Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

Khoảnh khắc quyết định ở trong tay

Khá nhiều câu hỏi đã được nhận trong ba ngày qua,
tôi muốn hôm nay trả lời ngắn gọn thật nhiều nhất trong
số chúng.

Một bạn đã nói rằng khi Vivekananda hỏi
Ramakrishna, "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?"
Ramakrishna trả lời lại, "Có chứ, ta đã thấy thượng
đế như ta thấy ông ngay bây giờ." Và người bạn
này muốn biết liệu người đó có thể đặt cùng câu hỏi
đó với tôi không.

Trước hết, Vivekananda, trong khi đặt ra câu hỏi
này, đã không hỏi xin phép Ramakrishna, ông ta đã đặt
thẳng câu hỏi này ra. Còn bạn không làm như vậy, bạn
chỉ muốn biết liệu bạn có thể làm được như vậy không.
Một Vivekananda là cần để nêu ra câu hỏi này. Và nhớ
lấy, câu trả lời của Ramakrishna đặc biệt ngụ ý dành
cho Vivekananda, ông ấy sẽ không đưa ra cùng câu trả
lời này cho bất kì ai khác.
Trong thế giới tâm linh mọi câu trả lời đều rõ ràng
mang tính cá nhân, chúng được dành cho các cá nhân có
liên quan. Tại đó người trả lời, dĩ nhiên là quan trọng,
nhưng người được trả lời cũng không kém phần quan
trọng. Người cho là có ý nghĩa, nhưng người nhận,
người phải hiểu nó, cũng không kém phần quan trọng.
Rất nhiều người yêu cầu tôi chạm vào họ để cho họ
có cùng kinh nghiệm mê say như Vivekananda đã được
Ramakrishna chạm tới. Nhưng họ không biết tại sao
hàng nghìn người khác, những người mà Ramakrishna
đã chạm vào, đã không trải qua cùng kinh nghiệm đó.
Để Vivekananda có kinh nghiệm này, Ramakrishna chỉ
được năm mươi phần trăm công lao thôi, năm mươi
phần trăm kia thuộc về Vivekananda. Đó là công việc
năm mươi năm mươi.
Và cũng không nhất thiết là kinh nghiệm này sẽ xảy
ra nếu Ramakrishna đã chạm vào Vivekananda vào một
ngày khác. Nó đã xảy ra trong một khoảnh khắc đặc
biệt, cho nên khoảnh khắc này cũng quan trọng. Bạn
không là cùng một người cả hai mươi bốn giờ một ngày.
Trong quá trình hai mươi bốn giờ bạn biến thành bất kì
số người nào, như vậy. Trong một khoảnh khắc đặc
biệt... Vivekananda hỏi, "Thầy đã thấy Thượng đế
chưa?" Những lời này đơn giản thế. Điều đó đối với
chúng ta dường như chúng ta hiểu điều Vivekananda
đang hỏi. Nhưng không, chúng ta không thực hiểu đâu.


Câu hỏi "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" không
đơn giản thế, mặc dầu trên bề mặt dường như là ngay cả
học sinh lớp một cũng có thể hiểu nó. "Thầy đã thấy
Thượng đế chưa?" thực sự là câu hỏi khó. Và
Ramakrishna không đơn thuần trả lời câu hỏi của
Vivekananda, ông ấy thực sự đáp ứng lại khao khát của
Vivekananda, đam mê của ông ấy. Người đã thức tỉnh
không trả lời câu hỏi của bạn, họ đáp ứng lại khao khát
của bạn, đam mê của bạn. Vivekananda với toàn bộ
khao khát của ông ấy, toàn bộ thèm khát của ông ấy về
Thượng đế đã đi vào câu hỏi này, và Ramakrishna đơn
giản đáp ứng cho người đứng đằng sau câu hỏi này.
Một sáng đẹp trời, Phật tới thăm một làng và ai đó
hỏi, "Có Thượng đế không?" Và Phật nói, "Không,
không có Thượng đế." Đến giữa ngày một người khác
tới ông ấy và nói, "Tôi nghĩ không có Thượng đế. Thầy
phải nói gì về điều đó?" Và Phật trả lời, "Thượng đế có
chứ." Đến tối người thứ ba nói với ông ấy, "Tôi không
biết liệu Thượng đế có hay không. Thầy nói gì?" Với
người này Phật nói, "Tốt hơn cả là im lặng đi; đừng nói
có hay không."
Một đệ tử của Phật, người đi cùng ông ấy trên
chuyến du hành, rất sửng sốt khi ông ta nghe ba câu trả
lời khác nhau của thầy mình cho cùng một câu hỏi. Thế
là trước khi đi ngủ buổi đêm ông ấy bảo Phật, "Tôi rất
đỗi ngạc nhiên bởi những câu trả lời của thầy tới mức
tôi dường như phát điên mất. Trong câu trả lời cho cùng
một câu hỏi liệu Thượng đế có hay không thầy nói
'không' vào buổi sáng, 'có' vào buổi trưa, và 'chẳng có
chẳng không' vào buổi tối."
Phật nói với người đó, "Không câu trả lời nào được
trao cho ông cả; chúng đã được dành cho những người
có liên quan, những người đã nêu ra câu hỏi của mình.
Chúng chẳng liên quan gì tới ông cả. Sao ông nghe
chúng? Làm sao ta có thể trả lời cho ông khi ông đã
không hỏi những câu hỏi này? Cái ngày ông đem câu
hỏi của mình tới thì ông cũng sẽ có câu trả lời." Đệ tử
này nói, "Nhưng dẫu sao đi chăng nữa tôi đã nghe câu
trả lời rồi."
Thế là Phật nói, "Những câu trả lời đó được ngụ ý
dành cho người khác, và chúng hợp với những nhu cầu
khác nhau của họ. Người tới gặp ta vào buổi sáng là
người tin, người hữu thần, và anh ta muốn rằng ta phải
xác nhận niềm tin của anh ta. Anh ta không biết liệu có
Thượng đế hay không. Anh ta chỉ muốn thoả mãn bản
ngã mình rằng ta cũng hỗ trợ cho niềm tin của anh ta.
Anh ta đã tới để kiếm hỗ trợ của ta, xác nhận của ta. Do
đó ta nói, 'Không, không có Thượng đế đâu.' Do vậy ta
đã làm anh ta choáng tới tận gốc rễ. Anh ta đã không
biết Thượng đế; nếu anh ta thực sự biết, anh ta đã không
đến ta. Anh ta không biết tìm kiếm xác nhận từ tri thức
của mình. Cho dù cả thế giới có phủ nhận Thượng đế,
anh ta sẽ nói, 'Có Thượng đế; vấn đề phủ nhận đơn giản
không nảy sinh.' Nhưng người này vẫn còn đang truy
tìm, tìm kiếm; anh ta không biết theo cách riêng của
mình. Đó là lí do tại sao ta phải nói không với anh ta.
Thực tế anh ta đã dừng việc tìm kiếm, và ta đã phải cho
anh ta cú ngạc nhiên choáng váng để cho anh ta bắt đầu
tìm kiếm lại. Người đã tới với ta vào buổi trưa là người
không tin, người vô thần; anh ta tin rằng không có
Thượng đế. Với anh ta, ta nói, 'Có Thượng đế.' Anh ta
nữa, đã dừng việc tìm kiếm; anh ta cũng muốn rằng ta
phải xác nhận niềm tin vô thần của anh ta. Còn người
tới vào buổi tối thì không hữu thần không vô thần. Cho
nên sẽ không thích hợp mà gắn anh ta với bất kì niềm tin nào, bởi vì cả có và không đều gắn với nhau. Cho
nên ta đã bảo anh ta rằng nếu anh ta muốn câu trả lời
đúng, thì anh ta tốt hơn cả là giữ yên tĩnh và không nói
có hay không. Và khi có liên quan tới ông, câu hỏi
không nảy sinh, bởi vì ông vẫn còn chưa hỏi câu hỏi của
mình."
Tôn giáo là chuyện riêng tư cao độ. Nó cũng giống
như tình yêu. Nếu, từ tình yêu, ai đó nói điều gì đó cho
người yêu, thì điều đó không cần phải phát thanh ở bãi
chợ. Đó là chuyện hoàn toàn thân mật và cá nhân. Và
nó mất hết mọi ý nghĩa của nó một khi bạn mang nó ra
công cộng. Theo cùng cách này các chân lí tôn giáo đều
mang tính cá nhân cao, chúng được truyền cho cá nhân
này từ cá nhân khác; chúng không phải là cái gì đó ném
theo gió.
Cho nên hỏi câu hỏi đó đi, và hỏi điều bạn cần phải
hỏi, nhưng chỉ khi bạn trở thành một Vivekananda, khi
bạn có cùng đam mê và mãnh liệt như ông ấy có.
Nhưng một Vivekananda không hỏi xin phép, ông
ấy hỏi thẳng câu hỏi của mình.
Một thời gian ngắn trước đây tôi đã ở một thị trấn
nơi một thanh niên tới tôi và hỏi liệu anh ấy có nên trở
thành sannyasin không. Tôi bảo anh ấy, "Chừng nào
bạn cảm thấy thích tư vấn người khác, đừng nhận tính
chất sannyas; bằng không bạn sẽ ăn năn. Và sao bạn lôi
tôi vào rắc rối này? Điều đấy là để cho bạn quyết định
chứ. Cái ngày bạn cảm thấy rằng bạn không thể trì hoãn
được nó cho dù cả thế giới có chen vào đường của bạn,
ngày đó sẽ là ngày điểm đạo của bạn để mang tính
sannyas. Chỉ thế thì tính chất sannyas mới có thể mang
lại kết quả và vui mừng, không trước đó." Rồi anh ta
hỏi, "Thế về thầy thì sao?" Tôi nói, "Tôi chẳng bao giờ
đi tư vấn ai cả. Ít nhất trong cuộc đời này tôi đã không
tư vấn ai cả. Và nếu tôi phải tư vấn chút nào, tôi sẽ tư
vấn bản thể bên trong riêng của tôi. Sao đi tư vấn người
khác? Và làm sao bạn có thể tin cậy vào điều người
khác nói? Bạn không thể dựa vào lời khuyên của người
khác được.
Bất kì điều gì bạn làm, bạn không thể phụ thuộc vào
điều người khác khuyên bạn làm."
Và liệu có gì khác biệt nếu tôi nói rằng có Thượng
đế? Điều đó có tạo ra khác biệt gì cho bạn khi bạn đọc
nó trong cuốn sách mà Ramakrishna đã bảo với
Vivekananda, "Ta thấy Thượng đế còn sinh động hơn là
ta thấy ông"? Bạn có thể viết ra cuốn sách khác nói rằng
bạn đã hỏi tôi và tôi nói, "Có, có Thượng đế. Và tôi thấy
Thượng đế còn rõ ràng hơn tôi thấy bạn." Điều đó có
tạo ra khác biệt không? Cho dù cả nghìn cuốn sách nói
rằng có Thượng đế, điều đó tất cả đều vô ích. Chừng
nào câu trả lời rằng có Thượng đế chưa tới từ bản thể
bên trong của bạn, tất cả mọi câu trả lời từ người khác
đều sẽ không ích lợi gì cả. Câu trả lời vay mượn sẽ
không có tác dụng. Việc vay mượn có thể có ích trong
mọi bước đường khác của cuộc sống, nhưng nó sẽ
không có tác dụng trong hoàn cảnh về Thượng đế. Cho
nên tại sao bạn hỏi tôi? Và làm sao câu trả lời có hoặc
không của tôi có thể có ích được cho bạn? Nếu bạn phải
hỏi một chút gì, hỏi bản thân mình đi. Và nếu câu trả lời
không mà tới từ bạn, thế thì coi nó là định mệnh bắt
buộc nó vậy. Thế thì đợi nó một cách im lặng; và sống
không có câu trả lời, sống với việc không biết. Nếu bạn
có thể sống với việc không biết, thế thì một ngày nào đó
câu trả lời sẽ tới trên con đường của bạn.


Và tất cả mọi câu trả lời đều nằm bên trong chúng
ta, chỉ nếu chúng ta biết cách hỏi đúng, chỉ nếu chúng ta
biết nghệ thuật đặt câu hỏi đúng. Và nếu chúng ta không
biết cách đặt câu hỏi đúng và cứ đi hỏi cả thế giới, điều
đó sẽ hoàn toàn vô ích. Khi một người như
Vivekananda hỏi một câu hỏi và Ramakrishna trả lời
nó, không phải là câu trả lời của Ramakrishna giúp đỡ
cho Vivekananda. Vivekananda hỏi với khao khát mãnh
liệt đến mức câu trả lời của Ramakrishna thậm chí
dường như không là của Ramakrishna, mà là của riêng
ông ấy, tới từ bản thể bên trong nhất của ông ấy. Đó là
lí do tại sao nó có ích, bằng không thì nó chẳng có ích.
Khi một người hỏi ai đó một câu hỏi nảy sinh từ rất sâu
trong bản thể mình, và sự khẩn thiết của nó tới mức
người ta có thể đánh cược cả đời mình cho nó, thế thì
câu trả lời nhận được trở thành câu trả lời riêng của
người ta, nó không là câu trả lời của người khác nữa.
Thế thì người khác chỉ là tấm gương cho người đó, phản
xạ câu trả lời riêng của người đó. Nếu Ramakrishna nói,
"Có, có Thượng đế," điều đó không thực là câu trả lời
của Ramakrishna; ông ấy chỉ phản xạ lại bản thể bên
trong của Vivekananda. Và bởi lí do này nó trở thành
câu trả lời đích thực, dường như ông ấy đã nghe tiếng
vọng riêng của mình, tiếng nói của bản thể bên trong
nhất của riêng mình được vọng qua Ramakrishna. Với
Vivekananda, Ramakrishna đường như không là gì
ngoài tấm gương.
Vivekananda đã đặt cùng câu hỏi này cho người
khác trước khi ông ấy tới Ramakrishna. Người đó là
Maharshi Devendranath, ông của nhà thơ vĩ đại
Rabindranath Tagore. Ông ấy được gọi là Maharshi
Devendranath - nhà tiên tri lớn - và ông ấy hay dành cả
đêm trên con thuyền trên sông Hằng và làm sadhana
của mình - thực hành tâm linh - tại nơi ẩn cư. Vào giữa
đêm, bóng tối của trăng hạ huyền, Vivekananda bơi qua
sông và trèo vào chiếc thuyền của ông ấy, tròng trành từ
đầu nọ tới đầu kia. Vivekananda đẩy cửa vẫn đóng hờ
và đi vào trong cabin. Trời tối và Devendranath đang
ngồi với mắt nhắm trong suy tư. Vivekananda nắm lấy
cổ áo ông ta và lay ông ta. Devendranath thất kinh khi
thấy một thanh niên, ướt sũng, bỗng nhiên đi vào trong
cabin của mình giữa đêm khuya vắng. Cả con thuyền
tròng trành. Ngay khi ông ấy mở mắt ra, Vivekananda
trút luôn câu hỏi của mình vào ông ấy, "Tôi ở đây để
hỏi liệu có Thượng đế hay không." Devendranath đầu
tiên bảo anh ta hãy thảnh thơi và rồi ông ấy cảm thấy
lưỡng lự về câu hỏi của người thanh niên này. Bạn có
thể hình dung hoàn cảnh khó khăn của người đang giữa
đêm thanh vắng bỗng nhiên bắt gặp một thanh niên
không quen biết tới chỗ ẩn cư đơn độc của mình bằng
việc bơi qua sông và quát vào mình câu hỏi, "Có
Thượng đế không?" theo một cách dường như anh ta
đang chĩa súng vào ông ấy. Cho nên ông ấy nói, "Đợi
một chút và thảnh thơi đi. Và trước hết cho ta biết anh
là ai và anh đem cái gì tới đây. Vấn đề là gì?" Và ngay
lập tức Vivekananda thả tay nắm cổ áo ông ấy ra, rời
khỏi căn phòng và nhảy tùm xuống nước. Khi maharshi
hô lên với anh ta, "Nghe đây, anh thanh niên,"
Vivekananda hô lại, "Lưỡng lự của ông đã nói mọi điều
rồi, và bây giờ tôi đi đây."
Lưỡng lự thực sự đã nói mọi điều. Devendranath
lưỡng lự nhiều tới mức ông ấy trì hoãn câu hỏi thực "Có
Thượng đế hay không". Về sau ông ấy thú nhận rằng
ông ấy đã thực sự bối rối bởi vì trước đây chưa bao giờ
ông ấy phải đương đầu với câu hỏi này theo cách thức
kì cục thế. Trong các cuộc họp công cộng và trong đền chùa và đền hồi giáo mọi người đã hỏi ông ấy các câu
hỏi về Thượng đế và tôn giáo và ông ấy đã giải thích
cho họ Veda, Upanishad và Gita đã nói gì về điều đó.
Cho nên tự nhiên ông ấy phải bước lùi lại trước cách
thức hỏi của Vivekananda. Về sau ông ấy thú nhận rằng
ông ấy đã thực sự trong tình huống lúng túng, ông ấy
không thể nghĩ nổi cái gì khi người thanh niên này đã
bắn câu hỏi này vào ông ấy. Và ông ấy cũng nói rằng,
"Khi người thanh niên này đã đi rồi, lần đầu tiên tôi biết
lưỡng lự của tôi là tôi đã không có câu trả lời."
Cho nên hỏi câu phải hỏi của bạn, nhưng chỉ khi
bạn được chuẩn bị cho nó. Tới tôi khi các bạn sẵn sàng
hỏi câu hỏi và nhận câu trả lời. Bởi vì vấn đề sẽ không
dừng lại với một mình câu trả lời cho câu hỏi. Sau khi
Ramakrishna đã trả lời cho ông ấy, Vivekananda không
còn là điều ông ấy vẫn là trước khi nêu ra câu hỏi này.
Ông ấy đã đi tới lúc đầu là Narendranath và sau câu trả
lời của Ramakrishna ông ấy đã biến thành Vivekananda.
Hỏi bạn điều cần thiết, nhưng thế thì bạn sẽ phải được
chuẩn bị cho thay đổi triệt để thế, thay đổi của toàn thể
cuộc đời bạn. Và bạn có thể có câu trả lời. Nhưng nhớ
lấy, Narendranath đã không trở về nhà là Narendranath,
bởi vì khi Ramakrishna nói, "Có Thượng đế, và ta thấy
ông ấy còn rõ ràng hơn ta thấy ông; vì có lúc ta có thể
nói rằng ông là không thực, nhưng ta không thể nói như
vậy đối với Thượng đế," Vivekananda đã không nói,
"Vâng thưa thầy, câu trả lời của thầy là tốt, và tôi đang
định trích dẫn thầy trong bài báo trả lời của tôi." Ông ấy
đơn giản không thể về nhà như ông ấy đã từng là; câu
trả lời đó đã kết liễu ông ấy như ông ấy đã từng là;
Narendranath đã bị kết thúc.
Các bạn có thể có câu trả lời; tôi sẽ không có khó
khăn gì với bất kì điều gì trong việc trao cho bạn câu trả
lời. Nhưng chính bạn mới là người thực sự khó khăn.
Cho nên hãy tới khi bạn cảm thấy đam mê thế về nó. Và
điều đó sẽ là hay nếu bạn tới theo cách kì cục, trong
đêm khuya thanh vắng và túm lấy cổ áo tôi. Nhưng nhớ
lấy, vào lúc bạn túm lấy cổ áo tôi, bạn sẽ bị sa vào lưới
của tôi, và thế thì bạn không thể chạy thoát được. Đó
không phải là thảo luận học thuật nơi vấn đề kết thúc
với hỏi và trả lời. Điều đó không là gì cả. Đó là vấn đề
của sống và chết; bạn sẽ phải đánh cược chính bản thân
cuộc sống của mình.
Một bạn khác hỏi: khi chúng tôi gieo hạt mầm, phải
mất thời gian cho nó mọc lên. Còn thầy nói con
người là hạt mầm, hạt mầm của tính thượng đế, và
rằng con người có thể mọc lên trong tính thượng đế
ngay chính khoảnh khắc này, ngay lập tức. Xin thầy
giải thích điều dường như mâu thuẫn này?
Chắc chắn là tôi nói điều đó đấy. Khi chúng ta gieo
hạt mầm, nó cần thời gian để mọc lên. Nhưng thực sự
nó không cần thời gian để mọc, nó cần thời gian chỉ để
làm tan rã và tan biến như hạt mầm. Việc mọc xảy ra
trong khoảnh khắc; hạt mầm bùng nổ thành việc mọc
cây. Nhưng cần thời gian, tất nhiên, cho hạt mầm để tan
rã và tan biến như hạt mầm. Cho nên tôi không nói rằng
các bạn không thể cần thời gian để làm tan biến như
một bản ngã, mà tôi nói rằng Thượng đế không bao giờ
cần thời gian cả, ngài tới trong khoảnh khắc. Chẳng
hạn, nếu chúng ta đun sôi nước, phải mất thời gian để
đạt tới điểm sôi, để được sôi lên ở một trăm độ. Nhưng
một khi nước chạm tới điểm sôi, nó biến thành hơi nước chẳng mất thời gian nào. Đó là cú nhảy; ngay khi nước
đạt tới điểm sôi, nó lấy cú nhảy; nó biến mất là nước,
trở thành hơi. Không phải là nước sẽ biến thành hơi dần
dần, từng mẩu một; không, nó biến thành hơi trong một
cú, trong một cú nhảy. Tất nhiên, nước cần thời gian để
đạt tới điểm sôi. Nó vẫn là nước cho tới khi nó chạm tới
điểm không quay lại - một trăm độ. Cho dù tại chín
mươi chín độ, nó vẫn còn dưới dạng nước.
Thượng đế là sự bùng nổ - bước nhảy. Ngài là điểm
bùng phát. Chừng nào bạn còn chưa đạt tới điểm đó,
bạn vẫn còn là một con người, cho dù nỗ lực của bạn,
giống như nước, đã đạt tới chín mươi chín độ. Khi bạn
đạt tới điểm sôi, bạn sẽ biến thành Thượng đế. Nơi bạn
kết thúc, Thượng đế bắt đầu.
Cho nên tôi nói, nó có thể xảy ra vào chính khoảnh
khắc này. Tôi ngụ ý gì bởi khoảnh khắc này? Nó ngụ ý
rằng nếu chúng ta đã được chuẩn bị để đi tới điểm sôi,
thì điều đó có thể xảy ra trong khoảnh khắc. Chẳng phải
đã lâu rồi chúng ta đều trong vạc dầu đó sao? Hết kiếp
nọ tới kiếp kia chúng ta đã cố gắng để được đun nóng
lên theo cách thức thiêng liêng, và chúng ta đã không
đạt tới một trăm độ. Bạn cần thêm bao nhiêu thời gian
nữa? Bạn chưa lấy đủ thời gian sao? Không, chúng ta đã
dùng đủ thời gian rồi; nhưng chúng ta không biết nghệ
thuật đun nóng và đạt tới điểm sôi. Ngay cả khi chúng
ta đạt tới chín mươi chín độ, chúng ta lập tức quay lại
và bắt đầu nguội đi, bởi vì chúng ta sợ một trăm độ. Tôi
đã để ý điều đó trong việc thiền bao nhiêu người trong
các bạn quay lại sau khi đạt tới chín mươi chín độ.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao những điều tầm
thường lặt vặt làm bạn quay lại. Dường như bạn đã định
quay lại rồi. Điều đó cũng giống như một người lên tàu
hoả để đi Bombay, và thấy hai người đang to tiếng nói
chuyện với nhau và người đó từ bỏ cuộc hành trình của
mình và trở về nhà lấy cớ là cuộc nói chuyện to quá của
hai người kia đã làm nhiễu loạn anh ta và anh ta không
đến được Bombay. Hiển nhiên là người này không
muốn tới Bombay, vì nhiễu loạn như vậy là không thể
tránh khỏi trong cuộc hành trình kiểu như thế này. Nếu
người ta phải tới Bombay người đó cứ đi mặc cho
những nhiễu loạn tí ti như vậy; người đó không bao giờ
từ bỏ cuộc hành trình của mình. Thay vì thế những
nhiễu loạn trên đường khích lệ người đó đi nhanh hơn
để cho người đó không phải nghe những chuyện tán gẫu
vô ích.
Nhưng người ta từ bỏ thiền bởi những lí do rất tầm
thường. Người ta từ bỏ bởi vì ai đó kéo họ lại một chút,
hoặc chạm vào người họ hoặc ai đó ngã ra đất và bắt
đầu khóc. Dường như người đó muốn từ bỏ và do vậy
chờ đợi bất kì cái cớ nào để hạ thấp nhiệt tình của mình.
Thậm chí một tiếng hét nhỏ cũng trở thành cái cớ lớn
cho người đó dừng không thiền thêm nữa. Tiếng hét có
liên quan gì tới bạn? Và người đó không biết mình đang
bị mất gì, mình đang phải trả giá gì cho những cái cớ lặt
vặt đó. Và người đó cũng không biết mình đang nói gì.
Một thời gian ngắn trước đây một người bạn đã gặp
tôi trên đường và nói, "Xin thầy yêu cầu những người
này ở đây đừng bị kích động nhiều quá, yêu cầu họ chơi
nó với âm điệu thấp hơn, bằng không tình huống bùng
nổ có thể được tạo ra. Hai người đang thiền bỗng nhiên
thành trần truồng." Anh ta nói điều đó khá đáng yêu:
rằng người nào đó bực mình bởi vì hai người đã lột
quần áo của họ ra, và do vậy tôi nên kìm họ lại.


Mọi người đều trần truồng bên trong quần áo của
mình và không ai bực mình về điều đó cả. Bên trong
quần áo tất cả chúng ta đều trần truồng và không ai bị
quấy rầy cả. Nhưng mọi người đều bị quấy rầy bởi hai
người cởi quần áo của họ ra trong khi thiền. Đó là điều
nực cười thế. Có thể hiểu được nếu ai đó đã cởi quần áo
của bạn ra và bạn tức giận. Nhưng sao bạn tức giận về
ai đó cởi quần áo riêng của họ ra? Tức giận là được nếu
ai đó đã cướp quần áo của bạn, mặc dầu điều đó nữa
cũng là vô nghĩa. Jesus đã nói, "Nếu ai đó lấy đi của
ông chiếc áo choàng, cho người đó cái áo sơ mi nữa. Có
thể, người đó không thể lấy nữa được bởi vì xấu hổ."
Việc phản đối của người đó là được biện minh nếu ai đó
đã vứt bỏ áo choàng của mình. Nhưng sao người đó làm
mất trí của mình nếu ai đó cởi áo choàng của riêng mình
ra? Dường như là người đó chỉ đợi cơ hội ai đó cởi áo
choàng của mình ra và người đó làm dịu đi nỗ lực của
mình và đổ mọi oán trách lên người kia.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao ai đó định ở trần
mà quấy rối việc thiền của bạn được, chừng nào bạn còn
chưa quan sát chặt chẽ người đó làm như vậy. Bạn có
thiền không hay làm cái gì vậy? Trong thực tế, bạn phải
không biết ai cởi quần áo của người đó và điều đang
xảy ra xung quanh bạn. Bạn phải làm việc thiền của
mình và vẫn còn giới hạn vào bản thân mình. Hay bạn
phải quan tâm tới điều người khác làm? Bạn là thợ giặt
hay thợ may mà bạn quan tâm nhiều thế tới quần áo của
người khác vậy? Lo lắng của bạn là không có cơ sở và
vô nghĩa.
Và người cởi quần áo của mình... nghĩ về điều đó.
Bạn sẽ biết điều đó nếu bạn được yêu cầu tụt quần áo
của bạn ra. Thế thì bạn sẽ biết rằng người ta có những lí
do lớn lao để cởi quần áo mình ra; cái gì đó phải đã xảy
ra cho người đó để làm như vậy. Có lẽ bạn sẽ không
làm điều đó cho dù người ta cho bạn một trăm nghìn ru
pi tiền thưởng. Và người này đã cởi quần áo của mình
mà chẳng được cúng tặng như vậy, và bạn bực mình
một cách không cần thiết. Một lí do mạnh mẽ nào đó
phải đã nảy sinh, nhắc nhở người đó làm như vậy.
Chúng ta vẫn còn chưa biết cách nhìn và hiểu cuộc sống
với sự thông cảm và chăm nom.
Khi Mahavira cởi bỏ quần áo của mình lần đầu tiên,
ông ấy bị nhận gạch và đá. Còn bây giờ ông ấy được tôn
thờ. Và những người tôn thờ ông ấy đang bán quần áo
khắp mọi nơi. Các tín đồ của Mahavira tất cả đều là nhà
buôn quần áo. Điều này thật lạ thế. Và chính những
người này đã ném đá vào ông ấy. Và để chuộc lỗi về
điều đó họ bây giờ bán quần áo để cho không ai bị
hướng theo việc ở trần. Các nhà buôn quần áo đều là tín
đồ của Mahavira còn bản thân ông ấy thì sống trần. Khi
ông ấy cởi bỏ quần áo của mình, ông ấy đã bị đuổi ra
khỏi hết làng nọ tới làng kia. Không một làng nào cho
ông ấy trú ngụ. Bất kì nơi đâu ông ấy tới, ông ấy đều bị
đuổi đi bởi vì ông ấy trần truồng. Và bây giờ ông ấy
được yêu mến và tôn thờ - ông ấy, người đã bị từ chối
cho trú ngụ - không chỉ trong một làng hay nhà trọ, ông
ấy còn không được phép có chỗ trú ngụ ngay cả ở vùng
đất hoả táng bên ngoài làng và là nơi xác chết được đem
thiêu. Chó hoang được thả ra đuổi ông ấy để cho ông ấy
không tới gần làng. Cái gì có đó gây rắc rối cho mọi
người? Chẳng có gì ngoại trừ rằng Mahavira đã vứt bỏ
quần áo của mình.
Điều đáng ngạc nhiên là đơn thuần vứt bỏ quần áo
về phần một người ... Lí do có thể là gì? Nỗi sợ đằng
sau điều đó là gì? Nỗi sợ là thực sự khủng khiếp. Chúng
ta trần trụi bên trong, chúng ta hoàn toàn bị thoái hoá và nghèo nàn trong bản thể mình tới mức như cảnh tượng
về khu chợ trơ trụi - trơ trụi được gắn chặt với nghèo
nàn và nghèo khó - nhắc nhở chúng ta về thoái hoá và
nghèo nàn bên trong của riêng chúng ta. Không có lí do
nào khác hơn điều này.
Và nhớ lấy, tính trần truồng là một điều và tính trần
trụi là một điều hoàn toàn khác. Nhìn vào Mahavira
không ai có thể nói rằng ông ấy trần truồng cả, ông ấy
trông đẹp thế. Và chừng nào còn có liên quan tới chúng
ta thì chúng ta trông trần truồng và xấu xí ngay cả trong
những bộ áo quần đẹp nhất của mình.
Bạn đã quan sát cẩn thận những người cởi quần áo
của họ trong khi thiền chưa? Bạn không dám, mặc dầu
bạn phải đã lén nhìn vào họ lúc này lúc khác, bằng
không thì bạn đã không tức giận về điều đó và nghĩ về
tình huống bùng nổ nảy sinh từ nó. Cùng người bạn đó
đã viết cho tôi rằng đàn bà đặc biệt bị quấy rối bởi sự
việc này. Điều đó nghĩa là gì? Họ ở đây chỉ để quan sát
nếu ai đó cởi quần áo mình ra sao? Họ ở đây để thiền;
thay vì họ lén nhìn người khác. Họ đã từ bỏ việc nhớ tới
mình, họ đã dừng việc quan sát bản thân mình thay vì
vậy họ làm bận rộn mình với việc nhìn xoi mói và rình
mò vào những người trần trụi. Thế thì tình huống này
nhất định mang tính bùng nổ. Ai yêu cầu bạn để mắt tới
họ? Bạn có mắt của mình được bịt kín. Làm sao điều đó
thành vấn đề nếu ai đó ở trần? Khi có liên quan tới
người ở trần, người đó đã không quan sát bạn chút nào.
Nếu một người cởi trần mà tới tôi và phàn nàn rằng sự
hiện diện của đàn bà rất gây ngượng nghịu cho người
đó, thì điều đó còn thể hiểu được. Điều kì lạ là đàn bà
thấy họ trong trạng thái bùng nổ bởi vì anh ấy. Tâm trí
bạn chắc lấy làm vui sướng nếu chỉ bạn mới nhìn anh ta
một cách cẩn thận. Thế thì được nhiều thứ; tâm trí bạn
sẽ cảm thấy sung sướng và nhẹ gánh. Điều đó sẽ tạo ra
khác biệt lớn cho bạn. Nhưng dường như là chúng ta
quyết tâm tránh xa tất cả những cái thực sự có lợi. Và
có lẽ chúng ta khao khát chuốc lấy thảm hoạ. Và không
có kết thúc cho niềm tin và quan niệm điên khùng của
chúng ta.
Một thời điểm tới trong quá trình thiền, và nó tới
theo cách không cưỡng lại được với một số người, khi
họ phải cởi quần áo mình ra. Và họ cởi quần áo ra với
việc cho phép của tôi. Cho nên nếu bạn muốn bùng nổ,
tốt hơn cả bạn nổ vào tôi. Mọi người để trần thân thể
mình ở đây đều đã có phép của tôi. Tôi đã đồng ý với
hành động của họ. Họ tới tôi và nói rằng trong quá trình
thiền họ cảm thấy rằng nếu họ không cởi quần áo ra thì
cái gì đó bên trong họ sẽ bị chặn lại. Và tôi đã yêu cầu
họ cứ tiến lên mà không cần quần áo. Và đó là điều phải
liên quan tới họ, chứ không tới bạn. Cho nên tại sao bạn
lo nghĩ về điều đó? Và nếu bất kì ai nhiếc móc họ về
điều này, người đó đã làm một việc rất sai. Bạn không
có quyền làm như vậy.
Bạn nên hiểu rằng sẽ tới một khoảnh khắc của hồn
nhiên khi nhiều điều trở thành cản trở cho tâm trí hồn
nhiên. Quần áo bao gồm một trong những ức chế mạnh
nhất của con người; chúng tạo nên điều sâu nhất trong
những điều kiêng kị. Chúng biểu thị cho một trong
những thói quen cổ nhất và hằn sâu nhất của con người.
Và một khoảnh khắc tới trong cuộc sống xã hội của
chúng ta khi những quần áo chúng ta trở thành biểu
tượng cho toàn thể nền văn minh của chúng ta. Nhưng
điều đúng tương đương là một khoảnh khắc tới với một
số người, không phải cho tất cả mọi người, khi họ cảm
thấy như trọng lượng không cần thiết của tâm trí.

Phật mặc quần áo trong cả đời mình, và Jesus cũng
vậy. Nhưng Mahavira đã vứt bỏ chúng. Và đã xảy ra
việc một người đàn bà dám làm như vậy, như Mahavira,
mặc dầu đàn bà vào thời của Mahavira đã không thể
dám thế. Mahavira có một số rất lớn các đệ tử nữ, họ
còn đông hơn các đệ tử nam. Trong số các đệ tử của ông
ấy chỉ có mười nghìn đàn ông và có tới bốn mươi nghìn
đàn bà. Nhưng không một đệ tử nữ nào của ông ấy có
thể thu được dũng cảm để cởi bỏ quần áo. Đó là lí do tại
sao Mahavira đã phải nói rằng những người đàn bà đó
phải được sinh ra lần nữa, bởi vì chừng nào họ còn chưa
lấy hoá thân thành nam giới thì họ không thể đạt tới
được moksha hay giải thoát. Bởi vì người còn sợ việc
cởi bỏ quần áo sẽ rất sợ cởi bỏ thân thể. Do đó
Mahavira phải đặt ra một luật rằng tự do là không thể có
được qua hoá thân nữ giới; đàn bà phải lấy hoá thân
nam giới cho ý định này. Không có lí do nào khác cho
luật này.
Nhưng cũng đã có những người đàn bà bạo dạn
nữa: một người như vậy là Lalla ở Kashmir. Nếu
Mahavira mà gặp Lalla thì ông ấy sẽ không đặt ra
nguyên tắc như vậy. Lalla ở Kashmir đích xác giống hệt
Mahavira; nếu bạn hỏi một người Kashmiri về bà ấy thì
người đó sẽ nói, "Chúng tôi ở Kashmir chỉ biết hai cái
tên: Allah và Lalla; chỉ hai cái tên thôi." Lalla đã sống
trần, và toàn thể Kashmir ngưỡng mộ và yêu mến bà ấy.
Trong sự trần trụi của bà ấy mọi người lần đầu tiên thấy
cái đẹp và sự hồn nhiên mà đơn giản phi thường. Bà ấy
toả ra sự hồn nhiên và niềm vui sướng của trẻ thơ. Nếu
Mahavira gặp bà ấy, thì ông ấy đã cứu được vết nhơ
dính vào ông ấy. Có vết nhơ trên Mahavira, và đó là ở
chỗ ông ấy nói tự do là không thể được qua hoá thân nữ
giới. Nhưng Mahavira không chịu trách nhiệm về điều
đó, thực sự những người đàn bà quanh ông ấy mới đáng
nhận sự trách móc. Thấy họ ông ấy nói, "Làm sao đàn
bà có thể vứt bỏ được gắn bó của họ với thân thể nếu
gắn bó của họ với quần áo còn mạnh thế? Níu bám của
họ vào quần áo bên ngoài mạnh đến mức không thể
trông đợi họ gạt bỏ níu bám của mình vào quần áo bên
trong, chính là thân thể."
Tôi không yêu cầu các bạn cởi quần áo của mình,
nhưng nếu ai đó làm điều đó thì chẳng có lí do gì để
cấm người đó bất kì cái gì. Nếu thậm chí trong một trại
thiền chúng ta không thể cho phép tự do này - rằng
người ta có thể tự do tới mức độ này, nếu người đó
quyết chí, thế thì sẽ không thể nào tìm ra tự do này ở bất
kì đâu khác trên thế giới này. Và trại thiền được ngụ ý
dành cho người tìm kiếm, không cho khán giả. Tại đây
chừng nào người ta không chen vào đường của người
khác, người đó được quyền theo tự do tuyệt đối của
mình. Nếu ai đó xâm phạm vào tự do của bạn, rắc rối
bắt đầu, và bạn có lí do để phàn nàn. Nếu ai đó bắt đầu
ở trần và đánh vào bạn, nếu người đó làm bạn bị
thương, có mọi lí do để kìm người đó lại. Nhưng chừng
nào người đó đang làm điều gì đó với bản thân mình,
làm việc riêng của mình, bạn không là ai để mà can
thiệp vào chuyện của người đó và bạn không có quyền
đưa ra bất kì phản đối nào.
Điều chúng ta coi là nhiễu loạn đối với thiền là rất
buồn cười. Nếu ai đó ở trần, việc thiền của nhiều người
khác bị làm hỏng. Điều không tốt là cứ cố giữ việc thiền
què quặt, việc thiền yếu đuối và nhu nhược như thế này.
Giá trị của nó là gì? Điều này, rằng nếu người ta không
cởi quần áo của mình thì bạn đã làm được nó rồi.
Nhưng điều đó là không thể được. Không, bạn phải gạt
bỏ những vấn đề nhỏ mọn đó đi, những vấn đề quá mức nhỏ mọn. Sadhana, hay việc theo đuổi tâm linh, là vấn
đề của lòng dũng cảm lớn lao. Tại đây chúng ta phải tự
mình cởi bỏ hết tầng nọ đến tầng kia, như chúng ta bóc
hành. Theo nghĩa sâu sắc nhất của nó sadhana là việc
đương đầu với sự trần trụi bên trong nhất của người ta.
Không nhất thiết phải cởi bỏ quần áo, nhưng với một số
người, đôi khi tình huống có thể nảy sinh khi sẽ cần
phải làm như vậy. Và nhớ rằng bạn không thể nghĩ về
tình huống này từ bên ngoài được; mà bạn cũng không
có quyền để phán xét liệu nó đúng hay không đúng,
cũng không bàn tán về nó. Bạn là ai để làm như vậy?
Làm sao bạn chen vào việc này? Và làm sao bạn có thể
biết về nó được? Bạn có cho rằng những người đuổi
Mahavira ra khỏi làng họ là những người độc ác không?
Không, họ cũng văn minh và văn hoá như bạn vậy và,
giống bạn, họ nghĩ rằng vì ông ấy ở trần nên ông ấy
không có chỗ trong họ.
Nhưng chính điều không may là ở chỗ mọi lần
chúng ta đều lặp lại cùng sai lầm. Người bạn gặp tôi
trên phố đã nói bằng tình yêu và sự thông cảm rằng tôi
nên kìm những người này lại đừng để cởi trần ra, bằng
không thì việc tham dự vào việc thiền của chúng ta ở
Bombay sẽ sụp đổ nhanh chóng. Thì cứ để cho nó sụp
đổ đi; cứ để cho không một ai tới cả! Không có nhu cầu
chút nào để những người sai tới thiền. Với tôi sẽ chẳng
có khác biệt gì nếu chỉ một người đến. Cũng người bạn
đó nói rằng đàn bà sẽ tránh xa hoàn toàn; không người
nào trong số họ sẽ dự trại nữa. Thì cứ để họ tránh xa ra.
Ai bảo họ đến trại này? Đấy là để cho họ quyết định, và
quyết định cho chính họ. Và nếu họ chọn tham dự, thì
họ có thể làm như vậy theo điều kiện của tôi. Trại này
không thể được tổ chức theo điều khoản của họ. Và
ngày tôi sẽ tổ chức trại theo điều khoản của bạn, sẽ là
tốt nếu các bạn không tham dự nó chút nào. Thế thì tôi
sẽ không dùng bất kì cái gì cho bạn cả.
Trại thiền sẽ được cai quản theo điều khoản của tôi.
Tôi không tới vì các bạn, mà tôi cũng không thể hướng
tôi theo ước muốn của các bạn. Các bạn không thể chỉ
đạo và ra lệnh cho tôi được. Các guru, các bậc thầy,
những người không còn nữa, trở nên được nhiều người
ưa chuộng sau khi họ đã chết và đã qua đời bởi chính lí
do là các bạn có thể thao túng và quản lí họ tuỳ ý bạn,
họ không thể làm được điều gì cả. Nhưng nếu bậc thầy
còn sống, thầy nhất định là khó khăn cho bạn. Đó là lí
do tại sao một Mahavira sống bị đánh và một Mahavira
chết được tôn thờ trên khắp thế giới. Bậc thầy sống
chuyên gây rắc rối phiền hà, bởi vì bạn không thể chặn
thầy được, bạn không thể kiểm soát được thầy.
Trong mắt tôi không có lí do nào khác cho việc tới
của bạn có tính hợp thức nào ngoại trừ một lí do. Và
người tới và người không tới đều không quan trọng gì
với tôi cả. Tôi muốn rằng bất kì ai tới cũng đều phải tới
với hiểu biết đầy đủ tại sao người đó tới và để làm gì.
Một bạn hỏi: xin thầy giải thích đầy đủ sahaja yoga
- vô nỗ lực, tự nhiên và yoga tự phát - nghĩa là gì?
Sahaja yoga là môn yoga khó nhất, bởi vì chẳng có
gì khó hơn việc là sahaja - vô nỗ lực, tự nhiên và tự
phát. Ý nghĩa của sahaja là gì? Sahaja nghĩa là: để cho
bất kì cái gì xảy ra cứ xảy ra, đừng kháng cự lại nó. Bây
giờ một người đã trở nên trần trụi; điều này có thể là tự
nhiên và dễ dàng cho người đó để là vậy. Nhưng trong thực tế nó đã trở thành khó thế. Mang tính sahaja nghĩa
là tuôn chảy như không khí và nước, và không cho phép
trí năng chen vào giữa đường của bất kì cái gì đang xảy
ra.
Ngay khi trí năng chen vào đường, ngay khi nó can
thiệp vào, chúng ta dừng là sahaja, tự nhiên, và bắt đầu
là asahaja, phi tự nhiên. Ngay khi chúng ta quyết định
cái gì phải là và cái gì không phải là, thì chúng ta lập
tức bắt đầu phi tự nhiên. Và chúng ta trở thành tự nhiên
khi chúng ta chấp nhận cái xảy ra, cái đang đó.
Cho nên điều đầu tiên cần hiểu là ở chỗ sahaja yoga
là yoga khó nhất. Đừng nghĩ rằng nó rất dễ dàng như
thuật ngữ này gợi ý. Có quan niệm sai rằng sahaja yoga
là cách thức dễ dàng của sadhana hay kỉ luật tâm linh.
Mọi người trích dẫn Kabir: "Sadho, sahaj samadhi
bhali; Hỡi người tìm kiếm, cực lạc tự nhiên là điều tốt
nhất." Tất nhiên, nó là điều tốt nhất, nhưng nó cũng là
điều rất khó. Bởi vì không cái gì khó hơn đối với con
người là tự nhiên. Con người đã trở thành phi tự nhiên,
con người đã du hành đi xa khỏi việc là tự nhiên đến
mức bây giờ thật dễ dàng cho con người phi tự nhiên và
rất khó để là tự nhiên.
Nhưng thế thì chúng ta phải hiểu đôi điều trong
hoàn cảnh này, bởi vì điều tôi đang dạy chính là bản
thân sahaja yoga.
Áp đặt học thuyết và giáo điều lên cuộc sống là làm
suy đồi cuộc sống. Nhưng tất cả chúng ta đều làm điều
đó; tất cả chúng ta đều áp đặt các học thuyết và lí tưởng
lên bản thân mình. Ai đó bạo hành và người đó đang cố
gắng là bất bạo hành. Ai đó giận dữ và người đó đang
cố an bình. Ai đó độc ác và người đó đang cố tốt bụng.
Kẻ trộm đang cố làm người hào phóng, và kẻ ác cố
thánh thiện. Đây là cách tất cả chúng ta đang là; chúng
ta bao giờ cũng cố gắng áp đặt cái gì đó lên cái chúng ta
đang là. Nhưng kết quả là gì?
Chúng ta không chỉ thất bại khi chúng ta không
thành công theo nỗ lực này, chúng ta thất bại cả khi
chúng ta thành công nữa. Bởi vì dù kẻ trộm có cố gắng
đến đâu, người đó cũng không thể hào phóng được;
người đó tất nhiên có thể đem cho từ thiện và người đó
có có ảo tưởng về việc hào phóng; nhưng tâm trí của kẻ
trộm bao giờ cũng tìm ra cách để trộm thông qua từ
thiện.
Tôi đã nghe nói rằng hiền nhân Eknath có lần đi
hành hương. Khi ông ấy sắp sửa rời khỏi làng mình thì
một tên trộm ở chỗ ông ấy bày tỏ ước muốn đi cùng ông
ấy trong cuộc hành hương này. Anh ta nói từ khi anh ta
phạm tội, anh ta đã rất mong muốn gột sạch tội lỗi của
mình bằng việc đầm mình vào sông Hằng linh thiêng.
Eknath nói, "Tôi không phản đối việc đi cùng của ông
với tôi, vì tất cả những người đi với tôi đều là kẻ trộm
thuộc đủ mọi loại, nhưng có khó khăn đấy. Những kẻ
trộm khác này nói rằng tôi không nên đem ông đi cùng
vì họ sợ ông sẽ đánh cắp các thứ của họ và gây cho họ
rắc rối. Cho nên ông có thể đi cùng với một điều kiện
kiên quyết là ông sẽ không say mê ăn cắp trong khi đi
hành hương." Anh ta nói, "Tôi xin thề, tôi sẽ không ăn
cắp trong cuộc hành hương - từ đầu tới cuối."
Khi cuộc hành trình bắt đầu tên trộm gia nhập nhóm
người hành hương của Eknath, cũng toàn là trộm cắp
cả. Họ đều là trộm cắp thuộc các loại khác nhau. Tất cả
mọi tên trộm đều không thuộc cùng một loại. Một loại
trộm làm việc như các quan toà và các loại trộm khác hoạt động theo cách khác. Đủ mọi loại trộm, kể cả tên
trộm này, đều đi hành hương.
Khi cuộc hành trình bắt đầu, tên trộm nghèo cảm
thấy rất không thoải mái. Thói quen trộm cắp cũ của
anh ta và lời hứa của anh ta với Eknath đã đẩy anh ta
vào rắc rối. Anh ta trải qua ngày, nhưng đêm thật khó
khăn. Khi những người hành hương khác ngủ rồi, anh ta
cảm thấy bứt rứt, bởi vì đây là giờ làm việc của anh ta.
Bằng cách nào đó anh ta cũng trải qua được một hay hai
ngày nhưng đến ngày thứ ba anh ta tự nói với mình,
"Mình sợ cuộc hành hương này sẽ kết liễu mình mất, vì
nó kéo dài hàng tháng trời. Làm sao mình chịu được lâu
thế? Và nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ mình có thể quên
mất nghề của mình nếu mình không ăn cắp nhiều tháng
ròng. Nếu vậy, mình sẽ làm gì khi mình về nhà? Cuộc
hành hương rồi sẽ kết thúc; nó không thể kéo dài cả đời
được."
Thế là rắc rối bắt đầu với đêm thứ ba. Đó là một
loại rắc rối tôn giáo và có trật tự. Anh ta ăn cắp, nhưng
theo một phong cách hoàn toàn mới và khác biệt. Anh
ta lấy từ túi của người hành hương này và để chúng vào
túi của người khác; anh ta chẳng lấy gì cho mình cả.
Sáng hôm sau mọi người hành hương đều tức giận.
Từng người trong họ đều bị mất cái gì đó mà sau đó lại
được tìm thấy trong túi của ai đó khác. Có năm mươi
cho tới một trăm người hành hương - con số khá lớn -
và thật khó định vị mọi thứ. Mọi người đều phân vân,
họ không thể biết tất cả điều đó là cái gì. Đồ không biến
mất, nhưng chúng tất cả đều đã đổi chỗ. Thế rồi điều đó
làm loé lên ý nghĩ cho Eknath rằng điều đó có thể là
việc làm của cùng một kẻ trộm, người đã trở thành
người hành hương. Thế là ông ấy thức vào đêm. Sau
nửa đêm ông ấy thấy cũng tên trộm đó rời khỏi giường
và bỏ các thứ từ túi này sang túi khác. Eknath tới giữ
anh ta lại và hỏi, "Này, anh làm gì vậy?" Người này nói,
"Tôi biết tôi đang có lời thề rằng tôi sẽ không ăn cắp, và
tôi giữ lời thề của mình. Tôi không ăn cắp đồ vật, tôi chỉ
thay đổi chỗ của chúng. Tôi không lấy cái gì cho mình
cả; tôi chỉ bỏ nó từ túi này ra và đặt nó vào túi khác. Và
điều này chắc chắn không thuộc vào lời cam kết của tôi
với ông."
Eknath hay nói về sau rằng dù tên trộm có thể cố
gắng thay đổi bằng cách nào, điều đó cũng chẳng khác
biệt.
Tất cả những điều phi tự nhiên của cuộc sống chúng
ta đều là điều này - rằng chúng ta bao giờ cũng cố gắng
để khác với cái chúng ta đang thực là. Không, sahaja
yoga sẽ nói, đừng cố gắng khác hơn điều bạn đang là;
biết điều bạn đang là và sống nó. Nếu bạn là kẻ trộm
biết rằng bạn là kẻ trộm và sống cuộc sống của kẻ trộm
một cách đầy đủ. Điều này rất gian nan, bởi vì ngay cả
kẻ trộm cũng cảm thấy được hài lòng khi nghĩ rằng
mình đang cố gắng gạt bỏ việc trộm cắp. Người đó
không gạt bỏ bản thân mình thực sự khỏi điều đó,
nhưng người đó cảm thấy được nhẹ nhõm để nghĩ rằng
mặc dầu mình là kẻ trộm hôm nay mình sẽ thôi là kẻ
trộm ngày mai. Ngay cả bản ngã của kẻ trộm cũng nhận
được sự hài lòng từ ý nghĩ rằng mặc dầu người đó bị ép
buộc bởi hoàn cảnh mà phải trộm cắp, một ngày nào đó
sẽ sớm đến khi người đó sẽ là một người nhân đức, và
không là kẻ trộm. Cho nên trong hi vọng vào ngày mai
người đó thoải mái ăn trộm hôm nay.
Sahaja yoga nói rằng nếu bạn là kẻ trộm thế thì biết
rằng bạn là kẻ trộm đi và cứ trộm cắp một cách có hiểu biết về điều đó, nhưng không với hi vọng rằng ngày mai
bạn sẽ thôi là kẻ trộm. Và nếu chúng ta biết đúng điều
chúng ta đang thực là, nếu chúng ta chấp nhận bản thân
mình như chúng ta đang là và thực tế sống với nó, thế
thì cuộc cách mạng có thể xảy ra ngay hôm nay. Nếu kẻ
trộm nhận biết đầy đủ rằng mình là kẻ trộm thì người đó
không thể vẫn còn là kẻ trộm lâu được. Trong thực tế,
chính cách thức của người đó để tiếp tục là kẻ trộm là ở
chỗ người đó nói rằng mình không thực là kẻ trộm, và
trong những hoàn cảnh tốt hơn trong tương lai người đó
sẽ không là kẻ trộm nữa. Ý tưởng hay lí tưởng này làm
cho anh ta vẫn thoải mái là trộm; anh ta ăn trộm và vậy
mà vẫn còn không phải là kẻ trộm. Người khác nói rằng
anh ta không bạo hành, chính là hoàn cảnh đã buộc anh
ta phải bạo hành. Ai đó khác nói rằng anh ta mất bình
tĩnh bởi vì người khác xúc phạm anh ta, bằng không anh
ta không phải là người giận dữ; anh ta bị buộc thành
giận dữ. Anh ta thậm chí xin tha thứ; anh ta nói, "Xin
tha thứ cho tôi, anh trai ơi, tôi cũng ngạc nhiên làm sao
tôi đã dùng những lời lẽ thế để chống lại anh. Tôi không
thực là người ngạo mạn đâu." Do vậy lòng tự hào của
anh ta, bản ngã anh ta được khôi phục lại. Trong thực
tế, tất cả mọi ăn năn đều là cách để khôi phục bản ngã.
Người giận dữ này cứu lấy bản ngã mình bằng việc cầu
xin tha thứ.
Sahaja yoga nói: Biết rằng bạn là điều bạn đang là,
và đừng cố gắng đi xa khỏi nó cho dù một li; đừng cố
gắng khác với nó theo cách thức nhỏ nhặt nhất. Và
khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết hoàn toàn về tội lỗi
của nó, nỗi đau của nó, nỗi khổ của nó, nỗi cơ cực của
nó, ngọn lửa địa ngục của nó, bạn sẽ lập tức nhảy ra
khỏi nó và bạn sẽ được tự do với nó không cần thời gian
nào; bạn sẽ phải thoát ra ngoài nó một cách toàn bộ.
Nếu kẻ trộm biết bản thân mình một cách đầy đủ là kẻ
trộm và không nuôi dưỡng trong tâm trí mình cho dù
một ý nghĩ nhỏ nhặt nhất rằng mình sẽ thôi là kẻ trộm;
nếu người đó biết rằng mình là kẻ trộm hôm nay và
người đó sẽ là kẻ trộm vĩ đại hơn ngày mai, bởi vì trong
hai mươi bốn giờ thói quen của người đó sẽ được làm
mạnh thêm; nếu người đó chấp thuận định mệnh của
mình là kẻ trộm một cách hoàn toàn và với hiểu biết đầy
đủ, bạn có cho rằng người đó có thể vẫn còn là kẻ trộm
cho dù lấy một khoảnh khắc không? Nhận biết này rằng
mình là kẻ trộm sẽ chìm vào trong tim người đó giống
như viên đạn và nó sẽ đơn giản là không thể được cho
người đó để sống với hoàn cảnh này cho dù một khoảnh
khắc. Trong chính khoảnh khắc đó cách mạng sẽ xảy ra,
chuyển hoá sẽ xảy ra.
Nhưng chúng ta rất láu lỉnh, và chúng ta có những
phương cách láu lỉnh riêng của mình. Chúng ta là kẻ
trộm và chúng ta mơ trở thành người nhân đức, và đây
là cách những giấc mơ này giúp chúng ta vẫn còn là kẻ
trộm liên miên. Thực tế các giấc mơ của chúng ta vận
hành giống như cái giảm xóc có đó giữa hai giá chuyển
hướng của ô tô ray để hấp thu những cú xóc của chuyển
động. Cái giảm xóc hấp thu xóc và hành khách được
bảo vệ khỏi bị thương. Giấc mơ của chúng ta cũng
giống như cái giảm xóc trong xe mô tô. Khi chiếc xe
chạy trên đường gập ghềnh, nó hấp thu những cú xóc và
quí ông trong xe được cứu khỏi bị đau và không thoải
mái. Tương tự các học thuyết và nguyên tắc làm việc
như tầng đệm và hấp thu xóc trong cuộc sống của chúng
ta. Tôi là kẻ trộm và tôi giữ ý tưởng về không ăn cắp.
Tôi bạo hành và tôi có bất bạo hành làm khẩu hiệu của
mình; tôi nói bất bạo hành là điều cao nhất của tôn giáo.
Lí tưởng này là tầng đệm của tôi, nó giúp tôi vẫn còn bạo hành. Bởi vì bất kì khi nào tôi phải đương đầu với
sự kiện về bạo hành của mình, tôi sẽ tự nói với mình,
"Bạo hành gì? Mình là người tin vào bất bạo hành; bất
bạo hành là tôn giáo cao nhất cho mình. Nếu thỉnh
thoảng mình đi lệch khỏi nó, đấy là vì mình yếu đuối;
nhưng mình định đạt tới lí tưởng của mình ngày mai
hay ngày kia. Và cho dù mình không làm được trong
kiếp này, mình sẽ làm nó trong kiếp sau. Nhưng bất bạo
hành vẫn còn là ngôi sao dẫn đường của mình."
Có thể chứ, tôi mang lá cờ bất bạo hành trên khắp
thế giới, và liên tục bạo hành bên trong. Lá cờ này là sự
trợ giúp cho bạo hành của tôi.
Dù bất kì đâu bạn bắt gặp một người có dán nhãn
bất bạo hành là cao nhất, biết điều chắc chắn rằng người
bạo hành đang ở quanh đâu đó. Không thể có lí do nào
khác cho dấu hiệu hay lá cờ bất bạo hành; nó bao giờ
cũng tới cùng người bạo hành. Bất bạo hành là cái mộc
để che giấu bạo hành và duy trì nó. Con người có đủ
mọi loại phương cách, và chỉ các phương cách, nhiều
tới mức con người đánh mất bản thân mình trong đám
đông của mình.
Mang tính sahaja, là tự nhiên nghĩa là: cái đang hiện
hữu, cứ hiện hữu: bây giờ không có cách nào để bước ra
khỏi nó; mình phải sống nó; và mình sẽ sống nó, là nó.
Nhưng việc hiện hữu này và sống với cái đang đó,
đau đớn tới mức điều đó gần như không thể được. Bạn
có biết bạn sẽ làm gì nếu bạn bị ném xuống địa ngục
không? Bạn sẽ thấy với ngạc nhiên của mình rằng chỉ
với giúp đỡ của giấc mơ của mình, bạn mới có thể sống
được trong địa ngục. Bạn sẽ nhắm mắt lại và chôn vùi
bản thân mình trong mơ và mơ. Bạn đã nhịn ăn một
ngày chưa? Thế thì bạn biết mình đã trải qua giấc mơ
ngày của mình về thức ăn và chỉ thức ăn thế nào. Mơ về
thức ăn giúp cho bạn vượt qua việc nhịn ăn của mình.
Nếu bạn dừng mơ bạn sẽ phải kết thúc việc nhịn ăn của
mình ngay lập tức. Nhưng giấc mơ rằng bạn đang ăn
ngon vào sáng hôm sau giữ cho bạn trải qua việc nhịn
ăn.
Tôi nhớ tới một giáo sư là đồng nghiệp của tôi ở đại
học. Chúng tôi đã cùng làm việc một thời gian dài.
Cùng làm việc với anh ta một thời gian dài tôi để ý rằng
thỉnh thoảng anh ta bỗng nhiên bắt đầu nói về đồ ngọt.
Tôi phân vân khi thấy rằng anh ta nói về đồ ngọt chỉ
thỉnh thoảng thôi, và thế rồi tôi quan sát anh ta cẩn thận
và thấy ra rằng cứ vào thứ bảy là anh ta say mê nói về
đồ ngọt.
Một thứ bảy, khi anh ta tới đại học, tôi bảo anh ta
rằng tôi chắc chắn anh ta sẽ nói về đồ ngọt cả ngày hôm
đó. Anh ta giật mình và nói, "Sao anh nói vậy?" Thế rồi
tôi bảo anh ta, "Trong hai tháng qua tôi đã ghi lại về anh
điều nói lên rằng mọi thứ bảy anh đều đem đồ ngọt vào
các cuộc nói chuyện. Có phải là anh nhịn ăn vào thứ bảy
không?" Vị giáo sư này giật mình và anh ta buột mồm
nói ra, "Nhưng ai bảo anh về điều đó?"
Rồi tôi bảo anh ta, "Không cần biết ai nói với tôi về
điều đó; đấy là phát hiện riêng của tôi."
Anh ta nói, "Đúng là tôi đã nhịn ăn hôm thứ bảy,
nhưng làm sao anh có thể biết được điều đó?" Để giải
thích điều đó tôi nói, "Tôi nghĩ rằng một người khoẻ
mạnh bình thường, người ăn và uống tốt thì sẽ không
nói về thức ăn như cách anh vẫn làm vào thứ bảy. Và
tôi biết rằng anh ăn tốt, và vậy mà cứ vào thứ bảy anh
luôn luôn nói về những đồ ăn ngon theo cớ này cớ
khác." "Anh đã nắm được nó đúng đấy," anh ta thừa nhận. "Vào thứ bảy tôi chỉ toàn nghĩ về thức ăn; thực sự
tôi vẫn lập kế hoạch cả ngày tôi sẽ ăn gì ngày hôm sau.
Đây là cách tôi vượt qua ngày nhịn ăn của mình. Vào
thứ bảy tôi nhịn ăn."
Thế rồi tôi gợi ý rằng anh ta nên nhịn ăn ngày nào
đó mà không nghĩ tới thức ăn, anh ta nên chỉ nhịn thôi.
Và anh ta nói, "Điều này thì không thể được; thế thì
việc nhịn sẽ phải bị từ bỏ mất. Chính nhờ sự giúp đỡ
của những ý nghĩ này về thức ăn mà tôi mới có khả
năng vượt qua thời gian nhịn. Hi vọng vào ngày mai
làm cho tôi trải qua việc nhịn ăn hôm nay; bằng không
thì điều đó là không thể được."
Người bạo hành liên tục mang tính bạo hành trong
hi vọng rằng mình sẽ không bạo hành một ngày nào đó.
Người giận dữ liên tục giận dữ với hi vọng rằng mình sẽ
là người tốt bụng và từ bi trong tương lai. Kẻ trộm liên
tục là kẻ trộm với hi vọng rằng mình sẽ hào phóng về
sau. Tội phạm vẫn còn là tội phạm với hi vọng rằng
người đó sẽ đức hạnh ngày hôm sau. Những hi vọng
này là rất phi tôn giáo. Được kết thúc với chúng đi. Cái
đang hiện hữu, cứ hiện hữu. Biết điều này cái đang hiện
hữu và sống với nó. Cái đang hiện hữu là một sự kiện;
sống với sự kiện đó. Sống với tính sự kiện của cuộc
sống của bạn.
Nhưng sống với sự kiện là điều rất gian truân, vất
vả và đau đớn. Sẽ rất đau cho tâm trí khi nghĩ rằng mình
không phải là người tốt. Cho nên người có dục đọc
những cuốn sách về brahmacharya, vô dục; đó là cách
người đó chịu đựng dâm dục của mình. Người đó đang
bị thiêu đốt bởi những ham muốn dục, và người đó đọc
sách về vô dục và tin rằng mình là người tìm kiếm vô
dục. Cuốn sách này về brahmacharya giúp người đó tiếp
tục dâm dục. Người đó nói rằng chỉ hôm nay người đó
say mê trong dục, từ ngày mai người đó sẽ cương quyết
theo lời thề của mình về vô dục. Cho nên điều đó không
xấu, người đó hợp lí hoá.
Có lần tôi ngẫu nhiên làm khách trong một gia đình.
Ông già trong gia đình đó bảo tôi rằng ông ấy đã ba lần
được điểm đạo vào brahmacharya bởi một sư nào đó.
Tôi ngạc nhiên khi nghe điều đó, và tôi nói với ông ấy,
"Người ta lấy lời thề vô dục một lần là đủ rồi. Làm sao
ông phải lấy những ba lần cơ chứ?" Ông ấy hỏi tôi với
cảm giác không thoải mái, "Ông định nói gì? Tôi đã nói
cho vài người bạn về điều đó và họ tất cả đều khen ngợi
tôi vì làm điều đó những ba lần. Không ai đã hỏi về
hành động của tôi ngoại trừ ông." Tôi nói, "Lời thề vô
dục chỉ có thể được lấy một lần thôi. Làm sao mà ông
đã phải lấy nó những ba lần?" Ông ấy nói rằng bởi vì
ông ấy đã không giữ được lời thề của mình, nên ông ấy
đã phải lấy nó hai lần và lần thứ ba nữa. Và khi tôi hỏi,
"Thế lần thứ tư thì sao?" ông ấy nói, "Đến lần đó tôi đã
không còn dũng cảm nữa; tôi đã mất tự tin rồi."
Vào lúc ông già này bị kết thúc với lời thề của mình
ông ấy đã tới độ tuổi sáu mươi. Ông ấy mang dâm dục
của mình với sự giúp đỡ của lời thề về brahmacharya.
Chúng ta là những người rất kì lạ. Đây là asahaja
yoga, yoga phi tự nhiên, mà chúng ta thực hành. Chúng
ta đều có dâm dục và chúng ta đọc các sách về
brahmacharya. Sách về brahmacharya có tác dụng như
tầng đệm trong mối quan hệ với dâm dục của chúng ta.
Đọc nó, chúng ta tự nhủ mình ở chỗ riêng tư, "Ai nói
mình dâm dục? Vì mình đọc sách về vô dục, chính là lí
tưởng của mình, mình thực sự là người vô dục chứ. Nếu
mình mê say chút ít trong dục hiện tại, thì đấy là vì yếu đuối của mình, bởi vì nghiệp quá khứ của mình hay có
thể bởi vì thời điểm đúng còn chưa tới. Nhưng nó sẽ
sớm trôi qua thôi." Đây là cách dục và vô dục đi đôi với
nhau; vô dục phục vụ như cái hấp thu xóc và lái dục
theo sự thoải mái cứ tiếp diễn mãi.
Đây là trạng thái rất phi tự nhiên của mọi thứ. Để
quay về với trạng thái tự nhiên bạn sẽ phải loại bỏ cùng
lúc tầng đệm và cái hấp thu xóc. Nếu có ổ gà trên
đường, bạn phải biết chúng. Lái xe mà không có bộ
giảm xóc hay bộ hấp thu xóc mà xem. Thế thì chính ổ
gà đầu tiên sẽ giết chết bạn, sẽ va mạnh vào xương bạn,
và bạn sẽ ra khỏi xe ngay và nói lời tạm biệt nó. Thế thì
bạn sẽ không lái cái xe đó lần nữa. Bỏ nhíp xe đi và rồi
lái nó xem. Chính việc va vào tảng đá cuội sẽ đánh ngã
bạn và bạn sẽ bái biệt ngay chiếc xe. Và bạn sẽ không
dùng chiếc xe đó lần thứ hai nữa. Nhưng bộ hấp thu xóc
lắp ở dưới đáy xe không để cho bạn phải chịu khổ sở
như vậy.
Sahaja yoga nghĩa là: cái đang hiện hữu, cứ hiện
hữu; cứ là nó. Đừng cố gắng phi tự nhiên. Biết cái đang
đấy, chấp nhận nó và sống với nó. Thế thì cuộc cách
mạng là chắc chắn. Người chấp nhận cái đang đó và
sống nó thì nhất định sẽ thay đổi. Thế thì không có cách
nào để trải qua sáu mươi năm trong dục và dâm dục
mặc cho lời thề vô dục. Lời thề là cách thức của dâm
dục. Nếu tôi đã xúc phạm bạn trong cơn giận của mình
và tôi không xin lỗi về điều đó, ngược lại tôi cứ tới bạn
và nói rằng đấy là cách tôi đang là, tôi là loại người sai
trái, người dễ dàng nổi giận..."Tôi có thể làm điều đó
lần nữa đấy, cho nên sao tôi phải xin lỗi? Và bạn nên
biết rõ điều đó nếu bạn muốn tiếp tục là bạn tôi "... Bạn
có cho rằng tình bạn của tôi sẽ sống không? Tất cả bạn
bè tôi sẽ rời bỏ đi, tất cả mọi mối quan hệ của tôi sẽ gặp
khó khăn và tôi sẽ bị bỏ lại sống một mình với giận dữ
của mình. Thế thì giận dữ sẽ là bạn duy nhất của tôi;
không ai sẽ ở quanh tôi để chịu đựng cơn giận của tôi.
Thế thì tôi sẽ phải sống một mình và toàn bộ với cơn
giận dữ của tôi. Tôi sẽ có thể sống được với nó không?
Không, tôi sẽ nhảy ra khỏi nó, bằng việc nói "Nó điên
khùng làm sao!"
Nhưng chúng ta có những phương cách riêng của
mình. Chồng cãi nhau với vợ vào buổi sáng và gọi vợ là
con mụ lẳng lơ và xông về văn phòng của mình. Anh ta
trở về vào buổi chiều với kem và bộ áo quần sari lụa để
phỉnh phờ cô ấy. Và vợ nghĩ rằng anh ta vẫn là người
chồng đáng yêu cũ. Chồng, qua ăn năn, khôi phục lại
mối quan hệ của mình với vợ, anh ta trở lại nơi chiếc cà
vạt đã bị vứt đi. Và với kem và bộ quần áo sari lụa trong
tay cô ấy, người đàn bà lần nữa lại trở thành người vợ
cũ tốt bụng. Nhưng câu chuyện này sẽ lặp lại bản thân
nó vào buổi tối theo cách nó đã xảy ra vào buổi sáng.
Và vào buổi tối chồng sẽ lại quì xuống và van xin tha
thứ của vợ. Và sáng hôm sau sẽ lại không khác. Cùng
câu chuyện này lặp lại hết ngày nọ tới ngày kia, hết
tháng nọ sang tháng kia, hết năm nọ sang năm kia. Do
vậy nó chạy qua cả đời.
Cả chồng lẫn vợ đều không được chuẩn bị để biết
sự thật của họ, chân lí của họ. Họ không được chuẩn bị
để đối diện với thực tại, sự không thành thực và lừa dối
có trong cuộc sống thường ngày của họ. Không xem xét
tới điều đó trong một khoảnh khắc họ liên tục lừa dối
lẫn nhau. Và giống như đôi này, tất cả chúng ta đều liên
tục lừa dối lẫn nhau trong cả đời mình. Và điều còn tồi
tệ hơn, chúng ta không chỉ lừa dối người khác mà chúng
ta còn tự lừa dối mình.

Sahaja yoga nghĩa là: không tự lừa dối mình. Biết
và chấp nhận bản thân mình đích xác như bạn đang đấy
và như cách bạn đang là mà không có bất kì dè dặt nào.
Nếu bạn làm như vậy, chuyển hoá sẽ xảy ra ngay lập
tức. Chuyển hoá xảy ra đồng thời với hiểu biết và chấp
nhận. Thế thì bạn sẽ không phải chờ đợi nó. Người ta có
đợi đến mai không nếu nhà người đó cháy và người đó
biết điều đó? Người đó sẽ thoát ngay ra khỏi nhà mình
trong một phần giây. Cái ngày chúng ta hoàn toàn thấy
cuộc sống của mình như nó đang đó - và nó là ngôi nhà
đang cháy - thì khoảnh khắc của chuyển hoá tới. Nhưng
chúng ta có cách thức lừa dối riêng của mình. Ngôi nhà
đang cháy và chúng ta đã trang hoàng phần bên trong
nó bằng hoa. Tay chúng ta trong xiềng xích và chúng ta
mạ chiếc xiềng này bằng vàng, và do vậy khi chúng ta
thấy sự lộng lẫy của vàng chúng ta không thấy xiềng
xích. Chúng ta đầy những ốm yếu và vết thương, nhưng
chúng ta đã che đậy các vết thương của mình bằng băng
mầu, và chúng ta thấy mầu sắc chứ không thấy vết
thương đằng sau chúng.
Lừa dối này sâu sắc và bao la tới mức chúng ta dành
cả đời mình cho nó và khoảnh khắc của chuyển hoá
không tới. Chúng ta cứ trì hoãn khoảnh khắc đó. Cái
chết tới, nhưng không khoảnh khắc nào bị trì hoãn cả.
Chúng ta chết, nhưng chúng ta không thay đổi; chúng ta
đơn giản không có khả năng thay đổi.
Thay đổi, chuyển hoá có thể xảy ra bất kì khoảnh
khắc nào một cách thực sự. Sahaja yoga nói: sống với
cái đang đấy, và bạn sẽ được biến đổi. Bạn không phải
làm nỗ lực thay đổi; chân lí thay đổi. Jesus nói, "Chân lí
giải thoát." Nhưng chúng ta không biết chân lí. Chúng
ta sống trong dối trá, chúng ta sống trong cái không
thực; nhưng chúng ta trang hoàng cho cái không thực
của mình trước khi chúng ta sống với chúng. Và cái
không thực trói buộc, trong khi chân lí giải thoát. Ngay
cả chân lí đau đớn nhất cũng còn tốt hơn dối trá dễ chịu
nhất. Cái không thực dễ chịu mới thực sự nguy hiểm.
Nó sẽ trói buộc bạn; nó sẽ là tù túng của bạn. Và ngay
cả chân lí đau đớn cũng là giải thoát, ngay cả cái đau
của nó cũng là giải thoát. Cho nên sống với chân lí đau
đớn, và đừng nuôi dưỡng dối trá dù chúng có thể dễ
chịu thế nào. Đây là toàn bộ sahaja yoga.
Đây là toàn bộ sahaja yoga. Và thế rồi tới samadhi,
cực lạc hay thức tỉnh, hay bất kì cái gì bạn gọi nó. Bạn
sẽ không phải tìm kiếm samadhi đâu; nó sẽ tới theo
cách riêng của nó.
Khóc khi bạn muốn khóc, và cười khi bạn muốn
cười, và biết rằng nó đang xảy ra.
Tôi nghe nói rằng ở Nhật Bản một bậc thầy chết và
hàng nghìn người tụ tập để dự đám tang của ông ấy; ông
ấy nổi tiếng thế. Nhưng ông ấy có một đệ tử còn nổi
tiếng hơn ông ấy. Và khi mọi người tới họ thấy rằng đệ
tử nổi tiếng này của ông ấy đang ngồi ngoài trời và
khóc cay đắng. Họ nói với ông ta, "Chúng tôi lấy làm
kinh ngạc khi thấy ông khóc, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng
ông là một trong những người chứng ngộ. Sao ông phải
khóc?" Đệ tử này nói, "Các ông ngu lắm, tôi không định
thôi khóc vì các ông nói tôi chứng ngộ đâu. Việc khóc
là điều hoàn toàn khác. Giữ chứng ngộ của các ông cho
chính mình đi; tôi không cần nó đâu." Thế rồi khách
nói, "Nhưng mọi người sẽ nói gì? Nếu ông không thể
chấm dứt việc khóc được thế thì đi vào bên trong đi;
đừng khóc chỗ công khai thế này. Bằng không điều đó
sẽ làm phát sinh tai tiếng. Chúng tôi tin rằng ông đã đạt
tới trạng thái cân bằng hoàn hảo, trạng thái của tri thức tối thượng. Chúng tôi tin rằng ông là một trong những
người trí huệ nhất, và rằng chẳng cái gì có thể ảnh
hưởng được tới ông - cả hạnh phúc lẫn nỗi buồn."
Thế rồi đệ tử này nói, "Các ông hiểu điều đó sai
tuốt. Chính là trước khi chứng ngộ thì rất ít điều ảnh
hưởng được tới tôi, bởi vì nhạy cảm của tôi còn mờ nhạt
và tôi không thể bị tấn công được và khó đương đầu.
Bây giờ mọi thứ đều ảnh hưởng tới tôi từ đầu nọ tới đầu
kia, cho nên tôi sẽ khóc từ tậm tim mình. Tôi chẳng bận
tâm về điều các ông nói, về chứng ngộ của các ông. Vứt
nó ra ngoài cửa sổ đi."
Nhưng như những người sùng kính vẫn làm, họ tiếp
tục thuyết phục ông ấy và nói, "Ông nên nghĩ tới hổ
thẹn mà điều đó sẽ gây ra. Cho nên cho dù ông phải
khóc, thì khóc một cách riêng tư, bí mật; bằng không
những tin đồn ác ý sẽ lan khắp nước." Một trong những
người sùng kính thách thức, "Ông bao giờ cũng nói rằng
linh hồn là bất tử, thế thì tại sao ông khóc than?"
Thế rồi hiền nhân này nói, "Ai khóc cho linh hồn?
Tôi đang khóc cho thân thể của thầy tôi; tôi không khóc
cho linh hồn, cái còn mãi và vĩnh hằng. Thân thể nữa,
cái bị mất đi khỏi thầy tôi thật xinh đẹp và, và bây giờ
nó sẽ không còn trở lại với đất nữa. Ngôi đền trong đó
linh hồn của thầy tôi cư ngụ cũng không kém phần đáng
yêu, và nó sẽ không xảy ra lần thứ hai. Tôi đang khóc
cho thân thể đó." Và khi người sùng kính này thách
thức, "Vậy là ông khóc cho thân thể!" thì đệ tử chính
này nói, "Ông có định áp đặt điều kiện cho việc khóc
không đấy? Ông sẽ không cho phép tôi khóc sao?"
Chỉ một tâm trí đúng đắn, một tâm trí đích thực,
một tâm trí sống trong chân lí, mới có thể là tâm trí tự
do. Tâm trí đúng đắn là tâm trí đích thực, nghĩa là khóc
khi bạn muốn khóc và cười khi bạn muốn cười. Nếu bạn
phải giận dữ thì hoàn toàn đích thực trong giận dữ của
bạn đi. Nếu bạn giận dữ thì trở thành bản thân việc giận
dữ để cho bạn và tất cả mọi người quanh bạn biết giận
dữ là gì. Giận dữ đó sẽ là việc giải thoát; nó sẽ giải
phóng bạn thình lình. Thay vì giận dữ trong một lúc,
từng tí một theo cách hờ hững, giận dữ một lần cho dứt
khoát, để cho nó thiêu cháy bạn và thiêu cháy những
người khác quanh bạn và bạn biết nó tất cả là gì. Thông
thường cơn giận của chúng ta hờ hững thế, nhạt nhẽo
thế, không đích thực đến độ chúng ta không biết cơn
giận đích thực và thực sự là gì. Chúng ta giận dữ một
phần và một phần không giận dữ; chúng ta giận dữ theo
từng mảnh; và đó là điều làm cho nó không đích thực.
Hành trình cuộc sống của chúng ta là ở mức chúng ta
bước lên rồi lại bước lùi; cho nên chúng ta đi bây giờ ở
đây, chúng ta vẫn còn tĩnh tại và trì trệ. Thực sự không
có hành trình; chúng ta chỉ trì trệ và sống vô vị.
Sahaja yoga nói: bất kì cái gì có đó trong cuộc sống,
chấp nhận nó, biết nó và sống nó. Từ chấp nhận này, từ
việc biết và sống này sẽ tới điều chúng ta gọi là chuyển
hoá hay biến đổi. Và chuyển hoá này sẽ đưa bạn đạt tới
Thượng đế.
Điều tôi gọi là thiền, và điều chúng ta có ở đây, là
quá trình của sahaja yoga. Tại đây các bạn chấp nhận tất
cả mọi điều xảy ra cho mình, các bạn buông bỏ bản thân
mình hoàn toàn và chấp nhận tất cả mọi điều xảy ra theo
cách riêng của nó. Bằng không thì sẽ không thể nghĩ
được rằng những người có giáo dục và có văn hoá,
những người giàu có và sành điệu cứ khóc lóc và gào
thét, nhảy nhót lung tung và nhảy múa điên dại như
người rồ. Đây không phải là điều bình thường. Đây là
cái gì đó phi thường và vô giá nữa. Đó là lí do tại sao khán giả bị hoang mang và người đó không hiểu tất cả
những cái đó là gì. Người đó cảm thấy bị sửng sốt và
thế rồi người đó cười vào tất cả mọi thứ. Nhưng người
đó không nhận biết rằng nếu người đó mà tham gia với
các bạn, người đó cũng trải qua cùng những kinh
nghiệm kì quái đó. Hay có thể tiếng cười của người đó
chỉ là biện pháp bảo vệ, người đó cười chỉ để tự bảo vệ
mình, người đó muốn nói qua tiếng cười của mình rằng
người đó sẽ không làm điều các bạn đang làm đâu; điều
đó không dành cho người đó. Đó là điều người đó nghĩ,
nhưng tiếng cười của người đó về phần nó lại nói điều
gì đó khác. Nó nói rằng theo một cách nào đó người đó
nữa cũng có điều gì đó cần làm với nó. Tiếng cười của
người đó nói rằng theo một cách nào đó người đó thực
sự có liên quan với nó. Sự buồn cười của người đó chỉ
ra rằng nếu như người đó mà tham gia vào điều đang
xảy ra ở đây thì người đó sẽ làm cùng những điều này.
Người đó nữa cũng đã ngăn cản và kìm nén bản thân
mình; người đó nữa đã đè nén nước mắt và tiếng cười
của mình, điệu vũ của mình và cực lạc của mình.
Bertrand Russell nói trong những ngày cuối đời của
ông ấy rằng nền văn minh đã cướp đi của con người vài
điều quí giá và nhảy múa là một trong chúng. Ông ấy
nói rằng ông ấy không thể nghĩ được việc đứng giữa
quảng trường Trafalgar và nhảy múa, mặc dầu chúng ta
vẫn tuyên bố rằng chúng ta là người tự do và rằng
chúng ta có nhiều tự do hơn tổ tiên mình đã từng có.
Ông ấy cũng quan sát rằng một mặt con người đã bô bô
rằng thế giới đã đi vào kỉ nguyên tự do và tự quyết và
mặt khác con người không được tự do nhảy múa ở bãi
chợ, và nếu con người làm như vậy thì cảnh sát giao
thông lập tức sẽ bắt người đó với tội danh cản trở giao
thông. Và hơn nữa người đó sẽ bị coi là ca bệnh tâm
thần. Bertrand Russell cũng nhớ lại rằng bất kì khi nào
ông ấy tới thăm những bộ lạc nguyên thuỷ nhảy múa
một cách phóng túng dưới trời sao thì ông ấy đau đớn
nhận ra rằng con người văn minh đã thực sự đánh mất
điều có giá trị đó.
Cái được của nền văn minh là nhỏ còn cái mất của
nó thì lớn vô cùng. Con người văn minh đã đánh mất
tính tự nhiên và đơn giản của mình, con người đã đánh
mất chính bản tính mình. Và, còn hơn thế, con người là
nạn nhân của đủ mọi loại hư hỏng.
Thiền là cách làm cho bạn thành tự nhiên và đơn
giản, khôi phục bạn trở lại với tự nhiên của mình một
lần nữa.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là ở chỗ điều đã xảy ra
ở đây trong ba ngày này có ý nghĩ lớn lao. Một số bạn
đã có kinh nghiệm duy nhất và số khác đã có thoáng
nhìn về chúng, trong khi vài người khác đã làm nhiều
nỗ lực, nhưng không thể có được nó, mặc dầu chắc chắn
họ đã có tiến bộ nào đó. Nhưng mọi người đã làm chút
ít điều tốt ngoại trừ vài người có ảo tưởng rằng họ là các
nhà trí thức và người trong thực tế có ít thông minh và
nhiều tri thức sách vở hơn. Ngoại trừ vài người này,
mọi người đã tham dự vào thiền, và mặc cho nhiều khó
khăn một loại năng lượng đặc biệt đã được tạo ra ở đây
và nhiều điều đã xảy ra có ý nghĩa.
Nhưng đây chỉ mới là bắt đầu.
Nếu bạn dành một trong hai mươi bốn giờ hàng
ngày của bạn cho việc thiền này, một cánh cửa có thể
mở ra cho cuộc sống của bạn. Đóng bản thân bạn vào
trong một căn phòng trong trọn một giờ và bảo với mọi
người trong gia đình bạn đừng lo nghĩ về điều có thể xảy ra trong một giờ đó. Thế rồi cởi quần áo ra và hoàn
toàn trần trụi và làm việc thiền trong tư thế đứng. Trải
chiếc chiếu lên sàn nhà để cho bạn không bị thương
trong trường hợp bạn ngã ra. Đứng dậy và thiền, nhưng
trước khi làm điều đó, thông báo với các thành viên gia
đình bạn rằng nhiều điều có thể xảy ra bên trong phòng
này - bạn có thể la hét, bất kì điều gì cũng có thể xảy ra
- nhưng họ không nên quấy rối bạn. Và tiến hành thực
nghiệm này hàng ngày trong trọn một giờ cho tới khi
chúng ta gặp lại nhau tại trại tiếp. Nếu các bạn đã tham
gia vào trại này ở đây mà tiếp tục thực hành này tại chỗ
của mình, tôi sẽ bàn đến một trại tách biệt cho họ, nơi
tiến bộ lớn sẽ là điều có thể.
Có khả năng lớn lao; khả năng thực tế là vô tận.
Nhưng bạn sẽ phải làm vài nỗ lực... Nếu bạn tiến lên
một bước, Thượng đế sẽ tiến một trăm bước tới bạn.
Ngài bao giờ cũng sẵn sàng tới với bạn. Nhưng nếu bạn
không tiến bước nào, thế thì chẳng có cách nào để giúp
bạn cả. Cho nên đem việc thiền này về nhà và tiếp tục
thực hành nó đều đặn và nhiệt tình.
Tôi biết nhiều điều sẽ ngăn cản các bạn. Con bạn sẽ
nói, "Có chuyện gì xảy ra với bố thế? Bố chưa bao giờ
như thế này cả; bố bao giờ cũng bạo dạn và nghiêm
chỉnh. Và bây giờ bố đang nhảy múa và nhảy nhót và la
hét. Bất kì khi nào chúng con làm huyên náo trong nhà,
bố luôn luôn giao việc cho chúng con. Tất cả điều này
là gì vậy?" Trẻ con chắc chắn sẽ cười bạn. Bạn nên yêu
cầu chúng ta tha thứ vì bạn đã cố gắng kiểm soát chúng
trong quá khứ, thừa nhận sai lầm của bạn một cách cởi
mở và bảo chúng cứ chơi đùa và nhảy múa một cách tự
do để giữ cho thiên hướng tự nhiên của chúng sống
động cho việc nhảy múa và chơi đùa. Điều đó sẽ là ích
lợi lớn cho chúng trong tương lai. Chúng ta áp đặt tuổi
già lên con trẻ quá sớm. Cho nên bảo gia đình bạn đừng
tò mò và tọc mạch về điều bạn làm trong căn phòng này
trong một giờ, và đừng biện minh với bạn về lí do này.
Nếu một khi bạn làm điều đó thành rõ ràng, sẽ không có
rắc rối trong tương lai. Trong vài ngày họ sẽ quen với
chuyện của bạn, họ sẽ để cho bạn với chính bạn.
Và thế rồi bạn sẽ thấy rằng thiền có hiệu quả của nó
không chỉ lên bạn mà lên cả gia đình.
Nếu có thể, dành một căn phòng tách biệt cho thiền,
và dùng nó chỉ riêng cho thiền. Đừng dùng căn phòng
đó cho bất kì ý định nào khác. Nó có thể là một căn
phòng nhỏ, nhưng giữ cho nó được khoá lại. Nếu bất kì
thành viên nào của gia đình bạn muốn tham gia cùng
bạn, cho phép họ với điều kiện là họ thiền cùng bạn và
không làm điều gì khác. Chuyện khác đi nếu không có
sẵn một căn phòng tách biệt, nhưng phòng tách biệt cho
thiền sẽ có nhiều ưu thế. Nếu nó được dùng chỉ riêng
cho thiền, nó sẽ được nạp năng lượng thiền. Và khi bạn
vào nó bạn sẽ thấy rằng nó không phải là chỗ bình
thường.
Chúng ta phát ra năng lượng của mình vào mọi lúc
khắp xung quanh chúng ta; chúng ta gửi ra các tia của
năng lượng tinh thần khắp xung quanh chúng ta. Và
không gian bao quanh chúng ta, ngay cả bên trong căn
phòng, cũng hấp thu năng lượng này. Đó là lí do tại sao
vài nơi vẫn còn là linh thiêng trong hàng nghìn năm.
Nếu một người như Mahavira, Phật hay Krishna ngồi ở
một chỗ đặc biệt, chỗ đó nhận rung động phi thường
của ông ấy, tác động siêu phàm của ông ấy, cái có thể
kéo dài hàng nghìn năm. Từ chỗ như vậy việc người ta
đi vào trong thế giới khác, thế giới tâm linh, trở nên dễ
hơn nhiều.

Mọi người thực hành tốt - và tôi có tiêu chuẩn riêng
để phán xét người thực hành tốt và đó là ở chỗ người đó
có ngôi đền trong nhà mình, bằng không thì người đó là
người cùng khổ - phải có ngôi đền trong một phần ngôi
nhà của người đó. Ít nhất một phòng trong mọi ngôi nhà
nên được dành riêng và được dùng làm ngôi đền, như
cánh cửa sang thế giới khác. Đừng dùng căn phòng đó
cho bất kì cái gì khác. Vào nó một cách im lặng và dùng
nó cho thiền. Các thành viên khác của gia đình dần dần
sẽ bắt đầu quan tâm tới thiền, bởi vì thế thì những thay
đổi mà nó sẽ tạo cho bạn cũng sẽ bắt đầu biểu lộ ra.
Bây giờ mọi người đã bắt đầu đi tới vài người ở
đây, những người đã kinh nghiệm những thay đổi trong
chính họ, những thay đổi rất có ý nghĩa, và họ hỏi
những người này, "Cái gì đã xảy ra cho anh thế?" Vài
người này đến lượt họ tới tôi để hỏi làm sao họ có thể
trả lời những người tọc mạch này. Cùng cách mà con
bạn, bố mẹ bạn và những người khác sẽ hỏi bạn; họ sẽ
trở nên quan tâm thế tới thiền. Và nếu bạn kiên nhẫn đủ
lâu với sadhana của mình, thế thì một ngày sẽ không xa
nữa khi biến cố trọng đại nhất trong các biến cố sẽ xảy
ra trong cuộc sống của bạn - vì điều đó chúng ta phải
trải qua vô hạn kiếp sống và điều chúng ta có thể bỏ lỡ
trong vô hạn kiếp sống.
Vài năm sắp tới sẽ là những năm rất có ý nghĩa
trong lịch sử nhân loại. Bây giờ một nhúm người sẽ
chẳng có ích gì trong vấn đề tâm linh. Chừng nào tính
tâm linh hùng vĩ còn chưa được sinh ra, chừng nào
phong trào tâm linh hùng vĩ và đông đảo còn chưa quét
qua trái đất này, chưa tạo ra tác động của nó lên hàng
triệu con người, thì sẽ không thể nào cứu được thế giới
này khỏi bãi lầy của chủ nghĩa duy vật. Đó sẽ là khoảnh
khắc rất rất trọng yếu trong cuộc sống con người; năm
mươi năm sắp tới sẽ manh tính định mệnh và quyết
định. Hoặc tôn giáo sẽ sống, hoặc phi tôn giáo hoàn
toàn, tất cả mọi cái chống lại tôn giáo, sẽ sống. Năm
mươi năm này cũng sẽ quyết định về Phật, Mahavira,
Krishna, Jesus, Mohammed, Rama và phần còn lại của
họ. Tất cả những ngôi sao sáng này sẽ ở một bên cán
cân trong khi bên cán cân kia sẽ là đám đông các chính
khách điên khùng, các nhà duy vật và những người dốt
nát khác nhất quyết lừa dối mình và những người khác
nữa. Họ đông về số lượng, trong khi chỉ một nhúm
người ở phía bên chỉ trích. Và trong thời gian năm mươi
năm một quyết định sẽ được đưa ra.
Cuộc đấu tranh đã diễn ra từ thời thượng cổ đã đạt
tới khoảnh khắc quyết định của nó. Và nhìn vào tình
huống như nó có được trong hiện tại, không có mấy hi
vọng. Nhưng tôi không thất vọng bởi vì với tôi dường
như là có thể tìm được cách thức đơn giản và tự nhiên
rất sớm sủa mà sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong cuộc
sống của hàng triệu người về mặt tâm linh.
Vài cá nhân có thể chẳng ích gì trong thời hiện tại.
Ngày xưa nếu chỉ một người trở nên chứng ngộ cũng đã
đủ rồi. Bây giờ điều này không có tác dụng. Theo góc
nhìn của việc bùng nổ dân số lớn vô cùng đang xảy ra
trên thế giới này, vài cá nhân không thể làm được việc.
Bây giờ cái gì đó hữu hình có thể có chỉ nếu, tương
xứng với dân số khổng lồ, hàng trăm nghìn người bị ảnh
hưởng và tham gia vào tâm linh. Và điều đó là có thể
như tôi thấy nó đây. Nếu vài người tạo nên hạt nhân và
bắt đầu làm việc, thế thì Ấn Độ có thể đóng vai trò có ý
nghĩa trong khoảnh khắc tranh đấu đó. Đất nước này đã
từng nghèo khó và khổ, thoái hoá và nô lệ, bị lạc lối và
bị dẫn sai đường, vậy mà mảnh đất này vẫn có những
kho báu được gìn giữ tốt với nó. Suốt hàng thế kỉ những người như vậy đã bước đi trên mảnh đất này mà ánh
sáng của họ, hương thơm của họ, khao khát của họ đã
để lại những rung động trong không trung, đã để lại dấu
ấn của họ lên mọi nhành cỏ ở đây. Con người tất nhiên
đã đi sai, nhưng cát bụi của đất nước này vẫn còn nhớ
tới bước chân của Phật bước đi trên nó. Con người của
đất nước này đã đi sai, nhưng cây cối vẫn còn ấp ủ kí ức
rằng Mahavira đã có thời đứng dưới bóng chúng. Con
người thực sự đã đi sai, nhưng biển cả bao quanh đất
nước này vẫn biết một giọng nói khác biệt mà chúng đã
nghe trong quá khứ. Con người không nghi ngờ gì nữa
đã đi lạc lối, nhưng bầu trời của đất nước này vẫn tràn
đầy hi vọng. Mọi thứ vẫn ở đó, chỉ con người phải trở
về nhà.
Về sau, tôi đã thường cầu nguyện với hi vọng rằng
sự bùng nổ tập thể trong các kiếp sống của hàng triệu
người có thể là điều có khả năng. Và bạn có thể giúp ích
rất nhiều trong nỗ lực này. Sự bùng nổ như vậy trong
cuộc sống riêng của bạn sẽ có giá trị mênh mông không
chỉ cho bạn, mà cho toàn thể nhân loại. Với hi vọng này
và lời cầu nguyện rằng bạn sẽ không chỉ thắp lên ngọn
đèn riêng của bạn, mà ngọn đèn của bạn sẽ giúp cho
những ngọn đèn chưa thắp khác được thắp lên, tôi công
bố lời chào tạm biệt các bạn.
Tôi biết ơn các bạn đã nghe tôi trong an bình và với
tình yêu thế, và tôi cúi lạy Thượng đế đang ngồi bên
trong từng người các bạn. Xin chấp nhận lời chào của
tôi
Khá nhiều câu hỏi đã được nhận trong ba ngày qua,
tôi muốn hôm nay trả lời ngắn gọn thật nhiều nhất trong
số chúng.

Một bạn đã nói rằng khi Vivekananda hỏi
Ramakrishna, "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?"
Ramakrishna trả lời lại, "Có chứ, ta đã thấy thượng
đế như ta thấy ông ngay bây giờ." Và người bạn
này muốn biết liệu người đó có thể đặt cùng câu hỏi
đó với tôi không.

Trước hết, Vivekananda, trong khi đặt ra câu hỏi
này, đã không hỏi xin phép Ramakrishna, ông ta đã đặt
thẳng câu hỏi này ra. Còn bạn không làm như vậy, bạn
chỉ muốn biết liệu bạn có thể làm được như vậy không.
Một Vivekananda là cần để nêu ra câu hỏi này. Và nhớ
lấy, câu trả lời của Ramakrishna đặc biệt ngụ ý dành
cho Vivekananda, ông ấy sẽ không đưa ra cùng câu trả
lời này cho bất kì ai khác.
Trong thế giới tâm linh mọi câu trả lời đều rõ ràng
mang tính cá nhân, chúng được dành cho các cá nhân có
liên quan. Tại đó người trả lời, dĩ nhiên là quan trọng,
nhưng người được trả lời cũng không kém phần quan
trọng. Người cho là có ý nghĩa, nhưng người nhận,
người phải hiểu nó, cũng không kém phần quan trọng.
Rất nhiều người yêu cầu tôi chạm vào họ để cho họ
có cùng kinh nghiệm mê say như Vivekananda đã được
Ramakrishna chạm tới. Nhưng họ không biết tại sao
hàng nghìn người khác, những người mà Ramakrishna
đã chạm vào, đã không trải qua cùng kinh nghiệm đó.
Để Vivekananda có kinh nghiệm này, Ramakrishna chỉ
được năm mươi phần trăm công lao thôi, năm mươi
phần trăm kia thuộc về Vivekananda. Đó là công việc
năm mươi năm mươi.
Và cũng không nhất thiết là kinh nghiệm này sẽ xảy
ra nếu Ramakrishna đã chạm vào Vivekananda vào một
ngày khác. Nó đã xảy ra trong một khoảnh khắc đặc
biệt, cho nên khoảnh khắc này cũng quan trọng. Bạn
không là cùng một người cả hai mươi bốn giờ một ngày.
Trong quá trình hai mươi bốn giờ bạn biến thành bất kì
số người nào, như vậy. Trong một khoảnh khắc đặc
biệt... Vivekananda hỏi, "Thầy đã thấy Thượng đế
chưa?" Những lời này đơn giản thế. Điều đó đối với
chúng ta dường như chúng ta hiểu điều Vivekananda
đang hỏi. Nhưng không, chúng ta không thực hiểu đâu.


Câu hỏi "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" không
đơn giản thế, mặc dầu trên bề mặt dường như là ngay cả
học sinh lớp một cũng có thể hiểu nó. "Thầy đã thấy
Thượng đế chưa?" thực sự là câu hỏi khó. Và
Ramakrishna không đơn thuần trả lời câu hỏi của
Vivekananda, ông ấy thực sự đáp ứng lại khao khát của
Vivekananda, đam mê của ông ấy. Người đã thức tỉnh
không trả lời câu hỏi của bạn, họ đáp ứng lại khao khát
của bạn, đam mê của bạn. Vivekananda với toàn bộ
khao khát của ông ấy, toàn bộ thèm khát của ông ấy về
Thượng đế đã đi vào câu hỏi này, và Ramakrishna đơn
giản đáp ứng cho người đứng đằng sau câu hỏi này.
Một sáng đẹp trời, Phật tới thăm một làng và ai đó
hỏi, "Có Thượng đế không?" Và Phật nói, "Không,
không có Thượng đế." Đến giữa ngày một người khác
tới ông ấy và nói, "Tôi nghĩ không có Thượng đế. Thầy
phải nói gì về điều đó?" Và Phật trả lời, "Thượng đế có
chứ." Đến tối người thứ ba nói với ông ấy, "Tôi không
biết liệu Thượng đế có hay không. Thầy nói gì?" Với
người này Phật nói, "Tốt hơn cả là im lặng đi; đừng nói
có hay không."
Một đệ tử của Phật, người đi cùng ông ấy trên
chuyến du hành, rất sửng sốt khi ông ta nghe ba câu trả
lời khác nhau của thầy mình cho cùng một câu hỏi. Thế
là trước khi đi ngủ buổi đêm ông ấy bảo Phật, "Tôi rất
đỗi ngạc nhiên bởi những câu trả lời của thầy tới mức
tôi dường như phát điên mất. Trong câu trả lời cho cùng
một câu hỏi liệu Thượng đế có hay không thầy nói
'không' vào buổi sáng, 'có' vào buổi trưa, và 'chẳng có
chẳng không' vào buổi tối."
Phật nói với người đó, "Không câu trả lời nào được
trao cho ông cả; chúng đã được dành cho những người
có liên quan, những người đã nêu ra câu hỏi của mình.
Chúng chẳng liên quan gì tới ông cả. Sao ông nghe
chúng? Làm sao ta có thể trả lời cho ông khi ông đã
không hỏi những câu hỏi này? Cái ngày ông đem câu
hỏi của mình tới thì ông cũng sẽ có câu trả lời." Đệ tử
này nói, "Nhưng dẫu sao đi chăng nữa tôi đã nghe câu
trả lời rồi."
Thế là Phật nói, "Những câu trả lời đó được ngụ ý
dành cho người khác, và chúng hợp với những nhu cầu
khác nhau của họ. Người tới gặp ta vào buổi sáng là
người tin, người hữu thần, và anh ta muốn rằng ta phải
xác nhận niềm tin của anh ta. Anh ta không biết liệu có
Thượng đế hay không. Anh ta chỉ muốn thoả mãn bản
ngã mình rằng ta cũng hỗ trợ cho niềm tin của anh ta.
Anh ta đã tới để kiếm hỗ trợ của ta, xác nhận của ta. Do
đó ta nói, 'Không, không có Thượng đế đâu.' Do vậy ta
đã làm anh ta choáng tới tận gốc rễ. Anh ta đã không
biết Thượng đế; nếu anh ta thực sự biết, anh ta đã không
đến ta. Anh ta không biết tìm kiếm xác nhận từ tri thức
của mình. Cho dù cả thế giới có phủ nhận Thượng đế,
anh ta sẽ nói, 'Có Thượng đế; vấn đề phủ nhận đơn giản
không nảy sinh.' Nhưng người này vẫn còn đang truy
tìm, tìm kiếm; anh ta không biết theo cách riêng của
mình. Đó là lí do tại sao ta phải nói không với anh ta.
Thực tế anh ta đã dừng việc tìm kiếm, và ta đã phải cho
anh ta cú ngạc nhiên choáng váng để cho anh ta bắt đầu
tìm kiếm lại. Người đã tới với ta vào buổi trưa là người
không tin, người vô thần; anh ta tin rằng không có
Thượng đế. Với anh ta, ta nói, 'Có Thượng đế.' Anh ta
nữa, đã dừng việc tìm kiếm; anh ta cũng muốn rằng ta
phải xác nhận niềm tin vô thần của anh ta. Còn người
tới vào buổi tối thì không hữu thần không vô thần. Cho
nên sẽ không thích hợp mà gắn anh ta với bất kì niềm tin nào, bởi vì cả có và không đều gắn với nhau. Cho
nên ta đã bảo anh ta rằng nếu anh ta muốn câu trả lời
đúng, thì anh ta tốt hơn cả là giữ yên tĩnh và không nói
có hay không. Và khi có liên quan tới ông, câu hỏi
không nảy sinh, bởi vì ông vẫn còn chưa hỏi câu hỏi của
mình."
Tôn giáo là chuyện riêng tư cao độ. Nó cũng giống
như tình yêu. Nếu, từ tình yêu, ai đó nói điều gì đó cho
người yêu, thì điều đó không cần phải phát thanh ở bãi
chợ. Đó là chuyện hoàn toàn thân mật và cá nhân. Và
nó mất hết mọi ý nghĩa của nó một khi bạn mang nó ra
công cộng. Theo cùng cách này các chân lí tôn giáo đều
mang tính cá nhân cao, chúng được truyền cho cá nhân
này từ cá nhân khác; chúng không phải là cái gì đó ném
theo gió.
Cho nên hỏi câu hỏi đó đi, và hỏi điều bạn cần phải
hỏi, nhưng chỉ khi bạn trở thành một Vivekananda, khi
bạn có cùng đam mê và mãnh liệt như ông ấy có.
Nhưng một Vivekananda không hỏi xin phép, ông
ấy hỏi thẳng câu hỏi của mình.
Một thời gian ngắn trước đây tôi đã ở một thị trấn
nơi một thanh niên tới tôi và hỏi liệu anh ấy có nên trở
thành sannyasin không. Tôi bảo anh ấy, "Chừng nào
bạn cảm thấy thích tư vấn người khác, đừng nhận tính
chất sannyas; bằng không bạn sẽ ăn năn. Và sao bạn lôi
tôi vào rắc rối này? Điều đấy là để cho bạn quyết định
chứ. Cái ngày bạn cảm thấy rằng bạn không thể trì hoãn
được nó cho dù cả thế giới có chen vào đường của bạn,
ngày đó sẽ là ngày điểm đạo của bạn để mang tính
sannyas. Chỉ thế thì tính chất sannyas mới có thể mang
lại kết quả và vui mừng, không trước đó." Rồi anh ta
hỏi, "Thế về thầy thì sao?" Tôi nói, "Tôi chẳng bao giờ
đi tư vấn ai cả. Ít nhất trong cuộc đời này tôi đã không
tư vấn ai cả. Và nếu tôi phải tư vấn chút nào, tôi sẽ tư
vấn bản thể bên trong riêng của tôi. Sao đi tư vấn người
khác? Và làm sao bạn có thể tin cậy vào điều người
khác nói? Bạn không thể dựa vào lời khuyên của người
khác được.
Bất kì điều gì bạn làm, bạn không thể phụ thuộc vào
điều người khác khuyên bạn làm."
Và liệu có gì khác biệt nếu tôi nói rằng có Thượng
đế? Điều đó có tạo ra khác biệt gì cho bạn khi bạn đọc
nó trong cuốn sách mà Ramakrishna đã bảo với
Vivekananda, "Ta thấy Thượng đế còn sinh động hơn là
ta thấy ông"? Bạn có thể viết ra cuốn sách khác nói rằng
bạn đã hỏi tôi và tôi nói, "Có, có Thượng đế. Và tôi thấy
Thượng đế còn rõ ràng hơn tôi thấy bạn." Điều đó có
tạo ra khác biệt không? Cho dù cả nghìn cuốn sách nói
rằng có Thượng đế, điều đó tất cả đều vô ích. Chừng
nào câu trả lời rằng có Thượng đế chưa tới từ bản thể
bên trong của bạn, tất cả mọi câu trả lời từ người khác
đều sẽ không ích lợi gì cả. Câu trả lời vay mượn sẽ
không có tác dụng. Việc vay mượn có thể có ích trong
mọi bước đường khác của cuộc sống, nhưng nó sẽ
không có tác dụng trong hoàn cảnh về Thượng đế. Cho
nên tại sao bạn hỏi tôi? Và làm sao câu trả lời có hoặc
không của tôi có thể có ích được cho bạn? Nếu bạn phải
hỏi một chút gì, hỏi bản thân mình đi. Và nếu câu trả lời
không mà tới từ bạn, thế thì coi nó là định mệnh bắt
buộc nó vậy. Thế thì đợi nó một cách im lặng; và sống
không có câu trả lời, sống với việc không biết. Nếu bạn
có thể sống với việc không biết, thế thì một ngày nào đó
câu trả lời sẽ tới trên con đường của bạn.


Và tất cả mọi câu trả lời đều nằm bên trong chúng
ta, chỉ nếu chúng ta biết cách hỏi đúng, chỉ nếu chúng ta
biết nghệ thuật đặt câu hỏi đúng. Và nếu chúng ta không
biết cách đặt câu hỏi đúng và cứ đi hỏi cả thế giới, điều
đó sẽ hoàn toàn vô ích. Khi một người như
Vivekananda hỏi một câu hỏi và Ramakrishna trả lời
nó, không phải là câu trả lời của Ramakrishna giúp đỡ
cho Vivekananda. Vivekananda hỏi với khao khát mãnh
liệt đến mức câu trả lời của Ramakrishna thậm chí
dường như không là của Ramakrishna, mà là của riêng
ông ấy, tới từ bản thể bên trong nhất của ông ấy. Đó là
lí do tại sao nó có ích, bằng không thì nó chẳng có ích.
Khi một người hỏi ai đó một câu hỏi nảy sinh từ rất sâu
trong bản thể mình, và sự khẩn thiết của nó tới mức
người ta có thể đánh cược cả đời mình cho nó, thế thì
câu trả lời nhận được trở thành câu trả lời riêng của
người ta, nó không là câu trả lời của người khác nữa.
Thế thì người khác chỉ là tấm gương cho người đó, phản
xạ câu trả lời riêng của người đó. Nếu Ramakrishna nói,
"Có, có Thượng đế," điều đó không thực là câu trả lời
của Ramakrishna; ông ấy chỉ phản xạ lại bản thể bên
trong của Vivekananda. Và bởi lí do này nó trở thành
câu trả lời đích thực, dường như ông ấy đã nghe tiếng
vọng riêng của mình, tiếng nói của bản thể bên trong
nhất của riêng mình được vọng qua Ramakrishna. Với
Vivekananda, Ramakrishna đường như không là gì
ngoài tấm gương.
Vivekananda đã đặt cùng câu hỏi này cho người
khác trước khi ông ấy tới Ramakrishna. Người đó là
Maharshi Devendranath, ông của nhà thơ vĩ đại
Rabindranath Tagore. Ông ấy được gọi là Maharshi
Devendranath - nhà tiên tri lớn - và ông ấy hay dành cả
đêm trên con thuyền trên sông Hằng và làm sadhana
của mình - thực hành tâm linh - tại nơi ẩn cư. Vào giữa
đêm, bóng tối của trăng hạ huyền, Vivekananda bơi qua
sông và trèo vào chiếc thuyền của ông ấy, tròng trành từ
đầu nọ tới đầu kia. Vivekananda đẩy cửa vẫn đóng hờ
và đi vào trong cabin. Trời tối và Devendranath đang
ngồi với mắt nhắm trong suy tư. Vivekananda nắm lấy
cổ áo ông ta và lay ông ta. Devendranath thất kinh khi
thấy một thanh niên, ướt sũng, bỗng nhiên đi vào trong
cabin của mình giữa đêm khuya vắng. Cả con thuyền
tròng trành. Ngay khi ông ấy mở mắt ra, Vivekananda
trút luôn câu hỏi của mình vào ông ấy, "Tôi ở đây để
hỏi liệu có Thượng đế hay không." Devendranath đầu
tiên bảo anh ta hãy thảnh thơi và rồi ông ấy cảm thấy
lưỡng lự về câu hỏi của người thanh niên này. Bạn có
thể hình dung hoàn cảnh khó khăn của người đang giữa
đêm thanh vắng bỗng nhiên bắt gặp một thanh niên
không quen biết tới chỗ ẩn cư đơn độc của mình bằng
việc bơi qua sông và quát vào mình câu hỏi, "Có
Thượng đế không?" theo một cách dường như anh ta
đang chĩa súng vào ông ấy. Cho nên ông ấy nói, "Đợi
một chút và thảnh thơi đi. Và trước hết cho ta biết anh
là ai và anh đem cái gì tới đây. Vấn đề là gì?" Và ngay
lập tức Vivekananda thả tay nắm cổ áo ông ấy ra, rời
khỏi căn phòng và nhảy tùm xuống nước. Khi maharshi
hô lên với anh ta, "Nghe đây, anh thanh niên,"
Vivekananda hô lại, "Lưỡng lự của ông đã nói mọi điều
rồi, và bây giờ tôi đi đây."
Lưỡng lự thực sự đã nói mọi điều. Devendranath
lưỡng lự nhiều tới mức ông ấy trì hoãn câu hỏi thực "Có
Thượng đế hay không". Về sau ông ấy thú nhận rằng
ông ấy đã thực sự bối rối bởi vì trước đây chưa bao giờ
ông ấy phải đương đầu với câu hỏi này theo cách thức
kì cục thế. Trong các cuộc họp công cộng và trong đền chùa và đền hồi giáo mọi người đã hỏi ông ấy các câu
hỏi về Thượng đế và tôn giáo và ông ấy đã giải thích
cho họ Veda, Upanishad và Gita đã nói gì về điều đó.
Cho nên tự nhiên ông ấy phải bước lùi lại trước cách
thức hỏi của Vivekananda. Về sau ông ấy thú nhận rằng
ông ấy đã thực sự trong tình huống lúng túng, ông ấy
không thể nghĩ nổi cái gì khi người thanh niên này đã
bắn câu hỏi này vào ông ấy. Và ông ấy cũng nói rằng,
"Khi người thanh niên này đã đi rồi, lần đầu tiên tôi biết
lưỡng lự của tôi là tôi đã không có câu trả lời."
Cho nên hỏi câu phải hỏi của bạn, nhưng chỉ khi
bạn được chuẩn bị cho nó. Tới tôi khi các bạn sẵn sàng
hỏi câu hỏi và nhận câu trả lời. Bởi vì vấn đề sẽ không
dừng lại với một mình câu trả lời cho câu hỏi. Sau khi
Ramakrishna đã trả lời cho ông ấy, Vivekananda không
còn là điều ông ấy vẫn là trước khi nêu ra câu hỏi này.
Ông ấy đã đi tới lúc đầu là Narendranath và sau câu trả
lời của Ramakrishna ông ấy đã biến thành Vivekananda.
Hỏi bạn điều cần thiết, nhưng thế thì bạn sẽ phải được
chuẩn bị cho thay đổi triệt để thế, thay đổi của toàn thể
cuộc đời bạn. Và bạn có thể có câu trả lời. Nhưng nhớ
lấy, Narendranath đã không trở về nhà là Narendranath,
bởi vì khi Ramakrishna nói, "Có Thượng đế, và ta thấy
ông ấy còn rõ ràng hơn ta thấy ông; vì có lúc ta có thể
nói rằng ông là không thực, nhưng ta không thể nói như
vậy đối với Thượng đế," Vivekananda đã không nói,
"Vâng thưa thầy, câu trả lời của thầy là tốt, và tôi đang
định trích dẫn thầy trong bài báo trả lời của tôi." Ông ấy
đơn giản không thể về nhà như ông ấy đã từng là; câu
trả lời đó đã kết liễu ông ấy như ông ấy đã từng là;
Narendranath đã bị kết thúc.
Các bạn có thể có câu trả lời; tôi sẽ không có khó
khăn gì với bất kì điều gì trong việc trao cho bạn câu trả
lời. Nhưng chính bạn mới là người thực sự khó khăn.
Cho nên hãy tới khi bạn cảm thấy đam mê thế về nó. Và
điều đó sẽ là hay nếu bạn tới theo cách kì cục, trong
đêm khuya thanh vắng và túm lấy cổ áo tôi. Nhưng nhớ
lấy, vào lúc bạn túm lấy cổ áo tôi, bạn sẽ bị sa vào lưới
của tôi, và thế thì bạn không thể chạy thoát được. Đó
không phải là thảo luận học thuật nơi vấn đề kết thúc
với hỏi và trả lời. Điều đó không là gì cả. Đó là vấn đề
của sống và chết; bạn sẽ phải đánh cược chính bản thân
cuộc sống của mình.
Một bạn khác hỏi: khi chúng tôi gieo hạt mầm, phải
mất thời gian cho nó mọc lên. Còn thầy nói con
người là hạt mầm, hạt mầm của tính thượng đế, và
rằng con người có thể mọc lên trong tính thượng đế
ngay chính khoảnh khắc này, ngay lập tức. Xin thầy
giải thích điều dường như mâu thuẫn này?
Chắc chắn là tôi nói điều đó đấy. Khi chúng ta gieo
hạt mầm, nó cần thời gian để mọc lên. Nhưng thực sự
nó không cần thời gian để mọc, nó cần thời gian chỉ để
làm tan rã và tan biến như hạt mầm. Việc mọc xảy ra
trong khoảnh khắc; hạt mầm bùng nổ thành việc mọc
cây. Nhưng cần thời gian, tất nhiên, cho hạt mầm để tan
rã và tan biến như hạt mầm. Cho nên tôi không nói rằng
các bạn không thể cần thời gian để làm tan biến như
một bản ngã, mà tôi nói rằng Thượng đế không bao giờ
cần thời gian cả, ngài tới trong khoảnh khắc. Chẳng
hạn, nếu chúng ta đun sôi nước, phải mất thời gian để
đạt tới điểm sôi, để được sôi lên ở một trăm độ. Nhưng
một khi nước chạm tới điểm sôi, nó biến thành hơi nước chẳng mất thời gian nào. Đó là cú nhảy; ngay khi nước
đạt tới điểm sôi, nó lấy cú nhảy; nó biến mất là nước,
trở thành hơi. Không phải là nước sẽ biến thành hơi dần
dần, từng mẩu một; không, nó biến thành hơi trong một
cú, trong một cú nhảy. Tất nhiên, nước cần thời gian để
đạt tới điểm sôi. Nó vẫn là nước cho tới khi nó chạm tới
điểm không quay lại - một trăm độ. Cho dù tại chín
mươi chín độ, nó vẫn còn dưới dạng nước.
Thượng đế là sự bùng nổ - bước nhảy. Ngài là điểm
bùng phát. Chừng nào bạn còn chưa đạt tới điểm đó,
bạn vẫn còn là một con người, cho dù nỗ lực của bạn,
giống như nước, đã đạt tới chín mươi chín độ. Khi bạn
đạt tới điểm sôi, bạn sẽ biến thành Thượng đế. Nơi bạn
kết thúc, Thượng đế bắt đầu.
Cho nên tôi nói, nó có thể xảy ra vào chính khoảnh
khắc này. Tôi ngụ ý gì bởi khoảnh khắc này? Nó ngụ ý
rằng nếu chúng ta đã được chuẩn bị để đi tới điểm sôi,
thì điều đó có thể xảy ra trong khoảnh khắc. Chẳng phải
đã lâu rồi chúng ta đều trong vạc dầu đó sao? Hết kiếp
nọ tới kiếp kia chúng ta đã cố gắng để được đun nóng
lên theo cách thức thiêng liêng, và chúng ta đã không
đạt tới một trăm độ. Bạn cần thêm bao nhiêu thời gian
nữa? Bạn chưa lấy đủ thời gian sao? Không, chúng ta đã
dùng đủ thời gian rồi; nhưng chúng ta không biết nghệ
thuật đun nóng và đạt tới điểm sôi. Ngay cả khi chúng
ta đạt tới chín mươi chín độ, chúng ta lập tức quay lại
và bắt đầu nguội đi, bởi vì chúng ta sợ một trăm độ. Tôi
đã để ý điều đó trong việc thiền bao nhiêu người trong
các bạn quay lại sau khi đạt tới chín mươi chín độ.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao những điều tầm
thường lặt vặt làm bạn quay lại. Dường như bạn đã định
quay lại rồi. Điều đó cũng giống như một người lên tàu
hoả để đi Bombay, và thấy hai người đang to tiếng nói
chuyện với nhau và người đó từ bỏ cuộc hành trình của
mình và trở về nhà lấy cớ là cuộc nói chuyện to quá của
hai người kia đã làm nhiễu loạn anh ta và anh ta không
đến được Bombay. Hiển nhiên là người này không
muốn tới Bombay, vì nhiễu loạn như vậy là không thể
tránh khỏi trong cuộc hành trình kiểu như thế này. Nếu
người ta phải tới Bombay người đó cứ đi mặc cho
những nhiễu loạn tí ti như vậy; người đó không bao giờ
từ bỏ cuộc hành trình của mình. Thay vì thế những
nhiễu loạn trên đường khích lệ người đó đi nhanh hơn
để cho người đó không phải nghe những chuyện tán gẫu
vô ích.
Nhưng người ta từ bỏ thiền bởi những lí do rất tầm
thường. Người ta từ bỏ bởi vì ai đó kéo họ lại một chút,
hoặc chạm vào người họ hoặc ai đó ngã ra đất và bắt
đầu khóc. Dường như người đó muốn từ bỏ và do vậy
chờ đợi bất kì cái cớ nào để hạ thấp nhiệt tình của mình.
Thậm chí một tiếng hét nhỏ cũng trở thành cái cớ lớn
cho người đó dừng không thiền thêm nữa. Tiếng hét có
liên quan gì tới bạn? Và người đó không biết mình đang
bị mất gì, mình đang phải trả giá gì cho những cái cớ lặt
vặt đó. Và người đó cũng không biết mình đang nói gì.
Một thời gian ngắn trước đây một người bạn đã gặp
tôi trên đường và nói, "Xin thầy yêu cầu những người
này ở đây đừng bị kích động nhiều quá, yêu cầu họ chơi
nó với âm điệu thấp hơn, bằng không tình huống bùng
nổ có thể được tạo ra. Hai người đang thiền bỗng nhiên
thành trần truồng." Anh ta nói điều đó khá đáng yêu:
rằng người nào đó bực mình bởi vì hai người đã lột
quần áo của họ ra, và do vậy tôi nên kìm họ lại.


Mọi người đều trần truồng bên trong quần áo của
mình và không ai bực mình về điều đó cả. Bên trong
quần áo tất cả chúng ta đều trần truồng và không ai bị
quấy rầy cả. Nhưng mọi người đều bị quấy rầy bởi hai
người cởi quần áo của họ ra trong khi thiền. Đó là điều
nực cười thế. Có thể hiểu được nếu ai đó đã cởi quần áo
của bạn ra và bạn tức giận. Nhưng sao bạn tức giận về
ai đó cởi quần áo riêng của họ ra? Tức giận là được nếu
ai đó đã cướp quần áo của bạn, mặc dầu điều đó nữa
cũng là vô nghĩa. Jesus đã nói, "Nếu ai đó lấy đi của
ông chiếc áo choàng, cho người đó cái áo sơ mi nữa. Có
thể, người đó không thể lấy nữa được bởi vì xấu hổ."
Việc phản đối của người đó là được biện minh nếu ai đó
đã vứt bỏ áo choàng của mình. Nhưng sao người đó làm
mất trí của mình nếu ai đó cởi áo choàng của riêng mình
ra? Dường như là người đó chỉ đợi cơ hội ai đó cởi áo
choàng của mình ra và người đó làm dịu đi nỗ lực của
mình và đổ mọi oán trách lên người kia.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao ai đó định ở trần
mà quấy rối việc thiền của bạn được, chừng nào bạn còn
chưa quan sát chặt chẽ người đó làm như vậy. Bạn có
thiền không hay làm cái gì vậy? Trong thực tế, bạn phải
không biết ai cởi quần áo của người đó và điều đang
xảy ra xung quanh bạn. Bạn phải làm việc thiền của
mình và vẫn còn giới hạn vào bản thân mình. Hay bạn
phải quan tâm tới điều người khác làm? Bạn là thợ giặt
hay thợ may mà bạn quan tâm nhiều thế tới quần áo của
người khác vậy? Lo lắng của bạn là không có cơ sở và
vô nghĩa.
Và người cởi quần áo của mình... nghĩ về điều đó.
Bạn sẽ biết điều đó nếu bạn được yêu cầu tụt quần áo
của bạn ra. Thế thì bạn sẽ biết rằng người ta có những lí
do lớn lao để cởi quần áo mình ra; cái gì đó phải đã xảy
ra cho người đó để làm như vậy. Có lẽ bạn sẽ không
làm điều đó cho dù người ta cho bạn một trăm nghìn ru
pi tiền thưởng. Và người này đã cởi quần áo của mình
mà chẳng được cúng tặng như vậy, và bạn bực mình
một cách không cần thiết. Một lí do mạnh mẽ nào đó
phải đã nảy sinh, nhắc nhở người đó làm như vậy.
Chúng ta vẫn còn chưa biết cách nhìn và hiểu cuộc sống
với sự thông cảm và chăm nom.
Khi Mahavira cởi bỏ quần áo của mình lần đầu tiên,
ông ấy bị nhận gạch và đá. Còn bây giờ ông ấy được tôn
thờ. Và những người tôn thờ ông ấy đang bán quần áo
khắp mọi nơi. Các tín đồ của Mahavira tất cả đều là nhà
buôn quần áo. Điều này thật lạ thế. Và chính những
người này đã ném đá vào ông ấy. Và để chuộc lỗi về
điều đó họ bây giờ bán quần áo để cho không ai bị
hướng theo việc ở trần. Các nhà buôn quần áo đều là tín
đồ của Mahavira còn bản thân ông ấy thì sống trần. Khi
ông ấy cởi bỏ quần áo của mình, ông ấy đã bị đuổi ra
khỏi hết làng nọ tới làng kia. Không một làng nào cho
ông ấy trú ngụ. Bất kì nơi đâu ông ấy tới, ông ấy đều bị
đuổi đi bởi vì ông ấy trần truồng. Và bây giờ ông ấy
được yêu mến và tôn thờ - ông ấy, người đã bị từ chối
cho trú ngụ - không chỉ trong một làng hay nhà trọ, ông
ấy còn không được phép có chỗ trú ngụ ngay cả ở vùng
đất hoả táng bên ngoài làng và là nơi xác chết được đem
thiêu. Chó hoang được thả ra đuổi ông ấy để cho ông ấy
không tới gần làng. Cái gì có đó gây rắc rối cho mọi
người? Chẳng có gì ngoại trừ rằng Mahavira đã vứt bỏ
quần áo của mình.
Điều đáng ngạc nhiên là đơn thuần vứt bỏ quần áo
về phần một người ... Lí do có thể là gì? Nỗi sợ đằng
sau điều đó là gì? Nỗi sợ là thực sự khủng khiếp. Chúng
ta trần trụi bên trong, chúng ta hoàn toàn bị thoái hoá và nghèo nàn trong bản thể mình tới mức như cảnh tượng
về khu chợ trơ trụi - trơ trụi được gắn chặt với nghèo
nàn và nghèo khó - nhắc nhở chúng ta về thoái hoá và
nghèo nàn bên trong của riêng chúng ta. Không có lí do
nào khác hơn điều này.
Và nhớ lấy, tính trần truồng là một điều và tính trần
trụi là một điều hoàn toàn khác. Nhìn vào Mahavira
không ai có thể nói rằng ông ấy trần truồng cả, ông ấy
trông đẹp thế. Và chừng nào còn có liên quan tới chúng
ta thì chúng ta trông trần truồng và xấu xí ngay cả trong
những bộ áo quần đẹp nhất của mình.
Bạn đã quan sát cẩn thận những người cởi quần áo
của họ trong khi thiền chưa? Bạn không dám, mặc dầu
bạn phải đã lén nhìn vào họ lúc này lúc khác, bằng
không thì bạn đã không tức giận về điều đó và nghĩ về
tình huống bùng nổ nảy sinh từ nó. Cùng người bạn đó
đã viết cho tôi rằng đàn bà đặc biệt bị quấy rối bởi sự
việc này. Điều đó nghĩa là gì? Họ ở đây chỉ để quan sát
nếu ai đó cởi quần áo mình ra sao? Họ ở đây để thiền;
thay vì họ lén nhìn người khác. Họ đã từ bỏ việc nhớ tới
mình, họ đã dừng việc quan sát bản thân mình thay vì
vậy họ làm bận rộn mình với việc nhìn xoi mói và rình
mò vào những người trần trụi. Thế thì tình huống này
nhất định mang tính bùng nổ. Ai yêu cầu bạn để mắt tới
họ? Bạn có mắt của mình được bịt kín. Làm sao điều đó
thành vấn đề nếu ai đó ở trần? Khi có liên quan tới
người ở trần, người đó đã không quan sát bạn chút nào.
Nếu một người cởi trần mà tới tôi và phàn nàn rằng sự
hiện diện của đàn bà rất gây ngượng nghịu cho người
đó, thì điều đó còn thể hiểu được. Điều kì lạ là đàn bà
thấy họ trong trạng thái bùng nổ bởi vì anh ấy. Tâm trí
bạn chắc lấy làm vui sướng nếu chỉ bạn mới nhìn anh ta
một cách cẩn thận. Thế thì được nhiều thứ; tâm trí bạn
sẽ cảm thấy sung sướng và nhẹ gánh. Điều đó sẽ tạo ra
khác biệt lớn cho bạn. Nhưng dường như là chúng ta
quyết tâm tránh xa tất cả những cái thực sự có lợi. Và
có lẽ chúng ta khao khát chuốc lấy thảm hoạ. Và không
có kết thúc cho niềm tin và quan niệm điên khùng của
chúng ta.
Một thời điểm tới trong quá trình thiền, và nó tới
theo cách không cưỡng lại được với một số người, khi
họ phải cởi quần áo mình ra. Và họ cởi quần áo ra với
việc cho phép của tôi. Cho nên nếu bạn muốn bùng nổ,
tốt hơn cả bạn nổ vào tôi. Mọi người để trần thân thể
mình ở đây đều đã có phép của tôi. Tôi đã đồng ý với
hành động của họ. Họ tới tôi và nói rằng trong quá trình
thiền họ cảm thấy rằng nếu họ không cởi quần áo ra thì
cái gì đó bên trong họ sẽ bị chặn lại. Và tôi đã yêu cầu
họ cứ tiến lên mà không cần quần áo. Và đó là điều phải
liên quan tới họ, chứ không tới bạn. Cho nên tại sao bạn
lo nghĩ về điều đó? Và nếu bất kì ai nhiếc móc họ về
điều này, người đó đã làm một việc rất sai. Bạn không
có quyền làm như vậy.
Bạn nên hiểu rằng sẽ tới một khoảnh khắc của hồn
nhiên khi nhiều điều trở thành cản trở cho tâm trí hồn
nhiên. Quần áo bao gồm một trong những ức chế mạnh
nhất của con người; chúng tạo nên điều sâu nhất trong
những điều kiêng kị. Chúng biểu thị cho một trong
những thói quen cổ nhất và hằn sâu nhất của con người.
Và một khoảnh khắc tới trong cuộc sống xã hội của
chúng ta khi những quần áo chúng ta trở thành biểu
tượng cho toàn thể nền văn minh của chúng ta. Nhưng
điều đúng tương đương là một khoảnh khắc tới với một
số người, không phải cho tất cả mọi người, khi họ cảm
thấy như trọng lượng không cần thiết của tâm trí.

Phật mặc quần áo trong cả đời mình, và Jesus cũng
vậy. Nhưng Mahavira đã vứt bỏ chúng. Và đã xảy ra
việc một người đàn bà dám làm như vậy, như Mahavira,
mặc dầu đàn bà vào thời của Mahavira đã không thể
dám thế. Mahavira có một số rất lớn các đệ tử nữ, họ
còn đông hơn các đệ tử nam. Trong số các đệ tử của ông
ấy chỉ có mười nghìn đàn ông và có tới bốn mươi nghìn
đàn bà. Nhưng không một đệ tử nữ nào của ông ấy có
thể thu được dũng cảm để cởi bỏ quần áo. Đó là lí do tại
sao Mahavira đã phải nói rằng những người đàn bà đó
phải được sinh ra lần nữa, bởi vì chừng nào họ còn chưa
lấy hoá thân thành nam giới thì họ không thể đạt tới
được moksha hay giải thoát. Bởi vì người còn sợ việc
cởi bỏ quần áo sẽ rất sợ cởi bỏ thân thể. Do đó
Mahavira phải đặt ra một luật rằng tự do là không thể có
được qua hoá thân nữ giới; đàn bà phải lấy hoá thân
nam giới cho ý định này. Không có lí do nào khác cho
luật này.
Nhưng cũng đã có những người đàn bà bạo dạn
nữa: một người như vậy là Lalla ở Kashmir. Nếu
Mahavira mà gặp Lalla thì ông ấy sẽ không đặt ra
nguyên tắc như vậy. Lalla ở Kashmir đích xác giống hệt
Mahavira; nếu bạn hỏi một người Kashmiri về bà ấy thì
người đó sẽ nói, "Chúng tôi ở Kashmir chỉ biết hai cái
tên: Allah và Lalla; chỉ hai cái tên thôi." Lalla đã sống
trần, và toàn thể Kashmir ngưỡng mộ và yêu mến bà ấy.
Trong sự trần trụi của bà ấy mọi người lần đầu tiên thấy
cái đẹp và sự hồn nhiên mà đơn giản phi thường. Bà ấy
toả ra sự hồn nhiên và niềm vui sướng của trẻ thơ. Nếu
Mahavira gặp bà ấy, thì ông ấy đã cứu được vết nhơ
dính vào ông ấy. Có vết nhơ trên Mahavira, và đó là ở
chỗ ông ấy nói tự do là không thể được qua hoá thân nữ
giới. Nhưng Mahavira không chịu trách nhiệm về điều
đó, thực sự những người đàn bà quanh ông ấy mới đáng
nhận sự trách móc. Thấy họ ông ấy nói, "Làm sao đàn
bà có thể vứt bỏ được gắn bó của họ với thân thể nếu
gắn bó của họ với quần áo còn mạnh thế? Níu bám của
họ vào quần áo bên ngoài mạnh đến mức không thể
trông đợi họ gạt bỏ níu bám của mình vào quần áo bên
trong, chính là thân thể."
Tôi không yêu cầu các bạn cởi quần áo của mình,
nhưng nếu ai đó làm điều đó thì chẳng có lí do gì để
cấm người đó bất kì cái gì. Nếu thậm chí trong một trại
thiền chúng ta không thể cho phép tự do này - rằng
người ta có thể tự do tới mức độ này, nếu người đó
quyết chí, thế thì sẽ không thể nào tìm ra tự do này ở bất
kì đâu khác trên thế giới này. Và trại thiền được ngụ ý
dành cho người tìm kiếm, không cho khán giả. Tại đây
chừng nào người ta không chen vào đường của người
khác, người đó được quyền theo tự do tuyệt đối của
mình. Nếu ai đó xâm phạm vào tự do của bạn, rắc rối
bắt đầu, và bạn có lí do để phàn nàn. Nếu ai đó bắt đầu
ở trần và đánh vào bạn, nếu người đó làm bạn bị
thương, có mọi lí do để kìm người đó lại. Nhưng chừng
nào người đó đang làm điều gì đó với bản thân mình,
làm việc riêng của mình, bạn không là ai để mà can
thiệp vào chuyện của người đó và bạn không có quyền
đưa ra bất kì phản đối nào.
Điều chúng ta coi là nhiễu loạn đối với thiền là rất
buồn cười. Nếu ai đó ở trần, việc thiền của nhiều người
khác bị làm hỏng. Điều không tốt là cứ cố giữ việc thiền
què quặt, việc thiền yếu đuối và nhu nhược như thế này.
Giá trị của nó là gì? Điều này, rằng nếu người ta không
cởi quần áo của mình thì bạn đã làm được nó rồi.
Nhưng điều đó là không thể được. Không, bạn phải gạt
bỏ những vấn đề nhỏ mọn đó đi, những vấn đề quá mức nhỏ mọn. Sadhana, hay việc theo đuổi tâm linh, là vấn
đề của lòng dũng cảm lớn lao. Tại đây chúng ta phải tự
mình cởi bỏ hết tầng nọ đến tầng kia, như chúng ta bóc
hành. Theo nghĩa sâu sắc nhất của nó sadhana là việc
đương đầu với sự trần trụi bên trong nhất của người ta.
Không nhất thiết phải cởi bỏ quần áo, nhưng với một số
người, đôi khi tình huống có thể nảy sinh khi sẽ cần
phải làm như vậy. Và nhớ rằng bạn không thể nghĩ về
tình huống này từ bên ngoài được; mà bạn cũng không
có quyền để phán xét liệu nó đúng hay không đúng,
cũng không bàn tán về nó. Bạn là ai để làm như vậy?
Làm sao bạn chen vào việc này? Và làm sao bạn có thể
biết về nó được? Bạn có cho rằng những người đuổi
Mahavira ra khỏi làng họ là những người độc ác không?
Không, họ cũng văn minh và văn hoá như bạn vậy và,
giống bạn, họ nghĩ rằng vì ông ấy ở trần nên ông ấy
không có chỗ trong họ.
Nhưng chính điều không may là ở chỗ mọi lần
chúng ta đều lặp lại cùng sai lầm. Người bạn gặp tôi
trên phố đã nói bằng tình yêu và sự thông cảm rằng tôi
nên kìm những người này lại đừng để cởi trần ra, bằng
không thì việc tham dự vào việc thiền của chúng ta ở
Bombay sẽ sụp đổ nhanh chóng. Thì cứ để cho nó sụp
đổ đi; cứ để cho không một ai tới cả! Không có nhu cầu
chút nào để những người sai tới thiền. Với tôi sẽ chẳng
có khác biệt gì nếu chỉ một người đến. Cũng người bạn
đó nói rằng đàn bà sẽ tránh xa hoàn toàn; không người
nào trong số họ sẽ dự trại nữa. Thì cứ để họ tránh xa ra.
Ai bảo họ đến trại này? Đấy là để cho họ quyết định, và
quyết định cho chính họ. Và nếu họ chọn tham dự, thì
họ có thể làm như vậy theo điều kiện của tôi. Trại này
không thể được tổ chức theo điều khoản của họ. Và
ngày tôi sẽ tổ chức trại theo điều khoản của bạn, sẽ là
tốt nếu các bạn không tham dự nó chút nào. Thế thì tôi
sẽ không dùng bất kì cái gì cho bạn cả.
Trại thiền sẽ được cai quản theo điều khoản của tôi.
Tôi không tới vì các bạn, mà tôi cũng không thể hướng
tôi theo ước muốn của các bạn. Các bạn không thể chỉ
đạo và ra lệnh cho tôi được. Các guru, các bậc thầy,
những người không còn nữa, trở nên được nhiều người
ưa chuộng sau khi họ đã chết và đã qua đời bởi chính lí
do là các bạn có thể thao túng và quản lí họ tuỳ ý bạn,
họ không thể làm được điều gì cả. Nhưng nếu bậc thầy
còn sống, thầy nhất định là khó khăn cho bạn. Đó là lí
do tại sao một Mahavira sống bị đánh và một Mahavira
chết được tôn thờ trên khắp thế giới. Bậc thầy sống
chuyên gây rắc rối phiền hà, bởi vì bạn không thể chặn
thầy được, bạn không thể kiểm soát được thầy.
Trong mắt tôi không có lí do nào khác cho việc tới
của bạn có tính hợp thức nào ngoại trừ một lí do. Và
người tới và người không tới đều không quan trọng gì
với tôi cả. Tôi muốn rằng bất kì ai tới cũng đều phải tới
với hiểu biết đầy đủ tại sao người đó tới và để làm gì.
Một bạn hỏi: xin thầy giải thích đầy đủ sahaja yoga
- vô nỗ lực, tự nhiên và yoga tự phát - nghĩa là gì?
Sahaja yoga là môn yoga khó nhất, bởi vì chẳng có
gì khó hơn việc là sahaja - vô nỗ lực, tự nhiên và tự
phát. Ý nghĩa của sahaja là gì? Sahaja nghĩa là: để cho
bất kì cái gì xảy ra cứ xảy ra, đừng kháng cự lại nó. Bây
giờ một người đã trở nên trần trụi; điều này có thể là tự
nhiên và dễ dàng cho người đó để là vậy. Nhưng trong thực tế nó đã trở thành khó thế. Mang tính sahaja nghĩa
là tuôn chảy như không khí và nước, và không cho phép
trí năng chen vào giữa đường của bất kì cái gì đang xảy
ra.
Ngay khi trí năng chen vào đường, ngay khi nó can
thiệp vào, chúng ta dừng là sahaja, tự nhiên, và bắt đầu
là asahaja, phi tự nhiên. Ngay khi chúng ta quyết định
cái gì phải là và cái gì không phải là, thì chúng ta lập
tức bắt đầu phi tự nhiên. Và chúng ta trở thành tự nhiên
khi chúng ta chấp nhận cái xảy ra, cái đang đó.
Cho nên điều đầu tiên cần hiểu là ở chỗ sahaja yoga
là yoga khó nhất. Đừng nghĩ rằng nó rất dễ dàng như
thuật ngữ này gợi ý. Có quan niệm sai rằng sahaja yoga
là cách thức dễ dàng của sadhana hay kỉ luật tâm linh.
Mọi người trích dẫn Kabir: "Sadho, sahaj samadhi
bhali; Hỡi người tìm kiếm, cực lạc tự nhiên là điều tốt
nhất." Tất nhiên, nó là điều tốt nhất, nhưng nó cũng là
điều rất khó. Bởi vì không cái gì khó hơn đối với con
người là tự nhiên. Con người đã trở thành phi tự nhiên,
con người đã du hành đi xa khỏi việc là tự nhiên đến
mức bây giờ thật dễ dàng cho con người phi tự nhiên và
rất khó để là tự nhiên.
Nhưng thế thì chúng ta phải hiểu đôi điều trong
hoàn cảnh này, bởi vì điều tôi đang dạy chính là bản
thân sahaja yoga.
Áp đặt học thuyết và giáo điều lên cuộc sống là làm
suy đồi cuộc sống. Nhưng tất cả chúng ta đều làm điều
đó; tất cả chúng ta đều áp đặt các học thuyết và lí tưởng
lên bản thân mình. Ai đó bạo hành và người đó đang cố
gắng là bất bạo hành. Ai đó giận dữ và người đó đang
cố an bình. Ai đó độc ác và người đó đang cố tốt bụng.
Kẻ trộm đang cố làm người hào phóng, và kẻ ác cố
thánh thiện. Đây là cách tất cả chúng ta đang là; chúng
ta bao giờ cũng cố gắng áp đặt cái gì đó lên cái chúng ta
đang là. Nhưng kết quả là gì?
Chúng ta không chỉ thất bại khi chúng ta không
thành công theo nỗ lực này, chúng ta thất bại cả khi
chúng ta thành công nữa. Bởi vì dù kẻ trộm có cố gắng
đến đâu, người đó cũng không thể hào phóng được;
người đó tất nhiên có thể đem cho từ thiện và người đó
có có ảo tưởng về việc hào phóng; nhưng tâm trí của kẻ
trộm bao giờ cũng tìm ra cách để trộm thông qua từ
thiện.
Tôi đã nghe nói rằng hiền nhân Eknath có lần đi
hành hương. Khi ông ấy sắp sửa rời khỏi làng mình thì
một tên trộm ở chỗ ông ấy bày tỏ ước muốn đi cùng ông
ấy trong cuộc hành hương này. Anh ta nói từ khi anh ta
phạm tội, anh ta đã rất mong muốn gột sạch tội lỗi của
mình bằng việc đầm mình vào sông Hằng linh thiêng.
Eknath nói, "Tôi không phản đối việc đi cùng của ông
với tôi, vì tất cả những người đi với tôi đều là kẻ trộm
thuộc đủ mọi loại, nhưng có khó khăn đấy. Những kẻ
trộm khác này nói rằng tôi không nên đem ông đi cùng
vì họ sợ ông sẽ đánh cắp các thứ của họ và gây cho họ
rắc rối. Cho nên ông có thể đi cùng với một điều kiện
kiên quyết là ông sẽ không say mê ăn cắp trong khi đi
hành hương." Anh ta nói, "Tôi xin thề, tôi sẽ không ăn
cắp trong cuộc hành hương - từ đầu tới cuối."
Khi cuộc hành trình bắt đầu tên trộm gia nhập nhóm
người hành hương của Eknath, cũng toàn là trộm cắp
cả. Họ đều là trộm cắp thuộc các loại khác nhau. Tất cả
mọi tên trộm đều không thuộc cùng một loại. Một loại
trộm làm việc như các quan toà và các loại trộm khác hoạt động theo cách khác. Đủ mọi loại trộm, kể cả tên
trộm này, đều đi hành hương.
Khi cuộc hành trình bắt đầu, tên trộm nghèo cảm
thấy rất không thoải mái. Thói quen trộm cắp cũ của
anh ta và lời hứa của anh ta với Eknath đã đẩy anh ta
vào rắc rối. Anh ta trải qua ngày, nhưng đêm thật khó
khăn. Khi những người hành hương khác ngủ rồi, anh ta
cảm thấy bứt rứt, bởi vì đây là giờ làm việc của anh ta.
Bằng cách nào đó anh ta cũng trải qua được một hay hai
ngày nhưng đến ngày thứ ba anh ta tự nói với mình,
"Mình sợ cuộc hành hương này sẽ kết liễu mình mất, vì
nó kéo dài hàng tháng trời. Làm sao mình chịu được lâu
thế? Và nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ mình có thể quên
mất nghề của mình nếu mình không ăn cắp nhiều tháng
ròng. Nếu vậy, mình sẽ làm gì khi mình về nhà? Cuộc
hành hương rồi sẽ kết thúc; nó không thể kéo dài cả đời
được."
Thế là rắc rối bắt đầu với đêm thứ ba. Đó là một
loại rắc rối tôn giáo và có trật tự. Anh ta ăn cắp, nhưng
theo một phong cách hoàn toàn mới và khác biệt. Anh
ta lấy từ túi của người hành hương này và để chúng vào
túi của người khác; anh ta chẳng lấy gì cho mình cả.
Sáng hôm sau mọi người hành hương đều tức giận.
Từng người trong họ đều bị mất cái gì đó mà sau đó lại
được tìm thấy trong túi của ai đó khác. Có năm mươi
cho tới một trăm người hành hương - con số khá lớn -
và thật khó định vị mọi thứ. Mọi người đều phân vân,
họ không thể biết tất cả điều đó là cái gì. Đồ không biến
mất, nhưng chúng tất cả đều đã đổi chỗ. Thế rồi điều đó
làm loé lên ý nghĩ cho Eknath rằng điều đó có thể là
việc làm của cùng một kẻ trộm, người đã trở thành
người hành hương. Thế là ông ấy thức vào đêm. Sau
nửa đêm ông ấy thấy cũng tên trộm đó rời khỏi giường
và bỏ các thứ từ túi này sang túi khác. Eknath tới giữ
anh ta lại và hỏi, "Này, anh làm gì vậy?" Người này nói,
"Tôi biết tôi đang có lời thề rằng tôi sẽ không ăn cắp, và
tôi giữ lời thề của mình. Tôi không ăn cắp đồ vật, tôi chỉ
thay đổi chỗ của chúng. Tôi không lấy cái gì cho mình
cả; tôi chỉ bỏ nó từ túi này ra và đặt nó vào túi khác. Và
điều này chắc chắn không thuộc vào lời cam kết của tôi
với ông."
Eknath hay nói về sau rằng dù tên trộm có thể cố
gắng thay đổi bằng cách nào, điều đó cũng chẳng khác
biệt.
Tất cả những điều phi tự nhiên của cuộc sống chúng
ta đều là điều này - rằng chúng ta bao giờ cũng cố gắng
để khác với cái chúng ta đang thực là. Không, sahaja
yoga sẽ nói, đừng cố gắng khác hơn điều bạn đang là;
biết điều bạn đang là và sống nó. Nếu bạn là kẻ trộm
biết rằng bạn là kẻ trộm và sống cuộc sống của kẻ trộm
một cách đầy đủ. Điều này rất gian nan, bởi vì ngay cả
kẻ trộm cũng cảm thấy được hài lòng khi nghĩ rằng
mình đang cố gắng gạt bỏ việc trộm cắp. Người đó
không gạt bỏ bản thân mình thực sự khỏi điều đó,
nhưng người đó cảm thấy được nhẹ nhõm để nghĩ rằng
mặc dầu mình là kẻ trộm hôm nay mình sẽ thôi là kẻ
trộm ngày mai. Ngay cả bản ngã của kẻ trộm cũng nhận
được sự hài lòng từ ý nghĩ rằng mặc dầu người đó bị ép
buộc bởi hoàn cảnh mà phải trộm cắp, một ngày nào đó
sẽ sớm đến khi người đó sẽ là một người nhân đức, và
không là kẻ trộm. Cho nên trong hi vọng vào ngày mai
người đó thoải mái ăn trộm hôm nay.
Sahaja yoga nói rằng nếu bạn là kẻ trộm thế thì biết
rằng bạn là kẻ trộm đi và cứ trộm cắp một cách có hiểu biết về điều đó, nhưng không với hi vọng rằng ngày mai
bạn sẽ thôi là kẻ trộm. Và nếu chúng ta biết đúng điều
chúng ta đang thực là, nếu chúng ta chấp nhận bản thân
mình như chúng ta đang là và thực tế sống với nó, thế
thì cuộc cách mạng có thể xảy ra ngay hôm nay. Nếu kẻ
trộm nhận biết đầy đủ rằng mình là kẻ trộm thì người đó
không thể vẫn còn là kẻ trộm lâu được. Trong thực tế,
chính cách thức của người đó để tiếp tục là kẻ trộm là ở
chỗ người đó nói rằng mình không thực là kẻ trộm, và
trong những hoàn cảnh tốt hơn trong tương lai người đó
sẽ không là kẻ trộm nữa. Ý tưởng hay lí tưởng này làm
cho anh ta vẫn thoải mái là trộm; anh ta ăn trộm và vậy
mà vẫn còn không phải là kẻ trộm. Người khác nói rằng
anh ta không bạo hành, chính là hoàn cảnh đã buộc anh
ta phải bạo hành. Ai đó khác nói rằng anh ta mất bình
tĩnh bởi vì người khác xúc phạm anh ta, bằng không anh
ta không phải là người giận dữ; anh ta bị buộc thành
giận dữ. Anh ta thậm chí xin tha thứ; anh ta nói, "Xin
tha thứ cho tôi, anh trai ơi, tôi cũng ngạc nhiên làm sao
tôi đã dùng những lời lẽ thế để chống lại anh. Tôi không
thực là người ngạo mạn đâu." Do vậy lòng tự hào của
anh ta, bản ngã anh ta được khôi phục lại. Trong thực
tế, tất cả mọi ăn năn đều là cách để khôi phục bản ngã.
Người giận dữ này cứu lấy bản ngã mình bằng việc cầu
xin tha thứ.
Sahaja yoga nói: Biết rằng bạn là điều bạn đang là,
và đừng cố gắng đi xa khỏi nó cho dù một li; đừng cố
gắng khác với nó theo cách thức nhỏ nhặt nhất. Và
khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết hoàn toàn về tội lỗi
của nó, nỗi đau của nó, nỗi khổ của nó, nỗi cơ cực của
nó, ngọn lửa địa ngục của nó, bạn sẽ lập tức nhảy ra
khỏi nó và bạn sẽ được tự do với nó không cần thời gian
nào; bạn sẽ phải thoát ra ngoài nó một cách toàn bộ.
Nếu kẻ trộm biết bản thân mình một cách đầy đủ là kẻ
trộm và không nuôi dưỡng trong tâm trí mình cho dù
một ý nghĩ nhỏ nhặt nhất rằng mình sẽ thôi là kẻ trộm;
nếu người đó biết rằng mình là kẻ trộm hôm nay và
người đó sẽ là kẻ trộm vĩ đại hơn ngày mai, bởi vì trong
hai mươi bốn giờ thói quen của người đó sẽ được làm
mạnh thêm; nếu người đó chấp thuận định mệnh của
mình là kẻ trộm một cách hoàn toàn và với hiểu biết đầy
đủ, bạn có cho rằng người đó có thể vẫn còn là kẻ trộm
cho dù lấy một khoảnh khắc không? Nhận biết này rằng
mình là kẻ trộm sẽ chìm vào trong tim người đó giống
như viên đạn và nó sẽ đơn giản là không thể được cho
người đó để sống với hoàn cảnh này cho dù một khoảnh
khắc. Trong chính khoảnh khắc đó cách mạng sẽ xảy ra,
chuyển hoá sẽ xảy ra.
Nhưng chúng ta rất láu lỉnh, và chúng ta có những
phương cách láu lỉnh riêng của mình. Chúng ta là kẻ
trộm và chúng ta mơ trở thành người nhân đức, và đây
là cách những giấc mơ này giúp chúng ta vẫn còn là kẻ
trộm liên miên. Thực tế các giấc mơ của chúng ta vận
hành giống như cái giảm xóc có đó giữa hai giá chuyển
hướng của ô tô ray để hấp thu những cú xóc của chuyển
động. Cái giảm xóc hấp thu xóc và hành khách được
bảo vệ khỏi bị thương. Giấc mơ của chúng ta cũng
giống như cái giảm xóc trong xe mô tô. Khi chiếc xe
chạy trên đường gập ghềnh, nó hấp thu những cú xóc và
quí ông trong xe được cứu khỏi bị đau và không thoải
mái. Tương tự các học thuyết và nguyên tắc làm việc
như tầng đệm và hấp thu xóc trong cuộc sống của chúng
ta. Tôi là kẻ trộm và tôi giữ ý tưởng về không ăn cắp.
Tôi bạo hành và tôi có bất bạo hành làm khẩu hiệu của
mình; tôi nói bất bạo hành là điều cao nhất của tôn giáo.
Lí tưởng này là tầng đệm của tôi, nó giúp tôi vẫn còn bạo hành. Bởi vì bất kì khi nào tôi phải đương đầu với
sự kiện về bạo hành của mình, tôi sẽ tự nói với mình,
"Bạo hành gì? Mình là người tin vào bất bạo hành; bất
bạo hành là tôn giáo cao nhất cho mình. Nếu thỉnh
thoảng mình đi lệch khỏi nó, đấy là vì mình yếu đuối;
nhưng mình định đạt tới lí tưởng của mình ngày mai
hay ngày kia. Và cho dù mình không làm được trong
kiếp này, mình sẽ làm nó trong kiếp sau. Nhưng bất bạo
hành vẫn còn là ngôi sao dẫn đường của mình."
Có thể chứ, tôi mang lá cờ bất bạo hành trên khắp
thế giới, và liên tục bạo hành bên trong. Lá cờ này là sự
trợ giúp cho bạo hành của tôi.
Dù bất kì đâu bạn bắt gặp một người có dán nhãn
bất bạo hành là cao nhất, biết điều chắc chắn rằng người
bạo hành đang ở quanh đâu đó. Không thể có lí do nào
khác cho dấu hiệu hay lá cờ bất bạo hành; nó bao giờ
cũng tới cùng người bạo hành. Bất bạo hành là cái mộc
để che giấu bạo hành và duy trì nó. Con người có đủ
mọi loại phương cách, và chỉ các phương cách, nhiều
tới mức con người đánh mất bản thân mình trong đám
đông của mình.
Mang tính sahaja, là tự nhiên nghĩa là: cái đang hiện
hữu, cứ hiện hữu: bây giờ không có cách nào để bước ra
khỏi nó; mình phải sống nó; và mình sẽ sống nó, là nó.
Nhưng việc hiện hữu này và sống với cái đang đó,
đau đớn tới mức điều đó gần như không thể được. Bạn
có biết bạn sẽ làm gì nếu bạn bị ném xuống địa ngục
không? Bạn sẽ thấy với ngạc nhiên của mình rằng chỉ
với giúp đỡ của giấc mơ của mình, bạn mới có thể sống
được trong địa ngục. Bạn sẽ nhắm mắt lại và chôn vùi
bản thân mình trong mơ và mơ. Bạn đã nhịn ăn một
ngày chưa? Thế thì bạn biết mình đã trải qua giấc mơ
ngày của mình về thức ăn và chỉ thức ăn thế nào. Mơ về
thức ăn giúp cho bạn vượt qua việc nhịn ăn của mình.
Nếu bạn dừng mơ bạn sẽ phải kết thúc việc nhịn ăn của
mình ngay lập tức. Nhưng giấc mơ rằng bạn đang ăn
ngon vào sáng hôm sau giữ cho bạn trải qua việc nhịn
ăn.
Tôi nhớ tới một giáo sư là đồng nghiệp của tôi ở đại
học. Chúng tôi đã cùng làm việc một thời gian dài.
Cùng làm việc với anh ta một thời gian dài tôi để ý rằng
thỉnh thoảng anh ta bỗng nhiên bắt đầu nói về đồ ngọt.
Tôi phân vân khi thấy rằng anh ta nói về đồ ngọt chỉ
thỉnh thoảng thôi, và thế rồi tôi quan sát anh ta cẩn thận
và thấy ra rằng cứ vào thứ bảy là anh ta say mê nói về
đồ ngọt.
Một thứ bảy, khi anh ta tới đại học, tôi bảo anh ta
rằng tôi chắc chắn anh ta sẽ nói về đồ ngọt cả ngày hôm
đó. Anh ta giật mình và nói, "Sao anh nói vậy?" Thế rồi
tôi bảo anh ta, "Trong hai tháng qua tôi đã ghi lại về anh
điều nói lên rằng mọi thứ bảy anh đều đem đồ ngọt vào
các cuộc nói chuyện. Có phải là anh nhịn ăn vào thứ bảy
không?" Vị giáo sư này giật mình và anh ta buột mồm
nói ra, "Nhưng ai bảo anh về điều đó?"
Rồi tôi bảo anh ta, "Không cần biết ai nói với tôi về
điều đó; đấy là phát hiện riêng của tôi."
Anh ta nói, "Đúng là tôi đã nhịn ăn hôm thứ bảy,
nhưng làm sao anh có thể biết được điều đó?" Để giải
thích điều đó tôi nói, "Tôi nghĩ rằng một người khoẻ
mạnh bình thường, người ăn và uống tốt thì sẽ không
nói về thức ăn như cách anh vẫn làm vào thứ bảy. Và
tôi biết rằng anh ăn tốt, và vậy mà cứ vào thứ bảy anh
luôn luôn nói về những đồ ăn ngon theo cớ này cớ
khác." "Anh đã nắm được nó đúng đấy," anh ta thừa nhận. "Vào thứ bảy tôi chỉ toàn nghĩ về thức ăn; thực sự
tôi vẫn lập kế hoạch cả ngày tôi sẽ ăn gì ngày hôm sau.
Đây là cách tôi vượt qua ngày nhịn ăn của mình. Vào
thứ bảy tôi nhịn ăn."
Thế rồi tôi gợi ý rằng anh ta nên nhịn ăn ngày nào
đó mà không nghĩ tới thức ăn, anh ta nên chỉ nhịn thôi.
Và anh ta nói, "Điều này thì không thể được; thế thì
việc nhịn sẽ phải bị từ bỏ mất. Chính nhờ sự giúp đỡ
của những ý nghĩ này về thức ăn mà tôi mới có khả
năng vượt qua thời gian nhịn. Hi vọng vào ngày mai
làm cho tôi trải qua việc nhịn ăn hôm nay; bằng không
thì điều đó là không thể được."
Người bạo hành liên tục mang tính bạo hành trong
hi vọng rằng mình sẽ không bạo hành một ngày nào đó.
Người giận dữ liên tục giận dữ với hi vọng rằng mình sẽ
là người tốt bụng và từ bi trong tương lai. Kẻ trộm liên
tục là kẻ trộm với hi vọng rằng mình sẽ hào phóng về
sau. Tội phạm vẫn còn là tội phạm với hi vọng rằng
người đó sẽ đức hạnh ngày hôm sau. Những hi vọng
này là rất phi tôn giáo. Được kết thúc với chúng đi. Cái
đang hiện hữu, cứ hiện hữu. Biết điều này cái đang hiện
hữu và sống với nó. Cái đang hiện hữu là một sự kiện;
sống với sự kiện đó. Sống với tính sự kiện của cuộc
sống của bạn.
Nhưng sống với sự kiện là điều rất gian truân, vất
vả và đau đớn. Sẽ rất đau cho tâm trí khi nghĩ rằng mình
không phải là người tốt. Cho nên người có dục đọc
những cuốn sách về brahmacharya, vô dục; đó là cách
người đó chịu đựng dâm dục của mình. Người đó đang
bị thiêu đốt bởi những ham muốn dục, và người đó đọc
sách về vô dục và tin rằng mình là người tìm kiếm vô
dục. Cuốn sách này về brahmacharya giúp người đó tiếp
tục dâm dục. Người đó nói rằng chỉ hôm nay người đó
say mê trong dục, từ ngày mai người đó sẽ cương quyết
theo lời thề của mình về vô dục. Cho nên điều đó không
xấu, người đó hợp lí hoá.
Có lần tôi ngẫu nhiên làm khách trong một gia đình.
Ông già trong gia đình đó bảo tôi rằng ông ấy đã ba lần
được điểm đạo vào brahmacharya bởi một sư nào đó.
Tôi ngạc nhiên khi nghe điều đó, và tôi nói với ông ấy,
"Người ta lấy lời thề vô dục một lần là đủ rồi. Làm sao
ông phải lấy những ba lần cơ chứ?" Ông ấy hỏi tôi với
cảm giác không thoải mái, "Ông định nói gì? Tôi đã nói
cho vài người bạn về điều đó và họ tất cả đều khen ngợi
tôi vì làm điều đó những ba lần. Không ai đã hỏi về
hành động của tôi ngoại trừ ông." Tôi nói, "Lời thề vô
dục chỉ có thể được lấy một lần thôi. Làm sao mà ông
đã phải lấy nó những ba lần?" Ông ấy nói rằng bởi vì
ông ấy đã không giữ được lời thề của mình, nên ông ấy
đã phải lấy nó hai lần và lần thứ ba nữa. Và khi tôi hỏi,
"Thế lần thứ tư thì sao?" ông ấy nói, "Đến lần đó tôi đã
không còn dũng cảm nữa; tôi đã mất tự tin rồi."
Vào lúc ông già này bị kết thúc với lời thề của mình
ông ấy đã tới độ tuổi sáu mươi. Ông ấy mang dâm dục
của mình với sự giúp đỡ của lời thề về brahmacharya.
Chúng ta là những người rất kì lạ. Đây là asahaja
yoga, yoga phi tự nhiên, mà chúng ta thực hành. Chúng
ta đều có dâm dục và chúng ta đọc các sách về
brahmacharya. Sách về brahmacharya có tác dụng như
tầng đệm trong mối quan hệ với dâm dục của chúng ta.
Đọc nó, chúng ta tự nhủ mình ở chỗ riêng tư, "Ai nói
mình dâm dục? Vì mình đọc sách về vô dục, chính là lí
tưởng của mình, mình thực sự là người vô dục chứ. Nếu
mình mê say chút ít trong dục hiện tại, thì đấy là vì yếu đuối của mình, bởi vì nghiệp quá khứ của mình hay có
thể bởi vì thời điểm đúng còn chưa tới. Nhưng nó sẽ
sớm trôi qua thôi." Đây là cách dục và vô dục đi đôi với
nhau; vô dục phục vụ như cái hấp thu xóc và lái dục
theo sự thoải mái cứ tiếp diễn mãi.
Đây là trạng thái rất phi tự nhiên của mọi thứ. Để
quay về với trạng thái tự nhiên bạn sẽ phải loại bỏ cùng
lúc tầng đệm và cái hấp thu xóc. Nếu có ổ gà trên
đường, bạn phải biết chúng. Lái xe mà không có bộ
giảm xóc hay bộ hấp thu xóc mà xem. Thế thì chính ổ
gà đầu tiên sẽ giết chết bạn, sẽ va mạnh vào xương bạn,
và bạn sẽ ra khỏi xe ngay và nói lời tạm biệt nó. Thế thì
bạn sẽ không lái cái xe đó lần nữa. Bỏ nhíp xe đi và rồi
lái nó xem. Chính việc va vào tảng đá cuội sẽ đánh ngã
bạn và bạn sẽ bái biệt ngay chiếc xe. Và bạn sẽ không
dùng chiếc xe đó lần thứ hai nữa. Nhưng bộ hấp thu xóc
lắp ở dưới đáy xe không để cho bạn phải chịu khổ sở
như vậy.
Sahaja yoga nghĩa là: cái đang hiện hữu, cứ hiện
hữu; cứ là nó. Đừng cố gắng phi tự nhiên. Biết cái đang
đấy, chấp nhận nó và sống với nó. Thế thì cuộc cách
mạng là chắc chắn. Người chấp nhận cái đang đó và
sống nó thì nhất định sẽ thay đổi. Thế thì không có cách
nào để trải qua sáu mươi năm trong dục và dâm dục
mặc cho lời thề vô dục. Lời thề là cách thức của dâm
dục. Nếu tôi đã xúc phạm bạn trong cơn giận của mình
và tôi không xin lỗi về điều đó, ngược lại tôi cứ tới bạn
và nói rằng đấy là cách tôi đang là, tôi là loại người sai
trái, người dễ dàng nổi giận..."Tôi có thể làm điều đó
lần nữa đấy, cho nên sao tôi phải xin lỗi? Và bạn nên
biết rõ điều đó nếu bạn muốn tiếp tục là bạn tôi "... Bạn
có cho rằng tình bạn của tôi sẽ sống không? Tất cả bạn
bè tôi sẽ rời bỏ đi, tất cả mọi mối quan hệ của tôi sẽ gặp
khó khăn và tôi sẽ bị bỏ lại sống một mình với giận dữ
của mình. Thế thì giận dữ sẽ là bạn duy nhất của tôi;
không ai sẽ ở quanh tôi để chịu đựng cơn giận của tôi.
Thế thì tôi sẽ phải sống một mình và toàn bộ với cơn
giận dữ của tôi. Tôi sẽ có thể sống được với nó không?
Không, tôi sẽ nhảy ra khỏi nó, bằng việc nói "Nó điên
khùng làm sao!"
Nhưng chúng ta có những phương cách riêng của
mình. Chồng cãi nhau với vợ vào buổi sáng và gọi vợ là
con mụ lẳng lơ và xông về văn phòng của mình. Anh ta
trở về vào buổi chiều với kem và bộ áo quần sari lụa để
phỉnh phờ cô ấy. Và vợ nghĩ rằng anh ta vẫn là người
chồng đáng yêu cũ. Chồng, qua ăn năn, khôi phục lại
mối quan hệ của mình với vợ, anh ta trở lại nơi chiếc cà
vạt đã bị vứt đi. Và với kem và bộ quần áo sari lụa trong
tay cô ấy, người đàn bà lần nữa lại trở thành người vợ
cũ tốt bụng. Nhưng câu chuyện này sẽ lặp lại bản thân
nó vào buổi tối theo cách nó đã xảy ra vào buổi sáng.
Và vào buổi tối chồng sẽ lại quì xuống và van xin tha
thứ của vợ. Và sáng hôm sau sẽ lại không khác. Cùng
câu chuyện này lặp lại hết ngày nọ tới ngày kia, hết
tháng nọ sang tháng kia, hết năm nọ sang năm kia. Do
vậy nó chạy qua cả đời.
Cả chồng lẫn vợ đều không được chuẩn bị để biết
sự thật của họ, chân lí của họ. Họ không được chuẩn bị
để đối diện với thực tại, sự không thành thực và lừa dối
có trong cuộc sống thường ngày của họ. Không xem xét
tới điều đó trong một khoảnh khắc họ liên tục lừa dối
lẫn nhau. Và giống như đôi này, tất cả chúng ta đều liên
tục lừa dối lẫn nhau trong cả đời mình. Và điều còn tồi
tệ hơn, chúng ta không chỉ lừa dối người khác mà chúng
ta còn tự lừa dối mình.

Sahaja yoga nghĩa là: không tự lừa dối mình. Biết
và chấp nhận bản thân mình đích xác như bạn đang đấy
và như cách bạn đang là mà không có bất kì dè dặt nào.
Nếu bạn làm như vậy, chuyển hoá sẽ xảy ra ngay lập
tức. Chuyển hoá xảy ra đồng thời với hiểu biết và chấp
nhận. Thế thì bạn sẽ không phải chờ đợi nó. Người ta có
đợi đến mai không nếu nhà người đó cháy và người đó
biết điều đó? Người đó sẽ thoát ngay ra khỏi nhà mình
trong một phần giây. Cái ngày chúng ta hoàn toàn thấy
cuộc sống của mình như nó đang đó - và nó là ngôi nhà
đang cháy - thì khoảnh khắc của chuyển hoá tới. Nhưng
chúng ta có cách thức lừa dối riêng của mình. Ngôi nhà
đang cháy và chúng ta đã trang hoàng phần bên trong
nó bằng hoa. Tay chúng ta trong xiềng xích và chúng ta
mạ chiếc xiềng này bằng vàng, và do vậy khi chúng ta
thấy sự lộng lẫy của vàng chúng ta không thấy xiềng
xích. Chúng ta đầy những ốm yếu và vết thương, nhưng
chúng ta đã che đậy các vết thương của mình bằng băng
mầu, và chúng ta thấy mầu sắc chứ không thấy vết
thương đằng sau chúng.
Lừa dối này sâu sắc và bao la tới mức chúng ta dành
cả đời mình cho nó và khoảnh khắc của chuyển hoá
không tới. Chúng ta cứ trì hoãn khoảnh khắc đó. Cái
chết tới, nhưng không khoảnh khắc nào bị trì hoãn cả.
Chúng ta chết, nhưng chúng ta không thay đổi; chúng ta
đơn giản không có khả năng thay đổi.
Thay đổi, chuyển hoá có thể xảy ra bất kì khoảnh
khắc nào một cách thực sự. Sahaja yoga nói: sống với
cái đang đấy, và bạn sẽ được biến đổi. Bạn không phải
làm nỗ lực thay đổi; chân lí thay đổi. Jesus nói, "Chân lí
giải thoát." Nhưng chúng ta không biết chân lí. Chúng
ta sống trong dối trá, chúng ta sống trong cái không
thực; nhưng chúng ta trang hoàng cho cái không thực
của mình trước khi chúng ta sống với chúng. Và cái
không thực trói buộc, trong khi chân lí giải thoát. Ngay
cả chân lí đau đớn nhất cũng còn tốt hơn dối trá dễ chịu
nhất. Cái không thực dễ chịu mới thực sự nguy hiểm.
Nó sẽ trói buộc bạn; nó sẽ là tù túng của bạn. Và ngay
cả chân lí đau đớn cũng là giải thoát, ngay cả cái đau
của nó cũng là giải thoát. Cho nên sống với chân lí đau
đớn, và đừng nuôi dưỡng dối trá dù chúng có thể dễ
chịu thế nào. Đây là toàn bộ sahaja yoga.
Đây là toàn bộ sahaja yoga. Và thế rồi tới samadhi,
cực lạc hay thức tỉnh, hay bất kì cái gì bạn gọi nó. Bạn
sẽ không phải tìm kiếm samadhi đâu; nó sẽ tới theo
cách riêng của nó.
Khóc khi bạn muốn khóc, và cười khi bạn muốn
cười, và biết rằng nó đang xảy ra.
Tôi nghe nói rằng ở Nhật Bản một bậc thầy chết và
hàng nghìn người tụ tập để dự đám tang của ông ấy; ông
ấy nổi tiếng thế. Nhưng ông ấy có một đệ tử còn nổi
tiếng hơn ông ấy. Và khi mọi người tới họ thấy rằng đệ
tử nổi tiếng này của ông ấy đang ngồi ngoài trời và
khóc cay đắng. Họ nói với ông ta, "Chúng tôi lấy làm
kinh ngạc khi thấy ông khóc, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng
ông là một trong những người chứng ngộ. Sao ông phải
khóc?" Đệ tử này nói, "Các ông ngu lắm, tôi không định
thôi khóc vì các ông nói tôi chứng ngộ đâu. Việc khóc
là điều hoàn toàn khác. Giữ chứng ngộ của các ông cho
chính mình đi; tôi không cần nó đâu." Thế rồi khách
nói, "Nhưng mọi người sẽ nói gì? Nếu ông không thể
chấm dứt việc khóc được thế thì đi vào bên trong đi;
đừng khóc chỗ công khai thế này. Bằng không điều đó
sẽ làm phát sinh tai tiếng. Chúng tôi tin rằng ông đã đạt
tới trạng thái cân bằng hoàn hảo, trạng thái của tri thức tối thượng. Chúng tôi tin rằng ông là một trong những
người trí huệ nhất, và rằng chẳng cái gì có thể ảnh
hưởng được tới ông - cả hạnh phúc lẫn nỗi buồn."
Thế rồi đệ tử này nói, "Các ông hiểu điều đó sai
tuốt. Chính là trước khi chứng ngộ thì rất ít điều ảnh
hưởng được tới tôi, bởi vì nhạy cảm của tôi còn mờ nhạt
và tôi không thể bị tấn công được và khó đương đầu.
Bây giờ mọi thứ đều ảnh hưởng tới tôi từ đầu nọ tới đầu
kia, cho nên tôi sẽ khóc từ tậm tim mình. Tôi chẳng bận
tâm về điều các ông nói, về chứng ngộ của các ông. Vứt
nó ra ngoài cửa sổ đi."
Nhưng như những người sùng kính vẫn làm, họ tiếp
tục thuyết phục ông ấy và nói, "Ông nên nghĩ tới hổ
thẹn mà điều đó sẽ gây ra. Cho nên cho dù ông phải
khóc, thì khóc một cách riêng tư, bí mật; bằng không
những tin đồn ác ý sẽ lan khắp nước." Một trong những
người sùng kính thách thức, "Ông bao giờ cũng nói rằng
linh hồn là bất tử, thế thì tại sao ông khóc than?"
Thế rồi hiền nhân này nói, "Ai khóc cho linh hồn?
Tôi đang khóc cho thân thể của thầy tôi; tôi không khóc
cho linh hồn, cái còn mãi và vĩnh hằng. Thân thể nữa,
cái bị mất đi khỏi thầy tôi thật xinh đẹp và, và bây giờ
nó sẽ không còn trở lại với đất nữa. Ngôi đền trong đó
linh hồn của thầy tôi cư ngụ cũng không kém phần đáng
yêu, và nó sẽ không xảy ra lần thứ hai. Tôi đang khóc
cho thân thể đó." Và khi người sùng kính này thách
thức, "Vậy là ông khóc cho thân thể!" thì đệ tử chính
này nói, "Ông có định áp đặt điều kiện cho việc khóc
không đấy? Ông sẽ không cho phép tôi khóc sao?"
Chỉ một tâm trí đúng đắn, một tâm trí đích thực,
một tâm trí sống trong chân lí, mới có thể là tâm trí tự
do. Tâm trí đúng đắn là tâm trí đích thực, nghĩa là khóc
khi bạn muốn khóc và cười khi bạn muốn cười. Nếu bạn
phải giận dữ thì hoàn toàn đích thực trong giận dữ của
bạn đi. Nếu bạn giận dữ thì trở thành bản thân việc giận
dữ để cho bạn và tất cả mọi người quanh bạn biết giận
dữ là gì. Giận dữ đó sẽ là việc giải thoát; nó sẽ giải
phóng bạn thình lình. Thay vì giận dữ trong một lúc,
từng tí một theo cách hờ hững, giận dữ một lần cho dứt
khoát, để cho nó thiêu cháy bạn và thiêu cháy những
người khác quanh bạn và bạn biết nó tất cả là gì. Thông
thường cơn giận của chúng ta hờ hững thế, nhạt nhẽo
thế, không đích thực đến độ chúng ta không biết cơn
giận đích thực và thực sự là gì. Chúng ta giận dữ một
phần và một phần không giận dữ; chúng ta giận dữ theo
từng mảnh; và đó là điều làm cho nó không đích thực.
Hành trình cuộc sống của chúng ta là ở mức chúng ta
bước lên rồi lại bước lùi; cho nên chúng ta đi bây giờ ở
đây, chúng ta vẫn còn tĩnh tại và trì trệ. Thực sự không
có hành trình; chúng ta chỉ trì trệ và sống vô vị.
Sahaja yoga nói: bất kì cái gì có đó trong cuộc sống,
chấp nhận nó, biết nó và sống nó. Từ chấp nhận này, từ
việc biết và sống này sẽ tới điều chúng ta gọi là chuyển
hoá hay biến đổi. Và chuyển hoá này sẽ đưa bạn đạt tới
Thượng đế.
Điều tôi gọi là thiền, và điều chúng ta có ở đây, là
quá trình của sahaja yoga. Tại đây các bạn chấp nhận tất
cả mọi điều xảy ra cho mình, các bạn buông bỏ bản thân
mình hoàn toàn và chấp nhận tất cả mọi điều xảy ra theo
cách riêng của nó. Bằng không thì sẽ không thể nghĩ
được rằng những người có giáo dục và có văn hoá,
những người giàu có và sành điệu cứ khóc lóc và gào
thét, nhảy nhót lung tung và nhảy múa điên dại như
người rồ. Đây không phải là điều bình thường. Đây là
cái gì đó phi thường và vô giá nữa. Đó là lí do tại sao khán giả bị hoang mang và người đó không hiểu tất cả
những cái đó là gì. Người đó cảm thấy bị sửng sốt và
thế rồi người đó cười vào tất cả mọi thứ. Nhưng người
đó không nhận biết rằng nếu người đó mà tham gia với
các bạn, người đó cũng trải qua cùng những kinh
nghiệm kì quái đó. Hay có thể tiếng cười của người đó
chỉ là biện pháp bảo vệ, người đó cười chỉ để tự bảo vệ
mình, người đó muốn nói qua tiếng cười của mình rằng
người đó sẽ không làm điều các bạn đang làm đâu; điều
đó không dành cho người đó. Đó là điều người đó nghĩ,
nhưng tiếng cười của người đó về phần nó lại nói điều
gì đó khác. Nó nói rằng theo một cách nào đó người đó
nữa cũng có điều gì đó cần làm với nó. Tiếng cười của
người đó nói rằng theo một cách nào đó người đó thực
sự có liên quan với nó. Sự buồn cười của người đó chỉ
ra rằng nếu như người đó mà tham gia vào điều đang
xảy ra ở đây thì người đó sẽ làm cùng những điều này.
Người đó nữa cũng đã ngăn cản và kìm nén bản thân
mình; người đó nữa đã đè nén nước mắt và tiếng cười
của mình, điệu vũ của mình và cực lạc của mình.
Bertrand Russell nói trong những ngày cuối đời của
ông ấy rằng nền văn minh đã cướp đi của con người vài
điều quí giá và nhảy múa là một trong chúng. Ông ấy
nói rằng ông ấy không thể nghĩ được việc đứng giữa
quảng trường Trafalgar và nhảy múa, mặc dầu chúng ta
vẫn tuyên bố rằng chúng ta là người tự do và rằng
chúng ta có nhiều tự do hơn tổ tiên mình đã từng có.
Ông ấy cũng quan sát rằng một mặt con người đã bô bô
rằng thế giới đã đi vào kỉ nguyên tự do và tự quyết và
mặt khác con người không được tự do nhảy múa ở bãi
chợ, và nếu con người làm như vậy thì cảnh sát giao
thông lập tức sẽ bắt người đó với tội danh cản trở giao
thông. Và hơn nữa người đó sẽ bị coi là ca bệnh tâm
thần. Bertrand Russell cũng nhớ lại rằng bất kì khi nào
ông ấy tới thăm những bộ lạc nguyên thuỷ nhảy múa
một cách phóng túng dưới trời sao thì ông ấy đau đớn
nhận ra rằng con người văn minh đã thực sự đánh mất
điều có giá trị đó.
Cái được của nền văn minh là nhỏ còn cái mất của
nó thì lớn vô cùng. Con người văn minh đã đánh mất
tính tự nhiên và đơn giản của mình, con người đã đánh
mất chính bản tính mình. Và, còn hơn thế, con người là
nạn nhân của đủ mọi loại hư hỏng.
Thiền là cách làm cho bạn thành tự nhiên và đơn
giản, khôi phục bạn trở lại với tự nhiên của mình một
lần nữa.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là ở chỗ điều đã xảy ra
ở đây trong ba ngày này có ý nghĩ lớn lao. Một số bạn
đã có kinh nghiệm duy nhất và số khác đã có thoáng
nhìn về chúng, trong khi vài người khác đã làm nhiều
nỗ lực, nhưng không thể có được nó, mặc dầu chắc chắn
họ đã có tiến bộ nào đó. Nhưng mọi người đã làm chút
ít điều tốt ngoại trừ vài người có ảo tưởng rằng họ là các
nhà trí thức và người trong thực tế có ít thông minh và
nhiều tri thức sách vở hơn. Ngoại trừ vài người này,
mọi người đã tham dự vào thiền, và mặc cho nhiều khó
khăn một loại năng lượng đặc biệt đã được tạo ra ở đây
và nhiều điều đã xảy ra có ý nghĩa.
Nhưng đây chỉ mới là bắt đầu.
Nếu bạn dành một trong hai mươi bốn giờ hàng
ngày của bạn cho việc thiền này, một cánh cửa có thể
mở ra cho cuộc sống của bạn. Đóng bản thân bạn vào
trong một căn phòng trong trọn một giờ và bảo với mọi
người trong gia đình bạn đừng lo nghĩ về điều có thể xảy ra trong một giờ đó. Thế rồi cởi quần áo ra và hoàn
toàn trần trụi và làm việc thiền trong tư thế đứng. Trải
chiếc chiếu lên sàn nhà để cho bạn không bị thương
trong trường hợp bạn ngã ra. Đứng dậy và thiền, nhưng
trước khi làm điều đó, thông báo với các thành viên gia
đình bạn rằng nhiều điều có thể xảy ra bên trong phòng
này - bạn có thể la hét, bất kì điều gì cũng có thể xảy ra
- nhưng họ không nên quấy rối bạn. Và tiến hành thực
nghiệm này hàng ngày trong trọn một giờ cho tới khi
chúng ta gặp lại nhau tại trại tiếp. Nếu các bạn đã tham
gia vào trại này ở đây mà tiếp tục thực hành này tại chỗ
của mình, tôi sẽ bàn đến một trại tách biệt cho họ, nơi
tiến bộ lớn sẽ là điều có thể.
Có khả năng lớn lao; khả năng thực tế là vô tận.
Nhưng bạn sẽ phải làm vài nỗ lực... Nếu bạn tiến lên
một bước, Thượng đế sẽ tiến một trăm bước tới bạn.
Ngài bao giờ cũng sẵn sàng tới với bạn. Nhưng nếu bạn
không tiến bước nào, thế thì chẳng có cách nào để giúp
bạn cả. Cho nên đem việc thiền này về nhà và tiếp tục
thực hành nó đều đặn và nhiệt tình.
Tôi biết nhiều điều sẽ ngăn cản các bạn. Con bạn sẽ
nói, "Có chuyện gì xảy ra với bố thế? Bố chưa bao giờ
như thế này cả; bố bao giờ cũng bạo dạn và nghiêm
chỉnh. Và bây giờ bố đang nhảy múa và nhảy nhót và la
hét. Bất kì khi nào chúng con làm huyên náo trong nhà,
bố luôn luôn giao việc cho chúng con. Tất cả điều này
là gì vậy?" Trẻ con chắc chắn sẽ cười bạn. Bạn nên yêu
cầu chúng ta tha thứ vì bạn đã cố gắng kiểm soát chúng
trong quá khứ, thừa nhận sai lầm của bạn một cách cởi
mở và bảo chúng cứ chơi đùa và nhảy múa một cách tự
do để giữ cho thiên hướng tự nhiên của chúng sống
động cho việc nhảy múa và chơi đùa. Điều đó sẽ là ích
lợi lớn cho chúng trong tương lai. Chúng ta áp đặt tuổi
già lên con trẻ quá sớm. Cho nên bảo gia đình bạn đừng
tò mò và tọc mạch về điều bạn làm trong căn phòng này
trong một giờ, và đừng biện minh với bạn về lí do này.
Nếu một khi bạn làm điều đó thành rõ ràng, sẽ không có
rắc rối trong tương lai. Trong vài ngày họ sẽ quen với
chuyện của bạn, họ sẽ để cho bạn với chính bạn.
Và thế rồi bạn sẽ thấy rằng thiền có hiệu quả của nó
không chỉ lên bạn mà lên cả gia đình.
Nếu có thể, dành một căn phòng tách biệt cho thiền,
và dùng nó chỉ riêng cho thiền. Đừng dùng căn phòng
đó cho bất kì ý định nào khác. Nó có thể là một căn
phòng nhỏ, nhưng giữ cho nó được khoá lại. Nếu bất kì
thành viên nào của gia đình bạn muốn tham gia cùng
bạn, cho phép họ với điều kiện là họ thiền cùng bạn và
không làm điều gì khác. Chuyện khác đi nếu không có
sẵn một căn phòng tách biệt, nhưng phòng tách biệt cho
thiền sẽ có nhiều ưu thế. Nếu nó được dùng chỉ riêng
cho thiền, nó sẽ được nạp năng lượng thiền. Và khi bạn
vào nó bạn sẽ thấy rằng nó không phải là chỗ bình
thường.
Chúng ta phát ra năng lượng của mình vào mọi lúc
khắp xung quanh chúng ta; chúng ta gửi ra các tia của
năng lượng tinh thần khắp xung quanh chúng ta. Và
không gian bao quanh chúng ta, ngay cả bên trong căn
phòng, cũng hấp thu năng lượng này. Đó là lí do tại sao
vài nơi vẫn còn là linh thiêng trong hàng nghìn năm.
Nếu một người như Mahavira, Phật hay Krishna ngồi ở
một chỗ đặc biệt, chỗ đó nhận rung động phi thường
của ông ấy, tác động siêu phàm của ông ấy, cái có thể
kéo dài hàng nghìn năm. Từ chỗ như vậy việc người ta
đi vào trong thế giới khác, thế giới tâm linh, trở nên dễ
hơn nhiều.

Mọi người thực hành tốt - và tôi có tiêu chuẩn riêng
để phán xét người thực hành tốt và đó là ở chỗ người đó
có ngôi đền trong nhà mình, bằng không thì người đó là
người cùng khổ - phải có ngôi đền trong một phần ngôi
nhà của người đó. Ít nhất một phòng trong mọi ngôi nhà
nên được dành riêng và được dùng làm ngôi đền, như
cánh cửa sang thế giới khác. Đừng dùng căn phòng đó
cho bất kì cái gì khác. Vào nó một cách im lặng và dùng
nó cho thiền. Các thành viên khác của gia đình dần dần
sẽ bắt đầu quan tâm tới thiền, bởi vì thế thì những thay
đổi mà nó sẽ tạo cho bạn cũng sẽ bắt đầu biểu lộ ra.
Bây giờ mọi người đã bắt đầu đi tới vài người ở
đây, những người đã kinh nghiệm những thay đổi trong
chính họ, những thay đổi rất có ý nghĩa, và họ hỏi
những người này, "Cái gì đã xảy ra cho anh thế?" Vài
người này đến lượt họ tới tôi để hỏi làm sao họ có thể
trả lời những người tọc mạch này. Cùng cách mà con
bạn, bố mẹ bạn và những người khác sẽ hỏi bạn; họ sẽ
trở nên quan tâm thế tới thiền. Và nếu bạn kiên nhẫn đủ
lâu với sadhana của mình, thế thì một ngày sẽ không xa
nữa khi biến cố trọng đại nhất trong các biến cố sẽ xảy
ra trong cuộc sống của bạn - vì điều đó chúng ta phải
trải qua vô hạn kiếp sống và điều chúng ta có thể bỏ lỡ
trong vô hạn kiếp sống.
Vài năm sắp tới sẽ là những năm rất có ý nghĩa
trong lịch sử nhân loại. Bây giờ một nhúm người sẽ
chẳng có ích gì trong vấn đề tâm linh. Chừng nào tính
tâm linh hùng vĩ còn chưa được sinh ra, chừng nào
phong trào tâm linh hùng vĩ và đông đảo còn chưa quét
qua trái đất này, chưa tạo ra tác động của nó lên hàng
triệu con người, thì sẽ không thể nào cứu được thế giới
này khỏi bãi lầy của chủ nghĩa duy vật. Đó sẽ là khoảnh
khắc rất rất trọng yếu trong cuộc sống con người; năm
mươi năm sắp tới sẽ manh tính định mệnh và quyết
định. Hoặc tôn giáo sẽ sống, hoặc phi tôn giáo hoàn
toàn, tất cả mọi cái chống lại tôn giáo, sẽ sống. Năm
mươi năm này cũng sẽ quyết định về Phật, Mahavira,
Krishna, Jesus, Mohammed, Rama và phần còn lại của
họ. Tất cả những ngôi sao sáng này sẽ ở một bên cán
cân trong khi bên cán cân kia sẽ là đám đông các chính
khách điên khùng, các nhà duy vật và những người dốt
nát khác nhất quyết lừa dối mình và những người khác
nữa. Họ đông về số lượng, trong khi chỉ một nhúm
người ở phía bên chỉ trích. Và trong thời gian năm mươi
năm một quyết định sẽ được đưa ra.
Cuộc đấu tranh đã diễn ra từ thời thượng cổ đã đạt
tới khoảnh khắc quyết định của nó. Và nhìn vào tình
huống như nó có được trong hiện tại, không có mấy hi
vọng. Nhưng tôi không thất vọng bởi vì với tôi dường
như là có thể tìm được cách thức đơn giản và tự nhiên
rất sớm sủa mà sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong cuộc
sống của hàng triệu người về mặt tâm linh.
Vài cá nhân có thể chẳng ích gì trong thời hiện tại.
Ngày xưa nếu chỉ một người trở nên chứng ngộ cũng đã
đủ rồi. Bây giờ điều này không có tác dụng. Theo góc
nhìn của việc bùng nổ dân số lớn vô cùng đang xảy ra
trên thế giới này, vài cá nhân không thể làm được việc.
Bây giờ cái gì đó hữu hình có thể có chỉ nếu, tương
xứng với dân số khổng lồ, hàng trăm nghìn người bị ảnh
hưởng và tham gia vào tâm linh. Và điều đó là có thể
như tôi thấy nó đây. Nếu vài người tạo nên hạt nhân và
bắt đầu làm việc, thế thì Ấn Độ có thể đóng vai trò có ý
nghĩa trong khoảnh khắc tranh đấu đó. Đất nước này đã
từng nghèo khó và khổ, thoái hoá và nô lệ, bị lạc lối và
bị dẫn sai đường, vậy mà mảnh đất này vẫn có những
kho báu được gìn giữ tốt với nó. Suốt hàng thế kỉ những người như vậy đã bước đi trên mảnh đất này mà ánh
sáng của họ, hương thơm của họ, khao khát của họ đã
để lại những rung động trong không trung, đã để lại dấu
ấn của họ lên mọi nhành cỏ ở đây. Con người tất nhiên
đã đi sai, nhưng cát bụi của đất nước này vẫn còn nhớ
tới bước chân của Phật bước đi trên nó. Con người của
đất nước này đã đi sai, nhưng cây cối vẫn còn ấp ủ kí ức
rằng Mahavira đã có thời đứng dưới bóng chúng. Con
người thực sự đã đi sai, nhưng biển cả bao quanh đất
nước này vẫn biết một giọng nói khác biệt mà chúng đã
nghe trong quá khứ. Con người không nghi ngờ gì nữa
đã đi lạc lối, nhưng bầu trời của đất nước này vẫn tràn
đầy hi vọng. Mọi thứ vẫn ở đó, chỉ con người phải trở
về nhà.
Về sau, tôi đã thường cầu nguyện với hi vọng rằng
sự bùng nổ tập thể trong các kiếp sống của hàng triệu
người có thể là điều có khả năng. Và bạn có thể giúp ích
rất nhiều trong nỗ lực này. Sự bùng nổ như vậy trong
cuộc sống riêng của bạn sẽ có giá trị mênh mông không
chỉ cho bạn, mà cho toàn thể nhân loại. Với hi vọng này
và lời cầu nguyện rằng bạn sẽ không chỉ thắp lên ngọn
đèn riêng của bạn, mà ngọn đèn của bạn sẽ giúp cho
những ngọn đèn chưa thắp khác được thắp lên, tôi công
bố lời chào tạm biệt các bạn.
Tôi biết ơn các bạn đã nghe tôi trong an bình và với
tình yêu thế, và tôi cúi lạy Thượng đế đang ngồi bên
trong từng người các bạn. Xin chấp nhận lời chào của
tôi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog