Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Không của tôi không của bạn

Tất cả mọi thứ trong thế giới này, hữu cơ và vô cơ,
đều tràn ngập với Thượng đế.
tận hưởng chúng qua việc từ bỏ chúng.
được tách rời;
đừng thèm muốn giầu có của người khác
.

Lời tuyên bố bản chất của Ishavasya Upanishad, chính nghĩa
của tiêu đề của nó, Ishavasya, là: Mọi thứ đều là của Thượng đế.
Tất cả mọi thứ đều thuộc về Thượng đế. Nhưng tâm trí con người
cố gắng biện minh rằng tất cả đều là của chúng ta, và chúng ta
sống trong ảo tưởng này qua bao nhiêu kiếp sống. Cái gì đó là
của tôi. Cái ý tưởng về quyền làm chủ và sự sở hữu - nó là của
tôi!

Khi mọi thứ là của sự tồn tại, không chỗ nào còn lại cho cái
‘tôi’ này của tôi đứng đấy. Nhớ lấy, để biểu lộ cho nó ngay cả
bản ngã cũng cần một cơ sở. Để tồn tại, ngay cả cái ‘tôi’ cần sự
hỗ trợ của cái ‘của tôi’. Nếu hỗ trợ của cái ‘của tôi’ không có đó,
sẽ không thể tiến tới được cái ‘tôi’. Từ một quan sát nhân quả
dường như là cái ‘tôi’ tới trước rồi cái ‘của tôi’ theo sau nó.
Nhưng sự kiện là hoàn toàn đảo ngược lại. Trước hết, cái ‘của
tôi’ được đặt nền móng, và thế rồi cấu trúc của cái ‘tôi’ được xây
dựng lên trên nó. Nếu bất kì cái gì bạn có mà bạn gọi là ‘của tôi’
đều được lôi ra toàn bộ từ hiểu thấu của bạn, thế thì cái ‘tôi’ của
bạn sẽ không được cần tới. Nó sẽ biến mất. Cái ‘tôi’ không là gì
ngoài một tuyển tập những cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ được tạo ra từ
cơ cấu của cái ‘của tôi’ - của cải của tôi, nhà của tôi, tôn giáo của
tôi, đền thờ của tôi, vị trí của tôi, tên tôi, gia đình tôi, và vân vân.
Khi chúng ta cứ ném đi dần từng cái ‘của tôi’ thì cơ sở của
cái ‘tôi’ đồng thời cũng bị xói mòn dần đi. Nếu không một cái
‘của tôi’ nào được giữ lại, thế thì không có nền tảng nào để nâng
đỡ cho cái ‘tôi’ cả. Cái ‘tôi’ cần chỗ dựa, chỗ trú ẩn, một toà nhà
bằng cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ đòi hỏi hòn đá nền tảng là cái ‘của
tôi’, bằng không toàn bộ cấu trúc của cái ‘tôi’ sẽ đổ nhào. Tuyên
bố đầu tiên của Ishavasya dự định làm đổ sập toàn bộ cấu trúc
này. Hiền nhân này nói, “Mọi thứ là của Thượng đế.” Không có
chỗ cho cái ‘của tôi’. Không có cơ hội chút nào để cho cái ‘tôi’
nói với chính nó về cái ‘của tôi’. Nếu nó có thể nói ‘tôi đây’, điều
đó là sai. Nếu nó cứ khăng khăng nói ‘tôi đây’, thế thì nó là một
cái ‘tôi’ bị bối rối. Cần phải hiểu điều này từ hai hay ba quan
điểm.

Điều thứ nhất là thế này: bạn được sinh ra, tôi được sinh ra.
Nhưng không ai hỏi tôi liệu tôi có muốn được sinh ra hay không;
không rắc rối nào đã được tính tới để tìm ra ước muốn của tôi.
Việc sinh ra tôi không phụ thuộc vào ham muốn của tôi hay chấp
thuận của tôi. Khi tôi biết về bản thân mình, tôi biết bản thân
mình đã được sinh ra. Không cái gì giống như bản thể tôi trước
việc sinh của tôi. Chúng ta xem xét điều đó theo cách này: bạn
đang xây một toà nhà; bạn chưa bao giờ hỏi toà nhà liệu nó có
muốn được xây dựng ra hay không. Toà nhà không có ý chí riêng
của nó. Bạn đang xây dựng ra nó, và nó được dựng lên.
Bạn đã bao giờ nghĩ rằng bạn cũng chưa lần nào được tư vấn
trước việc sinh của bạn không? Sự tồn tại làm cho bạn được sinh
ra, và bạn được sinh ra. Sự tồn tại tạo ra bạn, và bạn được tạo ra.
Nếu toà nhà trở thành có ý thức, nó sẽ nói, ‘tôi’. Nếu nó trở thành
có ý thức, nó sẽ từ chối coi người làm ra nó là người chủ của nó,
là người thầy nó. Toà nhà sẽ nói, “Người xây là người hầu của ta;
người đó đã xây dựng ra ta. Vật liệu là của ta; nó đã phục vụ ta.
Ta sẵn lòng được tạo ra, cho nên người đó đã làm ra ta.”
Nhưng toà nhà không có tâm thức. Con người có. Và thực ra,
ai biết được liệu toà nhà có tâm thức hay không? Điều đó là có
thể; điều đó có thể là vậy. Có hàng nghìn mức độ tâm thức. Tâm
thức của con người là một loại đặc biệt, không nhất thiết mọi vật
có cùng loại tâm thức. Toà nhà có thể có tâm thức thuộc loại
khác, đá có thể có loại khác nữa, cây loại khác nữa. Có thể là
chúng nữa sống trong cái ‘tôi’ riêng của chúng. Khi người làm
vườn tưới cây, có thể cây không nghĩ, “Người làm vườn này
đang cho ta cuộc sống,” mà thay vì thế, “Ta đang biểu lộ quí mến
với người làm vườn này bằng việc chấp nhận phục vụ của người
đó. Qua ân huệ của ta, ta chấp nhận phục vụ của người đó.”
Không ai đã bao giờ lại gần cây cối để hỏi về ham muốn của nó
được sinh ra.

Điều tuyệt đối ngớ ngẩn là gọi điều đó là việc sinh của tôi
khi nó được gây ra không có ham muốn của tôi. Đâu là nghĩa
trong việc nói là sinh thành của tôi, mà về nó tôi chưa bao giờ
được hỏi đến trước sự sinh thành của tôi? Khi cái chết tới, nó
không hỏi sự cho phép của chúng ta. Cái chết sẽ không hỏi chúng
ta, “Anh muốn gì? Anh có đi cùng tôi hay không?” Không, khi
nó tới, nó tới theo cách riêng của nó, giống như việc sinh tới mà
không có việc biết của chúng ta về nó. Cái chết tới không gõ cửa,
không cần sự cho phép của chúng ta, không lời hướng dẫn,
không báo trước, và đứng yên tĩnh trước chúng ta; và nó không
cho chúng ta phương án khác, không chọn lựa. Nó không do dự
thậm chí đến một giây, dù chúng ta ước muốn gì. Thật là ngu si
hết mức để mà nói cái chết của tôi cho cái mà tôi không ham
muốn hay sẵn lòng ít nhất.

Việc sinh thành đó không phải là sinh thành của tôi mà trong
đó không có chọn lựa về phần tôi. Cái chết mà với nó sự sẵn lòng
của tôi là không có liên quan, không phải là cái chết của tôi. Cho
nên làm sao cuộc sống nằm giữa hai đầu này có thể là của tôi
được? Làm sao khoảng thời gian ở giữa đó là của tôi được, khi cả
hai đầu không tránh khỏi của nó - mà không có chúng tôi không
thể tồn tại được - không phải của tôi? Đấy là lừa dối - lừa dối mà
chúng ta cứ làm mạnh thêm, quên đi hoàn toàn sinh và tử. Nhưng
nếu chúng ta tư vấn nhà tâm lí về vấn đề này, người đó sẽ nói,
“Ông cố tình quên chúng đi, vì chúng là những kí ức buồn thế.”
Khi việc sinh ra không phải là của tôi, tôi trở thành tội nghiệp và
đáng thương làm sao. Khi cái chết không phải là của tôi, mọi thứ
bị giằng khỏi tôi, không cái gì được giữ. Tay tôi vẫn còn trống
rỗng. Chỉ có tro tàn còn lại.
Chúng ta dựng lên cây cầu cuộc sống dài giữa hai đầu này,
giống như chiếc cầu bắc qua con sông; nhưng không bờ sông nào
là của chúng ta cả. Mố cầu tại cả hai đầu không phải là của chúng
ta. Cho nên nghĩ một chút: Làm sao cây cầu trải rộng từ bờ nọ sang bờ bên kia
ngang qua con sông đó có thể là của chúng ta
trong khi nền tảng của nó không phải là của chúng ta? Do đó
chúng ta cố gắng quên đi việc sinh và tử - những nền tảng của
chúng ta.

Nhiều người quên nhiều việc một cách cố ý. Người đó cố
gắng không nhớ, vì việc nhớ có thể phá tan tất cả bản ngã của
người đó và làm nó nát vụn. “Thế thì cái gì sẽ là của tôi đây?”
Cho nên chúng ta kìm việc suy nghĩ về sự sinh và tử, và điều này
tạo ra khả năng hiểu lầm lớn rằng tất cả những cái chúng ta thấy
trong cuộc sống là của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho bản
thân mình khám phá và xem xét điều ta thấy, chúng ta chắc chắn
phát hiện ra rằng nó không phải là của chúng ta.
Bạn nói, “Tôi đã rơi vào tình yêu với ai đó,” không xem xét
liệu chuyện tình đó có là quyết định của bạn hay không. Nghe
điều những người yêu nhau nói: “Chúng mình không biết khi nào
nó xảy ra. Chúng mình đã không làm cho nó xảy ra.” Thế thì làm
sao cái là của chúng ta nhưng đã xảy ra theo ý riêng của nó
được? Nếu nó xảy ra, nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra, nó không
xảy ra.
Chúng ta bị phụ thuộc thế, bị điều chỉnh thế, dường như đâu
đó mọi thứ bị cố định và tất định. Hoàn cảnh của chúng ta là
tương tự như hoàn cảnh của một con vật bị buộc vào cọc qua
chiếc dây thừng. Con vật sẽ đi vòng tròn quanh chiếc cọc và sẽ
sống trong việc hiểu sai rằng nó đang tự do vì nó đang tự do đi
vòng tròn. Nó sẽ quên mất chiếc dây thừng, vì việc nhớ tới điều
đó là đau đớn; chiếc dây thừng buộc vào cọc làm cho chúng ta
đau đớn vì nó nhắc nhở chúng ta về sự phụ thuộc của mình. Chân
lí là ở chỗ nó bảo chúng ta rằng chúng ta không là cái ta thực của
mình.

Chúng ta không đáng để bị phụ thuộc, ta hãy một mình xem
xét vấn đề trở nên tự do. Phụ thuộc vào người ta - tức là cảm thấy
sự dày vò của chiếc dây thừng - là cần thiết để nhận biết về bản
thể người ta; và nhận biết rằng chúng ta không có đó. Con vật đi
lang thang quanh chiếc cọc cố định, lúc sang trái, lúc sang phải
và nghĩ, “Tôi tự do,” và khi nó nghĩ, “Tôi tự do”, cái “tôi’ có đấy.
Thế rồi, dần dần, nó phải bắt đầu tự thuyết phục mình rằng, “Đấy
cũng là do ý muốn của tôi mà tôi bị buộc vào cột. Tôi có thể cắt
dây ra bất kì khi nào tôi muốn, nhưng tôi đang nghĩ về hạnh phúc
của mình.”
Chúng ta tạo ra biết bao nhiêu ảo tưởng trong các kiếp sống
của mình. Chúng ta nói, “Tôi trở nên giận dữ, tôi làm tình, tôi
không thích, tôi ghét, tôi làm bạn, tôi trở thành kẻ thù...” nhưng
không điều nào trong những việc làm này là quyết định của
chúng ta. Bạn đã bao giờ trở nên giận dữ và là người làm ra giận
dữ đó không? Bạn chưa bao giờ làm như vậy cả. Khi có giận dữ,
bạn không có đó. Bạn đã bao giờ làm tình mà việc làm tình do
bạn làm không? Nếu bạn có thể làm tình, thế thì bạn có thể làm
tình với bất kì ai; nhưng sự kiện là ở chỗ bạn có thể yêu ai đó và
bạn không thể yêu người nào đó khác. Bạn có thể làm tình với ai
đó thậm chí khi bạn không muốn làm, và bạn không thể làm tình
với ai đó thậm chí khi bạn muốn làm như vậy.

Tất cả mọi cảm giác và xúc động của cuộc đời đều đến từ
một góc không biết nào đó - chúng tới như việc sinh của bạn tới.
Bạn xâm lấn bừa vào việc xảy ra này và trở thành người chủ,
người làm ra nó. Vậy mà bạn đã làm cái gì? Cái gì có đó do bạn
làm ra? Cảm giác đói đến; giấc ngủ đến; buổi sáng việc thức kéo
đến; và buổi tối mắt bạn bắt đầu nhắm lại lần nữa. Tuổi thơ đến.
Khi nào nó đi qua? Nó trôi qua như thế nào? Nó không hỏi chúng
ta, nó không đi vào tư vấn và thảo luận với chúng ta, và nó không
chậm trễ trong việc trôi qua một khoảnh khắc, ngay cả liệu chúng
ta có yêu cầu nó làm như vậy hay không. Thế rồi tuổi thanh xuân
trôi qua, và tuổi già bước vào. Bạn đang ở đâu? - nhưng bạn cứ
nói, “Tôi là thanh niên, tôi là người già,” cứ như tuổi thanh niên phụ thuộc vào
bạn. Tuổi thanh niên của bạn có hoa riêng của nó.
Tuổi già có hoa riêng của nó nữa; và chúng nở như hoa nở trên
cây. Bụi hồng không thể nói, “Tôi làm cho hoa hồng nở.” Nó chỉ
có thể nói như thế nếu nó có khả năng làm cho hoa hướng dương
nở!

Đừng tính công trạng nào về mọi điều xảy ra này. Nếu có
hồn nhiên trong tuổi thơ, nó có đó mà không có nỗ lực nào về
phần bạn. Và khi dục và những ham muốn khác bắt giữ bạn trong
tuổi thanh niên, chúng làm như vậy hệt như hồn nhiên bắt giữ
bạn trong tuổi thơ. Bạn không là người chủ của hồn nhiên tuổi
thơ của mình, không là người chủ của ham muốn dục của tuổi
thanh niên của bạn, và đừng coi nó là thành tựu của bạn khi tâm
trí bạn bắt đầu nghiêng về phía vô dục trong tuổi già. Nó giống
như thế này: dục bắt giữ bạn trong tuổi thanh niên, và dửng dưng
bắt giữ bạn trong tuổi già. Những người chưa bao giờ là nô lệ cho
dục không có kiểm soát gì trên sự kiện đó. Cho nên bản thân
đừng tự hào về sự kiện là bạn không phải là nô lệ cho dục.
Xem xét mọi nguyên tử nhỏ bé của cuộc sống và bạn sẽ nhận
ra rằng không có chỗ đứng cho cái tôi - bản ngã. Thế thì tại sao
chúng ta đang tạo ra ảo tưởng này? Nó xảy đến như thế nào? Lừa
dối này đến từ đâu? Nó tới bởi vì chúng ta bao giờ cũng cảm thấy
rằng có một phương án. Chẳng hạn, bạn xúc phạm tôi. Bây giờ
tôi có hai phương án: tôi có thể xúc phạm trả lại bạn; hay tôi có
thể bỏ qua nó, cho rằng việc xúc phạm là không có đó chút nào.
Tức là, tôi có thể chọn đáp lại nếu tôi muốn, và nếu tôi không
muốn, tôi có thể chọn không đáp lại. Nhưng thực có phương án
nào không? Bạn có cho rằng người đáp lại xúc phạm cũng có thể
đã chọn không xúc phạm, nếu người đó muốn không? Bạn sẽ nói:
Nếu người đó không muốn làm như vậy, người đó không cần
phải đáp lại xúc phạm ấy. Nhưng bạn sẽ phải đi sâu thêm chút ít
để hiểu điều này. Phải chăng ham muốn đã có trong người đó,
hay người đó đem nó ra từ đâu đó? Phải chăng ham muốn xúc
phạm hay không xúc phạm nằm dưới kiểm soát của người đó?
Những người tìm kiếm bên trong nói rằng điều mà các chiều
sâu lộ ra chỉ là ở chỗ những việc xảy ra đi ra ngoài kiểm soát của
chúng ta. Người nghĩ tới xúc phạm, và người đó xúc phạm.
Người khác quyết định không xúc phạm, và người đó không xúc
phạm. Nhưng từ đâu ý tưởng này về việc đưa ra hay không đưa
ra xúc phạm lại tới? Nó có phải là ý tưởng của bạn không?
Không, nó tới từ nơi việc sinh tới. Nó tới từ nơi tình yêu hiện
hữu. Nó tới từ nơi tâm thức hiện hữu. Nó trở về từ nơi cái chết
hiện hữu. Nó được hấp thu nơi hơi thở đi qua.
Dễ dàng tự lừa dối mình bằng việc nói, “Đây là tay tôi, nó
đang dưới sự kiểm soát của tôi. Nếu tôi muốn, tôi sẽ không xúc
phạm.” Nhưng ai đã bảo bạn, ai đã yêu cầu bạn, xúc phạm?
Người như Phật và Mahavira sẽ không đưa ra xúc phạm. Bạn có
cho rằng họ đơn giản chọn việc cảm thấy xúc phạm không?
Không; cũng như bạn kinh nghiệm một tình huống cố định và
không tránh khỏi trong việc phải xúc phạm, Phật và Mahavira
cũng kinh nghiệm một tình huống không thay đổi được tương tự
về không cảm thấy xúc phạm. Họ không thể chọn, cho dù họ
muốn, để cảm thấy xúc phạm. Bản thân ham muốn đó không
được tạo ra.

Một người tới gặp một thiền sư vào sáng sớm và bắt đầu hỏi
thiền sư tại sao ông ấy là bình thản và yên tĩnh thế, trong khi bản
thân người đó khuấy động và rối loạn thế. Thiền sư trả lời, “Ta
bình thản và ông khuấy động, có vậy thôi. Vấn đề qua rồi. Không
cái gì cần nói thêm .”
Người này cứ nài nỉ, “Không tôi muốn biết làm sao thầy trở
nên bình thản thế.”
Thiền sư trả lời, “Ta muốn biết làm sao ông trở nên khuấy
động thế.”
Người này trả lời, “Khuấy động đến theo ý của nó chứ.”
Thiền sư nói, “Điều đó đích xác đã xảy ra với ta. Bình thản
tới với ta theo ý riêng của nó, và ta không tính công nào cho nó.
Khi khuấy động tới, nó tới. Ta không thể làm gì để dừng nó lại,
và bây giờ, khi bình thản tới với ta, ta không thể làm bất kì điều
gì để đem khuấy động tới dù ta muốn đem nó tới, cho nên ta bị
giới hạn bởi tình huống.”
Người này nói, “Không, xin thầy chỉ cho tôi cách bình thản
và yên tĩnh.”
Thế là thiền sư nói, “Ta chỉ biết có một cách, và đó là thế
này: vứt bỏ ảo tưởng của ông rằng ông có khả năng làm bất kì
cái gì về nó. Nếu ông trở nên bị khuấy động, vẫn còn bị khuấy
động. Biết rằng ông đang bị rối loạn và rằng ông không thể làm
được gì về nó. Nó ở ngoài kiểm soát của ông. Đừng làm nỗ lực
để bình thản. Ngay cả những người làm nỗ lực để bình thản đều
trở nên bị khuấy động và rối loạn. Họ trở nên bị khuấy động, và
trong nỗ lực của họ để trở nên bình thản họ tạo ra sự không thoải
mái mới trong bản thân mình.”
Nhưng người này khăng khăng, “Lời khuyên của thầy không
định được tâm tôi; tôi muốn bình thản.”
Thiền sư nói, “Thế thì ông nhất định vẫn còn bị khuấy động
bởi vì ông muốn cái gì đó. Ông từ chối để vấn đề này cho
Thượng đế, trong khi sự kiện là ở chỗ mọi thứ đều phụ thuộc vào
ngài; không cái gì ở trong điều khiển của ông. Ta trở nên bình
thản từ ngày ta bắt đầu sẵn lòng chấp nhận bất kì cái gì xảy ra,
bất kì cái gì đến với ta. Ta có thể không bình thản khi ta ham
muốn và cố trở thành cái gì đó.”
Nhưng người này không chấp nhận điều thiền sư đã nói,
“Tôi ghen tị với bình thản của thầy,” người đó nói. “Tôi không
thể vẫn còn thoả mãn với giải thích của thầy.”
Thế là thiền sư yêu cầu người đó đợi và đặt câu hỏi cho
người đó khi không có ai trong lều của mình, vì ông ấy có nhiều
khách thăm. Người này đồng ý, và khi không còn ai trong lều
người đó yêu cầu thầy chỉ cho người đó cách thức. Thế rồi thầy,
đưa ngón tay lên môi anh ta, nói, “Tĩnh lặng.”
Người này thấy rất phân vân. Người đó nói, “Khi có người ở
đây và tôi xin thầy trả lời, thầy bảo tôi hỏi khi không có ai ở đây;
và khi không có ai ở đây và tôi hỏi thầy câu trả lời thầy bảo tôi
giữ tĩnh lặng. Làm sao vấn đề của tôi sẽ được giải quyết?”
Trời tối, mặt trời đã lặn, và mọi người đã đi hết. Túp lều
trống rỗng, và người này lại tìm câu trả lời. Thiền sư yêu cầu
người đó đi ra ngoài. Trăng tròn toả sáng. Thiền sư hỏi, “Ông có
thấy những cây này không?” Nhưng cây nhỏ đang mọc ở phía
trước túp lều.

Người này đáp, “Tôi thấy chúng.”
Lần nữa thầy hỏi, “Ông có thấy những cây xa xa kia không,
vươn cao lên trời ấy?”
Người này nói, “Tôi thấy chúng.”
Thế rồi thiền sư nói, “Những cây kia to cao. Những cây này
nhỏ thấp. Không có xung đột gì giữa chúng. Ta chưa bao giờ
nghe nói tới bất kì tranh cãi nào giữa chúng về vấn đề này.
Những cây nhỏ này không bao giờ hỏi những cây cao tại sao
chúng cao; chúng thoả mãn với cái nhỏ bé của chúng. Cây cao
cũng không bao giờ hỏi những cây nhỏ tại sao chúng nhỏ. Cây
cao có khó khăn riêng của chúng, như chúng phát hiện ra khi có
bão. Cây nhỏ cũng có vấn đề của chúng nữa, nhưng chúng bằng lòng với cái nhỏ bé
của mình, cũng như cây cao bằng lòng với
cái cao của mình. Ta chưa từng nghe nói gì về tranh cãi giữa hai
loại cây này; ta bao giờ cũng thấy chúng tĩnh lặng. Cho nên xin
rời khỏi ta. Ta là cái ta đang vậy, và ông là cái ông đang vậy.”
Nhưng làm sao người đó thoả mãn được với ví von đó? Và
làm sao chúng ta được thuyết phục? Tâm trí bao giờ cũng ham
muốn là cái gì đó. Tại sao nó hành xử như vậy? Đấy là vì chúng
ta bao giờ cũng coi là đương nhiên chúng ta có thể làm điều gì
đó. “Không,” Ishavasya nói, “bạn không thể làm được điều gì cả.
Bạn không thể là người làm.” Điều này là bí mật của một ý tưởng
lớn được gọi là định mệnh. Định mệnh không có nghĩa là bạn
không nên làm gì. Điều đó sẽ là ngồi tĩnh lặng - và định mệnh nói
rằng bạn thậm chí không thể ngồi theo ý chí riêng của mình. Nếu
định mệnh đặt bạn ngồi, chỉ thế thì bạn có thể ngồi. Định mệnh
làm cho việc “tôi sẽ không làm gì cả” trở thành không thể được
đối với bạn. Nếu định mệnh muốn bất kì việc không làm nào, thế
thì việc không làm sẽ xảy ra.

Xin nhớ trong tâm trí, không có một người theo thuyết định
mệnh nào trong số những người dường như theo định mệnh. Họ
nói, “Mọi thứ đều trong tay của định mệnh. Chúng ta có thể làm
được gì nào? Cho nên chúng ta không làm gì.” Chính sự tồn tại
của ý tưởng là chúng ta không làm gì cả có nghĩa là cảm giác về
việc làm vẫn còn hiện hữu. Khái niệm về định mệnh toàn bộ có
nghĩa là chúng ta không có. Không có cách nào để làm bất kì cái
gì. Nó là sự tồn tại.

Khi chúng ta không thể làm được bất kì cái gì, khi chúng ta
không thể là người làm, thế thì liệu sẽ có 'cái của tôi', cái gì của
tôi không? Chúng ta sẽ nói, “Nó là của tôi” cho ai? Chúng ta có
thể nói, “Đây là con tôi” không? Trông có vẻ như vậy, vì dường
như là, “Tôi đã cho nó sinh thành.” Ảo tưởng như thế xảy ra mặc
dầu không ai đã bao giờ cho ra đời bất kì đứa con nào. Con được
sinh ra, chúng tìm đường của chúng qua bạn. Bạn bắt đầu yêu
một người đàn bà. Tình yêu đó không đến từ bạn, tình yêu tìm
đường của nó qua bạn. Ham muốn dục, tình yêu, khao khát của
thân thể bạn để gặp lẫn nhau - khao khát đó không phải là của
bạn. Nó bị giấu kín trong từng hạt của thân thể bạn, trong từng
sợi lông nhỏ bé nhất trên thân thể bạn. Nó được nén vào trong
từng hạt và nó chèn ép bạn, nó thôi thúc bạn. Cuối cùng, đứa trẻ
được thụ thai, ai đó trở thành mẹ và ai đó trở thành bố của nó. Có
vẻ là họ đã mang đứa trẻ vào hiện hữu. Số phận cười bạn! Nó
cười khoái trá vào bạn. Bạn đã bị làm thành công cụ của việc
sinh: bạn đã không cho nó. Bạn chỉ là bước chuyển. Người mẹ
chỉ là bước chuyển cho cuộc hành trình của ai đó đi vào cuộc
sống. Qua cô ấy, định mệnh cho việc sinh. Bạn đã không làm gì .
Bạn xây ra một toà nhà và nói, “Nó là của tôi.” Nhưng bạn
có quan sát chim cũng làm tổ cho chúng không? Trên thế giới
này ngay cả con vật nhỏ nhất cũng xây dựng chỗ trú ẩn của nó.
Có những loài chim mà mẹ của chúng bay đi sau khi đẻ trứng.
Khi trứng nở, chim con bước ra. Chúng không nhận huấn luyện
của mẹ không có bảo vệ của bố, chúng không tới trường. Và
phép màu là ở chỗ những con chim đó làm tổ đích xác như mẹ
chúng làm, bà chúng làm trước chúng. Tổ ấy không phải là tổ
bình thường; nó bao gồm kĩ năng kiến trúc lớn lao. Nó đẹp đến
mức nếu con người muốn làm một cái tổ như thế thì người đó sẽ
phải học cách làm nó, và ngay cả sau khi học, vẫn khó cho người
đó để xây dựng nó một cách khéo léo đến thế.

Tổ như thế được làm như thế nào? Các nhà khoa học gọi đấy
là chương trình định sẵn. Họ nói có một chương trình định sẵn
trong từng tế bào nhỏ của thân thể con chim. Toàn bộ quá trình
xây dựng tổ được giấu kín trong xương, thịt và mô của chim.
Điều con chim này có thể làm tổ của mình là điều chắc chắn. Nó
sẽ tìm ra đích xác loại cỏ và lá mà mẹ nó đã tìm. Không ai dạy nó; chim mẹ thậm
chí không nhìn tới chim con, và chim con đã
không tới trường. Vậy mà nó sẽ nhặt những cái lá đó và những
cọng cỏ đó và làm nên cái tổ hệt như trước đây mẹ nó và bà nó
làm. Con người cũng xây dựng; mọi loài sinh vật đều xây dựng.
Không có lí do gì để nói, “Nó là của tôi” - tuyệt đối không lí do
nào.

Chúng ta có thể nói về cái gì qua “Nó là của tôi”? Chúng ta
có thể làm đòi hỏi như vậy về của cải không? Mọi con vật đều
tích trữ: chúng làm như thế theo nhiều cách khác nhau, và con
người chắc chắn không phải là kẻ thông minh nhất về điều đó.
Có những con vật khéo léo vượt xa hơn con người trong nghệ
thuật tích trữ. Tại Siberia có gấu trắng: tuyết khắp sáu tháng
trong năm, và con người có khó khăn sống sót trong sáu tháng
đó, nhưng gấu tự bảo vệ nó. Phương pháp tích luỹ của nó thật kì
diệu. Nó không thu thập các thứ, nó thu thập mỡ - đủ để kéo dài
trong sáu tháng. Nó chỉ cứ tích trữ thật nhiều mỡ trong thân thể.
Nó cất giữ nhiều mỡ trong thân thể đến mức nó có thể sống nhờ
số mỡ đó trong sáu tháng này mà trong lúc đó nó ngủ dưới tuyết.
Kho báu của bạn không ở sâu như thế bên trong bạn. Kẻ cắp
có thể đánh cắp nó từ bạn; và để hữu dụng cho bạn, của cải của
bạn phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh. Bạn có thể có của cải, nhưng
nó sẽ không dùng gì được cho bạn nếu thị trường chứng khoán
sụp đổ. Con gấu trắng kia thông minh hơn bạn. Nó tích trữ thức
ăn của mình ngay bên trong người nó, và bởi vì - nằm dưới tấm
chăn tuyết nặng nề - thật bất tiện cho con gấu để nhai, nuốt và
tiêu hoá rồi tạo ra thịt và mô mới, nó cất giữ thức ăn của nó dưới
dạng mỡ mà có thể hấp thu một cách an bình.

Cả thế giới tích trữ. Đừng nghĩ rằng chỉ có bạn làm như thế.
Nó là quá trình tự nhiên. Khi người mẹ cho con bú vú, tự hào cô
ấy cảm thấy là vô căn cứ nào. Không sớm hơn khi đứa con được
sinh ra là vú mẹ bắt đầu đầy sữa, thân thể cô ấy bắt đầu tạo ra
sữa. Nếu đứa trẻ không chịu bú, người mẹ sẽ khó khăn và cảm
thấy rất khó chịu. Chính phúc lành là đứa trẻ bú sữa. Người mẹ
không chủ định chuẩn bị sữa. Việc sinh ra đứa con là một quá
trình tự phát, và như một phần của quá trình này, sữa được tạo ra
trong người mẹ. Khi đứa trẻ lớn lên, dòng dữa mẹ bắt đầu giảm
đi, và khi nhu cầu của nó hết, sữa biến mất.

Tất cả những việc xảy ra này là tự nhiên. Ham muốn tích luỹ
là tự nhiên. Đó là lí do tại sao lời kinh này của Ishavasya nói,
“Prakriti” - Ishavasya gọi điều đó là Thượng đế: mọi thứ là của
Thượng đế. Tự nhiên, số phận, prakriti, tất cả đều là từ mang tính
máy móc; và ngài khổng lồ, tràn đầy bí ẩn, tràn đầy cuộc sống và
tâm thức đến mức ngài không thể có tính máy móc được.
Khoa học cũng xác nhận rằng tự nhiên làm mọi thứ, nhưng
khi chúng ta nói về Thượng đế theo ngôn ngữ của khoa học,
chúng ta trở nên đáng thương; chúng ta trở thành vô giá trị và
máy móc. Khi Ishavasya nói, “Thượng đế làm mọi thứ,” một mặt
bản ngã của chúng ta rơi xuống, và mặt khác chúng ta trở thành
Thượng đế. Điều này là quan trọng; nó đáng được hiểu. Khi khoa
học tiến triển, nó nhấn mạnh rằng con người phải vứt bỏ ảo
tưởng là tôi đang làm. Mọi thứ đều đang xảy ra. Nhưng việc nhấn
mạnh của khoa học là vào mọi thứ đang xảy ra một cách máy
móc. Mọi thứ đang xảy ra như trong một cái máy. Toàn bộ thế
giới hành xử một cách máy móc. Và khi mọi thứ đang xảy ra một
cách máy móc, vị trí con người là đáng thương. Bản ngã của con
người chắc chắn bị đập vỡ, nhưng không cái gì được lộ ra để cho
con người bất kì ý nghĩa hay giá trị nào.

Thật sự, lòng tự hào của con người, bản ngã của con người,
là một hiện tượng rất không có ý nghĩa và nhỏ mọn, hệt như ngọn
lửa cháy từ dầu trong một chiếc đèn đất nhỏ. Nó bị khoa học dập
tắt, và có bóng tối sâu xa bao quanh tất cả; nhưng không có mặt
trời mọc lên xảy ra ở chỗ đó. Đó là lí do tại sao lời tuyên bố của Ishavasya là có
giá trị hơn nhiều lời tuyên bố của khoa học. Một
mặt nó dập tắt ánh sáng cháy lờ mờ của bạn và vồ lấy bản ngã
nhỏ bé của bạn, bằng việc nói, “Tắt đi! Bạn không có, và sợ của
bạn là không cần thiết!” và mặt khác nó cho sinh thành một siêu
mặt trời. Trong một khoảnh khắc, từ một phía nó nói, “Bạn
không có,” và lập tức, từ phía bên kia, nó đặt cho bạn ở vị trí của
Thượng đế. Từ một mặt nó vồ lấy bạn và tẩy sạch bạn hoàn toàn,
và từ mặt khác nó tặng cho bạn cái toàn thể. Nó dập tắt ngọn đèn
đất của bản ngã, ngọn lửa lờ mờ nặng mùi, mùi dầu lửa đầy khói,
nhưng thay vào đó nó cho bạn ánh sáng rực rỡ, chói lọi của mặt
trời. Nó tẩy sạch cái tôi, bản ngã, nhưng đặt chúng ta ở cái ta cao
nhất - Thượng đế!

Đây là khác biệt giữa chiều hướng của tôn giáo và của khoa
học. Khoa học xác nhận cùng những sự kiện mà tôn giáo xác
nhận, nhưng nhấn mạnh của khoa học và vào máy móc. Tôn giáo,
trong khi thảo luận về cùng thứ, đặt nhấn mạnh vào tâm thức,
vào trí huệ, vào việc sống; và nhấn mạnh này là quan trọng. Nếu
khoa học phương Tây thành công, con người chung cuộc sẽ trở
thành cái máy; và nếu tôn giáo ở phương Đông thành công, con
người cuối cùng sẽ trở thành Thượng đế. Cả hai đều phá huỷ bản
ngã, nhưng khoa học làm giảm cấp con người trong quá trình
này.

Quãng trăm rưởi hay hai trăm năm trước đây, khoa học bắt
đầu tuyên bố lần đầu tiên rằng con người là loài vật bất lực. Khi
Darwin nói với loài người, “Quên rằng bạn đã được Thượng đế
tạo ra đi; bạn đã tiến hoá từ loài vật, từ loài thú,” bản ngã của con
người bị đập mạnh lần đầu tiên - với một cú bùm! Con người đã
từng tin rằng mình là con của Thượng đế, là sự sáng tạo của
Thượng đế, mặc dầu người đó không có bằng chứng nào về điều
đó. Thế rồi bất thần lại hoá ra là người bố không phải là Thượng
đế, mà là con vượn! Đấy hẳn phải là một cú sốc lớn lắm. Một cú
sụp đổ tan tành! Khoảnh khắc trước đã có Thượng đế, ngồi trên
ngai vàng cao nhất, và chúng ta là con của ngài, và khoảnh khắc
tiếp chúng ta được chứng minh là con cháu của khỉ. Điều này thật
rất đau đớn cho con người; nó tác động tới con người nhiều lắm.
Cho nên khoa học đã tuyên bố lần đầu tiên rằng con người nên
quên tất cả về việc là người và nên tự coi mình như con vật, con
thú đi. Tất cả mọi nỗ lực của con người để nuôi dưỡng bản ngã
của mình đều bị đập tan tành.

Nhưng một cuộc hành trình một khi đã bắt đầu, dù theo
chiều hướng nào, cũng không kết thúc trước khi nó được hoàn
tất; nó tìm kiếm cái kết thúc của nó. Thật khó để dừng lại ở mức
con vật. Ban đầu khoa học tuyên bố rằng con người là một loại
thú; thế rồi, sau khi nghiên cứu thêm về bản chất của loài vật,
khoa học thấy rằng con vật là máy.

Bạn quan sát con rùa bò. Bạn sẽ thấy rằng khi cái nhiệt tăng
lên, rùa bò vào bóng râm. Bạn sẽ nói nó bò đến đó bởi vì nó cảm
thấy nóng quá. Khoa học bác bỏ điều này. Khoa học chế tạo ra
rùa máy. Chúng được đặt dưới ánh mặt trời, và chúng cứ ở đấy
chừng nào mà nhiệt còn không lớn lắm; nhưng ngay khi nhiệt
tăng lên, chúng bắt đầu bò. Chúng bò vào trong bụi cây, chỗ
bóng râm. Những con rùa này chỉ là những thứ máy móc - điều gì
đã xảy ra cho chúng? Khoa học gọi nó là điều kiện tự cân bằng -
cách thức mà theo đó thông báo được đưa ra cho bất kì thay đổi
có ý nghĩa nào về nhiệt độ. Không có tâm thức tham dự vào đó
chút nào. Bạn thấy bướm đêm bay vào ngọn lửa đèn. Nhà thơ mô
tả nó là một kẻ yêu đương mù quáng, điên cuồng với ngọn lửa, hi
sinh cả mạng sống của mình cho tình yêu của nó. Nhà khoa học
sẽ không chấp nhận điều này; với ông ta không cái gì giống như
tính điên khùng trong sự kiện này. Tất cả chỉ là máy móc. Ngay
khi con bướm nhìn thấy ngọn lửa thì cánh của nó bắt đầu nghiêng
về ngọn lửa. Họ tạo ra các con bướm máy, và để chúng bừa bãi
trong bóng tối. Thế rồi họ bật đèn lên, và lập tức các con bướm
này xô về cái đèn.

Cho nên khoa học đã xác minh rằng các con vật đều là máy;
và kết luận cuối cùng về chúng là đáng ngạc nhiên. Trước hết các
nhà khoa học đã xác minh rằng con người bị hạ xuống loài vật;
rồi họ xác minh rằng con vật giống như máy: phán xét cuối cùng
của họ là ở chỗ con người là máy. Một cách tự nhiên, có chân lí
nào đó trong biện luận này. Điều tốt là họ đã đập tan bản ngã của
con người, nhưng khi làm như vậy, họ thu con người về trạng
thái của cái máy - con người thoái hoá thành cái máy. Với con
người việc nghĩ theo cách này là nguy hiểm, và đã chứng tỏ là có
hại. Những người như Stalin và Hitler có thể đẩy hàng triệu
người vào chỗ chết bởi vì họ coi con người như cái máy và do
vậy trái tim của họ không xúc động bởi việc tàn sát.
Bây giờ xét tình huống đáng quan tâm này. Krishna đã nói
trong Gita rằng linh hồn con người là bất tử, nó không chết, cho
nên giết kẻ thù của bạn không tạo ra khác biệt gì. Stalin cũng có
thể nói rằng vì con người là máy, không linh hồn, nên cũng
không hại gì trong việc giết anh ta. Khi Krishna nói với Arjuna
rằng linh hồn là bất tử và sẽ không chết dù bạn cố gắng đến đâu,
tác động lên Arjuna là ở chỗ người đó trở nên dịu đi khi giết kẻ
thù của mình. Nhưng kết quả của hai hành động này hoàn toàn
khác nhau. Khi tính bất tử của linh hồn được chấp nhận, câu hỏi
về cái chết trở thành vô nghĩa. Stalin hài lòng đẩy hàng triệu
người vào cái chết; nhưng với ông ấy thì không có cái gì như linh
hồn chút nào, không cái gì sai được thực hiện vì con người chỉ là
cái máy.

Có thể không có phản đối việc phá huỷ cái máy. Nếu bạn
đập cái máy bằng chiếc gậy, ngay cả người bất bạo hành cũng
không thể buộc tội gì bạn về việc phạm bạo hành. Bên ngoài, kết
quả dường như tương tự, nhưng chúng không như nhau, vì ý
nghĩa thực sự của những kết quả này là rất khác và thay đổi toàn
bộ nghĩa trong mỗi trường hợp. Khoa học cho rằng tự nhiên làm
mọi việc. Khoa học không chỉ đập tan bản ngã con người, mà còn
làm thoái hoá con người; khi tôn giáo đập tan bản ngã con người,
nó nâng con người lên một mức cao hơn và đưa tiễn con người
trên cuộc hành trình đi lên.

Lời kinh này nói bản ngã bạn sẽ biến mất nếu bạn dừng việc
gọi mọi thứ là của bạn. Coi nó tất cả đều là của sự tồn tại đi.
Đừng nuôi dưỡng ham muốn về của cải của bất kì ai. Sau rốt, tại
sao? Khi không còn cái gì là của tôi, thế thì cũng không có cái gì
là của bạn. Cẩn thận, bởi vì lời kinh này, “Đừng thèm muốn;
đừng ham muốn giầu có của người khác,” đã bị hiểu sai nhiều
lắm: nó đã bị diễn giải không đúng đến mức người ta có thể trở
nên bị lúng túng sâu sắc.

Phần lớn những người bình luận đã giải thích nó là: “Ham
muốn của cải của người khác là tội lỗi, cho nên đừng nuôi dưỡng
ham muốn như thế.” Nhưng họ có vẻ ngu, vì phần đầu của lời
kinh nói rằng của cải không thuộc vào ai cả; nó là của sự tồn tại.
Phần thứ nhất của lời kinh này nói, “Khi nó không phải là của
tôi, làm sao nó có thể là của bạn được?”
Không. Không, nghĩa đúng đắn của nó là thế này - rằng bạn
không nên ước ao của cải của người khác bởi vì của cải không
phải là của tôi cũng không phải là của bạn. Cơ hội cho ham muốn
tồn tại chỉ khi, vì nó có thể là của bạn, nó cũng có thể là của tôi;
bằng không ham muốn không có nền tảng nào để đứng . Các
chuyên gia trong khoa học về luân lí đã giải thích điều ấy như có
nghĩa là ngay cả việc nghĩ đến của cải của người khác cũng là tội
lỗi; nhưng vì nó không thể là của tôi thì làm sao nó có thể là của
người khác được?

Không chuyên gia về đạo đức nào có thể nắm được nghĩa
thực của lời kinh này. Nó là tinh tế và sâu sắc. Nhà đạo đức học
lo lắng khi thấy rằng không ai ăn cắp tài sản của người khác; khi
không ai coi là của mình cái thuộc về người khác. Nhưng nhấn
mạnh của ông ta vào tài sản của người khác chỉ là mặt trái của nhấn mạnh cuả ông
ta vào cái của riêng ông ta. Nhớ lấy, người
nói, “Đây là của bạn,” chưa thoát khỏi khái niệm, “Đây là của
tôi,” vì hai khái niệm này là hai mặt khác nhau của cùng một
đồng tiền. Chừng nào cảm giác này vẫn cứ còn, “Toà nhà này là
của tôi,” phần tương ứng của nó, “Toà nhà này là của bạn,” sẽ
vẫn tiếp tục: và khi cảm giác về toà nhà ‘của tôi’ biến mất, làm
sao cảm giác tương ứng về toà nhà ‘của bạn’ còn lại được?
Không ao ước tới của cải hay tài sản của người khác không có
nghĩa là tài sản thuộc về người khác, cho nên ham muốn nó là tội
lỗi; nghĩa thực của nó là ở chỗ tài sản và của cải không thuộc vào
ai cả - của cải thuộc vào một mình sự tồn tại: chính bởi vì điều
này mà việc ham muốn là tội lỗi. Đừng coi cái gì là của tôi hay
của bạn, đừng xem bản thân mình là người chủ, và đừng cố đánh
cắp từ người khác - vì đó là coi cái gì đó như của anh ta. Chúng
ta không thể đánh cắp mà cũng không thể giữ được cái gì. Tất cả
nó đều là của sự tồn tại, và cái là của sự tồn tại chúng ta không
thể thu được cũng không tích trữ được.

Ý tưởng sở hữu nhộn làm sao! Tôi đặt một tấm biển lên một
mảnh đất nói rằng nó là của tôi. Mảnh đất đó đã có ở đó từ trước
khi tôi được sinh ra. Nhìn vào hành động này của tôi, mảnh đất
đó phải cười phá lên, vì nhiều người trước tôi cũng đã từng dựng
lên những tấm biển như thế mà nói nó là ‘của tôi’ - và mảnh đất
chôn vùi tất cả họ. Họ được chôn vùi nơi bạn đang ngồi bây giờ
đây! Có ít nhất là mười nấm mồ ở chỗ mỗi chúng ta đang ngồi.
Khó mà còn tấc đất nào trên mảnh đất này mà có thể không chứa
mồ của mười người. Biết bao nhiêu người đã được sinh ra và đã
chết đi trên thế giới này mà có thể ít nhất mười người đã được
chôn vùi dưới từng tấc đất. Mảnh đất đó biết hoàn toàn rõ rằng
người yêu sách khác đó cũng đã dựng lên những tấm biển như
thế trên nó. Nhưng không cái gì dừng con người lại; như người
đó vậy, người đó sẽ vẫn cứ cắm biển của mình lên, và người đó
không muốn thấy rằng người đó đang thêm tên mình vào một cái
biển cũ, được sơn vẽ đè lên. Người đó không muốn thấy rằng ai
đó khác sẽ phải nhận cùng rắc rối ngày mai. Thực ra, tất cả
những công sức này không là gì cả. Mảnh đất đó phải cười to!
Cho nên đừng ước ao của cải của người khác, vì nó không
thuộc vào người nào. Tôi không đơn giản ngụ ý rằng việc chiếm
của cải của người khác là có tội với cách xem xét làm cho nó
thành của bạn. Điều là tội lỗi ở ngay chỗ đầu tiên khi xét nó là
của người đó hay của bạn. Nó là tội lỗi khi coi nó là của bất kì ai.
Nó chắc chắn là tội lỗi nếu lấy cớ quyền sở hữu của bất kì ai trừ
của sự tồn tại. Nếu bạn có thể hiểu cách diễn giải này, thế thì và
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu thấu nghĩa sâu xa và tinh tế
của Ishavasya. Bằng không nghĩa rõ ràng của những lời kinh này
là ở chỗ mỗi người phải sở hữu vững chắc của cải của riêng mình
và, để bảo vệ quyền lợi của riêng mình, phải quảng bá đi mọi
phương rằng không ai được ước ao của cải của người khác.
Đây là lí do tại sao Marx và những người khác theo cách
nghĩ của ông ấy đã không sai khi họ cảm thấy rằng mọi tôn giáo
đều đưa ra bảo vệ cho người giầu có, phong lưu, bởi vì những
diễn giải của lời kinh này đã bị sai lạc và không đúng. Từ những
giải thích này dường như là bạn không nên cố gắng chiếm lấy
của người khác những cái mà người đó là chủ sở hữu. Điều này
rõ ràng xác định ra rằng người chủ có thể nhận được sự giúp đỡ
của cảnh sát để bảo vệ của cải của mình. Cho nên ý định của nó
là để duy trì luật pháp và trật tự, nguyên trạng và ý tưởng về
quyền sở hữu. Nhưng lời kinh này không dự định điều này; chính
lời tuyên bố đầu tiên của Ishavasya là ở chỗ mọi thứ đều thuộc về
sự tồn tại. Một mình sự tồn tại là người chủ. Cả tôi lẫn bạn không
là người chủ, và ý tưởng của chúng ta về quyền sở hữu là ảo
tưởng. Một mình nó là người chủ, người chưa bao giờ tuyên bố,
“Ta là người chủ.” Nó tuyên bố trước ai? Với ai mà nó nói, “Đất
này là của ta?” Để nói như thế ít nhất cần phải có người khác - và
tất cả đều là của sự tồn tại!

Nhớ lấy điều này khi bạn ghi tên mình lên một mảnh đất.
Bạn làm như thế là để cho người khác, để cho người đó có thể
biết rằng đấy là của bạn. Bạn không đặt tấm biển trong rừng rậm.
Và giả sử bạn sống một mình trên trái đất này, tôi cho là bạn
không điên khùng đến mức phải đi dựng biển ở các chỗ khác
nhau. Nếu bạn là người duy nhất sống trên trái đất này, toàn bộ
đất đai là của bạn. Không còn mục đích chút nào trong việc bận
tâm nói như vậy.

Sự tồn tại không đưa ra những công bố như thế vì nó là
người chủ. Tâm niệm điều này nữa; nó là một nghĩa nữa được
hàm chứa trong lời kinh này của Ishavasya: những người đưa ra
lời công bố này không thể là người chủ. Không cần người chủ
phải công bố. Người chủ là người chủ, mặc dầu không có công
bố nào. Chỉ người hầu đưa ra công bố. Nếu một người đưa ra
một đòi hỏi mạnh mẽ về cái gì đó, điều ấy có thể tạo ra một hoài
nghi mạnh tương đương trong tâm trí của người nghe. Khi một ai
đó tuyên bố mãnh liệt rằng của cải là của mình, thế thì đương
nhiên điều đó không thể là của người đó được. Tại sao đòi hỏi
này được đưa ra hùng hồn thế? Chúng ta bao giờ cũng lớn tiếng
trình bầy đòi hỏi về một vật để chứng tỏ rằng nó là của chúng ta
khi thực ra nó không vậy.

Sự tồn tại không đưa ra lời công bố nào. Nó phải làm như
vậy cho ai? Tại sao nó phải công bố? Lời tuyên bố sẽ là vô nghĩa.
Lời tuyên bố, ngược lại, sẽ chứng tỏ rằng điều ấy không phải là
của nó. Tất cả những điều này đều thuộc về nó, kẻ chưa bao giờ
đưa ra lời đòi hỏi nào về nó. Nó không thuộc về bất kì ai đã từng
lên tiếng đòi hỏi về nó. Đừng ao ước của cải của người khác, vì
nó không thuộc vào ai cả - nó tất cả là của sự tồn tại. Đừng coi nó
là của bạn hay của người khác, coi nó là của sự tồn tại: và nhận
biết rằng người khác này, và cả bạn nữa, tất cả đều là của sự tồn
tại - tất cả chúng ta đều là của nó. Cho nên đánh cắp hay tống
tiền là vô dụng, vô nghĩa và không liên quan. Không có kĩ năng
hay nghệ thuật gì trong đó. Nó cũng gần như là lao động bị mất.
Nó là nỗ lực giống như vẽ đường trên nước.

Vẫn còn có một điểm nữa: tận hưởng chúng thông qua từ bỏ
chúng. Người ta nói rằng nếu bạn từ bỏ một vật, bạn có thể tận
hưởng điều đó. Nhưng không, điều đó không phải là tin của
chúng ta. Ngược lại, chúng ta tin rằng chúng ta có thể tận hưởng
chỉ cái chúng ta ôm giữ thật chặt. Nhưng hiền nhân này chỉ dẫn
chúng ta làm điều hoàn toàn ngược. Ông ấy nói rằng chỉ họ có
thể tận hưởng các thứ mà họ từ bỏ chúng. Phát biểu này rất đối
chọi với niềm tin của chúng ta. Chỉ những người từ chối làm
người chủ trở thành người chủ thật. Mọi thứ đều rơi vào trong tay
những người không ham muốn ôm giữ thứ gì.

Một ví von hay là cố giữ không khí trong tay bạn. Bạn có thể
lĩnh hội ý nghĩa thực của lời kinh này - từ bỏ để hưởng thú - nếu
bạn đơn giản cố gắng giữ không khí trong tay mình. Ngay khi
bạn nắm chặt nắm tay, không khí thoát ra ngoài hết. Bạn càng
siết chặt nắm tay bạn càng giữ ít không khí, cho đến cuối cùng
không còn lại không khí nào nữa. Để lỏng nắm tay và không khí
sẽ xô bàn tay để mở của bạn. Bao giờ cũng có không khí trong
bàn tay để mở, nhưng trong nắm tay chặt thì chúng trốn biệt. Một
người để tay mình mở ra bao giờ cũng có đầy không khí; nó
không bao giờ trống rỗng, mọi khoảnh khắc không khí đều tươi
mát. Bạn đã bao giờ quan sát điều này chưa? Bàn tay để mở
không bao giờ trống rỗng, và bàn tay nắm bao giờ cũng trống
rỗng; và nếu một chút ít không khí vẫn còn lại trong nắm tay, nó
là cũ rích và suy tàn. Riêng những người từ bỏ mới có khả năng
tận hưởng.

Trong thế giới này, trong cuộc sống này, con người nhận
được nhiều khi người đó sẵn sàng cho đi và buông bỏ. Đây là
ngược đời - nhưng mọi qui tắc của cuộc sống đều ngược đời.
Chúng không đối lập; chúng là ngược đời. Chỉ dường như chúng là đối lập. Người ao
ước được tôn vinh và kính trọng trên thế giới
này chắc chắn tìm thấy hổ thẹn và bất kính. Người ham muốn
được giầu có, nhưng khi người đó bắt đầu tích luỹ của cải, người
đó trở thành nghèo nàn và hèn hạ bên trong, khi người đó có vẻ
giầu có bên ngoài. Người nghĩ hay mơ về tính bất tử lo âu về sợ
chết cả hai mươi bốn tiếng một ngày. Cái chết không bao giờ tới
viếng thăm nhà của người luôn sẵn lòng đón chào nó: người sẵn
lòng gặp gỡ cái chết nếm những giọt cam lồ, trong khi người sợ
hãi cái chết chết đi từng giờ mỗi ngày. Người ấy chết đi mọi lúc
bởi vì người ấy không biết chút nào về cuộc sống là gì. Người
nói, “Ta sẽ trở thành người chủ,” sẽ sớm trở thành kẻ nô lệ; và
người nói, “Ta sẵn lòng là kẻ nô lệ,” sẽ là người chủ vô hạn.
Nhưng đấy là những phát biểu mâu thuẫn cho nên rất khó để hiểu
chúng, và khi chúng ta cố gắng diễn giải chúng, chúng ta làm
điều ấy theo cách để chúng ta được cứu giúp trong cái ngược đời
trong chúng - và do đó chúng ta bỏ lỡ vấn đề.

Do vậy mọi người đã hiểu nhầm những lời kinh này. “Tận
hưởng qua từ bỏ” đã đi tới ngụ ý là nếu bạn làm việc từ thiện,
bạn sẽ được thưởng ở cõi trời. Cho người ăn mày ngồi bên bờ
sông Hằng một vài xu và bạn sẽ được thưởng hàng nghìn lần
hơn. Không có cái gì khác trên thế giới này bị đối xử tệ bạc như
những lời kinh này, và tương tự, không ai bị đối xử bất công như
những hiền nhân này - bởi vì khó hiểu được họ theo đúng tinh
thần của họ. Thay vì vậy, chúng ta diễn giải họ theo cảnh quan
của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta hiểu lời kinh này: nếu bạn
đem cái gì đó đi làm việc từ thiện, bạn sẽ được lên cõi trời sau
khi chết. Nhưng chú ý: lời kinh này nói, “Người từ bỏ, nhận
được.” Nó không nói: “Người từ bỏ với quan điểm để nhận được,
sẽ nhận được.” Thực ra, người từ bỏ với quan điểm để nhận
được, là không từ bỏ, vì người đó chỉ tìm cách để nhận được
phần thưởng.

Người làm điều từ thiện ở đây trên thế giới này là để cho
người đó có thể nhận được phần thưởng trên cõi trời không từ bỏ
cái gì cả. Người đó đơn giản siết chặt nắm tay của mình cho
tương lai. Nếu được hiểu đúng, hành động của người đó không
chỉ là siết chặt nắm tay trên thế giới này, mà còn siết chặt nó cả
trong thế giới tiếp nữa. Người đó đang nói với người khác bằng
hành động của mình, “Hành động này là không quan trọng lắm ở
đây, nó hoàn toàn thông thường, nhưng nó rất quan trọng ở kia,
trong thế giới tiếp.” Nếu người đó hoàn toàn chắc chắn, nếu
người đó một trăm phần trăm chắc chắn rằng người đó sẽ được
thưởng trong thế giới tiếp vì hành động tốt của mình trên thế giới
này, thế thì người đó được chuẩn bị để làm việc đầu tư nào đó.
Người đó được chuẩn bị để chịu rủi ro một số tài sản của mình
nếu người đó được đảm bảo đầy đủ về phần thưởng của người đó
trong thế giới tiếp.

Không, người như vậy đã không hiểu thấu được nghĩa này
chút nào. Đấy không phải là điều lời kinh này đang nói. Nó đơn
giản nói, “Người từ bỏ, nhận được.” Nó không nói, “Từ bỏ để
cho bạn có thể nhận được trong tương lai.” Một người có con mắt
chỉ chăm chăm vào đầu nhận được cái gì đó không bao giờ có thể
nghĩ dưới dạng từ bỏ được. Khi người đó dường như là từ bỏ,
đấy không phải là từ bỏ mà là đầu tư. Người đó đơn giản thay
đổi vấn đề tài chính để thu được nhiều hơn. Nếu một người đầu
tư một triệu vào một nhà máy, đấy có thể được gọi là làm điều từ
thiện không? Chắc chắn không. Người đó đang đầu tư với ham
muốn để kiếm được một triệu rưởi. Rồi người đó có thể đầu tư
một triệu rưởi. Đấy là từ thiện chăng? Vậy là người đó cứ tiếp
tục, cứ đầu tư ngày một nhiều để cho người đó có thể có một cái
nắm chặt hơn vào tài sản của mình. Người đó muốn ngày càng
nhiều hơn. Người thực hành từ thiện với quan điểm để thu lại
được cái gì là không hiểu nghĩa của từ thiện.

Lời kinh này đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp rằng
người từ bỏ, tận hưởng. Nó không nói, “Từ bỏ nếu bạn muốn tận
hưởng.” Nó công bố rằng nếu bạn có thể từ bỏ, thế thì bạn có thể
tận hưởng; nhưng nếu bạn đang nuôi dưỡng ý tưởng về tận
hưởng, bạn có thể không bao giờ từ bỏ.

Đây là lời kinh tuyệt diệu. Nó tuyên bố ngay từ đầu rằng mọi
thứ là của sự tồn tại: điều này bao hàm việc từ bỏ. Cái gì còn lại
đó để sở hữu và nắm giữ đối với người đã hiểu rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại? Không cái gì còn lại để mà sở hữu. Từ bỏ là
đầy đủ - và người đã nhận ra điều này, người đã từ bỏ mọi thứ và
có bản ngã đã tan biến, là bản thân sự tồn tại; và việc trở thành sự
tồn tại là bắt đầu tận hưởng. Người đó được hội nhập vào trong
tận hưởng tối cao, được hấp thu vào trong phúc lạc tối cao.
Người đó bắt đầu kinh nghiệm tận hưởng tối cao đó từ khoảnh
khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Mọi hạt nhỏ bé nhất trong cuộc
sống người đó bắt đầu nhảy múa. Cái gì còn lại để được tận
hưởng đối với một người đã trở thành bản thân sự tồn tại? Người
đó bắt đầu tận hưởng mọi thứ. Mọi thứ! Bầu trời bao la, hoa nở,
mặt trời mọc, sao đêm, nụ cười và tiếng cười - tất cả đều trở
thành đối tượng phúc lạc của người đó. Tận hưởng tối cao đó bây
giờ tự nó trải rộng về mọi phía cho người đó. Người đó bây giờ
là người chủ và người sở hữu của không cái gì, nhưng theo mọi
chiều hướng đều có sự trải rộng của tận hưởng, và từ khắp xung
quanh, người đó uống nước cam lồ thiêng liêng.

Tôn giáo là tận hưởng. Khi tôi nói điều này - rằng tôn giáo là
tận hưởng - nhiều người trở nên bất ổn bởi vì khái niệm của họ
về tôn giáo là ở chỗ nó là từ bỏ. Nhớ trong tâm trí, người nghĩ tôn
giáo là từ bỏ sẽ phạm phải sai lầm về đầu tư. Vậy mà bản chất
của cuộc sống là từ bỏ. Cuộc sống là từ bỏ. Điều cực kì ngu xuẩn
là ôm giữ bất kì cái gì trong cuộc sống. Sai lầm lớn là nắm giữ
chặt; trong khi làm như vậy người ta mất đi cái mà người ta đáng
thu được. Trong khi nói rằng, “Đó là của tôi,” con người đánh
mất cái người đó đã là.

Mọi thứ rơi rụng đi theo ý của nó từ người đã nhận ra rằng
mọi thứ đều là của sự tồn tại. Thế thì không còn lại gì cho người
đó để từ bỏ. Nhớ lấy, hành động từ bỏ là không thể được với
người nói, “Đó là của tôi.” Nếu một người nói, “Tôi đang từ bỏ
điều này,” điều đó chứa niềm tin rằng vật ấy là của anh ta. Chân
lí là ở chỗ anh ta, người nói như vậy không thể từ bỏ được, vì các
khái niệm của người đó về của tôi và cái của tôi vẫn còn dai
dẳng. Người duy nhất có thể từ bỏ được là người có thể nói,
“Không cái gì là của tôi; tôi có thể từ bỏ cái gì?”
Trước khi từ bỏ cái gì đó, người ta phải có cái đó. Nếu tôi
nói, “Tôi cho bạn bầu trời,” bạn sẽ cười vào tôi và nói, “Trước
hết phải quyết định rằng bầu trời mà thầy đem cho đó là của thầy
đi đã.” Tương tự tôi có thể nói, “Tôi làm điều từ thiện cho bạn
hành tinh Sao Hoả đấy.” Điều này tương đương với điều vô
nghĩa; nó phải là của tôi trước khi tôi có thể làm điều từ thiện với
nó. Ảo tưởng về từ bỏ này xảy ra cho người đang ấp ủ các khái
niệm về cái của tôi. Không, từ bỏ không xảy ra chỉ bởi hành động
bỏ đi cái gì đó. Nó xảy ra chỉ trong việc nhận ra chân lí rằng mọi
thứ thuộc về sự tồn tại. Thế thì việc từ bỏ xảy ra - nó không phải
được thực hành.

Từ bỏ là kinh nghiệm, là việc nhận ra sự kiện rằng tất cả đều
là của sự tồn tại. Bây giờ không cái gì còn lại để được từ bỏ. Bây
giờ ngay cả bản thân bạn, người tranh đấu để từ bỏ, cũng không
được dự trữ lại. Bây giờ không còn lời đòi hỏi về bất kì cái gì có
thể quan niệm được về từ bỏ. Toàn bộ phúc lạc tới với người có
việc từ bỏ mang bản chất này. Tất cả cái tinh tuý, tất cả cái đẹp
đẽ, tất cả nước cam lồ của cuộc sống bây giờ là của người đó. Do
đó lời kinh này nói rằng người đó, người từ bỏ, đạt được mọi thứ.
Người đó, người làm trống rỗng bản thân mình, người buông xuôi ngay cả cái tôi
của mình, trở thành người chủ của tài sản vô
tận.

Đủ cho lời kinh này. Chúng ta sẽ nói thêm nữa vào tối nay.
Xin lưu ý tới một vài điều hướng dẫn về thiền sáng trước khi
chúng ta bắt đầu. Điểm thứ nhất là thế này: Bất kì cái gì tôi đã
nói tất cả đều là thiền. Để bàn tay mở và bạn sẽ được đầy không
khí. Khi bạn kinh nghiệm, khi bạn nhận ra, rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại, bạn sẽ xúc động với phúc lạc bên trong bạn.
Việc thiền này sẽ trong vòng bốn mươi phút. nhắm mắt và
bịt tai hoàn toàn để cho không ánh sáng, không âm thanh nào có
thể đi vào. Trong mười phút đầu thở sâu. Cố gắng hết mức, để
cho tất cả năng lượng của kundalini có thể được khuấy động. Nếu
thân thể bạn bắt đầu nhảy múa, nhún nhảy, quay vòng, cứ để nó
làm như vậy. Đừng lo lắng về nó chút nào. Trong mười phút tiếp,
với vui vẻ bên trong, thảnh thơi thân thể bạn đầy đủ. Thân thể
bạn sẽ muốn nhảy nhót, múa may, cười nói, la hét, kêu khóc, hát
hò. Cho phép nó làm bất kì cái gì nó muốn; hợp tác với nó hoàn
toàn và đầy đủ. Trong mười phút tiếp nữa, tiếp tục hợp tác với
thân thể bạn và đồng thời tự hỏi mình, “Ta là ai?” Cứ hỏi, “Ta là
ai?” cứ như là bạn đang tụng mật chú vậy. Làm điều này với sự
hài lòng, với vui vẻ. Thế rồi, trong bốn mươi phút, một số trong
các bạn sẽ muốn đứng dậy, một số sẽ muốn nằm ra, và số khác sẽ
muốn lăn tròn. Làm bất kì cái gì bạn thích! Cuối cùng, trong
mười phút cuối, vẫn còn im lặng, đợi việc đi vào sự tồn tại bên
trong. Giữ bản thân bạn thật hoàn toàn thảnh thơi và không có
kháng cự gì để cho nó có thể đi vào bạn. Bạn sẽ phải đợi cho điều
đó.

Trước khi chúng ta bắt đầu thực nghiệm của mình, đặt hai
tay lên nhau, và trước sự tồn tại trịnh trọng đưa ra lời nguyện.
Nhắm mắt, đặt hai tay lên nhau, nghĩ về sự tồn tại như nhân
chứng của bạn, và lặp lại lời nguyện này ba lần: “Trong sự hiện
diện của sự tồn tại, tôi nguyện rằng tôi sẽ cố gắng hết sức trong
thiền.”
Tất cả mọi thứ trong thế giới này, hữu cơ và vô cơ,
đều tràn ngập với Thượng đế.
tận hưởng chúng qua việc từ bỏ chúng.
được tách rời;
đừng thèm muốn giầu có của người khác
.

Lời tuyên bố bản chất của Ishavasya Upanishad, chính nghĩa
của tiêu đề của nó, Ishavasya, là: Mọi thứ đều là của Thượng đế.
Tất cả mọi thứ đều thuộc về Thượng đế. Nhưng tâm trí con người
cố gắng biện minh rằng tất cả đều là của chúng ta, và chúng ta
sống trong ảo tưởng này qua bao nhiêu kiếp sống. Cái gì đó là
của tôi. Cái ý tưởng về quyền làm chủ và sự sở hữu - nó là của
tôi!

Khi mọi thứ là của sự tồn tại, không chỗ nào còn lại cho cái
‘tôi’ này của tôi đứng đấy. Nhớ lấy, để biểu lộ cho nó ngay cả
bản ngã cũng cần một cơ sở. Để tồn tại, ngay cả cái ‘tôi’ cần sự
hỗ trợ của cái ‘của tôi’. Nếu hỗ trợ của cái ‘của tôi’ không có đó,
sẽ không thể tiến tới được cái ‘tôi’. Từ một quan sát nhân quả
dường như là cái ‘tôi’ tới trước rồi cái ‘của tôi’ theo sau nó.
Nhưng sự kiện là hoàn toàn đảo ngược lại. Trước hết, cái ‘của
tôi’ được đặt nền móng, và thế rồi cấu trúc của cái ‘tôi’ được xây
dựng lên trên nó. Nếu bất kì cái gì bạn có mà bạn gọi là ‘của tôi’
đều được lôi ra toàn bộ từ hiểu thấu của bạn, thế thì cái ‘tôi’ của
bạn sẽ không được cần tới. Nó sẽ biến mất. Cái ‘tôi’ không là gì
ngoài một tuyển tập những cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ được tạo ra từ
cơ cấu của cái ‘của tôi’ - của cải của tôi, nhà của tôi, tôn giáo của
tôi, đền thờ của tôi, vị trí của tôi, tên tôi, gia đình tôi, và vân vân.
Khi chúng ta cứ ném đi dần từng cái ‘của tôi’ thì cơ sở của
cái ‘tôi’ đồng thời cũng bị xói mòn dần đi. Nếu không một cái
‘của tôi’ nào được giữ lại, thế thì không có nền tảng nào để nâng
đỡ cho cái ‘tôi’ cả. Cái ‘tôi’ cần chỗ dựa, chỗ trú ẩn, một toà nhà
bằng cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ đòi hỏi hòn đá nền tảng là cái ‘của
tôi’, bằng không toàn bộ cấu trúc của cái ‘tôi’ sẽ đổ nhào. Tuyên
bố đầu tiên của Ishavasya dự định làm đổ sập toàn bộ cấu trúc
này. Hiền nhân này nói, “Mọi thứ là của Thượng đế.” Không có
chỗ cho cái ‘của tôi’. Không có cơ hội chút nào để cho cái ‘tôi’
nói với chính nó về cái ‘của tôi’. Nếu nó có thể nói ‘tôi đây’, điều
đó là sai. Nếu nó cứ khăng khăng nói ‘tôi đây’, thế thì nó là một
cái ‘tôi’ bị bối rối. Cần phải hiểu điều này từ hai hay ba quan
điểm.

Điều thứ nhất là thế này: bạn được sinh ra, tôi được sinh ra.
Nhưng không ai hỏi tôi liệu tôi có muốn được sinh ra hay không;
không rắc rối nào đã được tính tới để tìm ra ước muốn của tôi.
Việc sinh ra tôi không phụ thuộc vào ham muốn của tôi hay chấp
thuận của tôi. Khi tôi biết về bản thân mình, tôi biết bản thân
mình đã được sinh ra. Không cái gì giống như bản thể tôi trước
việc sinh của tôi. Chúng ta xem xét điều đó theo cách này: bạn
đang xây một toà nhà; bạn chưa bao giờ hỏi toà nhà liệu nó có
muốn được xây dựng ra hay không. Toà nhà không có ý chí riêng
của nó. Bạn đang xây dựng ra nó, và nó được dựng lên.
Bạn đã bao giờ nghĩ rằng bạn cũng chưa lần nào được tư vấn
trước việc sinh của bạn không? Sự tồn tại làm cho bạn được sinh
ra, và bạn được sinh ra. Sự tồn tại tạo ra bạn, và bạn được tạo ra.
Nếu toà nhà trở thành có ý thức, nó sẽ nói, ‘tôi’. Nếu nó trở thành
có ý thức, nó sẽ từ chối coi người làm ra nó là người chủ của nó,
là người thầy nó. Toà nhà sẽ nói, “Người xây là người hầu của ta;
người đó đã xây dựng ra ta. Vật liệu là của ta; nó đã phục vụ ta.
Ta sẵn lòng được tạo ra, cho nên người đó đã làm ra ta.”
Nhưng toà nhà không có tâm thức. Con người có. Và thực ra,
ai biết được liệu toà nhà có tâm thức hay không? Điều đó là có
thể; điều đó có thể là vậy. Có hàng nghìn mức độ tâm thức. Tâm
thức của con người là một loại đặc biệt, không nhất thiết mọi vật
có cùng loại tâm thức. Toà nhà có thể có tâm thức thuộc loại
khác, đá có thể có loại khác nữa, cây loại khác nữa. Có thể là
chúng nữa sống trong cái ‘tôi’ riêng của chúng. Khi người làm
vườn tưới cây, có thể cây không nghĩ, “Người làm vườn này
đang cho ta cuộc sống,” mà thay vì thế, “Ta đang biểu lộ quí mến
với người làm vườn này bằng việc chấp nhận phục vụ của người
đó. Qua ân huệ của ta, ta chấp nhận phục vụ của người đó.”
Không ai đã bao giờ lại gần cây cối để hỏi về ham muốn của nó
được sinh ra.

Điều tuyệt đối ngớ ngẩn là gọi điều đó là việc sinh của tôi
khi nó được gây ra không có ham muốn của tôi. Đâu là nghĩa
trong việc nói là sinh thành của tôi, mà về nó tôi chưa bao giờ
được hỏi đến trước sự sinh thành của tôi? Khi cái chết tới, nó
không hỏi sự cho phép của chúng ta. Cái chết sẽ không hỏi chúng
ta, “Anh muốn gì? Anh có đi cùng tôi hay không?” Không, khi
nó tới, nó tới theo cách riêng của nó, giống như việc sinh tới mà
không có việc biết của chúng ta về nó. Cái chết tới không gõ cửa,
không cần sự cho phép của chúng ta, không lời hướng dẫn,
không báo trước, và đứng yên tĩnh trước chúng ta; và nó không
cho chúng ta phương án khác, không chọn lựa. Nó không do dự
thậm chí đến một giây, dù chúng ta ước muốn gì. Thật là ngu si
hết mức để mà nói cái chết của tôi cho cái mà tôi không ham
muốn hay sẵn lòng ít nhất.

Việc sinh thành đó không phải là sinh thành của tôi mà trong
đó không có chọn lựa về phần tôi. Cái chết mà với nó sự sẵn lòng
của tôi là không có liên quan, không phải là cái chết của tôi. Cho
nên làm sao cuộc sống nằm giữa hai đầu này có thể là của tôi
được? Làm sao khoảng thời gian ở giữa đó là của tôi được, khi cả
hai đầu không tránh khỏi của nó - mà không có chúng tôi không
thể tồn tại được - không phải của tôi? Đấy là lừa dối - lừa dối mà
chúng ta cứ làm mạnh thêm, quên đi hoàn toàn sinh và tử. Nhưng
nếu chúng ta tư vấn nhà tâm lí về vấn đề này, người đó sẽ nói,
“Ông cố tình quên chúng đi, vì chúng là những kí ức buồn thế.”
Khi việc sinh ra không phải là của tôi, tôi trở thành tội nghiệp và
đáng thương làm sao. Khi cái chết không phải là của tôi, mọi thứ
bị giằng khỏi tôi, không cái gì được giữ. Tay tôi vẫn còn trống
rỗng. Chỉ có tro tàn còn lại.
Chúng ta dựng lên cây cầu cuộc sống dài giữa hai đầu này,
giống như chiếc cầu bắc qua con sông; nhưng không bờ sông nào
là của chúng ta cả. Mố cầu tại cả hai đầu không phải là của chúng
ta. Cho nên nghĩ một chút: Làm sao cây cầu trải rộng từ bờ nọ sang bờ bên kia
ngang qua con sông đó có thể là của chúng ta
trong khi nền tảng của nó không phải là của chúng ta? Do đó
chúng ta cố gắng quên đi việc sinh và tử - những nền tảng của
chúng ta.

Nhiều người quên nhiều việc một cách cố ý. Người đó cố
gắng không nhớ, vì việc nhớ có thể phá tan tất cả bản ngã của
người đó và làm nó nát vụn. “Thế thì cái gì sẽ là của tôi đây?”
Cho nên chúng ta kìm việc suy nghĩ về sự sinh và tử, và điều này
tạo ra khả năng hiểu lầm lớn rằng tất cả những cái chúng ta thấy
trong cuộc sống là của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho bản
thân mình khám phá và xem xét điều ta thấy, chúng ta chắc chắn
phát hiện ra rằng nó không phải là của chúng ta.
Bạn nói, “Tôi đã rơi vào tình yêu với ai đó,” không xem xét
liệu chuyện tình đó có là quyết định của bạn hay không. Nghe
điều những người yêu nhau nói: “Chúng mình không biết khi nào
nó xảy ra. Chúng mình đã không làm cho nó xảy ra.” Thế thì làm
sao cái là của chúng ta nhưng đã xảy ra theo ý riêng của nó
được? Nếu nó xảy ra, nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra, nó không
xảy ra.
Chúng ta bị phụ thuộc thế, bị điều chỉnh thế, dường như đâu
đó mọi thứ bị cố định và tất định. Hoàn cảnh của chúng ta là
tương tự như hoàn cảnh của một con vật bị buộc vào cọc qua
chiếc dây thừng. Con vật sẽ đi vòng tròn quanh chiếc cọc và sẽ
sống trong việc hiểu sai rằng nó đang tự do vì nó đang tự do đi
vòng tròn. Nó sẽ quên mất chiếc dây thừng, vì việc nhớ tới điều
đó là đau đớn; chiếc dây thừng buộc vào cọc làm cho chúng ta
đau đớn vì nó nhắc nhở chúng ta về sự phụ thuộc của mình. Chân
lí là ở chỗ nó bảo chúng ta rằng chúng ta không là cái ta thực của
mình.

Chúng ta không đáng để bị phụ thuộc, ta hãy một mình xem
xét vấn đề trở nên tự do. Phụ thuộc vào người ta - tức là cảm thấy
sự dày vò của chiếc dây thừng - là cần thiết để nhận biết về bản
thể người ta; và nhận biết rằng chúng ta không có đó. Con vật đi
lang thang quanh chiếc cọc cố định, lúc sang trái, lúc sang phải
và nghĩ, “Tôi tự do,” và khi nó nghĩ, “Tôi tự do”, cái “tôi’ có đấy.
Thế rồi, dần dần, nó phải bắt đầu tự thuyết phục mình rằng, “Đấy
cũng là do ý muốn của tôi mà tôi bị buộc vào cột. Tôi có thể cắt
dây ra bất kì khi nào tôi muốn, nhưng tôi đang nghĩ về hạnh phúc
của mình.”
Chúng ta tạo ra biết bao nhiêu ảo tưởng trong các kiếp sống
của mình. Chúng ta nói, “Tôi trở nên giận dữ, tôi làm tình, tôi
không thích, tôi ghét, tôi làm bạn, tôi trở thành kẻ thù...” nhưng
không điều nào trong những việc làm này là quyết định của
chúng ta. Bạn đã bao giờ trở nên giận dữ và là người làm ra giận
dữ đó không? Bạn chưa bao giờ làm như vậy cả. Khi có giận dữ,
bạn không có đó. Bạn đã bao giờ làm tình mà việc làm tình do
bạn làm không? Nếu bạn có thể làm tình, thế thì bạn có thể làm
tình với bất kì ai; nhưng sự kiện là ở chỗ bạn có thể yêu ai đó và
bạn không thể yêu người nào đó khác. Bạn có thể làm tình với ai
đó thậm chí khi bạn không muốn làm, và bạn không thể làm tình
với ai đó thậm chí khi bạn muốn làm như vậy.

Tất cả mọi cảm giác và xúc động của cuộc đời đều đến từ
một góc không biết nào đó - chúng tới như việc sinh của bạn tới.
Bạn xâm lấn bừa vào việc xảy ra này và trở thành người chủ,
người làm ra nó. Vậy mà bạn đã làm cái gì? Cái gì có đó do bạn
làm ra? Cảm giác đói đến; giấc ngủ đến; buổi sáng việc thức kéo
đến; và buổi tối mắt bạn bắt đầu nhắm lại lần nữa. Tuổi thơ đến.
Khi nào nó đi qua? Nó trôi qua như thế nào? Nó không hỏi chúng
ta, nó không đi vào tư vấn và thảo luận với chúng ta, và nó không
chậm trễ trong việc trôi qua một khoảnh khắc, ngay cả liệu chúng
ta có yêu cầu nó làm như vậy hay không. Thế rồi tuổi thanh xuân
trôi qua, và tuổi già bước vào. Bạn đang ở đâu? - nhưng bạn cứ
nói, “Tôi là thanh niên, tôi là người già,” cứ như tuổi thanh niên phụ thuộc vào
bạn. Tuổi thanh niên của bạn có hoa riêng của nó.
Tuổi già có hoa riêng của nó nữa; và chúng nở như hoa nở trên
cây. Bụi hồng không thể nói, “Tôi làm cho hoa hồng nở.” Nó chỉ
có thể nói như thế nếu nó có khả năng làm cho hoa hướng dương
nở!

Đừng tính công trạng nào về mọi điều xảy ra này. Nếu có
hồn nhiên trong tuổi thơ, nó có đó mà không có nỗ lực nào về
phần bạn. Và khi dục và những ham muốn khác bắt giữ bạn trong
tuổi thanh niên, chúng làm như vậy hệt như hồn nhiên bắt giữ
bạn trong tuổi thơ. Bạn không là người chủ của hồn nhiên tuổi
thơ của mình, không là người chủ của ham muốn dục của tuổi
thanh niên của bạn, và đừng coi nó là thành tựu của bạn khi tâm
trí bạn bắt đầu nghiêng về phía vô dục trong tuổi già. Nó giống
như thế này: dục bắt giữ bạn trong tuổi thanh niên, và dửng dưng
bắt giữ bạn trong tuổi già. Những người chưa bao giờ là nô lệ cho
dục không có kiểm soát gì trên sự kiện đó. Cho nên bản thân
đừng tự hào về sự kiện là bạn không phải là nô lệ cho dục.
Xem xét mọi nguyên tử nhỏ bé của cuộc sống và bạn sẽ nhận
ra rằng không có chỗ đứng cho cái tôi - bản ngã. Thế thì tại sao
chúng ta đang tạo ra ảo tưởng này? Nó xảy đến như thế nào? Lừa
dối này đến từ đâu? Nó tới bởi vì chúng ta bao giờ cũng cảm thấy
rằng có một phương án. Chẳng hạn, bạn xúc phạm tôi. Bây giờ
tôi có hai phương án: tôi có thể xúc phạm trả lại bạn; hay tôi có
thể bỏ qua nó, cho rằng việc xúc phạm là không có đó chút nào.
Tức là, tôi có thể chọn đáp lại nếu tôi muốn, và nếu tôi không
muốn, tôi có thể chọn không đáp lại. Nhưng thực có phương án
nào không? Bạn có cho rằng người đáp lại xúc phạm cũng có thể
đã chọn không xúc phạm, nếu người đó muốn không? Bạn sẽ nói:
Nếu người đó không muốn làm như vậy, người đó không cần
phải đáp lại xúc phạm ấy. Nhưng bạn sẽ phải đi sâu thêm chút ít
để hiểu điều này. Phải chăng ham muốn đã có trong người đó,
hay người đó đem nó ra từ đâu đó? Phải chăng ham muốn xúc
phạm hay không xúc phạm nằm dưới kiểm soát của người đó?
Những người tìm kiếm bên trong nói rằng điều mà các chiều
sâu lộ ra chỉ là ở chỗ những việc xảy ra đi ra ngoài kiểm soát của
chúng ta. Người nghĩ tới xúc phạm, và người đó xúc phạm.
Người khác quyết định không xúc phạm, và người đó không xúc
phạm. Nhưng từ đâu ý tưởng này về việc đưa ra hay không đưa
ra xúc phạm lại tới? Nó có phải là ý tưởng của bạn không?
Không, nó tới từ nơi việc sinh tới. Nó tới từ nơi tình yêu hiện
hữu. Nó tới từ nơi tâm thức hiện hữu. Nó trở về từ nơi cái chết
hiện hữu. Nó được hấp thu nơi hơi thở đi qua.
Dễ dàng tự lừa dối mình bằng việc nói, “Đây là tay tôi, nó
đang dưới sự kiểm soát của tôi. Nếu tôi muốn, tôi sẽ không xúc
phạm.” Nhưng ai đã bảo bạn, ai đã yêu cầu bạn, xúc phạm?
Người như Phật và Mahavira sẽ không đưa ra xúc phạm. Bạn có
cho rằng họ đơn giản chọn việc cảm thấy xúc phạm không?
Không; cũng như bạn kinh nghiệm một tình huống cố định và
không tránh khỏi trong việc phải xúc phạm, Phật và Mahavira
cũng kinh nghiệm một tình huống không thay đổi được tương tự
về không cảm thấy xúc phạm. Họ không thể chọn, cho dù họ
muốn, để cảm thấy xúc phạm. Bản thân ham muốn đó không
được tạo ra.

Một người tới gặp một thiền sư vào sáng sớm và bắt đầu hỏi
thiền sư tại sao ông ấy là bình thản và yên tĩnh thế, trong khi bản
thân người đó khuấy động và rối loạn thế. Thiền sư trả lời, “Ta
bình thản và ông khuấy động, có vậy thôi. Vấn đề qua rồi. Không
cái gì cần nói thêm .”
Người này cứ nài nỉ, “Không tôi muốn biết làm sao thầy trở
nên bình thản thế.”
Thiền sư trả lời, “Ta muốn biết làm sao ông trở nên khuấy
động thế.”
Người này trả lời, “Khuấy động đến theo ý của nó chứ.”
Thiền sư nói, “Điều đó đích xác đã xảy ra với ta. Bình thản
tới với ta theo ý riêng của nó, và ta không tính công nào cho nó.
Khi khuấy động tới, nó tới. Ta không thể làm gì để dừng nó lại,
và bây giờ, khi bình thản tới với ta, ta không thể làm bất kì điều
gì để đem khuấy động tới dù ta muốn đem nó tới, cho nên ta bị
giới hạn bởi tình huống.”
Người này nói, “Không, xin thầy chỉ cho tôi cách bình thản
và yên tĩnh.”
Thế là thiền sư nói, “Ta chỉ biết có một cách, và đó là thế
này: vứt bỏ ảo tưởng của ông rằng ông có khả năng làm bất kì
cái gì về nó. Nếu ông trở nên bị khuấy động, vẫn còn bị khuấy
động. Biết rằng ông đang bị rối loạn và rằng ông không thể làm
được gì về nó. Nó ở ngoài kiểm soát của ông. Đừng làm nỗ lực
để bình thản. Ngay cả những người làm nỗ lực để bình thản đều
trở nên bị khuấy động và rối loạn. Họ trở nên bị khuấy động, và
trong nỗ lực của họ để trở nên bình thản họ tạo ra sự không thoải
mái mới trong bản thân mình.”
Nhưng người này khăng khăng, “Lời khuyên của thầy không
định được tâm tôi; tôi muốn bình thản.”
Thiền sư nói, “Thế thì ông nhất định vẫn còn bị khuấy động
bởi vì ông muốn cái gì đó. Ông từ chối để vấn đề này cho
Thượng đế, trong khi sự kiện là ở chỗ mọi thứ đều phụ thuộc vào
ngài; không cái gì ở trong điều khiển của ông. Ta trở nên bình
thản từ ngày ta bắt đầu sẵn lòng chấp nhận bất kì cái gì xảy ra,
bất kì cái gì đến với ta. Ta có thể không bình thản khi ta ham
muốn và cố trở thành cái gì đó.”
Nhưng người này không chấp nhận điều thiền sư đã nói,
“Tôi ghen tị với bình thản của thầy,” người đó nói. “Tôi không
thể vẫn còn thoả mãn với giải thích của thầy.”
Thế là thiền sư yêu cầu người đó đợi và đặt câu hỏi cho
người đó khi không có ai trong lều của mình, vì ông ấy có nhiều
khách thăm. Người này đồng ý, và khi không còn ai trong lều
người đó yêu cầu thầy chỉ cho người đó cách thức. Thế rồi thầy,
đưa ngón tay lên môi anh ta, nói, “Tĩnh lặng.”
Người này thấy rất phân vân. Người đó nói, “Khi có người ở
đây và tôi xin thầy trả lời, thầy bảo tôi hỏi khi không có ai ở đây;
và khi không có ai ở đây và tôi hỏi thầy câu trả lời thầy bảo tôi
giữ tĩnh lặng. Làm sao vấn đề của tôi sẽ được giải quyết?”
Trời tối, mặt trời đã lặn, và mọi người đã đi hết. Túp lều
trống rỗng, và người này lại tìm câu trả lời. Thiền sư yêu cầu
người đó đi ra ngoài. Trăng tròn toả sáng. Thiền sư hỏi, “Ông có
thấy những cây này không?” Nhưng cây nhỏ đang mọc ở phía
trước túp lều.

Người này đáp, “Tôi thấy chúng.”
Lần nữa thầy hỏi, “Ông có thấy những cây xa xa kia không,
vươn cao lên trời ấy?”
Người này nói, “Tôi thấy chúng.”
Thế rồi thiền sư nói, “Những cây kia to cao. Những cây này
nhỏ thấp. Không có xung đột gì giữa chúng. Ta chưa bao giờ
nghe nói tới bất kì tranh cãi nào giữa chúng về vấn đề này.
Những cây nhỏ này không bao giờ hỏi những cây cao tại sao
chúng cao; chúng thoả mãn với cái nhỏ bé của chúng. Cây cao
cũng không bao giờ hỏi những cây nhỏ tại sao chúng nhỏ. Cây
cao có khó khăn riêng của chúng, như chúng phát hiện ra khi có
bão. Cây nhỏ cũng có vấn đề của chúng nữa, nhưng chúng bằng lòng với cái nhỏ bé
của mình, cũng như cây cao bằng lòng với
cái cao của mình. Ta chưa từng nghe nói gì về tranh cãi giữa hai
loại cây này; ta bao giờ cũng thấy chúng tĩnh lặng. Cho nên xin
rời khỏi ta. Ta là cái ta đang vậy, và ông là cái ông đang vậy.”
Nhưng làm sao người đó thoả mãn được với ví von đó? Và
làm sao chúng ta được thuyết phục? Tâm trí bao giờ cũng ham
muốn là cái gì đó. Tại sao nó hành xử như vậy? Đấy là vì chúng
ta bao giờ cũng coi là đương nhiên chúng ta có thể làm điều gì
đó. “Không,” Ishavasya nói, “bạn không thể làm được điều gì cả.
Bạn không thể là người làm.” Điều này là bí mật của một ý tưởng
lớn được gọi là định mệnh. Định mệnh không có nghĩa là bạn
không nên làm gì. Điều đó sẽ là ngồi tĩnh lặng - và định mệnh nói
rằng bạn thậm chí không thể ngồi theo ý chí riêng của mình. Nếu
định mệnh đặt bạn ngồi, chỉ thế thì bạn có thể ngồi. Định mệnh
làm cho việc “tôi sẽ không làm gì cả” trở thành không thể được
đối với bạn. Nếu định mệnh muốn bất kì việc không làm nào, thế
thì việc không làm sẽ xảy ra.

Xin nhớ trong tâm trí, không có một người theo thuyết định
mệnh nào trong số những người dường như theo định mệnh. Họ
nói, “Mọi thứ đều trong tay của định mệnh. Chúng ta có thể làm
được gì nào? Cho nên chúng ta không làm gì.” Chính sự tồn tại
của ý tưởng là chúng ta không làm gì cả có nghĩa là cảm giác về
việc làm vẫn còn hiện hữu. Khái niệm về định mệnh toàn bộ có
nghĩa là chúng ta không có. Không có cách nào để làm bất kì cái
gì. Nó là sự tồn tại.

Khi chúng ta không thể làm được bất kì cái gì, khi chúng ta
không thể là người làm, thế thì liệu sẽ có 'cái của tôi', cái gì của
tôi không? Chúng ta sẽ nói, “Nó là của tôi” cho ai? Chúng ta có
thể nói, “Đây là con tôi” không? Trông có vẻ như vậy, vì dường
như là, “Tôi đã cho nó sinh thành.” Ảo tưởng như thế xảy ra mặc
dầu không ai đã bao giờ cho ra đời bất kì đứa con nào. Con được
sinh ra, chúng tìm đường của chúng qua bạn. Bạn bắt đầu yêu
một người đàn bà. Tình yêu đó không đến từ bạn, tình yêu tìm
đường của nó qua bạn. Ham muốn dục, tình yêu, khao khát của
thân thể bạn để gặp lẫn nhau - khao khát đó không phải là của
bạn. Nó bị giấu kín trong từng hạt của thân thể bạn, trong từng
sợi lông nhỏ bé nhất trên thân thể bạn. Nó được nén vào trong
từng hạt và nó chèn ép bạn, nó thôi thúc bạn. Cuối cùng, đứa trẻ
được thụ thai, ai đó trở thành mẹ và ai đó trở thành bố của nó. Có
vẻ là họ đã mang đứa trẻ vào hiện hữu. Số phận cười bạn! Nó
cười khoái trá vào bạn. Bạn đã bị làm thành công cụ của việc
sinh: bạn đã không cho nó. Bạn chỉ là bước chuyển. Người mẹ
chỉ là bước chuyển cho cuộc hành trình của ai đó đi vào cuộc
sống. Qua cô ấy, định mệnh cho việc sinh. Bạn đã không làm gì .
Bạn xây ra một toà nhà và nói, “Nó là của tôi.” Nhưng bạn
có quan sát chim cũng làm tổ cho chúng không? Trên thế giới
này ngay cả con vật nhỏ nhất cũng xây dựng chỗ trú ẩn của nó.
Có những loài chim mà mẹ của chúng bay đi sau khi đẻ trứng.
Khi trứng nở, chim con bước ra. Chúng không nhận huấn luyện
của mẹ không có bảo vệ của bố, chúng không tới trường. Và
phép màu là ở chỗ những con chim đó làm tổ đích xác như mẹ
chúng làm, bà chúng làm trước chúng. Tổ ấy không phải là tổ
bình thường; nó bao gồm kĩ năng kiến trúc lớn lao. Nó đẹp đến
mức nếu con người muốn làm một cái tổ như thế thì người đó sẽ
phải học cách làm nó, và ngay cả sau khi học, vẫn khó cho người
đó để xây dựng nó một cách khéo léo đến thế.

Tổ như thế được làm như thế nào? Các nhà khoa học gọi đấy
là chương trình định sẵn. Họ nói có một chương trình định sẵn
trong từng tế bào nhỏ của thân thể con chim. Toàn bộ quá trình
xây dựng tổ được giấu kín trong xương, thịt và mô của chim.
Điều con chim này có thể làm tổ của mình là điều chắc chắn. Nó
sẽ tìm ra đích xác loại cỏ và lá mà mẹ nó đã tìm. Không ai dạy nó; chim mẹ thậm
chí không nhìn tới chim con, và chim con đã
không tới trường. Vậy mà nó sẽ nhặt những cái lá đó và những
cọng cỏ đó và làm nên cái tổ hệt như trước đây mẹ nó và bà nó
làm. Con người cũng xây dựng; mọi loài sinh vật đều xây dựng.
Không có lí do gì để nói, “Nó là của tôi” - tuyệt đối không lí do
nào.

Chúng ta có thể nói về cái gì qua “Nó là của tôi”? Chúng ta
có thể làm đòi hỏi như vậy về của cải không? Mọi con vật đều
tích trữ: chúng làm như thế theo nhiều cách khác nhau, và con
người chắc chắn không phải là kẻ thông minh nhất về điều đó.
Có những con vật khéo léo vượt xa hơn con người trong nghệ
thuật tích trữ. Tại Siberia có gấu trắng: tuyết khắp sáu tháng
trong năm, và con người có khó khăn sống sót trong sáu tháng
đó, nhưng gấu tự bảo vệ nó. Phương pháp tích luỹ của nó thật kì
diệu. Nó không thu thập các thứ, nó thu thập mỡ - đủ để kéo dài
trong sáu tháng. Nó chỉ cứ tích trữ thật nhiều mỡ trong thân thể.
Nó cất giữ nhiều mỡ trong thân thể đến mức nó có thể sống nhờ
số mỡ đó trong sáu tháng này mà trong lúc đó nó ngủ dưới tuyết.
Kho báu của bạn không ở sâu như thế bên trong bạn. Kẻ cắp
có thể đánh cắp nó từ bạn; và để hữu dụng cho bạn, của cải của
bạn phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh. Bạn có thể có của cải, nhưng
nó sẽ không dùng gì được cho bạn nếu thị trường chứng khoán
sụp đổ. Con gấu trắng kia thông minh hơn bạn. Nó tích trữ thức
ăn của mình ngay bên trong người nó, và bởi vì - nằm dưới tấm
chăn tuyết nặng nề - thật bất tiện cho con gấu để nhai, nuốt và
tiêu hoá rồi tạo ra thịt và mô mới, nó cất giữ thức ăn của nó dưới
dạng mỡ mà có thể hấp thu một cách an bình.

Cả thế giới tích trữ. Đừng nghĩ rằng chỉ có bạn làm như thế.
Nó là quá trình tự nhiên. Khi người mẹ cho con bú vú, tự hào cô
ấy cảm thấy là vô căn cứ nào. Không sớm hơn khi đứa con được
sinh ra là vú mẹ bắt đầu đầy sữa, thân thể cô ấy bắt đầu tạo ra
sữa. Nếu đứa trẻ không chịu bú, người mẹ sẽ khó khăn và cảm
thấy rất khó chịu. Chính phúc lành là đứa trẻ bú sữa. Người mẹ
không chủ định chuẩn bị sữa. Việc sinh ra đứa con là một quá
trình tự phát, và như một phần của quá trình này, sữa được tạo ra
trong người mẹ. Khi đứa trẻ lớn lên, dòng dữa mẹ bắt đầu giảm
đi, và khi nhu cầu của nó hết, sữa biến mất.

Tất cả những việc xảy ra này là tự nhiên. Ham muốn tích luỹ
là tự nhiên. Đó là lí do tại sao lời kinh này của Ishavasya nói,
“Prakriti” - Ishavasya gọi điều đó là Thượng đế: mọi thứ là của
Thượng đế. Tự nhiên, số phận, prakriti, tất cả đều là từ mang tính
máy móc; và ngài khổng lồ, tràn đầy bí ẩn, tràn đầy cuộc sống và
tâm thức đến mức ngài không thể có tính máy móc được.
Khoa học cũng xác nhận rằng tự nhiên làm mọi thứ, nhưng
khi chúng ta nói về Thượng đế theo ngôn ngữ của khoa học,
chúng ta trở nên đáng thương; chúng ta trở thành vô giá trị và
máy móc. Khi Ishavasya nói, “Thượng đế làm mọi thứ,” một mặt
bản ngã của chúng ta rơi xuống, và mặt khác chúng ta trở thành
Thượng đế. Điều này là quan trọng; nó đáng được hiểu. Khi khoa
học tiến triển, nó nhấn mạnh rằng con người phải vứt bỏ ảo
tưởng là tôi đang làm. Mọi thứ đều đang xảy ra. Nhưng việc nhấn
mạnh của khoa học là vào mọi thứ đang xảy ra một cách máy
móc. Mọi thứ đang xảy ra như trong một cái máy. Toàn bộ thế
giới hành xử một cách máy móc. Và khi mọi thứ đang xảy ra một
cách máy móc, vị trí con người là đáng thương. Bản ngã của con
người chắc chắn bị đập vỡ, nhưng không cái gì được lộ ra để cho
con người bất kì ý nghĩa hay giá trị nào.

Thật sự, lòng tự hào của con người, bản ngã của con người,
là một hiện tượng rất không có ý nghĩa và nhỏ mọn, hệt như ngọn
lửa cháy từ dầu trong một chiếc đèn đất nhỏ. Nó bị khoa học dập
tắt, và có bóng tối sâu xa bao quanh tất cả; nhưng không có mặt
trời mọc lên xảy ra ở chỗ đó. Đó là lí do tại sao lời tuyên bố của Ishavasya là có
giá trị hơn nhiều lời tuyên bố của khoa học. Một
mặt nó dập tắt ánh sáng cháy lờ mờ của bạn và vồ lấy bản ngã
nhỏ bé của bạn, bằng việc nói, “Tắt đi! Bạn không có, và sợ của
bạn là không cần thiết!” và mặt khác nó cho sinh thành một siêu
mặt trời. Trong một khoảnh khắc, từ một phía nó nói, “Bạn
không có,” và lập tức, từ phía bên kia, nó đặt cho bạn ở vị trí của
Thượng đế. Từ một mặt nó vồ lấy bạn và tẩy sạch bạn hoàn toàn,
và từ mặt khác nó tặng cho bạn cái toàn thể. Nó dập tắt ngọn đèn
đất của bản ngã, ngọn lửa lờ mờ nặng mùi, mùi dầu lửa đầy khói,
nhưng thay vào đó nó cho bạn ánh sáng rực rỡ, chói lọi của mặt
trời. Nó tẩy sạch cái tôi, bản ngã, nhưng đặt chúng ta ở cái ta cao
nhất - Thượng đế!

Đây là khác biệt giữa chiều hướng của tôn giáo và của khoa
học. Khoa học xác nhận cùng những sự kiện mà tôn giáo xác
nhận, nhưng nhấn mạnh của khoa học và vào máy móc. Tôn giáo,
trong khi thảo luận về cùng thứ, đặt nhấn mạnh vào tâm thức,
vào trí huệ, vào việc sống; và nhấn mạnh này là quan trọng. Nếu
khoa học phương Tây thành công, con người chung cuộc sẽ trở
thành cái máy; và nếu tôn giáo ở phương Đông thành công, con
người cuối cùng sẽ trở thành Thượng đế. Cả hai đều phá huỷ bản
ngã, nhưng khoa học làm giảm cấp con người trong quá trình
này.

Quãng trăm rưởi hay hai trăm năm trước đây, khoa học bắt
đầu tuyên bố lần đầu tiên rằng con người là loài vật bất lực. Khi
Darwin nói với loài người, “Quên rằng bạn đã được Thượng đế
tạo ra đi; bạn đã tiến hoá từ loài vật, từ loài thú,” bản ngã của con
người bị đập mạnh lần đầu tiên - với một cú bùm! Con người đã
từng tin rằng mình là con của Thượng đế, là sự sáng tạo của
Thượng đế, mặc dầu người đó không có bằng chứng nào về điều
đó. Thế rồi bất thần lại hoá ra là người bố không phải là Thượng
đế, mà là con vượn! Đấy hẳn phải là một cú sốc lớn lắm. Một cú
sụp đổ tan tành! Khoảnh khắc trước đã có Thượng đế, ngồi trên
ngai vàng cao nhất, và chúng ta là con của ngài, và khoảnh khắc
tiếp chúng ta được chứng minh là con cháu của khỉ. Điều này thật
rất đau đớn cho con người; nó tác động tới con người nhiều lắm.
Cho nên khoa học đã tuyên bố lần đầu tiên rằng con người nên
quên tất cả về việc là người và nên tự coi mình như con vật, con
thú đi. Tất cả mọi nỗ lực của con người để nuôi dưỡng bản ngã
của mình đều bị đập tan tành.

Nhưng một cuộc hành trình một khi đã bắt đầu, dù theo
chiều hướng nào, cũng không kết thúc trước khi nó được hoàn
tất; nó tìm kiếm cái kết thúc của nó. Thật khó để dừng lại ở mức
con vật. Ban đầu khoa học tuyên bố rằng con người là một loại
thú; thế rồi, sau khi nghiên cứu thêm về bản chất của loài vật,
khoa học thấy rằng con vật là máy.

Bạn quan sát con rùa bò. Bạn sẽ thấy rằng khi cái nhiệt tăng
lên, rùa bò vào bóng râm. Bạn sẽ nói nó bò đến đó bởi vì nó cảm
thấy nóng quá. Khoa học bác bỏ điều này. Khoa học chế tạo ra
rùa máy. Chúng được đặt dưới ánh mặt trời, và chúng cứ ở đấy
chừng nào mà nhiệt còn không lớn lắm; nhưng ngay khi nhiệt
tăng lên, chúng bắt đầu bò. Chúng bò vào trong bụi cây, chỗ
bóng râm. Những con rùa này chỉ là những thứ máy móc - điều gì
đã xảy ra cho chúng? Khoa học gọi nó là điều kiện tự cân bằng -
cách thức mà theo đó thông báo được đưa ra cho bất kì thay đổi
có ý nghĩa nào về nhiệt độ. Không có tâm thức tham dự vào đó
chút nào. Bạn thấy bướm đêm bay vào ngọn lửa đèn. Nhà thơ mô
tả nó là một kẻ yêu đương mù quáng, điên cuồng với ngọn lửa, hi
sinh cả mạng sống của mình cho tình yêu của nó. Nhà khoa học
sẽ không chấp nhận điều này; với ông ta không cái gì giống như
tính điên khùng trong sự kiện này. Tất cả chỉ là máy móc. Ngay
khi con bướm nhìn thấy ngọn lửa thì cánh của nó bắt đầu nghiêng
về ngọn lửa. Họ tạo ra các con bướm máy, và để chúng bừa bãi
trong bóng tối. Thế rồi họ bật đèn lên, và lập tức các con bướm
này xô về cái đèn.

Cho nên khoa học đã xác minh rằng các con vật đều là máy;
và kết luận cuối cùng về chúng là đáng ngạc nhiên. Trước hết các
nhà khoa học đã xác minh rằng con người bị hạ xuống loài vật;
rồi họ xác minh rằng con vật giống như máy: phán xét cuối cùng
của họ là ở chỗ con người là máy. Một cách tự nhiên, có chân lí
nào đó trong biện luận này. Điều tốt là họ đã đập tan bản ngã của
con người, nhưng khi làm như vậy, họ thu con người về trạng
thái của cái máy - con người thoái hoá thành cái máy. Với con
người việc nghĩ theo cách này là nguy hiểm, và đã chứng tỏ là có
hại. Những người như Stalin và Hitler có thể đẩy hàng triệu
người vào chỗ chết bởi vì họ coi con người như cái máy và do
vậy trái tim của họ không xúc động bởi việc tàn sát.
Bây giờ xét tình huống đáng quan tâm này. Krishna đã nói
trong Gita rằng linh hồn con người là bất tử, nó không chết, cho
nên giết kẻ thù của bạn không tạo ra khác biệt gì. Stalin cũng có
thể nói rằng vì con người là máy, không linh hồn, nên cũng
không hại gì trong việc giết anh ta. Khi Krishna nói với Arjuna
rằng linh hồn là bất tử và sẽ không chết dù bạn cố gắng đến đâu,
tác động lên Arjuna là ở chỗ người đó trở nên dịu đi khi giết kẻ
thù của mình. Nhưng kết quả của hai hành động này hoàn toàn
khác nhau. Khi tính bất tử của linh hồn được chấp nhận, câu hỏi
về cái chết trở thành vô nghĩa. Stalin hài lòng đẩy hàng triệu
người vào cái chết; nhưng với ông ấy thì không có cái gì như linh
hồn chút nào, không cái gì sai được thực hiện vì con người chỉ là
cái máy.

Có thể không có phản đối việc phá huỷ cái máy. Nếu bạn
đập cái máy bằng chiếc gậy, ngay cả người bất bạo hành cũng
không thể buộc tội gì bạn về việc phạm bạo hành. Bên ngoài, kết
quả dường như tương tự, nhưng chúng không như nhau, vì ý
nghĩa thực sự của những kết quả này là rất khác và thay đổi toàn
bộ nghĩa trong mỗi trường hợp. Khoa học cho rằng tự nhiên làm
mọi việc. Khoa học không chỉ đập tan bản ngã con người, mà còn
làm thoái hoá con người; khi tôn giáo đập tan bản ngã con người,
nó nâng con người lên một mức cao hơn và đưa tiễn con người
trên cuộc hành trình đi lên.

Lời kinh này nói bản ngã bạn sẽ biến mất nếu bạn dừng việc
gọi mọi thứ là của bạn. Coi nó tất cả đều là của sự tồn tại đi.
Đừng nuôi dưỡng ham muốn về của cải của bất kì ai. Sau rốt, tại
sao? Khi không còn cái gì là của tôi, thế thì cũng không có cái gì
là của bạn. Cẩn thận, bởi vì lời kinh này, “Đừng thèm muốn;
đừng ham muốn giầu có của người khác,” đã bị hiểu sai nhiều
lắm: nó đã bị diễn giải không đúng đến mức người ta có thể trở
nên bị lúng túng sâu sắc.

Phần lớn những người bình luận đã giải thích nó là: “Ham
muốn của cải của người khác là tội lỗi, cho nên đừng nuôi dưỡng
ham muốn như thế.” Nhưng họ có vẻ ngu, vì phần đầu của lời
kinh nói rằng của cải không thuộc vào ai cả; nó là của sự tồn tại.
Phần thứ nhất của lời kinh này nói, “Khi nó không phải là của
tôi, làm sao nó có thể là của bạn được?”
Không. Không, nghĩa đúng đắn của nó là thế này - rằng bạn
không nên ước ao của cải của người khác bởi vì của cải không
phải là của tôi cũng không phải là của bạn. Cơ hội cho ham muốn
tồn tại chỉ khi, vì nó có thể là của bạn, nó cũng có thể là của tôi;
bằng không ham muốn không có nền tảng nào để đứng . Các
chuyên gia trong khoa học về luân lí đã giải thích điều ấy như có
nghĩa là ngay cả việc nghĩ đến của cải của người khác cũng là tội
lỗi; nhưng vì nó không thể là của tôi thì làm sao nó có thể là của
người khác được?

Không chuyên gia về đạo đức nào có thể nắm được nghĩa
thực của lời kinh này. Nó là tinh tế và sâu sắc. Nhà đạo đức học
lo lắng khi thấy rằng không ai ăn cắp tài sản của người khác; khi
không ai coi là của mình cái thuộc về người khác. Nhưng nhấn
mạnh của ông ta vào tài sản của người khác chỉ là mặt trái của nhấn mạnh cuả ông
ta vào cái của riêng ông ta. Nhớ lấy, người
nói, “Đây là của bạn,” chưa thoát khỏi khái niệm, “Đây là của
tôi,” vì hai khái niệm này là hai mặt khác nhau của cùng một
đồng tiền. Chừng nào cảm giác này vẫn cứ còn, “Toà nhà này là
của tôi,” phần tương ứng của nó, “Toà nhà này là của bạn,” sẽ
vẫn tiếp tục: và khi cảm giác về toà nhà ‘của tôi’ biến mất, làm
sao cảm giác tương ứng về toà nhà ‘của bạn’ còn lại được?
Không ao ước tới của cải hay tài sản của người khác không có
nghĩa là tài sản thuộc về người khác, cho nên ham muốn nó là tội
lỗi; nghĩa thực của nó là ở chỗ tài sản và của cải không thuộc vào
ai cả - của cải thuộc vào một mình sự tồn tại: chính bởi vì điều
này mà việc ham muốn là tội lỗi. Đừng coi cái gì là của tôi hay
của bạn, đừng xem bản thân mình là người chủ, và đừng cố đánh
cắp từ người khác - vì đó là coi cái gì đó như của anh ta. Chúng
ta không thể đánh cắp mà cũng không thể giữ được cái gì. Tất cả
nó đều là của sự tồn tại, và cái là của sự tồn tại chúng ta không
thể thu được cũng không tích trữ được.

Ý tưởng sở hữu nhộn làm sao! Tôi đặt một tấm biển lên một
mảnh đất nói rằng nó là của tôi. Mảnh đất đó đã có ở đó từ trước
khi tôi được sinh ra. Nhìn vào hành động này của tôi, mảnh đất
đó phải cười phá lên, vì nhiều người trước tôi cũng đã từng dựng
lên những tấm biển như thế mà nói nó là ‘của tôi’ - và mảnh đất
chôn vùi tất cả họ. Họ được chôn vùi nơi bạn đang ngồi bây giờ
đây! Có ít nhất là mười nấm mồ ở chỗ mỗi chúng ta đang ngồi.
Khó mà còn tấc đất nào trên mảnh đất này mà có thể không chứa
mồ của mười người. Biết bao nhiêu người đã được sinh ra và đã
chết đi trên thế giới này mà có thể ít nhất mười người đã được
chôn vùi dưới từng tấc đất. Mảnh đất đó biết hoàn toàn rõ rằng
người yêu sách khác đó cũng đã dựng lên những tấm biển như
thế trên nó. Nhưng không cái gì dừng con người lại; như người
đó vậy, người đó sẽ vẫn cứ cắm biển của mình lên, và người đó
không muốn thấy rằng người đó đang thêm tên mình vào một cái
biển cũ, được sơn vẽ đè lên. Người đó không muốn thấy rằng ai
đó khác sẽ phải nhận cùng rắc rối ngày mai. Thực ra, tất cả
những công sức này không là gì cả. Mảnh đất đó phải cười to!
Cho nên đừng ước ao của cải của người khác, vì nó không
thuộc vào người nào. Tôi không đơn giản ngụ ý rằng việc chiếm
của cải của người khác là có tội với cách xem xét làm cho nó
thành của bạn. Điều là tội lỗi ở ngay chỗ đầu tiên khi xét nó là
của người đó hay của bạn. Nó là tội lỗi khi coi nó là của bất kì ai.
Nó chắc chắn là tội lỗi nếu lấy cớ quyền sở hữu của bất kì ai trừ
của sự tồn tại. Nếu bạn có thể hiểu cách diễn giải này, thế thì và
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu thấu nghĩa sâu xa và tinh tế
của Ishavasya. Bằng không nghĩa rõ ràng của những lời kinh này
là ở chỗ mỗi người phải sở hữu vững chắc của cải của riêng mình
và, để bảo vệ quyền lợi của riêng mình, phải quảng bá đi mọi
phương rằng không ai được ước ao của cải của người khác.
Đây là lí do tại sao Marx và những người khác theo cách
nghĩ của ông ấy đã không sai khi họ cảm thấy rằng mọi tôn giáo
đều đưa ra bảo vệ cho người giầu có, phong lưu, bởi vì những
diễn giải của lời kinh này đã bị sai lạc và không đúng. Từ những
giải thích này dường như là bạn không nên cố gắng chiếm lấy
của người khác những cái mà người đó là chủ sở hữu. Điều này
rõ ràng xác định ra rằng người chủ có thể nhận được sự giúp đỡ
của cảnh sát để bảo vệ của cải của mình. Cho nên ý định của nó
là để duy trì luật pháp và trật tự, nguyên trạng và ý tưởng về
quyền sở hữu. Nhưng lời kinh này không dự định điều này; chính
lời tuyên bố đầu tiên của Ishavasya là ở chỗ mọi thứ đều thuộc về
sự tồn tại. Một mình sự tồn tại là người chủ. Cả tôi lẫn bạn không
là người chủ, và ý tưởng của chúng ta về quyền sở hữu là ảo
tưởng. Một mình nó là người chủ, người chưa bao giờ tuyên bố,
“Ta là người chủ.” Nó tuyên bố trước ai? Với ai mà nó nói, “Đất
này là của ta?” Để nói như thế ít nhất cần phải có người khác - và
tất cả đều là của sự tồn tại!

Nhớ lấy điều này khi bạn ghi tên mình lên một mảnh đất.
Bạn làm như thế là để cho người khác, để cho người đó có thể
biết rằng đấy là của bạn. Bạn không đặt tấm biển trong rừng rậm.
Và giả sử bạn sống một mình trên trái đất này, tôi cho là bạn
không điên khùng đến mức phải đi dựng biển ở các chỗ khác
nhau. Nếu bạn là người duy nhất sống trên trái đất này, toàn bộ
đất đai là của bạn. Không còn mục đích chút nào trong việc bận
tâm nói như vậy.

Sự tồn tại không đưa ra những công bố như thế vì nó là
người chủ. Tâm niệm điều này nữa; nó là một nghĩa nữa được
hàm chứa trong lời kinh này của Ishavasya: những người đưa ra
lời công bố này không thể là người chủ. Không cần người chủ
phải công bố. Người chủ là người chủ, mặc dầu không có công
bố nào. Chỉ người hầu đưa ra công bố. Nếu một người đưa ra
một đòi hỏi mạnh mẽ về cái gì đó, điều ấy có thể tạo ra một hoài
nghi mạnh tương đương trong tâm trí của người nghe. Khi một ai
đó tuyên bố mãnh liệt rằng của cải là của mình, thế thì đương
nhiên điều đó không thể là của người đó được. Tại sao đòi hỏi
này được đưa ra hùng hồn thế? Chúng ta bao giờ cũng lớn tiếng
trình bầy đòi hỏi về một vật để chứng tỏ rằng nó là của chúng ta
khi thực ra nó không vậy.

Sự tồn tại không đưa ra lời công bố nào. Nó phải làm như
vậy cho ai? Tại sao nó phải công bố? Lời tuyên bố sẽ là vô nghĩa.
Lời tuyên bố, ngược lại, sẽ chứng tỏ rằng điều ấy không phải là
của nó. Tất cả những điều này đều thuộc về nó, kẻ chưa bao giờ
đưa ra lời đòi hỏi nào về nó. Nó không thuộc về bất kì ai đã từng
lên tiếng đòi hỏi về nó. Đừng ao ước của cải của người khác, vì
nó không thuộc vào ai cả - nó tất cả là của sự tồn tại. Đừng coi nó
là của bạn hay của người khác, coi nó là của sự tồn tại: và nhận
biết rằng người khác này, và cả bạn nữa, tất cả đều là của sự tồn
tại - tất cả chúng ta đều là của nó. Cho nên đánh cắp hay tống
tiền là vô dụng, vô nghĩa và không liên quan. Không có kĩ năng
hay nghệ thuật gì trong đó. Nó cũng gần như là lao động bị mất.
Nó là nỗ lực giống như vẽ đường trên nước.

Vẫn còn có một điểm nữa: tận hưởng chúng thông qua từ bỏ
chúng. Người ta nói rằng nếu bạn từ bỏ một vật, bạn có thể tận
hưởng điều đó. Nhưng không, điều đó không phải là tin của
chúng ta. Ngược lại, chúng ta tin rằng chúng ta có thể tận hưởng
chỉ cái chúng ta ôm giữ thật chặt. Nhưng hiền nhân này chỉ dẫn
chúng ta làm điều hoàn toàn ngược. Ông ấy nói rằng chỉ họ có
thể tận hưởng các thứ mà họ từ bỏ chúng. Phát biểu này rất đối
chọi với niềm tin của chúng ta. Chỉ những người từ chối làm
người chủ trở thành người chủ thật. Mọi thứ đều rơi vào trong tay
những người không ham muốn ôm giữ thứ gì.

Một ví von hay là cố giữ không khí trong tay bạn. Bạn có thể
lĩnh hội ý nghĩa thực của lời kinh này - từ bỏ để hưởng thú - nếu
bạn đơn giản cố gắng giữ không khí trong tay mình. Ngay khi
bạn nắm chặt nắm tay, không khí thoát ra ngoài hết. Bạn càng
siết chặt nắm tay bạn càng giữ ít không khí, cho đến cuối cùng
không còn lại không khí nào nữa. Để lỏng nắm tay và không khí
sẽ xô bàn tay để mở của bạn. Bao giờ cũng có không khí trong
bàn tay để mở, nhưng trong nắm tay chặt thì chúng trốn biệt. Một
người để tay mình mở ra bao giờ cũng có đầy không khí; nó
không bao giờ trống rỗng, mọi khoảnh khắc không khí đều tươi
mát. Bạn đã bao giờ quan sát điều này chưa? Bàn tay để mở
không bao giờ trống rỗng, và bàn tay nắm bao giờ cũng trống
rỗng; và nếu một chút ít không khí vẫn còn lại trong nắm tay, nó
là cũ rích và suy tàn. Riêng những người từ bỏ mới có khả năng
tận hưởng.

Trong thế giới này, trong cuộc sống này, con người nhận
được nhiều khi người đó sẵn sàng cho đi và buông bỏ. Đây là
ngược đời - nhưng mọi qui tắc của cuộc sống đều ngược đời.
Chúng không đối lập; chúng là ngược đời. Chỉ dường như chúng là đối lập. Người ao
ước được tôn vinh và kính trọng trên thế giới
này chắc chắn tìm thấy hổ thẹn và bất kính. Người ham muốn
được giầu có, nhưng khi người đó bắt đầu tích luỹ của cải, người
đó trở thành nghèo nàn và hèn hạ bên trong, khi người đó có vẻ
giầu có bên ngoài. Người nghĩ hay mơ về tính bất tử lo âu về sợ
chết cả hai mươi bốn tiếng một ngày. Cái chết không bao giờ tới
viếng thăm nhà của người luôn sẵn lòng đón chào nó: người sẵn
lòng gặp gỡ cái chết nếm những giọt cam lồ, trong khi người sợ
hãi cái chết chết đi từng giờ mỗi ngày. Người ấy chết đi mọi lúc
bởi vì người ấy không biết chút nào về cuộc sống là gì. Người
nói, “Ta sẽ trở thành người chủ,” sẽ sớm trở thành kẻ nô lệ; và
người nói, “Ta sẵn lòng là kẻ nô lệ,” sẽ là người chủ vô hạn.
Nhưng đấy là những phát biểu mâu thuẫn cho nên rất khó để hiểu
chúng, và khi chúng ta cố gắng diễn giải chúng, chúng ta làm
điều ấy theo cách để chúng ta được cứu giúp trong cái ngược đời
trong chúng - và do đó chúng ta bỏ lỡ vấn đề.

Do vậy mọi người đã hiểu nhầm những lời kinh này. “Tận
hưởng qua từ bỏ” đã đi tới ngụ ý là nếu bạn làm việc từ thiện,
bạn sẽ được thưởng ở cõi trời. Cho người ăn mày ngồi bên bờ
sông Hằng một vài xu và bạn sẽ được thưởng hàng nghìn lần
hơn. Không có cái gì khác trên thế giới này bị đối xử tệ bạc như
những lời kinh này, và tương tự, không ai bị đối xử bất công như
những hiền nhân này - bởi vì khó hiểu được họ theo đúng tinh
thần của họ. Thay vì vậy, chúng ta diễn giải họ theo cảnh quan
của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta hiểu lời kinh này: nếu bạn
đem cái gì đó đi làm việc từ thiện, bạn sẽ được lên cõi trời sau
khi chết. Nhưng chú ý: lời kinh này nói, “Người từ bỏ, nhận
được.” Nó không nói: “Người từ bỏ với quan điểm để nhận được,
sẽ nhận được.” Thực ra, người từ bỏ với quan điểm để nhận
được, là không từ bỏ, vì người đó chỉ tìm cách để nhận được
phần thưởng.

Người làm điều từ thiện ở đây trên thế giới này là để cho
người đó có thể nhận được phần thưởng trên cõi trời không từ bỏ
cái gì cả. Người đó đơn giản siết chặt nắm tay của mình cho
tương lai. Nếu được hiểu đúng, hành động của người đó không
chỉ là siết chặt nắm tay trên thế giới này, mà còn siết chặt nó cả
trong thế giới tiếp nữa. Người đó đang nói với người khác bằng
hành động của mình, “Hành động này là không quan trọng lắm ở
đây, nó hoàn toàn thông thường, nhưng nó rất quan trọng ở kia,
trong thế giới tiếp.” Nếu người đó hoàn toàn chắc chắn, nếu
người đó một trăm phần trăm chắc chắn rằng người đó sẽ được
thưởng trong thế giới tiếp vì hành động tốt của mình trên thế giới
này, thế thì người đó được chuẩn bị để làm việc đầu tư nào đó.
Người đó được chuẩn bị để chịu rủi ro một số tài sản của mình
nếu người đó được đảm bảo đầy đủ về phần thưởng của người đó
trong thế giới tiếp.

Không, người như vậy đã không hiểu thấu được nghĩa này
chút nào. Đấy không phải là điều lời kinh này đang nói. Nó đơn
giản nói, “Người từ bỏ, nhận được.” Nó không nói, “Từ bỏ để
cho bạn có thể nhận được trong tương lai.” Một người có con mắt
chỉ chăm chăm vào đầu nhận được cái gì đó không bao giờ có thể
nghĩ dưới dạng từ bỏ được. Khi người đó dường như là từ bỏ,
đấy không phải là từ bỏ mà là đầu tư. Người đó đơn giản thay
đổi vấn đề tài chính để thu được nhiều hơn. Nếu một người đầu
tư một triệu vào một nhà máy, đấy có thể được gọi là làm điều từ
thiện không? Chắc chắn không. Người đó đang đầu tư với ham
muốn để kiếm được một triệu rưởi. Rồi người đó có thể đầu tư
một triệu rưởi. Đấy là từ thiện chăng? Vậy là người đó cứ tiếp
tục, cứ đầu tư ngày một nhiều để cho người đó có thể có một cái
nắm chặt hơn vào tài sản của mình. Người đó muốn ngày càng
nhiều hơn. Người thực hành từ thiện với quan điểm để thu lại
được cái gì là không hiểu nghĩa của từ thiện.

Lời kinh này đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp rằng
người từ bỏ, tận hưởng. Nó không nói, “Từ bỏ nếu bạn muốn tận
hưởng.” Nó công bố rằng nếu bạn có thể từ bỏ, thế thì bạn có thể
tận hưởng; nhưng nếu bạn đang nuôi dưỡng ý tưởng về tận
hưởng, bạn có thể không bao giờ từ bỏ.

Đây là lời kinh tuyệt diệu. Nó tuyên bố ngay từ đầu rằng mọi
thứ là của sự tồn tại: điều này bao hàm việc từ bỏ. Cái gì còn lại
đó để sở hữu và nắm giữ đối với người đã hiểu rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại? Không cái gì còn lại để mà sở hữu. Từ bỏ là
đầy đủ - và người đã nhận ra điều này, người đã từ bỏ mọi thứ và
có bản ngã đã tan biến, là bản thân sự tồn tại; và việc trở thành sự
tồn tại là bắt đầu tận hưởng. Người đó được hội nhập vào trong
tận hưởng tối cao, được hấp thu vào trong phúc lạc tối cao.
Người đó bắt đầu kinh nghiệm tận hưởng tối cao đó từ khoảnh
khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Mọi hạt nhỏ bé nhất trong cuộc
sống người đó bắt đầu nhảy múa. Cái gì còn lại để được tận
hưởng đối với một người đã trở thành bản thân sự tồn tại? Người
đó bắt đầu tận hưởng mọi thứ. Mọi thứ! Bầu trời bao la, hoa nở,
mặt trời mọc, sao đêm, nụ cười và tiếng cười - tất cả đều trở
thành đối tượng phúc lạc của người đó. Tận hưởng tối cao đó bây
giờ tự nó trải rộng về mọi phía cho người đó. Người đó bây giờ
là người chủ và người sở hữu của không cái gì, nhưng theo mọi
chiều hướng đều có sự trải rộng của tận hưởng, và từ khắp xung
quanh, người đó uống nước cam lồ thiêng liêng.

Tôn giáo là tận hưởng. Khi tôi nói điều này - rằng tôn giáo là
tận hưởng - nhiều người trở nên bất ổn bởi vì khái niệm của họ
về tôn giáo là ở chỗ nó là từ bỏ. Nhớ trong tâm trí, người nghĩ tôn
giáo là từ bỏ sẽ phạm phải sai lầm về đầu tư. Vậy mà bản chất
của cuộc sống là từ bỏ. Cuộc sống là từ bỏ. Điều cực kì ngu xuẩn
là ôm giữ bất kì cái gì trong cuộc sống. Sai lầm lớn là nắm giữ
chặt; trong khi làm như vậy người ta mất đi cái mà người ta đáng
thu được. Trong khi nói rằng, “Đó là của tôi,” con người đánh
mất cái người đó đã là.

Mọi thứ rơi rụng đi theo ý của nó từ người đã nhận ra rằng
mọi thứ đều là của sự tồn tại. Thế thì không còn lại gì cho người
đó để từ bỏ. Nhớ lấy, hành động từ bỏ là không thể được với
người nói, “Đó là của tôi.” Nếu một người nói, “Tôi đang từ bỏ
điều này,” điều đó chứa niềm tin rằng vật ấy là của anh ta. Chân
lí là ở chỗ anh ta, người nói như vậy không thể từ bỏ được, vì các
khái niệm của người đó về của tôi và cái của tôi vẫn còn dai
dẳng. Người duy nhất có thể từ bỏ được là người có thể nói,
“Không cái gì là của tôi; tôi có thể từ bỏ cái gì?”
Trước khi từ bỏ cái gì đó, người ta phải có cái đó. Nếu tôi
nói, “Tôi cho bạn bầu trời,” bạn sẽ cười vào tôi và nói, “Trước
hết phải quyết định rằng bầu trời mà thầy đem cho đó là của thầy
đi đã.” Tương tự tôi có thể nói, “Tôi làm điều từ thiện cho bạn
hành tinh Sao Hoả đấy.” Điều này tương đương với điều vô
nghĩa; nó phải là của tôi trước khi tôi có thể làm điều từ thiện với
nó. Ảo tưởng về từ bỏ này xảy ra cho người đang ấp ủ các khái
niệm về cái của tôi. Không, từ bỏ không xảy ra chỉ bởi hành động
bỏ đi cái gì đó. Nó xảy ra chỉ trong việc nhận ra chân lí rằng mọi
thứ thuộc về sự tồn tại. Thế thì việc từ bỏ xảy ra - nó không phải
được thực hành.

Từ bỏ là kinh nghiệm, là việc nhận ra sự kiện rằng tất cả đều
là của sự tồn tại. Bây giờ không cái gì còn lại để được từ bỏ. Bây
giờ ngay cả bản thân bạn, người tranh đấu để từ bỏ, cũng không
được dự trữ lại. Bây giờ không còn lời đòi hỏi về bất kì cái gì có
thể quan niệm được về từ bỏ. Toàn bộ phúc lạc tới với người có
việc từ bỏ mang bản chất này. Tất cả cái tinh tuý, tất cả cái đẹp
đẽ, tất cả nước cam lồ của cuộc sống bây giờ là của người đó. Do
đó lời kinh này nói rằng người đó, người từ bỏ, đạt được mọi thứ.
Người đó, người làm trống rỗng bản thân mình, người buông xuôi ngay cả cái tôi
của mình, trở thành người chủ của tài sản vô
tận.

Đủ cho lời kinh này. Chúng ta sẽ nói thêm nữa vào tối nay.
Xin lưu ý tới một vài điều hướng dẫn về thiền sáng trước khi
chúng ta bắt đầu. Điểm thứ nhất là thế này: Bất kì cái gì tôi đã
nói tất cả đều là thiền. Để bàn tay mở và bạn sẽ được đầy không
khí. Khi bạn kinh nghiệm, khi bạn nhận ra, rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại, bạn sẽ xúc động với phúc lạc bên trong bạn.
Việc thiền này sẽ trong vòng bốn mươi phút. nhắm mắt và
bịt tai hoàn toàn để cho không ánh sáng, không âm thanh nào có
thể đi vào. Trong mười phút đầu thở sâu. Cố gắng hết mức, để
cho tất cả năng lượng của kundalini có thể được khuấy động. Nếu
thân thể bạn bắt đầu nhảy múa, nhún nhảy, quay vòng, cứ để nó
làm như vậy. Đừng lo lắng về nó chút nào. Trong mười phút tiếp,
với vui vẻ bên trong, thảnh thơi thân thể bạn đầy đủ. Thân thể
bạn sẽ muốn nhảy nhót, múa may, cười nói, la hét, kêu khóc, hát
hò. Cho phép nó làm bất kì cái gì nó muốn; hợp tác với nó hoàn
toàn và đầy đủ. Trong mười phút tiếp nữa, tiếp tục hợp tác với
thân thể bạn và đồng thời tự hỏi mình, “Ta là ai?” Cứ hỏi, “Ta là
ai?” cứ như là bạn đang tụng mật chú vậy. Làm điều này với sự
hài lòng, với vui vẻ. Thế rồi, trong bốn mươi phút, một số trong
các bạn sẽ muốn đứng dậy, một số sẽ muốn nằm ra, và số khác sẽ
muốn lăn tròn. Làm bất kì cái gì bạn thích! Cuối cùng, trong
mười phút cuối, vẫn còn im lặng, đợi việc đi vào sự tồn tại bên
trong. Giữ bản thân bạn thật hoàn toàn thảnh thơi và không có
kháng cự gì để cho nó có thể đi vào bạn. Bạn sẽ phải đợi cho điều
đó.

Trước khi chúng ta bắt đầu thực nghiệm của mình, đặt hai
tay lên nhau, và trước sự tồn tại trịnh trọng đưa ra lời nguyện.
Nhắm mắt, đặt hai tay lên nhau, nghĩ về sự tồn tại như nhân
chứng của bạn, và lặp lại lời nguyện này ba lần: “Trong sự hiện
diện của sự tồn tại, tôi nguyện rằng tôi sẽ cố gắng hết sức trong
thiền.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog