Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

Kundalini sẽ biến đổi bạn

Người hỏi: Thầy đã nói hôm qua rằng kunda của
chúng ta hay bể năng lượng là không tách rời và
khác biệt lẫn nhau; chúng thực sự là một kunda vũ
trụ. Nhưng khi có liên quan tới người tìm kiếm thì
năng lượng của người đó sẽ dâng lên từ kunda của
riêng người đó chứ không từ kunda của người khác.
Vậy nên kunda có thực là một không? Xin Thầy giải
thích.

Nó giống thế này: Bạn có một cái giếng trong nhà
mình và tôi có cái giếng khác trong nhà tôi. Hiển nhiên,
hai cái giếng này dường như tách rời lẫn nhau. Nhưng
dòng nước ngầm mà hai cái giếng này lấy nước ra là
một. Và dòng nước ngầm này, đến lượt nó, được nối với
đại dương ở xa.
Nếu bạn đi theo luồng nước là nguồn cho nước
giếng của bạn, bạn sẽ không chỉ bắt gặp chiếc giếng của
tôi và tất cả giếng khác, bạn chung cuộc sẽ bắt gặp bản
thân đại dương vĩ đại. Theo cùng cách này, trong hoàn
cảnh của kundalini cá nhân có đó chỉ ở lúc đầu của cuộc
hành trình - vì cuộc hành trình này đi tới việc chấm dứt
cá nhân nữa, đi tới sự chấm dứt của người đó. Thế thì
chỉ có cái tất cả, cái toàn thể, cái tuyệt đối, cái một, hay
bất kì cái gì bạn gọi nó.
Cho nên tại điểm bắt đầu của cuộc hành trình này
bạn là tách biệt và tôi là tách biệt, nhưng đến đích, điểm
tối thượng, thì không có bạn không có tôi. Chúng ta chỉ
là những mảnh mẩu hay bộ phận vẫn có đó ở đích của
cuộc hành trình.
Cho nên khi kundalini tự biểu lộ bản thân nó trong
bạn, ban đầu nó sẽ dường như thuộc về bạn - cá nhân.
Nó sẽ là của bạn. Một cách tự nhiên, bạn sẽ thấy bản
thân mình đứng bên bờ giếng của mình. Nhưng khi
kundalini đi lên và bành trướng, dần dần bạn sẽ thấy
rằng giếng của mình được nối với tất cả các giếng khác
nữa. Và kinh nghiệm này càng được làm sâu sắc hơn thì
cái giếng cá nhân của bạn sẽ càng biến mất đi, và tại
chỗ của nó đại dương sẽ đi vào hiện hữu. Và chính
trong kinh nghiệm tối thượng này mà bạn sẽ có khả
năng nói rằng kunda này thuộc về tất cả.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda là một
và phổ dụng; nó là bể năng lượng vũ trụ.
Đó là cách tất cả chúng ta, như chúng ta hiện thế,
dường như là các cá nhân tách biệt. Hiểu điều đó theo
cách khác. Nếu một chiếc lá trên cây bỗng nhiên trở nên
có ý thức và nhận biết, thế thì chiếc lá bên cạnh sẽ
dường như là lá khác. Làm sao nó có thể biết cái lá treo ở cành khác của cây đó là chính nó? Cứ gạt sang bên
chiếc lá trên cành khác đi; nó không thể nghĩ về lá khác
trên cành của nó là chính nó. Có thể chiếc lá này ở xa
nó hơn chút ít; thậm chí lá bên phải nó cũng dường như
là lá khác. Nó sẽ là như vậy bởi vì tâm thức của chiếc lá
này là cá nhân.
Nhưng nếu chiếc lá này đi vào trong lãnh thổ riêng
của nó, nó sẽ sớm thấy rằng chiếc lá bên cạnh đang treo
trên cùng một thân cây, cũng thân cây của nó, và rằng
chúng cả hai đều nhận được nhựa sống từ cùng cội
nguồn. Nếu chiếc lá này đi sâu hơn nó sẽ biết rằng
không chỉ thân cây riêng của nó, ngay cả thây cây bên
cạnh cũng là một phần của cùng một cây và chính sinh
lực của chúng là một và như nhau. Và nếu nó đạt tới
chính gốc rễ của cây thì nó sẽ biết rằng tất cả các cành
của nó và tất cả lá của nó đều, giống như bản thân nó, là
một phần của một và cùng một cây đó.
Và nếu chiếc lá này tiếp tục cuộc hành trình của nó
và đi vào trung tâm của bản thân đất - đất mà từ đó cây
bên cạnh đã mọc lên - thế thì nó sẽ nhận biết rằng cùng
với cây riêng của nó, tất cả các cây khác đều là con của
cùng một mẹ - mẹ đất. Và trong trường hợp này cuộc
phiêu lưu của chiếc lá còn đi xa hơn, đến cùng nó sẽ
khám phá ra rằng chung cuộc toàn thể vũ trụ không là gì
ngoài sự mở rộng riêng của nó, sự phân nhánh riêng của
nó. Cho nên chiếc lá tí hon này chỉ là một đầu của sự
tồn tại mênh mông này.
Một chiếc lá là một cá nhân tách biệt khi nó trở
thành ý thức như một phần, và nó sẽ dừng là cá nhân
khi nó trở thành ý thức như cái toàn thể.
Việc kinh nghiệm đầu tiên của bạn về đánh thức
kundalini sẽ là kinh nghiệm về atman, hay linh hồn; và
việc kinh nghiệm tối thượng của nó sẽ là kinh nghiệm
về paramatman, hay bản thân Thượng đế. Và nếu bạn
dừng lại với chính việc đánh thức đầu tiên và không
thăm dò thêm nữa, và nếu bạn dựng hàng rào quanh
chiếc giếng nhận biết của bạn, bạn sẽ trì trệ như atman,
như linh hồn. Đó là cách một số tôn giáo bị mắc kẹt với
linh hồn - họ không vượt ra ngoài nó. Nhưng atman hay
linh hồn không phải là kinh nghiệm tối thượng; các tôn
giáo này chỉ bao quát một nửa cuộc hành trình. Nếu bạn
đi xa thêm, linh hồn cũng sẽ biến mất và thế thì chỉ
Thượng đế hay cái toàn thể sẽ còn lại.
Và như tôi đã nói trước đây, nếu các bạn phiêu lưu
xa thêm chút ít, ngay cả Thượng đế cũng sẽ biến mất và
cái sẽ còn lại cuối cùng sẽ là niết bàn hay cái trống
rỗng. Hay, chúng ta có thể nói rằng cái không sẽ còn lại.
Cho nên những người phiêu lưu lấy một bước ra ngoài
Thượng đế đạt tới niết bàn. Chính họ nói về cái hư
không tối thượng hay cái trống rỗng tuyệt đối. Họ nói
rằng chẳng cái gì còn lại ở đó; chung cuộc không có gì
cả, hay có bản thân cái không.
Chân lí là ở chỗ khi các bạn nhận ra tất cả, thì các
bạn cũng nhận ra cái không hay tính không đồng thời.
Cái tuyệt đối là cái không nữa.
Chúng ta tiếp cận nó theo cách khác. Cái không và
cái toàn thể, cái không và cái tất cả, cái trống rỗng và
cái tuyệt đối là hai cái tên của cùng một điều. Chúng là
đổi lẫn cho nhau được; chúng ngụ ý cùng một điều. Cái
không cũng là cái toàn thể. Cái trống rỗng cũng là cái
toàn thể. Cái không cũng là mọi thứ.
Bạn đã bao giờ thấy một nửa trống rỗng hay một
nửa cái không chưa? Bạn không thể chia cái không ra
làm hai nửa được. Bạn không thể chẻ cái không ra được; nó sẽ không còn là cái không nữa nếu bạn thành
công. Bạn có thể chia hai cho hai; bạn cũng có thể chia
một ra làm hai. Nhưng bạn không thể chia cái không ra
được; đó là điều không thể được. Bạn thậm chí không
thể vẽ cái không hay hư không lên một mẩu giấy. Dấu
hiệu số không được vẽ trên giấy là biểu tượng. Ngay khi
bạn vẽ nó ra, nó không còn là hư không, bởi vì bạn vẽ
vòng tròn nó, giới hạn nó bằng đường nào đó. Nếu bạn
hỏi Euclid, ông ấy sẽ nói rằng cái không là cái không có
chiều dài không có chiều rộng. Không thành vấn đề
chuyện bạn vẽ nó nhỏ đến đâu, ngay cả điểm nhỏ nhất
có thể được cũng vẫn sẽ có chút ít chiều dài và chiều
rộng. Cho nên dấu hiệu số không được vẽ trên giấy chỉ
là biểu tượng, nó không thực. Nếu nó có chiều dài và
chiều rộng, nó không thể là số không.
Do đó Upanishads có thể nói rằng nếu bạn khấu trừ
hư không từ hư không, thì hư không vẫn còn lại - điều
này có nghĩa là bạn không thể trừ được cái gì từ nó. Đến
cuối bạn sẽ thấy rằng bạn không thể lấy được cái gì từ
cái trống rỗng cả. Tất cả mọi nỗ lực của bạn để đánh
cắp từ nó sẽ đều vô hiệu. Bạn không thể loại bỏ được nó
mà cũng không thể lẩn trốn cùng nó. Nó là không thể
thu lại được; nó là không thể di chuyển được; nó bao
giờ cũng theo cách tuyệt đối.
Điều đúng trong hoàn cảnh cái không hay hư không
cũng đúng trong hoàn cảnh của cái toàn thể hay cái
tuyệt đối. Trong thực tế, bạn không thể quan niệm nổi
về cái toàn thể ngoại trừ bằng cách thức của cái trống
rỗng. Cái toàn thể ngụ ý rằng không cái gì có thể được
thêm vào nó, và cái không hay cái trống rỗng ngụ ý
rằng không cái gì có thể được khấu trừ từ nó. Không có
cách nào đi xa hơn từ cái tuyệt đối, và không có khả
năng nhúng chìm sâu hơn vào cái hư không sâu nhất.
Bạn không thể phân chia hoặc cái toàn thể hoặc cái hư
không thành bộ phận; chúng là không phân chia được.
Và cái toàn thể không thể bị giới hạn, bởi vì bất kì
cái gì bị giới hạn thì không thể là cái toàn thể được. Bị
giới hạn có nghĩa là cái gì đó vẫn còn ở ngoài biên giới,
và do đó nó không thể có tính toàn thể. Thế thì nó còn
kém hơn cái toàn thể. Nếu biên giới của nhà bạn bắt đầu
tại chỗ biên giới của nhà tôi chấm dứt, điều đó có nghĩa
là nhà tôi không phải là cái toàn thể; nếu nó là cái toàn
thể thì nó phải bao gồm cả nhà bạn nữa. Cho nên không
thể có giới hạn cho cái toàn thể; nó là vô giới hạn. Ai có
thể giới hạn nó được? Cần có một hàng xóm, một cơ
quan bên ngoài để làm như vậy. Nhưng cái không là ở
bên ngoài cái toàn thể. Cái toàn thể là một mình; nó
không có hàng xóm bất kì loại gì.
Nhớ lấy, bao giờ cũng cần hai để tạo ra biên giới
giữa chúng; hai tạo ra biên giới. Có biên giới nơi tôi
chấm dứt và ai đó khác bắt đầu. Nếu không ai khác bắt
đầu, nếu chỉ tôi có đó, thế thì tôi sẽ không chấm dứt; tôi
không thể bị giới hạn. Cho nên cả cái toàn thể cũng
không có giới hạn. Ai có đó để giới hạn nó? Theo cùng
cách này thì cái hư không, cái trống rỗng, cũng có thể
không có giới hạn, không biên giới; bởi vì nếu nó có thể
bị giới hạn, nó là cái gì đó - thế thì nó không thể là cái
không được. Chỉ cái gì đó mới có thể bị giới hạn.
Cho nên nếu bạn hiểu điều đó đúng thì bạn sẽ biết
rằng cái hư không và cái toàn thể là hai cách để nói về
cùng một điều. Và người hành hương tôn giáo có thể
theo cả hai con đường: hoặc bạn trở thành cái toàn thể
hoặc bạn trở thành cái không. Cả hai cách đều đưa bạn
tới định mệnh của mình, là định mệnh của tất cả. 

Người đi theo con đường của cái toàn thể, người
đang trong tình yêu với cái toàn thể, cái tích cực, người
đó sẽ nói: "Tôi là brahman, tôi là cái tuyệt đối." Người
đó sẽ nói rằng mình là Thượng đế, người đó là tất cả
mọi điều đang có đấy. Người đó sẽ nói rằng không có gì
ở ngoài mình, và rằng không có "ngài". Người đó bao
gồm tất cả các "ngài" bên trong người đó. Nếu điều đó
là có thể cho bạn để là vô hạn như vậy, thì bạn đã đạt
tới điều cao nhất.
Nhưng trong tính toán cuối cùng, ngay cả cái "tôi"
này cũng phải ra đi, bởi vì nếu không có "ngài", thì làm
sao bạn có thể nói "Tôi đây; tôi là brahman sao"? "Tôi"
có thể có nghĩa chỉ nếu trong hoàn cảnh của "ngài";
không có "ngài", "tôi" đơn giản không liên quan.
Và khi bạn là cái tuyệt đối, thì chẳng có nghĩa mấy
mà nói, "tôi là cái tuyệt đối", bởi vì phát biểu này thừa
nhận sự tồn tại của cả hai - brahman và bạn. Và chung
cuộc với việc ra đi của "tôi", ngay cả brahman hay điều
tuyệt đối sẽ trở thành vô nghĩa. Người ta sẽ phải trở
thành không nói được nên lời; người đó sẽ hoàn toàn im
lặng.
Theo cách này bạn triệt tiêu bản thân mình hoàn
toàn đến mức bạn nói, "tôi không hiện hữu." Trong
trường hợp này bạn nói, "tôi là brahman," hay "tôi là tất
cả," và trong trường hợp khác bạn nói "tôi là cái không;
mọi thứ đều là trống rỗng tuyệt đối." Con đường này
cũng sẽ đưa bạn tới cùng định mệnh tối thượng. Và khi
bạn đã tới đó bạn sẽ không thể nói ngay cả điều này -
rằng bạn không hiện hữu. Nói "Tôi không hiện hữu" cần
sự hiện diện của cái "tôi". Cho nên ngay cả điều này
cũng sẽ biến mất.
Bạn thậm chí không thể nói được rằng mọi thứ là
trống rỗng, tất cả đều hư không. Nói rằng tất cả đều hư
không, thì cần cả hai "tất cả" và "trống rỗng" đều có
trong sự tồn tại. Thế thì quá trình duy nhất mở ra cho
bạn là ở chỗ bạn trở thành không nói được, bạn trở
thành im lặng. Bạn bắt đầu từ đâu - dù là từ cái toàn thể
hay từ cái hư không, cái không - điều đó sẽ đem bạn tới
im lặng tối cao nơi bạn sẽ chẳng có gì để nói cả.
Do đó, chỗ người ta bắt đầu cuộc hành trình của
mình không phải là vấn đề chính. Cái cần được xem xét
là đích tới, nơi người ta cuối cùng đạt tới. Nơi người ta
chung cuộc đạt tới là vấn đề cơ bản.
Định mệnh chung cuộc này có thể được biết tới và
nhận ra. Và nếu người ta đã đạt tới nó, thế thì bất kì con
đường nào người đó đã theo cũng đều là đường phải.
Không con đường nào là phải và không con đường nào
là trái theo nghĩa tuyệt đối. Bất kì cái gì đưa bạn tới
đích của mình đều là đường phải. Và đích là một và
cùng một.
Nhưng bất kì khi nào bạn bắt đầu bạn bao giờ cũng
bắt đầu bằng "tôi". Kinh nghiệm trước đây bao giờ cũng
sẽ là manh tính định hướng "tôi", bởi vì đó là tình
huống cho sẵn của chúng ta; đó là chỗ chúng ta hiện
hữu và nguồn gốc chúng ta bắt đầu. Dù chúng ta đánh
thức kundalini hay chúng ta đi vào trong thiền hay
chúng ta đi vào im lặng, kinh nghiệm khởi đầu phải là
mang tính cá nhân, nó phải là hướng vào "tôi". Bất kì
cái gì sẽ xảy ra ở giai đoạn khởi đầu sẽ xảy ra cho
chúng ta như các cá nhân, bởi vì chúng ta là những cá
nhân ở lúc bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng khi chúng ta
đi sâu thêm, cá nhân sẽ biến mất dần. Kinh nghiệm càng
sâu sắc, sự ăn mòn tính cá nhân, bản ngã sẽ càng lớn .


Nhưng nếu chúng ta đi lạc khỏi cuộc hành trình bên
trong và vẩn vơ lung tung, thế thì cá nhân sẽ tồn tại và
cứ phát triển lên mãi.
Chẳng hạn, một người đang đứng trên bờ giếng.
Nếu người đó đi vào trong giếng và cứ đi ngày một sâu
hơn và sâu hơn, người đó một ngày nào đó đạt tới đại
dương. Chung cuộc người đó sẽ biết rằng không có
những điều như vậy, như cái giếng. Cái giếng thực sự là
gì? Nó chỉ là một lỗ hổng; nó là lỗ hổng trong đất để
qua nó người ta lọt vào đại dương; nó là lối mở nhỏ vào
đại dương lớn.
Ý nghĩa của giếng là gì? Nó là lối mở nhỏ, lối đi
qua đó bạn đi tới tiếp xúc với biển. Bạn sai nếu bạn nghĩ
về giếng dưới dạng nước; nước trong giếng là bản thân
đại dương; nó tới từ đại dương. Giếng chỉ là trung gian
qua đó bạn thấy biển. Và khi lối mở này được làm rộng
ra, tầm nhìn về biển sẽ được mở rộng theo cùng chừng
mực.
Nhưng nếu bạn đi ra khỏi giếng và lạc lối từ nó dần
dần, bạn sẽ mất đi cái nhìn về nước nữa. Thế thì bạn sẽ
thấy trơ trụi bờ giếng và miệng giếng; bạn sẽ chẳng bao
giờ có khả năng tìm ra bất kì liên kết nào giữa giếng và
đại dương. Và thế thì bạn sẽ từ chối tin rằng chúng là
một và như nhau.
Trong khi cuộc hành trình nội tâm sẽ đưa bạn tới sự
thống nhất và cái một, cuộc hành trình ngoại diên sẽ
làm điều ngược lại; nó sẽ đem bạn tới phân chia và đa
dạng. Nó sẽ đem bạn tới cái nhiều.
Nhưng sự kiện còn lại là vào lúc bắt đầu của tất cả
mọi kinh nghiệm có chiếc giếng, cá nhân, và đến cuối
cùng có đại dương, cái vô cá nhân hay Thượng đế.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda của năng
lượng là một, vũ trụ, phổ quát. Nếu bạn chìm sâu, kunda
sẽ dừng là của bạn; thế thì sẽ có duy nhất kunda vũ trụ.
Thế thì trong thực tế, chẳng cái gì sẽ là của bạn cả. Nó
là vậy trong chính bản chất của mọi điều.
Người hỏi: Thầy nói rằng tất cả cái gọi là giếng cá
nhân đều là một và chúng đã được nối với đại
dương vốn là trống rỗng. Nếu vậy, nhu cầu gì có đó
để phải qua sadhana hay kỉ luật tâm linh để là một
với cái trống rỗng hay cái hư không?
Bạn hỏi câu hỏi này bởi vì bạn nghĩ cái trống rỗng
là không có gì cả. Và tại sao ai đó phải làm cái gì chỉ để
đạt được cái không? Người ta phải làm cái gì đó nếu có
cái gì đó cần đạt tới. Bạn đánh đồng trống rỗng với
không có gì. Thế thì sadhana hay nỗ lực trở thành
không cần thiết cho bạn. Với bạn, nỗ lực là xứng đáng
tiến hành nếu bạn phải trở thành cái gì đó. Sao cố gắng
vì cái không có gì?
Nhưng bạn không biết rằng cái trống rỗng có nghĩa
là cái toàn thể. Bạn không biết rằng cái hư không là tất
cả mọi thứ có đó. Nó không ngụ ý không có gì; nó ngụ
ý cái tuyệt đối. Nhưng ngay bây giờ bạn không thể hiểu
nổi làm sao cái trống rỗng có thể là cái toàn thể, cái
tuyệt đối. Giếng có thể cũng nói, "Nếu tôi phải đi ra đại
dương chỉ để biết rằng tôi không là gì cả, thế thì sao tôi
phải đi?" Giếng là phải khi nói vậy. Và nó là phải khi từ
chối đi ra biển nếu điều đó ngụ ý rằng chung cuộc cái
giếng không tồn tại. 


Nhưng với thực tại hay chân lí điều đó không tạo ra
khác biệt gì nếu bạn không đi. Sự kiện là ở chỗ bạn
không có. Dù bạn có đi ra đại dương hay bạn không đi,
điều đó không làm thay đổi được thực tại. Thực tại là
bạn không phải là cái giếng; bạn là bản thân đại dương.
Bạn có thể chọn vẫn còn là cái giếng nhưng sự kiện là ở
chỗ bạn không hiện hữu; điều dối trá là bạn hiện hữu.
Và điều dối trá này sẽ tiếp tục làm đau bạn, ám ảnh bạn.
Nó sẽ tiếp tục làm cho cuộc sống của bạn bất hạnh và
khổ. Và nó sẽ giữ bạn trong xiềng xích, trong tù túng.
Trong dối trá này không có khả năng nào cho bất kì
niềm vui và phúc lạc nào.
Đúng là cái giếng khi đạt tới biển thì sẽ biến mất,
nhưng cùng với nó mọi khổ sở của nó, mọi lo âu của nó
cũng sẽ biến mất. Bởi vì tất cả mọi khổ sở và lo âu đều
gắn chặt không rời với việc nó là cái giếng, là cá nhân,
là bản ngã. Với người khác dường như là cái giếng đã
mất bản thân nó bởi việc đi vào đại dương; nó không trở
thành cái gì đó. Nhưng cái giếng sẽ không nghĩ vậy đâu.
Cái giếng sẽ nói, "Ai nói rằng tôi bị mất đi? Tôi đã trở
thành bản thân đại dương đấy chứ." Chính là cái giếng
hàng xóm, cái còn chưa tới thăm biển cả, chính nó mới
nói, "Anh định đi đâu vậy đồ ngốc? Sao anh đi tới nơi
anh sẽ thôi hiện hữu?" Nhưng biển đang đó sẽ nói, "Ai
nói điều đó nghĩa là không có gì? Đúng là tôi sẽ chết đi
như cái giếng, nhưng tôi sẽ được sinh ra như bản thân
đại dương."
Chọn lựa bao giờ cũng là liệu bạn muốn còn là cái
giếng hay bạn muốn trở thành đại dương. Chọn lựa này
là giữa cái nhỏ mọn và cái mênh mông, giữa bộ phận và
toàn thể, giữa tù túng và tự do. Nhưng đó là vấn đề kinh
nghiệm; đó không phải là triết lí chút nào. Và nếu cái
giếng sợ chết đi, nó sẽ phải phục vụ cho mọi mối quan
hệ với đại dương. Bởi vì chừng nào nó còn có quan hệ
với đại dương, nó bao giờ cũng phải đối diện với nguy
hiểm của việc biết rằng nó là chính đại dương.
Thế thì cái giếng sẽ phải phá vỡ mối ràng buộc ngay
cả với tất cả dòng nước ngầm và dòng suối, bởi vì
chung cuộc chúng đi ra cùng đại dương. Cái giếng sẽ
phải nhắm mắt lại với mọi phía và từ chối nhìn vào bên
trong, để cho nó không phải biết về sự vô hiện hữu
riêng của mình và sự hiện hữu của đại dương. Thế thì
nó bao giờ cũng nhìn ra ngoài và không bao giờ nhìn
vào bên trong. Thế thì nó sẽ muốn dòng suối là nhỏ nhất
có thể được; nó thậm chí còn muốn chúng khô đi và
chết đi. Nhưng thế thì trong cuộc hành trình dài bản
thân cái giếng sẽ chết, mặc dầu nó sẽ làm mọi điều để tự
cứu mình. Trong chính nỗ lực để tự cứu mình nó sẽ bỏ
mạng.
Jesus đã nói, "Người tự cứu mình sẽ chết, còn riêng
người sẽ được cứu là người chết đi một cách tự
nguyện."
Cho nên câu hỏi luôn luôn nảy sinh trong tâm trí
chúng ta, "Sao tôi phải đi tới chỗ tôi sẽ chết và biến
mất? Sao phải đi tới đó, nếu cái chết là chắc chắn?"
Nhưng nếu cái chết này là điều chắc chắn, thì nó chính
là điều đang đó. Và làm sao trên trái đất này bạn sẽ cứu
được bản thân mình qua nỗ lực gìn giữ cái ta như vậy?
Nếu đúng là bạn sẽ chết khi đi vào đại dương, thì làm
sao bạn sẽ cứu được bản thân mình như cái giếng, và
được bao lâu? Nếu, theo quan điểm của bạn, việc trở
thành đại dương khổng lồ có nghĩa là chết đi, làm sao
bạn sẽ sống sót như cái giếng nhỏ tí xíu và được bao
lâu? Chẳng mấy chốc thành giếng sẽ vỡ vụn; chẳng mấy
chốc nước của nó sẽ bay hơi, và chẳng mấy chốc nó sẽ bị che phủ bởi bụi và bẩn. Khi bạn không tồn tại như
đại dương bao la, làm sao bạn sẽ tồn tại như cái giếng tí
xíu được? Và được bao lâu?
Đây là cách nỗi sợ chết nảy sinh. Đây là nỗi sợ đeo
đuổi cái giếng. Cái giếng không muốn đi ra biển vì sợ bị
tiêu diệt. Do đó nó giữ một khoảng cách với biển và tiếp
tục là giếng. Nhưng cho dù thế thì nỗi sợ chết vẫn cứ
nắm bắt nó, bởi vì ngay khi nó làm mình xa lánh với
biển, thì cái chết kéo tới gần hơn và gần hơn nữa. Được
nối với đại dương thì còn có hi vọng và cuộc sống cho
cái giếng; cuộc sống của cái giếng không thoát được
việc nối với đại dương. Xa lánh khỏi đại dương cái chết
của nó là chắc chắn.
Đó là lí do tại sao chúng ta tất cả đều sợ chết; chúng
ta sợ rằng chúng ta phải chết và biến mất. Nhưng không
có việc thoát khỏi cái chết; điều đó là chắc chắn. Và chỉ
có hai cách chết. Một là cách bạn lấy bước nhảy vào đại
dương và chết. Loại chết này rất phúc lạc, bởi vì bạn sẽ
không thực chết, bạn sẽ trở thành bản thân đại dương.
Và loại chết khác xảy ra khi bạn cứ ương ngạnh bám lấy
cái giếng, và đằng nào cũng chết. Thế thì bạn trì trệ và
mục nát và chết với nước mắt lưng tròng.
Tâm trí chúng ta tham lam; nó bao giờ cũng theo
đuổi cái lợi nào đó, lợi nhuận nào đó, thành đạt nào đó.
Nó cứ hỏi, "Tôi sẽ được gì nếu tôi đi ra đại dương? Tôi
sẽ đạt được gì nếu tôi tìm kiếm samadhi hay niết bàn
hay cái trống rỗng?" Chúng ta bao giờ cũng hỏi chúng
ta sẽ thành đạt được gì, và chúng ta không bao giờ hỏi -
mà là điều người ta nên hỏi - "Làm sao chúng ta đánh
mất bản thân mình trong loài chuột này để được lợi và
thành đạt?" Trên bề mặt của nó, chúng ta đã đạt được
mọi thứ: chúng ta đã đạt được của cải, quyền lực, danh
vọng, mọi thứ. Và trong chính việc theo đuổi này chúng
ta đã đánh mất bản thân mình; chúng ta đã hoàn toàn
đánh mất mình. Chúng ta bây giờ có mọi thứ - ngoại trừ
mỗi bản thân mình.
Nếu các bạn hỏi tôi dưới dạng thành đạt, tôi sẽ nói:
nếu các bạn được chuẩn bị để mất thì các bạn sẽ đạt tới
bản thân mình. Và các bạn sẽ làm mất bản thân mình và
mất hoàn toàn nếu các bạn không được chuẩn bị để mất,
nếu các bạn cố gắng cứu. Đây là nghịch lí; rằng trong
nỗ lực của các bạn để cứu, các bạn sẽ cứu được mọi thứ
trừ bản thân mình. Các bạn sẽ cứu được mọi thứ và các
bạn sẽ làm mất linh hồn mình, điều mới thực là các bạn.
Người hỏi: Thầy nói rằng tỉ lệ của ô xi và các bô
nic thay đổi qua thở sâu. Xin thầy giải thích làm sao
điều này có liên hệ với việc đánh thức kundalini?
Có nhiều liên hệ giữa chúng. Một, chúng ta mang
bên trong mình tiềm năng của cả sống và chết. Trong
khi ô xi của hơi thở biểu thị cho tiềm năng sống của
chúng ta, thì các bô nic biểu thị cho tiềm năng chết. Khi
ô xi của bạn dần giảm đi và biến mất và bạn bị bỏ lại
với một mình các bô nic, bạn sẽ biến thành cái xác.
Điều đó cũng giống như chúng ta đốt một mẩu gỗ - nó
cháy chừng nào ô xi còn sẵn đấy. Có ngọn lửa, có cuộc
sống trong miếng gỗ chừng nào ô xi còn có sẵn cho nó.
Nhưng ngay khi ô xi của nó bị tiêu dùng, nó chết. Nó bị
thu lại thành tro, thành than, cũng là các bon. Các bon
bị bỏ lại sau không là gì ngoài lửa chết.
Cả hai yếu tố này đều vận hành bên trong chúng ta.
Nếu chúng ta có nhiều các bô nic, chúng ta sẽ trượt vào trạng thái hôn mê. Đó là lí do tại sao dễ ngủ trong đêm
hơn ban ngày, bởi vì trong đêm khối lượng các bô nic
tăng lên trong khi lượng ô xi giảm xuống. Đó là cách
chúng ta đi ngủ dễ dàng thế trong đêm và không dễ
dàng đến thế lúc ban ngày. Ban ngày khối lượng ô xi
trong không khí tăng lên bởi vì mặt trời, và mọi thứ
thức dậy và hoạt động. Và với mặt trời lặn, tỉ lệ ô xi
trong không khí giảm xuống đáng kể.
Đó là cách bóng tối và đêm đã trở thành biểu tượng
cho hôn mê và quán tính. Và mặt trời - là biểu tượng
cho ánh sáng và cuộc sống và năng lượng, bởi vì nó
đem tới cuộc sống cùng nó. Ban đêm mọi thứ trở thành
lờ phờ: hoa khép cánh của chúng lại, lá co lại, và tất cả
cuộc sống đi ngủ. Theo một nghĩa nào đó toàn thể trái
đất trong đêm trượt vào một loại cái chết tạm thời. Và
với việc đến của buổi sáng khác, hoa nở ra, cây bắt đầu
lay động, lá trở nên sống động, cuộc sống được thức
dậy, chim tung cánh bay và cả trái đất trở thành ngày
hội. Cái chết tạm thời của thời gian đêm biến mất và
cuộc sống trở lại với trái đất.
Cùng điều đó xảy ra bên trong bạn. Khi lượng ô xi
trong bạn tăng lên, năng lượng tiềm tàng của bạn bắt
đầu thức dậy. Với mọi loại năng lượng tiềm tàng để
đánh thức dậy, ô xi là cái cần phải có. Chúng ta có thể
giữ cho người hấp hối còn sống thêm chút ít bằng sự hỗ
trợ của ô xi. Người đó sẽ chết ngay nếu ống ô xi bị dứt
ra khỏi ngực. Nhưng với ô xi người đó có thể được giữ
cho sống thêm vài ngày, vài tháng, thậm chí vài năm,
bởi vì sinh lực đã bị yếu hoàn toàn của người đó được
làm sống lại bởi ô xi. Chúng ta giữ bản thân cái chết
không tới bằng sự giúp đỡ của ô xi.
Ngày nay hàng nghìn người trên khắp châu Âu và
Mĩ đang được giữ cho sống bằng ô xi được bơm vào họ
từ bên ngoài. Họ đáng ra thì đã chết từ lâu rồi nhưng
nhờ có các bình khí nén ô xi mà vẫn sống. Bây giờ việc
cho phép người mắc bệnh nan y chết đã là một trong
những vấn đề quan trọng ở các nước phương Tây. Việc
cho phép người bệnh chết có nghĩa là con người phải có
quyền được chết khi người đó phải chết. Với sự giúp đỡ
của ô xi, những thiết bị hiện đại, các bác sĩ có thể giữ
cho ai đó sống thật lâu- mặc dầu người đó chết là điều
tốt. Cho nên cho phép người bệnh được chết đã trở
thành vấn đề lớn. Vấn đề của các bác sĩ là ở chỗ nếu bác
sĩ cho phép người đó chết thì bác sĩ sẽ bị mọi người nói
là phạm tội giết người. Đó sẽ là một loại giết người.
Cho nên bác sĩ sẽ giữ cho một người già tám mươi tuổi
tàn tật vẫn sống nhờ ô xi. Nếu bác sĩ không làm như vậy
thì bác sĩ sẽ bị buộc tội giết người, cho nên bác sĩ sẽ giữ
cho năng lượng tàn tạ này sống bằng việc thêm ống ô xi
vào ngực.
Các bài tập thở như pranayam, bhastrika và điều tôi
gọi là việc thở nhanh và mãnh liệt để làm gì? Bạn thở
trong hơi thở cuộc sống nhiều tới mức tiềm năng của
năng lượng tiềm tàng của bạn được tăng cường và nó
bắt đầu thức tỉnh. Đồng thời, với việc thở sâu và nhanh
hình mẫu quán tính ăn sâu hay giấc ngủ bị phá vỡ.
Các bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe câu chuyện tôi sắp
kể cho các bạn.
Quãng bốn năm trước một sư Phật giáo tới tôi từ
Ceylon. Ông ấy đã đi mà không ngủ trong ba năm. Ông
ấy được cho đủ mọi loại thuốc chữa trị, nhưng chẳng có
tác dụng. Thuốc không thể có tác dụng bởi vì khất sĩ
này đã thực hành anapanasati yoga - một loại kỉ luật thở đặc biệt đã thành mốt trong các Phật tử. Nó bao
gồm việc quan sát việc thở sâu của người ta hết ngày nọ
tới ngày kia. Bây giờ người này, người đã dạy cho ông
ta anapanasati yoga không biết rằng nếu người ta quan
sát hơi thở sâu của mình trong hai mươi bốn giờ một
ngày, thì người đó sẽ mất giấc ngủ của mình hoàn toàn.
Thế thì sẽ không thể nào làm cho người đó ngủ được.
Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, khất sĩ này đã được
cho thuốc ngủ trong khi ông ta thực hành anapanasati.
Điều đó tạo ra xung đột lớn trong thân thể ông ấy và
ông ấy thực sự thành đống lộn xộn. Trong khi thuốc
đang cố gắng đưa giấc ngủ vào ông ta, việc quan sát
thường xuyên hơi thở lại giữ cho ông ta thức. Kết quả là
một loại bế tắc, khủng hoảng đã được tạo ra trong thân
thể ông ta, như sẽ xảy ra trong ô tô nếu ga và phanh
được nhấn đồng thời. Hiển nhiên là khất sĩ này trong
khổ sở khủng khiếp.
Ai đó kể cho ông ta về tôi và do vậy ông ta tới.
Ngay khi tôi thấy ông ấy tôi biết rằng ông ta bị mắc giữ
trong một loại điên khùng, ông ta đã tự đẩy mình vào
một tình thế không thể được. Tôi yêu cầu ông ta dừng
anapanasati yoga ngay lập tức. Nhưng ông ta muốn biết
anapanasati có liên quan gì tới việc mất ngủ của ông ta.
Ông ta chẳng có ý tưởng gì rằng nhận biết thường
xuyên về thở sâu đã làm tăng khối lượng ô xi của ông ta
nhiều tới mức giấc ngủ của ông ta đã tan biến. Tôi cũng
bảo ông ta rằng nếu ông ta không thể từ bỏ được
anapanasati, thì ông ta phải dừng uống thuốc an thần và
đi mà không ngủ. Nếu ông ta còn tiếp tục anapanasati,
thì ông ấy có thể dễ dàng thực hiện mà không ngủ; điều
đó sẽ không làm hại gì chút nào cho ông ấy.
Khi khất sĩ này dừng anapanasati chỉ trong tám
ngày, giấc ngủ của ông ta trở lại với ông ta, và ông ta
không dùng thuốc an thần nào.
Bất kì việc tăng các bô nic nào cũng không tránh
khỏi việc tăng giấc ngủ của chúng ta. Và mọi thứ tạo ra
các bon trong thân thể chúng ta đều gửi năng lượng đã
ngủ của chúng ta vào giấc ngủ sâu hơn, nó làm sâu sắc
hơn vô thức của chúng ta. Đó là lí do tại sao, khi dân số
của thế giới tăng lên, việc chia sẻ ô xi của mọi người
giảm xuống theo cùng mức đó. Và điều đó bổ sung cho
vô thức của chúng ta - vốn đã quá nhiều. Một thời điểm
có thể tới sớm khi khả năng đánh thức của chúng ta sẽ ở
vào mức tối thiểu.
Bạn cảm thấy tươi mát vào buổi sáng. Bạn cảm thấy
tươi mát khi bạn đi vào rừng hay tới thăm bãi biển. Và
bạn trở nên lờ phờ và đờ đẫn khi bạn ở bãi chợ, khi bạn
trong đám đông. Tại sao? Đó là vì có nhiều các bô nic
và thiếu ô xi. Đúng là ô xi đang được tạo ra vào mọi
lúc, nhưng khi đám đông tiêu thụ nhiều ô xi hơn, điều
đó đưa tới việc khan hiếm ô xi ở bãi chợ. Đi vào chỗ
đông người - rạp chiếu phim hay đền chùa - và chẳng
mấy chốc bạn sẽ lọt vào vòng bắt giữ của lờ phờ và vô
nhạy cảm. Còn đi lên núi hay ra vườn, hay ra sông, và
bạn sẽ cảm thấy tỉnh táo và sống động và hạnh phúc.
Có ý định lớn trong việc tăng lượng ô xi của bạn.
Nó làm thay đổi sự cân bằng bên trong của bạn; nó làm
cho bạn thức tỉnh và nhận biết hơn, ít buồn ngủ và vô ý
thức hơn. Và nếu khối lượng ô xi tăng lên nhanh chóng
và đột ngột và bất ngờ, nó sẽ tạo ra thay đổi căn bản
trong cân bằng bên trong của bạn. Nó sẽ giống như một
phía của chiếc cân lên cao và phía bên kia chúi xuống
chạm đất. Và nếu thay đổi này được đưa tới trong một cú, bạn sẽ kinh nghiệm nó rất nhanh và đột ngột. Thay
đổi dần dần và chậm chạp bạn khó cảm thấy được.
Đó là lí do tại sao tôi liên tục nhấn mạnh vào việc
thở nhanh và mạnh để cho bạn đem tới thay đổi mau lẹ
đến mức bạn chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn
khác chỉ trong mười phút, và cũng quan sát bản thân
quá trình thay đổi. Chỉ khi sự việc thay đổi mau lẹ và
đột ngột nó mới có thể được quan sát một cách rõ ràng
như vậy.
Chẳng hạn, mỗi người trong chúng ta đều chuyển từ
thời thơ ấu sang thời thanh niên và từ tuổi thanh niên
sang tuổi già, nhưng quá trình này chậm chạp và dần
dần tới mức chúng ta chẳng bao giờ biết đích xác khi
nào chúng ta trở thành thanh niên, khi nào chúng ta trở
thành người già. Nếu ai đó hỏi đích xác ngày tháng khi
nào tôi trở thành già, tôi không thể nói được. Người già
bị lẫn lộn, người đó không hiểu rằng mình bây giờ già
rồi, bởi vì giữa tuổi thanh xuân và tuổi già của người đó
không có lỗ hổng nào cả. Tương tự, đứa trẻ không biết
rằng nó đã đến tuổi; nó tiếp tục cư xử như đứa trẻ.
Trong khi nó trông như người lớn đối với người khác,
thì bản thân nó vẫn còn không nhận biết về sự kiện này.
Trong khi bố mẹ nó trông đợi nó nhận lấy trách nhiệm
của nó trong gia đình, thì nó vẫn coi mình là đứa bé.
Vấn đề là vậy bởi vì việc chuyển đổi từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác không xảy ra một cách thình
lình; nó rất im lặng và chậm chạp. Theo cùng cách này
người già tiếp tục cư xử cứ dường như người đó là
thanh niên; người đó không nhận biết rằng thay đổi đã
xảy ra trong đời mình. Và làm sao người đó có thể biết
được?
Chuyển đổi bất thần và đột ngột là cần có để người
ta biết nó. Nếu có một ngày và giờ cố định cho việc
chuyển đổi này xảy ra, sẽ không có chỗ cho lẫn lộn. Và
thế thì sẽ không cần phải nhắc nhở người đã lớn hay
người già về trạng thái đúng của người đó.
Trong thiền tôi nhắm vào thay đổi đột ngột và mạnh
mẽ tới mức bạn biết rõ ràng sự khác biệt giữa tâm thức
ngủ của bạn và thành phần thức tỉnh tương ứng của nó.
Nó phải đi tới như một bước nhảy, bất thình lình, để cho
bạn biết rõ rằng biến đổi đã xảy ra. Việc biết này là có
giá trị; nó sẽ giúp bạn rất nhiều. Bởi lí do này tôi ủng hộ
những kĩ thuật đem lại biến đổi đột ngột và bất thần.
Nếu nó cần thời gian dài, bạn sẽ chẳng bao giờ biết nó.
Và dốt nát này có nguy hiểm của nó. Nguy hiểm là ở
chỗ nếu bạn không biết điều gì đã xảy ra, nó sẽ không
làm sâu sắc cho hiểu biết của bạn như nó đáng làm.
Điều thường xảy ra là ai đó đi tới kinh nghiệm tâm
linh nào đó một cách vô nhận biết và vô nỗ lực, và thay
đổi lại chậm và im lặng tới mức người đó không biết nó
tất cả là cái gì. Thế thì người đó cố gắng diễn giải nó
theo cách thức cũ của mình - mà hầu hết là sai - bởi vì
toàn cảnh cần thiết để hiểu nó bị thiếu. Nhiều lần điều
xảy ra là bạn ở rất gần một kinh nghiệm tâm linh mà
bạn bỏ qua nó, bởi vì bạn diễn giải nó theo cách thả neo
cũ của mình. Tất cả mọi điều này xảy ra chỉ bởi vì thay
đổi xảy ra từ từ và chậm chạp thế.
Tôi biết về một người dễ dàng nâng một con hà mã
lên bằng hai tay. Hà mã là con vật to lớn và nặng đáng
kể. Nông trại súc vật của anh ta có nhiều trâu trong đó.
Người này bắt đầu nâng con hà mã con và tiếp tục nâng
nó hàng ngày trong một thời gian dài. Do đó khi con hà
mã này lớn lên, dần dần khả năng của người đó để nâng nó lên cũng tăng lên theo cùng nhịp. Và bây giờ người
đó có thể nâng bất kì con hà mã lớn nào - điều đơn giản
có vẻ như phép màu! Bản thân người này không nghĩ
điều đó là phép màu, bởi vì người đó đã thu được khả
năng này dần dần qua một thời gian dài. Nhưng tất cả
mọi người khác đều coi đó là phép màu thực, bởi vì họ
có toàn cảnh để nhìn nó. Họ biết bản thân họ không thể
làm được điều người này làm rất dễ dàng.
Chính bởi lí do này mà tôi dạy các bạn cách thiền
động và mạnh mẽ này.
Và ô xi có ý nghĩa lớn. Nó là thứ cực kì quí giá. Bạn
càng rót đầy thân thể mình bằng ô xi, việc chuyển đổi
của bạn từ thân thể sang linh hồn càng nhanh. Nếu bạn
hiểu điều đó đúng, bạn sẽ biết rằng thân thể mình là đầu
chết của bạn; thân thể là phần của bạn biểu lộ ra nó bởi
vì nó là chết. Phần này của bạn, đang chết, đã bị làm
cứng lại và do đó nó là thấy được. Còn linh hồn là phần
khác của bạn vẫn tiếp tục mang tính hay thay đổi và tinh
tế, loãng và nhẹ lâng lâng; nó không thể được giữ chắc.
Một lượng ô xi đủ, điều đem lại việc thức tỉnh và cuộc
sống cho bạn, sẽ tạo ra một khoảng cách rõ rệt giữa thân
thể bạn và linh hồn. Thế thì bạn sẽ biết rõ ràng chúng là
hoàn toàn khác lẫn nhau, mặc dầu chúng là hai phần của
cùng một bản thể - bạn.
Do đó, việc thở đóng vai trò lớn trong việc đánh
thức kundalini.
Kundalini là năng lượng ngủ của bạn. Bạn không
thể đánh thức được nó với sự giúp đỡ của các bô níc.
Thay vì thế, các bon sẽ làm giấc ngủ của nó sâu hơn. Ô
xi là sự trợ giúp lớn lao trong việc đánh thức kundalini.
Đây là lí do mà chúng ta bao giờ cũng coi thiền sáng có
tầm quan trọng lớn lao thế. Lí do là thế này: rằng vào
buổi sáng thậm chí hơi thở nhỏ cũng mang một khối
lượng lớn ô xi cùng nó. Trái đất thường ở vào trạng thái
phi thường và rất duy nhất trong vòng trọn một giờ sau
khi mặt trời mọc, và lấy ưu thế của tình huống này, buổi
sáng đã được chọn là thời gian tốt nhất cho thiền trên
khắp thế giới.
Bạn càng gõ búa mạnh vào kundalini bằng việc thở
nhanh và mãnh liệt, nó sẽ càng nhanh chóng thức dậy.
Nhưng khó khăn là ở chỗ chúng ta không thấy rõ ràng
nó vận hành thế nào, và do đó ý nghĩa của thở sâu bị
mất đi với chúng ta. Chẳng hạn, chiếc đèn đang cháy.
Chúng ta thấy dầu trong bình bằng đất, chúng ta thấy
bấc và diêm thắp sáng nó. Chúng ta cũng thấy ngọn lửa
và ánh sáng nảy sinh từ nó. Nhưng chúng ta không thấy
điều thực: ô xi vốn là phần sống còn của toàn bộ hoạt
động. Thực sự chính ô xi mới đốt cháy và trở thành ánh
sáng. Dầu, bấc, diêm đều không quan trọng đến thế.
Dầu, bấc và diêm là phần thấy được của chiếc đèn,
chúng tạo thành thân của đèn. Nhưng phần không thấy
được, ô xi, cái tạo ra linh hồn của chiếc đèn và cái thực
sự đốt cháy, là không thấy được.
Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối một gia đình đi
tới thăm nhà bạn, để lại nhà một đứa bé trông coi nhà.
Có một ngôi đền nhỏ trong ngôi nhà đó và một chiếc
đèn đang cháy trước bức tượng thượng đế nào đó. Đứa
trẻ đã được yêu cầu đặc biệt trông nom cho ngọn đèn đó
không tắt. Trong lúc đó, một cơn gió mạnh bắt đầu quét
qua, và đứa trẻ đâm ra lo lắng về chiếc đèn. Thế là nó
đem cái bát thủy tinh tới và che cho đèn bằng chiếc bát
này. Mặc dầu đèn được bảo vệ kĩ, vậy là ngọn lửa tắt
ngay lập tức. Có lẽ chiếc đèn có thể đã tồn tại được với
cơn gió, nhưng nó không thể tồn tại được khi thiếu ô xi;
nó chết trong một giây.

Ô xi, cái thực sự là lực sống còn, là không thấy
được. Điều chúng ta gọi là cuộc sống là quá trình ô xi
hoá; nó cũng giống như việc đốt cháy ngọn đèn. Nói
theo thuật ngữ khoa học, cuộc sống là ô xi đang cháy.
Dù nó là trong con người hay trong cây cối hay trong
ngọn đèn hay trong bản thân mặt trời, bất kì chỗ nào có
việc ô xi hoá thì đều có cuộc sống. Cho nên càng ô xi
hoá nhiều, thì ngọn lửa cuộc sống của bạn càng sáng
hơn. Và kundalini là ngọn lửa của cuộc sống này. Ô xi
hoá làm cao thêm việc bốc lửa và luồng kundalini. Cho
nên ô xi là rất có hiệu quả với kundalini.
Người hỏi: nhiều nhà yoga dùng hang núi rất thiếu
ô xi. Làm sao hang động có ích trong việc đạt tới
samadhi hay thống nhất với cái tuyệt đối?
Thực tế nhiều điều cần có trước khi ai đó có thể đi
vào trong hang để thực hành yoga. Nếu những yêu cầu
này không được đáp ứng, nhà yoga trong hang sẽ không
bao giờ đạt tới được samadhi; người đó thay vì thế sẽ
trải qua việc tăng thêm vô ý thức. Điều người đó sẽ lấy
thay cho samadhi sẽ không là gì ngoài giấc ngủ và vô ý
thức sâu hơn. Một mình người đó có thể dùng cái hang
có nhiều ô xi cho bản thân mình trong việc thực hành
dư thừa pranayam tới mức cái hang đó không thành vấn
đề gì với người đó.
Nếu một người đã trải qua pranayam về chiều sâu,
nếu mọi giọt máu của người đó, mọi thớ thịt của thân
thể người đó đã được cấp đủ ô xi, người đó có thể chôn
vùi mình dưới đất trong tám ngày và bước ra khỏi đó
vẫn còn sống. Lí do là đơn giản thế này: người đó có đủ
ô xi dự trữ để kéo dài cuộc sống người đó trong tám
ngày. Thông thường, chúng ta không có ô xi dư thừa
nào theo mình; chúng ta ít khi quản lí điều đó. Nếu bạn
đi và nằm dưới đất bên cạnh nhà yoga mà không có
thực hành thích hợp về pranayam, bạn sẽ chết vào ngày
thứ tám khi nhà yoga bước ra còn sống. Nhà yoga có dự
trữ lượng ô xi cần để giữ cho người ta sống trong tám
ngày chôn vùi dưới đất. Người như vậy sẽ dùng khéo
cái hang cho việc thiền và sẽ được lợi nhiều. Vì người
đó không có vấn đề gì với ô xi, nên người đó sẽ thu
hoạch được ích lợi khác mà chỉ hang động mới đem lại
cho nhà yoga.
Cái hang hữu dụng bởi vì nó cung cấp nhiều loại
bảo vệ cho người tìm kiếm. Nó không chỉ bảo vệ người
đó khỏi sự ồn ào và hối hả của thế giới bên ngoài; nó
cũng bảo vệ người đó khỏi những rung động đa dạng
gây thương tổn nhà yoga. Cái hang thuộc một loại đá
đặc biệt có nhiều ý nghĩa. Đá đặc biệt, như đá cẩm
thạch, ngăn cản nhiều rung động không cho đưa vào
trong hang. Đó là lí do tại sao đá cẩm thạch được dùng
rộng rãi trong việc xây dựng đền chùa. Bởi vì đá cẩm
thạch mà những rung động nào đó bị giữ lại không vào
trong đền chùa.
Cho nên đá cẩm thạch không chỉ được dùng với
mục đích trang trí đâu - như người ta vẫn hiểu chung
chung như vậy - nó thực sự có ý nghĩa tâm linh lớn đã
được khám phá ra qua thực nghiệm lâu dài. Có những
đá hấp thu những loại rung động đặc biệt nào đó, do vậy
ngăn cản chúng khỏi đi vào đền chùa. Một số đá khác
làm lệch hay đẩy lùi những rung động này. Và có những
đá hấp dẫn các rung động có ích cho kỉ luật tâm linh.
Trong quá khứ, hang động với những hình dạng và kích cỡ đặc biệt đã được khắc chạm, bởi vì thiết kế của hang
cũng quan trọng cho sadhana.
Nhưng chúng ta chẳng có ý tưởng gì, bởi vì toàn bộ
khoa học của nó đã bị thất lạc. Khi chúng ta làm ra
chiếc xe ô tô, chúng ta làm ra nó với thiết kế riêng. Điều
này được thực hiện với một mắt dành cho tốc độ của xe.
Chiếc xe phải được thiết kế sao cho nó xé không khí và
không tranh đấu với không khí. Nếu chiếc xe phẳng ở
phía trước, tốc độ của nó sẽ bị gò ép. Phía trước phải
làm sao để nó cắt qua không khí, không bị cản lại như
mũi tên. Và bởi vì chiếc xe cắt qua không khí với tốc độ
cao, nên không khí xô vào chỗ chân không được tạo ra
đằng sau xe, bổ sung thêm cho tốc độ.
Bạn phải đã thấy chiếc cầu bắc qua sông Hằng tại
Allahabad; nó được xây dựng có khó khăn lớn. Dòng
chảy của sông mạnh tới mức nó quét đi mọi cột trụ của
chiếc cầu mà các kĩ sư đã thăm dò với nỗ lực lớn để xây
dựng. Hết cột nọ tới cột kia phải được xây dựng và xây
lại. Nhưng người xây dựng gặp phải một khó khăn đặc
biệt với một cột trụ đặc biệt; gần như không thể xây
được nó. Khi tất cả các cột khác đã sẵn sàng, cái cột này
vẫn tiếp tục thách đố công nghệ hiện đại. Thế rồi các kĩ
sư động tới một kế hoạch khéo léo: Họ thiết kế cây cột
trụ này theo hình dáng chiếc giầy và nó trụ lại dòng
nước mạnh mẽ. Nếu bạn quan sát chiếc giầy của mình
bạn sẽ thấy hình dáng của nó giúp cho bạn trong việc
bước đi; nó cắt qua thông khí. Cho nên cột trụ kiểu
chiếc giầy có thể hấp thu được chấn động của dòng
chảy xô tới của sông Hằng.
Đó là lí do tại sao hang động có hình dáng và kích
cỡ đặc biệt và loại đá đặc biệt trong chúng.
Người tìm kiếm có thể phóng rung động của mình
tới một giới hạn nào đó của không gian của mình, và
qua thực nghiệm người đó sẽ tự biết mình cần bao nhiêu
không gian để an toàn cho việc thực hiện sadhana của
mình. Chẳng hạn, nếu người đó đi tới biết rằng mình có
thể rót đầy một diện tích sáu mươi tư phít vuông (gần 6
mét vuông) bằng rung động riêng của mình, thì không
gian đó sẽ được xem như an toàn cho người đó. Thế thì
người đó sẽ coi cái hang của mình phải có số lỗ ít nhất -
có lẽ là một sẽ đủ. Và một cửa này phải có hình dạng và
kích cỡ riêng của nó; nó phải bảo toàn rung động của
người tìm kiếm và đồng thời giữ các rung động không
mong muốn khác không cho vào hang.
Nếu một số người tìm kiếm đã dùng một hang đặc
biệt cho sadhana này, cái hang đó thu được ý nghĩa phi
thường, và người tìm kiếm mới có thể rất được lợi bởi
nó. Do đó một số hang đã được dùng trong nhiều năm
không gián đoạn.
Khi lần đầu tiên hang ở Ajanta được khai quật,
chúng tất cả đều đầy bùn. Và điều đó đã được thực hiện
với một ý định, mặc dầu mọi người chịu trách nhiệm
cho công việc khai quật đã chẳng có ý tưởng gì về nó.
Họ ngạc nhiên thấy rằng mọi hang đều đã được chất đầy
và bít kín cẩn thận bằng bùn nhão. Chúng trông hệt như
các tảng đá núi, nơi cây cỏ mọc tự do. Điều trở thành
cần thiết là lấp đầy các hang đó bằng bùn nhão, bởi vì
thời điểm đã tới khi người tìm kiếm trở nên hiếm hoi,
và tính hữu dụng của chúng phải được bảo tồn cho thời
tương lai khi những người tìm kiếm mới có sẵn, những
người sẽ cần tới chúng.
Các hang ở Ajanta chưa bao giờ được ngụ ý dành
cho khách du lịch và người tham quan những người hiện tại đang dùng chúng. Chúng không dành cho khách
thăm quan; khách thăm thực tế đã phá huỷ mọi thứ quí
giá về chúng. Bây giờ chúng không có giá trị tâm linh.
Mặc dầu hang thiếu ô xi, nó có ưu thế khác cho
người tìm kiếm. Và sadhana hay kỉ luật tâm linh là việc
phức hợp; có nhiều khía cạnh của nó. Cái hang là tốt
cho người tìm kiếm cao cấp. Và người tìm kiếm không
phải bị hạn chế ở trong hang hết ngày nọ tới ngày kia;
người đó thỉnh thoảng còn đi ra ngoài. Một phần của
sadhana của người đó được thực hiện bên ngoài hang,
nếu điều đó là cần thiết phải làm như vậy. Người đó
dùng cả hai - không gian bên trong và bên ngoài hang.
Các đền chùa và đền thời Hồi giáo đã được thiết kế
và xây dựng theo chính ý định này; chúng được ngụ ý
bảo tồn những loại rung động và năng lượng đặc biệt,
điều có ích cho sự phát triển của người tìm kiếm.
Thỉnh thoảng các bạn thấy, khi tới thăm một chỗ,
rằng ý nghĩ của các bạn bỗng nhiên thay đổi, mặc dầu
các bạn không biết rằng chỗ đặc biệt này có dúng tay
vào đó. Các bạn cho rằng sự thay đổi đã xuất hiện bởi
chính nó. Nhiều lần các bạn thấy rằng khi tới thăm một
người đặc biệt, các bạn thành người khác - khác với
điều các bạn đã là. Các bạn thấy rằng một khía cạnh
khác của cá tính bạn đã bước ra phía trước. Thế rồi các
bạn cho rằng đấy chỉ là việc thay đổi tâm trạng. Nhưng
vấn đề không đơn giản thế.
Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành theo hướng
này. Chẳng hạn, có các kim tự tháp ở Ai Cập. Các điều
tra chuyên sâu đã được thực hiện để tìm ra kim tự tháp
là gì, tại sao chúng được làm ra và để làm gì. Ý định
của việc xây dựng những kim tự tháp khổng lồ như vậy
là gì trong vùng đất hoang khô cằn, trong sa mạc? Bao
nhiêu tiền đã được chi ra cho việc xây dựng của họ?
Bao nhiêu năng lượng con người đã đổ vào để làm ra
chúng? Nếu các cấu trúc khổng lồ như vậy mà chỉ được
ngụ ý để chôn vùi người chết, như chúng dường như
vậy, thế thì đấy là lãng phí khinh suất về tiền bạc và
năng lượng con người.
Chân lí là ở chỗ các kim tự tháp này đã được xây
dựng đặc biệt cho những ý định tâm linh; chúng là chỗ
mà sadhana tâm linh có thể được tiến hành với sự thoải
mái và ưu thế lớn lao. Và nó được dành cho các ý định
tâm linh mà các thi thể chết của những người đặc biệt
được gìn giữ trong chúng.
Ở Tây Tạng, thi thể chết của các bồ tát vĩ đại,
những linh hồn cao cấp, một số trong chúng có hàng
nghìn tuổi - đã được gìn giữ trong những hang rất sâu
và bí mật. Thân thể mà Phật đã có không phải là thân
thể thường. Ngay cả thân thể vật lí, với nó linh hồn vĩ
đại của Phật đã được liên kết với trong tám mươi năm,
cũng không phải là vật bình thường. Nó quí giá và vĩ
đại vô cùng. Thân thể này đã hấp thu và đồng hoá
những rung động hiếm hoi của Phật trong tám mươi
năm. Khó mà nói liệu một hiện tượng như thế có xảy ra
trên trái đất này lần nữa không.
Sau khi bị đóng đinh thân thể chết của Jesus đã
được giữ trong hang. Nó được dự định đem đi chôn vào
ngày hôm sau, nhưng người ta không tìm thấy nó nữa.
Điều đó tiếp tục là bí ẩn cho người Ki tô giáo làm sao
thân thể chết của ông ấy biến mất, và điều gì đã xảy ra
cho nó. Có câu chuyện về sự phục sinh của ông ấy nói
rằng các đệ tử của ông ấy đã thấy Jesus vài ngày sau
việc đóng đinh. Nhưng câu hỏi vẫn còn lại: điều gì đã xảy ra cho Jesus sau khi ông ấy được phục sinh và khi
nào ông ấy chết lần nữa?
Nhưng chính điều bí ẩn là chẳng có gì được biết về
Jesus sau việc phục sinh cả. Người Ki tô giáo không có
giải thích bất kì điều gì về Jesus được phục sinh. Sự
kiện là ở chỗ thân thể chết của Jesus quí giá tới mức nó
lập tức phải bị bỏ khỏi hang để đặt vào chỗ nó có thể
được gìn giữ an toàn trong thời gian dài. Và thông tin
này phải được canh giữ bí mật để giữ an toàn cho thân
thể chết. Một người như Jesus thực sự hiếm hoi trong cả
lịch sử.
Cho nên các kim tự tháp này của Ai Cập - kể cả cấu
trúc của chúng, sân của chúng, các tính năng đặc biệt
của chúng - đều có nghĩa và ý nghĩa cao.
(Tại đây trong câu trả lời cho câu hỏi không nghe
được Osho nói rằng đó là vấn đề khác và Thầy sẽ thảo
luận nó riêng ra.)
Người hỏi: khi chúng tôi vào thiền sâu, thân thể trở
thành trơ ì và việc thở yếu, điều có thể gây ra thiếu
ô xi trong thân thể. Xin thầy giải thích hiện tượng
này trong hoàn cảnh của thiền và samadhi - như
cực lạc.
Thực tế, khi việc thở đã đạt tới mạnh mẽ đầy đủ của
nó và một lỗ hổng được tạo ra giữa bạn và thân thể bạn,
khi việc ngủ của bạn và phần thức dường như tách biệt
lẫn nhau, thế thì các bạn sẽ bắt đầu đi tới phần thức tỉnh
của mình. Tại giai đoạn này thân thể thôi không cần ô xi
thêm nữa. Bây giờ điều tốt là thân thể đi vào giấc ngủ,
là nó trở thành trơ ì, cũng như chết. Bây giờ sinh lực
của bạn không hướng tới thân thể nữa, thay vì thế nó bắt
đầu chuyển tới linh hồn.
Chính thân thể mới cần ô xi, linh hồn không có nhu
cầu thực về ô xi. Bạn có theo được tôi nói không? Thân
thể cần ô xi; và khi sinh lực của bạn chuyển tới linh
hồn, thân thể cần lượng ô xi tối thiểu - chỉ đủ để giữ cho
nó sống. Nó không cần quá mức tối thiểu, và điều đó sẽ
cản trở tiến bộ của bạn nếu thân thể nhận được nhiều ô
xi tại giai đoạn này.
Do đó điều đáng phải làm là thở chậm lại và trở nên
nhẹ và yếu. Việc thở là hữu dụng để đánh thức năng
lượng, và một khi năng lượng này thức dậy, việc thở
dừng tính hữu ích đó. Bây giờ thân thể bạn có thể tồn tại
với việc thở tối thiểu. Và do vậy sẽ có một khoảnh khắc
nó sẽ đi tới dừng hoàn toàn. Nó phải dừng lại.
Trong thực tế, khi bạn đạt tới điểm cân bằng đúng,
điều chúng ta gọi là samadhi, việc thở sẽ dừng lại.
Nhưng chúng ta không có ý tưởng gì về việc dừng thở
này nghĩa là gì. Nếu bạn muốn biết điều đó ngay bây
giờ bạn có thể dừng việc thở lại, nhưng điều đó sẽ là vô
nghĩa. Các bạn không thể biết được nó bằng kinh
nghiệm qua việc cố ý dừng nó. Điều này sẽ không là
cùng kinh nghiệm mà bạn có trong thiền sâu.
Chúng ta đều quen thuộc với hai cách thở: thở vào
và thở ra. Nhưng một khoảnh khắc tới, và nó tới tại đỉnh
cao của thiền, khi việc thở dừng lại nửa chừng giữa hít
vào và thở ra. Khi khoảnh khắc như vậy tới các bạn sẽ cảm thấy rằng việc thở của mình đã dừng và rằng bạn
sắp chết. Chắc chắn những khoảnh khắc này sẽ tới.
Khi các bạn đi sâu hơn vào thiền, việc thở của các
bạn trở thành ngày một chậm hơn; dường như việc thở
đã loãng ra. Đấy là vì các bạn không cần ô xi nữa tại
chiều sâu của thiền. Ô xi là cần tại giai đoạn khởi đầu
của nó. Điều đó cũng giống như tôi vặn chiếc chìa khoá
trong ổ khoá để mở cửa. Tôi có cần tiếp tục vặn chìa
ngay cả sau khi nó đã làm xong việc của nó không? Bây
giờ chiếc chìa là vô dụng. Nó treo trong ổ khoá và tôi ở
bên trong phòng. Bạn có thể hỏi tại sao tôi không dùng
chìa khoá khi tôi ở trong phòng. Không, chìa khoá đã
phục vụ cho ý định của nó; nó chỉ có nghĩa cho việc đi
vào phòng.
Chừng nào mà kundalini còn chưa thức dậy, các
bạn sẽ phải dùng chìa khoá của việc thở với tất cả sức
mạnh của bạn. Nhưng ngay khi nó được đánh thức, việc
thở trở thành không cần thiết. Bây giờ, khi bạn đang
trong cuộc hành trình nội tâm, thân thể bạn sẽ yêu cầu
rất ít ô xi. Và thế thì bạn không phải dùng ý chí của
mình để dừng việc thở; nó sẽ chậm dần lại tới chỗ dừng,
và một khoảnh khắc sẽ tới khi mọi thứ sẽ dường như đã
đi tới sự dừng lại. Trong thực tế, đây là khoảnh khắc đó
- khi việc thở dừng lại nửa chừng giữa hít vào và thở ra
- khi bạn ở vào trạng thái của cân bằng hoàn toàn, khi
bạn ở trong cực lạc hay samadhi. Trong chính khoảnh
khắc này bạn biết sự tồn tại - không phải cuộc sống.
Hiểu khác biệt này giữa việc biết cuộc sống và việc
biết sự tồn tại đi. Trong samadhi bạn biết sự tồn tại -
không phải cuộc sống. Tri thức của bạn về cuộc sống
được nối với việc thở của bạn, bởi vì cuộc sống là ô xi,
nó là một phần của hơi thở. Trong samadhi bạn biết sự
tồn tại nơi việc thở hoàn toàn không cần thiết. Sự tồn tại
là mênh mông. Sự tồn tại này bao gồm mọi thứ - nó bao
gồm hiện hữu của bạn, và núi non và các vì sao và toàn
thể không gian. Không có chuyển động bất kì cái gì;
mọi thứ đều tĩnh tại và nghỉ ngơi trong sự tồn tại. Thậm
chí không một gợn sóng nảy sinh trong biển cả bình
yên, thanh thản và tĩnh lặng. Trong khoảnh khắc đó tất
cả mọi rung động của việc thở của bạn sẽ đi tới chỗ
dừng; bản thân hơi thở sẽ dừng lại, bởi vì hơi thở không
thể đi vào trong tĩnh lặng này, cái trống rỗng này. Để
một mình hơi thở, ngay cả cuộc sống cũng không thể đi
vào không gian này. Không bao giờ.
Cõi bên kia là ở bên ngoài cuộc sống nữa.
Nhớ lấy, rằng cái ở bên ngoài cái chết cũng ở bên
ngoài cuộc sống nữa. Do đó chúng ta không thể nói
rằng Thượng đế đang sống; sẽ là ngớ ngẩn mà nói như
vậy. Vì ngài không phải là chủ thể cho cái chết, sẽ là vô
nghĩa mà gọi ngài sống. Sống là tương đối với chết; cái
này không thể tồn tại mà không có cái kia. Thượng đế
không có cuộc sống; ngài có sự tồn tại - thay vì cuộc
sống, ngài là bản thân sự tồn tại. Tất nhiên, chúng ta
những sinh linh sống đều đang sống, chúng ta có cuộc
sống. Khi chúng ta đi ra từ sự tồn tại, chúng ta có cuộc
sống. Và nó là cái chết của chúng ta khi chúng ta trở lại
sự tồn tại một lần nữa.
Chẳng hạn, nó là cuộc sống khi con sóng phát sinh
trong đại dương. Trước khi con sóng phát sinh chỉ có
đại dương, không có sóng. Cuộc sống bắt đầu khi con
sóng phát sinh; chính việc tới của con sóng đi vào hiện
hữu, vào cuộc sống. Và khi con sóng biến mất, chính đó
là cái chết của con sóng này. Việc dâng lên của nó là
cuộc sống của nó; việc rơi xuống của nó là cái chết của nó. Nhưng sự tồn tại của biển là không có sóng. Đại
dương có đó cho dù sóng không phát sinh, và nó sẽ có
đó khi sóng đã chết. Và kinh nghiệm về sự tồn tại đó, sự
như nhau đó, sự tĩnh lặng đó, là samadhi hay cực lạc.
Cho nên samadhi không phải là việc kinh nghiệm
về cuộc sống; samadhi là việc kinh nghiệm sự tồn tại.
Samadhi là mang tính tồn tại; hơi thở không cần cho nó.
Với samadhi hơi thở không có nghĩa. Cả hơi thở lẫn vô
hơi thở đều chẳng có nghĩa gì với samadhi. Nơi mọi thứ
đi tới chỗ dừng đều có samadhi.
Do đó điều cần thiết là khi người tìm kiếm đi vào
các trạng thái sâu của thiền thì phải rất thận trọng và cẩn
thận để giữ cho người đó sống. Nhiều người được yêu
cầu giúp cho người đó qua giờ phút gay cấn, bằng
không người đó có thể biến mất, người đó có thể bị mất
hút trong cái bao la được biết là samadhi. Nếu chăm sóc
đúng không được thực hiện, người đó có thể không trở
lại từ chỗ tạm trú của mình vào sự tồn tại. Ramakrishna
thường đạt tới trạng thái này. Trong nhiều ngày ông ấy
hay ở trong samadhi, được hấp thu vào sự tồn tại, và
việc trở về cuộc sống trở thành khó khăn cho ông ấy.
Ramakrishna là một hiền nhân rất đáng kính trọng,
ông ấy biết rộng và có được sự kính trọng lớn lao.
Nhưng chúng ta không biết điều gì về người đã cứu
Ramakrishna cho thế giới. Một trong những người cháu
của ông ấy sống cùng ông ấy; chính anh ta là người
luôn luôn cứu ông ấy khi ông ấy trượt vào trạng thái
như vậy. Anh ta thức đêm cùng ông ấy. Bất kì khi nào
Ramakrishna đi vào samadhi, người cháu này của ông
ấy làm việc cần mẫn để giữ cho ông ấy sống; anh ta
nuôi ăn bắt buộc cho ông ấy bằng sữa và nước và các đồ
ăn khác. Bất kì khi nào việc thở của ông ấy bị dừng, anh
ta xoa bóp cho ông ấy để phục hồi việc thở. Anh ta đã
làm mọi thứ để cứu ông ấy cho thế giới.
Toàn thế giới đi tới biết về Ramakrishna qua
Vivekananda, nhưng không ai biết người đã cứu ông ấy
cho thế giới. Anh ta đã làm việc tận tuỵ, anh ta đã dùng
mọi thứ để phục vụ cho Ramakrishna, người có thể chết
bất kì lúc nào. Kinh nghiệm về samadhi phúc lạc vô
cùng đến mức việc trở về từ nó trở thành gần như không
thể được. Trong khoảnh khắc đó có mọi khả năng mất
hút không thể thay đổi được.
Có điểm không quay lại, và nó gần với samadhi thế.
Các trường phái và tu viện và đạo tràng đi vào hiện hữu
để dành cho chính ý định này: chỉ để cứu những người
tìm kiếm khỏi trượt vào điểm không quay lại. Các
sannyasins đã không xây dựng các trường phái và đạo
tràng thì đã không kinh nghiệm samadhi sâu. Các
sannyasins lang thang - được biết như parivrajakas -
người cứ di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia, đã bị thất
vọng về kinh nghiệm tâm linh cao nhất này. Để làm như
vậy thì một nhóm, một trường phái là cần phải có.
Để đi sâu vào samadhi và, hơn nữa, để cứu những
người tìm kiếm khỏi cái chết, cần nhiều người biết về
việc này. Các parivrajakas, để thoát khỏi sự gắn bó, đã
làm ra qui tắc rằng họ sẽ không ở một chỗ trong một
thời gian lâu. Nhưng người trở thành nạn nhân của sự
gắn bó qua một thời gian dài có thể trở thành như vậy
ngay cả trong thời gian ngắn. Sự khác biệt sẽ là ở mức
độ - sự gắn bó của người đó sẽ là sự gắn bó nhỏ. Nó có
thể là sự khác biệt giữa sự gắn bó lâu ba tháng và sự gắn
bó lâu ba ngày. Sự khác biệt sẽ là ở mức độ. Trường
phái parivrajakas nhất định đánh mất yoga và samadhi trong thời gian dài, bởi vì nhóm và công xã là cần để
cứu họ.
Đó là một điều để đi vào samadhi - một cá nhân có
thể làm điều đó - nhưng vấn đề đem người đó trở lại là
rất khác biệt. Không có khó khăn cho tới giai đoạn
thiền, nhưng khoảnh khắc của samadhi đòi hỏi sự thận
trọng và chăm nom lớn lao. Nó là khoảnh khắc mà sự
việc trở thành khẩn thiết là bảo vệ người tìm kiếm khỏi
trượt vào trong vùng không trở lại. Người đó phải được
cứu để cho người đó đem lại cho chúng ta tin tức về cõi
bên kia. Và người đó một mình có thể đem tin tức đó,
người đã hé nhìn vào trong nó qua samadhi, người có
thoáng nhìn về nó.
Bất kì điều gì chúng ta biết về nó đều tới chúng ta
từ một nhúm người đã trở về từ cõi bên kia đó. Nhưng
với họ chúng ta hoàn toàn trong bóng tối về nó. Các bạn
không thể biết được nó qua suy nghĩ hay đồn đoán;
không có cách nào cho nó cả. Nó chỉ có thể được tiếp
xúc trực tiếp và được kinh nghiệm. Và rất thường là
người đã tiếp xúc với cõi bên kia thấy khó quay trở về
từ đó. Người đó có thể bị mất mãi mãi; đó là điểm
không quay lại. Đó là điểm từ đó người ta nhảy vào
trong hư không vô tận của không gian, nơi mọi con
đường đều chấm dứt, nơi tất cả mọi cây cầu đều gẫy.
Đó là lúc mà sự chăm sóc lớn lao được cần tới, khi
công việc lớn lao phải được làm. Về sau tôi thường có
quan điểm rằng khi tôi đã chuẩn bị cho các bạn về
samadhi, các trường phái hay công xã sẽ rất là cần thiết.
Nhóm, và không phải cá nhân, sẽ là quan trọng cho bạn
- nhóm sẽ chăm nom cho những người sẽ đi vào
samadhi; bằng không thì họ sẽ bị mất mãi mãi. Nhóm,
trường phái và công xã sẽ để mắt tới điều đó rằng người
tìm kiếm được giúp đỡ để quay về từ trạng thái đó, và
rằng tri thức đó về kinh nghiệm tối cao này được gìn
giữ cho chúng ta. Bằng không thì có mọi nguy hiểm về
việc bị mất của nó.
Người hỏi: trạng thái của việc thở là gì trong điều
chúng ta gọi là sahaj samadhi hay cực lạc tự nhiên?
Nó trở thành rất nhịp điệu, rất hài hoà, nó trở thành
âm nhạc; và có nhiều điều khác cho nó. Người mà hai
mươi bốn giờ trong sahaj samadhi, có tâm trí không vẩn
vơ, người tĩnh lặng và yên tĩnh, người được đặt vào
trong sự tồn tại, người là một với nó, việc thở của người
đó lấy nhịp điệu riêng của nó. Và khi người đó không
làm việc - không ăn, không nói không bước đi - thế thì
việc thở trở thành phúc lạc quá mức cho người đó. Thế
thì chỉ việc hiện hữu, chỉ việc thở cũng đem lại cho
người đó vui sướng và phúc lạc đến mức không cái gì
khác có thể đem lại. Việc thở của người đó là rất nhịp
điệu và hài hoà; nó biến thành âm thanh vô âm, âm
thanh của tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Việc nếm trải kinh nghiệm siêu phàm đó có thể có
được qua việc thở theo cách đặc biệt. Đó là lí do tại sao
kỉ luật của việc thở - của các nhà yoga và những người
khác - đã được phát triển trong quá khứ. Chẳng hạn, nếu
một người làm việc thở của mình thành nhịp điệu và hài
hoà như việc thở của người trong sahaj samadhi, người
đó sẽ biết yên tĩnh và an bình là gì. Pranayam và các kĩ
thuật thở khác đã được phát triển qua việc quan sát cách thở và tác động của nó trong sự gần gũi với một số
người đã vào trong samadhi. Và chúng là rất có ích.
Việc thở trong trạng thái samadhi được thu về mức
tối thiểu của nó, bởi vì trong samadhi cuộc sống không
có ý nghĩa như sự tồn tại, hay như sự hiện hữu đang
đấy. Với người trong samadhi một chiều hướng hoàn
toàn mới đã mở ra, điều thuộc về sự tồn tại và nơi việc
thở và những thứ như nó là không cần thiết. Bây giờ
người đó đã vào liên miên trong chiều hướng đó, người
đó tồn tại trong chiều hướng đó. Người đó bây giờ dùng
thân thể mình chỉ khi người đó phải có quan hệ với
chúng ta; bằng không người đó không dùng thân thể
mình. Chính chỉ để liên hệ với chúng ta mà người đó ăn,
ngủ, tắm, mặc quần áo và làm các việc khác mà thân thể
cần. Đây chỉ là cách thức của người đó để liên hệ với
chúng ta.
Ngoại trừ để liên hệ với chúng ta người đó không
cần thân thể mình và việc thở và phần còn lại của nó.
Trong bản thân họ thân thể và các chức năng của nó
không có nghĩa đối với người đó. Và việc thở của người
đó trở thành tối thiểu; người đó thở chỉ đủ để tạo ra sinh
lực giữ cho người đó trong thân thể. Do đó người đó có
thể dễ dàng sống ở chỗ với rất ít ô xi.
Có những đền chùa và hang động cổ gần như chẳng
có cửa và cửa sổ nào; chúng không có cửa thông gió
chút nào. Chúng trông lỗi thời thế đối với thời hiện đại
này, chúng hoàn toàn phản vệ sinh, khoa học về sức
khoẻ. Tất cả những đền chùa và hang động cổ đại này
vẫn còn tồn tại, đều không có lối vào xứng với cái tên.
Có những hang động không bố trí thông gió; người
ta tự hỏi làm sao luồng khí có thể đi vào chúng được.
Điều này là vậy bởi vì những người sống trong chúng
đã không cần nhiều không khí. Trong thực tế, họ đã
không muốn nhiều không khí đi vào nơi tôn nghiêm của
họ, bởi vì rung động của thế giới bên ngoài do khí đem
tới có thể phá huỷ các rung động tinh tú của hang, điều
cần được bảo vệ và gìn giữ. Chính với quan điểm để
bảo vệ và gìn giữ kho năng lượng tinh tú mà các đền
chùa và hang động của thời xưa đã không có gì như hệ
thống thông gió cả.
Điều này là không thể được cho ngày nay. Để làm
cho nó thành có thể, sẽ cần xây dựng một loạt dài kỉ luật
về thở. Để làm cho điều đó thành có thể chúng ta sẽ cần
đàn ông và đàn bà đã đạt tới samadhi.
Người hỏi: làm sao kĩ thuật phật giáo về
anapanasati - quan sát thường xuyên hơi thở của
người ta - ảnh hưởng tới trạng thái của ô xi trong
thân thể chúng ta?
Anapanasati có tác động lớn tới ô xi thân thể chúng
ta. Đây là câu hỏi hay cần được hiểu đúng. Mọi hoạt
động của cuộc sống, mọi chức năng của thân thể chúng
ta đều được làm nhanh lên khi chúng ta chú ý tới nó.
Phần lớn các chức năng thân thể là tự trị; bạn không
phải chú ý tới chúng, nhưng khi bạn chú ý thì chúng bị
ảnh hưởng.
Chẳng hạn, khi bác sĩ đặt ngón tay lên mạch của
bạn, xung mạch của bạn đập không còn như cũ, nó lập
tức nhanh hơn một chút; nó nhiều hơn là nó đã vậy
trước đây. Nó là vậy bởi vì nó đã nhận được sự chú ý,
sự chú ý của hai người - của bác sĩ và của bạn. Và nó sẽ nhanh chóng thêm nhiều nếu bác sĩ ngẫu nhiên là người
khác giới, vì bây giờ nó sẽ nhận được nhiều chú ý hơn.
Bạn có thể thử điều đó như thế này: tự kiểm tra mạch
đập của bạn trước, và rồi quan sát trong mười phút nó
đập thế nào và rồi kiểm tra nó lần nữa. Bạn sẽ thấy rằng
mạch của bạn đã thay đổi, nó đã nhanh lên. Chú ý có tác
dụng như tác nhân xúc tác để làm nhanh mạch đập của
bạn, hay cũng vấn đề đó với bất kì chức năng nào của
thân thể.
Kĩ thuật anapanasati cực kì có giá trị. Nó là cách
quan sát việc thở riêng của bạn. Bạn không phải làm gì
về nó cả; bạn không phải can thiệp vào việc thở của
mình hay thở theo bất kì cách đặc biệt nào. Bạn chỉ phải
quan sát nó như nó đang đấy. Nhưng điều cũng đúng là
ngay khi bạn bắt đầu quan sát nó, thì việc thở của bạn
trở thành nhanh hơn chút ít. Điều đó là không tránh
khỏi. Với quan sát của bạn, cách bạn thở sẽ thay đổi, và
nó sẽ nhanh hơn trước đây. Việc thay đổi này và bản
thân việc quan sát chỉ ra kết quả.
Nhưng mục tiêu chính của anapanasati không phải
là đem bất kì thay đổi nào vào hình mẫu thở của bạn;
mục tiêu chính là chỉ quan sát hơi thở của bạn như nó
vậy. Bởi vì khi bạn quan sát việc thở của mình, và quan
sát nó thường xuyên, dần dần bạn bắt đầu tách bản thân
mình ra khỏi nó; xuất hiện một lỗ hổng giữa bạn và việc
thở của bạn. Bởi vì khi ai đó quan sát cái gì đó, lập tức
người quan sát trở thành tách rời với cái được quan sát.
Trong thực tế, người quan sát không thể là một với
cái được quan sát. Khoảnh khắc bạn biến cái gì đó
thành cái được quan sát, bạn tự tách mình khỏi đối
tượng quan sát của mình - bạn trở thành khác với nó. Vì
bạn đã làm hơi thở của mình thành cái được quan sát, và
bạn đã quan sát cách nó làm việc, nên bạn trở thành xa
khỏi nó trong chính quá trình quan sát này. Và thế rồi
một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng trong khi việc thở
diễn ra bạn ở khoảng cách xa đáng kể với nó.
Anapanasati yoga đem tới sự tách biệt của bạn với
thân thể; bạn thực sự kinh nghiệm nó.
Bạn có thể thử anapanasati theo nhiều cách. Nếu
bạn quan sát cách bạn bước - nếu bạn chỉ quan sát cách
chân phải giơ lên và chuyển động, và thế rồi chân trái
giơ lên và chuyển động - nếu bạn chỉ quan sát chuyển
động của chân mình, bạn sẽ thấy trong thời gian hai
tuần rằng bạn hoàn toàn tách khỏi chân mình. Bạn sẽ
thấy rõ ràng chân mình là cái được quan sát và bạn vẫn
còn là người quan sát. Chân riêng của bạn sẽ dường như
vận hành một cách máy móc. Một người như vậy có thể
nói rằng khi bước người đó không bước, khi nói người
đó không nói, khi ăn người đó không ăn, khi ngủ người
đó không ngủ. Và người đó là phải.
Nhưng rất khó để hiểu một người như vậy, người đã
trở thành người quan sát trên núi. Nếu người đó là nhân
chứng cho việc bước của mình, nếu người đó thực sự
không bước trong khi bước, thì duy nhất người đó thực
sự thấy điều đó như vậy; sẽ khó cho người khác ngay cả
để hiểu điều đó. Nếu người đó là nhân chứng cho việc
nói của mình, người đó sẽ không nói trong khi nói,
người đó sẽ vẫn còn là nhân chứng một mình.
Anapanasati là kĩ thuật có ý nghĩa; nó làm cho bạn
thành nhân chứng, linh hồn chứng kiến, nhưng nó khác
với kundalini.



Người hỏi: có thể rằng qua việc thở sâu và mạnh
mẽ một lượng ô xi quá mức đi vào phổi của người
tìm kiếm gây hại lớn cho người đó. Thầy nói gì?
Thực tế, không người nào dùng phổi mình đầy đủ
trong khi thở. Đại thể có sáu nghìn bao khí trong phổi
người ta, trong số đó khó có được nghìn rưởi hay hai
nghìn bao đầy ô xi nếu người đó ngẫu nhiên rất mạnh
khoẻ và người đó thở bình thường. Phần các túi khí còn
đầy các bô nic, vốn là cái tên khác cho rác bẩn. Do đó
khó mà tìm ra một người lấy nhiều ô xi hơn mức cần
thiết. Người lấy được khối lượng ô xi cần thiết cũng là
hiếm. Phần lớn phổi chúng ta vẫn còn không được sử
dụng tới.
Thực sự là điều lớn lao nếu bạn có thể rót đầy toàn
thể phổi của mình bằng ô xi; điều đó sẽ dẫn tới sự mở
rộng lớn lao tâm thức bạn. Cuộc sống bạn mở rộng thế
nào có thể biết được từ khối lượng ô xi bạn mang trong
phổi mình. Càng nhiều ô xi, càng nhiều cuộc sống. Và
nếu bạn có thể rót đầy toàn bộ phổi mình bằng ô xi, bạn
sẽ ở cực đỉnh của cuộc sống.
Chính ô xi tạo ra sự khác biệt giữa người mạnh
khoẻ và người ốm yếu. Người ốm yếu là người lấy vào
rất ít ô xi qua việc thở. Đó là lí do tại sao một số người
ốm phải được cấp cho ô xi qua phương tiện nhân tạo.
Họ sẽ chết nếu họ bị bỏ lại với chính họ. Mạnh khoẻ và
ốm yếu có thể được đo bằng việc lấy vào ô xi. Đó là
cách việc chạy làm cho bạn mạnh khoẻ, bởi vì việc chạy
đem tới cho bạn nhiều ô xi. Mọi bài tập thể chất đều có
ích bởi chính lí do này. Bất kì hoạt động nào thêm cho
kho ô xi của bạn đều có ích cho mạnh khoẻ của bạn. Và
điều làm cạn kiệt nguồn dự trữ ô xi của bạn là làm hại
tới sự mạnh khoẻ của bạn; nó sẽ gây ra ốm bệnh.
Nhưng sự kiện còn lại là bạn chưa bao giờ thở tới
đầy khả năng phổi của bạn; bạn chưa bao giờ lấy vào
nhiều ô xi như bạn có thể lấy vào. Cho nên vấn đề lấy
nhiều hơn điều cần thiết đơn giản không nảy sinh. Bạn
không thể lấy nhiều hơn cái mà phổi có thể chứa; bạn
không thể lấy nhiều hơn việc làm đầy của nó. Đó là việc
khó làm thế.
Người hỏi: cùng với ô xi chúng ta lấy vào các khí
khác như ni tơ và hidro với việc thở của mình. Tất
cả những khí này có ích cho thiền không?
Những khí này tuyệt đối có ích cho thiền. Bất kì cái
gì có đó trong không khí - không chỉ là ô xi mà nhiều
thứ khác - đều có ích cho cuộc sống. Chính bởi vì chúng
mà các bạn sống. Không có cuộc sống trên một hành
tinh hay hành tinh vệ tinh nơi những khí này không sẵn
có theo đúng tỉ lệ. Chính chúng làm cho cuộc sống
thành có thể. Do đó bạn không cần lo nghĩ về điểm này.
Và bạn thở càng mãnh liệt và mạnh mẽ, thì bạn sẽ
càng được lợi. Trong trạng thái thở sâu và nhanh chỉ ô
xi mới có thể đi vào hệ thống của bạn với số lượng tối
đa; mọi thứ khác sẽ bị bỏ ra. Và ngay cả những khí khác
này cũng là chất có ích của cuộc sống; chúng không có
hại.



Người hỏi: làm sao thân thể bắt đầu cảm thấy nhẹ
sau khi thở sâu và nhanh?
Đúng là thân thể sẽ cảm thấy nhẹ sau việc thiền này.
Nó sẽ là như vậy bởi vì ý thức của chúng ta về thân thể
là ý thức về sự nặng. Điều chúng ta gọi là sự nặng thì
không là gì nhiều hơn nhận biết của chúng ta về thân
thể. Thân thể vẫn nặng với người ốm cho dù người đó
chỉ có da và mạch. Nhưng người mạnh khoẻ, cho dù
người ấy cân nặng, vẫn mang thân thể mình rất nhẹ
nhàng. Cho nên thực sự là thân-tâm của chúng ta là cái
cảm thấy như đè nặng lên chúng ta.
Và chúng ta trở nên ý thức tới thân thể mình chỉ khi
nó đau, khi nó ốm. Chúng ta trở nên có ý thức về chân
mình khi chúng đau. Chúng ta trở nên nhận biết về đầu
mình khi nó đau. Nếu không có cái đau thân thể, chúng
ta sẽ chẳng bao giờ nhận biết về thân thể mình. Ý thức
này là cách đo đau khổ của chúng ta.
Chúng ta định nghĩa người mạnh khoẻ là người cảm
thấy dường như mình vô thân thể. Người không cảm
thấy rằng mình là thân thể, người có cảm giác vô thân
thể, thực sự là người mạnh khoẻ. Và nếu người đó bị
đồng nhất với một phần đặc biệt của thân thể mình thì
có thể nói rằng phần này của thân thể người đó bị ốm.
Khi khối lượng ô xi tăng lên và khi kundalini thức
dậy, bạn sẽ bắt đầu có những kinh nghiệm không phải là
thân thể; chúng thuộc về linh hồn hay atman. Và theo số
lượng các kinh nghiệm tinh tế này bạn sẽ đồng thời cảm
thấy nhẹ nhõm, một loại phi trọng lượng phi thường.
Nhiều người sẽ cảm thấy dường như họ đang bay.
Không phải là họ thực sự bay - biến cố bay thực xảy ra
chỉ một lần trong khoảng thời gian dài. Nhưng bởi vì
cảm giác vô trọng lượng, nên bạn cảm thấy rằng mình
đang bay. Nếu bạn mở mắt và nhìn, bạn sẽ thấy rằng
bạn đang ngồi trên đất. Nhưng sao có cảm giác bay
bổng này?
Sự kiện là ở chỗ tâm trí chúng ta, ở chiều sâu bên
trong nhất của nó, không biết tới ngôn ngữ nào như
chúng ta biết. Nó chỉ biết ngôn ngữ hình ảnh, tượng
trưng. Cho nên khi bạn kinh nghiệm vô trọng lượng, vô
trọng lượng hoàn toàn, thì tâm trí bạn diễn đạt nó theo
ngôn ngữ của hình ảnh. Nó không nói ra lời rằng đó là
vô trọng lượng, nó vẽ hình ảnh điều đó như hành động
bay, nó cảm thấy việc bay.
Tâm trí sâu của chúng ta, tâm trí vô thức của chúng
ta không nghĩ theo lời, nó nghĩ theo hình ảnh, theo biểu
tượng. Đó là lí do tại sao các giấc mơ của chúng ta
trong đêm chỉ có hình ảnh và hầu như không có lời nào.
Tâm trí mơ phải biến đổi mọi thứ - kể cả kinh nghiệm
và ý nghĩ - thành hình ảnh. Bởi lí do này khi chúng ta
thức dậy vào buổi sáng chúng ta thấy khó hiểu giấc mơ
riêng của mình. Ngôn ngữ chúng ta biết và dùng trong
giờ thức là hoàn toàn khác với ngôn ngữ hình ảnh của
giấc mơ. Hai ngôn ngữ này hoàn toàn xa lạ với nhau, và
do đó những nhà diễn giải lớn kiểu như bác học, nhà
tâm lí và nhà phân tâm được cần tới để diễn giải chúng
cho chúng ta. Chúng ta chẳng thể làm được gì với
chúng.
Bây giờ ai đó đang tham vọng. Làm sao người đó
diễn đạt tham vọng của mình khi người đó mơ? Người
đó sẽ biến thành con chim tung cánh trên trời cao. Thế
rồi người đó sẽ ở trên đỉnh của mọi thứ, bỏ toàn thế giới
lại sau mình. Tham vọng trong mơ lấy hình dạng của chuyến bay - người ta mơ rằng người ta đang bay và
bay. Tất cả những người tham vọng đều có giấc mơ về
việc bay. Nhưng từ tham vọng sẽ không bao giờ tìm
được chỗ trong giấc mơ. Cho nên sau khi tỉnh dậy vào
buổi sáng người này tự hỏi tại sao mình đã bay trong
giấc mơ của mình.
Chính tham vọng của người đó đã biến thành con
chim bay trong mơ.
Cùng cách này khi chúng ta đi vào chiều sâu của
thiền, việc vô trọng lượng được cảm thấy như bay. Vô
trọng lượng thực sự có thể được làm thành hình ảnh chỉ
như việc bay, không có cách khác.
Và thỉnh thoảng thân thể thực tế bay trong trạng thái
cực kì vô trọng lượng.
Người hỏi: nhiều lúc trong thiền dường như là cái
gì đó bên trong đã nổ ra, và kinh nghiệm này thật
đáng sợ.
Điều đó là có thể, điều đó tuyệt đối là có thể.
Người hỏi: người ta phải không được hoảng sợ
chứ?
Sợ hãi là không cần thiết, mặc dầu điều tự nhiên là
bạn cảm thấy sợ.
Người hỏi: nó tạo ra nhiều nhiệt nữa.
Điều đó nữa cũng là có thể. Nó là có thể bởi vì toàn
thể bộ máy bên trong của bạn trải qua thay đổi. Tất cả
mọi mối nối của bạn với thân thể bắt đầu bị chùng ra, và
những mối nối mới bắt đầu hình thành vào chỗ của
chúng. Những cây cầu cũ bị gẫy và cây cầu mới được
lập ra. Những cánh cửa cũ đóng lại và những cánh cửa
mới mở ra. Cho nên toàn thể ngôi nhà đều bị thay đổi.
Đó là lí do tại sao bạn cho rằng nhiều điều bên trong
bạn đang vỡ ra, và thế rồi bạn cảm thấy hoảng sợ. Điều
đó là tự nhiên, bởi vì toàn thể hệ thống trải qua trạng
thái xáo trộn và mất trật tự. Nó xảy ra vào lúc chuyển
đổi.
Khi một trật tự mới nảy sinh ra từ sự hỗn loạn này,
nó sẽ hoàn toàn khác với trật tự cũ, nó sẽ là duy nhất vô
song. Thế thì bạn sẽ quên rằng cái gì đó như trật tự cũ
đã từng tồn tại. Và ngay cả khi bạn nhớ tới nó bạn sẽ tự
hỏi làm sao trên trái đất này bạn có thể chịu đựng được
nó.
Và điều này là có thể.
Người hỏi: Có cần làm nỗ lực để thở sâu và hỏi
"Tôi là ai?" không ngay cả sau khi shaktipat hay
việc truyền năng lượng đã xảy ra, hay chúng sẽ xảy
ra một cách tự nhiên và theo cách riêng của chúng?


Khi việc thở và hỏi trở thành tự nhiên, câu hỏi này
không nảy sinh. Thế thì bản thân câu hỏi này sẽ dường
như là phi tự nhiên. Vấn đề chấm dứt với mọi thứ mang
tính tự nhiên. Nhưng nhiều lần, nhiều thứ trước khi nó
xảy ra, tâm trí sẽ thuyết phục bạn tin rằng nó đã xảy ra
và rằng bây giờ chẳng ích gì mà tiếp tục nỗ lực này.
Chừng nào mà tâm trí còn tiếp tục thuyết phục bạn, bạn
không nên thảnh thơi, bạn không nên từ bỏ nỗ lực này.
Cho tới lúc đó bạn vẫn phải tiếp tục với việc hỏi, "Tôi là
ai?" bởi vì tâm trí vẫn có đó, nó vẫn sống sót. Chính
tâm trí đang biện luận với bạn và cố gắng thuyết phục
bạn.
Tuy nhiên một ngày sẽ tới khi bạn sẽ thấy rằng
không cần phải làm gì nữa. Thế thì bạn sẽ không có khả
năng làm việc gì cho dù bạn muốn làm, bởi vì bạn có
thể hỏi "Tôi là ai?" lâu chừng nào bạn còn chưa biết
mình là ai. Cái ngày bạn đi tới biết mình là ai, câu hỏi
này sẽ không nảy sinh nữa. Thế thì sẽ rất ngớ ngẩn mà
đi hỏi nó, bởi vì bạn biết.
Chừng nào tôi còn chưa biết cửa ở đâu, tôi sẽ đưa ra
vài câu hỏi nồng nhiệt về nó, nhưng một khi tôi đi tới
biết, câu hỏi này sẽ tự nó loại bỏ đi. Thế thì tôi sẽ không
hỏi liệu tôi có nên hỏi câu hỏi này hay không. Nó là
không cần thiết, nó là vô nghĩa. Chúng ta hỏi chừng nào
chúng ta không biết một điều; ngay khi chúng ta biết nó,
vấn đề chấm dứt. Ngay khi bạn nhận ra mình là ai, thế
giới các câu hỏi đi đến chấm dứt. Và khi bạn đã lấy
bước nhảy vào cõi bên kia, thế thì chẳng cái gì còn lại
để được làm nữa. Thế thì bất kì cái gì bạn làm, nó đều là
thiền. Bạn bước đi và đó là thiền. Bạn ngồi và đó là
thiền. Thế thì im lặng của bạn là thiền, và việc nói của
bạn cũng là thiền. Cho dù bạn đánh nhau, đó cũng là
thiền. Điều bạn làm không khác biệt.
Người hỏi: dưới tác động của shaktipat hay việc
truyền năng lượng, thở sâu xảy ra theo cách riêng
của nó. Nhưng nhiều lúc thân thể thảnh thơi và việc
thở chậm lại. Người ta có nên tiếp tục nỗ lực trong
những khoảnh như vậy không?
Cũng là tốt nếu bạn làm như vậy. Vấn đề không
phải là liệu việc thở có tiếp tục hay làm chậm lại.
Không thành vấn đề gì mấy nếu việc thở đi tới điểm
dừng lại. Câu hỏi là liệu bạn đã đưa đủ nỗ lực vào hay
không. Điều có ý nghĩa là nỗ lực của bạn, không phải là
kết quả của nỗ lực của bạn. Vấn đề là ở chỗ bạn phải
làm hết sức mình, ở chỗ bạn phải đánh cược tất cả mọi
thứ của mình.
Tâm trí rất tinh ranh trong việc tìm ra lối thoát. Nó
làm mọi thứ để tự bảo vệ mình. Nó nói, "Bởi vì chẳng
cái gì xảy ra cả, nên đây là lúc mình từ bỏ nỗ lực." Tâm
trí rất điêu luyện đến mức trong cả ngày nó có thể gợi ý
hàng trăm cách trốn chạy và hàng trăm cớ và cách hợp
lí hoá. Nó có thể đi tới cả tràng dài kể cho bạn rằng bạn
sẽ chết ngạt, bạn sẽ chết nếu bạn theo đuổi nỗ lực của
mình thêm nữa.
Chớ nghe lời tâm trí. Bảo tâm trí của bạn, "Chết
ngạt và chết đi chính là phúc lạc đấy." Đó là vấn đề
khác nếu việc thở dừng lại theo cách riêng của nó,
nhưng về phần mình bạn phải tiếp tục phấn đấu. Bạn
không nên giữ lại cái gì từ phía mình. Đừng giữ lại cho
dù một chút ít, bởi vì đôi khi ngay cả cái chút ít đó cũng
có thể mang tính quyết định và định mệnh. 


Chẳng ai biết cái gì sẽ là cọng rơm cuối cùng thêm
vào trên lưng con lạc đà. Chính cọng rơm cuối cùng đó
làm cho con lạc đà quị xuống. Cứ giả dụ rằng bạn đã đặt
một tải trọng lớn lên lưng lạc đà, nhưng thế vẫn chưa đủ
để làm cho nó quị xuống. Có thể cọng rơm cuối cùng
vẫn còn thiếu, cái sẽ quyết định vấn đề, bởi vì đó bao
giờ cũng là cọng rơm cuối cùng sẽ quyết định. Không
phải là cọng rơm đầu tiên, mà cọng rơm cuối cùng mới
chứng tỏ là định mệnh. Có thể bạn đã chất nặng lên con
lạc đà bằng 99.99 pao cỏ khô, và điều đó vẫn không làm
cho con lạc đà quị xuống. Nó vẫn đợi cọng cỏ cuối cùng
- .001 pao.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Bạn đang cố
gắng phá cái khoá móc bằng chiếc búa. Bạn đã nện chín
mươi chín nhát búa và chiếc khoá vẫn chưa chịu vỡ ra.
Và bây giờ, bị mệt rồi, bạn đánh cú thứ một trăm rất
nhẹ. Nhưng khoá vỡ ra với cú đánh nhẹ này. Cho nên
đôi khi những điều rất nhỏ chứng tỏ là nhân tố quyết
định; đôi khi chỉ một cọng rơm cũng trở thành quyết
định. Để cho mọi người đừng nói là bạn đã làm mọi thứ,
ấy vậy mà chệch mục tiêu mỗi một li. Dù bạn có bị
chệch một li hay một dặm, nó vẫn là như nhau. Nếu bạn
bỏ lỡ nó, bạn bỏ lỡ nó toàn bộ.
Điều như vậy đã xảy ra chỉ mới gần đây. Một người
bạn đã thiền như tất cả các bạn đây, trong ba ngày ở trại
tại Amritsar. Anh ta là người có giáo dục, một bác sĩ.
Anh ta đã thiền và thiền, mà chẳng cái gì xảy ra cả. Và
thế rồi ngày cuối cùng tới. Tôi không biết gì về điều anh
ta đã làm hay không làm. Trong thực tế, tôi chẳng biết
gì về anh ta cả. Vào ngày cuối cùng, trong khi giải thích
về kĩ thuật, tôi nói rằng nước biến thành hơi chỉ khi nó
đạt tới nhiệt độ một trăm độ. Nếu người ta dừng đun sôi
tại chín mươi chín độ thì người đó đừng phàn nàn rằng
chỉ vì muốn thêm một độ mà nước từ chối biến thành
hơi. Cho dù bạn có cho nó lên 99.9 độ, nó vẫn cứ tiếp
tục là nước. Cho dù một mẩu tí xíu nhiệt bị thiếu nó vẫn
từ chối thay đổi. Chỉ khi nó vượt qua vạch một trăm độ
nó mới biến thành hơi. Và không có cách khác. Qui tắc
là qui tắc.
Anh ta tới tôi vào buổi tối hôm đó. Và anh ta nói
rằng điều tôi đã nói trong hoàn cảnh của nước biến
thành hơi có tác dụng lắm với anh ta. Trước đây anh ta
đã coi rằng nếu nỗ lực của anh ta còn yếu, cái lợi anh ta
thu được từ thiền cũng yếu thế, nhưng dẫu sao thì vẫn
có lợi. Khi anh ta nghe tôi, anh ta nghĩ rằng anh ta đã
lầm. Để nước biến thành hơi, việc đạt đúng một trăm độ
là điều phải có. Không phải là một lượng nhiệt độ nhỏ
sẽ làm nước biến thành hơi theo cách nhỏ. Nước sẽ
không thay đổi chút nào trước khi nhiệt của nó đạt tới
một trăm độ; nó phải đi qua toàn bộ con đường. Và do
vậy sáng hôm nay anh ta đã đem tất cả nỗ lực của mình
vào thiền, và anh ta ngạc nhiên thấy rằng cái gì đó đã
xảy ra. Điều anh ta đã làm trong ba ngày trước là vô ích.
Anh ta đã chẳng thu được gì ngoài mệt mỏi vào lúc
cuối. Hôm nay anh ta không mệt chút nào, và điều đáng
chú ý nhất là ở chỗ anh thực sự đã làm được nó.
Do đó bao giờ cũng là cọng rơm cuối cùng tạo ra sự
khác biệt giữa những người làm nó và những người
không làm nó.
Có một điều nữa cần phải ghi nhớ trong đầu. Trong
khi thiền, quan sát người ở phía bạn đang làm hết sức,
bạn cho rằng ngay cả người đó cũng chẳng làm ra tiến
bộ nào, nói gì tới một mình bạn. Bạn sai khi nghĩ như
vậy. Có khác biệt giữa một trăm độ và một trăm độ.
Một trăm độ của bạn không hệt như một trăm độ của người khác. Có thể người khác có nhiều năng lượng dự
trữ hơn bạn có, và người đó không dùng hết tất cả nó,
mặc dầu người đó làm tốt hơn bạn. Điều đó giống thế
này: Một người có năm trăm ru pi trong túi, và từ số đó
người đó đặt cược ba trăm ru pi vào đám đánh cá. Còn
bạn chỉ có năm ru pi trong túi và từ đó bạn lấy ra bốn
đồng đánh cá. Tại đây bạn đánh cược nhiều hơn người
đó; bạn vượt trội hơn người đó.
Vấn đề không phải là bạn hay người khác đã chi ra
bao nhiêu tiền, vấn đề là tỉ số giữa cái bạn có và cái bạn
đưa vào đánh bạc. Tỉ số đó mới là vấn đề. Bạn sẽ thắng
nếu bạn đánh cá tất cả năm đồng ru pi của mình. Còn
người kia sẽ thua cho dù người đó đánh cá bốn trăm
chín mươi chín đồng ru pi. Để thắng người đó sẽ phải
đặt cược tất cả năm trăm đồng của mình.
Điều mang tính quan trọng tối thượng là ở chỗ bạn
sẽ đánh cược toàn bộ bản thân mình, ở chỗ bạn sẽ
không để lại cho dù một li năng lượng và nỗ lực. Đừng
bao giờ cho rằng bạn đã làm đủ cho hiện tại, và rằng
bạn sẽ cố gắng lần sau. Khoảnh khắc bạn nghĩ vậy, bạn
sẽ bắt đầu thoái lui, lùi lại sau.
Và điều thường xảy ra là những ý nghĩ như vậy bắt
đầu tấn công bạn ngay khi giờ quyết định tới, nơi bạn
sắp làm được nó. Chính tại điểm giao thời này mà tâm
trí bạn bắt đầu hoảng sợ rằng bạn sẽ biến mất vào cái
không. Đó là khoảnh khắc của nguy hiểm nhất cho bạn
như bản ngã, và đó cũng là khoảnh khắc mang hậu quả
lớn nhất, mang tính hoàn thành lớn nhất cho bạn như
linh hồn. Và chính trong khoảnh khắc này tâm trí bạn sẽ
yêu cầu bạn từ bỏ, với lời bào chữa rằng bạn đã làm đủ
rồi, nước đã được đun nóng quá nhiều rồi, bất kì khoảnh
khắc nào nó cũng có thể biến thành hơi.
Khi tâm trí bạn cảm thấy nguy hiểm sắp xảy đến và
hoảng sợ, biết rằng đó là khoảnh khắc quyết định và quí
giá nhất của thiền - khoảnh khắc của hoàn thành. Chừng
nào mà không có nguy hiểm, tâm trí sẽ yêu cầu bạn tiến
hành, nhưng ngay khi bạn tới gần nguy hiểm - chính là
điểm sôi - tâm trí bạn sẽ yêu cầu bạn dừng lại ngay lập
tức. Tâm trí sẽ nói bạn đã làm hết mức mình rồi, bây
giờ không còn năng lượng để tiến hành thêm nữa.
Nhận biết về tâm trí mình khi khoảnh khắc quyết
định này tới. Nó đích xác là khoảnh khắc khi bạn đã
mang tất cả năng lượng của mình vào hành động. Nếu
bạn bỏ lỡ khoảnh khắc đó bạn có thể bỏ lỡ trong nhiều
năm. Đôi khi phải mất nhiều năm để đạt tới nhiệt độ
chín mươi chín độ. Và đôi khi bạn bỏ lỡ nó gần lúc bạn
đã chạm tới vạch một trăm độ. Và bạn bỏ lỡ nó vì
những điều rất vụn vặt.
Cho nên đừng giữ lại mình; bằng không bạn sẽ lỡ.
Người hỏi: điều gì xảy ra nếu mạch máu bị hỏng
bởi bị quá căng mạch?
Thì cứ để cho chúng bị hỏng đi. Bạn sẽ làm gì bằng
việc cứu chúng? Hôm nay hay ngày mai chúng sẽ bị
phá huỷ. Và bạn định làm gì sau khi cứu chúng?
Người hỏi: sau rốt, chúng tôi không muốn chết
trong trạng thái dốt nát. 


Nếu bạn lo nghĩ về mạch máu của mình, biết chắc
rằng bạn sắp chết trong trạng thái dốt nát. Bạn sẽ làm gì
sau khi bạn đã cứu mạch máu của mình? Khó khăn của
chúng ta là ở chỗ chúng ta bao giờ cũng lo nghĩ về
những điều không quan trọng cho chúng ta.
Người hỏi: trong thực tế, chúng ta chỉ có chút ít;
làm sao chúng ta có thể đảm đương được việc mất
nó?
Tôi tự hỏi liệu bạn có ngay cả cái chút ít đáng cứu
ấy không. Nếu bạn thực sự có, bạn sẽ không sợ bị mất
nó. Bạn thậm chí không có ngần ấy. Bạn giống như
người trần trụi mà sợ mất quần áo của mình. Nỗi sợ này
cho người trần trụi sự thoả mãn giả tạo rằng mình sở
hữu cái gì đó. Người đó nhận được sự hài lòng từ ảo
tưởng rằng mình có quần áo, người đó không bị trần
trụi. Nếu người đó có quần áo thực, người đó đã không
sợ mất chúng. Sau rốt chúng chỉ là quần áo thôi; cái gì
xảy ra nếu chúng bị mất? Gạt bỏ nỗi sợ như vậy đi.
Tôi không ngụ ý nói rằng mạch máu các bạn sẽ thực
tế không bị hỏng. Và nếu chúng sẽ bị hỏng thì nó sẽ là
vậy bởi vì nỗi sợ của chúng ta chứ không phải bởi vì
thiền. Nỗi sợ chắc chắn sẽ phá huỷ chúng; chính thực
nỗi sợ làm hỏng mạch máu bạn và nhiều thứ khác.
Nhưng chúng ta không sợ theo lí do đó; chúng ta không
sợ nỗi sợ của mình.
Nếu bạn sợ, nếu bạn lo âu, nếu bạn căng thẳng,
mạch máu của bạn cùng với nhiều thứ khác sẽ bị hỏng
bởi chính lí do này. Nhưng chúng ta không sợ bởi điều
đó. Chúng ta sợ thiền, điều không làm hỏng cái gì cả.
Ngược lại, nó sẽ sửa lại mọi hư hỏng đã xảy ra cho bạn.
Nhưng chúng ta níu bám lấy nỗi sợ của mình, và
chúng ta trú ẩn vào trong chúng. Và chúng ta cứ nói:
Điều gì xảy ra nếu cái này hay cái nọ xảy ra? Cho nên
chúng ta làm mọi thứ để chạy trốn khỏi thiền. Nếu nó là
vậy, tôi sẽ nói: Sao ra đi tất cả thế? Nỗi sợ này, sự ngần
ngại này, sự xung khắc này là nguy hiểm. Thế thì đừng
lại gần nó, kết thúc nó đi cho rồi.
Nhưng chúng ta vừa yêu vừa ghét; chúng ta muốn
làm cả hai. Chúng ta muốn thiền và đồng thời chúng ta
muốn chạy trốn khỏi nó. Và thế thì xung khắc này thực
sự phá huỷ chúng ta. Thế thì chúng ta là trong đống lộn
xộn không cần thiết. Hàng nghìn người trong đống lộn
xộn không cần thiết; họ muốn tìm thấy Thượng đế và
đồng thời họ sợ để cho ngài đương đầu với họ bất kì
ngày nào. Tâm trí kép này, tâm trí chia chẻ này mới là
vấn đề. Tất cả mọi khó khăn của chúng ta đều ở chỗ
một phần tâm trí chúng ta muốn làm một việc và phần
khác không muốn làm nó. Hoài nghi và xung đột đã trở
thành chính hơi thở của chúng ta. Chẳng bao giờ xảy ra
rằng điều chúng ta muốn làm, chúng ta muốn một cách
tuyệt đối. Cái ngày nó sẽ là như vậy, không cái gì sẽ tới
trên con đường của bạn. Ngày đó cuộc sống của bạn sẽ
thu được tính năng động mà bạn chưa bao giờ biết.
Nhưng chúng ta đều trong tình trạng kì cục; chúng
ta tiến lên một bước rồi lập tức lùi lại bước khác. Chúng
ta đặt một viên gạch vào đúng chỗ của nó để xây ngôi
nhà và khoảnh khắc tiếp chúng ta bỏ nó đi. Do vậy
chúng ta có cả hai - niềm vui của việc xây nhà và nỗi
buồn của việc không làm xong nó. Suốt cả ngày chúng
ta xây nên bức tường và khi đêm tới chúng ta kéo đổ nó xuống bằng chính đôi tay mình. Và thế rồi chúng ta than
vãn làm sao xây nhà khó thế.
Chúng ta nên cố gắng hiểu cấu trúc mù quáng kép
này của tâm trí mình. Và cách duy nhất các bạn có thể
hiểu được nó là thế này: được chuẩn bị cho điều các bạn
nghĩ là xấu nhất. Điều xấu nhất tưởng tượng này là ở
chỗ các mạch máu của bạn sẽ bị hỏng. Thì cứ để cho
chúng hỏng đi. Các bạn sẽ làm gì nếu bạn cứu vãn
chúng, chẳng hạn, trong ba mươi hay bốn mươi năm?
Các bạn sẽ là thư kí trong văn phòng nào đó trong ba
mươi năm này. Các bạn sẽ ăn, ngủ và sinh sản ra con
cái. Những đứa con này, đến lượt chúng, sẽ trưởng
thành và trở thành chồng và vợ, thế này thế nọ, như bạn
thôi. Và khi bạn chết, bạn sẽ bỏ lại chúng đằng sau để lo
lắng về mạch máu của chúng bị hỏng. Bạn còn làm gì
khác được nào?
Nếu chúng ta biết rằng cuộc sống mà chúng ta đang
cố gắng cứu vãn chẳng có gì trong nó đáng để cứu vãn,
chỉ thế thì chúng ta mới dám đặt cược tất cả mọi thứ của
mình; bằng không thì đó là điều không thể được. Chúng
ta phải rất rõ ràng trong đầu mình rằng điều chúng ta cố
gắng hăng hái thế để cứu vớt chẳng đáng giá công sức.
Chúng ta cũng biết rằng chẳng cái gì được cứu vớt mặc
cho tất cả mọi điều chúng ta làm để cứu vớt nó. Và nếu
chúng ta hiểu điều đó một cách rõ ràng, thế thì không có
vấn đề về bất kì điều gì, ngay cả việc mạch máu bị
hỏng.
Mạch máu sẽ không thực sự bị hỏng. Điều đó chưa
bao giờ xảy ra trong quá khứ cả. Đó sẽ là sự kiện phi
thường nếu bạn làm cho nó xảy ra. Các bạn sẽ lập kỉ lục
mới đó.















Người hỏi: Thầy đã nói hôm qua rằng kunda của
chúng ta hay bể năng lượng là không tách rời và
khác biệt lẫn nhau; chúng thực sự là một kunda vũ
trụ. Nhưng khi có liên quan tới người tìm kiếm thì
năng lượng của người đó sẽ dâng lên từ kunda của
riêng người đó chứ không từ kunda của người khác.
Vậy nên kunda có thực là một không? Xin Thầy giải
thích.

Nó giống thế này: Bạn có một cái giếng trong nhà
mình và tôi có cái giếng khác trong nhà tôi. Hiển nhiên,
hai cái giếng này dường như tách rời lẫn nhau. Nhưng
dòng nước ngầm mà hai cái giếng này lấy nước ra là
một. Và dòng nước ngầm này, đến lượt nó, được nối với
đại dương ở xa.
Nếu bạn đi theo luồng nước là nguồn cho nước
giếng của bạn, bạn sẽ không chỉ bắt gặp chiếc giếng của
tôi và tất cả giếng khác, bạn chung cuộc sẽ bắt gặp bản
thân đại dương vĩ đại. Theo cùng cách này, trong hoàn
cảnh của kundalini cá nhân có đó chỉ ở lúc đầu của cuộc
hành trình - vì cuộc hành trình này đi tới việc chấm dứt
cá nhân nữa, đi tới sự chấm dứt của người đó. Thế thì
chỉ có cái tất cả, cái toàn thể, cái tuyệt đối, cái một, hay
bất kì cái gì bạn gọi nó.
Cho nên tại điểm bắt đầu của cuộc hành trình này
bạn là tách biệt và tôi là tách biệt, nhưng đến đích, điểm
tối thượng, thì không có bạn không có tôi. Chúng ta chỉ
là những mảnh mẩu hay bộ phận vẫn có đó ở đích của
cuộc hành trình.
Cho nên khi kundalini tự biểu lộ bản thân nó trong
bạn, ban đầu nó sẽ dường như thuộc về bạn - cá nhân.
Nó sẽ là của bạn. Một cách tự nhiên, bạn sẽ thấy bản
thân mình đứng bên bờ giếng của mình. Nhưng khi
kundalini đi lên và bành trướng, dần dần bạn sẽ thấy
rằng giếng của mình được nối với tất cả các giếng khác
nữa. Và kinh nghiệm này càng được làm sâu sắc hơn thì
cái giếng cá nhân của bạn sẽ càng biến mất đi, và tại
chỗ của nó đại dương sẽ đi vào hiện hữu. Và chính
trong kinh nghiệm tối thượng này mà bạn sẽ có khả
năng nói rằng kunda này thuộc về tất cả.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda là một
và phổ dụng; nó là bể năng lượng vũ trụ.
Đó là cách tất cả chúng ta, như chúng ta hiện thế,
dường như là các cá nhân tách biệt. Hiểu điều đó theo
cách khác. Nếu một chiếc lá trên cây bỗng nhiên trở nên
có ý thức và nhận biết, thế thì chiếc lá bên cạnh sẽ
dường như là lá khác. Làm sao nó có thể biết cái lá treo ở cành khác của cây đó là chính nó? Cứ gạt sang bên
chiếc lá trên cành khác đi; nó không thể nghĩ về lá khác
trên cành của nó là chính nó. Có thể chiếc lá này ở xa
nó hơn chút ít; thậm chí lá bên phải nó cũng dường như
là lá khác. Nó sẽ là như vậy bởi vì tâm thức của chiếc lá
này là cá nhân.
Nhưng nếu chiếc lá này đi vào trong lãnh thổ riêng
của nó, nó sẽ sớm thấy rằng chiếc lá bên cạnh đang treo
trên cùng một thân cây, cũng thân cây của nó, và rằng
chúng cả hai đều nhận được nhựa sống từ cùng cội
nguồn. Nếu chiếc lá này đi sâu hơn nó sẽ biết rằng
không chỉ thân cây riêng của nó, ngay cả thây cây bên
cạnh cũng là một phần của cùng một cây và chính sinh
lực của chúng là một và như nhau. Và nếu nó đạt tới
chính gốc rễ của cây thì nó sẽ biết rằng tất cả các cành
của nó và tất cả lá của nó đều, giống như bản thân nó, là
một phần của một và cùng một cây đó.
Và nếu chiếc lá này tiếp tục cuộc hành trình của nó
và đi vào trung tâm của bản thân đất - đất mà từ đó cây
bên cạnh đã mọc lên - thế thì nó sẽ nhận biết rằng cùng
với cây riêng của nó, tất cả các cây khác đều là con của
cùng một mẹ - mẹ đất. Và trong trường hợp này cuộc
phiêu lưu của chiếc lá còn đi xa hơn, đến cùng nó sẽ
khám phá ra rằng chung cuộc toàn thể vũ trụ không là gì
ngoài sự mở rộng riêng của nó, sự phân nhánh riêng của
nó. Cho nên chiếc lá tí hon này chỉ là một đầu của sự
tồn tại mênh mông này.
Một chiếc lá là một cá nhân tách biệt khi nó trở
thành ý thức như một phần, và nó sẽ dừng là cá nhân
khi nó trở thành ý thức như cái toàn thể.
Việc kinh nghiệm đầu tiên của bạn về đánh thức
kundalini sẽ là kinh nghiệm về atman, hay linh hồn; và
việc kinh nghiệm tối thượng của nó sẽ là kinh nghiệm
về paramatman, hay bản thân Thượng đế. Và nếu bạn
dừng lại với chính việc đánh thức đầu tiên và không
thăm dò thêm nữa, và nếu bạn dựng hàng rào quanh
chiếc giếng nhận biết của bạn, bạn sẽ trì trệ như atman,
như linh hồn. Đó là cách một số tôn giáo bị mắc kẹt với
linh hồn - họ không vượt ra ngoài nó. Nhưng atman hay
linh hồn không phải là kinh nghiệm tối thượng; các tôn
giáo này chỉ bao quát một nửa cuộc hành trình. Nếu bạn
đi xa thêm, linh hồn cũng sẽ biến mất và thế thì chỉ
Thượng đế hay cái toàn thể sẽ còn lại.
Và như tôi đã nói trước đây, nếu các bạn phiêu lưu
xa thêm chút ít, ngay cả Thượng đế cũng sẽ biến mất và
cái sẽ còn lại cuối cùng sẽ là niết bàn hay cái trống
rỗng. Hay, chúng ta có thể nói rằng cái không sẽ còn lại.
Cho nên những người phiêu lưu lấy một bước ra ngoài
Thượng đế đạt tới niết bàn. Chính họ nói về cái hư
không tối thượng hay cái trống rỗng tuyệt đối. Họ nói
rằng chẳng cái gì còn lại ở đó; chung cuộc không có gì
cả, hay có bản thân cái không.
Chân lí là ở chỗ khi các bạn nhận ra tất cả, thì các
bạn cũng nhận ra cái không hay tính không đồng thời.
Cái tuyệt đối là cái không nữa.
Chúng ta tiếp cận nó theo cách khác. Cái không và
cái toàn thể, cái không và cái tất cả, cái trống rỗng và
cái tuyệt đối là hai cái tên của cùng một điều. Chúng là
đổi lẫn cho nhau được; chúng ngụ ý cùng một điều. Cái
không cũng là cái toàn thể. Cái trống rỗng cũng là cái
toàn thể. Cái không cũng là mọi thứ.
Bạn đã bao giờ thấy một nửa trống rỗng hay một
nửa cái không chưa? Bạn không thể chia cái không ra
làm hai nửa được. Bạn không thể chẻ cái không ra được; nó sẽ không còn là cái không nữa nếu bạn thành
công. Bạn có thể chia hai cho hai; bạn cũng có thể chia
một ra làm hai. Nhưng bạn không thể chia cái không ra
được; đó là điều không thể được. Bạn thậm chí không
thể vẽ cái không hay hư không lên một mẩu giấy. Dấu
hiệu số không được vẽ trên giấy là biểu tượng. Ngay khi
bạn vẽ nó ra, nó không còn là hư không, bởi vì bạn vẽ
vòng tròn nó, giới hạn nó bằng đường nào đó. Nếu bạn
hỏi Euclid, ông ấy sẽ nói rằng cái không là cái không có
chiều dài không có chiều rộng. Không thành vấn đề
chuyện bạn vẽ nó nhỏ đến đâu, ngay cả điểm nhỏ nhất
có thể được cũng vẫn sẽ có chút ít chiều dài và chiều
rộng. Cho nên dấu hiệu số không được vẽ trên giấy chỉ
là biểu tượng, nó không thực. Nếu nó có chiều dài và
chiều rộng, nó không thể là số không.
Do đó Upanishads có thể nói rằng nếu bạn khấu trừ
hư không từ hư không, thì hư không vẫn còn lại - điều
này có nghĩa là bạn không thể trừ được cái gì từ nó. Đến
cuối bạn sẽ thấy rằng bạn không thể lấy được cái gì từ
cái trống rỗng cả. Tất cả mọi nỗ lực của bạn để đánh
cắp từ nó sẽ đều vô hiệu. Bạn không thể loại bỏ được nó
mà cũng không thể lẩn trốn cùng nó. Nó là không thể
thu lại được; nó là không thể di chuyển được; nó bao
giờ cũng theo cách tuyệt đối.
Điều đúng trong hoàn cảnh cái không hay hư không
cũng đúng trong hoàn cảnh của cái toàn thể hay cái
tuyệt đối. Trong thực tế, bạn không thể quan niệm nổi
về cái toàn thể ngoại trừ bằng cách thức của cái trống
rỗng. Cái toàn thể ngụ ý rằng không cái gì có thể được
thêm vào nó, và cái không hay cái trống rỗng ngụ ý
rằng không cái gì có thể được khấu trừ từ nó. Không có
cách nào đi xa hơn từ cái tuyệt đối, và không có khả
năng nhúng chìm sâu hơn vào cái hư không sâu nhất.
Bạn không thể phân chia hoặc cái toàn thể hoặc cái hư
không thành bộ phận; chúng là không phân chia được.
Và cái toàn thể không thể bị giới hạn, bởi vì bất kì
cái gì bị giới hạn thì không thể là cái toàn thể được. Bị
giới hạn có nghĩa là cái gì đó vẫn còn ở ngoài biên giới,
và do đó nó không thể có tính toàn thể. Thế thì nó còn
kém hơn cái toàn thể. Nếu biên giới của nhà bạn bắt đầu
tại chỗ biên giới của nhà tôi chấm dứt, điều đó có nghĩa
là nhà tôi không phải là cái toàn thể; nếu nó là cái toàn
thể thì nó phải bao gồm cả nhà bạn nữa. Cho nên không
thể có giới hạn cho cái toàn thể; nó là vô giới hạn. Ai có
thể giới hạn nó được? Cần có một hàng xóm, một cơ
quan bên ngoài để làm như vậy. Nhưng cái không là ở
bên ngoài cái toàn thể. Cái toàn thể là một mình; nó
không có hàng xóm bất kì loại gì.
Nhớ lấy, bao giờ cũng cần hai để tạo ra biên giới
giữa chúng; hai tạo ra biên giới. Có biên giới nơi tôi
chấm dứt và ai đó khác bắt đầu. Nếu không ai khác bắt
đầu, nếu chỉ tôi có đó, thế thì tôi sẽ không chấm dứt; tôi
không thể bị giới hạn. Cho nên cả cái toàn thể cũng
không có giới hạn. Ai có đó để giới hạn nó? Theo cùng
cách này thì cái hư không, cái trống rỗng, cũng có thể
không có giới hạn, không biên giới; bởi vì nếu nó có thể
bị giới hạn, nó là cái gì đó - thế thì nó không thể là cái
không được. Chỉ cái gì đó mới có thể bị giới hạn.
Cho nên nếu bạn hiểu điều đó đúng thì bạn sẽ biết
rằng cái hư không và cái toàn thể là hai cách để nói về
cùng một điều. Và người hành hương tôn giáo có thể
theo cả hai con đường: hoặc bạn trở thành cái toàn thể
hoặc bạn trở thành cái không. Cả hai cách đều đưa bạn
tới định mệnh của mình, là định mệnh của tất cả. 

Người đi theo con đường của cái toàn thể, người
đang trong tình yêu với cái toàn thể, cái tích cực, người
đó sẽ nói: "Tôi là brahman, tôi là cái tuyệt đối." Người
đó sẽ nói rằng mình là Thượng đế, người đó là tất cả
mọi điều đang có đấy. Người đó sẽ nói rằng không có gì
ở ngoài mình, và rằng không có "ngài". Người đó bao
gồm tất cả các "ngài" bên trong người đó. Nếu điều đó
là có thể cho bạn để là vô hạn như vậy, thì bạn đã đạt
tới điều cao nhất.
Nhưng trong tính toán cuối cùng, ngay cả cái "tôi"
này cũng phải ra đi, bởi vì nếu không có "ngài", thì làm
sao bạn có thể nói "Tôi đây; tôi là brahman sao"? "Tôi"
có thể có nghĩa chỉ nếu trong hoàn cảnh của "ngài";
không có "ngài", "tôi" đơn giản không liên quan.
Và khi bạn là cái tuyệt đối, thì chẳng có nghĩa mấy
mà nói, "tôi là cái tuyệt đối", bởi vì phát biểu này thừa
nhận sự tồn tại của cả hai - brahman và bạn. Và chung
cuộc với việc ra đi của "tôi", ngay cả brahman hay điều
tuyệt đối sẽ trở thành vô nghĩa. Người ta sẽ phải trở
thành không nói được nên lời; người đó sẽ hoàn toàn im
lặng.
Theo cách này bạn triệt tiêu bản thân mình hoàn
toàn đến mức bạn nói, "tôi không hiện hữu." Trong
trường hợp này bạn nói, "tôi là brahman," hay "tôi là tất
cả," và trong trường hợp khác bạn nói "tôi là cái không;
mọi thứ đều là trống rỗng tuyệt đối." Con đường này
cũng sẽ đưa bạn tới cùng định mệnh tối thượng. Và khi
bạn đã tới đó bạn sẽ không thể nói ngay cả điều này -
rằng bạn không hiện hữu. Nói "Tôi không hiện hữu" cần
sự hiện diện của cái "tôi". Cho nên ngay cả điều này
cũng sẽ biến mất.
Bạn thậm chí không thể nói được rằng mọi thứ là
trống rỗng, tất cả đều hư không. Nói rằng tất cả đều hư
không, thì cần cả hai "tất cả" và "trống rỗng" đều có
trong sự tồn tại. Thế thì quá trình duy nhất mở ra cho
bạn là ở chỗ bạn trở thành không nói được, bạn trở
thành im lặng. Bạn bắt đầu từ đâu - dù là từ cái toàn thể
hay từ cái hư không, cái không - điều đó sẽ đem bạn tới
im lặng tối cao nơi bạn sẽ chẳng có gì để nói cả.
Do đó, chỗ người ta bắt đầu cuộc hành trình của
mình không phải là vấn đề chính. Cái cần được xem xét
là đích tới, nơi người ta cuối cùng đạt tới. Nơi người ta
chung cuộc đạt tới là vấn đề cơ bản.
Định mệnh chung cuộc này có thể được biết tới và
nhận ra. Và nếu người ta đã đạt tới nó, thế thì bất kì con
đường nào người đó đã theo cũng đều là đường phải.
Không con đường nào là phải và không con đường nào
là trái theo nghĩa tuyệt đối. Bất kì cái gì đưa bạn tới
đích của mình đều là đường phải. Và đích là một và
cùng một.
Nhưng bất kì khi nào bạn bắt đầu bạn bao giờ cũng
bắt đầu bằng "tôi". Kinh nghiệm trước đây bao giờ cũng
sẽ là manh tính định hướng "tôi", bởi vì đó là tình
huống cho sẵn của chúng ta; đó là chỗ chúng ta hiện
hữu và nguồn gốc chúng ta bắt đầu. Dù chúng ta đánh
thức kundalini hay chúng ta đi vào trong thiền hay
chúng ta đi vào im lặng, kinh nghiệm khởi đầu phải là
mang tính cá nhân, nó phải là hướng vào "tôi". Bất kì
cái gì sẽ xảy ra ở giai đoạn khởi đầu sẽ xảy ra cho
chúng ta như các cá nhân, bởi vì chúng ta là những cá
nhân ở lúc bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng khi chúng ta
đi sâu thêm, cá nhân sẽ biến mất dần. Kinh nghiệm càng
sâu sắc, sự ăn mòn tính cá nhân, bản ngã sẽ càng lớn .


Nhưng nếu chúng ta đi lạc khỏi cuộc hành trình bên
trong và vẩn vơ lung tung, thế thì cá nhân sẽ tồn tại và
cứ phát triển lên mãi.
Chẳng hạn, một người đang đứng trên bờ giếng.
Nếu người đó đi vào trong giếng và cứ đi ngày một sâu
hơn và sâu hơn, người đó một ngày nào đó đạt tới đại
dương. Chung cuộc người đó sẽ biết rằng không có
những điều như vậy, như cái giếng. Cái giếng thực sự là
gì? Nó chỉ là một lỗ hổng; nó là lỗ hổng trong đất để
qua nó người ta lọt vào đại dương; nó là lối mở nhỏ vào
đại dương lớn.
Ý nghĩa của giếng là gì? Nó là lối mở nhỏ, lối đi
qua đó bạn đi tới tiếp xúc với biển. Bạn sai nếu bạn nghĩ
về giếng dưới dạng nước; nước trong giếng là bản thân
đại dương; nó tới từ đại dương. Giếng chỉ là trung gian
qua đó bạn thấy biển. Và khi lối mở này được làm rộng
ra, tầm nhìn về biển sẽ được mở rộng theo cùng chừng
mực.
Nhưng nếu bạn đi ra khỏi giếng và lạc lối từ nó dần
dần, bạn sẽ mất đi cái nhìn về nước nữa. Thế thì bạn sẽ
thấy trơ trụi bờ giếng và miệng giếng; bạn sẽ chẳng bao
giờ có khả năng tìm ra bất kì liên kết nào giữa giếng và
đại dương. Và thế thì bạn sẽ từ chối tin rằng chúng là
một và như nhau.
Trong khi cuộc hành trình nội tâm sẽ đưa bạn tới sự
thống nhất và cái một, cuộc hành trình ngoại diên sẽ
làm điều ngược lại; nó sẽ đem bạn tới phân chia và đa
dạng. Nó sẽ đem bạn tới cái nhiều.
Nhưng sự kiện còn lại là vào lúc bắt đầu của tất cả
mọi kinh nghiệm có chiếc giếng, cá nhân, và đến cuối
cùng có đại dương, cái vô cá nhân hay Thượng đế.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda của năng
lượng là một, vũ trụ, phổ quát. Nếu bạn chìm sâu, kunda
sẽ dừng là của bạn; thế thì sẽ có duy nhất kunda vũ trụ.
Thế thì trong thực tế, chẳng cái gì sẽ là của bạn cả. Nó
là vậy trong chính bản chất của mọi điều.
Người hỏi: Thầy nói rằng tất cả cái gọi là giếng cá
nhân đều là một và chúng đã được nối với đại
dương vốn là trống rỗng. Nếu vậy, nhu cầu gì có đó
để phải qua sadhana hay kỉ luật tâm linh để là một
với cái trống rỗng hay cái hư không?
Bạn hỏi câu hỏi này bởi vì bạn nghĩ cái trống rỗng
là không có gì cả. Và tại sao ai đó phải làm cái gì chỉ để
đạt được cái không? Người ta phải làm cái gì đó nếu có
cái gì đó cần đạt tới. Bạn đánh đồng trống rỗng với
không có gì. Thế thì sadhana hay nỗ lực trở thành
không cần thiết cho bạn. Với bạn, nỗ lực là xứng đáng
tiến hành nếu bạn phải trở thành cái gì đó. Sao cố gắng
vì cái không có gì?
Nhưng bạn không biết rằng cái trống rỗng có nghĩa
là cái toàn thể. Bạn không biết rằng cái hư không là tất
cả mọi thứ có đó. Nó không ngụ ý không có gì; nó ngụ
ý cái tuyệt đối. Nhưng ngay bây giờ bạn không thể hiểu
nổi làm sao cái trống rỗng có thể là cái toàn thể, cái
tuyệt đối. Giếng có thể cũng nói, "Nếu tôi phải đi ra đại
dương chỉ để biết rằng tôi không là gì cả, thế thì sao tôi
phải đi?" Giếng là phải khi nói vậy. Và nó là phải khi từ
chối đi ra biển nếu điều đó ngụ ý rằng chung cuộc cái
giếng không tồn tại. 


Nhưng với thực tại hay chân lí điều đó không tạo ra
khác biệt gì nếu bạn không đi. Sự kiện là ở chỗ bạn
không có. Dù bạn có đi ra đại dương hay bạn không đi,
điều đó không làm thay đổi được thực tại. Thực tại là
bạn không phải là cái giếng; bạn là bản thân đại dương.
Bạn có thể chọn vẫn còn là cái giếng nhưng sự kiện là ở
chỗ bạn không hiện hữu; điều dối trá là bạn hiện hữu.
Và điều dối trá này sẽ tiếp tục làm đau bạn, ám ảnh bạn.
Nó sẽ tiếp tục làm cho cuộc sống của bạn bất hạnh và
khổ. Và nó sẽ giữ bạn trong xiềng xích, trong tù túng.
Trong dối trá này không có khả năng nào cho bất kì
niềm vui và phúc lạc nào.
Đúng là cái giếng khi đạt tới biển thì sẽ biến mất,
nhưng cùng với nó mọi khổ sở của nó, mọi lo âu của nó
cũng sẽ biến mất. Bởi vì tất cả mọi khổ sở và lo âu đều
gắn chặt không rời với việc nó là cái giếng, là cá nhân,
là bản ngã. Với người khác dường như là cái giếng đã
mất bản thân nó bởi việc đi vào đại dương; nó không trở
thành cái gì đó. Nhưng cái giếng sẽ không nghĩ vậy đâu.
Cái giếng sẽ nói, "Ai nói rằng tôi bị mất đi? Tôi đã trở
thành bản thân đại dương đấy chứ." Chính là cái giếng
hàng xóm, cái còn chưa tới thăm biển cả, chính nó mới
nói, "Anh định đi đâu vậy đồ ngốc? Sao anh đi tới nơi
anh sẽ thôi hiện hữu?" Nhưng biển đang đó sẽ nói, "Ai
nói điều đó nghĩa là không có gì? Đúng là tôi sẽ chết đi
như cái giếng, nhưng tôi sẽ được sinh ra như bản thân
đại dương."
Chọn lựa bao giờ cũng là liệu bạn muốn còn là cái
giếng hay bạn muốn trở thành đại dương. Chọn lựa này
là giữa cái nhỏ mọn và cái mênh mông, giữa bộ phận và
toàn thể, giữa tù túng và tự do. Nhưng đó là vấn đề kinh
nghiệm; đó không phải là triết lí chút nào. Và nếu cái
giếng sợ chết đi, nó sẽ phải phục vụ cho mọi mối quan
hệ với đại dương. Bởi vì chừng nào nó còn có quan hệ
với đại dương, nó bao giờ cũng phải đối diện với nguy
hiểm của việc biết rằng nó là chính đại dương.
Thế thì cái giếng sẽ phải phá vỡ mối ràng buộc ngay
cả với tất cả dòng nước ngầm và dòng suối, bởi vì
chung cuộc chúng đi ra cùng đại dương. Cái giếng sẽ
phải nhắm mắt lại với mọi phía và từ chối nhìn vào bên
trong, để cho nó không phải biết về sự vô hiện hữu
riêng của mình và sự hiện hữu của đại dương. Thế thì
nó bao giờ cũng nhìn ra ngoài và không bao giờ nhìn
vào bên trong. Thế thì nó sẽ muốn dòng suối là nhỏ nhất
có thể được; nó thậm chí còn muốn chúng khô đi và
chết đi. Nhưng thế thì trong cuộc hành trình dài bản
thân cái giếng sẽ chết, mặc dầu nó sẽ làm mọi điều để tự
cứu mình. Trong chính nỗ lực để tự cứu mình nó sẽ bỏ
mạng.
Jesus đã nói, "Người tự cứu mình sẽ chết, còn riêng
người sẽ được cứu là người chết đi một cách tự
nguyện."
Cho nên câu hỏi luôn luôn nảy sinh trong tâm trí
chúng ta, "Sao tôi phải đi tới chỗ tôi sẽ chết và biến
mất? Sao phải đi tới đó, nếu cái chết là chắc chắn?"
Nhưng nếu cái chết này là điều chắc chắn, thì nó chính
là điều đang đó. Và làm sao trên trái đất này bạn sẽ cứu
được bản thân mình qua nỗ lực gìn giữ cái ta như vậy?
Nếu đúng là bạn sẽ chết khi đi vào đại dương, thì làm
sao bạn sẽ cứu được bản thân mình như cái giếng, và
được bao lâu? Nếu, theo quan điểm của bạn, việc trở
thành đại dương khổng lồ có nghĩa là chết đi, làm sao
bạn sẽ sống sót như cái giếng nhỏ tí xíu và được bao
lâu? Chẳng mấy chốc thành giếng sẽ vỡ vụn; chẳng mấy
chốc nước của nó sẽ bay hơi, và chẳng mấy chốc nó sẽ bị che phủ bởi bụi và bẩn. Khi bạn không tồn tại như
đại dương bao la, làm sao bạn sẽ tồn tại như cái giếng tí
xíu được? Và được bao lâu?
Đây là cách nỗi sợ chết nảy sinh. Đây là nỗi sợ đeo
đuổi cái giếng. Cái giếng không muốn đi ra biển vì sợ bị
tiêu diệt. Do đó nó giữ một khoảng cách với biển và tiếp
tục là giếng. Nhưng cho dù thế thì nỗi sợ chết vẫn cứ
nắm bắt nó, bởi vì ngay khi nó làm mình xa lánh với
biển, thì cái chết kéo tới gần hơn và gần hơn nữa. Được
nối với đại dương thì còn có hi vọng và cuộc sống cho
cái giếng; cuộc sống của cái giếng không thoát được
việc nối với đại dương. Xa lánh khỏi đại dương cái chết
của nó là chắc chắn.
Đó là lí do tại sao chúng ta tất cả đều sợ chết; chúng
ta sợ rằng chúng ta phải chết và biến mất. Nhưng không
có việc thoát khỏi cái chết; điều đó là chắc chắn. Và chỉ
có hai cách chết. Một là cách bạn lấy bước nhảy vào đại
dương và chết. Loại chết này rất phúc lạc, bởi vì bạn sẽ
không thực chết, bạn sẽ trở thành bản thân đại dương.
Và loại chết khác xảy ra khi bạn cứ ương ngạnh bám lấy
cái giếng, và đằng nào cũng chết. Thế thì bạn trì trệ và
mục nát và chết với nước mắt lưng tròng.
Tâm trí chúng ta tham lam; nó bao giờ cũng theo
đuổi cái lợi nào đó, lợi nhuận nào đó, thành đạt nào đó.
Nó cứ hỏi, "Tôi sẽ được gì nếu tôi đi ra đại dương? Tôi
sẽ đạt được gì nếu tôi tìm kiếm samadhi hay niết bàn
hay cái trống rỗng?" Chúng ta bao giờ cũng hỏi chúng
ta sẽ thành đạt được gì, và chúng ta không bao giờ hỏi -
mà là điều người ta nên hỏi - "Làm sao chúng ta đánh
mất bản thân mình trong loài chuột này để được lợi và
thành đạt?" Trên bề mặt của nó, chúng ta đã đạt được
mọi thứ: chúng ta đã đạt được của cải, quyền lực, danh
vọng, mọi thứ. Và trong chính việc theo đuổi này chúng
ta đã đánh mất bản thân mình; chúng ta đã hoàn toàn
đánh mất mình. Chúng ta bây giờ có mọi thứ - ngoại trừ
mỗi bản thân mình.
Nếu các bạn hỏi tôi dưới dạng thành đạt, tôi sẽ nói:
nếu các bạn được chuẩn bị để mất thì các bạn sẽ đạt tới
bản thân mình. Và các bạn sẽ làm mất bản thân mình và
mất hoàn toàn nếu các bạn không được chuẩn bị để mất,
nếu các bạn cố gắng cứu. Đây là nghịch lí; rằng trong
nỗ lực của các bạn để cứu, các bạn sẽ cứu được mọi thứ
trừ bản thân mình. Các bạn sẽ cứu được mọi thứ và các
bạn sẽ làm mất linh hồn mình, điều mới thực là các bạn.
Người hỏi: Thầy nói rằng tỉ lệ của ô xi và các bô
nic thay đổi qua thở sâu. Xin thầy giải thích làm sao
điều này có liên hệ với việc đánh thức kundalini?
Có nhiều liên hệ giữa chúng. Một, chúng ta mang
bên trong mình tiềm năng của cả sống và chết. Trong
khi ô xi của hơi thở biểu thị cho tiềm năng sống của
chúng ta, thì các bô nic biểu thị cho tiềm năng chết. Khi
ô xi của bạn dần giảm đi và biến mất và bạn bị bỏ lại
với một mình các bô nic, bạn sẽ biến thành cái xác.
Điều đó cũng giống như chúng ta đốt một mẩu gỗ - nó
cháy chừng nào ô xi còn sẵn đấy. Có ngọn lửa, có cuộc
sống trong miếng gỗ chừng nào ô xi còn có sẵn cho nó.
Nhưng ngay khi ô xi của nó bị tiêu dùng, nó chết. Nó bị
thu lại thành tro, thành than, cũng là các bon. Các bon
bị bỏ lại sau không là gì ngoài lửa chết.
Cả hai yếu tố này đều vận hành bên trong chúng ta.
Nếu chúng ta có nhiều các bô nic, chúng ta sẽ trượt vào trạng thái hôn mê. Đó là lí do tại sao dễ ngủ trong đêm
hơn ban ngày, bởi vì trong đêm khối lượng các bô nic
tăng lên trong khi lượng ô xi giảm xuống. Đó là cách
chúng ta đi ngủ dễ dàng thế trong đêm và không dễ
dàng đến thế lúc ban ngày. Ban ngày khối lượng ô xi
trong không khí tăng lên bởi vì mặt trời, và mọi thứ
thức dậy và hoạt động. Và với mặt trời lặn, tỉ lệ ô xi
trong không khí giảm xuống đáng kể.
Đó là cách bóng tối và đêm đã trở thành biểu tượng
cho hôn mê và quán tính. Và mặt trời - là biểu tượng
cho ánh sáng và cuộc sống và năng lượng, bởi vì nó
đem tới cuộc sống cùng nó. Ban đêm mọi thứ trở thành
lờ phờ: hoa khép cánh của chúng lại, lá co lại, và tất cả
cuộc sống đi ngủ. Theo một nghĩa nào đó toàn thể trái
đất trong đêm trượt vào một loại cái chết tạm thời. Và
với việc đến của buổi sáng khác, hoa nở ra, cây bắt đầu
lay động, lá trở nên sống động, cuộc sống được thức
dậy, chim tung cánh bay và cả trái đất trở thành ngày
hội. Cái chết tạm thời của thời gian đêm biến mất và
cuộc sống trở lại với trái đất.
Cùng điều đó xảy ra bên trong bạn. Khi lượng ô xi
trong bạn tăng lên, năng lượng tiềm tàng của bạn bắt
đầu thức dậy. Với mọi loại năng lượng tiềm tàng để
đánh thức dậy, ô xi là cái cần phải có. Chúng ta có thể
giữ cho người hấp hối còn sống thêm chút ít bằng sự hỗ
trợ của ô xi. Người đó sẽ chết ngay nếu ống ô xi bị dứt
ra khỏi ngực. Nhưng với ô xi người đó có thể được giữ
cho sống thêm vài ngày, vài tháng, thậm chí vài năm,
bởi vì sinh lực đã bị yếu hoàn toàn của người đó được
làm sống lại bởi ô xi. Chúng ta giữ bản thân cái chết
không tới bằng sự giúp đỡ của ô xi.
Ngày nay hàng nghìn người trên khắp châu Âu và
Mĩ đang được giữ cho sống bằng ô xi được bơm vào họ
từ bên ngoài. Họ đáng ra thì đã chết từ lâu rồi nhưng
nhờ có các bình khí nén ô xi mà vẫn sống. Bây giờ việc
cho phép người mắc bệnh nan y chết đã là một trong
những vấn đề quan trọng ở các nước phương Tây. Việc
cho phép người bệnh chết có nghĩa là con người phải có
quyền được chết khi người đó phải chết. Với sự giúp đỡ
của ô xi, những thiết bị hiện đại, các bác sĩ có thể giữ
cho ai đó sống thật lâu- mặc dầu người đó chết là điều
tốt. Cho nên cho phép người bệnh được chết đã trở
thành vấn đề lớn. Vấn đề của các bác sĩ là ở chỗ nếu bác
sĩ cho phép người đó chết thì bác sĩ sẽ bị mọi người nói
là phạm tội giết người. Đó sẽ là một loại giết người.
Cho nên bác sĩ sẽ giữ cho một người già tám mươi tuổi
tàn tật vẫn sống nhờ ô xi. Nếu bác sĩ không làm như vậy
thì bác sĩ sẽ bị buộc tội giết người, cho nên bác sĩ sẽ giữ
cho năng lượng tàn tạ này sống bằng việc thêm ống ô xi
vào ngực.
Các bài tập thở như pranayam, bhastrika và điều tôi
gọi là việc thở nhanh và mãnh liệt để làm gì? Bạn thở
trong hơi thở cuộc sống nhiều tới mức tiềm năng của
năng lượng tiềm tàng của bạn được tăng cường và nó
bắt đầu thức tỉnh. Đồng thời, với việc thở sâu và nhanh
hình mẫu quán tính ăn sâu hay giấc ngủ bị phá vỡ.
Các bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe câu chuyện tôi sắp
kể cho các bạn.
Quãng bốn năm trước một sư Phật giáo tới tôi từ
Ceylon. Ông ấy đã đi mà không ngủ trong ba năm. Ông
ấy được cho đủ mọi loại thuốc chữa trị, nhưng chẳng có
tác dụng. Thuốc không thể có tác dụng bởi vì khất sĩ
này đã thực hành anapanasati yoga - một loại kỉ luật thở đặc biệt đã thành mốt trong các Phật tử. Nó bao
gồm việc quan sát việc thở sâu của người ta hết ngày nọ
tới ngày kia. Bây giờ người này, người đã dạy cho ông
ta anapanasati yoga không biết rằng nếu người ta quan
sát hơi thở sâu của mình trong hai mươi bốn giờ một
ngày, thì người đó sẽ mất giấc ngủ của mình hoàn toàn.
Thế thì sẽ không thể nào làm cho người đó ngủ được.
Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, khất sĩ này đã được
cho thuốc ngủ trong khi ông ta thực hành anapanasati.
Điều đó tạo ra xung đột lớn trong thân thể ông ấy và
ông ấy thực sự thành đống lộn xộn. Trong khi thuốc
đang cố gắng đưa giấc ngủ vào ông ta, việc quan sát
thường xuyên hơi thở lại giữ cho ông ta thức. Kết quả là
một loại bế tắc, khủng hoảng đã được tạo ra trong thân
thể ông ta, như sẽ xảy ra trong ô tô nếu ga và phanh
được nhấn đồng thời. Hiển nhiên là khất sĩ này trong
khổ sở khủng khiếp.
Ai đó kể cho ông ta về tôi và do vậy ông ta tới.
Ngay khi tôi thấy ông ấy tôi biết rằng ông ta bị mắc giữ
trong một loại điên khùng, ông ta đã tự đẩy mình vào
một tình thế không thể được. Tôi yêu cầu ông ta dừng
anapanasati yoga ngay lập tức. Nhưng ông ta muốn biết
anapanasati có liên quan gì tới việc mất ngủ của ông ta.
Ông ta chẳng có ý tưởng gì rằng nhận biết thường
xuyên về thở sâu đã làm tăng khối lượng ô xi của ông ta
nhiều tới mức giấc ngủ của ông ta đã tan biến. Tôi cũng
bảo ông ta rằng nếu ông ta không thể từ bỏ được
anapanasati, thì ông ta phải dừng uống thuốc an thần và
đi mà không ngủ. Nếu ông ta còn tiếp tục anapanasati,
thì ông ấy có thể dễ dàng thực hiện mà không ngủ; điều
đó sẽ không làm hại gì chút nào cho ông ấy.
Khi khất sĩ này dừng anapanasati chỉ trong tám
ngày, giấc ngủ của ông ta trở lại với ông ta, và ông ta
không dùng thuốc an thần nào.
Bất kì việc tăng các bô nic nào cũng không tránh
khỏi việc tăng giấc ngủ của chúng ta. Và mọi thứ tạo ra
các bon trong thân thể chúng ta đều gửi năng lượng đã
ngủ của chúng ta vào giấc ngủ sâu hơn, nó làm sâu sắc
hơn vô thức của chúng ta. Đó là lí do tại sao, khi dân số
của thế giới tăng lên, việc chia sẻ ô xi của mọi người
giảm xuống theo cùng mức đó. Và điều đó bổ sung cho
vô thức của chúng ta - vốn đã quá nhiều. Một thời điểm
có thể tới sớm khi khả năng đánh thức của chúng ta sẽ ở
vào mức tối thiểu.
Bạn cảm thấy tươi mát vào buổi sáng. Bạn cảm thấy
tươi mát khi bạn đi vào rừng hay tới thăm bãi biển. Và
bạn trở nên lờ phờ và đờ đẫn khi bạn ở bãi chợ, khi bạn
trong đám đông. Tại sao? Đó là vì có nhiều các bô nic
và thiếu ô xi. Đúng là ô xi đang được tạo ra vào mọi
lúc, nhưng khi đám đông tiêu thụ nhiều ô xi hơn, điều
đó đưa tới việc khan hiếm ô xi ở bãi chợ. Đi vào chỗ
đông người - rạp chiếu phim hay đền chùa - và chẳng
mấy chốc bạn sẽ lọt vào vòng bắt giữ của lờ phờ và vô
nhạy cảm. Còn đi lên núi hay ra vườn, hay ra sông, và
bạn sẽ cảm thấy tỉnh táo và sống động và hạnh phúc.
Có ý định lớn trong việc tăng lượng ô xi của bạn.
Nó làm thay đổi sự cân bằng bên trong của bạn; nó làm
cho bạn thức tỉnh và nhận biết hơn, ít buồn ngủ và vô ý
thức hơn. Và nếu khối lượng ô xi tăng lên nhanh chóng
và đột ngột và bất ngờ, nó sẽ tạo ra thay đổi căn bản
trong cân bằng bên trong của bạn. Nó sẽ giống như một
phía của chiếc cân lên cao và phía bên kia chúi xuống
chạm đất. Và nếu thay đổi này được đưa tới trong một cú, bạn sẽ kinh nghiệm nó rất nhanh và đột ngột. Thay
đổi dần dần và chậm chạp bạn khó cảm thấy được.
Đó là lí do tại sao tôi liên tục nhấn mạnh vào việc
thở nhanh và mạnh để cho bạn đem tới thay đổi mau lẹ
đến mức bạn chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn
khác chỉ trong mười phút, và cũng quan sát bản thân
quá trình thay đổi. Chỉ khi sự việc thay đổi mau lẹ và
đột ngột nó mới có thể được quan sát một cách rõ ràng
như vậy.
Chẳng hạn, mỗi người trong chúng ta đều chuyển từ
thời thơ ấu sang thời thanh niên và từ tuổi thanh niên
sang tuổi già, nhưng quá trình này chậm chạp và dần
dần tới mức chúng ta chẳng bao giờ biết đích xác khi
nào chúng ta trở thành thanh niên, khi nào chúng ta trở
thành người già. Nếu ai đó hỏi đích xác ngày tháng khi
nào tôi trở thành già, tôi không thể nói được. Người già
bị lẫn lộn, người đó không hiểu rằng mình bây giờ già
rồi, bởi vì giữa tuổi thanh xuân và tuổi già của người đó
không có lỗ hổng nào cả. Tương tự, đứa trẻ không biết
rằng nó đã đến tuổi; nó tiếp tục cư xử như đứa trẻ.
Trong khi nó trông như người lớn đối với người khác,
thì bản thân nó vẫn còn không nhận biết về sự kiện này.
Trong khi bố mẹ nó trông đợi nó nhận lấy trách nhiệm
của nó trong gia đình, thì nó vẫn coi mình là đứa bé.
Vấn đề là vậy bởi vì việc chuyển đổi từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác không xảy ra một cách thình
lình; nó rất im lặng và chậm chạp. Theo cùng cách này
người già tiếp tục cư xử cứ dường như người đó là
thanh niên; người đó không nhận biết rằng thay đổi đã
xảy ra trong đời mình. Và làm sao người đó có thể biết
được?
Chuyển đổi bất thần và đột ngột là cần có để người
ta biết nó. Nếu có một ngày và giờ cố định cho việc
chuyển đổi này xảy ra, sẽ không có chỗ cho lẫn lộn. Và
thế thì sẽ không cần phải nhắc nhở người đã lớn hay
người già về trạng thái đúng của người đó.
Trong thiền tôi nhắm vào thay đổi đột ngột và mạnh
mẽ tới mức bạn biết rõ ràng sự khác biệt giữa tâm thức
ngủ của bạn và thành phần thức tỉnh tương ứng của nó.
Nó phải đi tới như một bước nhảy, bất thình lình, để cho
bạn biết rõ rằng biến đổi đã xảy ra. Việc biết này là có
giá trị; nó sẽ giúp bạn rất nhiều. Bởi lí do này tôi ủng hộ
những kĩ thuật đem lại biến đổi đột ngột và bất thần.
Nếu nó cần thời gian dài, bạn sẽ chẳng bao giờ biết nó.
Và dốt nát này có nguy hiểm của nó. Nguy hiểm là ở
chỗ nếu bạn không biết điều gì đã xảy ra, nó sẽ không
làm sâu sắc cho hiểu biết của bạn như nó đáng làm.
Điều thường xảy ra là ai đó đi tới kinh nghiệm tâm
linh nào đó một cách vô nhận biết và vô nỗ lực, và thay
đổi lại chậm và im lặng tới mức người đó không biết nó
tất cả là cái gì. Thế thì người đó cố gắng diễn giải nó
theo cách thức cũ của mình - mà hầu hết là sai - bởi vì
toàn cảnh cần thiết để hiểu nó bị thiếu. Nhiều lần điều
xảy ra là bạn ở rất gần một kinh nghiệm tâm linh mà
bạn bỏ qua nó, bởi vì bạn diễn giải nó theo cách thả neo
cũ của mình. Tất cả mọi điều này xảy ra chỉ bởi vì thay
đổi xảy ra từ từ và chậm chạp thế.
Tôi biết về một người dễ dàng nâng một con hà mã
lên bằng hai tay. Hà mã là con vật to lớn và nặng đáng
kể. Nông trại súc vật của anh ta có nhiều trâu trong đó.
Người này bắt đầu nâng con hà mã con và tiếp tục nâng
nó hàng ngày trong một thời gian dài. Do đó khi con hà
mã này lớn lên, dần dần khả năng của người đó để nâng nó lên cũng tăng lên theo cùng nhịp. Và bây giờ người
đó có thể nâng bất kì con hà mã lớn nào - điều đơn giản
có vẻ như phép màu! Bản thân người này không nghĩ
điều đó là phép màu, bởi vì người đó đã thu được khả
năng này dần dần qua một thời gian dài. Nhưng tất cả
mọi người khác đều coi đó là phép màu thực, bởi vì họ
có toàn cảnh để nhìn nó. Họ biết bản thân họ không thể
làm được điều người này làm rất dễ dàng.
Chính bởi lí do này mà tôi dạy các bạn cách thiền
động và mạnh mẽ này.
Và ô xi có ý nghĩa lớn. Nó là thứ cực kì quí giá. Bạn
càng rót đầy thân thể mình bằng ô xi, việc chuyển đổi
của bạn từ thân thể sang linh hồn càng nhanh. Nếu bạn
hiểu điều đó đúng, bạn sẽ biết rằng thân thể mình là đầu
chết của bạn; thân thể là phần của bạn biểu lộ ra nó bởi
vì nó là chết. Phần này của bạn, đang chết, đã bị làm
cứng lại và do đó nó là thấy được. Còn linh hồn là phần
khác của bạn vẫn tiếp tục mang tính hay thay đổi và tinh
tế, loãng và nhẹ lâng lâng; nó không thể được giữ chắc.
Một lượng ô xi đủ, điều đem lại việc thức tỉnh và cuộc
sống cho bạn, sẽ tạo ra một khoảng cách rõ rệt giữa thân
thể bạn và linh hồn. Thế thì bạn sẽ biết rõ ràng chúng là
hoàn toàn khác lẫn nhau, mặc dầu chúng là hai phần của
cùng một bản thể - bạn.
Do đó, việc thở đóng vai trò lớn trong việc đánh
thức kundalini.
Kundalini là năng lượng ngủ của bạn. Bạn không
thể đánh thức được nó với sự giúp đỡ của các bô níc.
Thay vì thế, các bon sẽ làm giấc ngủ của nó sâu hơn. Ô
xi là sự trợ giúp lớn lao trong việc đánh thức kundalini.
Đây là lí do mà chúng ta bao giờ cũng coi thiền sáng có
tầm quan trọng lớn lao thế. Lí do là thế này: rằng vào
buổi sáng thậm chí hơi thở nhỏ cũng mang một khối
lượng lớn ô xi cùng nó. Trái đất thường ở vào trạng thái
phi thường và rất duy nhất trong vòng trọn một giờ sau
khi mặt trời mọc, và lấy ưu thế của tình huống này, buổi
sáng đã được chọn là thời gian tốt nhất cho thiền trên
khắp thế giới.
Bạn càng gõ búa mạnh vào kundalini bằng việc thở
nhanh và mãnh liệt, nó sẽ càng nhanh chóng thức dậy.
Nhưng khó khăn là ở chỗ chúng ta không thấy rõ ràng
nó vận hành thế nào, và do đó ý nghĩa của thở sâu bị
mất đi với chúng ta. Chẳng hạn, chiếc đèn đang cháy.
Chúng ta thấy dầu trong bình bằng đất, chúng ta thấy
bấc và diêm thắp sáng nó. Chúng ta cũng thấy ngọn lửa
và ánh sáng nảy sinh từ nó. Nhưng chúng ta không thấy
điều thực: ô xi vốn là phần sống còn của toàn bộ hoạt
động. Thực sự chính ô xi mới đốt cháy và trở thành ánh
sáng. Dầu, bấc, diêm đều không quan trọng đến thế.
Dầu, bấc và diêm là phần thấy được của chiếc đèn,
chúng tạo thành thân của đèn. Nhưng phần không thấy
được, ô xi, cái tạo ra linh hồn của chiếc đèn và cái thực
sự đốt cháy, là không thấy được.
Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối một gia đình đi
tới thăm nhà bạn, để lại nhà một đứa bé trông coi nhà.
Có một ngôi đền nhỏ trong ngôi nhà đó và một chiếc
đèn đang cháy trước bức tượng thượng đế nào đó. Đứa
trẻ đã được yêu cầu đặc biệt trông nom cho ngọn đèn đó
không tắt. Trong lúc đó, một cơn gió mạnh bắt đầu quét
qua, và đứa trẻ đâm ra lo lắng về chiếc đèn. Thế là nó
đem cái bát thủy tinh tới và che cho đèn bằng chiếc bát
này. Mặc dầu đèn được bảo vệ kĩ, vậy là ngọn lửa tắt
ngay lập tức. Có lẽ chiếc đèn có thể đã tồn tại được với
cơn gió, nhưng nó không thể tồn tại được khi thiếu ô xi;
nó chết trong một giây.

Ô xi, cái thực sự là lực sống còn, là không thấy
được. Điều chúng ta gọi là cuộc sống là quá trình ô xi
hoá; nó cũng giống như việc đốt cháy ngọn đèn. Nói
theo thuật ngữ khoa học, cuộc sống là ô xi đang cháy.
Dù nó là trong con người hay trong cây cối hay trong
ngọn đèn hay trong bản thân mặt trời, bất kì chỗ nào có
việc ô xi hoá thì đều có cuộc sống. Cho nên càng ô xi
hoá nhiều, thì ngọn lửa cuộc sống của bạn càng sáng
hơn. Và kundalini là ngọn lửa của cuộc sống này. Ô xi
hoá làm cao thêm việc bốc lửa và luồng kundalini. Cho
nên ô xi là rất có hiệu quả với kundalini.
Người hỏi: nhiều nhà yoga dùng hang núi rất thiếu
ô xi. Làm sao hang động có ích trong việc đạt tới
samadhi hay thống nhất với cái tuyệt đối?
Thực tế nhiều điều cần có trước khi ai đó có thể đi
vào trong hang để thực hành yoga. Nếu những yêu cầu
này không được đáp ứng, nhà yoga trong hang sẽ không
bao giờ đạt tới được samadhi; người đó thay vì thế sẽ
trải qua việc tăng thêm vô ý thức. Điều người đó sẽ lấy
thay cho samadhi sẽ không là gì ngoài giấc ngủ và vô ý
thức sâu hơn. Một mình người đó có thể dùng cái hang
có nhiều ô xi cho bản thân mình trong việc thực hành
dư thừa pranayam tới mức cái hang đó không thành vấn
đề gì với người đó.
Nếu một người đã trải qua pranayam về chiều sâu,
nếu mọi giọt máu của người đó, mọi thớ thịt của thân
thể người đó đã được cấp đủ ô xi, người đó có thể chôn
vùi mình dưới đất trong tám ngày và bước ra khỏi đó
vẫn còn sống. Lí do là đơn giản thế này: người đó có đủ
ô xi dự trữ để kéo dài cuộc sống người đó trong tám
ngày. Thông thường, chúng ta không có ô xi dư thừa
nào theo mình; chúng ta ít khi quản lí điều đó. Nếu bạn
đi và nằm dưới đất bên cạnh nhà yoga mà không có
thực hành thích hợp về pranayam, bạn sẽ chết vào ngày
thứ tám khi nhà yoga bước ra còn sống. Nhà yoga có dự
trữ lượng ô xi cần để giữ cho người ta sống trong tám
ngày chôn vùi dưới đất. Người như vậy sẽ dùng khéo
cái hang cho việc thiền và sẽ được lợi nhiều. Vì người
đó không có vấn đề gì với ô xi, nên người đó sẽ thu
hoạch được ích lợi khác mà chỉ hang động mới đem lại
cho nhà yoga.
Cái hang hữu dụng bởi vì nó cung cấp nhiều loại
bảo vệ cho người tìm kiếm. Nó không chỉ bảo vệ người
đó khỏi sự ồn ào và hối hả của thế giới bên ngoài; nó
cũng bảo vệ người đó khỏi những rung động đa dạng
gây thương tổn nhà yoga. Cái hang thuộc một loại đá
đặc biệt có nhiều ý nghĩa. Đá đặc biệt, như đá cẩm
thạch, ngăn cản nhiều rung động không cho đưa vào
trong hang. Đó là lí do tại sao đá cẩm thạch được dùng
rộng rãi trong việc xây dựng đền chùa. Bởi vì đá cẩm
thạch mà những rung động nào đó bị giữ lại không vào
trong đền chùa.
Cho nên đá cẩm thạch không chỉ được dùng với
mục đích trang trí đâu - như người ta vẫn hiểu chung
chung như vậy - nó thực sự có ý nghĩa tâm linh lớn đã
được khám phá ra qua thực nghiệm lâu dài. Có những
đá hấp thu những loại rung động đặc biệt nào đó, do vậy
ngăn cản chúng khỏi đi vào đền chùa. Một số đá khác
làm lệch hay đẩy lùi những rung động này. Và có những
đá hấp dẫn các rung động có ích cho kỉ luật tâm linh.
Trong quá khứ, hang động với những hình dạng và kích cỡ đặc biệt đã được khắc chạm, bởi vì thiết kế của hang
cũng quan trọng cho sadhana.
Nhưng chúng ta chẳng có ý tưởng gì, bởi vì toàn bộ
khoa học của nó đã bị thất lạc. Khi chúng ta làm ra
chiếc xe ô tô, chúng ta làm ra nó với thiết kế riêng. Điều
này được thực hiện với một mắt dành cho tốc độ của xe.
Chiếc xe phải được thiết kế sao cho nó xé không khí và
không tranh đấu với không khí. Nếu chiếc xe phẳng ở
phía trước, tốc độ của nó sẽ bị gò ép. Phía trước phải
làm sao để nó cắt qua không khí, không bị cản lại như
mũi tên. Và bởi vì chiếc xe cắt qua không khí với tốc độ
cao, nên không khí xô vào chỗ chân không được tạo ra
đằng sau xe, bổ sung thêm cho tốc độ.
Bạn phải đã thấy chiếc cầu bắc qua sông Hằng tại
Allahabad; nó được xây dựng có khó khăn lớn. Dòng
chảy của sông mạnh tới mức nó quét đi mọi cột trụ của
chiếc cầu mà các kĩ sư đã thăm dò với nỗ lực lớn để xây
dựng. Hết cột nọ tới cột kia phải được xây dựng và xây
lại. Nhưng người xây dựng gặp phải một khó khăn đặc
biệt với một cột trụ đặc biệt; gần như không thể xây
được nó. Khi tất cả các cột khác đã sẵn sàng, cái cột này
vẫn tiếp tục thách đố công nghệ hiện đại. Thế rồi các kĩ
sư động tới một kế hoạch khéo léo: Họ thiết kế cây cột
trụ này theo hình dáng chiếc giầy và nó trụ lại dòng
nước mạnh mẽ. Nếu bạn quan sát chiếc giầy của mình
bạn sẽ thấy hình dáng của nó giúp cho bạn trong việc
bước đi; nó cắt qua thông khí. Cho nên cột trụ kiểu
chiếc giầy có thể hấp thu được chấn động của dòng
chảy xô tới của sông Hằng.
Đó là lí do tại sao hang động có hình dáng và kích
cỡ đặc biệt và loại đá đặc biệt trong chúng.
Người tìm kiếm có thể phóng rung động của mình
tới một giới hạn nào đó của không gian của mình, và
qua thực nghiệm người đó sẽ tự biết mình cần bao nhiêu
không gian để an toàn cho việc thực hiện sadhana của
mình. Chẳng hạn, nếu người đó đi tới biết rằng mình có
thể rót đầy một diện tích sáu mươi tư phít vuông (gần 6
mét vuông) bằng rung động riêng của mình, thì không
gian đó sẽ được xem như an toàn cho người đó. Thế thì
người đó sẽ coi cái hang của mình phải có số lỗ ít nhất -
có lẽ là một sẽ đủ. Và một cửa này phải có hình dạng và
kích cỡ riêng của nó; nó phải bảo toàn rung động của
người tìm kiếm và đồng thời giữ các rung động không
mong muốn khác không cho vào hang.
Nếu một số người tìm kiếm đã dùng một hang đặc
biệt cho sadhana này, cái hang đó thu được ý nghĩa phi
thường, và người tìm kiếm mới có thể rất được lợi bởi
nó. Do đó một số hang đã được dùng trong nhiều năm
không gián đoạn.
Khi lần đầu tiên hang ở Ajanta được khai quật,
chúng tất cả đều đầy bùn. Và điều đó đã được thực hiện
với một ý định, mặc dầu mọi người chịu trách nhiệm
cho công việc khai quật đã chẳng có ý tưởng gì về nó.
Họ ngạc nhiên thấy rằng mọi hang đều đã được chất đầy
và bít kín cẩn thận bằng bùn nhão. Chúng trông hệt như
các tảng đá núi, nơi cây cỏ mọc tự do. Điều trở thành
cần thiết là lấp đầy các hang đó bằng bùn nhão, bởi vì
thời điểm đã tới khi người tìm kiếm trở nên hiếm hoi,
và tính hữu dụng của chúng phải được bảo tồn cho thời
tương lai khi những người tìm kiếm mới có sẵn, những
người sẽ cần tới chúng.
Các hang ở Ajanta chưa bao giờ được ngụ ý dành
cho khách du lịch và người tham quan những người hiện tại đang dùng chúng. Chúng không dành cho khách
thăm quan; khách thăm thực tế đã phá huỷ mọi thứ quí
giá về chúng. Bây giờ chúng không có giá trị tâm linh.
Mặc dầu hang thiếu ô xi, nó có ưu thế khác cho
người tìm kiếm. Và sadhana hay kỉ luật tâm linh là việc
phức hợp; có nhiều khía cạnh của nó. Cái hang là tốt
cho người tìm kiếm cao cấp. Và người tìm kiếm không
phải bị hạn chế ở trong hang hết ngày nọ tới ngày kia;
người đó thỉnh thoảng còn đi ra ngoài. Một phần của
sadhana của người đó được thực hiện bên ngoài hang,
nếu điều đó là cần thiết phải làm như vậy. Người đó
dùng cả hai - không gian bên trong và bên ngoài hang.
Các đền chùa và đền thời Hồi giáo đã được thiết kế
và xây dựng theo chính ý định này; chúng được ngụ ý
bảo tồn những loại rung động và năng lượng đặc biệt,
điều có ích cho sự phát triển của người tìm kiếm.
Thỉnh thoảng các bạn thấy, khi tới thăm một chỗ,
rằng ý nghĩ của các bạn bỗng nhiên thay đổi, mặc dầu
các bạn không biết rằng chỗ đặc biệt này có dúng tay
vào đó. Các bạn cho rằng sự thay đổi đã xuất hiện bởi
chính nó. Nhiều lần các bạn thấy rằng khi tới thăm một
người đặc biệt, các bạn thành người khác - khác với
điều các bạn đã là. Các bạn thấy rằng một khía cạnh
khác của cá tính bạn đã bước ra phía trước. Thế rồi các
bạn cho rằng đấy chỉ là việc thay đổi tâm trạng. Nhưng
vấn đề không đơn giản thế.
Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành theo hướng
này. Chẳng hạn, có các kim tự tháp ở Ai Cập. Các điều
tra chuyên sâu đã được thực hiện để tìm ra kim tự tháp
là gì, tại sao chúng được làm ra và để làm gì. Ý định
của việc xây dựng những kim tự tháp khổng lồ như vậy
là gì trong vùng đất hoang khô cằn, trong sa mạc? Bao
nhiêu tiền đã được chi ra cho việc xây dựng của họ?
Bao nhiêu năng lượng con người đã đổ vào để làm ra
chúng? Nếu các cấu trúc khổng lồ như vậy mà chỉ được
ngụ ý để chôn vùi người chết, như chúng dường như
vậy, thế thì đấy là lãng phí khinh suất về tiền bạc và
năng lượng con người.
Chân lí là ở chỗ các kim tự tháp này đã được xây
dựng đặc biệt cho những ý định tâm linh; chúng là chỗ
mà sadhana tâm linh có thể được tiến hành với sự thoải
mái và ưu thế lớn lao. Và nó được dành cho các ý định
tâm linh mà các thi thể chết của những người đặc biệt
được gìn giữ trong chúng.
Ở Tây Tạng, thi thể chết của các bồ tát vĩ đại,
những linh hồn cao cấp, một số trong chúng có hàng
nghìn tuổi - đã được gìn giữ trong những hang rất sâu
và bí mật. Thân thể mà Phật đã có không phải là thân
thể thường. Ngay cả thân thể vật lí, với nó linh hồn vĩ
đại của Phật đã được liên kết với trong tám mươi năm,
cũng không phải là vật bình thường. Nó quí giá và vĩ
đại vô cùng. Thân thể này đã hấp thu và đồng hoá
những rung động hiếm hoi của Phật trong tám mươi
năm. Khó mà nói liệu một hiện tượng như thế có xảy ra
trên trái đất này lần nữa không.
Sau khi bị đóng đinh thân thể chết của Jesus đã
được giữ trong hang. Nó được dự định đem đi chôn vào
ngày hôm sau, nhưng người ta không tìm thấy nó nữa.
Điều đó tiếp tục là bí ẩn cho người Ki tô giáo làm sao
thân thể chết của ông ấy biến mất, và điều gì đã xảy ra
cho nó. Có câu chuyện về sự phục sinh của ông ấy nói
rằng các đệ tử của ông ấy đã thấy Jesus vài ngày sau
việc đóng đinh. Nhưng câu hỏi vẫn còn lại: điều gì đã xảy ra cho Jesus sau khi ông ấy được phục sinh và khi
nào ông ấy chết lần nữa?
Nhưng chính điều bí ẩn là chẳng có gì được biết về
Jesus sau việc phục sinh cả. Người Ki tô giáo không có
giải thích bất kì điều gì về Jesus được phục sinh. Sự
kiện là ở chỗ thân thể chết của Jesus quí giá tới mức nó
lập tức phải bị bỏ khỏi hang để đặt vào chỗ nó có thể
được gìn giữ an toàn trong thời gian dài. Và thông tin
này phải được canh giữ bí mật để giữ an toàn cho thân
thể chết. Một người như Jesus thực sự hiếm hoi trong cả
lịch sử.
Cho nên các kim tự tháp này của Ai Cập - kể cả cấu
trúc của chúng, sân của chúng, các tính năng đặc biệt
của chúng - đều có nghĩa và ý nghĩa cao.
(Tại đây trong câu trả lời cho câu hỏi không nghe
được Osho nói rằng đó là vấn đề khác và Thầy sẽ thảo
luận nó riêng ra.)
Người hỏi: khi chúng tôi vào thiền sâu, thân thể trở
thành trơ ì và việc thở yếu, điều có thể gây ra thiếu
ô xi trong thân thể. Xin thầy giải thích hiện tượng
này trong hoàn cảnh của thiền và samadhi - như
cực lạc.
Thực tế, khi việc thở đã đạt tới mạnh mẽ đầy đủ của
nó và một lỗ hổng được tạo ra giữa bạn và thân thể bạn,
khi việc ngủ của bạn và phần thức dường như tách biệt
lẫn nhau, thế thì các bạn sẽ bắt đầu đi tới phần thức tỉnh
của mình. Tại giai đoạn này thân thể thôi không cần ô xi
thêm nữa. Bây giờ điều tốt là thân thể đi vào giấc ngủ,
là nó trở thành trơ ì, cũng như chết. Bây giờ sinh lực
của bạn không hướng tới thân thể nữa, thay vì thế nó bắt
đầu chuyển tới linh hồn.
Chính thân thể mới cần ô xi, linh hồn không có nhu
cầu thực về ô xi. Bạn có theo được tôi nói không? Thân
thể cần ô xi; và khi sinh lực của bạn chuyển tới linh
hồn, thân thể cần lượng ô xi tối thiểu - chỉ đủ để giữ cho
nó sống. Nó không cần quá mức tối thiểu, và điều đó sẽ
cản trở tiến bộ của bạn nếu thân thể nhận được nhiều ô
xi tại giai đoạn này.
Do đó điều đáng phải làm là thở chậm lại và trở nên
nhẹ và yếu. Việc thở là hữu dụng để đánh thức năng
lượng, và một khi năng lượng này thức dậy, việc thở
dừng tính hữu ích đó. Bây giờ thân thể bạn có thể tồn tại
với việc thở tối thiểu. Và do vậy sẽ có một khoảnh khắc
nó sẽ đi tới dừng hoàn toàn. Nó phải dừng lại.
Trong thực tế, khi bạn đạt tới điểm cân bằng đúng,
điều chúng ta gọi là samadhi, việc thở sẽ dừng lại.
Nhưng chúng ta không có ý tưởng gì về việc dừng thở
này nghĩa là gì. Nếu bạn muốn biết điều đó ngay bây
giờ bạn có thể dừng việc thở lại, nhưng điều đó sẽ là vô
nghĩa. Các bạn không thể biết được nó bằng kinh
nghiệm qua việc cố ý dừng nó. Điều này sẽ không là
cùng kinh nghiệm mà bạn có trong thiền sâu.
Chúng ta đều quen thuộc với hai cách thở: thở vào
và thở ra. Nhưng một khoảnh khắc tới, và nó tới tại đỉnh
cao của thiền, khi việc thở dừng lại nửa chừng giữa hít
vào và thở ra. Khi khoảnh khắc như vậy tới các bạn sẽ cảm thấy rằng việc thở của mình đã dừng và rằng bạn
sắp chết. Chắc chắn những khoảnh khắc này sẽ tới.
Khi các bạn đi sâu hơn vào thiền, việc thở của các
bạn trở thành ngày một chậm hơn; dường như việc thở
đã loãng ra. Đấy là vì các bạn không cần ô xi nữa tại
chiều sâu của thiền. Ô xi là cần tại giai đoạn khởi đầu
của nó. Điều đó cũng giống như tôi vặn chiếc chìa khoá
trong ổ khoá để mở cửa. Tôi có cần tiếp tục vặn chìa
ngay cả sau khi nó đã làm xong việc của nó không? Bây
giờ chiếc chìa là vô dụng. Nó treo trong ổ khoá và tôi ở
bên trong phòng. Bạn có thể hỏi tại sao tôi không dùng
chìa khoá khi tôi ở trong phòng. Không, chìa khoá đã
phục vụ cho ý định của nó; nó chỉ có nghĩa cho việc đi
vào phòng.
Chừng nào mà kundalini còn chưa thức dậy, các
bạn sẽ phải dùng chìa khoá của việc thở với tất cả sức
mạnh của bạn. Nhưng ngay khi nó được đánh thức, việc
thở trở thành không cần thiết. Bây giờ, khi bạn đang
trong cuộc hành trình nội tâm, thân thể bạn sẽ yêu cầu
rất ít ô xi. Và thế thì bạn không phải dùng ý chí của
mình để dừng việc thở; nó sẽ chậm dần lại tới chỗ dừng,
và một khoảnh khắc sẽ tới khi mọi thứ sẽ dường như đã
đi tới sự dừng lại. Trong thực tế, đây là khoảnh khắc đó
- khi việc thở dừng lại nửa chừng giữa hít vào và thở ra
- khi bạn ở vào trạng thái của cân bằng hoàn toàn, khi
bạn ở trong cực lạc hay samadhi. Trong chính khoảnh
khắc này bạn biết sự tồn tại - không phải cuộc sống.
Hiểu khác biệt này giữa việc biết cuộc sống và việc
biết sự tồn tại đi. Trong samadhi bạn biết sự tồn tại -
không phải cuộc sống. Tri thức của bạn về cuộc sống
được nối với việc thở của bạn, bởi vì cuộc sống là ô xi,
nó là một phần của hơi thở. Trong samadhi bạn biết sự
tồn tại nơi việc thở hoàn toàn không cần thiết. Sự tồn tại
là mênh mông. Sự tồn tại này bao gồm mọi thứ - nó bao
gồm hiện hữu của bạn, và núi non và các vì sao và toàn
thể không gian. Không có chuyển động bất kì cái gì;
mọi thứ đều tĩnh tại và nghỉ ngơi trong sự tồn tại. Thậm
chí không một gợn sóng nảy sinh trong biển cả bình
yên, thanh thản và tĩnh lặng. Trong khoảnh khắc đó tất
cả mọi rung động của việc thở của bạn sẽ đi tới chỗ
dừng; bản thân hơi thở sẽ dừng lại, bởi vì hơi thở không
thể đi vào trong tĩnh lặng này, cái trống rỗng này. Để
một mình hơi thở, ngay cả cuộc sống cũng không thể đi
vào không gian này. Không bao giờ.
Cõi bên kia là ở bên ngoài cuộc sống nữa.
Nhớ lấy, rằng cái ở bên ngoài cái chết cũng ở bên
ngoài cuộc sống nữa. Do đó chúng ta không thể nói
rằng Thượng đế đang sống; sẽ là ngớ ngẩn mà nói như
vậy. Vì ngài không phải là chủ thể cho cái chết, sẽ là vô
nghĩa mà gọi ngài sống. Sống là tương đối với chết; cái
này không thể tồn tại mà không có cái kia. Thượng đế
không có cuộc sống; ngài có sự tồn tại - thay vì cuộc
sống, ngài là bản thân sự tồn tại. Tất nhiên, chúng ta
những sinh linh sống đều đang sống, chúng ta có cuộc
sống. Khi chúng ta đi ra từ sự tồn tại, chúng ta có cuộc
sống. Và nó là cái chết của chúng ta khi chúng ta trở lại
sự tồn tại một lần nữa.
Chẳng hạn, nó là cuộc sống khi con sóng phát sinh
trong đại dương. Trước khi con sóng phát sinh chỉ có
đại dương, không có sóng. Cuộc sống bắt đầu khi con
sóng phát sinh; chính việc tới của con sóng đi vào hiện
hữu, vào cuộc sống. Và khi con sóng biến mất, chính đó
là cái chết của con sóng này. Việc dâng lên của nó là
cuộc sống của nó; việc rơi xuống của nó là cái chết của nó. Nhưng sự tồn tại của biển là không có sóng. Đại
dương có đó cho dù sóng không phát sinh, và nó sẽ có
đó khi sóng đã chết. Và kinh nghiệm về sự tồn tại đó, sự
như nhau đó, sự tĩnh lặng đó, là samadhi hay cực lạc.
Cho nên samadhi không phải là việc kinh nghiệm
về cuộc sống; samadhi là việc kinh nghiệm sự tồn tại.
Samadhi là mang tính tồn tại; hơi thở không cần cho nó.
Với samadhi hơi thở không có nghĩa. Cả hơi thở lẫn vô
hơi thở đều chẳng có nghĩa gì với samadhi. Nơi mọi thứ
đi tới chỗ dừng đều có samadhi.
Do đó điều cần thiết là khi người tìm kiếm đi vào
các trạng thái sâu của thiền thì phải rất thận trọng và cẩn
thận để giữ cho người đó sống. Nhiều người được yêu
cầu giúp cho người đó qua giờ phút gay cấn, bằng
không người đó có thể biến mất, người đó có thể bị mất
hút trong cái bao la được biết là samadhi. Nếu chăm sóc
đúng không được thực hiện, người đó có thể không trở
lại từ chỗ tạm trú của mình vào sự tồn tại. Ramakrishna
thường đạt tới trạng thái này. Trong nhiều ngày ông ấy
hay ở trong samadhi, được hấp thu vào sự tồn tại, và
việc trở về cuộc sống trở thành khó khăn cho ông ấy.
Ramakrishna là một hiền nhân rất đáng kính trọng,
ông ấy biết rộng và có được sự kính trọng lớn lao.
Nhưng chúng ta không biết điều gì về người đã cứu
Ramakrishna cho thế giới. Một trong những người cháu
của ông ấy sống cùng ông ấy; chính anh ta là người
luôn luôn cứu ông ấy khi ông ấy trượt vào trạng thái
như vậy. Anh ta thức đêm cùng ông ấy. Bất kì khi nào
Ramakrishna đi vào samadhi, người cháu này của ông
ấy làm việc cần mẫn để giữ cho ông ấy sống; anh ta
nuôi ăn bắt buộc cho ông ấy bằng sữa và nước và các đồ
ăn khác. Bất kì khi nào việc thở của ông ấy bị dừng, anh
ta xoa bóp cho ông ấy để phục hồi việc thở. Anh ta đã
làm mọi thứ để cứu ông ấy cho thế giới.
Toàn thế giới đi tới biết về Ramakrishna qua
Vivekananda, nhưng không ai biết người đã cứu ông ấy
cho thế giới. Anh ta đã làm việc tận tuỵ, anh ta đã dùng
mọi thứ để phục vụ cho Ramakrishna, người có thể chết
bất kì lúc nào. Kinh nghiệm về samadhi phúc lạc vô
cùng đến mức việc trở về từ nó trở thành gần như không
thể được. Trong khoảnh khắc đó có mọi khả năng mất
hút không thể thay đổi được.
Có điểm không quay lại, và nó gần với samadhi thế.
Các trường phái và tu viện và đạo tràng đi vào hiện hữu
để dành cho chính ý định này: chỉ để cứu những người
tìm kiếm khỏi trượt vào điểm không quay lại. Các
sannyasins đã không xây dựng các trường phái và đạo
tràng thì đã không kinh nghiệm samadhi sâu. Các
sannyasins lang thang - được biết như parivrajakas -
người cứ di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia, đã bị thất
vọng về kinh nghiệm tâm linh cao nhất này. Để làm như
vậy thì một nhóm, một trường phái là cần phải có.
Để đi sâu vào samadhi và, hơn nữa, để cứu những
người tìm kiếm khỏi cái chết, cần nhiều người biết về
việc này. Các parivrajakas, để thoát khỏi sự gắn bó, đã
làm ra qui tắc rằng họ sẽ không ở một chỗ trong một
thời gian lâu. Nhưng người trở thành nạn nhân của sự
gắn bó qua một thời gian dài có thể trở thành như vậy
ngay cả trong thời gian ngắn. Sự khác biệt sẽ là ở mức
độ - sự gắn bó của người đó sẽ là sự gắn bó nhỏ. Nó có
thể là sự khác biệt giữa sự gắn bó lâu ba tháng và sự gắn
bó lâu ba ngày. Sự khác biệt sẽ là ở mức độ. Trường
phái parivrajakas nhất định đánh mất yoga và samadhi trong thời gian dài, bởi vì nhóm và công xã là cần để
cứu họ.
Đó là một điều để đi vào samadhi - một cá nhân có
thể làm điều đó - nhưng vấn đề đem người đó trở lại là
rất khác biệt. Không có khó khăn cho tới giai đoạn
thiền, nhưng khoảnh khắc của samadhi đòi hỏi sự thận
trọng và chăm nom lớn lao. Nó là khoảnh khắc mà sự
việc trở thành khẩn thiết là bảo vệ người tìm kiếm khỏi
trượt vào trong vùng không trở lại. Người đó phải được
cứu để cho người đó đem lại cho chúng ta tin tức về cõi
bên kia. Và người đó một mình có thể đem tin tức đó,
người đã hé nhìn vào trong nó qua samadhi, người có
thoáng nhìn về nó.
Bất kì điều gì chúng ta biết về nó đều tới chúng ta
từ một nhúm người đã trở về từ cõi bên kia đó. Nhưng
với họ chúng ta hoàn toàn trong bóng tối về nó. Các bạn
không thể biết được nó qua suy nghĩ hay đồn đoán;
không có cách nào cho nó cả. Nó chỉ có thể được tiếp
xúc trực tiếp và được kinh nghiệm. Và rất thường là
người đã tiếp xúc với cõi bên kia thấy khó quay trở về
từ đó. Người đó có thể bị mất mãi mãi; đó là điểm
không quay lại. Đó là điểm từ đó người ta nhảy vào
trong hư không vô tận của không gian, nơi mọi con
đường đều chấm dứt, nơi tất cả mọi cây cầu đều gẫy.
Đó là lúc mà sự chăm sóc lớn lao được cần tới, khi
công việc lớn lao phải được làm. Về sau tôi thường có
quan điểm rằng khi tôi đã chuẩn bị cho các bạn về
samadhi, các trường phái hay công xã sẽ rất là cần thiết.
Nhóm, và không phải cá nhân, sẽ là quan trọng cho bạn
- nhóm sẽ chăm nom cho những người sẽ đi vào
samadhi; bằng không thì họ sẽ bị mất mãi mãi. Nhóm,
trường phái và công xã sẽ để mắt tới điều đó rằng người
tìm kiếm được giúp đỡ để quay về từ trạng thái đó, và
rằng tri thức đó về kinh nghiệm tối cao này được gìn
giữ cho chúng ta. Bằng không thì có mọi nguy hiểm về
việc bị mất của nó.
Người hỏi: trạng thái của việc thở là gì trong điều
chúng ta gọi là sahaj samadhi hay cực lạc tự nhiên?
Nó trở thành rất nhịp điệu, rất hài hoà, nó trở thành
âm nhạc; và có nhiều điều khác cho nó. Người mà hai
mươi bốn giờ trong sahaj samadhi, có tâm trí không vẩn
vơ, người tĩnh lặng và yên tĩnh, người được đặt vào
trong sự tồn tại, người là một với nó, việc thở của người
đó lấy nhịp điệu riêng của nó. Và khi người đó không
làm việc - không ăn, không nói không bước đi - thế thì
việc thở trở thành phúc lạc quá mức cho người đó. Thế
thì chỉ việc hiện hữu, chỉ việc thở cũng đem lại cho
người đó vui sướng và phúc lạc đến mức không cái gì
khác có thể đem lại. Việc thở của người đó là rất nhịp
điệu và hài hoà; nó biến thành âm thanh vô âm, âm
thanh của tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Việc nếm trải kinh nghiệm siêu phàm đó có thể có
được qua việc thở theo cách đặc biệt. Đó là lí do tại sao
kỉ luật của việc thở - của các nhà yoga và những người
khác - đã được phát triển trong quá khứ. Chẳng hạn, nếu
một người làm việc thở của mình thành nhịp điệu và hài
hoà như việc thở của người trong sahaj samadhi, người
đó sẽ biết yên tĩnh và an bình là gì. Pranayam và các kĩ
thuật thở khác đã được phát triển qua việc quan sát cách thở và tác động của nó trong sự gần gũi với một số
người đã vào trong samadhi. Và chúng là rất có ích.
Việc thở trong trạng thái samadhi được thu về mức
tối thiểu của nó, bởi vì trong samadhi cuộc sống không
có ý nghĩa như sự tồn tại, hay như sự hiện hữu đang
đấy. Với người trong samadhi một chiều hướng hoàn
toàn mới đã mở ra, điều thuộc về sự tồn tại và nơi việc
thở và những thứ như nó là không cần thiết. Bây giờ
người đó đã vào liên miên trong chiều hướng đó, người
đó tồn tại trong chiều hướng đó. Người đó bây giờ dùng
thân thể mình chỉ khi người đó phải có quan hệ với
chúng ta; bằng không người đó không dùng thân thể
mình. Chính chỉ để liên hệ với chúng ta mà người đó ăn,
ngủ, tắm, mặc quần áo và làm các việc khác mà thân thể
cần. Đây chỉ là cách thức của người đó để liên hệ với
chúng ta.
Ngoại trừ để liên hệ với chúng ta người đó không
cần thân thể mình và việc thở và phần còn lại của nó.
Trong bản thân họ thân thể và các chức năng của nó
không có nghĩa đối với người đó. Và việc thở của người
đó trở thành tối thiểu; người đó thở chỉ đủ để tạo ra sinh
lực giữ cho người đó trong thân thể. Do đó người đó có
thể dễ dàng sống ở chỗ với rất ít ô xi.
Có những đền chùa và hang động cổ gần như chẳng
có cửa và cửa sổ nào; chúng không có cửa thông gió
chút nào. Chúng trông lỗi thời thế đối với thời hiện đại
này, chúng hoàn toàn phản vệ sinh, khoa học về sức
khoẻ. Tất cả những đền chùa và hang động cổ đại này
vẫn còn tồn tại, đều không có lối vào xứng với cái tên.
Có những hang động không bố trí thông gió; người
ta tự hỏi làm sao luồng khí có thể đi vào chúng được.
Điều này là vậy bởi vì những người sống trong chúng
đã không cần nhiều không khí. Trong thực tế, họ đã
không muốn nhiều không khí đi vào nơi tôn nghiêm của
họ, bởi vì rung động của thế giới bên ngoài do khí đem
tới có thể phá huỷ các rung động tinh tú của hang, điều
cần được bảo vệ và gìn giữ. Chính với quan điểm để
bảo vệ và gìn giữ kho năng lượng tinh tú mà các đền
chùa và hang động của thời xưa đã không có gì như hệ
thống thông gió cả.
Điều này là không thể được cho ngày nay. Để làm
cho nó thành có thể, sẽ cần xây dựng một loạt dài kỉ luật
về thở. Để làm cho điều đó thành có thể chúng ta sẽ cần
đàn ông và đàn bà đã đạt tới samadhi.
Người hỏi: làm sao kĩ thuật phật giáo về
anapanasati - quan sát thường xuyên hơi thở của
người ta - ảnh hưởng tới trạng thái của ô xi trong
thân thể chúng ta?
Anapanasati có tác động lớn tới ô xi thân thể chúng
ta. Đây là câu hỏi hay cần được hiểu đúng. Mọi hoạt
động của cuộc sống, mọi chức năng của thân thể chúng
ta đều được làm nhanh lên khi chúng ta chú ý tới nó.
Phần lớn các chức năng thân thể là tự trị; bạn không
phải chú ý tới chúng, nhưng khi bạn chú ý thì chúng bị
ảnh hưởng.
Chẳng hạn, khi bác sĩ đặt ngón tay lên mạch của
bạn, xung mạch của bạn đập không còn như cũ, nó lập
tức nhanh hơn một chút; nó nhiều hơn là nó đã vậy
trước đây. Nó là vậy bởi vì nó đã nhận được sự chú ý,
sự chú ý của hai người - của bác sĩ và của bạn. Và nó sẽ nhanh chóng thêm nhiều nếu bác sĩ ngẫu nhiên là người
khác giới, vì bây giờ nó sẽ nhận được nhiều chú ý hơn.
Bạn có thể thử điều đó như thế này: tự kiểm tra mạch
đập của bạn trước, và rồi quan sát trong mười phút nó
đập thế nào và rồi kiểm tra nó lần nữa. Bạn sẽ thấy rằng
mạch của bạn đã thay đổi, nó đã nhanh lên. Chú ý có tác
dụng như tác nhân xúc tác để làm nhanh mạch đập của
bạn, hay cũng vấn đề đó với bất kì chức năng nào của
thân thể.
Kĩ thuật anapanasati cực kì có giá trị. Nó là cách
quan sát việc thở riêng của bạn. Bạn không phải làm gì
về nó cả; bạn không phải can thiệp vào việc thở của
mình hay thở theo bất kì cách đặc biệt nào. Bạn chỉ phải
quan sát nó như nó đang đấy. Nhưng điều cũng đúng là
ngay khi bạn bắt đầu quan sát nó, thì việc thở của bạn
trở thành nhanh hơn chút ít. Điều đó là không tránh
khỏi. Với quan sát của bạn, cách bạn thở sẽ thay đổi, và
nó sẽ nhanh hơn trước đây. Việc thay đổi này và bản
thân việc quan sát chỉ ra kết quả.
Nhưng mục tiêu chính của anapanasati không phải
là đem bất kì thay đổi nào vào hình mẫu thở của bạn;
mục tiêu chính là chỉ quan sát hơi thở của bạn như nó
vậy. Bởi vì khi bạn quan sát việc thở của mình, và quan
sát nó thường xuyên, dần dần bạn bắt đầu tách bản thân
mình ra khỏi nó; xuất hiện một lỗ hổng giữa bạn và việc
thở của bạn. Bởi vì khi ai đó quan sát cái gì đó, lập tức
người quan sát trở thành tách rời với cái được quan sát.
Trong thực tế, người quan sát không thể là một với
cái được quan sát. Khoảnh khắc bạn biến cái gì đó
thành cái được quan sát, bạn tự tách mình khỏi đối
tượng quan sát của mình - bạn trở thành khác với nó. Vì
bạn đã làm hơi thở của mình thành cái được quan sát, và
bạn đã quan sát cách nó làm việc, nên bạn trở thành xa
khỏi nó trong chính quá trình quan sát này. Và thế rồi
một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng trong khi việc thở
diễn ra bạn ở khoảng cách xa đáng kể với nó.
Anapanasati yoga đem tới sự tách biệt của bạn với
thân thể; bạn thực sự kinh nghiệm nó.
Bạn có thể thử anapanasati theo nhiều cách. Nếu
bạn quan sát cách bạn bước - nếu bạn chỉ quan sát cách
chân phải giơ lên và chuyển động, và thế rồi chân trái
giơ lên và chuyển động - nếu bạn chỉ quan sát chuyển
động của chân mình, bạn sẽ thấy trong thời gian hai
tuần rằng bạn hoàn toàn tách khỏi chân mình. Bạn sẽ
thấy rõ ràng chân mình là cái được quan sát và bạn vẫn
còn là người quan sát. Chân riêng của bạn sẽ dường như
vận hành một cách máy móc. Một người như vậy có thể
nói rằng khi bước người đó không bước, khi nói người
đó không nói, khi ăn người đó không ăn, khi ngủ người
đó không ngủ. Và người đó là phải.
Nhưng rất khó để hiểu một người như vậy, người đã
trở thành người quan sát trên núi. Nếu người đó là nhân
chứng cho việc bước của mình, nếu người đó thực sự
không bước trong khi bước, thì duy nhất người đó thực
sự thấy điều đó như vậy; sẽ khó cho người khác ngay cả
để hiểu điều đó. Nếu người đó là nhân chứng cho việc
nói của mình, người đó sẽ không nói trong khi nói,
người đó sẽ vẫn còn là nhân chứng một mình.
Anapanasati là kĩ thuật có ý nghĩa; nó làm cho bạn
thành nhân chứng, linh hồn chứng kiến, nhưng nó khác
với kundalini.



Người hỏi: có thể rằng qua việc thở sâu và mạnh
mẽ một lượng ô xi quá mức đi vào phổi của người
tìm kiếm gây hại lớn cho người đó. Thầy nói gì?
Thực tế, không người nào dùng phổi mình đầy đủ
trong khi thở. Đại thể có sáu nghìn bao khí trong phổi
người ta, trong số đó khó có được nghìn rưởi hay hai
nghìn bao đầy ô xi nếu người đó ngẫu nhiên rất mạnh
khoẻ và người đó thở bình thường. Phần các túi khí còn
đầy các bô nic, vốn là cái tên khác cho rác bẩn. Do đó
khó mà tìm ra một người lấy nhiều ô xi hơn mức cần
thiết. Người lấy được khối lượng ô xi cần thiết cũng là
hiếm. Phần lớn phổi chúng ta vẫn còn không được sử
dụng tới.
Thực sự là điều lớn lao nếu bạn có thể rót đầy toàn
thể phổi của mình bằng ô xi; điều đó sẽ dẫn tới sự mở
rộng lớn lao tâm thức bạn. Cuộc sống bạn mở rộng thế
nào có thể biết được từ khối lượng ô xi bạn mang trong
phổi mình. Càng nhiều ô xi, càng nhiều cuộc sống. Và
nếu bạn có thể rót đầy toàn bộ phổi mình bằng ô xi, bạn
sẽ ở cực đỉnh của cuộc sống.
Chính ô xi tạo ra sự khác biệt giữa người mạnh
khoẻ và người ốm yếu. Người ốm yếu là người lấy vào
rất ít ô xi qua việc thở. Đó là lí do tại sao một số người
ốm phải được cấp cho ô xi qua phương tiện nhân tạo.
Họ sẽ chết nếu họ bị bỏ lại với chính họ. Mạnh khoẻ và
ốm yếu có thể được đo bằng việc lấy vào ô xi. Đó là
cách việc chạy làm cho bạn mạnh khoẻ, bởi vì việc chạy
đem tới cho bạn nhiều ô xi. Mọi bài tập thể chất đều có
ích bởi chính lí do này. Bất kì hoạt động nào thêm cho
kho ô xi của bạn đều có ích cho mạnh khoẻ của bạn. Và
điều làm cạn kiệt nguồn dự trữ ô xi của bạn là làm hại
tới sự mạnh khoẻ của bạn; nó sẽ gây ra ốm bệnh.
Nhưng sự kiện còn lại là bạn chưa bao giờ thở tới
đầy khả năng phổi của bạn; bạn chưa bao giờ lấy vào
nhiều ô xi như bạn có thể lấy vào. Cho nên vấn đề lấy
nhiều hơn điều cần thiết đơn giản không nảy sinh. Bạn
không thể lấy nhiều hơn cái mà phổi có thể chứa; bạn
không thể lấy nhiều hơn việc làm đầy của nó. Đó là việc
khó làm thế.
Người hỏi: cùng với ô xi chúng ta lấy vào các khí
khác như ni tơ và hidro với việc thở của mình. Tất
cả những khí này có ích cho thiền không?
Những khí này tuyệt đối có ích cho thiền. Bất kì cái
gì có đó trong không khí - không chỉ là ô xi mà nhiều
thứ khác - đều có ích cho cuộc sống. Chính bởi vì chúng
mà các bạn sống. Không có cuộc sống trên một hành
tinh hay hành tinh vệ tinh nơi những khí này không sẵn
có theo đúng tỉ lệ. Chính chúng làm cho cuộc sống
thành có thể. Do đó bạn không cần lo nghĩ về điểm này.
Và bạn thở càng mãnh liệt và mạnh mẽ, thì bạn sẽ
càng được lợi. Trong trạng thái thở sâu và nhanh chỉ ô
xi mới có thể đi vào hệ thống của bạn với số lượng tối
đa; mọi thứ khác sẽ bị bỏ ra. Và ngay cả những khí khác
này cũng là chất có ích của cuộc sống; chúng không có
hại.



Người hỏi: làm sao thân thể bắt đầu cảm thấy nhẹ
sau khi thở sâu và nhanh?
Đúng là thân thể sẽ cảm thấy nhẹ sau việc thiền này.
Nó sẽ là như vậy bởi vì ý thức của chúng ta về thân thể
là ý thức về sự nặng. Điều chúng ta gọi là sự nặng thì
không là gì nhiều hơn nhận biết của chúng ta về thân
thể. Thân thể vẫn nặng với người ốm cho dù người đó
chỉ có da và mạch. Nhưng người mạnh khoẻ, cho dù
người ấy cân nặng, vẫn mang thân thể mình rất nhẹ
nhàng. Cho nên thực sự là thân-tâm của chúng ta là cái
cảm thấy như đè nặng lên chúng ta.
Và chúng ta trở nên ý thức tới thân thể mình chỉ khi
nó đau, khi nó ốm. Chúng ta trở nên có ý thức về chân
mình khi chúng đau. Chúng ta trở nên nhận biết về đầu
mình khi nó đau. Nếu không có cái đau thân thể, chúng
ta sẽ chẳng bao giờ nhận biết về thân thể mình. Ý thức
này là cách đo đau khổ của chúng ta.
Chúng ta định nghĩa người mạnh khoẻ là người cảm
thấy dường như mình vô thân thể. Người không cảm
thấy rằng mình là thân thể, người có cảm giác vô thân
thể, thực sự là người mạnh khoẻ. Và nếu người đó bị
đồng nhất với một phần đặc biệt của thân thể mình thì
có thể nói rằng phần này của thân thể người đó bị ốm.
Khi khối lượng ô xi tăng lên và khi kundalini thức
dậy, bạn sẽ bắt đầu có những kinh nghiệm không phải là
thân thể; chúng thuộc về linh hồn hay atman. Và theo số
lượng các kinh nghiệm tinh tế này bạn sẽ đồng thời cảm
thấy nhẹ nhõm, một loại phi trọng lượng phi thường.
Nhiều người sẽ cảm thấy dường như họ đang bay.
Không phải là họ thực sự bay - biến cố bay thực xảy ra
chỉ một lần trong khoảng thời gian dài. Nhưng bởi vì
cảm giác vô trọng lượng, nên bạn cảm thấy rằng mình
đang bay. Nếu bạn mở mắt và nhìn, bạn sẽ thấy rằng
bạn đang ngồi trên đất. Nhưng sao có cảm giác bay
bổng này?
Sự kiện là ở chỗ tâm trí chúng ta, ở chiều sâu bên
trong nhất của nó, không biết tới ngôn ngữ nào như
chúng ta biết. Nó chỉ biết ngôn ngữ hình ảnh, tượng
trưng. Cho nên khi bạn kinh nghiệm vô trọng lượng, vô
trọng lượng hoàn toàn, thì tâm trí bạn diễn đạt nó theo
ngôn ngữ của hình ảnh. Nó không nói ra lời rằng đó là
vô trọng lượng, nó vẽ hình ảnh điều đó như hành động
bay, nó cảm thấy việc bay.
Tâm trí sâu của chúng ta, tâm trí vô thức của chúng
ta không nghĩ theo lời, nó nghĩ theo hình ảnh, theo biểu
tượng. Đó là lí do tại sao các giấc mơ của chúng ta
trong đêm chỉ có hình ảnh và hầu như không có lời nào.
Tâm trí mơ phải biến đổi mọi thứ - kể cả kinh nghiệm
và ý nghĩ - thành hình ảnh. Bởi lí do này khi chúng ta
thức dậy vào buổi sáng chúng ta thấy khó hiểu giấc mơ
riêng của mình. Ngôn ngữ chúng ta biết và dùng trong
giờ thức là hoàn toàn khác với ngôn ngữ hình ảnh của
giấc mơ. Hai ngôn ngữ này hoàn toàn xa lạ với nhau, và
do đó những nhà diễn giải lớn kiểu như bác học, nhà
tâm lí và nhà phân tâm được cần tới để diễn giải chúng
cho chúng ta. Chúng ta chẳng thể làm được gì với
chúng.
Bây giờ ai đó đang tham vọng. Làm sao người đó
diễn đạt tham vọng của mình khi người đó mơ? Người
đó sẽ biến thành con chim tung cánh trên trời cao. Thế
rồi người đó sẽ ở trên đỉnh của mọi thứ, bỏ toàn thế giới
lại sau mình. Tham vọng trong mơ lấy hình dạng của chuyến bay - người ta mơ rằng người ta đang bay và
bay. Tất cả những người tham vọng đều có giấc mơ về
việc bay. Nhưng từ tham vọng sẽ không bao giờ tìm
được chỗ trong giấc mơ. Cho nên sau khi tỉnh dậy vào
buổi sáng người này tự hỏi tại sao mình đã bay trong
giấc mơ của mình.
Chính tham vọng của người đó đã biến thành con
chim bay trong mơ.
Cùng cách này khi chúng ta đi vào chiều sâu của
thiền, việc vô trọng lượng được cảm thấy như bay. Vô
trọng lượng thực sự có thể được làm thành hình ảnh chỉ
như việc bay, không có cách khác.
Và thỉnh thoảng thân thể thực tế bay trong trạng thái
cực kì vô trọng lượng.
Người hỏi: nhiều lúc trong thiền dường như là cái
gì đó bên trong đã nổ ra, và kinh nghiệm này thật
đáng sợ.
Điều đó là có thể, điều đó tuyệt đối là có thể.
Người hỏi: người ta phải không được hoảng sợ
chứ?
Sợ hãi là không cần thiết, mặc dầu điều tự nhiên là
bạn cảm thấy sợ.
Người hỏi: nó tạo ra nhiều nhiệt nữa.
Điều đó nữa cũng là có thể. Nó là có thể bởi vì toàn
thể bộ máy bên trong của bạn trải qua thay đổi. Tất cả
mọi mối nối của bạn với thân thể bắt đầu bị chùng ra, và
những mối nối mới bắt đầu hình thành vào chỗ của
chúng. Những cây cầu cũ bị gẫy và cây cầu mới được
lập ra. Những cánh cửa cũ đóng lại và những cánh cửa
mới mở ra. Cho nên toàn thể ngôi nhà đều bị thay đổi.
Đó là lí do tại sao bạn cho rằng nhiều điều bên trong
bạn đang vỡ ra, và thế rồi bạn cảm thấy hoảng sợ. Điều
đó là tự nhiên, bởi vì toàn thể hệ thống trải qua trạng
thái xáo trộn và mất trật tự. Nó xảy ra vào lúc chuyển
đổi.
Khi một trật tự mới nảy sinh ra từ sự hỗn loạn này,
nó sẽ hoàn toàn khác với trật tự cũ, nó sẽ là duy nhất vô
song. Thế thì bạn sẽ quên rằng cái gì đó như trật tự cũ
đã từng tồn tại. Và ngay cả khi bạn nhớ tới nó bạn sẽ tự
hỏi làm sao trên trái đất này bạn có thể chịu đựng được
nó.
Và điều này là có thể.
Người hỏi: Có cần làm nỗ lực để thở sâu và hỏi
"Tôi là ai?" không ngay cả sau khi shaktipat hay
việc truyền năng lượng đã xảy ra, hay chúng sẽ xảy
ra một cách tự nhiên và theo cách riêng của chúng?


Khi việc thở và hỏi trở thành tự nhiên, câu hỏi này
không nảy sinh. Thế thì bản thân câu hỏi này sẽ dường
như là phi tự nhiên. Vấn đề chấm dứt với mọi thứ mang
tính tự nhiên. Nhưng nhiều lần, nhiều thứ trước khi nó
xảy ra, tâm trí sẽ thuyết phục bạn tin rằng nó đã xảy ra
và rằng bây giờ chẳng ích gì mà tiếp tục nỗ lực này.
Chừng nào mà tâm trí còn tiếp tục thuyết phục bạn, bạn
không nên thảnh thơi, bạn không nên từ bỏ nỗ lực này.
Cho tới lúc đó bạn vẫn phải tiếp tục với việc hỏi, "Tôi là
ai?" bởi vì tâm trí vẫn có đó, nó vẫn sống sót. Chính
tâm trí đang biện luận với bạn và cố gắng thuyết phục
bạn.
Tuy nhiên một ngày sẽ tới khi bạn sẽ thấy rằng
không cần phải làm gì nữa. Thế thì bạn sẽ không có khả
năng làm việc gì cho dù bạn muốn làm, bởi vì bạn có
thể hỏi "Tôi là ai?" lâu chừng nào bạn còn chưa biết
mình là ai. Cái ngày bạn đi tới biết mình là ai, câu hỏi
này sẽ không nảy sinh nữa. Thế thì sẽ rất ngớ ngẩn mà
đi hỏi nó, bởi vì bạn biết.
Chừng nào tôi còn chưa biết cửa ở đâu, tôi sẽ đưa ra
vài câu hỏi nồng nhiệt về nó, nhưng một khi tôi đi tới
biết, câu hỏi này sẽ tự nó loại bỏ đi. Thế thì tôi sẽ không
hỏi liệu tôi có nên hỏi câu hỏi này hay không. Nó là
không cần thiết, nó là vô nghĩa. Chúng ta hỏi chừng nào
chúng ta không biết một điều; ngay khi chúng ta biết nó,
vấn đề chấm dứt. Ngay khi bạn nhận ra mình là ai, thế
giới các câu hỏi đi đến chấm dứt. Và khi bạn đã lấy
bước nhảy vào cõi bên kia, thế thì chẳng cái gì còn lại
để được làm nữa. Thế thì bất kì cái gì bạn làm, nó đều là
thiền. Bạn bước đi và đó là thiền. Bạn ngồi và đó là
thiền. Thế thì im lặng của bạn là thiền, và việc nói của
bạn cũng là thiền. Cho dù bạn đánh nhau, đó cũng là
thiền. Điều bạn làm không khác biệt.
Người hỏi: dưới tác động của shaktipat hay việc
truyền năng lượng, thở sâu xảy ra theo cách riêng
của nó. Nhưng nhiều lúc thân thể thảnh thơi và việc
thở chậm lại. Người ta có nên tiếp tục nỗ lực trong
những khoảnh như vậy không?
Cũng là tốt nếu bạn làm như vậy. Vấn đề không
phải là liệu việc thở có tiếp tục hay làm chậm lại.
Không thành vấn đề gì mấy nếu việc thở đi tới điểm
dừng lại. Câu hỏi là liệu bạn đã đưa đủ nỗ lực vào hay
không. Điều có ý nghĩa là nỗ lực của bạn, không phải là
kết quả của nỗ lực của bạn. Vấn đề là ở chỗ bạn phải
làm hết sức mình, ở chỗ bạn phải đánh cược tất cả mọi
thứ của mình.
Tâm trí rất tinh ranh trong việc tìm ra lối thoát. Nó
làm mọi thứ để tự bảo vệ mình. Nó nói, "Bởi vì chẳng
cái gì xảy ra cả, nên đây là lúc mình từ bỏ nỗ lực." Tâm
trí rất điêu luyện đến mức trong cả ngày nó có thể gợi ý
hàng trăm cách trốn chạy và hàng trăm cớ và cách hợp
lí hoá. Nó có thể đi tới cả tràng dài kể cho bạn rằng bạn
sẽ chết ngạt, bạn sẽ chết nếu bạn theo đuổi nỗ lực của
mình thêm nữa.
Chớ nghe lời tâm trí. Bảo tâm trí của bạn, "Chết
ngạt và chết đi chính là phúc lạc đấy." Đó là vấn đề
khác nếu việc thở dừng lại theo cách riêng của nó,
nhưng về phần mình bạn phải tiếp tục phấn đấu. Bạn
không nên giữ lại cái gì từ phía mình. Đừng giữ lại cho
dù một chút ít, bởi vì đôi khi ngay cả cái chút ít đó cũng
có thể mang tính quyết định và định mệnh. 


Chẳng ai biết cái gì sẽ là cọng rơm cuối cùng thêm
vào trên lưng con lạc đà. Chính cọng rơm cuối cùng đó
làm cho con lạc đà quị xuống. Cứ giả dụ rằng bạn đã đặt
một tải trọng lớn lên lưng lạc đà, nhưng thế vẫn chưa đủ
để làm cho nó quị xuống. Có thể cọng rơm cuối cùng
vẫn còn thiếu, cái sẽ quyết định vấn đề, bởi vì đó bao
giờ cũng là cọng rơm cuối cùng sẽ quyết định. Không
phải là cọng rơm đầu tiên, mà cọng rơm cuối cùng mới
chứng tỏ là định mệnh. Có thể bạn đã chất nặng lên con
lạc đà bằng 99.99 pao cỏ khô, và điều đó vẫn không làm
cho con lạc đà quị xuống. Nó vẫn đợi cọng cỏ cuối cùng
- .001 pao.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Bạn đang cố
gắng phá cái khoá móc bằng chiếc búa. Bạn đã nện chín
mươi chín nhát búa và chiếc khoá vẫn chưa chịu vỡ ra.
Và bây giờ, bị mệt rồi, bạn đánh cú thứ một trăm rất
nhẹ. Nhưng khoá vỡ ra với cú đánh nhẹ này. Cho nên
đôi khi những điều rất nhỏ chứng tỏ là nhân tố quyết
định; đôi khi chỉ một cọng rơm cũng trở thành quyết
định. Để cho mọi người đừng nói là bạn đã làm mọi thứ,
ấy vậy mà chệch mục tiêu mỗi một li. Dù bạn có bị
chệch một li hay một dặm, nó vẫn là như nhau. Nếu bạn
bỏ lỡ nó, bạn bỏ lỡ nó toàn bộ.
Điều như vậy đã xảy ra chỉ mới gần đây. Một người
bạn đã thiền như tất cả các bạn đây, trong ba ngày ở trại
tại Amritsar. Anh ta là người có giáo dục, một bác sĩ.
Anh ta đã thiền và thiền, mà chẳng cái gì xảy ra cả. Và
thế rồi ngày cuối cùng tới. Tôi không biết gì về điều anh
ta đã làm hay không làm. Trong thực tế, tôi chẳng biết
gì về anh ta cả. Vào ngày cuối cùng, trong khi giải thích
về kĩ thuật, tôi nói rằng nước biến thành hơi chỉ khi nó
đạt tới nhiệt độ một trăm độ. Nếu người ta dừng đun sôi
tại chín mươi chín độ thì người đó đừng phàn nàn rằng
chỉ vì muốn thêm một độ mà nước từ chối biến thành
hơi. Cho dù bạn có cho nó lên 99.9 độ, nó vẫn cứ tiếp
tục là nước. Cho dù một mẩu tí xíu nhiệt bị thiếu nó vẫn
từ chối thay đổi. Chỉ khi nó vượt qua vạch một trăm độ
nó mới biến thành hơi. Và không có cách khác. Qui tắc
là qui tắc.
Anh ta tới tôi vào buổi tối hôm đó. Và anh ta nói
rằng điều tôi đã nói trong hoàn cảnh của nước biến
thành hơi có tác dụng lắm với anh ta. Trước đây anh ta
đã coi rằng nếu nỗ lực của anh ta còn yếu, cái lợi anh ta
thu được từ thiền cũng yếu thế, nhưng dẫu sao thì vẫn
có lợi. Khi anh ta nghe tôi, anh ta nghĩ rằng anh ta đã
lầm. Để nước biến thành hơi, việc đạt đúng một trăm độ
là điều phải có. Không phải là một lượng nhiệt độ nhỏ
sẽ làm nước biến thành hơi theo cách nhỏ. Nước sẽ
không thay đổi chút nào trước khi nhiệt của nó đạt tới
một trăm độ; nó phải đi qua toàn bộ con đường. Và do
vậy sáng hôm nay anh ta đã đem tất cả nỗ lực của mình
vào thiền, và anh ta ngạc nhiên thấy rằng cái gì đó đã
xảy ra. Điều anh ta đã làm trong ba ngày trước là vô ích.
Anh ta đã chẳng thu được gì ngoài mệt mỏi vào lúc
cuối. Hôm nay anh ta không mệt chút nào, và điều đáng
chú ý nhất là ở chỗ anh thực sự đã làm được nó.
Do đó bao giờ cũng là cọng rơm cuối cùng tạo ra sự
khác biệt giữa những người làm nó và những người
không làm nó.
Có một điều nữa cần phải ghi nhớ trong đầu. Trong
khi thiền, quan sát người ở phía bạn đang làm hết sức,
bạn cho rằng ngay cả người đó cũng chẳng làm ra tiến
bộ nào, nói gì tới một mình bạn. Bạn sai khi nghĩ như
vậy. Có khác biệt giữa một trăm độ và một trăm độ.
Một trăm độ của bạn không hệt như một trăm độ của người khác. Có thể người khác có nhiều năng lượng dự
trữ hơn bạn có, và người đó không dùng hết tất cả nó,
mặc dầu người đó làm tốt hơn bạn. Điều đó giống thế
này: Một người có năm trăm ru pi trong túi, và từ số đó
người đó đặt cược ba trăm ru pi vào đám đánh cá. Còn
bạn chỉ có năm ru pi trong túi và từ đó bạn lấy ra bốn
đồng đánh cá. Tại đây bạn đánh cược nhiều hơn người
đó; bạn vượt trội hơn người đó.
Vấn đề không phải là bạn hay người khác đã chi ra
bao nhiêu tiền, vấn đề là tỉ số giữa cái bạn có và cái bạn
đưa vào đánh bạc. Tỉ số đó mới là vấn đề. Bạn sẽ thắng
nếu bạn đánh cá tất cả năm đồng ru pi của mình. Còn
người kia sẽ thua cho dù người đó đánh cá bốn trăm
chín mươi chín đồng ru pi. Để thắng người đó sẽ phải
đặt cược tất cả năm trăm đồng của mình.
Điều mang tính quan trọng tối thượng là ở chỗ bạn
sẽ đánh cược toàn bộ bản thân mình, ở chỗ bạn sẽ
không để lại cho dù một li năng lượng và nỗ lực. Đừng
bao giờ cho rằng bạn đã làm đủ cho hiện tại, và rằng
bạn sẽ cố gắng lần sau. Khoảnh khắc bạn nghĩ vậy, bạn
sẽ bắt đầu thoái lui, lùi lại sau.
Và điều thường xảy ra là những ý nghĩ như vậy bắt
đầu tấn công bạn ngay khi giờ quyết định tới, nơi bạn
sắp làm được nó. Chính tại điểm giao thời này mà tâm
trí bạn bắt đầu hoảng sợ rằng bạn sẽ biến mất vào cái
không. Đó là khoảnh khắc của nguy hiểm nhất cho bạn
như bản ngã, và đó cũng là khoảnh khắc mang hậu quả
lớn nhất, mang tính hoàn thành lớn nhất cho bạn như
linh hồn. Và chính trong khoảnh khắc này tâm trí bạn sẽ
yêu cầu bạn từ bỏ, với lời bào chữa rằng bạn đã làm đủ
rồi, nước đã được đun nóng quá nhiều rồi, bất kì khoảnh
khắc nào nó cũng có thể biến thành hơi.
Khi tâm trí bạn cảm thấy nguy hiểm sắp xảy đến và
hoảng sợ, biết rằng đó là khoảnh khắc quyết định và quí
giá nhất của thiền - khoảnh khắc của hoàn thành. Chừng
nào mà không có nguy hiểm, tâm trí sẽ yêu cầu bạn tiến
hành, nhưng ngay khi bạn tới gần nguy hiểm - chính là
điểm sôi - tâm trí bạn sẽ yêu cầu bạn dừng lại ngay lập
tức. Tâm trí sẽ nói bạn đã làm hết mức mình rồi, bây
giờ không còn năng lượng để tiến hành thêm nữa.
Nhận biết về tâm trí mình khi khoảnh khắc quyết
định này tới. Nó đích xác là khoảnh khắc khi bạn đã
mang tất cả năng lượng của mình vào hành động. Nếu
bạn bỏ lỡ khoảnh khắc đó bạn có thể bỏ lỡ trong nhiều
năm. Đôi khi phải mất nhiều năm để đạt tới nhiệt độ
chín mươi chín độ. Và đôi khi bạn bỏ lỡ nó gần lúc bạn
đã chạm tới vạch một trăm độ. Và bạn bỏ lỡ nó vì
những điều rất vụn vặt.
Cho nên đừng giữ lại mình; bằng không bạn sẽ lỡ.
Người hỏi: điều gì xảy ra nếu mạch máu bị hỏng
bởi bị quá căng mạch?
Thì cứ để cho chúng bị hỏng đi. Bạn sẽ làm gì bằng
việc cứu chúng? Hôm nay hay ngày mai chúng sẽ bị
phá huỷ. Và bạn định làm gì sau khi cứu chúng?
Người hỏi: sau rốt, chúng tôi không muốn chết
trong trạng thái dốt nát. 


Nếu bạn lo nghĩ về mạch máu của mình, biết chắc
rằng bạn sắp chết trong trạng thái dốt nát. Bạn sẽ làm gì
sau khi bạn đã cứu mạch máu của mình? Khó khăn của
chúng ta là ở chỗ chúng ta bao giờ cũng lo nghĩ về
những điều không quan trọng cho chúng ta.
Người hỏi: trong thực tế, chúng ta chỉ có chút ít;
làm sao chúng ta có thể đảm đương được việc mất
nó?
Tôi tự hỏi liệu bạn có ngay cả cái chút ít đáng cứu
ấy không. Nếu bạn thực sự có, bạn sẽ không sợ bị mất
nó. Bạn thậm chí không có ngần ấy. Bạn giống như
người trần trụi mà sợ mất quần áo của mình. Nỗi sợ này
cho người trần trụi sự thoả mãn giả tạo rằng mình sở
hữu cái gì đó. Người đó nhận được sự hài lòng từ ảo
tưởng rằng mình có quần áo, người đó không bị trần
trụi. Nếu người đó có quần áo thực, người đó đã không
sợ mất chúng. Sau rốt chúng chỉ là quần áo thôi; cái gì
xảy ra nếu chúng bị mất? Gạt bỏ nỗi sợ như vậy đi.
Tôi không ngụ ý nói rằng mạch máu các bạn sẽ thực
tế không bị hỏng. Và nếu chúng sẽ bị hỏng thì nó sẽ là
vậy bởi vì nỗi sợ của chúng ta chứ không phải bởi vì
thiền. Nỗi sợ chắc chắn sẽ phá huỷ chúng; chính thực
nỗi sợ làm hỏng mạch máu bạn và nhiều thứ khác.
Nhưng chúng ta không sợ theo lí do đó; chúng ta không
sợ nỗi sợ của mình.
Nếu bạn sợ, nếu bạn lo âu, nếu bạn căng thẳng,
mạch máu của bạn cùng với nhiều thứ khác sẽ bị hỏng
bởi chính lí do này. Nhưng chúng ta không sợ bởi điều
đó. Chúng ta sợ thiền, điều không làm hỏng cái gì cả.
Ngược lại, nó sẽ sửa lại mọi hư hỏng đã xảy ra cho bạn.
Nhưng chúng ta níu bám lấy nỗi sợ của mình, và
chúng ta trú ẩn vào trong chúng. Và chúng ta cứ nói:
Điều gì xảy ra nếu cái này hay cái nọ xảy ra? Cho nên
chúng ta làm mọi thứ để chạy trốn khỏi thiền. Nếu nó là
vậy, tôi sẽ nói: Sao ra đi tất cả thế? Nỗi sợ này, sự ngần
ngại này, sự xung khắc này là nguy hiểm. Thế thì đừng
lại gần nó, kết thúc nó đi cho rồi.
Nhưng chúng ta vừa yêu vừa ghét; chúng ta muốn
làm cả hai. Chúng ta muốn thiền và đồng thời chúng ta
muốn chạy trốn khỏi nó. Và thế thì xung khắc này thực
sự phá huỷ chúng ta. Thế thì chúng ta là trong đống lộn
xộn không cần thiết. Hàng nghìn người trong đống lộn
xộn không cần thiết; họ muốn tìm thấy Thượng đế và
đồng thời họ sợ để cho ngài đương đầu với họ bất kì
ngày nào. Tâm trí kép này, tâm trí chia chẻ này mới là
vấn đề. Tất cả mọi khó khăn của chúng ta đều ở chỗ
một phần tâm trí chúng ta muốn làm một việc và phần
khác không muốn làm nó. Hoài nghi và xung đột đã trở
thành chính hơi thở của chúng ta. Chẳng bao giờ xảy ra
rằng điều chúng ta muốn làm, chúng ta muốn một cách
tuyệt đối. Cái ngày nó sẽ là như vậy, không cái gì sẽ tới
trên con đường của bạn. Ngày đó cuộc sống của bạn sẽ
thu được tính năng động mà bạn chưa bao giờ biết.
Nhưng chúng ta đều trong tình trạng kì cục; chúng
ta tiến lên một bước rồi lập tức lùi lại bước khác. Chúng
ta đặt một viên gạch vào đúng chỗ của nó để xây ngôi
nhà và khoảnh khắc tiếp chúng ta bỏ nó đi. Do vậy
chúng ta có cả hai - niềm vui của việc xây nhà và nỗi
buồn của việc không làm xong nó. Suốt cả ngày chúng
ta xây nên bức tường và khi đêm tới chúng ta kéo đổ nó xuống bằng chính đôi tay mình. Và thế rồi chúng ta than
vãn làm sao xây nhà khó thế.
Chúng ta nên cố gắng hiểu cấu trúc mù quáng kép
này của tâm trí mình. Và cách duy nhất các bạn có thể
hiểu được nó là thế này: được chuẩn bị cho điều các bạn
nghĩ là xấu nhất. Điều xấu nhất tưởng tượng này là ở
chỗ các mạch máu của bạn sẽ bị hỏng. Thì cứ để cho
chúng hỏng đi. Các bạn sẽ làm gì nếu bạn cứu vãn
chúng, chẳng hạn, trong ba mươi hay bốn mươi năm?
Các bạn sẽ là thư kí trong văn phòng nào đó trong ba
mươi năm này. Các bạn sẽ ăn, ngủ và sinh sản ra con
cái. Những đứa con này, đến lượt chúng, sẽ trưởng
thành và trở thành chồng và vợ, thế này thế nọ, như bạn
thôi. Và khi bạn chết, bạn sẽ bỏ lại chúng đằng sau để lo
lắng về mạch máu của chúng bị hỏng. Bạn còn làm gì
khác được nào?
Nếu chúng ta biết rằng cuộc sống mà chúng ta đang
cố gắng cứu vãn chẳng có gì trong nó đáng để cứu vãn,
chỉ thế thì chúng ta mới dám đặt cược tất cả mọi thứ của
mình; bằng không thì đó là điều không thể được. Chúng
ta phải rất rõ ràng trong đầu mình rằng điều chúng ta cố
gắng hăng hái thế để cứu vớt chẳng đáng giá công sức.
Chúng ta cũng biết rằng chẳng cái gì được cứu vớt mặc
cho tất cả mọi điều chúng ta làm để cứu vớt nó. Và nếu
chúng ta hiểu điều đó một cách rõ ràng, thế thì không có
vấn đề về bất kì điều gì, ngay cả việc mạch máu bị
hỏng.
Mạch máu sẽ không thực sự bị hỏng. Điều đó chưa
bao giờ xảy ra trong quá khứ cả. Đó sẽ là sự kiện phi
thường nếu bạn làm cho nó xảy ra. Các bạn sẽ lập kỉ lục
mới đó.















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog