; mọi điều bạn biết
đều là mơ.
Nhưng tôi có thể hiểu câu hỏi này. Từ nơi bạn
đang hiện hữu thì nó sẽ gần như là tôi đang mơ. Tôi
nói về tình yêu; bạn cũng biết tình yêu. Nhưng nghe
tôi bạn trở nên nhận biết rằng tôi đang nói về cái gì đó
khác mà không thể có. Làm sao tình yêu có thể không
có tính sở hữu được? Làm sao tình yêu có thể là việc
chia sẻ thuần khiết được, mà không có cái ta nào,
không có động cơ nào? Làm sao tình yêu có thể vô
điều kiện được? Bạn nghe tôi, bạn nghe lời của tôi,
nhưng bạn không thể cảm thấy thực tại của những lời
đó - bởi vì bạn biết tình yêu có điều kiện; bạn biết tình
yêu bao giờ cũng có động cơ; bạn biết tình yêu bao
giờ cũng dựa trên ích kỉ, ham muốn; bạn biết tình yêu
là thủ đoạn để chi phối và sở hữu; bạn biết tình yêu
thực sự bạo hành, hung hăng.
Cho nên khi bạn so sánh tình yêu của bạn với tình
yêu của tôi, tình yêu của bạn có vẻ thực với bạn, và
tình yêu của tôi có vẻ không tưởng, như tưởng tượng.
Đó là lí do tại sao thế giới chưa bao giờ tin cậy vào
chư phật - bởi vì họ nói về điều gì đó chẳng liên quan
gì tới kinh nghiệm của bạn. Nó ở bên ngoài thế, nó
siêu việt thế, nó ở xa tới mức bạn không thể nào hiểu
được nó. Nó là không thể nào hiểu nổi. Bạn không thể
nào hình dung ra được nó là gì. Trong thất vọng cùng
cực bạn níu bám lấy thực tại của bạn và bạn nói,
"Thôi quên hết về điều đó đi - những người này hoặc
là các nhà huyền môn hoặc là người điên; nhà thơ của
cái không biết, những tay mơ, gàn gàn, lập dị. Thôi
quên hết họ đi!"
Bạn cũng không thể nào quên được; đấy mới là
vấn đề - bởi vì bất kì khi nào bạn tới gần vị phật thì
ông ấy động vào cái gì đó sâu trong tim bạn. Tâm trí
bạn có thể cứ nói rằng người đó là tay mơ, nhưng ở
đâu đó trái tim bạn lại bắt đầu cảm thấy điều người đó
đang nói. Hương thơm của nó tiến tới, đạt tới trái tim.
Điều người đó đang hát được nghe thấy ở đâu đó, ở
mức độ nào đó của bản thể bạn. Có thể nó không rất ý
thức, có thể nó chỉ giống như dò dẫm trong bóng tối,
nhưng bạn đã nghe thấy. Và khi bạn quan sát vị phật,
và nếu bạn đủ may mắn ở gần ông ấy, nếu bạn đủ ân
huệ để trở thành đệ tử, để trở thành người được điểm
đạo, thế thì dần dần thực tại của ông ấy sẽ trở nên
thực hơn thực tại riêng của bạn. Đó là nghĩa của
buông xuôi.
Nhiều lần bạn hỏi tôi, "Nghĩa của buông xuôi là
gì?" Từ này to lớn thế; có nhiều nghĩa. Đây là một
trong những nghĩa sâu sắc nhất: khi bạn đi tới một
người và bạn cảm thấy rằng người đó đã vượt ra
ngoài.... Tất nhiên, bạn có thể chỉ cảm thấy thôi; bạn không có khả năng quan niệm nào, không có bất kì hệ
thống tâm trí nào để hiểu nó. Bạn có thể chỉ cảm thấy
thôi. Trời rất, rất tối, nhưng bạn có thể cảm thấy rằng
nó rất sống động nữa. Bạn có thể cảm thấy rằng cái gì
đó đã xảy ra. Tâm trí bạn muốn phủ nhận nó, bản ngã
bạn muốn phủ nhận nó, nhưng trái tim bạn bắt đầu
cảm thấy bị thôi miên - cứ dường như một từ lực lớn
đang kéo bạn hướng tới trung tâm không biết nào đó.
Buông xuôi nghĩa là: rơi vào tình yêu với ai đó,
người gần như không thực với bạn, và vậy mà lại có
sự hấp dẫn. Bạn buông xuôi thực tại của mình; bạn
nói, "Thôi được rồi, thực tại của mình là giấc mơ và
thực tại của thầy là thực. Bây giờ tôi sẵn sàng: xin đưa
tôi tới thực tại của thầy."
Thực tại của bạn thực sự là gì? Thực sự, thực tại
của bạn là gì? Nó là gì ngoại trừ khổ? Nó là gì ngoại
trừ vài thoáng nhìn nhỏ nhoi về hạnh phúc, rất phù
du? Bạn không thể bắt giữ được và chúng bị mất đi,
và lại có khổ. Thực tại của bạn là gì ngoại trừ kinh
nghiệm trong địa ngục?
Tôi đã đọc:
Một người tới địa ngục và được quỉ dẫn đi thăm
một tua.
"Ông có thể chọn ở vĩnh viễn trong một trong ba
phòng này," quỉ nói.
Trong phòng thứ nhất mọi người đều đứng nước
nóng ngập tới cổ. Nước sôi sùng sục và bay hơi.
Người này rùng mình và đóng cửa lại.
Trong phòng tiếp mọi người đứng ngập trong
nước lạnh và băng đá tới tận cổ, và họ đang run lập
cập. Điều này không hấp dẫn người này.
Với nụ cười, quỉ mở căn phòng cuối cùng. Người
này ngạc nhiên và thấy nhẹ nhõm, vì mọi người đều
bước đi vòng quanh trong một đống phân bò dầy 30
cm, uống cà phê và buôn chuyện vui vẻ.
Người này nói, "Phòng này dành cho tôi," và bắt
đầu hoà nhập vào.
Vài phút sau một trong các quỉ trợ tá tới và gọi,
"Nghỉ giải lao kết thúc. Trở về đầu các ông!"
Cho nên mọi hạnh phúc bạn biết chỉ là việc nghỉ
giải lao, và lần nữa lại về với đầu bạn!
Chỉ là những quyến rũ tạm thời...
Hàng tháng và hàng năm khổ, và thế rồi tới một
khoảnh khắc nhỏ. Và bạn lại ham muốn khoảnh khắc
đó, và bạn lại sẵn sàng chịu đựng nữa. Và cho dù
những khoảnh khắc đó chẳng có gì nhiều nhặn trong
nó. Nếu bạn nhìn vào trong nó bạn sẽ thấy nó hổng
hoác bên trong. Điều bạn gọi là vui thích đó có gì bản
chất trong nó không? Hay đấy chỉ là hi vọng để cho
bạn có thể bằng cách nào đó mang theo trong địa ngục
này? Không có hi vọng điều đó sẽ quá khó. Nếu như
không có hi vọng nào, làm sao bạn sống được? Ngay
cả một ngày cũng khó; ngay cả để dậy ra khỏi giường
vào buổi sáng cũng khó. Để làm gì? Câu hỏi sẽ nảy
sinh, "Tại sao? Tại sao lại dậy nữa, và tại sao lại đi tới
văn phòng nữa, và đi cùng con đường cũ rích thường lệ ấy, và lại cùng ông chủ ấy, cùng bà vợ ấy, cùng lũ
trẻ con ấy? Để làm gì? Thế là đủ rồi!" Bạn sẽ đơn
giản thảnh thơi và chết trong giường mình. Phỏng có
ích gì mà dậy ra khỏi nó? Nhưng hi vọng rằng cái
chưa xảy ra có thể xảy ra hôm nay thì sao... "Có thể
cơ hội bây giờ mới tới cho những điều vẫn còn chưa
xảy ra. Người ta nên dậy và nhận lấy cơ hội này khi
nó tới."
Và nó thực sự chẳng bao giờ tới cả. Mọi vui thích
đều trong chờ đợi, trong hi vọng. Tất cả mọi vui thích
đều trong tương lai, trong ham muốn; nó chưa bao giờ
là thực tại cả. Và bạn gọi nó là thực sao?
Phúc lạc của tôi không ở trong hi vọng. Tôi không
hi vọng vào cái gì cả, tôi đã bỏ tất cả hi vọng rồi.
Thực tế, cái ngày tôi bỏ đi tất cả mọi hi vọng thì thực
tại đã xảy ra cho tôi. Qua hi vọng bạn không cho phép
thực tại xảy ra. Cái ngày bạn vứt bỏ ham muốn, phúc
lạc lớn lao giáng xuống bạn. Nó bao giờ cũng có đó,
nhưng bởi vì ham muốn của mình mà bạn đã bỏ lỡ nó.
Bạn đã quá bận bịu thường xuyên với ham muốn đến
mức bạn không sẵn có cho nó, bạn đã bị đóng lại. Một
khi ham muốn biến mất, bạn mở ra, bạn trở thành sẵn
có.
Tôi đã biết thực tại của bạn. Tôi đã sống trong
khổ đó lâu như bạn đã sống trong nó - trong hàng
nghìn năm, trong nhiều kiếp sống. Chắc chắn khó mà
tin được vào phúc lạc của tôi, vào chân lí của tôi. Và
câu hỏi nảy sinh, "Người này có thể đang mơ."
Nhưng một điều tôi muốn nói với bạn: cho dù đây
là mơ, cho dù nó có vẻ giống mơ, nó vẫn còn tốt hơn
thực tại của bạn. Thử nó đi. Bạn chẳng có gì để mất
cả - nhưng dầu vậy bạn vẫn sợ mất nó thế. Có thể bạn
sợ mất nó tới mức bạn cứ nghĩ rằng bạn có cái gì đó.
Nỗi sợ là bạn có thể mất nó giữ bạn cảm thấy rằng
bạn có cái gì đó để mất. Nhưng bạn đã nhìn vào trong
túi mình chưa? Chẳng có gì cả. Thực tế có lỗ thủng
lớn. Túi bạn chẳng giữ cái gì cả. Nhưng sợ rằng mình
có thể bắt gặp chân lí, bạn không bao giờ nhìn vào túi
mình.
Có lần tôi đi du hành với Mulla Nasruddin. Người
soát vé tới và Nasruddin nhìn vào trong túi này túi nọ,
rồi nhìn vào sổ nhật kí, rồi vào túi và va li. Anh ta tìm
mọi thứ, ngay cả trong va li của tôi nữa! Và thế rồi
anh bắt đầu nhìn vào túi tôi. Tôi nói, "Nasruddin, đợi
đã! Anh làm gì thế?"
Anh ta nói, "Vé của tôi mất rồi."
"Nó không thể ở trong túi tôi hay va li của tôi
được. Anh có điên không đấy?" Tôi đã quan sát, và
tôi bảo anh ta, "Tôi thấy rằng anh còn chưa nhìn vào
túi bên phải của anh."
Anh ta nói, "Tôi không thể nhìn vào đó được."
Tôi nói, "Tại sao?"
Anh ta nói, "Nếu nó không có đó, thế thì đi đứt!
Thế thì nó chẳng ở đâu cả! Cho nên trước hết để tôi
tìm nó ở mọi nơi đã. Đó là điều cuối cùng - bởi vì
điều đó nghĩa là tôi không có vé!"
Bạn không nhìn bởi vì bạn sợ; có thể chẳng có gì
cả. 

Cooperman bán dâu tây từ xe tải của mình trong
vùng ngoại ô. Anh ta gõ cửa một nhà: "Ai mua dâu
tây không?"
"Quay lại đây đi," một cô gái tóc hung xinh xắn
trả lời.
Cooperman bước về đuôi xe, rung chuông và
người đàn bà mở cửa ra. Cooperman choáng người
khi thấy cô ấy đứng đó hoàn toàn trần truồng, không
một mảnh quần áo. Cooperman bắt đầu khóc. "Có
chuyện gì thế?" cô tóc hung hỏi.
"Hôm nay vợ tôi chạy theo thằng bạn tốt nhất của
tôi," Cooperman giải thích. "Tôi mất ba nghìn đô la
trên thị trường chứng khoán. Và bây giờ cô lại định
hiếp tôi trên đống dâu tây của tôi nữa!"
Bây giờ, chỉ còn mỗi dâu tây... nhưng anh ta
khóc, sợ rằng bây giờ dâu tây cũng mất nốt.
Bạn có gì với bạn? Thậm chí chẳng có cả dâu
tây... Và bạn sợ thế, e sợ thế, liên tục run rẩy thế.
Chẳng có gì mà mất cả!
Thử thực tại của tôi nữa; bạn sẽ không phải là
người mất đâu. Và tôi nói điều đó với sự chắc chắn
thế bởi vì tôi biết cả hai thực tại. Thực tại của bạn chỉ
là giả; thực tại của tôi mới là thật.
Bạn trong thực tại chỉ khi bạn là thật. Khi nhận
biết của bạn là thật thì bạn sống trong thực tại; khi
nhận biết của bạn là giả bạn sống trong không thực.
Và bạn tạo ra nó mọi ngày, nhưng bạn dường như
không nhận biết.
Điều gì xảy ra khi bạn rơi vào giấc ngủ? Sao các
giấc mơ lại tới khi bạn ngủ? - tâm thức của bạn hạ
thấp xuống, xuống rất thấp; nó gần như biến mất. Thế
thì giấc mơ nổi bọt lên. Bạn đã bị say chưa? Bạn uống
rượu, và bạn lại trong thế giới mơ. Hay bạn uống chất
cay, bạn uống LSD hay cái gì đó giống thế; tâm thức
bạn bị hạ thấp, bạn lại trong thế giới mơ.
Đó là lí do tại sao điều xảy ra là LSD có thể
không cho bạn cùng kinh nghiệm như nó cho bạn của
bạn. Ai đó có thể đi lên trời, và ai đó có thể đi vào địa
ngục - bởi vì điều đó tuỳ thuộc vào tâm trí bạn mà bạn
có thể tạo ra kiểu mơ nào. LSD hay bất kì chất ma tuý
nào cũng đều có thể hạ thấp tâm thức của bạn xuống.
Nó đơn giản loại bỏ đi mọi rào chắn, nó đơn giản giúp
bạn đi vào thế giới riêng tư - thế giới của mơ. Và tất
nhiên khi bạn đang trong nếm trải ma tuý thì mọi sự
đều cực kì đẹp đẽ, rất phiêu diêu, rất mầu sắc...
Nhưng điều đó còn tuỳ. Nếu bạn là nhà thơ và bạn
đã sống cùng cây cối và hoa và chim chóc, bạn sẽ có
thế giới rất đẹp mở ra. Nhưng nếu bạn là người hàng
thịt, thế thì cẩn thận; thế thì bạn có thế giới của nhà
hàng thịt - ác mộng.
Đó là lí do tại sao những người khác nhau khi đi
vào các nếm trải ma tuý trở lại với những kinh
nghiệm khác nhau. Một số người nói nó là cõi trời, và
một số nói nó là địa ngục. Điều đó tuỳ ở bạn.
Bạn tạo ra giấc mơ. Ma tuý không phải là thứ tạo
ra giấc mơ, ma tuý đơn giản hạ thấp tâm thức bạn xuống, điều không cho phép mơ. Giấc ngủ là cần cho
mơ. Bạn càng nhận biết, càng ít khả năng có việc mơ.
Khi bạn hoàn toàn nhận biết mơ biến mất. Thế thì bạn
không tạo ra mơ; thế thì bạn đơn giản đối diện với cái
đang đó.
Khi bạn là thực bạn sống trong thế giới thực. Và
tôi ngụ ý gì khi tôi nói ‘khi bạn là thực'? - tôi ngụ ý
khi bạn nhận biết. Đó là chính là thông điệp của Phật
đấy.
Câu hỏi thứ ba:
Giáo dục có đưa tới thiền không? Xin thầy giải
thích về giáo dục và tôn giáo.
Thông thường cái vẫn được gọi là giáo dục thì
gần như chống lại thiền. Nó đáng phải không như thế
nhưng nó lại như thế. Nghĩa nguyên thuỷ của từ
'education-giáo dục' thì không chống lại thiền. Nghĩa
nguyên thuỷ này là: kéo ra. Giáo dục nghĩa là kéo ra;
bất kì cái gì bị ẩn kín trong cá nhân đều phải được kéo
ra. Cá nhân phải nở hoa - đó là nghĩa nguyên thuỷ của
giáo dục.
Đó cũng là điều thiền là gì đấy: bạn phải nở hoa
trong bản thể riêng của mình. Bạn không biết mình
định đi đâu, bạn không biết hoa nào sẽ tới với bạn,
mầu sắc của chúng là gì và hương thơm của chúng là
gì - bạn không biết. Bạn đi vào cái không biết. Bạn
đơn giản tin cậy vào năng lượng cuộc sống. Nó đã
đem việc sinh thành cho bạn, nó là nền tảng của bạn,
nó là bản thể bạn. Bạn tin cậy vào nó. Bạn biết rằng
bạn là đứa trẻ của vũ trụ này, và vũ trụ này, nếu nó đã
đem việc sinh thành cho bạn, nó sẽ chăm nom nữa.
Khi bạn tin cậy vào bản thân mình bạn cũng tin
cậy vào toàn thể vũ trụ. Và vũ trụ này là đẹp. Xem
đấy... biết bao nhiêu hoa được sinh ra trong vũ trụ
này; làm sao bạn có thể không tin cậy vào nó được?
Cái đẹp vô cùng như thế ở khắp xung quanh; làm sao
bạn có thể không tin cậy vào nó được? Vĩ đại thế,
duyên dáng thế, từ một hạt bụi nhỏ cho tới các vì sao;
đối xứng thế, hài hoà thế; làm sao bạn có thể không
tin cậy vào nó được?
Basho đã nói, "Nếu hoa được sinh ra từ vũ trụ
này, thế thì tôi tin cậy vào nó." Đúng chứ? Đó là đủ
logic, một luận cứ vĩ đại: “Nếu vũ trụ này có thể cho
sinh thành ra nhiều hoa đẹp thế, nếu hoa hồng là có
thể, tôi tin cậy vào nó. Nếu hoa sen là có thể. Tôi tin
cậy vào nó."
Giáo dục là việc tin cậy vào bản thân bạn và tin
cậy vào sự tồn tại, là việc cho phép bất kì cái gì đang
ẩn kín trong bạn được hiển lộ ra; là việc đem bất kì
cái gì có bên trong ra ngoài.
Nhưng điều đó là không đúng cho cái gọi là giáo
dục đang diễn ra trên thế giới. Thay vì đem ra, nó lại
ép buộc mọi thứ vào trong. Nó đơn giản đổ thông tin
vào. Lần nữa từ ‘information-thông tin' là sai; nó đáng
ra không nên được dùng - nó phải là 'out-formation'. 

'Information' nghĩa là: hình thành bên trong bạn. Cái
gì đó phải trưởng thành bên trong bạn - thế thì nó là
information. Nhưng chẳng ai bận tâm tới bạn cả. Xã
hội bận tâm về những ý tưởng riêng của nó, các ý
thức hệ, các định kiến, công nghệ; họ cứ áp đặt lên
bạn. Đầu bạn được dùng như một chỗ trống, cho nên
họ phải cung cấp đồ đạc. Giáo dục thông thường, hay
bất kì cái gì là có sẵn nhân danh giáo dục, đều không
là gì ngoài việc nhồi tri thức vào tâm trí bạn - bởi vì
tri thức có tiện dụng nào đó. Không ai bận tâm tới
bạn, không ai bận tâm về định mệnh của bạn. Họ cần
nhiều bác sĩ hơn, họ cần nhiều kĩ sư hơn, họ cần nhiều
tướng lĩnh hơn, họ cần nhiều nhà kĩ thuật hơn, nhiều
thợ ống nước, nhiều thợ điện hơn. Cho nên họ cần
những người đó; họ buộc bạn phải trở thành thợ nước,
hay họ buộc bạn trở thành bác sĩ, hay họ buộc bạn trở
thành kĩ sư.
Tôi không nói có cái gì đó sai với việc là kĩ sư
hay bác sĩ, nhưng chắc chắn có cái gì đó sai nếu nó bị
ép buộc từ bên ngoài. Nếu ai đó nở hoa thành bác sĩ,
thế thì bạn sẽ thấy việc chữa lành lớn xảy ra quanh
người đó. Thế thì người đó sẽ được sinh ra là thầy
chữa. Người đó sẽ thực sự là bác sĩ trị liệu, việc chạm
của người đó sẽ là vàng. Người đó được sinh ra để là
điều đó.
Nhưng khi điều đó bị ép buộc từ bên ngoài và
người ta lấy nó làm nghề nghiệp, bởi vì người ta phải
sống và người ta phải học và kiếm sống, người ta tiếp
quản nó. Thế thì người ta bị què quặt và bị nghiền nát
dưới sức nặng. Người ta đơn giản cứ kéo lê và kéo lê,
và một ngày nào đó, chết. Chưa bao giờ có một
khoảnh khắc của lễ hội trong cuộc sống đó. Tất nhiên,
người đó sẽ để lại nhiều tiền cho con mình để đến
lượt chúng trở thành bác sĩ, để vào đại học, để vào
cùng đại học nơi người đó đã bị phá huỷ. Và người đó
sẽ làm cùng điều đó với con cái họ, và đây là cách
mọi sự cứ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Không, tôi không gọi điều này là giáo dục. Nó là tội
ác. Điều thực sự là phép màu là ở chỗ mặc cho việc
giáo dục này đôi khi vị phật vẫn nở hoa trong thế giới
này. Đó là phép màu. Điều đơn giản không thể nào tin
nổi là làm sao ai đó có thể thoát ra khỏi nó: đó là
phương pháp luận để giết bạn, nó đã được thu xếp
theo cách như vậy. Và trẻ nhỏ bị mắc vào trong cơ
chế của nó, không biết chúng đang đi đâu, không biết
cái gì đang được làm cho chúng. Đến lúc chúng trở
nên nhận biết, chúng đã hoàn toàn bị biến chất, bị phá
huỷ. Đến lúc chúng có thể nghĩ về phải làm gì với
cuộc đời mình, chúng gần như không còn khả năng đi
theo bất kì hướng nào khác.
Đến lúc bạn hai mươi nhăm tuổi hay ba mươi
tuổi, nửa cuộc sống đã mất rồi. Bây giờ thay đổi
dường như quá mạo hiểm. Bạn đã trở thành bác sĩ,
việc hành nghề của bạn đang diễn ra tốt đẹp; bỗng
nhiên một hôm nào đó bạn nhận rằng đây không phải
là điều bạn đã được ngụ ý là. Điều này không dành
cho bạn - nhưng bây giờ phải làm gì? Cho nên cứ giả
vờ rằng bạn là bác sĩ. Và nếu bác sĩ không hạnh phúc,
trong việc là bác sĩ, thì ông ấy sẽ không giúp ích cho
bệnh nhân nào. Ông ấy có thể pha thuốc cho bệnh
nhân, ông ấy có thể kê thuốc, nhưng ông ấy sẽ không
thực sự là lực chữa lành. Khi bác sĩ thực sự là bác sĩ,
bác sĩ bẩm sinh... và mọi người đều là cái gì đó bẩn
sinh. Bạn có thể bỏ lỡ nó, bạn thậm chí không thể biết tới nó. Ai đó là nhà thơ bẩm sinh; và bạn không thể
làm ra nhà thơ được. Không có cách nào để chế tạo ra
nhà thơ. Ai đó là hoạ sĩ bẩm sinh; bạn không thể chế
tạo ra hoạ sĩ được.
Nhưng mọi sự đều bị đặt rất sai chỗ: hoạ sĩ đang
làm việc như bác sĩ, bác sĩ đang làm việc như hoạ sĩ.
Chính khách có đó: có thể ông ấy đã là thợ nước tốt
nhưng ông ấy đã trở thành thủ tướng hay tổng thống.
Và người có thể là thủ tướng thì lại là thợ nước.
Đây là lí do tại sao trong thế giới có nhiều hỗn
độn thế: mọi người đều bị đặt sai chỗ, không ai ở đích
xác nơi người đó đáng ở. Giáo dục đúng sẽ đích xác
là con đường tới thiền. Giáo dục sai là rào chắn cho
thiền bởi vì giáo dục sai dạy bạn những điều không
khớp với bạn. Và chừng nào cái gì đó còn chưa khớp
với bạn và bạn chưa khớp với nó, bạn không bao giờ
có thể lành mạnh và toàn thể được. Bạn sẽ khổ sở.
Cho nên thông thường khi người có giáo dục trở
nên quan tâm tới thiền, người đó phải tháo dỡ bất kì
cái gì người đó đã học. Người đó phải quay lại thời
thơ ấu của mình lần nữa và bắt đầu từ đó, từ ABC. Đó
là lí do tại sao nhấn mạnh của tôi là dành cho cách
thiền nào đó mà bạn có thể trở lại thành đứa trẻ.
Khi bạn nhảy múa, bạn giống đứa trẻ hơn người
lớn. Đó là lí do tại sao bạn không thấy các chức sắc
tới tôi và tới việc thiền của tôi. Ai đó là uỷ viên hội
đồng, người thu thuế - ông ta không thể tới được, bởi
vì ông ta không thể nhảy múa được. Ông ta là uỷ viên
hội đồng, hay ông ta là thống đốc - làm sao ông ta có
thể nhảy múa với người thường được?
Nhưng nếu bạn không thể nhảy múa được, bạn có
thể là thống đốc, nhưng bạn chết. Nếu bạn không thể
hát như đứa trẻ, bạn là gánh nặng trên trái đất. Tốt
hơn cả bạn tự tử đi cho rồi. Ít nhất thì bạn sẽ bỏ trống
chỗ nào đó cho ai đó khác trưởng thành và nở hoa.
Bạn không định nở hoa; điều đó là chắc chắn.
Những người có sự kính trọng nào đó trở thành
rất bị mắc kẹt bởi vì họ không thể làm gì được - họ
không thể mạo hiểm sự kính trọng của mình. Họ sợ.
Họ không hạnh phúc, họ không biết phúc lạc là gì, họ
không biết đích xác sống động nghĩa là gì - nhưng họ
đáng kính trọng. Cho nên họ níu bám lấy sự kính
trọng của mình, và thế rồi chết. Họ chưa bao giờ
sống; họ chết trước khi họ bắt đầu sống. Họ đã là
nhiều người chết trước khi họ đã từng sống.
Việc thiền của tôi là để đem bạn trở lại với thời
thơ ấu của bạn - khi bạn không được kính trọng, khi
bạn có thể làm những điều điên rồ, khi bạn còn hồn
nhiên, không bị xã hội làm biến chất, khi bạn còn
chưa học bất kì thủ đoạn nào của thế giới, khi bạn còn
là người thế giới khác, không trần tục. Tôi muốn bạn
trở lại điểm đó; từ đó, bắt đầu lại. Và đây là cuộc sống
của bạn. Kính trọng hay tiền bạc là những giải thưởng
khuyến khích, chúng không phải là giải thưởng thực.
Đừng bị lừa dối bởi chúng.
Bạn không thể ăn được kính trọng, và bạn không
thể ăn được tiền bạc, và bạn không thể ăn được danh
tiếng. Chúng chỉ là những trò chơi: vô nghĩa, ngu
xuẩn, tầm thường. Nếu bạn đủ thông minh bạn sẽ hiểu
rằng bạn phải sống cuộc sống của mình và bạn không
bận tâm về những điều khác. Tất cả những quan tâm khác đều vô nghĩa: nó là cuộc sống của bạn. Bạn phải
sống nó một cách đích thực, đáng yêu, với đam mê
lớn lao và với từ bi lớn lao, với năng lượng lớn lao.
Bạn phải trở thành con sóng triều của phúc lạc. Bất kì
điều gì được cần tới để làm cho nó, làm đi.
Tháo dỡ sẽ là cần thiết. Tháo dỡ nghĩa là bạn
dừng những con đường sai đó, bạn dừng đi vào những
con đường sai đó mà xã hội đã áp đặt, thuyết phục
bạn, cám dỗ bạn đi vào. Bạn nhận trách nhiệm về
cuộc sống riêng của mình; bạn trở thành người chủ
riêng của mình.
Đó là nghĩa của tính chất sannyas. Đó là lí do tại
sao tôi goi các sannyasins là swami. 'Swami' nghĩa là:
người đã trở thành người chủ cuộc sống riêng của
mình. Nó chẳng liên quan gì tới swami chính thống;
họ không phải là người chủ của các kiếp sống riêng
của họ. Họ lại đi trên cùng một con tầu, với cùng xã
hội, với cùng những quyền lực, uy tín, chính trị ngu
xuẩn.
Sannyasin thực là người không bận tâm tới ý kiến
của người khác, người đã quyết định sống cuộc sống
của mình như người đó muốn sống nó. Tôi không ngụ
ý bạn là vô trách nhiệm đâu. Khi bạn bắt đầu sống
cuộc sống của mình một cách có trách nhiệm, bạn
không chỉ chăm nom về bản thân mình, bạn cũng
chăm nom cả người khác - nhưng theo cách hoàn toàn
khác.
Bây giờ bạn sẽ nhận mọi chăm nom mà bạn
không can thiệp vào cuộc sống của bất kì ai khác -
đây chính là trách nhiệm là gì. Bạn không cho phép
bất kì ai can thiệp vào cuộc sống của bạn, và một cách
tự nhiên, bạn sẽ không can thiệp vào cuộc sống của
bất kì ai. Bạn không muốn bất kì ai hướng dẫn cuộc
sống của mình, bạn không muốn cuộc sống của mình
bị hướng dẫn theo dây kéo. Tua du lịch có hướng dẫn
không phải là tua chút nào. Bạn muốn thám hiểm theo
cách riêng của mình. Bạn muốn đi vào rừng mà không
có bản đồ nào, để cho bạn cũng có thể là người khám
phá, để cho bạn cũng đi tới những điểm tươi tắn nào
đó lần đầu tiên.
Nếu bạn mang bản đồ bạn bao giờ cũng tới chỗ
mà nhiều người đã tới trước đây. Nó chưa bao giờ
mới, nó chưa bao giờ nguyên bản, nó chưa bao giờ
nguyên si. Nó đã ô nhiễm, biến chất. Nhiều người đã
đi lên nó: bản đồ đã có.
Khi tôi là đứa bé, trong ngôi đền mà bố mẹ tôi
vẫn thường tới thăm, tôi đã ngạc nhiên: có bản đồ của
cõi trời và địa ngục và moksha. Một hôm tôi nói với
bố tôi, "Nếu bản đồ mà có với moksha, thế thì con
chẳng quan tâm tới nó."
Ông ấy nói, "Sao thế?" Tôi nói, "Nếu có bản đồ,
thế thì nó đã cũ rích rồi. Nhiều người đã đạt tới đó,
ngay cả người làm bản đồ cũng đã đạt tới đó. Mọi thứ
đều được đo, và họ biết mọi chỗ, đặt tên và đánh
nhãn. Điều này dường như chỉ là việc kéo dài của
cùng thế giới cũ. Nó chẳng có gì mới. Con thích đi
vào thế giới không có bản đồ. Con muốn là người
thám hiểm." Ngày hôm đó tôi chấm dứt đi vào đền.
Bố tôi hỏi tôi, "Sao bây giờ con không tới?"
Tôi nói, "Bố bỏ những bản đồ đó đi. Con không
chịu được những bản đồ đó ở đó. Chúng rất xúc phạm. Nghĩ về điều đó: ngay cả moksha mà cũng đo
được sao? Thế thì chẳng có gì là không thể đo được!"
Và tất cả chư phật đều đã nói rằng chân lí là
không thể đo được; tất cả chư phật đều đã nói rằng
chân lí không chỉ là không biết, nó là không thể biết
được. Nó là biển cả không bản đồ: bạn đem con
thuyền nhỏ của mình và bạn đi vào vùng biển chưa có
bản đồ. Bạn nhận cuộc phiêu lưu. Điều đó mạo hiểm,
nó là nguy hiểm. Nhưng trong mạo hiểm và nguy
hiểm linh hồn nở hoa, trở nên được hoà nhập.
Với tôi, nếu giáo dục là đúng thì nó sẽ là một
phần của thiền; thiền sẽ là điểm cuối cùng trong nó.
Nếu giáo dục là đúng, thế thì các đại học không nên
chống lại hài hoà. Chúng nên là chỗ huấn luyện, bàn
nhảy vào hà hoà. Nếu giáo dục là đúng, thế thì nó sẽ
không quan tâm tới tiền, và nó sẽ không quan tâm tới
quyền lực và danh tiếng. Thế thì nó sẽ không mang
tính chính trị chút nào.
Nếu giáo dục là đúng nó sẽ quan tâm tới phúc lạc
của bạn, hạnh phúc của bạn, âm nhạc, tình yêu, thơ
ca, điệu vũ. Nó sẽ dạy bạn cách hiển lộ. Nó sẽ không
cứ đơn giản nhét thông tin vào đầu bạn. Nó sẽ giúp
bạn đi ra từ bản thể mình, để nở hoa, để trưởng thành,
để lan toả, để mở rộng. Nó sẽ là việc giáo dục hoàn
toàn khác.
Và một cách tự nhiên nếu giáo dục trở nên được
bao hàm với thiền, nó trở thành có tính tôn giáo. Tôi
không gọi giáo dục là mang tính tôn giáo bởi vì nó
dạy giáo lí của Ki tô giáo, hay nó dạy Hindu giáo. Đó
không phải là tính tôn giáo. Giáo dục mang tính tôn
giáo nếu nó làm cho bạn đủ dũng cảm để chấp nhận
bản thân mình, và sống cuộc sống của bạn, và trở
thành việc cúng dường cho Thượng đế trên con đường
riêng của bạn, theo cách duy nhất riêng của bạn.
Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy, Osho ơi, thầy có thể kể cho chúng tôi
chút ít giai thoại về sannyasin tham năng lượng
cũng như thầy kể về người Do Thái tham tiền
được không?
Mọi tham lam đều mang tính Do Thái. 'Jew - Do
Thái' không phải là tên của giống nòi nào đó. Không,
bất kì ai có tính tham thì đều là người Do Thái. Và
tham chẳng liên quan gì tới tiền bạc. Tiền chỉ là một
đối tượng của tham lam; bất kì cái gì cũng có thể trở
thành đối tượng.
Kundalini có thể trở thành đối tượng của tham
lam; năng lượng tâm linh, niết bàn, quyền năng siêu
linh, chứng ngộ, đều có thể trở thành đối tượng của
tham lam... nhưng thế thì bạn là người Do Thái.
Nhớ lấy, 'Do Thái' chỉ là từ tượng trưng: nó đại
diện cho tham lam. Và không có nhu cầu có giai thoại
mới. Các giai thoại cũ hoàn toàn tốt, và chúng có tác
dụng.
Bởi vì bạn đã hỏi câu hỏi này, bạn đã cám dỗ... 

Ông mục sư mới bắt được một giáo dân của mình
vừa ra khỏi quán rượu Lí tưởng. "Tôi rất tiếc," ông ta
nói, "khi thấy ông đi ra từ chỗ như vậy. Con ta, uống
rượu là thứ của quỉ đấy. Khi quỉ bảo ông đi cùng nó,
sao ông không từ chối?"
"Con muốn chứ, thưa cha," người này nói.
“Nhưng nó có thể tức giận và không bảo con lần
nữa."
Bạn đã cám dỗ tôi, cho nên tôi sẽ kể cho bạn vài
giai thoại. Bạn có thể không hỏi lần nữa. Và nhớ lấy,
những giai thoại Do Thái này mà tôi sẽ kể cho các
bạn chẳng có liên quan gì tới người Do Thái cả,
chúng có cái gì đó liên quan tới tham lam bên trong
của bạn. Bằng việc thay đổi đối tượng, chẳng cái gì
được thay đổi cả. Cho nên vấn đề không phải là thay
đổi đối tượng, vấn đề là hiểu khổ mà tham đem lại.
Một khi bạn hiểu nó, tham bị loại bỏ.
Một người bước đi dọc theo Broadway thì giáp
mặt với tiếng thì thào của một cô thương gia, "Bán
tình đây."
Anh ta nói, "Chắc hẳn rồi, nếu cô có thể làm nó
theo cách thức của người Do Thái."
Cô ta nói, "Nếu anh dạy cho tôi cách làm nó theo
cách người Do Thái, tôi sẽ đem nó cho anh với nửa
giá thôi."
Anh ta nói, "Đấy là cách của người Do Thái đấy."
Họ hàng của ông già Feinstein tụ tập để đọc di
chúc của ông ấy sau cái chết của ông ấy.
"Là một tâm trí lành mạnh," viên luật sư của ông
ấy đọc, "tôi đã tiêu mọi xu cuối cùng trước khi tôi
chết."
"Là một tâm trí lành mạnh tôi đã tiêu mọi đồng xu
cuối cùng trước khi tôi chết." Mọi người thực sự sống
trong một thế giới coi mình là trung tâm. Một cách tự
nhiên, nếu họ trở nên khổ, chẳng ai có lỗi ngoại trừ
bản thân họ - bởi vì tất cả mọi sự xảy ra lớn lao trong
cuộc sống đều xảy ra khi bạn không là cái ngã, khi
bạn không tham lam, khi bạn sẵn sàng chia sẻ.
Tình yêu xảy ra khi bạn sẵn sàng chia sẻ với
người khác. Lời cầu nguyện xảy ra khi bạn sẵn sàng
chia sẻ với Thượng đế. Thiền xảy ra khi bạn sẵn sàng
chia sẻ với sự tồn tại. Cái đẹp xảy ra khi bạn sẵn sàng
chia sẽ với đoá hoa, hay với vì sao, hay với con chim
đang tung cánh.
Bất kì khi nào bạn chia sẻ, đều có cái đẹp, đều có
chân lí, đều có hạnh phúc. Bất kì khi nào bạn tích trữ,
bất kì khi nào bạn sống vì bản thân mình, bạn không
thực sự sống. Sống vì bản thân mình là sống trong
nấm mồ. Nếu bạn thực sự muốn sống, bắt đầu chia sẻ
ngày một nhiều hơn đi, ngày một ít tham hơn đi. Và
cuộc sống sẽ xảy ra cho bạn ngày một nhiều hơn. Nó
là việc chia sẻ lớn lao. Nếu bạn hít vào và bạn cứ giữ
cho miệng mình và mũi mình đóng lại, sợ rằng nếu
bạn thở ra thì không khí sẽ đi ra, sẽ không còn là của bạn nữa; nếu bạn trở thành người tích trữ không khí,
bạn sẽ chết. Nhưng bạn lấy nó vào, nó lại đi ra; bạn
lấy nó vào, nó lại đi ra: cũng giống như hít vào và thở
ra là toàn thể nhịp điệu của cuộc sống.
Một ông già Do Thái phải đi mổ mở tim. Ông ấy
gọi điện tới hội y tế và hỏi thăm vị bác sĩ giỏi nhất ở
New York để thực hiện ca mổ này. Họ giới thiệu một
bác sĩ giải phẫu nổi tiếng nhất, và ông già Finkelstein
đi thẳng tới văn phòng của bác sĩ và thu xếp để có
cuộc mổ. Cuộc mổ đã hoàn toàn thành công và ông
già Do Thái nhanh chóng được hồi phục.
Sau khi ông ta từ bệnh viện về nhà, ông ta nhận
được một hoá đơn từ bác sĩ quãng một nghìn rưởi đô
la. Ông ấy gọi điện cho bác sĩ và yêu cầu gặp ông ta.
Finkelstein nhìn bác sĩ và nói, "Bác sĩ ơi, tôi là
một ông già. Với tôi, trả ông một nghìn rưởi đô la có
nghĩa là tiêu gần hết tiền tiết kiệm cả đời tôi."
Bác sĩ nói, "Thôi được. Tôi thường lấy nghìn rưởi
đô la cho ca mổ này, nhưng trong hoàn cảnh này tôi
sẽ lấy bẩy trăm rưởi thôi vậy."
Finkelstein trông rất buồn. Ông ấy đáp, "Bác sĩ ơi,
bẩy trăm rưởi đô la vẫn là nhiều tiền lắm với một ông
già như tôi. Sau rốt, tôi không còn làm việc nữa, và
tôi phải mất lâu lắm mới tiết kiệm được lại ngần ấy
tiền."
Bác sĩ, hoàn toàn thất vọng, trả lời, "Thôi vậy.
Hai trăm đô la thì sao?"
Ông già Do Thái nói, "Hai trăm đô la tôi biết có
vẻ không nhiều nhặn gì cho ông, nhưng với tôi nó vẫn
là cả triệu đô la đấy."
Bác sĩ, hết sức bực mình, nhìn vào ông già và nói,
"Ông được quả này! Tôi sẽ không lấy tiền của ông vì
ca mổ này nữa. Coi như chuyện nhà. Chỉ còn một
điều tôi muốn biết: trước khi ông tới tôi ông đã biết
tôi là một trong những bác sĩ giải phẫu đắt nhất ở Mĩ.
Vậy sao ông vẫn tới?"
Finkelstein đáp, "Khi có liên quan tới sức khoẻ
của tôi, thì tiền không thành vấn đề."
Tâm trí đầy những tham lam, tâm trí thường
xuyên bị ám ảnh bởi tiền, là đã trong địa ngục. Nó đã
ở ngoài cõi trời - bởi vì cõi trời là nơi bạn đơn giản
không níu bám vào bất kì cái gì. Trạng thái không níu
bám của tâm trí là cõi trời.
Thông thường chúng ta cứ níu bám. Bạn rời khỏi
thế giới này; thế rồi bạn bắt đầu níu bám lấy cái gì đó
ở thế giới khác. Bạn vứt bỏ cuộc giành giật vì tiền, thế
rồi bạn bắt đầu cuộc đua khác về tâm linh, quyền lực
siêu linh, niết bàn. Nhưng bạn vẫn còn như cũ: vẫn
cùng tâm trí cạnh tranh đó, cùng tham vọng đi trước
tất cả mọi người khác.
Chấp nhận bản thân mình ở bất kì đâu bạn đang
hiện hữu đi... Và đừng nghĩ dưới dạng cạnh tranh!
Bạn không cần ở bất kì đâu khác. Bất kì chỗ nào bạn
đang ở, nếu bạn có thể hạnh phúc ở đó, thì bạn đã trở
nên mang tính tôn giáo, bạn đã trở nên mang tính tâm
linh. Tâm linh không biết tới cạnh tranh, tâm linh không biết tới tham lam, tâm linh không biết tới tham
vọng - bởi vì tâm linh nghĩa là vô ham muốn.
Nhưng mọi người cứ thay đổi từ phía nọ sang
phía kia, từ cực đoan này sang cực đoan khác. Đó là lí
do tại sao Phật nhấn mạnh nhiều thế vào việc ở giữa.
Bạn có thể vứt tất cả tiền bạc của mình, bạn có thể
phân phát số dư ngân hàng của mình, bạn có thể từ bỏ
thế giới này, nhưng thế rồi bạn sẽ bắt đầu tích trữ tiền
tinh vi nào đó, tiền đức hạnh tinh vi nào đó, punya.
Bạn sẽ bắt đầu thu thập: "Mình đã nhịn ăn được bao
nhiêu lần rồi và mình đã làm bao nhiêu hành vi tốt?"
Bạn sẽ giữa một bản kê để trình cho Thượng đế:
"Những điều tốt này con đã làm đấy: bây giờ phần
thưởng của con là gì?"
Nghĩ dưới dạng phần thưởng và kết quả là nghĩ
dưới dạng tham lam. Nghĩ dưới dạng vui vẻ, vui vẻ ở
đây bây giờ, với bất kì điều gì bạn đang làm, và
không bao giờ bận tâm tới kết quả của nó, là thoát
khỏi tham lam. Thế thì bạn có thể sống trong cung
điện và bạn có thể được bao quanh với đủ mọi giầu có
có thể được - và dầu vậy bạn vẫn không tham lam.
Hay bạn có thể từ bỏ thế giới và sống trong hang động
ở Himalaya, nhưng nếu bạn vẫn tham vọng, ham
muốn, thế thì bạn tham lam và bạn trần tục.
Là vô ham muốn là ở thế giới khác.
Giai thoại cuối cùng:
Harry và Tilly cùng mở hội kỉ niệm lễ cưới lần
thứ năm mươi và mời ba con trai cùng vợ họ và các
cháu tới dự tiệc mừng.
Người con cả đứng dậy và đề nghị nâng cốc chúc
mừng bố mẹ. Anh ta nói, "Thưa bố mẹ, con muốn bố
mẹ biết rằng chẳng thành vấn đề về cái gì con có thể
nghĩ tới để tặng cho bố mẹ như một món quà, con
thực sự không thể nghĩ được cái gì đủ kì diệu để tặng
bố mẹ như bố mẹ."
Người con thứ đứng dậy và nói, "Thưa bố mẹ,
con hi vọng bố mẹ hiểu được tại sao con lại không
mang quà tới lễ kỉ niệm nhân cơ hội này. Nhưng con
chắc bố mẹ hiểu rằng chúng con đang ở lưng chừng
việc mua đồ đạc mới cho gia đình vào mùa hè và
chúng con chỉ phải mỗi tội không còn thời gian."
Người con thứ ba, mỉm cười, nói, "Thưa bố mẹ,
con chắc bố mẹ biết con yêu bố mẹ làm sao. Đem quà
cho bố mẹ sẽ không biểu lộ được cho bố mẹ sự chân
thành con đang có trong xúc động của mình."
Thế rồi người bố đứng dậy quay về phía những
người con, và nói, "Các con yêu mến của bố, bây giờ
mẹ và bố đã kỉ niệm năm mươi năm sống chung nhau,
bố cảm thấy bây giờ là lúc phải nói cho các con vài
điều. Các con biết đấy, khi mẹ và bố gặp nhau bố
nghèo mẹ cũng nghèo, bố không có việc làm, chúng
ta thậm chí không biết bữa tiếp tới từ đâu. Các con có
tin được điều đó không? Chúng ta thậm chí đã không
có đủ tiền để mua giấy giá thú."
Người con cả đứng dậy, và hỏi, "Bố định bảo
chúng con rằng chúng con là con hoang sao?"
Người bố mỉm cười và trả lời, "Đúng đấy, và rẻ
nữa!" 

Trong thế giới thông thường tất cả các mối quan
hệ của chúng ta đều là mối quan hệ tiền bạc. Tất cả
các mối quan hệ đều là mối quan hệ tiền bạc: mối
quan hệ quyền lực nào đó, mối quan hệ tiền bạc nào
đó, chi phối, bản ngã. Nhưng nếu tất cả các mối quan
hệ của bạn chỉ là các mối quan hệ tiền bạc, mối quan
hệ tham lam, thế thì bạn không biết cách quan hệ. Và
nếu bạn không biết cách quan hệ thì bạn không bao
giờ được đáp ứng. Bởi vì chính trong mối quan hệ sâu
sắc mà đáp ứng mới nảy sinh.
Có một câu ngạn ngữ rất cổ đại ở Tây Tạng: Bất
kì khi nào Thượng đế cho bạn cái gì đó, ngài không
bao giờ cho bạn, ngài cho qua bạn.
Tôi đã suy tư về câu ngạn ngữ đó khá lâu: nó thực
sự có ý nghĩa vô cùng. Khi Thượng đế cho bạn cái gì
đó, ngài không bao giờ cho bạn đâu, ngài cho qua
bạn. Ngài cho bạn, nhưng cách thức của ngài là cho
qua bạn.
Cho nên nếu bạn không chia sẻ, bạn sẽ bắt đầu bỏ
lỡ các món quà từ Thượng đế. Nếu bạn chia sẻ, nếu
bạn không tham lam, nếu bạn đơn giản cứ chia sẻ bất
kì cái gì bạn có - giống như đoá hoa chia sẻ hương
thơm của nó, bạn cứ chia sẻ; giống như đám mây chia
sẻ nước mưa cho đất, bạn cứ chia sẻ; giống như mặt
trời chia sẻ các tia sáng của nó với mọi cây cối, và tất
cả mọi người, và tất cả con vật, bạn cứ chia sẻ bất kì
cái gì xảy ra cho bạn - bạn trưởng thành, nhiều thứ bắt
đầu tới từ bạn.
Bạn càng cho nhiều, bạn càng nhận nhiều - bởi vì
Thượng đế cho qua bạn, ngài không bao giờ cho bạn
cả. Bạn đơn giản vận hành như lối chuyển. Nếu bạn
dừng việc cho, lối chuyển của bạn co lại và khép lại.
Khi lối chuyển của bạn bị khép lại thì không cái gì có
thể vào trong bạn được.
Điều đó cũng gần giống như khi bạn đào giếng:
nếu bạn cứ đào nước sẽ chảy ra từ nó, nước trong sạch
cứ trào lên từ nó. Cái giếng được cung cấp từ nhiều
nguồn nước sâu trong đất, nước sạch cứ tới. Nếu bạn
dừng đào nước, trở nên tham lam, bắt đầu nghĩ dưới
dạng của keo kiệt: "Nếu mình cứ lấy nước đi, một
ngày nào đó nước có thể biến mất và có thể không có
nước trong giếng. Thế thì mình sẽ làm gì?" Thế là bạn
đậy cái giếng lại, bạn dừng việc lấy nước từ nó. Ngay
cả khi bạn cần nước cho bản thân mình, bạn đi ra
sông, hay bạn đi tới chỗ công cộng và bạn lấy nước từ
đó. Và bạn giữ cho giếng được đóng kín hoàn toàn.
Điều gì sẽ xảy ra cho giếng của bạn? Bạn có biết
không? Bây giờ không nước sạch nào tới nó nữa - bởi
vì để nước sạch tới, cần có không gian. Cái cũ choán
đầy không gian rồi, cái mới không thể tới được. Và
cái cũ sẽ dần trở nên tù đọng, chết, và sẽ bắt đầu bốc
mùi. Thế thì bạn sẽ không thể nào uống được nó. Nó
có thể trở thành độc.
Nước tanh bao giờ cũng trở thành độc. Tốt hơn
cả, nếu bạn khôn ngoan, bạn sẽ không chỉ lấy nước
lên cho mình, bạn sẽ mời hàng xóm tới múc nước từ
giếng của bạn. Và bạn sẽ cảm thấy biết ơn rằng họ đã
lấy nước từ giếng của bạn bởi vì nước sạch sẽ tới
ngày một nhiều hơn. Bạn càng múc nước ra, càng
nhiều nước sạch lại có sẵn.
Và cùng điều đó cũng đúng với thế giới bên trong
nhất của bạn: bạn là cái giếng, và đài phun nước của bạn được nối với điều thiêng liêng, với trung tâm của
sự tồn tại.
Chia sẻ... và nhiều thứ sẽ tới với bạn. Nếu bạn có
thể chia sẽ một cách toàn bộ, không giữ lại cái gì, thì
cái toàn bộ sẽ tới với bạn. Việc tới từ Thượng đế sẽ
đích xác theo cùng tỉ lệ như bạn đã cho người khác.
Sannyasin là người đã vứt bỏ ham muốn và đã bắt
đầu chia sẻ. Sannyasin không thể là người Do Thái
được; và nếu người Do Thái là một sannyasin thế thì
anh ta sẽ phải chọn hoặc vẫn còn là người Do Thái
hoặc trở thành sannyasin. Bạn không thể trở thành cả
hai được, bạn không thể đồng thời là cả hai được.
Người Do Thái phải biến mất để sannyasin hiện
hữu.

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

Kỉ luật của siêu việt

Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được. Ngay cả nếu người ta thoát ra
từ việc tạo tác ác, vận may hi hữu của người ta là
được sinh ra làm người. Nếu người ta sinh ra
được làm người, vận may hi hữu của người ta là
có sáu giác quan hoàn chỉnh. Ngay cả khi người
đó được hoàn chỉnh trong sáu giác quan, vận may
hi hữu của người đó là được sinh ra vào thời của
Phật. Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị
phật, vận may hi hữu của người đó là được gặp
người chứng ngộ. Ngay cả nếu người đó có khả
năng gặp người chứng ngộ, vận may hi hữu của
người đó là có trái tim được thức tỉnh trong sự tin
cậy. Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may
hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của
thông minh. Ngay cả nếu người đó đánh thức trái
tim thông minh, vận may hi hữu của người đó là
nhận ra trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành
đạt. Hỡi các con của Phật! Các ông xa ta dù
nhiều nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ
về lời giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu
được quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng
cạnh ta, luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông
không gìn giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không
bao giờ đạt tới chứng ngộ.

Tâm thức giống như chiếc hồ: có sóng nó trở
thành tâm trí, không có sóng nó trở thành linh hồn. Sự
khác biệt chỉ ở sự hỗn loạn. Tâm trí là linh hồn bị rối
loạn, và linh hồn là tâm trí được im lặng. Tâm trí là
chính trạng thái ốm yếu của vấn đề, còn linh hồn là
trạng thái mạnh khoẻ của vấn đề. Tâm trí không phải
là cái gì đó tách bạch khỏi linh hồn, như sóng không
tách bạch khỏi hồ. Hồ có thể hiện hữu mà không có
sóng, nhưng sóng không thể hiện hữu mà không có
hồ. Linh hồn có thể hiện hữu mà không có tâm trí,
nhưng tâm trí không thể hiện hữu nếu không có linh
hồn. Khi có gió lớn và hồ bị khuấy đảo, có rối loạn.
Và hồ mất đi một phẩm chất trong rối loạn đó, và đó
là phẩm chất của phản chiếu. Thế thì nó không thể
phản chiếu cái thực. Cái thực trở nên bị bóp méo. Có
thể có trăng tròn trên trời, nhưng bây giờ hồ không có
khả năng phản chiếu điều đó. Trăng sẽ vẫn được phản
chiếu, nhưng theo cách bị bóp méo. Nó sẽ được phản chiếu trong hàng nghìn mảnh. Nó sẽ không là một
thực thể thống nhất; nó sẽ không được bình tĩnh, hoà
nhập. Nó sẽ không là một. Thực tại là một. Nhưng
bây giờ hồ sẽ phản chiếu hàng triệu trăng; toàn thể bề
mặt của hồ có thể được rót đầy bàng bạc. Mọi nơi,
toàn trăng là trăng - nhưng điều này là không đúng.
Chân lí là một: khi tâm trí phản chiếu nó, nó trở thành
nhiều; khi tâm thức phản chiếu nó, nó là một.
Tâm thức không mang tính Hindu giáo không Mô
ha mét giáo không Ki tô giáo. Nếu bạn là người
Hindu bạn vẫn trong tâm trí, bị bóp méo. Nếu bạn là
người Mô ha mét giáo bạn là trong tâm trí, bị bóp
méo. Một khi tâm trí đã được lắng đọng và sóng
không còn đó nữa, bạn đơn giản là tâm thức - không
tính từ nào được gắn với nó, không điều kiện nào
được gắn với nó. Và thế thì chân lí là một. Thực tế,
ngay cả nói rằng chân lí là một cũng không đúng - bởi
vì một là có nghĩa chỉ trong ngữ cảnh của nhiều. Chân
lí là một tới mức ở phương Đông chúng ta chưa bao
giờ gọi nói là 'một'; chúng ta gọi nó là 'bất nhị', không
hai.
Tại sao chúng ta đã chọn cách nói vòng khi gọi nó
là 'không hai'? Chúng ta muốn nói rằng khó mà nói nó
là một, bởi vì một ngụ ý hai, ba, bốn. Chúng ta đơn
giản nói 'không hai'. Chúng ta không nói nó là gì,
chúng ta đơn giản nói nó không là gì. Không có
'nhiều' trong nó - có vậy thôi. Chúng ta phải diễn đạt
nó thông qua việc phủ định, bằng việc nói rằng nó
không là hai. Nó là một thế và nó là một mình thế; chỉ
nó tồn tại và không cái gì khác. Nhưng điều đó được
phản chiếu trong tâm thức khi tâm trí không còn đó
nữa. Khi tôi nói 'tâm trí không còn đó nữa', nhớ, tôi
không nói về tâm trí như một năng lực. Tâm trí không
phải là năng lực. Nó đơn giản là trạng thái bị quấy rối:
tâm thức vẩn vơ, run rẩy, rung rinh, không ở nhà.
Gió nào thổi lên tâm thức làm quấy rối nó? Phật
nói: Tên của gió đó là đam mê, ham muốn.
Quan sát, và bạn sẽ thấy chân lí của lời của Phật.
Nó là một sự kiện, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì
lí thuyết nào. Phật không quan tâm tới các hệ thống
trừu tượng; ông ấy đơn giản nói cái đang đó. Ông ấy
không phát biểu ra triết lí. Bao giờ cũng nhớ điều đó,
đừng bao giờ quên điều đó - rằng ông ấy rất mang
tính kinh nghiệm, tồn tại. Toàn thể cách tiếp cận của
ông ấy chỉ là nói điều gì đó mà bạn có thể kinh
nghiệm được ngay lập tức. Và kinh nghiệm của bạn sẽ
chứng minh rằng ông ấy đúng. Không có cách khác
để chứng minh đúng hay sai. Không có cách nào để
biện minh về nó.
Đôi khi ngồi im lặng; cho dù một khoảnh khắc để
ham muốn dừng lại, bạn sẽ thấy rằng mọi rối loạn đã
biến mất. Ngồi im lặng, không ham muốn cái gì; ngồi
im lặng, không đi vào tương lai; ngồi im lặng, mãn
nguyện; trong một khoảnh khắc đó bạn sẽ có khả
năng hiểu điều Phật ngụ ý. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy
rằng không có sóng chút nào. Mọi sóng đều đã mất.
Sóng dậy lên chỉ khi bạn ham muốn, khi bạn không
hài lòng với hiện tại và bạn hi vọng vào tương lai.
Ham muốn là căng thẳng giữa hiện tại và tương
lai. Trong căng thẳng đó, sóng dậy lên. Thế thì bạn bị
tan tành - và tâm thức rất mong manh. Tâm thức rất
mềm mại: chỉ một hơi chút ham muốn, chỉ một cái
nhoáng lên của ham muốn, và toàn thể cái hồ bị quấy rối. Đôi khi đi, quan sát, ngồi bên bờ hồ. Nhìn...
không có sóng. Ném một hòn đá cuội nhỏ, một hòn đá
rất nhỏ, vào cái hồ lớn nhất trong các hồ, và hòn đá
nhỏ đó sẽ bắt đầu tạo ra gợn sóng, và những gợn sóng
đó sẽ cứ lan toả tới bờ xa nhất. Chỉ hòn đá nhỏ thôi
cũng tạo ra nhiều rối loạn thế. Chỉ một ham muốn nhỏ
bé và rối loạn tới qua cửa sau. Ham muốn là rối loạn,
đam mê là cơn sốt. Trong đam mê bạn không phải là
bản thân mình. Trong đam mê bạn ở bên cạnh bản
thân mình. Trong đam mê bạn không được định tâm:
bạn đánh mất cân bằng. Trong đam mê bạn làm
những điều bạn thậm chí không thể tưởng tượng được
rằng bạn có thể đã làm. Nhiều kẻ giết người đã thú
nhận trước toà, trong suốt nhiều thế kỉ, rằng họ đã
không phạm tội ác; điều đó đã xảy ra. Họ đã vào cơn
cuồng nộ thế, họ gần như điên. Họ đã không làm điều
đó một cách có chủ ý; nó đã xảy ra. Họ không phải là
tội nhân, họ là nạn nhân của cơn cuồng nộ của riêng
họ. Bạn có thể nghĩ họ đang lừa dối; bạn có thể nghĩ
họ bây giờ đang cố gắng chạy trốn sự trừng phạt.
Không, nó không như vậy đâu.
Giết người là không thể được nếu bạn có ý thức,
nếu bạn im lặng, nếu bạn định tâm. Nó xảy ra chỉ khi
bạn không có, khi bạn bị che mờ thế, khi chỉ có sóng
và sóng và bề mặt hồ hoàn toàn bị khuấy động - thế
thì điều đó xảy ra. Tất cả mọi cái sai đều xảy ra chỉ
khi bạn bị rối loạn. Người tôn giáo thông thường nói,
"Hãy trau dồi tính cách." Phật nói: Hãy trau dồi tâm
thức. Thầy tôn giáo thông thường nói, "Làm điều
thiện." Phật nói: Im lặng và điều thiện sẽ được làm.
Điều thiện đi theo im lặng như cái bóng đi theo bạn.
Và không có cách nào để làm điều thiện chừng nào
bạn còn chưa im lặng. Bạn có thể làm điều thiện,
nhưng chỉ điều sai xảy ra nếu bạn không im lặng. Đó
là lí do tại sao cái gọi là người làm điều thiện lại cứ
làm cả nghìn lẻ một điều ác trong thế giới. Cái gọi là
người làm điều thiện của bạn là những người làm điều
ác nhất, nhưng họ đang làm điều thiện vì bạn đấy, họ
đang làm nó vì điều thiện, và bạn thậm chí không thể
trốn thoát được họ.
Mọi người đều biết rằng bố mẹ tốt là bố mẹ nguy
hiểm. Bố mẹ quá tốt thì nhất định là bố mẹ sai - bởi vì
họ sẽ cầm tù bạn. Quá tốt là mang tính phá huỷ. Bà
mẹ tốt sẽ phá huỷ bạn, bởi vì bản thân bà mẹ không
được định tâm. Cái tốt của bà ấy bị ép buộc; bà ấy
đang cố gắng để làm điều tốt. Cái tốt không phải là tự
nhiên và tự phát. Nó không giống như cái bóng; nó là
nỗ lực, nó là bạo hành. Cái gọi là các mahatma của
bạn cứ làm què quặt mọi người, phá huỷ mọi người,
phá huỷ tự do của họ theo nhiều cách. Họ cứ cố gắng
chi phối bằng các phương pháp tinh vi, theo cách tinh
tế. Nhưng toàn thể ham muốn là để chi phối, và rất dễ
chi phối ai đó khi bạn là người tốt. Người đó thậm chí
không thể nổi dậy chống lại bạn được. Chống lại
người mẹ tệ hại, bạn có thể trốn đi; nhưng phải làm gì
để chống lại người mẹ tốt? Bà ấy tốt tới mức bạn bắt
đầu cảm thấy khó chịu. Quan sát điều đó đi: mọi
người đều trải qua trạng thái đó, và nó phải được hiểu.
Bằng không thì bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng
chấp nhận bản thân mình.
Bất kì khi nào có đứa trẻ, nhất định có xung đột
nào đó giữa đứa trẻ và bố mẹ, đặc biệt giữa con và mẹ
lúc ban đầu, và thế rồi về sau với bố. Điều đó là tự
nhiên - bởi vì người mẹ có cách thức riêng của mình, ý tưởng riêng của mình, triết lí riêng của mình về
cuộc sống phải được sống thế nào. Và đứa trẻ gần như
hoang dã; nó chẳng biết về xã hội, về văn hoá, về tôn
giáo. Nó tới trực tiếp từ Thượng đế; nó hoang dã như
Thượng đế. Nó chẳng có gì ngoài tự do, cho nên nhất
định có xung đột nào đó. Và đứa trẻ phải được khai
tâm vào bức tường của xã hội. Nó không thể bị bỏ đấy
một mình - điều đó nữa cũng đúng. Cho nên xung đột
là tự nhiên. Nếu người mẹ rất tốt thì đứa trẻ lâm vào
khó khăn, nỗi khổ và lo âu rất lớn. Lo âu là ở chỗ đứa
trẻ yêu tự do của nó và nó biết, một cách bản năng,
rằng tự do là tốt. Tự do là giá trị bản chất. Không có
nhu cầu chứng minh rằng tự do là tốt - tự do là tốt rồi,
tự nó là tốt hiển nhiên. Mọi người được sinh ra với
ham muốn đó. Đó là lí do tại sao ở phương Đông
chúng ta gọi mục đích tối thượng là ‘tự do toàn bộ',
moksha: nơi ham muốn cố hữu được hoàn toàn đáp
ứng và người ta không bị giới hạn về bất kì loại nào.
Người ta tuyệt đối tự do, tự do vô điều kiện.
Mọi đứa trẻ được sinh ra với ham muốn cố hữu là
được tự do, và bây giờ ở mọi nơi đều có tù túng.
Người mẹ nói, "Không làm cái này, không làm cái
kia, ngồi đây, không đi ra kia." Và đứa trẻ cảm thấy bị
lôi kéo, xô đẩy từ mọi nơi. Bây giờ, nếu người mẹ mà
xấu, thì không có mấy khó khăn; đứa trẻ có thể nghĩ
rằng người mẹ là xấu và sâu trong lòng nó có thể bắt
đầu ghét mẹ. Đơn giản, đó là chuyện số học - mẹ đang
phá huỷ tự do của nó và nó ghét mẹ. Có thể, bởi các lí
do chính trị, nó không thể bày tỏ được điều đó, cho
nên nó trở thành nhà ngoại giao. Nó biết rằng mẹ là
người đàn bà tồi tệ nhất trên thế giới, nhưng nó cứ
dẻo môi tán đồng.
Nhưng nếu người mẹ mà tốt thế thì vấn đề nảy
sinh. Thế thì đứa trẻ lúng túng để hình dung ra điều
đó; người mẹ là tốt... và tự do là tốt: "Bây giờ, nếu mẹ
là tốt thế thì mình phải sai, và tự do của mình phải sai.
Nếu mình là tốt và tự do của mình là tốt, thế thì mẹ
phải sai." Bây giờ, nghĩ rằng người mẹ sai là không
thể được - bởi vì bà ấy thực sự tốt, và bà ấy cứ chăm
sóc, yêu thương, và làm cả nghìn lẻ một điều cho đứa
trẻ. Người mẹ thực sự tốt, đứa trẻ biết rằng mẹ là tốt.
Cho nên chỉ có một khả năng để quyết định, và đó là:
"Mình phải sai. Mẹ là tốt, mình phải sai."
Một khi đứa trẻ bắt đầu nghĩ, "Mình phải sai," thì
nó bắt đầu bác bỏ bản thân mình. Tôi thường chẳng
bao giờ bắt gặp một người chấp nhận bản thân mình
một cách toàn bộ. Và nếu bạn không chấp nhận bản
thân mình một cách toàn bộ thì bạn sẽ không bao giờ
trưởng thành - bởi vì trưởng thành là từ chấp nhận.
Nếu bạn cứ bác bỏ bản thân mình, bạn đang tạo ra
chia chẻ. Bạn sẽ bị tinh thần phân liệt. Phần mà bạn
bác bỏ sẽ treo quanh cổ bạn như gánh nặng lớn, nỗi
buồn lớn, nỗi lo âu lớn, sự căng thẳng. Bạn không thể
ném nó đi được, bởi vì nó là một phần của bạn; nó
không thể bị phân chia. Nhiều nhất bạn có thể ném nó
vào trong vô thức. Bạn có thể trở nên không nhận biết
về nó, bạn có thể quên mất nó, bạn có thể tin rằng nó
không có đó. Đó là cách vô thức được tạo ra.
Vô thức không phải là thứ tự nhiên. Vô thức là bộ
phận của bản thể bạn mà bạn đã bác bỏ, và bạn thậm
chí còn không muốn xoá nó đi, bạn không muốn
đương đầu với nó, bạn không muốn thấy rằng nó tồn
tại chút nào. Nó có đó; sâu bên dưới trong bản thể bạn
nó cứ thao túng bạn. Và nó sẽ lấy nhiều kiểu báo thù, bởi vì nó cũng cần diễn đạt. Bây giờ đây là toàn thể
khổ của con người. Người mẹ 'tốt' có thể tạo ra ý
tưởng về đứa con 'xấu'. Bản thân đứa trẻ bắt đầu tự
bác bỏ mình. Đây là phân chia, chia chẻ trong cá tính.
Đứa trẻ đang trở nên bị loạn thần kinh.
Bởi vì cảm thấy tốt với bản thân mình nên là điều
tự nhiên và dễ dàng. Đó là điều những người thuyết
giảng tôn giáo của bạn cứ làm mãi, điều các tu sĩ của
bạn cứ làm mãi: đi tới đền thờ, đi tới đền chùa, đi tới
nhà thờ, và họ có đó - đùng đùng, kết án, sẵn sàng
ném bạn vào địa ngục, sẵn sàng thưởng cho bạn cõi
trời nếu bạn nghe họ, nếu bạn theo họ. Tất nhiên bạn
không thể tuân theo được bởi vì đòi hỏi của họ là
không thể được, và đòi hỏi của họ là không thể được
bởi vì họ không chỉ cho bạn cách thức là tốt. Họ đơn
giản nói. "Hãy tốt."
Cách thức để là tốt chẳng liên quan gì tới việc là
tốt cả. Cách thức để là tốt có liên quan tới việc định
tâm, với nhận biết. Là tốt chẳng có liên quan gì tới
tính cách của bạn cả. Người thực sự tốt không có tính
cách nào cả; người đó là phi tính cách. Và khi tôi nói
'phi tính cách', tôi ngụ ý người đó không có áo giáp,
không đeo giáp trụ quanh mình. Người đó không
phòng thủ quanh mình, người đó đơn giản cởi mở.
Người đó phi tính cách như đoá hoa. Người đó không
tốt không xấu. Người đó đơn giản có đó - tỉnh táo, ý
thức, đáp ứng. Nếu cái gì đó xảy ra người đó sẽ đáp
ứng, nhưng người đó sẽ đáp ứng trực tiếp, người đó sẽ
đáp ứng từ cái ở đây. Người đó sẽ đáp ứng từ cái bây
giờ, người đó sẽ không đáp ứng từ quá khứ. 'Tính
cách' nghĩa là: bạn cứ mang ra những thứ mà bạn đã
học trong quá khứ của mình. 'Tính cách' nghĩa là:
lương tâm đã được thuyết giảng cho bạn và áp đặt lên
bạn. Lương tâm là nhà tù cho tâm thức.
Phật đã đem cuộc cách mạng vào thế giới tôn
giáo, cuộc cách mạng lớn nhất đã từng có. Cuộc cách
mạng là thế này: rằng ông ấy nhấn mạnh vào tâm thức
và không vào lương tâm. Ông ấy nhấn mạnh vào nhận
biết chứ không vào tính cách. Tất nhiên, tính cách tới
một cách tự động, nhưng nó tới như cái bóng. Bạn
không mang nó; nó không phải là gánh nặng. Bạn đã
bao giờ quan sát chưa? - cái bóng của bạn cứ đi theo
bạn, và bạn không bị nặng gánh, và bạn không cần
chăm sóc tới nó. Bạn không cần nghĩ tới nó. Thậm chí
bạn quên hoàn toàn thì nó vẫn sẽ có đấy. Bạn không
thể làm mất nó.
Phật nói: Tính cách là thực chỉ khi bạn không thể
đánh mất được nó. Nếu bạn sợ rằng bạn có thể đánh
mất nó, thế thì nó là lương tâm và không phải là tâm
thức.
Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu trước khi
chúng ta đi vào những lời kinh này là ở chỗ con người
trở nên mù quáng bởi đam mê, bởi ham muốn. Và tại
sao con người trở nên mù quáng bởi đam mê và ham
muốn? Bởi vì ham muốn và đam mê đem tới hai thứ:
thứ nhất, không bằng lòng với hiện tại. Đó là chính
gốc rễ của ham muốn. Nếu bạn hài lòng với hiện tại,
ham muốn không thể tồn tại được. Ham muốn có thể
tới trong sự tồn tại chỉ với không bằng lòng.
Nhìn xem... Nếu bạn đang ngồi dưới gốc cây và
nếu bạn hài lòng trong khoảnh khắc này - và tôi
không thấy tại sao bạn lại phải không hài lòng trong
khoảnh khắc này - thế thì không có ham muốn. Và khi không có ham muốn, thì có bình thản thế, im lặng thế.
Im lặng trở thành vững chắc tới mức bạn gần như có
thể chạm vào nó, bạn có thể nếm trải nó, bạn có thể
cầm nó trong tay mình.
Bất kì khi nào có mãn nguyện, đều không có ham
muốn. Khi không có ham muốn, bạn ở nhà, thảnh
thơi. Trong trạng thái thảnh thơi đó, không có tâm trí.
Tâm trí là căng thẳng được tích luỹ lại. Tâm trí không
phải là khả năng, tâm trí chỉ là một bó các ham muốn
của bạn, mọi con sóng mà bạn cứ tạo ra. Đam mê này
mất đi; trước khi nó bị mất đi bạn đã dính líu vào đam
mê khác rồi. Ham muốn này được kết thúc, và thậm
chí trước khi nó được kết thúc bạn bắt đầu lập kế
hoạch cho chuyến đi khác vào tương lai.
Cho nên bạn cứ chạy xô tới tương lai và bạn cứ
bỏ lỡ hiện diện. Và hiện diện là có thể chỉ trong hiện
tại. Và khi bạn đang ở hiện tại thì không có tâm trí.
Và trạng thái này của vô trí là mục đích, mục đích của
phật giáo.
Khi không có căng thẳng, không suy nghĩ, không
ham muốn, không đam mê, thì phấn chấn lớn lao nảy
sinh trong linh hồn bạn; nó trào lên. Đó chính là phúc
lành đấy. Bạn cảm thấy cực kì hạnh phúc, và bạn cảm
thấy sung sướng chẳng bởi lí do nào. Bạn cảm thấy
cực kì phấn chấn - nhưng phấn chấn này không có
nguyên nhân cho nó. Không phải là bạn đã uống
thuốc nào đó, hay rượu cồn; không phải là bạn đã
tụng mật chú - bởi vì mật chú cũng làm thay đổi hoá
chất của bạn. Lặp lại thường xuyên âm thanh nào đó
đem lại thay đổi trong hoá chất thân thể bạn. Nó là
thuốc. Câu mật chú là thuốc, thuốc rất tinh tế: nó tạo
ra sóng trong bản thể bạn. Và nếu bạn cứ tụng mật
chú nào đó - Aum...Aum...Aum - dần dần, âm 'Aum'
làm thay đổi toàn thể hoá chất thân thể bạn.
Hay bạn có thể nhịn ăn. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn
này: những người thuyết giảng nhịn ăn đều chống lại
thuốc, nhưng nhịn ăn là việc thay đổi hoá chất. Nó là
thuốc cũng như bất kì thuốc nào khác. Khi bạn nhịn
ăn bạn làm gì? - bạn không cung cấp những những
hoá chất nào đó cho thân thể mình - những hoá chất
mà, nếu không được cung cấp, cân bằng của các hoá
chất bên trong sẽ bị thay đổi. Nó cũng là một cả thôi.
Hoặc là bạn uống thuốc nào đó - cái làm thay đổi tỉ lệ
hoá chất bên trong của bạn; hoặc bạn dừng ăn thức ăn
- điều đó làm thay đổi cân bằng hoá chất bên trong
của bạn. Khi mọi người cảm thấy phấn chấn, khi
Mahatma Gandhi nói rằng ông ấy cảm thấy rất phấn
chấn lúc ông ấy nhịn ăn, ông ấy không nói gì khác với
điều Timothy Leary nói. Cả hai đều nói cùng một
điều: cả hai đều nói về hoá chất. Mặc dầu thông
thường chúng ta không coi nhịn ăn như thuốc, nó vẫn
là thuốc - nó có thể làm cho bạn phấn chấn, nó có thể
làm cho bạn thành vô trọng lượng.
Hoặc bạn có thể cứ tụng niệm. Tụng niệm tạo ra
thay đổi trong hoá chất thân thể vật lí. Đó là lí do tại
sao vài âm thanh lại đã trở nên rất quan trọng. Trong
suốt nhiều thế kỉ nhiều người đã thử nhiều mật chú.
Thế rồi vài mật chú đã thành công và vài mật chú thì
thất bại. Những mật chú đã thành công là những mật
chú đem lại ngay thay đổi cho hoá chất của bạn. Bạn
có thể gọi nó là Thiền Siêu việt: nó lại là thuốc thôi.
Bây giờ, Maharishi Mahesh Yogi rất chống lại thuốc,
và bản thân thiền siêu việt TM lại là thuốc tinh vi. 

Hay, bạn có thể thay đổi hoá chất thân thể mình
qua các tư thế, yoga; bạn có thể thay đổi hoá chất thân
thể mình qua những kiểu thở nào đó - nhưng tất cả
những thay đổi đổi đó về căn bản vẫn là hoá học. Khi
bạn thở sâu bạn đem nhiều ô xi tới cho thân thể, và
nhiều ô xi trong thân thể bắt đầu làm thay đổi hoá
chất của bạn - bạn bắt đầu cảm thấy phấn chấn. Khi
bạn không thở sâu nhiều các bô nic tụ tập lại trong
phổi. Tỉ lệ thay đổi; bạn cảm thấy đờ đẫn, bạn cảm
thấy ỉu xìu, bạn cảm thấy trì trệ. Vâng, từ đó là đúng
đấy: bạn cảm thấy rất 'bị ép' bởi cái gì đó. Chính các
bô nic đem tới trì trệ; bạn ở dưới tảng đá.
Nhưng đây tất cả đều là những thay đổi - vật lí,
hoá học. Chúng không đi sâu hơn thế. Phật nói: nhận
biết, nhận biết và mãn nguyện... Ông ấy thậm chí
không thuyết giảng hình mẫu nào đó, nhịp điệu thở
nào đó. Ông ấy nói: Để thở như tự nhiên. Ông ấy
không thuyết giảng nhịn ăn; ông ấy thuyết giảng ăn
đúng, đúng lượng thức ăn. Ông ấy không thuyết giảng
thức trong đêm. Có nhiều giáo phái, đặc biệt là Mô ha
mét giáo, những người vẫn duy trì thức cả đêm. Điều
đó nữa cũng làm thay đổi hoá chất thân thể.
Phật đơn giản nói: Một điều được cần tới, và đó là
ông không nên đi vào tương lai, ông nên vẫn còn
trong hiện tại ở đây bây giờ. Bạn nên vẫn còn hài lòng
với khoảnh khắc này. Đi cùng khoảnh khắc này, đừng
đi lên trước, đừng nhảy lên trước. Cứ để không có
đam mê. 'Đam mê' nghĩa là: nhảy lên trước bản thân
mình. Thế thì bạn tạo ra lo âu, thế thì bạn tạo ra thất
vọng, thế thì bạn tạo ra lo nghĩ, và thế thì cả nghìn lẻ
một con sóng nảy sinh trên bề mặt tâm thức của bạn.
Bạn trở thành tâm trí. Khi những con sóng này biến
mất, bạn lại là tâm tâm thức. Thỉnh thoảng thử điều
đó đi.
Gurdjieff hay cho các đệ tử của ông ấy một
phương pháp. Ông ấy thường gọi nó là 'dừng việc
tập'. Ông ấy dạy các đệ tử là đôi khi, đột nhiên, dừng
toàn thế giới lại. Bằng việc dừng bản thân mình lại,
bạn có thể dừng cả thế giới lại. Bạn đang bước đi trên
đường; bỗng nhiên, với cú giật lại, bạn dừng lại.
Trong nửa giây bạn đơn giản bất động. Việc bất động
bất thần đó cũng sẽ giúp ích cho tâm trí dừng lại - bởi
vì tâm trí cần thời gian. Nếu bạn dừng dần dần, chầm
chậm, thế thì tâm trí sẽ không dừng đâu; nó sẽ được
điều chỉnh. Nếu bạn đột nhiên dừng lại thế thì có cú
sốc; tâm trí dừng lại. Trong khoảnh khắc của việc
dừng lại bất thần đó bạn sẽ có khả năng thấy rằng
toàn thế giới đã dừng lại, bởi vì tất cả mọi con sóng
đều đã biến mất.
Thử nó đi. Đang nhảy múa, đột nhiên dừng lại!
Đang chạy, đột nhiên dừng lại. Đang bơi, đột nhiên
dừng lại. Đang nói, đột nhiên dừng lại - và trong một
khoảnh khắc tuyệt đối bất động, cứ dường như bạn đã
trở thành bức tượng - và bạn sẽ thấy rằng tâm trí mình
đã dừng lại, trong một phần giây, tất nhiên. Rồi nó lại
chiếm quyền sở hữu bạn, nhưng trong khoảnh khắc đó
bạn sẽ thấy rằng nó im lặng đến mức nó sẽ trở thành
thoáng nhìn, nó sẽ trở thành sự hỗ trợ lớn lao. Và bạn
sẽ biết rằng đây là cách thực tế đang hiện hữu. Trong
một khoảnh khắc đó, cái đang đó sẽ hiển lộ bản thân
nó cho bạn. Đó chính là Thượng đế là gì đấy, hay
chân lí, hay niết bàn. 

Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được.
Lau sạch trái tim bạn khỏi cặn bã của đam mê. Và
thực tế, để làm điều đó, chẳng cần gì nhiều. Không
hẳn là trường hợp bạn bị trở nên không thuần khiết
đâu. Bạn đơn giản bị quấy rối, có vậy thôi; đó là điều
không thuần khiết nghĩa là gì. Bất kì khi nào bạn
không bị quấy rối, thì không thuần khiết đều biến mất.
Không thuần khiết không phải là cái gì đó đã đi vào
trong bản thể bạn. Nó chỉ ở trên bề mặt thôi, tựa như
sóng. Cho nên nếu bạn muốn nó xảy ra, nó có thể xảy
ra ngay bây giờ. Và đừng chơi đùa với những lời giải
thích. Đừng nói, "Làm sao nó có thể xảy ra ngay bây
giờ được? Mình có nhiều nghiệp phải thanh toán
trước hết." Tất cả đều vô nghĩa! thủ đoạn của tâm trí
để trì hoãn. Tâm trí nói, "Làm sao mình có thể làm
điều đó ngay bây giờ được? Trước hết mình phải
thanh toán nghiệp của nhiều, nhiều kiếp." Nhưng bạn
có biết bạn đã ở đây bao nhiêu kiếp rồi không? Hàng
triệu kiếp rồi! Nếu bạn thực sự phải thanh toán các
nghiệp đó, bạn sẽ lại cần hàng triệu kiếp để thanh toán
chúng. Và sau khi bạn đã thanh toán chúng thì hàng
triệu kiếp sẽ lại trôi qua - và trong những kiếp này bạn
lại sẽ làm thêm nhiều nghiệp. Không có cách nào để
tránh được điều đó. Nếu bạn sống động bạn sẽ làm
điều gì đó này khác. Bạn sẽ ăn cái gì đó, nghiệp được
tạo ra. Bạn sẽ thở, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ bước đi,
nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ ngủ, nghiệp được tạo ra.
Bất kì hành động nào cũng đều là nghiệp. Cho nên
đây là cái vòng luẩn quẩn. Trong hàng triệu kiếp bạn
đã tồn tại; bây giờ thanh toán những nghiệp đó, lại sẽ
cần tới hàng triệu kiếp. Và cho dù sau đó, không cái
gì sẽ được thanh toán nữa - bởi vì trong hàng triệu
kiếp sống bạn sẽ lại tạo ra nghiệp. Thế thì bạn không
thể thoát ra khỏi điều này, ra khỏi cái đống lộn xộn
này. Thế thì không có lối ra.
Phật nói: Bao giờ cũng có lối ra. Vấn đề không
phải là thanh toán nghiệp quá khứ, vấn đề đơn giản là
thanh toán trạng thái hiện tại của tâm trí, có vậy thôi.
Đó chỉ là ở đây bây giờ. Nếu bạn hiểu, việc thanh
toán có thể xảy ra. Bạn chưa bao giờ làm cái gì cả;
bạn đơn giản đang mơ đấy thôi. Hành động hay tác
nhân, người làm và việc làm - tất cả đều là mơ.
Phật nói: cốt lõi bên trong nhất của ông đơn giản
là trống rỗng. Nó chưa bao giờ làm điều gì. Nó không
thể làm được. Nó là nhân chứng, bởi chính bản chất
của nó.
Quan sát nó đi. Tìm ra liệu điều ông ấy nói là
đúng hay không. Thử điều đó trong cuộc sống của
bạn. Bạn đã là đứa trẻ, bây giờ bạn không còn là đứa
trẻ nữa; thế rồi bạn đã là thanh niên, bây giờ bạn
không còn trẻ nữa; bây giờ bạn đã trở nên già; thân
thể thời thơ ấu đã mất rồi, tâm trí thời thơ ấu đã biến
mất. Thế rồi bạn có một thân thể khác trong tuổi
thanh niên của mình - cái đó đã qua đi. Cường tráng,
sống động, tuổi thanh xuân, cái đẹp - mọi thứ đều đã biến mất. Bạn đã có một kiểu tâm trí khác - quá tham
vọng, quá ham muốn, quá bản ngã. Bây giờ tất cả
những cái đó đều là câu chuyện của quá khứ. Bây giờ
cái chết đang tới; bạn có thể nghe thấy âm thanh của
việc tới của nó mỗi ngày một gần hơn. Bạn có thể
cảm thấy rằng mọi ngày khoảng cách đang trở nên
nhỏ dần. Nhưng quan sát một điều: bạn vẫn còn như
cũ. Cốt lõi bên trong nhất của bạn đã không thay đổi
một chút nào, nó đã không thay đổi chút nào. Khi bạn
là đứa trẻ, nó vẫn là cùng tâm thức đó quan sát từ
đằng sau. Bạn là thanh niên; nó vẫn là cùng tâm thức
đó, quan sát. Thế rồi bạn trở nên già; nó vẫn là cùng
tâm thức đó.
Cứ dường như tâm thức là tấm gương. Đứa trẻ
đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu đứa trẻ;
thanh niên đứng trước tấm gương, tấm gương phản
chiếu thanh niên đó; ông già đứng trước tấm gương,
tấm gương phản chiếu ông già này - nhưng tấm gương
thì không là đứa trẻ, không là thanh niên, không là
ông già. Và khi tất cả đều đã qua đi đơn giản chỉ còn
tấm gương phản chiếu cái không, chỉ hiện hữu ở đó.
Tâm thức bạn là tấm gương.
Biểu dụ này về tấm gương là cực kì có ý nghĩa.
Nó sẽ rất có ích về Đạo nếu bạn có thể hiểu được nó.
Tâm thức đang đứng đằng sau, quan sát. Nó là nhân
chứng. Mọi sự tới rồi đi... cũng giống như bộ phim.
Bạn ngồi trong rạp chiếu phim; trên màn ảnh nhiều
điều tới rồi đi. Đôi khi bạn bị đồng nhất nữa. Đôi khi
bạn trở nên bị đồng nhất với diễn viên. Có thể anh ta
đẹp, mạnh mẽ, có duyên, duyên dáng của cá tính, gây
ấn tượng, có sức hấp dẫn nào đó: bạn bị đồng nhất,
bạn quên mất bản thân mình. Trong một khoảnh khắc
bạn bắt đầu nghĩ cứ dường như anh ta là bạn. Đôi khi
điều xảy ra là có một cảnh rất buồn, và bạn bắt đầu
khóc. Mắt bạn đẫm lệ... và chẳng có gì trên màn ảnh
cả - chỉ là ánh sáng và bóng tối trôi qua. Và bạn biết
điều đó chứ, nhưng bạn đã quên mất trong một
khoảnh khắc. Nếu bạn nhớ điều đó, bạn sẽ bắt đầu tự
cười mình: "Mình làm gì thế này? kêu à? khóc à?"
Nhưng điều đó xảy ra khi bạn đọc tiểu thuyết nữa. Ít
nhất có cái gì đó trên màn ảnh. Đọc tiểu thuyết thì
chẳng có gì cả - không màn ảnh, không diễn viên,
chẳng có gì. Chỉ trong tưởng tượng riêng của bạn mà
tiểu thuyết cứ diễn ra mãi. Và bỗng nhiên đôi khi bạn
cảm thấy rất hạnh phúc, và đôi khi bạn cảm thấy rất
buồn; bầu không khí của tiểu thuyết bắt đầu sở hữu
bạn.
Đây đích xác là điều đang xảy ra trong cuộc sống.
Cuộc sống là một sân khấu lớn, một vở kịch lớn. Và
nó rất phức tạp - bởi vì bạn là diễn viên, và bạn là đạo
diễn, và bạn là cuốn phim, và bạn là màn ảnh, và bạn
lá máy chiếu, và bạn là khán giả nữa. Bây giờ bạn là
tất cả các tầng: một phần đóng vai trò của diễn viên,
phần khác chỉ đạo, phần khác vận hành như màn ảnh,
phần khác có tác dụng như máy chiếu. Và đằng sau
tất cả những cái đó là thực tại của bạn - nhân chứng,
người đang quan sát.
Người quan sát này... Một khi bạn bắt đầu cảm
thấy sự tồn tại của nó, một khi bạn bắt đầu được lắng
đọng với nó, ngày một hoà điệu với nó, thế thì bạn sẽ
thấy điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói tâm thức là tấm
gương. Tấm gương không bao giờ bị ô uế, nó chỉ
dường như vậy thôi. Bạn có thể để cả đống phân trước tấm gương; tất nhiên, nó sẽ phản chiếu đống phân đó.
Nhưng dầu vậy tấm gương vẫn không bị ô uế, nó
không bị ô nhiễm. Nó không trở nên không thuần
khiết bởi vì đống phân được phản chiếu trong nó. Nó
vẫn còn thuần khiết. Bỏ phân đi và tấm gương có đó
trong mọi sự thuần khiết của nó. Ngay cả khi phân
được phản chiếu thì tấm gương cũng vẫn không bị ô
uế. Cho nên bất kì điều gì là không thuần khiết thì đều
thực sự là việc phản chiếu; nó được soi gương. Và
Phật nói: Nếu ông đánh sạch xỉ này, bụi của điều ác
và đam mê, hạnh kiểm của ông sẽ không thể nghi ngờ
được.
Cho nên nhấn mạnh không vào hạnh kiểm. Nhấn
mạnh là vào thuần khiết tựa tấm gương của tâm thức.
Phật nói:
Ngay cả nếu người ta thoát ra từ việc tạo tác ác,
vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm
người.
Đây là bẩy vận may hi hữu lớn lao. Phật nói về
chúng nhiều lần, theo nhiều cách. Chúng phải được
hiểu; chúng có tầm quan trọng lớn lao.
Thứ nhất: vận may hi hữu là được sinh ra làm
người. Tại sao? Tại sao lại không phải là vận may hi
hữu để được sinh ra như chó? hay như trâu? hay như
lừa? hay như cây? hay như đá? Tại sao ân huệ hi hữu
lại là được sinh ra làm người? - bởi vì ngoại trừ con
người, toàn thể tự nhiên đều đang ngủ say. Bạn cũng
không thức tỉnh. Để tôi nhắc lại: toàn thể tự nhiên
đang ngủ ngoại trừ con người, và con người cũng
không thức tỉnh, mà ở chính giữa.
Đôi khi điều xảy ra buổi sáng là bạn cứ lật mình
và trở mình trên giường. Bạn biết rằng bây giờ là lúc
dậy, mà dầu vậy vẫn còn giấc ngủ. Nó là trạng thái
lưng chừng. Bạn có thể nghe thấy người đưa sữa nói
với vợ mình, bạn có thể nghe thấy tiếng trẻ con léo
nhéo và chuẩn bị đi tới trường, bạn có thể nghe thấy
tiếng xe bus dừng bên ngoài nhà để đón lũ trẻ, và dầu
vậy việc mơ vẫn tiếp tục. Bạn vẫn cảm thấy buồn ngủ,
mắt vẫn nhắm. Thỉnh thoảng bạn trôi giạt vào giấc
ngủ, thỉnh thoảng bạn trôi giạt ra khỏi nó. Đây là
trạng thái của con người.
Và Phật nói: Đó là ân huệ hi hữu - bởi vì toàn thể
tự nhiên đang trong ngủ rất say, ngủ say tới mức thậm
chí không có mơ. Nó đang trong trạng thái sushupti.
Con người đã đi tới trạng thái thứ hai: trạng thái của
việc mơ. Ít nhất có mơ nào đó. Mơ nghĩa là bạn
không ngủ say thêm nữa. Bạn chắc chắn không thức
tỉnh, bởi vì khi bạn trở nên thức tỉnh thì bạn thành vị
phật. Bạn đang ở đâu đó lưng chừng giữa con vật và
vị phật. Bạn đang treo trong trình trạng lấp lửng.
Và Phật nói: Đó là một cơ hội lớn lao, một ân huệ
hi hữu - bởi vì nếu bạn nỗ lực thêm chút ít thì bạn có
thể trở nên thức tỉnh. Chó không thể trở nên thức tỉnh
được, dù nó nỗ lực đến đâu. Cây không thể trở nên
thức tỉnh được; dù nó cố gắng đến đâu, điều đó là
không thể được. Nếu cây cố gắng cần mẫn, nó sẽ trở
thành chó. Nếu chó cố gắng cần mẫn, chó có thể trở
thành người. Nhưng thức tỉnh chỉ xảy ra khi bạn là con người. Con đường đi tới Thượng đế chỉ đi từ con
người thôi. Và ở phương Đông chúng ta nghĩ - và ý
nghĩ này có nhiều tính hợp thức trong nó - rằng ngay
cả các devas, các thiên thần, các thần, cũng không
được ân huệ như con người đâu. Vì sao? Bởi vì con
người đứng ở ngã tư đường. Ngay cả các thần mà
muốn được giải thoát, họ sẽ phải được sinh ra như con
người.
Con vật đang ngủ say, con người ở ngay điểm
giữa đường, và các thần ở trong mơ của họ quá nhiều.
Thế giới các thần là thế giới mơ. Đó là lí do tại sao họ
có nhiều cảnh tượng hay thế: nó là thế giới mơ, tưởng
tượng. Họ sống trong tưởng tượng. Con người sống ở
ngay giữa đường, và có khả năng con người có thể đi
tới những trạng thái thức tỉnh hơn của hiện hữu. Con
người có thể trở thành sự thức tỉnh.
... vận may hi hữu của người ta là được sinh ra
làm người.
Cho nên đừng bỏ lỡ cơ hội lớn lao này. Chỉ sau
tranh đấu rất lớn lao bạn mới được sinh ra làm người.
Làm phí hoài nó quả là đơn giản lố bịch. Trong hàng
triệu kiếp bạn đã đi tới trạng thái này. Bởi vì bạn đã
tới, bạn có thể phá huỷ nó chỉ bằng việc ăn, uống và
vui vẻ. Bạn có thể đơn giản đánh mất toàn thể cơ hội
này. Có những người mà nếu bạn bảo họ cầu nguyện
hay thiền, họ sẽ nói, "Thời gian đâu? Chúng tôi không
có thời gian." Và thế rồi bạn có thể thấy họ chơi bài
trong câu lạc bộ, và bạn hỏi, "Anh đang làm gì vậy?"
Và họ nói, "Giết thời gian" - vẫn cùng những người
đó. Khi đó là vấn đề về việc thiền họ nói, "Nhưng
không có thời gian." Và khi đó là vấn đề uống rượu,
hay đánh bạc, hay đi xem phim, hay chỉ ngồi dính
chặt hàng giờ trước chiếc ti vi, họ lại có đủ thời gian.
Thế thì bạn hỏi họ; họ nói, "Chúng tôi đang giết thời
gian."
Bạn đang giết thời gian, hay thời gian đang giết
bạn? Ai đã từng có khả năng giết thời gian? Bằng
không, với bao nhiêu người đã từng giết thời gian như
vậy, thì đến lúc này, thời gian chắc phải chết rồi.
Chẳng ai đã từng có khả năng giết thời gian. Thời
gian giết mọi người. Từng khoảnh khắc - thời gian
đều đem tới cái chết. Ở Ấn Độ chúng ta có cùng một
từ cho cả hai: thời gian chúng ta gọi là kal; và với cái
chết chúng ta cũng có cùng cái tên, kal... bởi vì thời
gian đem tới cái chết.
Thời gian là cái chết. Từng khoảnh khắc, bạn
đang trượt vào trong cái chết. Từng khoảnh khắc, cái
chết đang tới ngày một gần hơn, gần hơn. Mọi đồng
hồ đều phục vụ cho cái chết. Toàn thể thời gian đều
phục vụ cho cái chết. Và làm người chính là một cơ
hội hi hữu, và rất dễ đánh mất nó. Phật nhắc nhở
chúng ta. Điều thứ hai ông ấy nói:
Nếu người ta sinh ra được làm người, vận may hi
hữu của người ta là có sáu giác quan hoàn chỉnh.
Có những người có thể được sinh ra là người,
nhưng lại mù, hay điếc, hay câm, hay đầu óc trì trệ.
Thế nữa cũng là điều không thể được - Chẳng ai đã
từng nghe nói về bất kì người đầu óc trì trệ nào lại trở
thành vị phật. Điều đó chưa bao giờ được biết tới,
điều đó là không thể có được. Cần có thông minh lớn lao. Rất khó trở nên nhận biết nếu giác quan của bạn
bị thiếu - bởi vì với nhận biết, nhạy cảm là điều phải
có. Người có mắt và người không có mắt ở hai trạng
thái khác nhau, trạng thái khác hẳn nhau. Người có
mắt nhạy cảm hơn, bởi vì mắt là phần nhạy cảm nhất
của thân thể. Tám mươi phần trăm nhạy cảm của bạn
thuộc vào mắt. Người mù chỉ có hai mươi phần trăm
nhạy cảm so với người có mắt. Người mù bị bao trong
bóng tối tinh tế, và không có cách nào để thoát ra khỏi
nó. Người đó sống bị bao quanh trong một nhà tù rất
tinh tế. Rất khó thoát ra khỏi nó.
Đôi mắt bên ngoài của bạn cho bạn thoáng nhìn
nào đó, tầm nhìn nào đó, và bạn có thể bắt đầu suy
nghĩ về con mắt bên trong nữa. Nhưng người không
có con mắt bên ngoài thì không thể quan niệm nổi về
con mắt thứ ba là gì. Người chưa bao giờ nhìn thấy
cái gì thì không thể có cái nhìn thấu suốt được. Nếu
cái ‘nhìn ra' bị thiếu, cái nhìn vào sẽ bị thiếu; chúng
tồn tại theo cặp. Đó là lí do tại sao khi bạn thấy người
mù, lòng từ bi lớn lao lại nảy sinh trong bạn. Chỉ quan
sát người mù người ta cảm thấy rất, rất từ bi. Tại sao?
Người này khuyết tật nhiều thế. Người này là con
người đấy, vậy mà tám mươi phần trăm kinh nghiệm
mầu sắc, ánh sáng, lại bị thiếu. Toàn thể cuộc sống
của người đó là vô mầu; người đó không biết mầu lục
là gì. Nghĩ về bản thân bạn mà xem: nếu bạn chưa bao
giờ biết tới hoa hồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy
cầu vồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời
mọc và mặt trời lặn, nếu bạn chưa bao giờ thấy khuôn
mặt người đàn bà hay đàn ông đẹp, nếu bạn chưa bao
giờ thấy cái đẹp, con mắt hồn nhiên của đứa trẻ, nếu
bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt, vẻ duyên dáng của
người đã đạt tới, bị bạn bị lỡ biết bao nhiêu.
Bạn sẽ giống như tảng đá, ít giống con người.
Phật không chống lại giác quan; câu này sẽ chứng
minh điều đó cho bạn. Phật nói: Cảm giác, và thèm
khát cảm giác là xấu, nhưng giác quan là tốt. Và mang
tính nhạy cảm là tuyệt đối cần thiết. Cho nên trở nên
nhạy cảm hơn đi.
Để tôi làm điều đó rõ ràng cho bạn. Nếu bạn dùng
mắt chỉ để đạt tới thèm khát và bạn cứ tìm kiếm thèm
khát, thế thì mắt bạn sẽ dần dần trở thành đờ đẫn. Con
mắt thèm khát bao giờ cũng đờ đẫn. Con mắt thèm
khát bao giờ cũng xấu. Nếu một người nhìn bạn với
con mắt thèm khát, bạn bỗng nhiên cảm thấy bị xúc
phạm - người đó đang xâm phạm. Mắt người đó giống
như con dao đâm vào tim. Người đó không phải là
người có văn hoá, người đó không lịch sự chút nào.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin đi vào một văn phòng; anh ta
phải đã tới bởi công việc nào đó. Tiếp viên là một
người đàn bà đẹp. Anh ta nhìn cô ấy với đôi mắt thèm
khát thế, và rồi anh ta hỏi, "Phòng tắm ở đâu?" Người
đàn bà nói, "Anh đi thẳng tới cuối hành lang. Anh sẽ
thấy một phòng có dấu hiệu 'Nam' - và đừng để dấu
hiệu đó ngăn cản anh. Cứ đi vào." 

Khi bạn nhìn người đàn bà với đôi mắt thèm khát
thì bạn không phải là quí ông lịch sự. Thực sự, bạn có
chút ít vô nhân. Khi đôi mắt nhạy cảm, không thèm
khát, chúng có chiều sâu. Khi mắt không nhạy cảm,
mà chỉ thèm mãnh liệt cảm giác, chúng nông cạn. Và
bạn sẽ thấy chúng đục ngầu: chúng sẽ không trong
suốt. Khi đôi mắt cực kì nhạy cảm, thế thì chúng có
chiều sâu, chiều sâu trong suốt. Bạn có thể nhìn vào
chúng và bạn có thể đạt tới chính trái tim của người
đó. Người đó trở thành sẵn có qua đôi mắt của mình,
và qua đôi mắt bạn có thể thấy mình đang gặp kiểu
người nào.
Mắt mang tính rất chỉ dẫn. Đó là lí do tại sao
những kẻ phạm tội không bao giờ nhìn thẳng vào mắt
bạn, họ sẽ tránh điều đó. Người phạm tội sẽ nhìn sang
bên cạnh, họ sẽ không nhìn thẳng - bởi vì họ không
hồn nhiên. Họ biết rằng mắt họ có thể tiết lộ, mắt họ
có thể nói điều gì đó mà họ không muốn nói. Nếu bạn
có thể quan sát mắt người, bạn có chính chiếc chìa
khoá vào cá tính người đó.
Và cùng điều đó cũng đúng cho các giác quan
khác. Nghĩ về người điếc, người không nghe được.
Wagner, người đã không nghe được, Ravi Shankar,
người đã không nghe được chim hót vào buổi sáng,
với họ chim cu cu không tồn tại, người đã không nghe
ai đó hát bài tình ca hay bài ca buồn, với người đó sáo
chỉ là thanh trúc hổng. Nghĩ xem người đó nghèo nàn
làm sao.
Phật nói: Ân huệ đầu tiên là ở chỗ ông được sinh
ra làm người, ân huệ thứ hai là ông được sinh ra với
sáu giác quan. Bây giờ dùng cơ hội này; trở nên ngày
một nhạy cảm hơn đi. Và làm sao bạn có thể trở nên
nhạy cảm hơn? Khi bạn không thèm khát, bạn trở nên
nhạy cảm hơn. Khi bạn thèm khát, tính nhạy cảm của
bạn bị mất; bạn trở thành nông cạn. Người không
thèm khát, dần dần, thu được nhiều năng lượng thế.
Nếu một người mà không có thèm khát, thì tất cả các
giác quan của người đó trở thành cửa sổ rõ ràng -
không khói, không rào chắn. Và bên trong và bên
ngoài gặp gỡ qua sự nhạy cảm đó.
Ngay cả khi người đó được hoàn chỉnh trong sáu
giác quan, vận may hi hữu của người đó là được
sinh ra vào thời của phật. Ngay cả nếu người đó
được sinh vào thời phật,
Và Phật nói: Ông có thể là con người, ông có thể
được sinh ra với tất cả các giác quan hoàn hảo, nhưng
nếu ông không được sinh ra trong thời của phật thì
ông sẽ bỏ lỡ sự tiếp xúc với cái không biết. Bạn có thể
thấy cây, bạn có thể thấy hoa, bạn có thể thấy sao,
nhưng những điều này không là gì nếu so với con
người của chứng ngộ - bởi vì ông ấy đại diện cho cái
không biết trong thế giới của cái biết. Ông ấy đem tia
sáng của Thượng đế vào bóng tối của trái đất. Ông ấy
là việc nở hoa thực của tâm thức.
"Điều đó là hi hữu," Phật nói, "được sinh ra vào
thời của phật." Thực tế, chính ân huệ lớn lao là được
cư ngụ cùng thời gian, cùng không gian, khi vị phật
cư ngụ - bởi vì cái gì đó của rung động sống của ông
ấy nhất định chạm tới bạn. Sự hiện diện của ông ấy
nhất định trở thành mưa rào phúc lành. Cho dù bạn
không bao giờ tới ông ấy, cho dù bạn chống lại ông ấy, cho dù ông ấy đi qua thị trấn của bạn và bạn
không có thời gian tới thăm ông ấy, cho dù thế thì
bình thản của ông ấy vẫn đem cái gì đó tới bạn, cái gì
đó không được yêu cầu. Ông ấy sẽ đạt tới cái không
được mời của bạn. Nghĩ xem: nếu Phật mà không
được sinh ra, thế giới này đã không như thế rồi. Và
người Ki tô giáo đã làm rất giỏi để bắt đầu lịch của họ
theo Christ. Điều đó là tốt - Christ tạo ra sự gián đoạn
vô cùng với quá khứ. Chỉ sự tồn tại của ông ấy thôi -
Christ là vị phật - sự tồn tại của ông ấy đã tạo ra một
lịch sử hoàn toàn khác. Điều tốt là người Ki tô giáo đã
ghi ngày tháng lịch sử của họ theo sau Christ và trước
Christ. Trước Christ nó chẳng là cái gì; tất cả đều bình
thường. Sau Christ một hiện tượng vô cùng đã bắt đầu
đi vào một độ cao khác.
Ở Ấn Độ chúng ta không thể làm được điều đó,
bởi vì chúng ta đã bắt gặp biết bao nhiêu chư phật.
Thật khó cho chúng ta để làm điều đó theo cách đó.
Bằng không thì đã có biết bao nhiêu là lịch, và điều
đó sẽ gây lẫn lộn. Nhưng bất kì khi nào vị phật tồn tại
nhân loại đều lấy một chỗ ngoặt, chỗ ngoặt đi lên. Bất
kì khi nào vị phật đi vào lịch sử, lịch sử không bao
giờ còn như cũ - toàn bộ viễn cảnh thay đổi. Và khi
phật đang trong hiện tại thì rất dễ cho bạn thiền, bởi vì
năng lượng của ông ấy đang chuyển động. Bạn có thể
đơn giản cưỡi lên con sóng của ông ấy. Khi bạn làm
việc thiền một mình và vị phật không hiện diện, bạn
đang tranh đấu đơn thương độc mã với những rào
chắn lớn thế; điều đó gần như không thể nào được,
không có thể được, tới mức bạn sẽ là kẻ chinh phục.
Có Phật điều đó gần giống thế này.
Ramakrishna thường nói, "Khi gió thổi theo đúng
hướng, bạn đơn giản để cho con thuyền của mình
trong dòng chảy và gió sẽ đem nó đi. Chỉ đợi cho
đúng hướng thôi; thế thì bạn không cần làm nỗ lực gì.
Bạn đơn giản ngồi trong thuyền, gió sẽ đem nó đi."
Khi Phật đang thổi và toàn thể sự tồn tại đang nổi
sóng, thế thì mọi thứ đang đi tới Thượng đế. Bạn có
thể đơn giản nắm tay, và bạn có thể cưỡi lên con sóng
này rất dễ dàng. Bạn có thể đơn giản để cho chiếc
thuyền của mình trong dòng chảy, và dòng chảy đang
đi đấy.
Do đó Phật là phải khi ông ấy nói: Được sinh ra
vào thời của phật là cơ hội hi hữu.
Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị phật,
vận may hi hữu của người đó là được gặp người
chứng ngộ.
Nhưng khó khăn có đó: bạn có thể được sinh ra
vào thời của Phật nhưng bạn có thể chẳng bao giờ gặp
ông ấy - bởi vì ngay chính ý tưởng rằng ai đó đã
chứng ngộ là ngược lại bản ngã của bạn. Bạn không
thể tin được rằng ai đó đã chứng ngộ còn bạn thì
không. Không thể nào có chuyện ai đó đã đi lên trước
bạn. Bạn không thể tin được điều đó bởi vì bản ngã
của mình, và bạn sẽ tìm cả nghìn lẻ một lí do để
không đi tới vị phật. Bạn sẽ tìm các lí lẽ rằng ông ấy
sai, rằng ông ấy mắc chứng hoang tưởng, rằng ông ấy
cứ nói đại, rằng ông ấy không thực là vị phật - "Bằng
chứng là gì?" Mọi người thường tới Phật và hỏi,
"Bằng chứng của ông là gì? Ai là nhân chứng cho
ông?" 

Bây giờ đây là những câu hỏi ngu xuẩn. Ai có thể
là nhân chứng đây? Phật tính xảy ra trong sự một
mình sâu sắc đến mức không ai có thể là nhân chứng
được. Nó không phải là hành động trong thế giới này,
nó là hành động bên ngoài thế giới. Ai có thể là nhân
chứng? Nó xảy ra trong tính một mình vô cùng. Nó
xảy ra ở cốt lõi bên trong nhất; không ai có thể thấy
được nó. Vị Phật phải tự công bố; không có cách
khác. Và ai sẽ xác nhận rằng ông ấy là vị phật? Mọi
người hay tới ông ấy và họ sẽ tìm cả nghìn lẻ một
cách để chứng minh rằng bất kì cái gì ông ấy nói đều
đã trùng hợp hay không trùng hợp với kinh sách cổ.
Nó chưa bao giờ trùng hợp cả; nó không thể thế được,
theo chính bản chất của mọi sự. Bởi vì bất kì khi nào
ai đó trở nên chứng ngộ, người đó đều đem một tầm
nhìn khác vào trong thế giới, điều chưa bao giờ tồn tại
trước đó.
Từng người chứng ngộ đều đem món quà mới cho
thế giới, điều chưa tồn tại trước đây. Cho nên nếu bạn
nhìn vào trong Veda bạn có thể không tìm thấy nó;
nếu bạn nhìn vào Upanishad bạn có thể không tìm
thấy điều Phật đang nói. Điều đó sẽ có vẻ như chút ít
nổi dậy, không chính thống. Người chứng ngộ mang
tính nổi dậy, là không chính thống, bởi vì chân lí
mang tính nổi dậy và chân lí là không chính thống.
Cho nên bất kì khi nào vị phật tới, mọi người bắt đầu
nhìn vào kinh sách cổ của họ để xem liệu có bằng
chứng không, và điều đó thì chẳng bao giờ xảy ra cả.
Khi Christ tới người Do Thái bắt đầu nhìn vào
kinh sách cổ của họ, và họ chẳng bao giờ trở nên
được thuyết phục rằng con người này là Chúa cứu thế
mà họ đã chờ đợi. Họ đã đóng đinh ông ấy. Tại sao? -
bởi vì họ không thể hình dung được điều đó.
Mọi người tin vào kinh sách. Kinh sách là thứ
chết, và kinh sách do bạn làm ra, do bạn thu thập lấy,
do bạn diễn giải. Không ai biết kinh sách thực sự ngụ
ý gì. Không ai có thể biết được - bởi vì lời có đó,
nhưng nội dung phải do bạn trao cho.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin tới bác sĩ và nói, "Tôi rất lo
nghĩ. Một tuần trước, tôi về nhà thấy vợ tôi đang
trong tay một người đàn ông khác, người này đã nói
với tôi trong lúc đi ra uống cà phê. Năm đêm sau, lại
đích xác điều đó xảy ra."
"Anh bạn quí ơi," bác sĩ nói, vậy anh cần gì bác
sĩ. Anh cần luật sư chứ."
"Không đâu," Mulla khăng khăng, "tôi cần bác sĩ
thực. Tôi muốn biết liệu tôi có uống quá nhiều cà phê
không."
Bây giờ điều đó là tuỳ... cách bạn nhận điều gì đó,
cách bạn diễn giải nó. Diễn giải nhất định tới từ tâm
trí bạn.
Nghe một giai thoại.
Đó là đêm trăng mật của họ, và cô dâu Do Thái đã
mặc bộ áo ngủ mỏng tang và bò vào giường, phát hiện
ra anh chồng theo nhà thờ Tân giáo đang sắp đi ngủ trên tràng kỉ. Lúc đó là tháng chay Lent, lúc mà người
Ki tô giáo dừng ít nhất một trong những việc hưởng
thú của họ.
"George ơi," cô ấy gọi, "anh không định làm tình
với em sao?"
"Anh không thể làm được, em yêu," anh ta đáp,
"bởi vì đó là Lent."
"Sao thế, điều đó khủng khiếp quá!" cô ấy kêu
lên, buột khóc. "Làm với ai? và bao lâu?"
Bạn hiểu không?
Bây giờ tâm trí đam mê, tâm trí thèm khát, có
cách diễn giải riêng của nó. Lời chẳng thành vấn đề gì
nhiều; bạn phóng chiếu ý tưởng của mình lên lời. Nếu
bạn đang tìm cái gì đó bạn sẽ có thể thấy nó. Nếu bạn
không tìm cái gì đó bạn có thể không thấy nó. Và
khuynh hướng tự nhiên của tâm trí con người là trước
hết phủ nhận rằng ai đó đã đạt tới. Điếu đó xúc phạm
tới bản ngã. Đó là lí do tại sao điều đó lại rất khó cho
bạn.
Nếu ai đó tới và nói rằng người khác, hàng xóm
của bạn, là kẻ giết người, bạn tin ngay lập tức. Bạn
chẳng bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Bạn nói,
"Tôi đã biết anh ta từ lâu rồi. Tôi bao giờ cũng nghĩ
rằng anh ta là thế." Nếu ai đó tới và nói, "Người kia là
kẻ cắp, vô đạo đức," thế này thế nọ, bạn chẳng bao
giờ bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Nếu mọi người
bận tâm về bằng chứng thì đã không có nhiều buôn
chuyện trong thế giới này. Ai bận tâm tới bằng
chứng? Khi ai đó bị kết án bạn lập tức tin ngay điều
đo bởi vì điều đó cho bạn cảm giác rằng bạn tốt hơn
người khác. Nhưng nếu ai đó tới và nói, "Một người
đã trở thành thiền nhân, thiền nhân vĩ đại," lập tức có
nghi ngờ. Bạn nghe điều đó nhưng bạn không muốn
nghe đâu. Bạn nói, "Điều đó không thể được. Tôi biết
người đó mà; anh ta là kẻ lừa dối. Làm sao anh ta có
thể thiền được? Tôi biết anh ta từ chính thời trẻ con;
chúng tôi đã là đồng sinh trong trường. Không, anh ta
không thể thế được. Bằng chứng là gì?" bạn hỏi. Bất
kì khi nào ai đó nói về ai đó khác là tốt, bạn đều đòi
hỏi bằng chứng bởi vì điều đó làm tổn thương bản ngã
bạn: "Thế là ai đó khác đã trở thành tốt trước mình
sao?"
Khi vị phật bước đi trên đất ông ấy công bố điều
không thể có được, điều mà chỉ hiếm khi mới xảy ra.
Ông ấy đang nói ông ấy đã trở thành vị phật, và tất
nhiên chỉ ông ấy mới có thể nói được điều đó. Không
có cách khác để chứng minh hay bác bỏ điều đó. Phát
biểu của ông ấy là không chứng minh được hay không
bác bỏ được - và bản ngã của bạn bị tổn thương.
Phật nói: Vận may hi hữu là được sinh ra vào thời
của phật, và thậm chí vận may hi hữu hơn là được gặp
người đã chứng ngộ - để đi tới, để cúi lạy. Bởi vì chỉ
nếu bạn cúi lạy, nếu bạn buông xuôi, thì bạn mới có
khả năng thấy được. Vấn đề không phải ở con mắt vật
lí. Nhiều người đã thấy Phật bước đi, đi từ thị trấn nọ
sang thị trấn kia, nhưng họ lại không phải là những
người đã thấy ông ấy. Chỉ vài cá nhân hi hữu trở
thành đệ tử của ông ấy mới thấy được. Bởi vì không
thể nào thấy được vị phật mà lại không trở thành đệ
tử. Nếu bạn đã thấy, thế thì bạn đã thấy; và thế thì bạn không thể lại như cũ được nữa. Thế thì toàn thể cuộc
sống của bạn bị đảo lộn. Thế thì bạn đang trong hỗn
độn, thế thì bạn được tái sinh. Thế thì sẽ có sụp đổ
hoàn toàn của quá khứ của bạn, có sinh thành mới, và
tất nhiên, tất cả mọi đau đớn bao giờ cũng có trong
sinh thành mới.
... Ngay cả nếu người đó có khả năng gặp người
chứng ngộ, vận may hi hữu của người đó là có
trái tim được thức tỉnh trong tin cậy.
Bạn có thể thấy, nhưng điều đó cũng không nhiều
nhặn mấy. Chừng nào tin cậy còn chưa nảy sinh trong
bạn...
... Trái tim được thức tỉnh trong tin cậy. Cố hiểu
từ 'tin cậy' này. Nó không ngụ ý đức tin. 'Đức tin'
nghĩa là giáo điều; 'đức tin' nghĩa là tin vào giáo điều.
Chẳng hạn, người Ki tô giáo tin vào Ba ngôi: Cha,
Con và Thánh Thần thiêng liêng. Đây là đức tin. Hay,
người Hindu tin vào ba khuôn mặt của Thượng đế; đó
là đức tin.
Khi bạn đương đầu với vị phật và bạn tin cậy vào
người này, thế thì đó là tin cậy. Tin cậy mang tính cá
nhân; đức tin mang tính lí thuyết, quan niệm. Tin cậy
giống như tình yêu - bạn rơi vào tin cậy cũng như bạn
rơi vào tình yêu. Nó không phải là đức tin. Không
phải là Phật đã thuyết phục bạn về cái gì đó. Không,
sự hiện hữu của ông ấy đã thuyết phục bạn về bản thể
riêng của ông ấy. Ông ấy đã thuyết phục bạn không
tin vào giáo điều, ông ấy đã thuyết phục bạn rằng cái
gì đó đã xảy ra ở đây trong con người này. Bạn đã trở
nên được thuyết phục về sự kiện rằng đây là một con
người đã được biến đổi, được siêu việt, người không
còn của thế giới này nữa. Đó là sự tin chắc, tin chắc
mang tính cá nhân. Nó không phải là lí lẽ, nó không
phải là thần học - nó là chuyện tình.
Khi mọi người tới tôi để được điểm đạo mang
tính chất sannyas, tôi ngay lập tức có thể phân biệt
liệu đó là tin cậy hay đức tin. Có hai kiểu người:
người này tới và nói, "Bất kì điều gì thầy nói cũng
đều thuyết phục tôi. Lí lẽ của thầy là siêu. Lập luận
của thầy hấp dẫn tôi." Bây giờ, người này đã tới tôi
như người tin. Người đó đã không thực sự tới. Một
ngày nào đó người đó có thể tìm thấy ai đó, người có
thể ‘hoá giải đức tin’ của anh ta với tôi - bởi vì có thể
có lí lẽ hay hơn. Bao giờ cũng có khả năng này, bởi vì
logic là con dao hai lưỡi; nó cắt theo cả hai cách.
Cùng lí lẽ đó có thể được dùng để phá huỷ sự thuyết
phục, cùng lí lẽ đó có thể được dùng để tạo ra nó.
Logic giống như kẻ mãi dâm, hay giống như luật sư.
Nó có thể đi cùng bất kì ai, với bất kì ai trả giá.
Chuyện xảy ra:
Trong giờ uống cà phê có cuộc thảo luận lớn. Một
triết gia một hôm nói trong giờ uống cà phê, "Nếu các
ông cho tôi hệ thống logic của Aristotle, tôi sẽ áp đặt
cho kẻ thù của mình một kết luận. Cứ cho tôi phép
tam đoạn luận và đó là mọi điều tôi yêu cầu."
Triết gia khác nói, "Nếu các ông cho tôi hệ thống
chất vấn của Socrates thì tôi sẽ dồn kẻ thù của mình
vào trong góc và đánh bại anh ta ngay lập tức. Đó là
mọi điều tôi yêu cầu." 

Mulla Nasruddin, sau khi nghe tất cả những điều
này nói, "Các anh trai, nếu các anh cho tôi chút ít tiền
mặt, tôi bao giờ cũng giành được quan điểm của mình
tôi bao giờ cũng kéo kẻ thù của mình vào một kết luận
bởi vì chút ít tiền mặt dễ hiểu cực kì hơn sự hiểu
biết."
Logic không phải rất căn bản; nó là hời hợt. Nếu
ai đó tới và anh ta nói rằng anh ta tin vào điều tôi nói,
thế thì đó không phải là tin cậy. Nhưng có vài người
hiếm hoi nói, "Chúng tôi không biết điều thầy đang
nói, chúng tôi thậm chí chẳng hiểu gì mấy. Chúng tôi
thích điều thầy nói, nhưng đó không phải là vấn đề.
Chúng tôi rơi vào tình yêu với thầy." Tin cậy đã nảy
sinh. Bây giờ, không ai có thể phá huỷ tin cậy này
được, bởi vì nó là phi logic.
Bạn không thể phá huỷ được tin cậy bởi vì nó
không dựa trên logic. Bất kì cái gì dựa trên logic cũng
đều có thể bị phá huỷ: nếu bạn có thể co kéo logic nó
sẽ sụp đổ. Nó có nguyên nhân; kéo nguyên nhân ra và
hậu quả sẽ biến mất. Nhưng tin cậy không có nguyên
nhân. Nó cũng giống như rơi vào tình yêu. Nếu bạn đi
tới Majnu và chứng minh cho anh ấy rằng Laila
không phải là người đàn bà đẹp nhất trên thế giới, và
về mặt logic bạn cứ chứng minh điều đó, anh ta sẽ
nói, "Đừng tự gây khó xử cho mình một cách không
cần thiết thế. Chẳng ai có thể chứng minh được điều
đó đâu."
Điều thực tế đã xảy ra là vua của thị trấn của
Majnu đã triệu anh ta tới. Nhà vua trở nên rất tốt với
anh ta. Majnu đã đi, kêu khóc và gào thét trên phố
trong đêm. Anh ta chỉ gọi, "Laila! Laila!" Và nhà vua
trở nên rất từ bi. Ông ta triệu anh ta tới và ông ta nói,
"Anh là kẻ ngốc. Ta đã thấy Laila của anh; cô ấy là
một cô gái bình thường. Thực tế, bởi vì anh kêu khóc
nhiều quá nên ta nghĩ cô ấy phải rất đẹp, cho nên đích
thân ta đã trở nên quan tâm. Nhưng khi ta thấy cô ấy
thì ta đơn giản cười to. Anh là thằng ngốc! Và ta có
nhiều từ bi với cái ngốc của anh. Anh là thanh niên
tốt; đừng làm phí hoài cuộc sống của mình."
Ông ta triệu tới mười hai người đàn bà trong hậu
cung của mình và ông ta nói, "Anh chọn lấy một
người bất kì." Họ đều đẹp nhất, quí giá nhất của
vương quốc. Majnu nhìn và anh ta nói, "Chẳng cái gì
sánh được với Laila." Và anh ta nói với nhà vua, "Tâu
bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn thấy Laila, bệ hạ sẽ
cần đôi mắt của thần. Mắt của Majnu sẽ được cần tới.
Không có cách nào để thấy Laila và cái đẹp của cô ấy
ngoại trừ qua con mắt của Majnu."
Đệ tử là một Majnu. Người đó là người điên;
người đó đã rơi vào tình yêu. Phật nói: Trái tim của
người đó được thức tỉnh trong tin cậy... Hiện diện của
Phật là hấp dẫn của ông ấy. Duyên dáng bao quanh
Phật đã làm xúc động trái tim người đó. Đó không
phải là logic của Phật, đó không phải là triết lí của
Phật. Cho dù Phật vẫn còn im lặng thì điều đó cũng
chẳng khác biệt gì nhiều; người đó sẽ bị thuyết phục
như nhau. Cho dù Phật có bắt đầu tự mâu thuẫn thì
điều đó cũng sẽ chẳng tạo ra khác biệt gì. Đó là lí do
tại sao bạn thấy rằng tôi cứ mâu thuẫn hoài. Những
người tới qua trí năng dần dần biến mất. Mâu thuẫn
giúp tôi vứt cỏ dại khỏi khu vườn của tôi. Những
người đã tới qua tình yêu thì không bận tâm. Họ nói, "Được đấy, thầy cứ tận hưởng việc tự mâu thuẫn đi,
nhưng chúng tôi yêu thầy. Thầy không thể lừa chúng
tôi được." Họ nói, "Thầy có thể cứ mâu thuẫn nhưng
thầy không thể buộc chúng tôi chạy xa khỏi thầy
được."
Những người tới qua đức tin, chẳng chóng thì
chầy, sẽ phải ra đi - bởi vì chân lí mang tính nghịch lí.
Chỉ lí thuyết mới không nghịch lí. Chân lí có tất cả
mọi mâu thuẫn của cuộc sống trong nó. Chân lí rất phi
logic, rất phi lí.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và thế rồi Phật nói: Nhưng điều này không phải
là kết thúc. Khi trái tim ông tràn đầy tình yêu, và tràn
đầy tin cậy và tin tưởng, đây không phải là kết thúc.
Đây mới chỉ là bắt đầu. Bây giờ ông phải giúp cho
thông minh của mình đi lên và chiếm quyền sở hữu
mình. Tin cậy là cánh cửa: bạn phải đi vào qua nó,
nhưng bạn không nên vẫn còn ở cửa. Bằng không,
bạn chẳng bao giờ đi vào trong lâu đài này. Chung
cuộc, ban phải đi tới kinh nghiệm riêng của mình. Tin
tưởng là tốt, tin cậy vào vị phật là tốt, có tin cậy là tốt,
nhưng điều đó không đủ - bởi vì tin cậy của bạn vào
Phật vẫn không phải là kinh nghiệm của bạn. Điều đã
xảy ra cho Phật phải xảy ra cho bạn nữa. Thế thì bước
thứ hai xảy ra: thông minh riêng của bạn nảy sinh.
Bây giờ nó không chỉ là tình yêu hướng tới Phật; bây
giờ bằng kinh nghiệm riêng của mình bạn đã trở thành
nhân chứng. Nó không phải là tin cậy vô căn cứ. Lúc
ban đầu tin cậy là vô căn cứ, nhưng đến cuối nó trở
thành tuyệt đối có căn cứ. Căn cứ này không do logic
cung cấp, căn cứ này được kinh nghiệm của bạn cung
cấp. Khi nó đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn,
bạn không nói, "Tôi tin cậy vào Phật." Bạn biết nó là
phải, nó là đúng.
Ai đó hỏi Shri Aurobindo, "Ông có tin vào
Thượng đế không?" và ông ấy nói, "Không." Người
này đâm ra phân vân. Anh ta đã tới từ Đức, anh ta là
giáo sư. Và anh ta đã tới chỉ để nghe con người vĩ đại
này. Anh ta đơn giản bị choáng rằng con người này
nói, "Không." Và anh ta đã trong việc tìm kiếm
Thượng đế. Anh ta nói, "Tôi có nghe đúng không,
thưa ngài? Ngài nói không?" Aurobindo lặp lại,
"Vâng," ông ấy nói, "tuyệt đối không - bởi vì không
có vấn đề về đức tin. Tôi biết Thượng đế hiện hữu.
Không có vấn đề về đức tin. Anh hỏi, ‘Ông có tin vào
Thượng đế không?' Tôi không tin, tôi biết."
Đức tin là việc thay thế nghèo nàn cho hiểu biết.
Cho nên Phật nói: Thứ nhất ông tin cậy. Tin cậy
đơn giản có nghĩa là ông đã tình cờ bắt gặp một người
ở xa ông, xa khỏi ông. Ông đã tình cờ bắt gặp một
người đã chỉ cho ông tương lai riêng của ông, định
mệnh của ông. Cứ dường như một hạt mầm đã thành
cây, và hạt mầm này đã trở nên nhận biết rằng cây là
có thể có. Và cây này nói, "Có thời tôi cũng là hạt
mầm hệt như bạn." Bây giờ tin cậy nảy sinh trong hạt
mầm này. Nếu người đó chưa bao giờ thấy cây này,
người đó sẽ chẳng bao giờ mơ về nó cả. Làm sao hạt
mầm có thể mơ về cây được? Người đó chưa bao giờ
thấy cái một. Đó là lí do tại sao được sinh vào thời của phật lại là phúc lành lớn lao - bởi vì có cây, và hạt
mầm của bạn có thể bắt đầu mơ. Khi động chạm đầu
tiên của cây đổ lên hạt mầm, người đó tin cậy. Tương
lai riêng của người đó bây giờ trở nên đầy các khả
năng. Nó sẽ không chỉ là việc lặp lại của quá khứ, nó
sẽ là cái gì đó mới. Người đó xúc động. Xúc động đó
là tin cậy. Người đó rùng mình tới tận gốc rễ. Bây
giờ, lần đầu tiên, người đó biết có nghĩa; bây giờ, lần
đầu tiên người đó biết có định mệnh. Cái gì đó đang
sắp xảy ra: "Mình không phải là ngẫu nhiên. Mình
đang mang thông điệp lớn lao. Nó phải được dịch ra,
nó phải được giải mã. Mình phải trở thành cây và nở
hoa, và lan toả hương thơm theo gió."
Nhìn thấy vị phật, bạn đã thấy phật tính riêng có
thể có của mình. Đó chính là tin cậy là gì... nhưng nó
vẫn chưa đủ. Thế rồi bạn phải làm việc cần mẫn để
làm cho nó thành sự thực. Hạt mầm phải rơi vào đất,
phải chết đi trong đất, được sinh ra như chồi. Và cả
nghìn lẻ một khó khăn phải vượt qua: gió có đó, sấm
chớp có đó, con vật có đó, và chồi mới lại rất mảnh
mai, rất yếu ớt - với tiềm năng vô hạn trở thành mạnh
mẽ, nhưng ngay bây giờ nó không mạnh. Nó sẽ cần sự
giúp đỡ của ai đó; nó sẽ cần người làm vườn. Đó là
nghĩa của thầy.
Khi bạn chọn thầy, bạn chọn người làm vườn. Và
bạn nói, "Xin bảo vệ tôi cho tới khi tôi đủ mạnh mẽ
để đi con đường riêng của mình." Nhưng tin cậy là
cánh cửa.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và điều cuối cùng:
Ngay cả nếu người đó đánh thức trái tim thông
minh, vận may hi hữu của người đó là nhận ra
trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành đạt.
Toàn thể mục đích của kỉ luật là để đi tới một
điểm mà kỉ luật có thể bị vứt bỏ. Toàn thể mục đích
của thực hành tôn giáo, của sadhana, là để đi tới một
khoảnh khắc khi tất cả mọi sadhana có thể bị vứt bỏ
và bạn có thể đơn giản tự phát. Thế thì bạn đã nở hoa.
Chẳng hạn, nếu bạn phải liên tục thiền, và một
ngày nào đó bạn dừng việc thiền của mình và tâm trí
nhảy lùi lại, thế thì đây không phải là trạng thái lớn
lao gì. Một khoảnh khắc nên được ham muốn, được
khao khát, khi bạn thậm chí có thể vứt bỏ việc thiền
của mình. Nhưng chẳng cái gì khác cả; nó vẫn còn
như cũ. Dù bạn có công phu thiền hay không, bạn vẫn
còn mang tính thiền. Việc thiền phải trở thành phần
cốt lõi nhất của bạn, phần của bản thể bạn, không phải
là cái gì đó bị áp đặt từ bên ngoài. Không phải là bạn
phải ép buộc bản thân mình là tốt; không phải là bạn
phải kìm nén những cám dỗ xấu của mình, không.
Bây giờ không có cám dỗ, không có ép buộc. Người
ta đã siêu việt lên trên kỉ luật. Đây là điều Phật gọi là
‘Kỉ luật của Siêu việt'. Đây là vận may thứ bẩy, vận
may cuối cùng, điều tối thượng.
Được sinh ra làm người mới chỉ là cái bắt đầu, và
thế rồi bạn phải đi tới điểm mà tất cả mọi kỉ luật đều
có thể bị vứt bỏ. Thế thì bạn đã trở thành một Thượng đế, thế thì bạn đã trở thành tự phát như tự nhiên, thế
thì không có căng thẳng, thế thì bạn không có tính
cách nào, thế thì bạn hồn nhiên như đứa trẻ. Nhận biết
của bạn là hoàn hảo bây giờ, nhận biết của bạn là đủ
bây giờ. Không còn cần cái gì khác nữa.
Phật nói:
Hỡi các con của phật! Các ông xa ta dù nhiều
nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ về lời
giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu được
quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng cạnh ta,
luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông không gìn
giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không bao giờ
đạt tới chứng ngộ.
Và Phật nói: Đừng bao giờ dừng lại ở bất kì đâu
chừng nào ông còn chưa đạt tới trạng thái thứ bẩy -
trạng thái của không kỉ luật mà có kỉ luật, trạng thái
của vô nỗ lực, trạng thái của Đạo, pháp, trạng thái mà
Kabir gọi là sahaj, tự phát. Nhưng bạn phải làm việc
cần mẫn cho nó.
Cho nên Phật nói: Các ông có thể ở cùng ta, và
nếu các ông không theo điều ta đang nói, nếu các ông
không đem nó vào trái tim mình, vào trí thông minh
của mình, vào bản thể mình, thế thì các ông vẫn cứ ở
xa ta nghìn dặm. Nhưng các ông có thể ở xa ta nghìn
dặm... nếu các ông tuân theo điều ta đã nói, các ông
vẫn gần ta, và chứng ngộ của các ông là tuyệt đối
chắc chắn, được đảm bảo, được hứa hẹn.
Ở gần vị phật... chỉ có một cách đi theo dấu chân
của ông ấy. Ở gần vị phật nghĩa là: trở nên ngày một
nhận biết hơn, trở nên ngày một tỉnh táo hơn. Đem
chút ít phật tính tới cho bản thân bạn đi.
Mục đích là ở chỗ bạn cũng phải trở thành vị
phật. Chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu đích xác
điều là nghĩa và ý nghĩa và sự vĩ đại của việc là người
đã thức tỉnh.
Tâm thức này tồn tại bên trong bạn ngay bây giờ,
chính khoảnh khắc này. Bạn có thể không có khả
năng thấy được nó. Tôi có thể thấy được nó. Nó có đó
tựa tấm gương, và bạn bị đồng nhất với tất cả những
cái phản xạ trong tấm gương. Vứt bỏ đồng nhất của
bạn đi: bắt đầu thấy rằng bạn không là thân thể; bắt
đầu thấy rằng bạn không là tâm trí; bắt đầu thấy rằng
bạn không là xúc động, không là ý nghĩ; bắt đầu thấy
rằng bạn không là vui thích và đau đớn; bắt đầu thấy
không già không trẻ; bắt đầu thấy không thành công
không thất bại. Bao giờ cũng nhớ rằng bạn là nhân
chứng. Dần dần, phẩm chất tựa tấm gương này sẽ
bùng nổ trong bản thể bạn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng bạn là tấm gương, thì
bạn là tự do. Bạn là tự do. Đây chính là điều gọi là
moksha hay đây tất cả chính là niết bàn.
Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được. Ngay cả nếu người ta thoát ra
từ việc tạo tác ác, vận may hi hữu của người ta là
được sinh ra làm người. Nếu người ta sinh ra
được làm người, vận may hi hữu của người ta là
có sáu giác quan hoàn chỉnh. Ngay cả khi người
đó được hoàn chỉnh trong sáu giác quan, vận may
hi hữu của người đó là được sinh ra vào thời của
Phật. Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị
phật, vận may hi hữu của người đó là được gặp
người chứng ngộ. Ngay cả nếu người đó có khả
năng gặp người chứng ngộ, vận may hi hữu của
người đó là có trái tim được thức tỉnh trong sự tin
cậy. Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may
hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của
thông minh. Ngay cả nếu người đó đánh thức trái
tim thông minh, vận may hi hữu của người đó là
nhận ra trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành
đạt. Hỡi các con của Phật! Các ông xa ta dù
nhiều nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ
về lời giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu
được quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng
cạnh ta, luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông
không gìn giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không
bao giờ đạt tới chứng ngộ.

Tâm thức giống như chiếc hồ: có sóng nó trở
thành tâm trí, không có sóng nó trở thành linh hồn. Sự
khác biệt chỉ ở sự hỗn loạn. Tâm trí là linh hồn bị rối
loạn, và linh hồn là tâm trí được im lặng. Tâm trí là
chính trạng thái ốm yếu của vấn đề, còn linh hồn là
trạng thái mạnh khoẻ của vấn đề. Tâm trí không phải
là cái gì đó tách bạch khỏi linh hồn, như sóng không
tách bạch khỏi hồ. Hồ có thể hiện hữu mà không có
sóng, nhưng sóng không thể hiện hữu mà không có
hồ. Linh hồn có thể hiện hữu mà không có tâm trí,
nhưng tâm trí không thể hiện hữu nếu không có linh
hồn. Khi có gió lớn và hồ bị khuấy đảo, có rối loạn.
Và hồ mất đi một phẩm chất trong rối loạn đó, và đó
là phẩm chất của phản chiếu. Thế thì nó không thể
phản chiếu cái thực. Cái thực trở nên bị bóp méo. Có
thể có trăng tròn trên trời, nhưng bây giờ hồ không có
khả năng phản chiếu điều đó. Trăng sẽ vẫn được phản
chiếu, nhưng theo cách bị bóp méo. Nó sẽ được phản chiếu trong hàng nghìn mảnh. Nó sẽ không là một
thực thể thống nhất; nó sẽ không được bình tĩnh, hoà
nhập. Nó sẽ không là một. Thực tại là một. Nhưng
bây giờ hồ sẽ phản chiếu hàng triệu trăng; toàn thể bề
mặt của hồ có thể được rót đầy bàng bạc. Mọi nơi,
toàn trăng là trăng - nhưng điều này là không đúng.
Chân lí là một: khi tâm trí phản chiếu nó, nó trở thành
nhiều; khi tâm thức phản chiếu nó, nó là một.
Tâm thức không mang tính Hindu giáo không Mô
ha mét giáo không Ki tô giáo. Nếu bạn là người
Hindu bạn vẫn trong tâm trí, bị bóp méo. Nếu bạn là
người Mô ha mét giáo bạn là trong tâm trí, bị bóp
méo. Một khi tâm trí đã được lắng đọng và sóng
không còn đó nữa, bạn đơn giản là tâm thức - không
tính từ nào được gắn với nó, không điều kiện nào
được gắn với nó. Và thế thì chân lí là một. Thực tế,
ngay cả nói rằng chân lí là một cũng không đúng - bởi
vì một là có nghĩa chỉ trong ngữ cảnh của nhiều. Chân
lí là một tới mức ở phương Đông chúng ta chưa bao
giờ gọi nói là 'một'; chúng ta gọi nó là 'bất nhị', không
hai.
Tại sao chúng ta đã chọn cách nói vòng khi gọi nó
là 'không hai'? Chúng ta muốn nói rằng khó mà nói nó
là một, bởi vì một ngụ ý hai, ba, bốn. Chúng ta đơn
giản nói 'không hai'. Chúng ta không nói nó là gì,
chúng ta đơn giản nói nó không là gì. Không có
'nhiều' trong nó - có vậy thôi. Chúng ta phải diễn đạt
nó thông qua việc phủ định, bằng việc nói rằng nó
không là hai. Nó là một thế và nó là một mình thế; chỉ
nó tồn tại và không cái gì khác. Nhưng điều đó được
phản chiếu trong tâm thức khi tâm trí không còn đó
nữa. Khi tôi nói 'tâm trí không còn đó nữa', nhớ, tôi
không nói về tâm trí như một năng lực. Tâm trí không
phải là năng lực. Nó đơn giản là trạng thái bị quấy rối:
tâm thức vẩn vơ, run rẩy, rung rinh, không ở nhà.
Gió nào thổi lên tâm thức làm quấy rối nó? Phật
nói: Tên của gió đó là đam mê, ham muốn.
Quan sát, và bạn sẽ thấy chân lí của lời của Phật.
Nó là một sự kiện, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì
lí thuyết nào. Phật không quan tâm tới các hệ thống
trừu tượng; ông ấy đơn giản nói cái đang đó. Ông ấy
không phát biểu ra triết lí. Bao giờ cũng nhớ điều đó,
đừng bao giờ quên điều đó - rằng ông ấy rất mang
tính kinh nghiệm, tồn tại. Toàn thể cách tiếp cận của
ông ấy chỉ là nói điều gì đó mà bạn có thể kinh
nghiệm được ngay lập tức. Và kinh nghiệm của bạn sẽ
chứng minh rằng ông ấy đúng. Không có cách khác
để chứng minh đúng hay sai. Không có cách nào để
biện minh về nó.
Đôi khi ngồi im lặng; cho dù một khoảnh khắc để
ham muốn dừng lại, bạn sẽ thấy rằng mọi rối loạn đã
biến mất. Ngồi im lặng, không ham muốn cái gì; ngồi
im lặng, không đi vào tương lai; ngồi im lặng, mãn
nguyện; trong một khoảnh khắc đó bạn sẽ có khả
năng hiểu điều Phật ngụ ý. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy
rằng không có sóng chút nào. Mọi sóng đều đã mất.
Sóng dậy lên chỉ khi bạn ham muốn, khi bạn không
hài lòng với hiện tại và bạn hi vọng vào tương lai.
Ham muốn là căng thẳng giữa hiện tại và tương
lai. Trong căng thẳng đó, sóng dậy lên. Thế thì bạn bị
tan tành - và tâm thức rất mong manh. Tâm thức rất
mềm mại: chỉ một hơi chút ham muốn, chỉ một cái
nhoáng lên của ham muốn, và toàn thể cái hồ bị quấy rối. Đôi khi đi, quan sát, ngồi bên bờ hồ. Nhìn...
không có sóng. Ném một hòn đá cuội nhỏ, một hòn đá
rất nhỏ, vào cái hồ lớn nhất trong các hồ, và hòn đá
nhỏ đó sẽ bắt đầu tạo ra gợn sóng, và những gợn sóng
đó sẽ cứ lan toả tới bờ xa nhất. Chỉ hòn đá nhỏ thôi
cũng tạo ra nhiều rối loạn thế. Chỉ một ham muốn nhỏ
bé và rối loạn tới qua cửa sau. Ham muốn là rối loạn,
đam mê là cơn sốt. Trong đam mê bạn không phải là
bản thân mình. Trong đam mê bạn ở bên cạnh bản
thân mình. Trong đam mê bạn không được định tâm:
bạn đánh mất cân bằng. Trong đam mê bạn làm
những điều bạn thậm chí không thể tưởng tượng được
rằng bạn có thể đã làm. Nhiều kẻ giết người đã thú
nhận trước toà, trong suốt nhiều thế kỉ, rằng họ đã
không phạm tội ác; điều đó đã xảy ra. Họ đã vào cơn
cuồng nộ thế, họ gần như điên. Họ đã không làm điều
đó một cách có chủ ý; nó đã xảy ra. Họ không phải là
tội nhân, họ là nạn nhân của cơn cuồng nộ của riêng
họ. Bạn có thể nghĩ họ đang lừa dối; bạn có thể nghĩ
họ bây giờ đang cố gắng chạy trốn sự trừng phạt.
Không, nó không như vậy đâu.
Giết người là không thể được nếu bạn có ý thức,
nếu bạn im lặng, nếu bạn định tâm. Nó xảy ra chỉ khi
bạn không có, khi bạn bị che mờ thế, khi chỉ có sóng
và sóng và bề mặt hồ hoàn toàn bị khuấy động - thế
thì điều đó xảy ra. Tất cả mọi cái sai đều xảy ra chỉ
khi bạn bị rối loạn. Người tôn giáo thông thường nói,
"Hãy trau dồi tính cách." Phật nói: Hãy trau dồi tâm
thức. Thầy tôn giáo thông thường nói, "Làm điều
thiện." Phật nói: Im lặng và điều thiện sẽ được làm.
Điều thiện đi theo im lặng như cái bóng đi theo bạn.
Và không có cách nào để làm điều thiện chừng nào
bạn còn chưa im lặng. Bạn có thể làm điều thiện,
nhưng chỉ điều sai xảy ra nếu bạn không im lặng. Đó
là lí do tại sao cái gọi là người làm điều thiện lại cứ
làm cả nghìn lẻ một điều ác trong thế giới. Cái gọi là
người làm điều thiện của bạn là những người làm điều
ác nhất, nhưng họ đang làm điều thiện vì bạn đấy, họ
đang làm nó vì điều thiện, và bạn thậm chí không thể
trốn thoát được họ.
Mọi người đều biết rằng bố mẹ tốt là bố mẹ nguy
hiểm. Bố mẹ quá tốt thì nhất định là bố mẹ sai - bởi vì
họ sẽ cầm tù bạn. Quá tốt là mang tính phá huỷ. Bà
mẹ tốt sẽ phá huỷ bạn, bởi vì bản thân bà mẹ không
được định tâm. Cái tốt của bà ấy bị ép buộc; bà ấy
đang cố gắng để làm điều tốt. Cái tốt không phải là tự
nhiên và tự phát. Nó không giống như cái bóng; nó là
nỗ lực, nó là bạo hành. Cái gọi là các mahatma của
bạn cứ làm què quặt mọi người, phá huỷ mọi người,
phá huỷ tự do của họ theo nhiều cách. Họ cứ cố gắng
chi phối bằng các phương pháp tinh vi, theo cách tinh
tế. Nhưng toàn thể ham muốn là để chi phối, và rất dễ
chi phối ai đó khi bạn là người tốt. Người đó thậm chí
không thể nổi dậy chống lại bạn được. Chống lại
người mẹ tệ hại, bạn có thể trốn đi; nhưng phải làm gì
để chống lại người mẹ tốt? Bà ấy tốt tới mức bạn bắt
đầu cảm thấy khó chịu. Quan sát điều đó đi: mọi
người đều trải qua trạng thái đó, và nó phải được hiểu.
Bằng không thì bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng
chấp nhận bản thân mình.
Bất kì khi nào có đứa trẻ, nhất định có xung đột
nào đó giữa đứa trẻ và bố mẹ, đặc biệt giữa con và mẹ
lúc ban đầu, và thế rồi về sau với bố. Điều đó là tự
nhiên - bởi vì người mẹ có cách thức riêng của mình, ý tưởng riêng của mình, triết lí riêng của mình về
cuộc sống phải được sống thế nào. Và đứa trẻ gần như
hoang dã; nó chẳng biết về xã hội, về văn hoá, về tôn
giáo. Nó tới trực tiếp từ Thượng đế; nó hoang dã như
Thượng đế. Nó chẳng có gì ngoài tự do, cho nên nhất
định có xung đột nào đó. Và đứa trẻ phải được khai
tâm vào bức tường của xã hội. Nó không thể bị bỏ đấy
một mình - điều đó nữa cũng đúng. Cho nên xung đột
là tự nhiên. Nếu người mẹ rất tốt thì đứa trẻ lâm vào
khó khăn, nỗi khổ và lo âu rất lớn. Lo âu là ở chỗ đứa
trẻ yêu tự do của nó và nó biết, một cách bản năng,
rằng tự do là tốt. Tự do là giá trị bản chất. Không có
nhu cầu chứng minh rằng tự do là tốt - tự do là tốt rồi,
tự nó là tốt hiển nhiên. Mọi người được sinh ra với
ham muốn đó. Đó là lí do tại sao ở phương Đông
chúng ta gọi mục đích tối thượng là ‘tự do toàn bộ',
moksha: nơi ham muốn cố hữu được hoàn toàn đáp
ứng và người ta không bị giới hạn về bất kì loại nào.
Người ta tuyệt đối tự do, tự do vô điều kiện.
Mọi đứa trẻ được sinh ra với ham muốn cố hữu là
được tự do, và bây giờ ở mọi nơi đều có tù túng.
Người mẹ nói, "Không làm cái này, không làm cái
kia, ngồi đây, không đi ra kia." Và đứa trẻ cảm thấy bị
lôi kéo, xô đẩy từ mọi nơi. Bây giờ, nếu người mẹ mà
xấu, thì không có mấy khó khăn; đứa trẻ có thể nghĩ
rằng người mẹ là xấu và sâu trong lòng nó có thể bắt
đầu ghét mẹ. Đơn giản, đó là chuyện số học - mẹ đang
phá huỷ tự do của nó và nó ghét mẹ. Có thể, bởi các lí
do chính trị, nó không thể bày tỏ được điều đó, cho
nên nó trở thành nhà ngoại giao. Nó biết rằng mẹ là
người đàn bà tồi tệ nhất trên thế giới, nhưng nó cứ
dẻo môi tán đồng.
Nhưng nếu người mẹ mà tốt thế thì vấn đề nảy
sinh. Thế thì đứa trẻ lúng túng để hình dung ra điều
đó; người mẹ là tốt... và tự do là tốt: "Bây giờ, nếu mẹ
là tốt thế thì mình phải sai, và tự do của mình phải sai.
Nếu mình là tốt và tự do của mình là tốt, thế thì mẹ
phải sai." Bây giờ, nghĩ rằng người mẹ sai là không
thể được - bởi vì bà ấy thực sự tốt, và bà ấy cứ chăm
sóc, yêu thương, và làm cả nghìn lẻ một điều cho đứa
trẻ. Người mẹ thực sự tốt, đứa trẻ biết rằng mẹ là tốt.
Cho nên chỉ có một khả năng để quyết định, và đó là:
"Mình phải sai. Mẹ là tốt, mình phải sai."
Một khi đứa trẻ bắt đầu nghĩ, "Mình phải sai," thì
nó bắt đầu bác bỏ bản thân mình. Tôi thường chẳng
bao giờ bắt gặp một người chấp nhận bản thân mình
một cách toàn bộ. Và nếu bạn không chấp nhận bản
thân mình một cách toàn bộ thì bạn sẽ không bao giờ
trưởng thành - bởi vì trưởng thành là từ chấp nhận.
Nếu bạn cứ bác bỏ bản thân mình, bạn đang tạo ra
chia chẻ. Bạn sẽ bị tinh thần phân liệt. Phần mà bạn
bác bỏ sẽ treo quanh cổ bạn như gánh nặng lớn, nỗi
buồn lớn, nỗi lo âu lớn, sự căng thẳng. Bạn không thể
ném nó đi được, bởi vì nó là một phần của bạn; nó
không thể bị phân chia. Nhiều nhất bạn có thể ném nó
vào trong vô thức. Bạn có thể trở nên không nhận biết
về nó, bạn có thể quên mất nó, bạn có thể tin rằng nó
không có đó. Đó là cách vô thức được tạo ra.
Vô thức không phải là thứ tự nhiên. Vô thức là bộ
phận của bản thể bạn mà bạn đã bác bỏ, và bạn thậm
chí còn không muốn xoá nó đi, bạn không muốn
đương đầu với nó, bạn không muốn thấy rằng nó tồn
tại chút nào. Nó có đó; sâu bên dưới trong bản thể bạn
nó cứ thao túng bạn. Và nó sẽ lấy nhiều kiểu báo thù, bởi vì nó cũng cần diễn đạt. Bây giờ đây là toàn thể
khổ của con người. Người mẹ 'tốt' có thể tạo ra ý
tưởng về đứa con 'xấu'. Bản thân đứa trẻ bắt đầu tự
bác bỏ mình. Đây là phân chia, chia chẻ trong cá tính.
Đứa trẻ đang trở nên bị loạn thần kinh.
Bởi vì cảm thấy tốt với bản thân mình nên là điều
tự nhiên và dễ dàng. Đó là điều những người thuyết
giảng tôn giáo của bạn cứ làm mãi, điều các tu sĩ của
bạn cứ làm mãi: đi tới đền thờ, đi tới đền chùa, đi tới
nhà thờ, và họ có đó - đùng đùng, kết án, sẵn sàng
ném bạn vào địa ngục, sẵn sàng thưởng cho bạn cõi
trời nếu bạn nghe họ, nếu bạn theo họ. Tất nhiên bạn
không thể tuân theo được bởi vì đòi hỏi của họ là
không thể được, và đòi hỏi của họ là không thể được
bởi vì họ không chỉ cho bạn cách thức là tốt. Họ đơn
giản nói. "Hãy tốt."
Cách thức để là tốt chẳng liên quan gì tới việc là
tốt cả. Cách thức để là tốt có liên quan tới việc định
tâm, với nhận biết. Là tốt chẳng có liên quan gì tới
tính cách của bạn cả. Người thực sự tốt không có tính
cách nào cả; người đó là phi tính cách. Và khi tôi nói
'phi tính cách', tôi ngụ ý người đó không có áo giáp,
không đeo giáp trụ quanh mình. Người đó không
phòng thủ quanh mình, người đó đơn giản cởi mở.
Người đó phi tính cách như đoá hoa. Người đó không
tốt không xấu. Người đó đơn giản có đó - tỉnh táo, ý
thức, đáp ứng. Nếu cái gì đó xảy ra người đó sẽ đáp
ứng, nhưng người đó sẽ đáp ứng trực tiếp, người đó sẽ
đáp ứng từ cái ở đây. Người đó sẽ đáp ứng từ cái bây
giờ, người đó sẽ không đáp ứng từ quá khứ. 'Tính
cách' nghĩa là: bạn cứ mang ra những thứ mà bạn đã
học trong quá khứ của mình. 'Tính cách' nghĩa là:
lương tâm đã được thuyết giảng cho bạn và áp đặt lên
bạn. Lương tâm là nhà tù cho tâm thức.
Phật đã đem cuộc cách mạng vào thế giới tôn
giáo, cuộc cách mạng lớn nhất đã từng có. Cuộc cách
mạng là thế này: rằng ông ấy nhấn mạnh vào tâm thức
và không vào lương tâm. Ông ấy nhấn mạnh vào nhận
biết chứ không vào tính cách. Tất nhiên, tính cách tới
một cách tự động, nhưng nó tới như cái bóng. Bạn
không mang nó; nó không phải là gánh nặng. Bạn đã
bao giờ quan sát chưa? - cái bóng của bạn cứ đi theo
bạn, và bạn không bị nặng gánh, và bạn không cần
chăm sóc tới nó. Bạn không cần nghĩ tới nó. Thậm chí
bạn quên hoàn toàn thì nó vẫn sẽ có đấy. Bạn không
thể làm mất nó.
Phật nói: Tính cách là thực chỉ khi bạn không thể
đánh mất được nó. Nếu bạn sợ rằng bạn có thể đánh
mất nó, thế thì nó là lương tâm và không phải là tâm
thức.
Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu trước khi
chúng ta đi vào những lời kinh này là ở chỗ con người
trở nên mù quáng bởi đam mê, bởi ham muốn. Và tại
sao con người trở nên mù quáng bởi đam mê và ham
muốn? Bởi vì ham muốn và đam mê đem tới hai thứ:
thứ nhất, không bằng lòng với hiện tại. Đó là chính
gốc rễ của ham muốn. Nếu bạn hài lòng với hiện tại,
ham muốn không thể tồn tại được. Ham muốn có thể
tới trong sự tồn tại chỉ với không bằng lòng.
Nhìn xem... Nếu bạn đang ngồi dưới gốc cây và
nếu bạn hài lòng trong khoảnh khắc này - và tôi
không thấy tại sao bạn lại phải không hài lòng trong
khoảnh khắc này - thế thì không có ham muốn. Và khi không có ham muốn, thì có bình thản thế, im lặng thế.
Im lặng trở thành vững chắc tới mức bạn gần như có
thể chạm vào nó, bạn có thể nếm trải nó, bạn có thể
cầm nó trong tay mình.
Bất kì khi nào có mãn nguyện, đều không có ham
muốn. Khi không có ham muốn, bạn ở nhà, thảnh
thơi. Trong trạng thái thảnh thơi đó, không có tâm trí.
Tâm trí là căng thẳng được tích luỹ lại. Tâm trí không
phải là khả năng, tâm trí chỉ là một bó các ham muốn
của bạn, mọi con sóng mà bạn cứ tạo ra. Đam mê này
mất đi; trước khi nó bị mất đi bạn đã dính líu vào đam
mê khác rồi. Ham muốn này được kết thúc, và thậm
chí trước khi nó được kết thúc bạn bắt đầu lập kế
hoạch cho chuyến đi khác vào tương lai.
Cho nên bạn cứ chạy xô tới tương lai và bạn cứ
bỏ lỡ hiện diện. Và hiện diện là có thể chỉ trong hiện
tại. Và khi bạn đang ở hiện tại thì không có tâm trí.
Và trạng thái này của vô trí là mục đích, mục đích của
phật giáo.
Khi không có căng thẳng, không suy nghĩ, không
ham muốn, không đam mê, thì phấn chấn lớn lao nảy
sinh trong linh hồn bạn; nó trào lên. Đó chính là phúc
lành đấy. Bạn cảm thấy cực kì hạnh phúc, và bạn cảm
thấy sung sướng chẳng bởi lí do nào. Bạn cảm thấy
cực kì phấn chấn - nhưng phấn chấn này không có
nguyên nhân cho nó. Không phải là bạn đã uống
thuốc nào đó, hay rượu cồn; không phải là bạn đã
tụng mật chú - bởi vì mật chú cũng làm thay đổi hoá
chất của bạn. Lặp lại thường xuyên âm thanh nào đó
đem lại thay đổi trong hoá chất thân thể bạn. Nó là
thuốc. Câu mật chú là thuốc, thuốc rất tinh tế: nó tạo
ra sóng trong bản thể bạn. Và nếu bạn cứ tụng mật
chú nào đó - Aum...Aum...Aum - dần dần, âm 'Aum'
làm thay đổi toàn thể hoá chất thân thể bạn.
Hay bạn có thể nhịn ăn. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn
này: những người thuyết giảng nhịn ăn đều chống lại
thuốc, nhưng nhịn ăn là việc thay đổi hoá chất. Nó là
thuốc cũng như bất kì thuốc nào khác. Khi bạn nhịn
ăn bạn làm gì? - bạn không cung cấp những những
hoá chất nào đó cho thân thể mình - những hoá chất
mà, nếu không được cung cấp, cân bằng của các hoá
chất bên trong sẽ bị thay đổi. Nó cũng là một cả thôi.
Hoặc là bạn uống thuốc nào đó - cái làm thay đổi tỉ lệ
hoá chất bên trong của bạn; hoặc bạn dừng ăn thức ăn
- điều đó làm thay đổi cân bằng hoá chất bên trong
của bạn. Khi mọi người cảm thấy phấn chấn, khi
Mahatma Gandhi nói rằng ông ấy cảm thấy rất phấn
chấn lúc ông ấy nhịn ăn, ông ấy không nói gì khác với
điều Timothy Leary nói. Cả hai đều nói cùng một
điều: cả hai đều nói về hoá chất. Mặc dầu thông
thường chúng ta không coi nhịn ăn như thuốc, nó vẫn
là thuốc - nó có thể làm cho bạn phấn chấn, nó có thể
làm cho bạn thành vô trọng lượng.
Hoặc bạn có thể cứ tụng niệm. Tụng niệm tạo ra
thay đổi trong hoá chất thân thể vật lí. Đó là lí do tại
sao vài âm thanh lại đã trở nên rất quan trọng. Trong
suốt nhiều thế kỉ nhiều người đã thử nhiều mật chú.
Thế rồi vài mật chú đã thành công và vài mật chú thì
thất bại. Những mật chú đã thành công là những mật
chú đem lại ngay thay đổi cho hoá chất của bạn. Bạn
có thể gọi nó là Thiền Siêu việt: nó lại là thuốc thôi.
Bây giờ, Maharishi Mahesh Yogi rất chống lại thuốc,
và bản thân thiền siêu việt TM lại là thuốc tinh vi. 

Hay, bạn có thể thay đổi hoá chất thân thể mình
qua các tư thế, yoga; bạn có thể thay đổi hoá chất thân
thể mình qua những kiểu thở nào đó - nhưng tất cả
những thay đổi đổi đó về căn bản vẫn là hoá học. Khi
bạn thở sâu bạn đem nhiều ô xi tới cho thân thể, và
nhiều ô xi trong thân thể bắt đầu làm thay đổi hoá
chất của bạn - bạn bắt đầu cảm thấy phấn chấn. Khi
bạn không thở sâu nhiều các bô nic tụ tập lại trong
phổi. Tỉ lệ thay đổi; bạn cảm thấy đờ đẫn, bạn cảm
thấy ỉu xìu, bạn cảm thấy trì trệ. Vâng, từ đó là đúng
đấy: bạn cảm thấy rất 'bị ép' bởi cái gì đó. Chính các
bô nic đem tới trì trệ; bạn ở dưới tảng đá.
Nhưng đây tất cả đều là những thay đổi - vật lí,
hoá học. Chúng không đi sâu hơn thế. Phật nói: nhận
biết, nhận biết và mãn nguyện... Ông ấy thậm chí
không thuyết giảng hình mẫu nào đó, nhịp điệu thở
nào đó. Ông ấy nói: Để thở như tự nhiên. Ông ấy
không thuyết giảng nhịn ăn; ông ấy thuyết giảng ăn
đúng, đúng lượng thức ăn. Ông ấy không thuyết giảng
thức trong đêm. Có nhiều giáo phái, đặc biệt là Mô ha
mét giáo, những người vẫn duy trì thức cả đêm. Điều
đó nữa cũng làm thay đổi hoá chất thân thể.
Phật đơn giản nói: Một điều được cần tới, và đó là
ông không nên đi vào tương lai, ông nên vẫn còn
trong hiện tại ở đây bây giờ. Bạn nên vẫn còn hài lòng
với khoảnh khắc này. Đi cùng khoảnh khắc này, đừng
đi lên trước, đừng nhảy lên trước. Cứ để không có
đam mê. 'Đam mê' nghĩa là: nhảy lên trước bản thân
mình. Thế thì bạn tạo ra lo âu, thế thì bạn tạo ra thất
vọng, thế thì bạn tạo ra lo nghĩ, và thế thì cả nghìn lẻ
một con sóng nảy sinh trên bề mặt tâm thức của bạn.
Bạn trở thành tâm trí. Khi những con sóng này biến
mất, bạn lại là tâm tâm thức. Thỉnh thoảng thử điều
đó đi.
Gurdjieff hay cho các đệ tử của ông ấy một
phương pháp. Ông ấy thường gọi nó là 'dừng việc
tập'. Ông ấy dạy các đệ tử là đôi khi, đột nhiên, dừng
toàn thế giới lại. Bằng việc dừng bản thân mình lại,
bạn có thể dừng cả thế giới lại. Bạn đang bước đi trên
đường; bỗng nhiên, với cú giật lại, bạn dừng lại.
Trong nửa giây bạn đơn giản bất động. Việc bất động
bất thần đó cũng sẽ giúp ích cho tâm trí dừng lại - bởi
vì tâm trí cần thời gian. Nếu bạn dừng dần dần, chầm
chậm, thế thì tâm trí sẽ không dừng đâu; nó sẽ được
điều chỉnh. Nếu bạn đột nhiên dừng lại thế thì có cú
sốc; tâm trí dừng lại. Trong khoảnh khắc của việc
dừng lại bất thần đó bạn sẽ có khả năng thấy rằng
toàn thế giới đã dừng lại, bởi vì tất cả mọi con sóng
đều đã biến mất.
Thử nó đi. Đang nhảy múa, đột nhiên dừng lại!
Đang chạy, đột nhiên dừng lại. Đang bơi, đột nhiên
dừng lại. Đang nói, đột nhiên dừng lại - và trong một
khoảnh khắc tuyệt đối bất động, cứ dường như bạn đã
trở thành bức tượng - và bạn sẽ thấy rằng tâm trí mình
đã dừng lại, trong một phần giây, tất nhiên. Rồi nó lại
chiếm quyền sở hữu bạn, nhưng trong khoảnh khắc đó
bạn sẽ thấy rằng nó im lặng đến mức nó sẽ trở thành
thoáng nhìn, nó sẽ trở thành sự hỗ trợ lớn lao. Và bạn
sẽ biết rằng đây là cách thực tế đang hiện hữu. Trong
một khoảnh khắc đó, cái đang đó sẽ hiển lộ bản thân
nó cho bạn. Đó chính là Thượng đế là gì đấy, hay
chân lí, hay niết bàn. 

Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được.
Lau sạch trái tim bạn khỏi cặn bã của đam mê. Và
thực tế, để làm điều đó, chẳng cần gì nhiều. Không
hẳn là trường hợp bạn bị trở nên không thuần khiết
đâu. Bạn đơn giản bị quấy rối, có vậy thôi; đó là điều
không thuần khiết nghĩa là gì. Bất kì khi nào bạn
không bị quấy rối, thì không thuần khiết đều biến mất.
Không thuần khiết không phải là cái gì đó đã đi vào
trong bản thể bạn. Nó chỉ ở trên bề mặt thôi, tựa như
sóng. Cho nên nếu bạn muốn nó xảy ra, nó có thể xảy
ra ngay bây giờ. Và đừng chơi đùa với những lời giải
thích. Đừng nói, "Làm sao nó có thể xảy ra ngay bây
giờ được? Mình có nhiều nghiệp phải thanh toán
trước hết." Tất cả đều vô nghĩa! thủ đoạn của tâm trí
để trì hoãn. Tâm trí nói, "Làm sao mình có thể làm
điều đó ngay bây giờ được? Trước hết mình phải
thanh toán nghiệp của nhiều, nhiều kiếp." Nhưng bạn
có biết bạn đã ở đây bao nhiêu kiếp rồi không? Hàng
triệu kiếp rồi! Nếu bạn thực sự phải thanh toán các
nghiệp đó, bạn sẽ lại cần hàng triệu kiếp để thanh toán
chúng. Và sau khi bạn đã thanh toán chúng thì hàng
triệu kiếp sẽ lại trôi qua - và trong những kiếp này bạn
lại sẽ làm thêm nhiều nghiệp. Không có cách nào để
tránh được điều đó. Nếu bạn sống động bạn sẽ làm
điều gì đó này khác. Bạn sẽ ăn cái gì đó, nghiệp được
tạo ra. Bạn sẽ thở, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ bước đi,
nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ ngủ, nghiệp được tạo ra.
Bất kì hành động nào cũng đều là nghiệp. Cho nên
đây là cái vòng luẩn quẩn. Trong hàng triệu kiếp bạn
đã tồn tại; bây giờ thanh toán những nghiệp đó, lại sẽ
cần tới hàng triệu kiếp. Và cho dù sau đó, không cái
gì sẽ được thanh toán nữa - bởi vì trong hàng triệu
kiếp sống bạn sẽ lại tạo ra nghiệp. Thế thì bạn không
thể thoát ra khỏi điều này, ra khỏi cái đống lộn xộn
này. Thế thì không có lối ra.
Phật nói: Bao giờ cũng có lối ra. Vấn đề không
phải là thanh toán nghiệp quá khứ, vấn đề đơn giản là
thanh toán trạng thái hiện tại của tâm trí, có vậy thôi.
Đó chỉ là ở đây bây giờ. Nếu bạn hiểu, việc thanh
toán có thể xảy ra. Bạn chưa bao giờ làm cái gì cả;
bạn đơn giản đang mơ đấy thôi. Hành động hay tác
nhân, người làm và việc làm - tất cả đều là mơ.
Phật nói: cốt lõi bên trong nhất của ông đơn giản
là trống rỗng. Nó chưa bao giờ làm điều gì. Nó không
thể làm được. Nó là nhân chứng, bởi chính bản chất
của nó.
Quan sát nó đi. Tìm ra liệu điều ông ấy nói là
đúng hay không. Thử điều đó trong cuộc sống của
bạn. Bạn đã là đứa trẻ, bây giờ bạn không còn là đứa
trẻ nữa; thế rồi bạn đã là thanh niên, bây giờ bạn
không còn trẻ nữa; bây giờ bạn đã trở nên già; thân
thể thời thơ ấu đã mất rồi, tâm trí thời thơ ấu đã biến
mất. Thế rồi bạn có một thân thể khác trong tuổi
thanh niên của mình - cái đó đã qua đi. Cường tráng,
sống động, tuổi thanh xuân, cái đẹp - mọi thứ đều đã biến mất. Bạn đã có một kiểu tâm trí khác - quá tham
vọng, quá ham muốn, quá bản ngã. Bây giờ tất cả
những cái đó đều là câu chuyện của quá khứ. Bây giờ
cái chết đang tới; bạn có thể nghe thấy âm thanh của
việc tới của nó mỗi ngày một gần hơn. Bạn có thể
cảm thấy rằng mọi ngày khoảng cách đang trở nên
nhỏ dần. Nhưng quan sát một điều: bạn vẫn còn như
cũ. Cốt lõi bên trong nhất của bạn đã không thay đổi
một chút nào, nó đã không thay đổi chút nào. Khi bạn
là đứa trẻ, nó vẫn là cùng tâm thức đó quan sát từ
đằng sau. Bạn là thanh niên; nó vẫn là cùng tâm thức
đó, quan sát. Thế rồi bạn trở nên già; nó vẫn là cùng
tâm thức đó.
Cứ dường như tâm thức là tấm gương. Đứa trẻ
đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu đứa trẻ;
thanh niên đứng trước tấm gương, tấm gương phản
chiếu thanh niên đó; ông già đứng trước tấm gương,
tấm gương phản chiếu ông già này - nhưng tấm gương
thì không là đứa trẻ, không là thanh niên, không là
ông già. Và khi tất cả đều đã qua đi đơn giản chỉ còn
tấm gương phản chiếu cái không, chỉ hiện hữu ở đó.
Tâm thức bạn là tấm gương.
Biểu dụ này về tấm gương là cực kì có ý nghĩa.
Nó sẽ rất có ích về Đạo nếu bạn có thể hiểu được nó.
Tâm thức đang đứng đằng sau, quan sát. Nó là nhân
chứng. Mọi sự tới rồi đi... cũng giống như bộ phim.
Bạn ngồi trong rạp chiếu phim; trên màn ảnh nhiều
điều tới rồi đi. Đôi khi bạn bị đồng nhất nữa. Đôi khi
bạn trở nên bị đồng nhất với diễn viên. Có thể anh ta
đẹp, mạnh mẽ, có duyên, duyên dáng của cá tính, gây
ấn tượng, có sức hấp dẫn nào đó: bạn bị đồng nhất,
bạn quên mất bản thân mình. Trong một khoảnh khắc
bạn bắt đầu nghĩ cứ dường như anh ta là bạn. Đôi khi
điều xảy ra là có một cảnh rất buồn, và bạn bắt đầu
khóc. Mắt bạn đẫm lệ... và chẳng có gì trên màn ảnh
cả - chỉ là ánh sáng và bóng tối trôi qua. Và bạn biết
điều đó chứ, nhưng bạn đã quên mất trong một
khoảnh khắc. Nếu bạn nhớ điều đó, bạn sẽ bắt đầu tự
cười mình: "Mình làm gì thế này? kêu à? khóc à?"
Nhưng điều đó xảy ra khi bạn đọc tiểu thuyết nữa. Ít
nhất có cái gì đó trên màn ảnh. Đọc tiểu thuyết thì
chẳng có gì cả - không màn ảnh, không diễn viên,
chẳng có gì. Chỉ trong tưởng tượng riêng của bạn mà
tiểu thuyết cứ diễn ra mãi. Và bỗng nhiên đôi khi bạn
cảm thấy rất hạnh phúc, và đôi khi bạn cảm thấy rất
buồn; bầu không khí của tiểu thuyết bắt đầu sở hữu
bạn.
Đây đích xác là điều đang xảy ra trong cuộc sống.
Cuộc sống là một sân khấu lớn, một vở kịch lớn. Và
nó rất phức tạp - bởi vì bạn là diễn viên, và bạn là đạo
diễn, và bạn là cuốn phim, và bạn là màn ảnh, và bạn
lá máy chiếu, và bạn là khán giả nữa. Bây giờ bạn là
tất cả các tầng: một phần đóng vai trò của diễn viên,
phần khác chỉ đạo, phần khác vận hành như màn ảnh,
phần khác có tác dụng như máy chiếu. Và đằng sau
tất cả những cái đó là thực tại của bạn - nhân chứng,
người đang quan sát.
Người quan sát này... Một khi bạn bắt đầu cảm
thấy sự tồn tại của nó, một khi bạn bắt đầu được lắng
đọng với nó, ngày một hoà điệu với nó, thế thì bạn sẽ
thấy điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói tâm thức là tấm
gương. Tấm gương không bao giờ bị ô uế, nó chỉ
dường như vậy thôi. Bạn có thể để cả đống phân trước tấm gương; tất nhiên, nó sẽ phản chiếu đống phân đó.
Nhưng dầu vậy tấm gương vẫn không bị ô uế, nó
không bị ô nhiễm. Nó không trở nên không thuần
khiết bởi vì đống phân được phản chiếu trong nó. Nó
vẫn còn thuần khiết. Bỏ phân đi và tấm gương có đó
trong mọi sự thuần khiết của nó. Ngay cả khi phân
được phản chiếu thì tấm gương cũng vẫn không bị ô
uế. Cho nên bất kì điều gì là không thuần khiết thì đều
thực sự là việc phản chiếu; nó được soi gương. Và
Phật nói: Nếu ông đánh sạch xỉ này, bụi của điều ác
và đam mê, hạnh kiểm của ông sẽ không thể nghi ngờ
được.
Cho nên nhấn mạnh không vào hạnh kiểm. Nhấn
mạnh là vào thuần khiết tựa tấm gương của tâm thức.
Phật nói:
Ngay cả nếu người ta thoát ra từ việc tạo tác ác,
vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm
người.
Đây là bẩy vận may hi hữu lớn lao. Phật nói về
chúng nhiều lần, theo nhiều cách. Chúng phải được
hiểu; chúng có tầm quan trọng lớn lao.
Thứ nhất: vận may hi hữu là được sinh ra làm
người. Tại sao? Tại sao lại không phải là vận may hi
hữu để được sinh ra như chó? hay như trâu? hay như
lừa? hay như cây? hay như đá? Tại sao ân huệ hi hữu
lại là được sinh ra làm người? - bởi vì ngoại trừ con
người, toàn thể tự nhiên đều đang ngủ say. Bạn cũng
không thức tỉnh. Để tôi nhắc lại: toàn thể tự nhiên
đang ngủ ngoại trừ con người, và con người cũng
không thức tỉnh, mà ở chính giữa.
Đôi khi điều xảy ra buổi sáng là bạn cứ lật mình
và trở mình trên giường. Bạn biết rằng bây giờ là lúc
dậy, mà dầu vậy vẫn còn giấc ngủ. Nó là trạng thái
lưng chừng. Bạn có thể nghe thấy người đưa sữa nói
với vợ mình, bạn có thể nghe thấy tiếng trẻ con léo
nhéo và chuẩn bị đi tới trường, bạn có thể nghe thấy
tiếng xe bus dừng bên ngoài nhà để đón lũ trẻ, và dầu
vậy việc mơ vẫn tiếp tục. Bạn vẫn cảm thấy buồn ngủ,
mắt vẫn nhắm. Thỉnh thoảng bạn trôi giạt vào giấc
ngủ, thỉnh thoảng bạn trôi giạt ra khỏi nó. Đây là
trạng thái của con người.
Và Phật nói: Đó là ân huệ hi hữu - bởi vì toàn thể
tự nhiên đang trong ngủ rất say, ngủ say tới mức thậm
chí không có mơ. Nó đang trong trạng thái sushupti.
Con người đã đi tới trạng thái thứ hai: trạng thái của
việc mơ. Ít nhất có mơ nào đó. Mơ nghĩa là bạn
không ngủ say thêm nữa. Bạn chắc chắn không thức
tỉnh, bởi vì khi bạn trở nên thức tỉnh thì bạn thành vị
phật. Bạn đang ở đâu đó lưng chừng giữa con vật và
vị phật. Bạn đang treo trong trình trạng lấp lửng.
Và Phật nói: Đó là một cơ hội lớn lao, một ân huệ
hi hữu - bởi vì nếu bạn nỗ lực thêm chút ít thì bạn có
thể trở nên thức tỉnh. Chó không thể trở nên thức tỉnh
được, dù nó nỗ lực đến đâu. Cây không thể trở nên
thức tỉnh được; dù nó cố gắng đến đâu, điều đó là
không thể được. Nếu cây cố gắng cần mẫn, nó sẽ trở
thành chó. Nếu chó cố gắng cần mẫn, chó có thể trở
thành người. Nhưng thức tỉnh chỉ xảy ra khi bạn là con người. Con đường đi tới Thượng đế chỉ đi từ con
người thôi. Và ở phương Đông chúng ta nghĩ - và ý
nghĩ này có nhiều tính hợp thức trong nó - rằng ngay
cả các devas, các thiên thần, các thần, cũng không
được ân huệ như con người đâu. Vì sao? Bởi vì con
người đứng ở ngã tư đường. Ngay cả các thần mà
muốn được giải thoát, họ sẽ phải được sinh ra như con
người.
Con vật đang ngủ say, con người ở ngay điểm
giữa đường, và các thần ở trong mơ của họ quá nhiều.
Thế giới các thần là thế giới mơ. Đó là lí do tại sao họ
có nhiều cảnh tượng hay thế: nó là thế giới mơ, tưởng
tượng. Họ sống trong tưởng tượng. Con người sống ở
ngay giữa đường, và có khả năng con người có thể đi
tới những trạng thái thức tỉnh hơn của hiện hữu. Con
người có thể trở thành sự thức tỉnh.
... vận may hi hữu của người ta là được sinh ra
làm người.
Cho nên đừng bỏ lỡ cơ hội lớn lao này. Chỉ sau
tranh đấu rất lớn lao bạn mới được sinh ra làm người.
Làm phí hoài nó quả là đơn giản lố bịch. Trong hàng
triệu kiếp bạn đã đi tới trạng thái này. Bởi vì bạn đã
tới, bạn có thể phá huỷ nó chỉ bằng việc ăn, uống và
vui vẻ. Bạn có thể đơn giản đánh mất toàn thể cơ hội
này. Có những người mà nếu bạn bảo họ cầu nguyện
hay thiền, họ sẽ nói, "Thời gian đâu? Chúng tôi không
có thời gian." Và thế rồi bạn có thể thấy họ chơi bài
trong câu lạc bộ, và bạn hỏi, "Anh đang làm gì vậy?"
Và họ nói, "Giết thời gian" - vẫn cùng những người
đó. Khi đó là vấn đề về việc thiền họ nói, "Nhưng
không có thời gian." Và khi đó là vấn đề uống rượu,
hay đánh bạc, hay đi xem phim, hay chỉ ngồi dính
chặt hàng giờ trước chiếc ti vi, họ lại có đủ thời gian.
Thế thì bạn hỏi họ; họ nói, "Chúng tôi đang giết thời
gian."
Bạn đang giết thời gian, hay thời gian đang giết
bạn? Ai đã từng có khả năng giết thời gian? Bằng
không, với bao nhiêu người đã từng giết thời gian như
vậy, thì đến lúc này, thời gian chắc phải chết rồi.
Chẳng ai đã từng có khả năng giết thời gian. Thời
gian giết mọi người. Từng khoảnh khắc - thời gian
đều đem tới cái chết. Ở Ấn Độ chúng ta có cùng một
từ cho cả hai: thời gian chúng ta gọi là kal; và với cái
chết chúng ta cũng có cùng cái tên, kal... bởi vì thời
gian đem tới cái chết.
Thời gian là cái chết. Từng khoảnh khắc, bạn
đang trượt vào trong cái chết. Từng khoảnh khắc, cái
chết đang tới ngày một gần hơn, gần hơn. Mọi đồng
hồ đều phục vụ cho cái chết. Toàn thể thời gian đều
phục vụ cho cái chết. Và làm người chính là một cơ
hội hi hữu, và rất dễ đánh mất nó. Phật nhắc nhở
chúng ta. Điều thứ hai ông ấy nói:
Nếu người ta sinh ra được làm người, vận may hi
hữu của người ta là có sáu giác quan hoàn chỉnh.
Có những người có thể được sinh ra là người,
nhưng lại mù, hay điếc, hay câm, hay đầu óc trì trệ.
Thế nữa cũng là điều không thể được - Chẳng ai đã
từng nghe nói về bất kì người đầu óc trì trệ nào lại trở
thành vị phật. Điều đó chưa bao giờ được biết tới,
điều đó là không thể có được. Cần có thông minh lớn lao. Rất khó trở nên nhận biết nếu giác quan của bạn
bị thiếu - bởi vì với nhận biết, nhạy cảm là điều phải
có. Người có mắt và người không có mắt ở hai trạng
thái khác nhau, trạng thái khác hẳn nhau. Người có
mắt nhạy cảm hơn, bởi vì mắt là phần nhạy cảm nhất
của thân thể. Tám mươi phần trăm nhạy cảm của bạn
thuộc vào mắt. Người mù chỉ có hai mươi phần trăm
nhạy cảm so với người có mắt. Người mù bị bao trong
bóng tối tinh tế, và không có cách nào để thoát ra khỏi
nó. Người đó sống bị bao quanh trong một nhà tù rất
tinh tế. Rất khó thoát ra khỏi nó.
Đôi mắt bên ngoài của bạn cho bạn thoáng nhìn
nào đó, tầm nhìn nào đó, và bạn có thể bắt đầu suy
nghĩ về con mắt bên trong nữa. Nhưng người không
có con mắt bên ngoài thì không thể quan niệm nổi về
con mắt thứ ba là gì. Người chưa bao giờ nhìn thấy
cái gì thì không thể có cái nhìn thấu suốt được. Nếu
cái ‘nhìn ra' bị thiếu, cái nhìn vào sẽ bị thiếu; chúng
tồn tại theo cặp. Đó là lí do tại sao khi bạn thấy người
mù, lòng từ bi lớn lao lại nảy sinh trong bạn. Chỉ quan
sát người mù người ta cảm thấy rất, rất từ bi. Tại sao?
Người này khuyết tật nhiều thế. Người này là con
người đấy, vậy mà tám mươi phần trăm kinh nghiệm
mầu sắc, ánh sáng, lại bị thiếu. Toàn thể cuộc sống
của người đó là vô mầu; người đó không biết mầu lục
là gì. Nghĩ về bản thân bạn mà xem: nếu bạn chưa bao
giờ biết tới hoa hồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy
cầu vồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời
mọc và mặt trời lặn, nếu bạn chưa bao giờ thấy khuôn
mặt người đàn bà hay đàn ông đẹp, nếu bạn chưa bao
giờ thấy cái đẹp, con mắt hồn nhiên của đứa trẻ, nếu
bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt, vẻ duyên dáng của
người đã đạt tới, bị bạn bị lỡ biết bao nhiêu.
Bạn sẽ giống như tảng đá, ít giống con người.
Phật không chống lại giác quan; câu này sẽ chứng
minh điều đó cho bạn. Phật nói: Cảm giác, và thèm
khát cảm giác là xấu, nhưng giác quan là tốt. Và mang
tính nhạy cảm là tuyệt đối cần thiết. Cho nên trở nên
nhạy cảm hơn đi.
Để tôi làm điều đó rõ ràng cho bạn. Nếu bạn dùng
mắt chỉ để đạt tới thèm khát và bạn cứ tìm kiếm thèm
khát, thế thì mắt bạn sẽ dần dần trở thành đờ đẫn. Con
mắt thèm khát bao giờ cũng đờ đẫn. Con mắt thèm
khát bao giờ cũng xấu. Nếu một người nhìn bạn với
con mắt thèm khát, bạn bỗng nhiên cảm thấy bị xúc
phạm - người đó đang xâm phạm. Mắt người đó giống
như con dao đâm vào tim. Người đó không phải là
người có văn hoá, người đó không lịch sự chút nào.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin đi vào một văn phòng; anh ta
phải đã tới bởi công việc nào đó. Tiếp viên là một
người đàn bà đẹp. Anh ta nhìn cô ấy với đôi mắt thèm
khát thế, và rồi anh ta hỏi, "Phòng tắm ở đâu?" Người
đàn bà nói, "Anh đi thẳng tới cuối hành lang. Anh sẽ
thấy một phòng có dấu hiệu 'Nam' - và đừng để dấu
hiệu đó ngăn cản anh. Cứ đi vào." 

Khi bạn nhìn người đàn bà với đôi mắt thèm khát
thì bạn không phải là quí ông lịch sự. Thực sự, bạn có
chút ít vô nhân. Khi đôi mắt nhạy cảm, không thèm
khát, chúng có chiều sâu. Khi mắt không nhạy cảm,
mà chỉ thèm mãnh liệt cảm giác, chúng nông cạn. Và
bạn sẽ thấy chúng đục ngầu: chúng sẽ không trong
suốt. Khi đôi mắt cực kì nhạy cảm, thế thì chúng có
chiều sâu, chiều sâu trong suốt. Bạn có thể nhìn vào
chúng và bạn có thể đạt tới chính trái tim của người
đó. Người đó trở thành sẵn có qua đôi mắt của mình,
và qua đôi mắt bạn có thể thấy mình đang gặp kiểu
người nào.
Mắt mang tính rất chỉ dẫn. Đó là lí do tại sao
những kẻ phạm tội không bao giờ nhìn thẳng vào mắt
bạn, họ sẽ tránh điều đó. Người phạm tội sẽ nhìn sang
bên cạnh, họ sẽ không nhìn thẳng - bởi vì họ không
hồn nhiên. Họ biết rằng mắt họ có thể tiết lộ, mắt họ
có thể nói điều gì đó mà họ không muốn nói. Nếu bạn
có thể quan sát mắt người, bạn có chính chiếc chìa
khoá vào cá tính người đó.
Và cùng điều đó cũng đúng cho các giác quan
khác. Nghĩ về người điếc, người không nghe được.
Wagner, người đã không nghe được, Ravi Shankar,
người đã không nghe được chim hót vào buổi sáng,
với họ chim cu cu không tồn tại, người đã không nghe
ai đó hát bài tình ca hay bài ca buồn, với người đó sáo
chỉ là thanh trúc hổng. Nghĩ xem người đó nghèo nàn
làm sao.
Phật nói: Ân huệ đầu tiên là ở chỗ ông được sinh
ra làm người, ân huệ thứ hai là ông được sinh ra với
sáu giác quan. Bây giờ dùng cơ hội này; trở nên ngày
một nhạy cảm hơn đi. Và làm sao bạn có thể trở nên
nhạy cảm hơn? Khi bạn không thèm khát, bạn trở nên
nhạy cảm hơn. Khi bạn thèm khát, tính nhạy cảm của
bạn bị mất; bạn trở thành nông cạn. Người không
thèm khát, dần dần, thu được nhiều năng lượng thế.
Nếu một người mà không có thèm khát, thì tất cả các
giác quan của người đó trở thành cửa sổ rõ ràng -
không khói, không rào chắn. Và bên trong và bên
ngoài gặp gỡ qua sự nhạy cảm đó.
Ngay cả khi người đó được hoàn chỉnh trong sáu
giác quan, vận may hi hữu của người đó là được
sinh ra vào thời của phật. Ngay cả nếu người đó
được sinh vào thời phật,
Và Phật nói: Ông có thể là con người, ông có thể
được sinh ra với tất cả các giác quan hoàn hảo, nhưng
nếu ông không được sinh ra trong thời của phật thì
ông sẽ bỏ lỡ sự tiếp xúc với cái không biết. Bạn có thể
thấy cây, bạn có thể thấy hoa, bạn có thể thấy sao,
nhưng những điều này không là gì nếu so với con
người của chứng ngộ - bởi vì ông ấy đại diện cho cái
không biết trong thế giới của cái biết. Ông ấy đem tia
sáng của Thượng đế vào bóng tối của trái đất. Ông ấy
là việc nở hoa thực của tâm thức.
"Điều đó là hi hữu," Phật nói, "được sinh ra vào
thời của phật." Thực tế, chính ân huệ lớn lao là được
cư ngụ cùng thời gian, cùng không gian, khi vị phật
cư ngụ - bởi vì cái gì đó của rung động sống của ông
ấy nhất định chạm tới bạn. Sự hiện diện của ông ấy
nhất định trở thành mưa rào phúc lành. Cho dù bạn
không bao giờ tới ông ấy, cho dù bạn chống lại ông ấy, cho dù ông ấy đi qua thị trấn của bạn và bạn
không có thời gian tới thăm ông ấy, cho dù thế thì
bình thản của ông ấy vẫn đem cái gì đó tới bạn, cái gì
đó không được yêu cầu. Ông ấy sẽ đạt tới cái không
được mời của bạn. Nghĩ xem: nếu Phật mà không
được sinh ra, thế giới này đã không như thế rồi. Và
người Ki tô giáo đã làm rất giỏi để bắt đầu lịch của họ
theo Christ. Điều đó là tốt - Christ tạo ra sự gián đoạn
vô cùng với quá khứ. Chỉ sự tồn tại của ông ấy thôi -
Christ là vị phật - sự tồn tại của ông ấy đã tạo ra một
lịch sử hoàn toàn khác. Điều tốt là người Ki tô giáo đã
ghi ngày tháng lịch sử của họ theo sau Christ và trước
Christ. Trước Christ nó chẳng là cái gì; tất cả đều bình
thường. Sau Christ một hiện tượng vô cùng đã bắt đầu
đi vào một độ cao khác.
Ở Ấn Độ chúng ta không thể làm được điều đó,
bởi vì chúng ta đã bắt gặp biết bao nhiêu chư phật.
Thật khó cho chúng ta để làm điều đó theo cách đó.
Bằng không thì đã có biết bao nhiêu là lịch, và điều
đó sẽ gây lẫn lộn. Nhưng bất kì khi nào vị phật tồn tại
nhân loại đều lấy một chỗ ngoặt, chỗ ngoặt đi lên. Bất
kì khi nào vị phật đi vào lịch sử, lịch sử không bao
giờ còn như cũ - toàn bộ viễn cảnh thay đổi. Và khi
phật đang trong hiện tại thì rất dễ cho bạn thiền, bởi vì
năng lượng của ông ấy đang chuyển động. Bạn có thể
đơn giản cưỡi lên con sóng của ông ấy. Khi bạn làm
việc thiền một mình và vị phật không hiện diện, bạn
đang tranh đấu đơn thương độc mã với những rào
chắn lớn thế; điều đó gần như không thể nào được,
không có thể được, tới mức bạn sẽ là kẻ chinh phục.
Có Phật điều đó gần giống thế này.
Ramakrishna thường nói, "Khi gió thổi theo đúng
hướng, bạn đơn giản để cho con thuyền của mình
trong dòng chảy và gió sẽ đem nó đi. Chỉ đợi cho
đúng hướng thôi; thế thì bạn không cần làm nỗ lực gì.
Bạn đơn giản ngồi trong thuyền, gió sẽ đem nó đi."
Khi Phật đang thổi và toàn thể sự tồn tại đang nổi
sóng, thế thì mọi thứ đang đi tới Thượng đế. Bạn có
thể đơn giản nắm tay, và bạn có thể cưỡi lên con sóng
này rất dễ dàng. Bạn có thể đơn giản để cho chiếc
thuyền của mình trong dòng chảy, và dòng chảy đang
đi đấy.
Do đó Phật là phải khi ông ấy nói: Được sinh ra
vào thời của phật là cơ hội hi hữu.
Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị phật,
vận may hi hữu của người đó là được gặp người
chứng ngộ.
Nhưng khó khăn có đó: bạn có thể được sinh ra
vào thời của Phật nhưng bạn có thể chẳng bao giờ gặp
ông ấy - bởi vì ngay chính ý tưởng rằng ai đó đã
chứng ngộ là ngược lại bản ngã của bạn. Bạn không
thể tin được rằng ai đó đã chứng ngộ còn bạn thì
không. Không thể nào có chuyện ai đó đã đi lên trước
bạn. Bạn không thể tin được điều đó bởi vì bản ngã
của mình, và bạn sẽ tìm cả nghìn lẻ một lí do để
không đi tới vị phật. Bạn sẽ tìm các lí lẽ rằng ông ấy
sai, rằng ông ấy mắc chứng hoang tưởng, rằng ông ấy
cứ nói đại, rằng ông ấy không thực là vị phật - "Bằng
chứng là gì?" Mọi người thường tới Phật và hỏi,
"Bằng chứng của ông là gì? Ai là nhân chứng cho
ông?" 

Bây giờ đây là những câu hỏi ngu xuẩn. Ai có thể
là nhân chứng đây? Phật tính xảy ra trong sự một
mình sâu sắc đến mức không ai có thể là nhân chứng
được. Nó không phải là hành động trong thế giới này,
nó là hành động bên ngoài thế giới. Ai có thể là nhân
chứng? Nó xảy ra trong tính một mình vô cùng. Nó
xảy ra ở cốt lõi bên trong nhất; không ai có thể thấy
được nó. Vị Phật phải tự công bố; không có cách
khác. Và ai sẽ xác nhận rằng ông ấy là vị phật? Mọi
người hay tới ông ấy và họ sẽ tìm cả nghìn lẻ một
cách để chứng minh rằng bất kì cái gì ông ấy nói đều
đã trùng hợp hay không trùng hợp với kinh sách cổ.
Nó chưa bao giờ trùng hợp cả; nó không thể thế được,
theo chính bản chất của mọi sự. Bởi vì bất kì khi nào
ai đó trở nên chứng ngộ, người đó đều đem một tầm
nhìn khác vào trong thế giới, điều chưa bao giờ tồn tại
trước đó.
Từng người chứng ngộ đều đem món quà mới cho
thế giới, điều chưa tồn tại trước đây. Cho nên nếu bạn
nhìn vào trong Veda bạn có thể không tìm thấy nó;
nếu bạn nhìn vào Upanishad bạn có thể không tìm
thấy điều Phật đang nói. Điều đó sẽ có vẻ như chút ít
nổi dậy, không chính thống. Người chứng ngộ mang
tính nổi dậy, là không chính thống, bởi vì chân lí
mang tính nổi dậy và chân lí là không chính thống.
Cho nên bất kì khi nào vị phật tới, mọi người bắt đầu
nhìn vào kinh sách cổ của họ để xem liệu có bằng
chứng không, và điều đó thì chẳng bao giờ xảy ra cả.
Khi Christ tới người Do Thái bắt đầu nhìn vào
kinh sách cổ của họ, và họ chẳng bao giờ trở nên
được thuyết phục rằng con người này là Chúa cứu thế
mà họ đã chờ đợi. Họ đã đóng đinh ông ấy. Tại sao? -
bởi vì họ không thể hình dung được điều đó.
Mọi người tin vào kinh sách. Kinh sách là thứ
chết, và kinh sách do bạn làm ra, do bạn thu thập lấy,
do bạn diễn giải. Không ai biết kinh sách thực sự ngụ
ý gì. Không ai có thể biết được - bởi vì lời có đó,
nhưng nội dung phải do bạn trao cho.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin tới bác sĩ và nói, "Tôi rất lo
nghĩ. Một tuần trước, tôi về nhà thấy vợ tôi đang
trong tay một người đàn ông khác, người này đã nói
với tôi trong lúc đi ra uống cà phê. Năm đêm sau, lại
đích xác điều đó xảy ra."
"Anh bạn quí ơi," bác sĩ nói, vậy anh cần gì bác
sĩ. Anh cần luật sư chứ."
"Không đâu," Mulla khăng khăng, "tôi cần bác sĩ
thực. Tôi muốn biết liệu tôi có uống quá nhiều cà phê
không."
Bây giờ điều đó là tuỳ... cách bạn nhận điều gì đó,
cách bạn diễn giải nó. Diễn giải nhất định tới từ tâm
trí bạn.
Nghe một giai thoại.
Đó là đêm trăng mật của họ, và cô dâu Do Thái đã
mặc bộ áo ngủ mỏng tang và bò vào giường, phát hiện
ra anh chồng theo nhà thờ Tân giáo đang sắp đi ngủ trên tràng kỉ. Lúc đó là tháng chay Lent, lúc mà người
Ki tô giáo dừng ít nhất một trong những việc hưởng
thú của họ.
"George ơi," cô ấy gọi, "anh không định làm tình
với em sao?"
"Anh không thể làm được, em yêu," anh ta đáp,
"bởi vì đó là Lent."
"Sao thế, điều đó khủng khiếp quá!" cô ấy kêu
lên, buột khóc. "Làm với ai? và bao lâu?"
Bạn hiểu không?
Bây giờ tâm trí đam mê, tâm trí thèm khát, có
cách diễn giải riêng của nó. Lời chẳng thành vấn đề gì
nhiều; bạn phóng chiếu ý tưởng của mình lên lời. Nếu
bạn đang tìm cái gì đó bạn sẽ có thể thấy nó. Nếu bạn
không tìm cái gì đó bạn có thể không thấy nó. Và
khuynh hướng tự nhiên của tâm trí con người là trước
hết phủ nhận rằng ai đó đã đạt tới. Điếu đó xúc phạm
tới bản ngã. Đó là lí do tại sao điều đó lại rất khó cho
bạn.
Nếu ai đó tới và nói rằng người khác, hàng xóm
của bạn, là kẻ giết người, bạn tin ngay lập tức. Bạn
chẳng bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Bạn nói,
"Tôi đã biết anh ta từ lâu rồi. Tôi bao giờ cũng nghĩ
rằng anh ta là thế." Nếu ai đó tới và nói, "Người kia là
kẻ cắp, vô đạo đức," thế này thế nọ, bạn chẳng bao
giờ bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Nếu mọi người
bận tâm về bằng chứng thì đã không có nhiều buôn
chuyện trong thế giới này. Ai bận tâm tới bằng
chứng? Khi ai đó bị kết án bạn lập tức tin ngay điều
đo bởi vì điều đó cho bạn cảm giác rằng bạn tốt hơn
người khác. Nhưng nếu ai đó tới và nói, "Một người
đã trở thành thiền nhân, thiền nhân vĩ đại," lập tức có
nghi ngờ. Bạn nghe điều đó nhưng bạn không muốn
nghe đâu. Bạn nói, "Điều đó không thể được. Tôi biết
người đó mà; anh ta là kẻ lừa dối. Làm sao anh ta có
thể thiền được? Tôi biết anh ta từ chính thời trẻ con;
chúng tôi đã là đồng sinh trong trường. Không, anh ta
không thể thế được. Bằng chứng là gì?" bạn hỏi. Bất
kì khi nào ai đó nói về ai đó khác là tốt, bạn đều đòi
hỏi bằng chứng bởi vì điều đó làm tổn thương bản ngã
bạn: "Thế là ai đó khác đã trở thành tốt trước mình
sao?"
Khi vị phật bước đi trên đất ông ấy công bố điều
không thể có được, điều mà chỉ hiếm khi mới xảy ra.
Ông ấy đang nói ông ấy đã trở thành vị phật, và tất
nhiên chỉ ông ấy mới có thể nói được điều đó. Không
có cách khác để chứng minh hay bác bỏ điều đó. Phát
biểu của ông ấy là không chứng minh được hay không
bác bỏ được - và bản ngã của bạn bị tổn thương.
Phật nói: Vận may hi hữu là được sinh ra vào thời
của phật, và thậm chí vận may hi hữu hơn là được gặp
người đã chứng ngộ - để đi tới, để cúi lạy. Bởi vì chỉ
nếu bạn cúi lạy, nếu bạn buông xuôi, thì bạn mới có
khả năng thấy được. Vấn đề không phải ở con mắt vật
lí. Nhiều người đã thấy Phật bước đi, đi từ thị trấn nọ
sang thị trấn kia, nhưng họ lại không phải là những
người đã thấy ông ấy. Chỉ vài cá nhân hi hữu trở
thành đệ tử của ông ấy mới thấy được. Bởi vì không
thể nào thấy được vị phật mà lại không trở thành đệ
tử. Nếu bạn đã thấy, thế thì bạn đã thấy; và thế thì bạn không thể lại như cũ được nữa. Thế thì toàn thể cuộc
sống của bạn bị đảo lộn. Thế thì bạn đang trong hỗn
độn, thế thì bạn được tái sinh. Thế thì sẽ có sụp đổ
hoàn toàn của quá khứ của bạn, có sinh thành mới, và
tất nhiên, tất cả mọi đau đớn bao giờ cũng có trong
sinh thành mới.
... Ngay cả nếu người đó có khả năng gặp người
chứng ngộ, vận may hi hữu của người đó là có
trái tim được thức tỉnh trong tin cậy.
Bạn có thể thấy, nhưng điều đó cũng không nhiều
nhặn mấy. Chừng nào tin cậy còn chưa nảy sinh trong
bạn...
... Trái tim được thức tỉnh trong tin cậy. Cố hiểu
từ 'tin cậy' này. Nó không ngụ ý đức tin. 'Đức tin'
nghĩa là giáo điều; 'đức tin' nghĩa là tin vào giáo điều.
Chẳng hạn, người Ki tô giáo tin vào Ba ngôi: Cha,
Con và Thánh Thần thiêng liêng. Đây là đức tin. Hay,
người Hindu tin vào ba khuôn mặt của Thượng đế; đó
là đức tin.
Khi bạn đương đầu với vị phật và bạn tin cậy vào
người này, thế thì đó là tin cậy. Tin cậy mang tính cá
nhân; đức tin mang tính lí thuyết, quan niệm. Tin cậy
giống như tình yêu - bạn rơi vào tin cậy cũng như bạn
rơi vào tình yêu. Nó không phải là đức tin. Không
phải là Phật đã thuyết phục bạn về cái gì đó. Không,
sự hiện hữu của ông ấy đã thuyết phục bạn về bản thể
riêng của ông ấy. Ông ấy đã thuyết phục bạn không
tin vào giáo điều, ông ấy đã thuyết phục bạn rằng cái
gì đó đã xảy ra ở đây trong con người này. Bạn đã trở
nên được thuyết phục về sự kiện rằng đây là một con
người đã được biến đổi, được siêu việt, người không
còn của thế giới này nữa. Đó là sự tin chắc, tin chắc
mang tính cá nhân. Nó không phải là lí lẽ, nó không
phải là thần học - nó là chuyện tình.
Khi mọi người tới tôi để được điểm đạo mang
tính chất sannyas, tôi ngay lập tức có thể phân biệt
liệu đó là tin cậy hay đức tin. Có hai kiểu người:
người này tới và nói, "Bất kì điều gì thầy nói cũng
đều thuyết phục tôi. Lí lẽ của thầy là siêu. Lập luận
của thầy hấp dẫn tôi." Bây giờ, người này đã tới tôi
như người tin. Người đó đã không thực sự tới. Một
ngày nào đó người đó có thể tìm thấy ai đó, người có
thể ‘hoá giải đức tin’ của anh ta với tôi - bởi vì có thể
có lí lẽ hay hơn. Bao giờ cũng có khả năng này, bởi vì
logic là con dao hai lưỡi; nó cắt theo cả hai cách.
Cùng lí lẽ đó có thể được dùng để phá huỷ sự thuyết
phục, cùng lí lẽ đó có thể được dùng để tạo ra nó.
Logic giống như kẻ mãi dâm, hay giống như luật sư.
Nó có thể đi cùng bất kì ai, với bất kì ai trả giá.
Chuyện xảy ra:
Trong giờ uống cà phê có cuộc thảo luận lớn. Một
triết gia một hôm nói trong giờ uống cà phê, "Nếu các
ông cho tôi hệ thống logic của Aristotle, tôi sẽ áp đặt
cho kẻ thù của mình một kết luận. Cứ cho tôi phép
tam đoạn luận và đó là mọi điều tôi yêu cầu."
Triết gia khác nói, "Nếu các ông cho tôi hệ thống
chất vấn của Socrates thì tôi sẽ dồn kẻ thù của mình
vào trong góc và đánh bại anh ta ngay lập tức. Đó là
mọi điều tôi yêu cầu." 

Mulla Nasruddin, sau khi nghe tất cả những điều
này nói, "Các anh trai, nếu các anh cho tôi chút ít tiền
mặt, tôi bao giờ cũng giành được quan điểm của mình
tôi bao giờ cũng kéo kẻ thù của mình vào một kết luận
bởi vì chút ít tiền mặt dễ hiểu cực kì hơn sự hiểu
biết."
Logic không phải rất căn bản; nó là hời hợt. Nếu
ai đó tới và anh ta nói rằng anh ta tin vào điều tôi nói,
thế thì đó không phải là tin cậy. Nhưng có vài người
hiếm hoi nói, "Chúng tôi không biết điều thầy đang
nói, chúng tôi thậm chí chẳng hiểu gì mấy. Chúng tôi
thích điều thầy nói, nhưng đó không phải là vấn đề.
Chúng tôi rơi vào tình yêu với thầy." Tin cậy đã nảy
sinh. Bây giờ, không ai có thể phá huỷ tin cậy này
được, bởi vì nó là phi logic.
Bạn không thể phá huỷ được tin cậy bởi vì nó
không dựa trên logic. Bất kì cái gì dựa trên logic cũng
đều có thể bị phá huỷ: nếu bạn có thể co kéo logic nó
sẽ sụp đổ. Nó có nguyên nhân; kéo nguyên nhân ra và
hậu quả sẽ biến mất. Nhưng tin cậy không có nguyên
nhân. Nó cũng giống như rơi vào tình yêu. Nếu bạn đi
tới Majnu và chứng minh cho anh ấy rằng Laila
không phải là người đàn bà đẹp nhất trên thế giới, và
về mặt logic bạn cứ chứng minh điều đó, anh ta sẽ
nói, "Đừng tự gây khó xử cho mình một cách không
cần thiết thế. Chẳng ai có thể chứng minh được điều
đó đâu."
Điều thực tế đã xảy ra là vua của thị trấn của
Majnu đã triệu anh ta tới. Nhà vua trở nên rất tốt với
anh ta. Majnu đã đi, kêu khóc và gào thét trên phố
trong đêm. Anh ta chỉ gọi, "Laila! Laila!" Và nhà vua
trở nên rất từ bi. Ông ta triệu anh ta tới và ông ta nói,
"Anh là kẻ ngốc. Ta đã thấy Laila của anh; cô ấy là
một cô gái bình thường. Thực tế, bởi vì anh kêu khóc
nhiều quá nên ta nghĩ cô ấy phải rất đẹp, cho nên đích
thân ta đã trở nên quan tâm. Nhưng khi ta thấy cô ấy
thì ta đơn giản cười to. Anh là thằng ngốc! Và ta có
nhiều từ bi với cái ngốc của anh. Anh là thanh niên
tốt; đừng làm phí hoài cuộc sống của mình."
Ông ta triệu tới mười hai người đàn bà trong hậu
cung của mình và ông ta nói, "Anh chọn lấy một
người bất kì." Họ đều đẹp nhất, quí giá nhất của
vương quốc. Majnu nhìn và anh ta nói, "Chẳng cái gì
sánh được với Laila." Và anh ta nói với nhà vua, "Tâu
bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn thấy Laila, bệ hạ sẽ
cần đôi mắt của thần. Mắt của Majnu sẽ được cần tới.
Không có cách nào để thấy Laila và cái đẹp của cô ấy
ngoại trừ qua con mắt của Majnu."
Đệ tử là một Majnu. Người đó là người điên;
người đó đã rơi vào tình yêu. Phật nói: Trái tim của
người đó được thức tỉnh trong tin cậy... Hiện diện của
Phật là hấp dẫn của ông ấy. Duyên dáng bao quanh
Phật đã làm xúc động trái tim người đó. Đó không
phải là logic của Phật, đó không phải là triết lí của
Phật. Cho dù Phật vẫn còn im lặng thì điều đó cũng
chẳng khác biệt gì nhiều; người đó sẽ bị thuyết phục
như nhau. Cho dù Phật có bắt đầu tự mâu thuẫn thì
điều đó cũng sẽ chẳng tạo ra khác biệt gì. Đó là lí do
tại sao bạn thấy rằng tôi cứ mâu thuẫn hoài. Những
người tới qua trí năng dần dần biến mất. Mâu thuẫn
giúp tôi vứt cỏ dại khỏi khu vườn của tôi. Những
người đã tới qua tình yêu thì không bận tâm. Họ nói, "Được đấy, thầy cứ tận hưởng việc tự mâu thuẫn đi,
nhưng chúng tôi yêu thầy. Thầy không thể lừa chúng
tôi được." Họ nói, "Thầy có thể cứ mâu thuẫn nhưng
thầy không thể buộc chúng tôi chạy xa khỏi thầy
được."
Những người tới qua đức tin, chẳng chóng thì
chầy, sẽ phải ra đi - bởi vì chân lí mang tính nghịch lí.
Chỉ lí thuyết mới không nghịch lí. Chân lí có tất cả
mọi mâu thuẫn của cuộc sống trong nó. Chân lí rất phi
logic, rất phi lí.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và thế rồi Phật nói: Nhưng điều này không phải
là kết thúc. Khi trái tim ông tràn đầy tình yêu, và tràn
đầy tin cậy và tin tưởng, đây không phải là kết thúc.
Đây mới chỉ là bắt đầu. Bây giờ ông phải giúp cho
thông minh của mình đi lên và chiếm quyền sở hữu
mình. Tin cậy là cánh cửa: bạn phải đi vào qua nó,
nhưng bạn không nên vẫn còn ở cửa. Bằng không,
bạn chẳng bao giờ đi vào trong lâu đài này. Chung
cuộc, ban phải đi tới kinh nghiệm riêng của mình. Tin
tưởng là tốt, tin cậy vào vị phật là tốt, có tin cậy là tốt,
nhưng điều đó không đủ - bởi vì tin cậy của bạn vào
Phật vẫn không phải là kinh nghiệm của bạn. Điều đã
xảy ra cho Phật phải xảy ra cho bạn nữa. Thế thì bước
thứ hai xảy ra: thông minh riêng của bạn nảy sinh.
Bây giờ nó không chỉ là tình yêu hướng tới Phật; bây
giờ bằng kinh nghiệm riêng của mình bạn đã trở thành
nhân chứng. Nó không phải là tin cậy vô căn cứ. Lúc
ban đầu tin cậy là vô căn cứ, nhưng đến cuối nó trở
thành tuyệt đối có căn cứ. Căn cứ này không do logic
cung cấp, căn cứ này được kinh nghiệm của bạn cung
cấp. Khi nó đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn,
bạn không nói, "Tôi tin cậy vào Phật." Bạn biết nó là
phải, nó là đúng.
Ai đó hỏi Shri Aurobindo, "Ông có tin vào
Thượng đế không?" và ông ấy nói, "Không." Người
này đâm ra phân vân. Anh ta đã tới từ Đức, anh ta là
giáo sư. Và anh ta đã tới chỉ để nghe con người vĩ đại
này. Anh ta đơn giản bị choáng rằng con người này
nói, "Không." Và anh ta đã trong việc tìm kiếm
Thượng đế. Anh ta nói, "Tôi có nghe đúng không,
thưa ngài? Ngài nói không?" Aurobindo lặp lại,
"Vâng," ông ấy nói, "tuyệt đối không - bởi vì không
có vấn đề về đức tin. Tôi biết Thượng đế hiện hữu.
Không có vấn đề về đức tin. Anh hỏi, ‘Ông có tin vào
Thượng đế không?' Tôi không tin, tôi biết."
Đức tin là việc thay thế nghèo nàn cho hiểu biết.
Cho nên Phật nói: Thứ nhất ông tin cậy. Tin cậy
đơn giản có nghĩa là ông đã tình cờ bắt gặp một người
ở xa ông, xa khỏi ông. Ông đã tình cờ bắt gặp một
người đã chỉ cho ông tương lai riêng của ông, định
mệnh của ông. Cứ dường như một hạt mầm đã thành
cây, và hạt mầm này đã trở nên nhận biết rằng cây là
có thể có. Và cây này nói, "Có thời tôi cũng là hạt
mầm hệt như bạn." Bây giờ tin cậy nảy sinh trong hạt
mầm này. Nếu người đó chưa bao giờ thấy cây này,
người đó sẽ chẳng bao giờ mơ về nó cả. Làm sao hạt
mầm có thể mơ về cây được? Người đó chưa bao giờ
thấy cái một. Đó là lí do tại sao được sinh vào thời của phật lại là phúc lành lớn lao - bởi vì có cây, và hạt
mầm của bạn có thể bắt đầu mơ. Khi động chạm đầu
tiên của cây đổ lên hạt mầm, người đó tin cậy. Tương
lai riêng của người đó bây giờ trở nên đầy các khả
năng. Nó sẽ không chỉ là việc lặp lại của quá khứ, nó
sẽ là cái gì đó mới. Người đó xúc động. Xúc động đó
là tin cậy. Người đó rùng mình tới tận gốc rễ. Bây
giờ, lần đầu tiên, người đó biết có nghĩa; bây giờ, lần
đầu tiên người đó biết có định mệnh. Cái gì đó đang
sắp xảy ra: "Mình không phải là ngẫu nhiên. Mình
đang mang thông điệp lớn lao. Nó phải được dịch ra,
nó phải được giải mã. Mình phải trở thành cây và nở
hoa, và lan toả hương thơm theo gió."
Nhìn thấy vị phật, bạn đã thấy phật tính riêng có
thể có của mình. Đó chính là tin cậy là gì... nhưng nó
vẫn chưa đủ. Thế rồi bạn phải làm việc cần mẫn để
làm cho nó thành sự thực. Hạt mầm phải rơi vào đất,
phải chết đi trong đất, được sinh ra như chồi. Và cả
nghìn lẻ một khó khăn phải vượt qua: gió có đó, sấm
chớp có đó, con vật có đó, và chồi mới lại rất mảnh
mai, rất yếu ớt - với tiềm năng vô hạn trở thành mạnh
mẽ, nhưng ngay bây giờ nó không mạnh. Nó sẽ cần sự
giúp đỡ của ai đó; nó sẽ cần người làm vườn. Đó là
nghĩa của thầy.
Khi bạn chọn thầy, bạn chọn người làm vườn. Và
bạn nói, "Xin bảo vệ tôi cho tới khi tôi đủ mạnh mẽ
để đi con đường riêng của mình." Nhưng tin cậy là
cánh cửa.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và điều cuối cùng:
Ngay cả nếu người đó đánh thức trái tim thông
minh, vận may hi hữu của người đó là nhận ra
trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành đạt.
Toàn thể mục đích của kỉ luật là để đi tới một
điểm mà kỉ luật có thể bị vứt bỏ. Toàn thể mục đích
của thực hành tôn giáo, của sadhana, là để đi tới một
khoảnh khắc khi tất cả mọi sadhana có thể bị vứt bỏ
và bạn có thể đơn giản tự phát. Thế thì bạn đã nở hoa.
Chẳng hạn, nếu bạn phải liên tục thiền, và một
ngày nào đó bạn dừng việc thiền của mình và tâm trí
nhảy lùi lại, thế thì đây không phải là trạng thái lớn
lao gì. Một khoảnh khắc nên được ham muốn, được
khao khát, khi bạn thậm chí có thể vứt bỏ việc thiền
của mình. Nhưng chẳng cái gì khác cả; nó vẫn còn
như cũ. Dù bạn có công phu thiền hay không, bạn vẫn
còn mang tính thiền. Việc thiền phải trở thành phần
cốt lõi nhất của bạn, phần của bản thể bạn, không phải
là cái gì đó bị áp đặt từ bên ngoài. Không phải là bạn
phải ép buộc bản thân mình là tốt; không phải là bạn
phải kìm nén những cám dỗ xấu của mình, không.
Bây giờ không có cám dỗ, không có ép buộc. Người
ta đã siêu việt lên trên kỉ luật. Đây là điều Phật gọi là
‘Kỉ luật của Siêu việt'. Đây là vận may thứ bẩy, vận
may cuối cùng, điều tối thượng.
Được sinh ra làm người mới chỉ là cái bắt đầu, và
thế rồi bạn phải đi tới điểm mà tất cả mọi kỉ luật đều
có thể bị vứt bỏ. Thế thì bạn đã trở thành một Thượng đế, thế thì bạn đã trở thành tự phát như tự nhiên, thế
thì không có căng thẳng, thế thì bạn không có tính
cách nào, thế thì bạn hồn nhiên như đứa trẻ. Nhận biết
của bạn là hoàn hảo bây giờ, nhận biết của bạn là đủ
bây giờ. Không còn cần cái gì khác nữa.
Phật nói:
Hỡi các con của phật! Các ông xa ta dù nhiều
nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ về lời
giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu được
quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng cạnh ta,
luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông không gìn
giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không bao giờ
đạt tới chứng ngộ.
Và Phật nói: Đừng bao giờ dừng lại ở bất kì đâu
chừng nào ông còn chưa đạt tới trạng thái thứ bẩy -
trạng thái của không kỉ luật mà có kỉ luật, trạng thái
của vô nỗ lực, trạng thái của Đạo, pháp, trạng thái mà
Kabir gọi là sahaj, tự phát. Nhưng bạn phải làm việc
cần mẫn cho nó.
Cho nên Phật nói: Các ông có thể ở cùng ta, và
nếu các ông không theo điều ta đang nói, nếu các ông
không đem nó vào trái tim mình, vào trí thông minh
của mình, vào bản thể mình, thế thì các ông vẫn cứ ở
xa ta nghìn dặm. Nhưng các ông có thể ở xa ta nghìn
dặm... nếu các ông tuân theo điều ta đã nói, các ông
vẫn gần ta, và chứng ngộ của các ông là tuyệt đối
chắc chắn, được đảm bảo, được hứa hẹn.
Ở gần vị phật... chỉ có một cách đi theo dấu chân
của ông ấy. Ở gần vị phật nghĩa là: trở nên ngày một
nhận biết hơn, trở nên ngày một tỉnh táo hơn. Đem
chút ít phật tính tới cho bản thân bạn đi.
Mục đích là ở chỗ bạn cũng phải trở thành vị
phật. Chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu đích xác
điều là nghĩa và ý nghĩa và sự vĩ đại của việc là người
đã thức tỉnh.
Tâm thức này tồn tại bên trong bạn ngay bây giờ,
chính khoảnh khắc này. Bạn có thể không có khả
năng thấy được nó. Tôi có thể thấy được nó. Nó có đó
tựa tấm gương, và bạn bị đồng nhất với tất cả những
cái phản xạ trong tấm gương. Vứt bỏ đồng nhất của
bạn đi: bắt đầu thấy rằng bạn không là thân thể; bắt
đầu thấy rằng bạn không là tâm trí; bắt đầu thấy rằng
bạn không là xúc động, không là ý nghĩ; bắt đầu thấy
rằng bạn không là vui thích và đau đớn; bắt đầu thấy
không già không trẻ; bắt đầu thấy không thành công
không thất bại. Bao giờ cũng nhớ rằng bạn là nhân
chứng. Dần dần, phẩm chất tựa tấm gương này sẽ
bùng nổ trong bản thể bạn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng bạn là tấm gương, thì
bạn là tự do. Bạn là tự do. Đây chính là điều gọi là
moksha hay đây tất cả chính là niết bàn.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến