Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011

KHỦNG HOẢNG TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI VÀ CÔNG NGHỆ

KHỦNG HOẢNG TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI VÀ CÔNG NGHỆ

Nói chuyện tại Benares Hindu University năm 1969

Vì vậy điều gì cần thiết là, một thay đổi tổng thể, một thay đổi hoàn toàn, của toàn cấu trúc và bản chất của bộ não và cũng của cái trí, bởi vì sự khủng hoảng quá rộng lớn, quá phức tạp . . .có lẽ, sau khi tôi nói chuyện một chút xíu, bạn sẽ có đủ chú ý để đặt ra những câu hỏi,
và vẫn vậy chúng ta sẽ có thể chuyển tải lẫn nhau một cách tự do hơn.


Tôi nghĩ hầu hết mọi người phải rất rõ ràng rằng bạo lực đang lan tràn khắp thế giới, mọi hình thức của bạo lực: nổi loạn, những chiến tranh, sự căm thù của một nhóm người đối với một nhóm người khác. Ở Mỹ bạn thấy những bạo loạn chủng tộc và những phản đối của sinh viên; ở Châu âu nó mang một hình thức khác. Và ở Ấn độ, bạn có lẽ biết điều gì đang xảy ra rõ ràng hơn tôi. Vì vậy một trong những câu hỏi quan trọng là tại sao con người sống trong bạo lực. Tại sao anh ấy cứ tiếp tục bạo lực? Những người trí thức đã đưa ra nhiều giải thích: dư thừa dân số, cuộc sống xã hội hiện đại, con người bị nhốt trong những thành phố nơi họ không có không gian, sự phát triển thuộc công nghệ mà nuôi dưỡng chỉ một phần nhân loại, và vân vân. Họ đã thí nghiệm khi nuôi những con chuột trong một không gian rất chật chội và phát hiện rằng những con chuột bị mất phương hướng và hủy diệt lẫn nhau bởi vì chúng không có không gian để sống. Cũng đã có những giải thích khác: rằng xã hội đang trải qua một thay đổi quan trọng bởi vì những tôn giáo, giáo dục, khoa học đã hoàn toàn thất bại, và chúng đã không tạo ra hòa bình giữa con người và con người. Trái lại, xã hội đang trở nên mỗi lúc một phức tạp hơn; càng nhiều đạo luật đã và đang được thông qua, và vì vậy có những người yêu cầu phải có sự lãnh đạo độc tài hơn, rộng rãi hơn, cao quí hơn, to lớn hơn. Có thế giới cộng sản cùng uy quyền của nó, cùng sự độc tài của nó, và điều đó cũng không giải quyết được vấn đề. Nếu có bất kỳ loại bày tỏ tự do nào, người ta bị đưa vào một nhà thương điên hoặc quyền công dân của họ hay bất kỳ cái gì, bị tước đoạt; và những người viết văn, những người họa sĩ, những người suy nghĩ không còn là con người gì cả. Vì vậy đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới.


Làm thế nào bạo lực này sẽ được chấm dứt? Quốc gia này trong nhiều năm đã giảng thuyết về không-bạo lực như một lý tưởng, nhưng tôi nghĩ rằng lý tưởng không có giá trị gì cả bởi vì những con người vẫn bạo lực không suy giảm ở bất kỳ nơi đâu, như đã được thể hiện trong sự nổi loạn của sinh viên trong trường đại học này; trong những thành phố khác cũng có những bạo loạn. Dường như điều này là sự diễn tả thịnh hành nhất của sự liên hệ con người: nếu không vận hành tốt, chúng ta hãy thiêu rụi một con người khác hay hủy diệt anh ấy qua chiến tranh, mà bị gây ra bởi những phân chia như chủng tộc, quốc tịch, và vân vân.


Vậy là, một cách khách quan, khi thấy tất cả điều này, không phải như một người triết lý hay một người trí thức, không phải như một người Ấn giáo hay một người Hồi giáo hay một người Phật giáo hay thậm chí như một người khoa học, khi thấy tất cả những hỗn loạn và đau khổ này đang xảy ra trong thế giới, người ta hỏi rằng liệu dòng chảy của bạo lực này có thể được chặn đứng. Liệu một triết thuyết mới, một người lãnh đạo mới, một tôn giáo mới, một đảng phái chính trị mới sẽ kết thúc được sự liên hệ hủy hoại, thoái hóa này giữa con người và con người?


Không triết thuyết, không tôn giáo có tổ chức, không người lãnh đạo nào có thể thay đổi được cái trí con người – và chúng ta quan tâm đến cái trí con người, cái trí mà đã bị quy định, định hình, uốn khuôn trong nhiều triệu năm để bạo lực, để tạo ra thù địch, để sống trong căm hận, để xung đột, và để chiến tranh. Tôi nghĩ đây là một sự thật mà hầu hết con người đều chấp nhận. Vậy thì, vì thấy được hiện tượng lạ lùng này, khủng hoảng này,
một con người phải làm gì? Đó là bạn và tôi – chúng ta sẽ phải làm gì?

 Không phải về một hình thức đặc biệt của bạo lực hoặc trong quốc gia này hay ở Châu âu, trong nước Mỹ hay nước Nga, nhưng bạo lực như một tổng thể. Vì vậy hình thức đặc biệt của bạo lực phải được hiểu rõ trong ngữ cảnh của tổng thể bạo lực. Đó là, không tốt lành gì khi xử lý một hình thức của bạo lực: sự phản đối của sinh viên hay chiến tranh hay những khác biệt về giai cấp, hay những bạo loạn, người da trắng chống lại người da đen, hay
một hệ thống đặc biệt của những lý tưởng, hay như người cộng sản chống đối lại chủ nghĩa xã hội và tư bản. Tôi nghĩ hiện tượng của bạo lực này phải được tiếp cận từ quan điểm của sự bạo lực tổng thể của con người. Tại sao anh ấy bạo lực, bạo lực trong tất cả liên hệ của anh ấy, bạo lực tình dục?

Tại sao có bạo lực này mà chối bỏ sự an toàn tổng thể của nhân loại?

Liệu anh ấy có thể sống hoà bình cùng người hàng xóm của anh ấy không ở trong tầm tay của con người hay sao? Tôi không hiểu có khi nào bạn đã đặt ra cho chính mình câu hỏi rằng liệu người ta có thể sống trong thế giới này – không phải như một ý tưởng nhưng thực sự, không phải thuộc lý thuyết nhưng thực tế – mà không rút lui vào một tu viện hay khoác vào chiếc áo khất sĩ, liệu người ta có thể sống mà không có xung đột?
Nếu bạn đặt ra câu hỏi này một cách nghiêm túc, cùng sự chú ý và ân cần, đáp án của bạn sẽ là gì? Tại sao trong con người có sự bạo lực thuộc tâm lý, phía bên trong, mà tự-diễn tả chính nó ra phía bên ngoài – xã hội, kinh tế, chủng tộc? Tôi nghĩ đây thực sự là một câu hỏi rất quan trọng. Tại sao con người đã sống hàng triệu năm và đã thừa hưởng sự
bạo lực này từ động vật, lại không tìm được một phương cách sống – một sống của tồn tại hàng ngày – trong đó không còn xung đột gì cả?
Xung đột là sự mâu thuẫn bên trong chính người ta: sự phân chia toàn cấu trúc của thân tâm chúng ta, của cái trí và quả tim chúng ta, bị vỡ vụn, bị phân chia. Và nơi nào có sự phân chia trong bất kỳ hình thức nào, phải có bạo lực. Nếu một con người trong chính anh ấy, giam giữ sự sống trong những cái ngăn – cuộc sống kinh doanh, cuộc sống tôn
giáo, cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình, cuộc sống quốc gia, và vân vân – nơi nào có một phân chia như thế, mà là một phân chia trong chính anh ấy, phải có không những bạo lực nhưng còn cả sự tồn tại phân hai này. Và từ việc này nảy sinh sự quan trọng kỳ lạ mà anh ấy đã đòi hỏi cho tình dục, mà lúc này cũng đã trở thành một hình thức khác của bạo lực.


Nó cũng là bạo lực khi chúng ta tự-hành hạ mình để phù hợp vào một khuôn mẫu được thiết lập bởi xã hội, bởi tôn giáo, khi chúng ta tự-kiểm điểm chính chúng ta, hay tự-kỷ luật chính chúng ta để tuân phục vào một khuôn mẫu. Từ ngữ ‘discipline’ có nghĩa học hành, không phải để tuân phục, không phải để vâng lời, không phải để bắt chước, nhưng học hành, và một cái trí đang học hành và một quả tim đang nhìn ngắm, đang quan sát,
không ở trong xung đột. Xung đột nảy sinh chỉ khi nào có sự tích lũy hiểu biết như sự đối nghịch với học hành – hiểu biết như người Ấn giáo hay người Hồi giáo, người có giáo dục hay không có giáo dục. Chắc chắn, sự phân chia này phải nuôi dưỡng xung đột. Vì vậy tại sao trong xã hội, mà là trong sự liên hệ giữa con người và con người, thuộc tình dục và thuộc tôn giáo, tại sao chúng ta đã đến một thời kỳ, đến một khủng hoảng, khi
phản ứng đến sự thách thức lại luôn luôn phải dựa vào bạo lực? Tôi hy vọng, trong chừng mực nào đó, tôi đã nêu rõ. Có một thách thức khác thường trong thế giới ngày nay, một thách thức mới mẻ, một khủng hoảng to tát, và đáp lại của chúng ta đến khủng hoảng này
lại là sự bạo lực và trao sự quan trọng lạ thường vào vui thú trong mọi hình thức. Phản ứng của chúng ta đến thách thức lại phụ thuộc tình trạng bị quy định của chúng ta, và tình trạng bị quy định của chúng ta được đặt nền tảng cốt yếu vào bạo lực, phân chia, và vui thú. Tôi nghĩ điều này khá rõ ràng. Truyền thống trong quốc gia này đảm đương một vai trò phá hoại lạ thường, và chúng ta đáp trả đến sự thách thức như một người Ấn giáo hay
một người Phật giáo hay một người Hồi giáo, như một sinh viên hay người này hay người kia. Và vì vậy khi chúng ta đáp trả đến thách thức này không-trọn vẹn – đó là, khi chúng ta đáp trả một cách truyền thống hay bằng cách tìm kiếm sự vui thú – chính không-trọn vẹn khi phản ứng của chúng ta, tạo ra sự phá hoại lớn lao, tạo ra sự đau khổ vô cùng, không chỉ cho chính chúng ta mà còn cả cho những người khác.


Vì vậy người ta phải làm gì? Những hệ thống đã thất bại. Bạn hiểu rõ sự kiện này chứ?


Thí dụ, chủ nghĩa cộng sản, mà đã hứa hẹn quá nhiều – không chiến tranh, không còn những Chính thể, và vân vân – bây giờ đã trở thành một chế độ độc tài tàn bạo nơi không còn có tự do. Và bất kỳ hệ thống nào – dù hệ thống nào chăng nữa, thuộc xã hội hay thuộc tôn giáo, chắc chắn sẽ thất bại bởi vì đáp án là tạo ra, không phải một hệ thống mới mẻ nhưng một chất lượng mới mẻ của cái trí, một cảm thấy khác hẳn, một ý thức khác hẳn của sự liên hệ giữa con người và con người. Vì vậy, chúng ta không thể đáp lại sự thách thức dựa vào cái cũ kỹ. Làm ơn hãy hiểu rõ sự thật rất đơn giản này.


Vì vậy điều gì cần thiết là một thay đổi tổng thể, một thay đổi trọn vẹn, về toàn cấu trúc và bản chất của bộ não và cũng của cả cái trí, bởi vì sự khủng hoảng quá rộng lớn, quá phức tạp, không chỉ trong thế giới công nghệ mà còn cả trong thế giới con người, trong thế giới của đang sống hàng ngày. Nó đòi hỏi một cái trí mới mẻ, một quả tim mới mẻ, và điều này không thể xảy ra qua bất kỳ hệ thống, bất kỳ người lãnh đạo, qua bất kỳ loại giáo
dục có tổ chức nào. Nó xảy ra chỉ khi nào những con người – bạn – tỉnh thức, bên trong nhận biết được điều gì đang xảy ra trong chính bạn, nhận biết được bạn đã phân chia sự sống như thế nào thành cuộc sống kinh doanh, khoa học, tôn giáo, và gia đình – nhận biết được sự phân chia này của toàn cấu trúc thuộc sống của bạn. Và sự phân chia này xảy ra
khi có sợ hãi. Bạn biết sợ hãi là gì, không chỉ những sợ hãi thuộc thân thể nhưng còn cả những sợ hãi thuộc tâm lý nghiêm trọng hơn. Sợ hãi có liên quan đến cái gì đó; nó không tự-tồn tại một mình. Lúc này, liệu bạn có thể nhận biết được sợ hãi này, thâm nhập nó, hiểu rõ nó? Sợ hãi là sự diễn tả của đòi hỏi hoàn toàn được an toàn bởi vì bộ não đòi hỏi rằng nó phải tuyệt đối và trọn vẹn được an toàn, được bảo vệ, giống như đứa trẻ. Nơi nào không có sự an toàn như trong xã hội hiện đại, có sợ hãi. Và liệu sợ hãi này có thể được xóa sạch qua sự phân tích?


Đây thực sự là một vấn đề rất nghiêm túc, không phải là một giải trí; nó cũng không là một vui chơi thuộc triết lý. Chúng ta đang làm việc cùng nhau. Chuyển tải có nghĩa rằng: làm việc, xây dựng, sáng tạo cùng nhau, không phải dành cho bạn chỉ lắng nghe một vài từ ngữ, đồng ý hay không đồng ý, và lang thang khỏi đây. Chúng ta đang cùng nhau tham gia trong sự hiểu rõ về một vấn đề to tát, mà không cần đồng ý hay không đồng ý. Nó yêu cầu rằng bạn chú ý nó, nhìn ngắm nó, học hành tất cả nó, nhưng bạn không thể học hành tất cả nó nếu bạn sợ hãi. Và do bởi sợ hãi, bạn cố gắng tẩu thoát khỏi nó. Tẩu thoát có lẽ qua nhậu nhẹt, phụ nữ, ái ân, đền chùa, hay trở thành một khất sĩ, một thầy tu; nhưng sợ hãi hiện diện ở đó.
Liệu sợ hãi này có thể được phân tích và xóa sạch? Đó là điều gì tất cả những người tâm lý học và những người phân tích đang cố gắng thực hiện. Liệu sợ hãi mà ở trong cái trí và quả tim của con người, có thể được xóa sạch? Liệu có thể được tự do khỏi sợ hãi qua sự phân tích? Trong phân tích được hàm ý người phân tích và vật được phân tích. Đúng chứ? Có người phân tích mà phân tích điều gì anh ấy gọi là sợ hãi, nhìn vào nguyên nhân
của sợ hãi, cố gắng phân tích nó, mổ xẻ nó, mở toang nó. Nhưng người phân tích có khác biệt sự việc anh ấy phân tích hay không? Hay người phân tích là vật được phân tích? Tôi không hiểu bạn sẽ trả lời câu hỏi này như thế nào. Có lẽ bạn đã không suy nghĩ về nó, dù bạn là những giáo sư quyền uy và những người trí thức. Điều này có lẽ mới mẻ với bạn, vì vậy bạn phải quan sát nó. Người quan sát khác biệt sự việc mà anh ấy quan sát? Chừng
nào còn có sự phân chia giữa người quan sát và vật được quan sát này, phải có xung đột, và đó là chính gốc rễ của bạo lực. Bạn hiểu rõ chứ, thưa bạn? Sự liên hệ của con người được đặt nền tảng trên nguyên tắc: người quan sát khác biệt với vật mà anh ấy quan sát.
Hãy quan sát nó, thưa bạn, bạn liên quan đến điều này. Bạn, người chồng hay người vợ, người cha hay người mẹ, bất kỳ là người nào, bạn có sống riêng của bạn, của tham vọng, tham lam, theo đuổi vui thú, sống ganh đua riêng của bạn, đang tìm kiếm chức vụ, thanh danh. Đó là sống của bạn, nếu bạn là một người đàn ông. Nếu bạn là một người phụ nữ, bạn có sống riêng của bạn, bị tách rời, khác biệt với sống của người chồng. Các bạn có
thể ngủ chung, nhưng sự kiện rằng các bạn là hai thực thể hoàn toàn khác biệt phía bên trong những bức tường của những ham muốn riêng của các bạn, phía bên trong những bức tường của những tham vọng riêng của các bạn và vân vân. Và sự liên hệ của các bạn được đặt nền tảng trên hình ảnh các bạn có về lẫn nhau. Sự liên hệ là giữa những hình ảnh, và vì vậy có sự phân chia và vì vậy có xung đột. Và đó là vấn đề thực sự: Liệu phân
chia này giữa con người và con người như người quan sát và vật được quan sát có thể biến mất.


Đó là, hiểu biết như trải nghiệm và ký ức tạo ra sự phân chia này giữa những con người.Bạn có một hình ảnh về người vợ, và người vợ có một hình ảnh về bạn, được dựng lên qua nhiều năm tháng của vui thú, bực dọc, tức giận và vân vân. Hai hình ảnh này có một liên hệ – không phải những con người nhưng những hình ảnh, mà là ký ức, quá khứ. Vì vậy, chừng nào còn có sự phân chia trong sống của một người như người quan sát và vật
được quan sát, phải có xung đột. Bạn biết không, thưa bạn, khi bạn nhìn một cái cây, thấy vẻ đẹp của nó, hình dáng, ánh sáng trên chiếc lá, thấy nó trong cơn mưa, thấy nó vào buổi tối và suốt thời gian ban ngày, nếu bạn nhìn nó bằng ký ức bạn đã có về cái cây đó, nếu bạn nói nó là một cây xoài hay một cây me hay bất kỳ cây gì, hiểu biết thuộc sinh học về
cái cây ngăn cản bạn nhìn ngắm nó. Bạn trở thành người quan sát cùng hiểu biết của bạn, và cái cây là cái gì đó tách khỏi bạn. Thế là, nơi nào có không gian giữa bạn như người quan sát và vật được quan sát, phải có sự mâu thuẫn và vì vậy phải có xung đột và bạo lực.


Vì vậy liệu phân chia này, mà là thời gian và không gian, có thể biến mất? Bạn hiểu câu hỏi của tôi chứ? Bởi vì chúng ta đã theo dõi rất cẩn thận qui trình của bạo lực, phương cách của bạo lực. Chừng nào còn có sự phân chia, sự tách rời, không gian, và thời gian giữa những con người, con người như người quan sát và người còn lại như vật được quan
sát, phải có xung đột. Khi người Ấn giáo, người Hồi giáo, người Thiên chúa giáo, cùng những hình ảnh của họ về chính họ và những niềm tin, những giáo điều, những mê tín riêng của họ, nhìn ngắm lẫn nhau, chắc chắn có sự phân chia và vì vậy xung đột và bạo lực. Đúng chứ? Bây giờ làm thế nào không gian này biến mất, không gian được tạo ra bởi suy nghĩ như người Ấn giáo, như người cộng sản, không gian được tạo ra bởi ký ức? Làm
thế nào điều đó biến mất để chúng ta gặp gỡ lẫn nhau mà không có người quan sát như ‘tôi’ và ‘bạn’, ‘chúng tôi’ và ‘chúng nó’? Làm thế nào điều này kết thúc hoàn toàn, trọn vẹn?


Và liệu tình yêu là vấn đề của vui thú, tình yêu là ham muốn? Bạn phải trả lời câu hỏi này, không phải dựa vào người nói, bởi vì điều đó không có giá trị gì cả. Luân lý, sự kính trọng trong xã hội của chúng ta được đặt nền tảng trên vui thú, và vì vậy nó hoàn toàn vô luân lý. Vì vậy người ta phải tìm ra cho chính người ta liệu không gian giữa con người và con người, như người quan sát và vật được quan sát, có thể hoàn toàn tan biến. Đó là, liệu
chúng ta có thể gặp gỡ nhau như những con người không có những nhãn hiệu, và liệu cái trí, mà là sản phẩm của thời gian, của tiến hoá, của hàng thế kỷ sang hàng thế kỷ của tình trạng bị quy định, có thể phá vỡ tình trạng bị quy định của nó, không phải trong thời gian xa xôi nào đó, nhưng ngay tức khắc? Ngược lại, ngôi nhà của bạn đang cháy, và bạn không đang thực hiện bất kỳ điều gì cho nó cả.


Lúc này đây là ‘Thiền định,’ nếu tôi có thể sử dụng từ ngữ đó, mà tôi hy vọng bạn sẽ quan sát, sẽ lắng nghe thật tinh tế, không phải cùng những hệ thống thiền định đặc biệt của bạn, không phải cùng ý tưởng đặc biệt của bạn về thiền định nên là gì, Phật giáo,
Zen, Ấn giáo. Nếu bạn quên tất cả điều đó và lắng nghe, bạn sẽ phát giác rằng từ ngữ ‘thiền định’ có nghĩa là cân nhắc, quan sát, chú ý, học hành. Nó không tuân theo hệ thống ngu xuẩn nào của thiền định nhưng làm cho cái trí tỉnh táo, sinh động lạ thường, không bị tắc nghẽn và thế là được tự do. Muốn tìm ra sự thật của phân chia này giữa con người và con người cần đến chất lượng của thiền định đó. Không quyển sách nào sẽ dạy bạn về nó,
không kinh Gita, kinh Upanishad, kinh Koran, kinh Bible, bởi vì những quyển sách đều vô giá trị dù chúng thiêng liêng đến chừng nào. Vì vậy bạn phải thâm nhập vào chính bạn, nhưng bạn không được đào một cái hố quá sâu bởi vì bạn càng đào sâu nhiều bao
nhiêu, bạn càng nhận được cùng sự việc; thâm nhập sâu hơn và sâu hơn bạn bị trói buộc trong chiều sâu. Bạn phải tiếp cận nó một cách nhẹ nhàng bởi vì sự thâm nhập vào chính người ta cần đến sự tinh tế vô cùng. Bạn đang học hành về nó. Và muốn học hành điều gì đó bạn không được tiếp cận nó bằng hiểu biết có trước, nói rằng bạn là đại ngã hay
không-đại ngã, linh hồn hay không-linh hồn; bạn phải đến với nó bằng cái trí mới mẻ. Và đó là vẻ đẹp của thiền định – không phải tất cả những ranh ma mà người ta đùa giỡn với nó.
Thế là, chúng ta có vấn đề này. Có một thách thức trong thế giới, không chỉ trong phần đất đặc biệt này của thế giới nhưng khắp mọi nơi, và tất cả những thách thức luôn luôn mới mẻ. Nó không là một thách thức cũ kỹ, và vì vậy nó yêu cầu bạn đáp lại nó bằng một cách hoàn toàn khác hẳn, bằng một phương pháp mới mẻ. Nếu bạn đáp lại nó bằng những quy định cũ kỹ, bạn đang phá hoại thế giới. Vì vậy bạn phải có một cái trí trong sáng, một
cái trí mới mẻ, một chất lượng mới mẻ của cái trí và quả tim. Điều đó có thể xảy ra chỉ khi nào bạn quan sát về chính bạn, khi bạn nhận biết về chính bạn, không phải chỉ trích bạn, nhưng chỉ đang nhận biết, đang nhìn ngắm. Và trong nhìn ngắm này không có hàm ý của đạo đức, và vì vậy không có chỉ trích. Nhìn ngắm như thế thực sự là cái trí tôn giáo, và chỉ một cái trí như thế mới có thể sống an bình cùng chính nó và sáng tạo hòa bình
trong thế giới.


Bây giờ, có lẽ, bạn thích đặt ra những câu hỏi. Trước hết, thưa các bạn, trước khi các bạn đặt ra những câu hỏi, hãy tìm ra tại sao các bạn đang đặt ra chúng, liệu rằng nó có thử thách người nói, gài bẫy ông ta, thể hiện sự khôn ngoan của các bạn, chất vấn vì sự lợi ích của tranh luận, hay liệu bạn đang đặt ra chúng để tìm ra sự thật là gì, một cách khách quan và phía bên trong. Hay liệu bạn đang đặt ra những câu hỏi trích dẫn từ những quyển
sách, so sánh điều gì đang được nói với điều gì bạn đã đọc rồi, hãy cho phép tôi được cam đoan với bạn rằng người nói đã không đọc bất kỳ những quyển sách triết học hay tâm lý, kinh Gita hay kinh Upanishads. Bởi vậy, nếu bạn sắp sửa trích dẫn và so sánh, lúc
đó bạn sẽ trích dẫn và so sánh cho chính bạn. Và muốn đặt ra nghi vấn đúng đắn là điều quan trọng lạ thường bởi vì nghi vấn đúng đắn chỉ có thể được đặt ra bởi một cái trí mà đã thực sự tìm hiểu tất cả điều này, đã thực sự tìm hiểu một cách khách quan, không phải như một người Ấn giáo hay như một người triết lý hay một giáo sư hay một người khoa học, nhưng như một con người. Vì vậy cái trí phải được tự do để tìm hiểu, và khi một cái
trí như thế đặt ra một nghi vấn, nó có giá trị, sức sống, sự quan trọng và chiều sâu. Nhưng làm ơn đừng suy nghĩ rằng trong khi nói điều này tôi đang ngăn cản bạn không đặt ra những câu hỏi.


KHỦNG HOẢNG TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI VÀ CÔNG NGHỆ

Nói chuyện tại Benares Hindu University năm 1969

Vì vậy điều gì cần thiết là, một thay đổi tổng thể, một thay đổi hoàn toàn, của toàn cấu trúc và bản chất của bộ não và cũng của cái trí, bởi vì sự khủng hoảng quá rộng lớn, quá phức tạp . . .có lẽ, sau khi tôi nói chuyện một chút xíu, bạn sẽ có đủ chú ý để đặt ra những câu hỏi,
và vẫn vậy chúng ta sẽ có thể chuyển tải lẫn nhau một cách tự do hơn.


Tôi nghĩ hầu hết mọi người phải rất rõ ràng rằng bạo lực đang lan tràn khắp thế giới, mọi hình thức của bạo lực: nổi loạn, những chiến tranh, sự căm thù của một nhóm người đối với một nhóm người khác. Ở Mỹ bạn thấy những bạo loạn chủng tộc và những phản đối của sinh viên; ở Châu âu nó mang một hình thức khác. Và ở Ấn độ, bạn có lẽ biết điều gì đang xảy ra rõ ràng hơn tôi. Vì vậy một trong những câu hỏi quan trọng là tại sao con người sống trong bạo lực. Tại sao anh ấy cứ tiếp tục bạo lực? Những người trí thức đã đưa ra nhiều giải thích: dư thừa dân số, cuộc sống xã hội hiện đại, con người bị nhốt trong những thành phố nơi họ không có không gian, sự phát triển thuộc công nghệ mà nuôi dưỡng chỉ một phần nhân loại, và vân vân. Họ đã thí nghiệm khi nuôi những con chuột trong một không gian rất chật chội và phát hiện rằng những con chuột bị mất phương hướng và hủy diệt lẫn nhau bởi vì chúng không có không gian để sống. Cũng đã có những giải thích khác: rằng xã hội đang trải qua một thay đổi quan trọng bởi vì những tôn giáo, giáo dục, khoa học đã hoàn toàn thất bại, và chúng đã không tạo ra hòa bình giữa con người và con người. Trái lại, xã hội đang trở nên mỗi lúc một phức tạp hơn; càng nhiều đạo luật đã và đang được thông qua, và vì vậy có những người yêu cầu phải có sự lãnh đạo độc tài hơn, rộng rãi hơn, cao quí hơn, to lớn hơn. Có thế giới cộng sản cùng uy quyền của nó, cùng sự độc tài của nó, và điều đó cũng không giải quyết được vấn đề. Nếu có bất kỳ loại bày tỏ tự do nào, người ta bị đưa vào một nhà thương điên hoặc quyền công dân của họ hay bất kỳ cái gì, bị tước đoạt; và những người viết văn, những người họa sĩ, những người suy nghĩ không còn là con người gì cả. Vì vậy đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới.


Làm thế nào bạo lực này sẽ được chấm dứt? Quốc gia này trong nhiều năm đã giảng thuyết về không-bạo lực như một lý tưởng, nhưng tôi nghĩ rằng lý tưởng không có giá trị gì cả bởi vì những con người vẫn bạo lực không suy giảm ở bất kỳ nơi đâu, như đã được thể hiện trong sự nổi loạn của sinh viên trong trường đại học này; trong những thành phố khác cũng có những bạo loạn. Dường như điều này là sự diễn tả thịnh hành nhất của sự liên hệ con người: nếu không vận hành tốt, chúng ta hãy thiêu rụi một con người khác hay hủy diệt anh ấy qua chiến tranh, mà bị gây ra bởi những phân chia như chủng tộc, quốc tịch, và vân vân.


Vậy là, một cách khách quan, khi thấy tất cả điều này, không phải như một người triết lý hay một người trí thức, không phải như một người Ấn giáo hay một người Hồi giáo hay một người Phật giáo hay thậm chí như một người khoa học, khi thấy tất cả những hỗn loạn và đau khổ này đang xảy ra trong thế giới, người ta hỏi rằng liệu dòng chảy của bạo lực này có thể được chặn đứng. Liệu một triết thuyết mới, một người lãnh đạo mới, một tôn giáo mới, một đảng phái chính trị mới sẽ kết thúc được sự liên hệ hủy hoại, thoái hóa này giữa con người và con người?


Không triết thuyết, không tôn giáo có tổ chức, không người lãnh đạo nào có thể thay đổi được cái trí con người – và chúng ta quan tâm đến cái trí con người, cái trí mà đã bị quy định, định hình, uốn khuôn trong nhiều triệu năm để bạo lực, để tạo ra thù địch, để sống trong căm hận, để xung đột, và để chiến tranh. Tôi nghĩ đây là một sự thật mà hầu hết con người đều chấp nhận. Vậy thì, vì thấy được hiện tượng lạ lùng này, khủng hoảng này,
một con người phải làm gì? Đó là bạn và tôi – chúng ta sẽ phải làm gì?

 Không phải về một hình thức đặc biệt của bạo lực hoặc trong quốc gia này hay ở Châu âu, trong nước Mỹ hay nước Nga, nhưng bạo lực như một tổng thể. Vì vậy hình thức đặc biệt của bạo lực phải được hiểu rõ trong ngữ cảnh của tổng thể bạo lực. Đó là, không tốt lành gì khi xử lý một hình thức của bạo lực: sự phản đối của sinh viên hay chiến tranh hay những khác biệt về giai cấp, hay những bạo loạn, người da trắng chống lại người da đen, hay
một hệ thống đặc biệt của những lý tưởng, hay như người cộng sản chống đối lại chủ nghĩa xã hội và tư bản. Tôi nghĩ hiện tượng của bạo lực này phải được tiếp cận từ quan điểm của sự bạo lực tổng thể của con người. Tại sao anh ấy bạo lực, bạo lực trong tất cả liên hệ của anh ấy, bạo lực tình dục?

Tại sao có bạo lực này mà chối bỏ sự an toàn tổng thể của nhân loại?

Liệu anh ấy có thể sống hoà bình cùng người hàng xóm của anh ấy không ở trong tầm tay của con người hay sao? Tôi không hiểu có khi nào bạn đã đặt ra cho chính mình câu hỏi rằng liệu người ta có thể sống trong thế giới này – không phải như một ý tưởng nhưng thực sự, không phải thuộc lý thuyết nhưng thực tế – mà không rút lui vào một tu viện hay khoác vào chiếc áo khất sĩ, liệu người ta có thể sống mà không có xung đột?
Nếu bạn đặt ra câu hỏi này một cách nghiêm túc, cùng sự chú ý và ân cần, đáp án của bạn sẽ là gì? Tại sao trong con người có sự bạo lực thuộc tâm lý, phía bên trong, mà tự-diễn tả chính nó ra phía bên ngoài – xã hội, kinh tế, chủng tộc? Tôi nghĩ đây thực sự là một câu hỏi rất quan trọng. Tại sao con người đã sống hàng triệu năm và đã thừa hưởng sự
bạo lực này từ động vật, lại không tìm được một phương cách sống – một sống của tồn tại hàng ngày – trong đó không còn xung đột gì cả?
Xung đột là sự mâu thuẫn bên trong chính người ta: sự phân chia toàn cấu trúc của thân tâm chúng ta, của cái trí và quả tim chúng ta, bị vỡ vụn, bị phân chia. Và nơi nào có sự phân chia trong bất kỳ hình thức nào, phải có bạo lực. Nếu một con người trong chính anh ấy, giam giữ sự sống trong những cái ngăn – cuộc sống kinh doanh, cuộc sống tôn
giáo, cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình, cuộc sống quốc gia, và vân vân – nơi nào có một phân chia như thế, mà là một phân chia trong chính anh ấy, phải có không những bạo lực nhưng còn cả sự tồn tại phân hai này. Và từ việc này nảy sinh sự quan trọng kỳ lạ mà anh ấy đã đòi hỏi cho tình dục, mà lúc này cũng đã trở thành một hình thức khác của bạo lực.


Nó cũng là bạo lực khi chúng ta tự-hành hạ mình để phù hợp vào một khuôn mẫu được thiết lập bởi xã hội, bởi tôn giáo, khi chúng ta tự-kiểm điểm chính chúng ta, hay tự-kỷ luật chính chúng ta để tuân phục vào một khuôn mẫu. Từ ngữ ‘discipline’ có nghĩa học hành, không phải để tuân phục, không phải để vâng lời, không phải để bắt chước, nhưng học hành, và một cái trí đang học hành và một quả tim đang nhìn ngắm, đang quan sát,
không ở trong xung đột. Xung đột nảy sinh chỉ khi nào có sự tích lũy hiểu biết như sự đối nghịch với học hành – hiểu biết như người Ấn giáo hay người Hồi giáo, người có giáo dục hay không có giáo dục. Chắc chắn, sự phân chia này phải nuôi dưỡng xung đột. Vì vậy tại sao trong xã hội, mà là trong sự liên hệ giữa con người và con người, thuộc tình dục và thuộc tôn giáo, tại sao chúng ta đã đến một thời kỳ, đến một khủng hoảng, khi
phản ứng đến sự thách thức lại luôn luôn phải dựa vào bạo lực? Tôi hy vọng, trong chừng mực nào đó, tôi đã nêu rõ. Có một thách thức khác thường trong thế giới ngày nay, một thách thức mới mẻ, một khủng hoảng to tát, và đáp lại của chúng ta đến khủng hoảng này
lại là sự bạo lực và trao sự quan trọng lạ thường vào vui thú trong mọi hình thức. Phản ứng của chúng ta đến thách thức lại phụ thuộc tình trạng bị quy định của chúng ta, và tình trạng bị quy định của chúng ta được đặt nền tảng cốt yếu vào bạo lực, phân chia, và vui thú. Tôi nghĩ điều này khá rõ ràng. Truyền thống trong quốc gia này đảm đương một vai trò phá hoại lạ thường, và chúng ta đáp trả đến sự thách thức như một người Ấn giáo hay
một người Phật giáo hay một người Hồi giáo, như một sinh viên hay người này hay người kia. Và vì vậy khi chúng ta đáp trả đến thách thức này không-trọn vẹn – đó là, khi chúng ta đáp trả một cách truyền thống hay bằng cách tìm kiếm sự vui thú – chính không-trọn vẹn khi phản ứng của chúng ta, tạo ra sự phá hoại lớn lao, tạo ra sự đau khổ vô cùng, không chỉ cho chính chúng ta mà còn cả cho những người khác.


Vì vậy người ta phải làm gì? Những hệ thống đã thất bại. Bạn hiểu rõ sự kiện này chứ?


Thí dụ, chủ nghĩa cộng sản, mà đã hứa hẹn quá nhiều – không chiến tranh, không còn những Chính thể, và vân vân – bây giờ đã trở thành một chế độ độc tài tàn bạo nơi không còn có tự do. Và bất kỳ hệ thống nào – dù hệ thống nào chăng nữa, thuộc xã hội hay thuộc tôn giáo, chắc chắn sẽ thất bại bởi vì đáp án là tạo ra, không phải một hệ thống mới mẻ nhưng một chất lượng mới mẻ của cái trí, một cảm thấy khác hẳn, một ý thức khác hẳn của sự liên hệ giữa con người và con người. Vì vậy, chúng ta không thể đáp lại sự thách thức dựa vào cái cũ kỹ. Làm ơn hãy hiểu rõ sự thật rất đơn giản này.


Vì vậy điều gì cần thiết là một thay đổi tổng thể, một thay đổi trọn vẹn, về toàn cấu trúc và bản chất của bộ não và cũng của cả cái trí, bởi vì sự khủng hoảng quá rộng lớn, quá phức tạp, không chỉ trong thế giới công nghệ mà còn cả trong thế giới con người, trong thế giới của đang sống hàng ngày. Nó đòi hỏi một cái trí mới mẻ, một quả tim mới mẻ, và điều này không thể xảy ra qua bất kỳ hệ thống, bất kỳ người lãnh đạo, qua bất kỳ loại giáo
dục có tổ chức nào. Nó xảy ra chỉ khi nào những con người – bạn – tỉnh thức, bên trong nhận biết được điều gì đang xảy ra trong chính bạn, nhận biết được bạn đã phân chia sự sống như thế nào thành cuộc sống kinh doanh, khoa học, tôn giáo, và gia đình – nhận biết được sự phân chia này của toàn cấu trúc thuộc sống của bạn. Và sự phân chia này xảy ra
khi có sợ hãi. Bạn biết sợ hãi là gì, không chỉ những sợ hãi thuộc thân thể nhưng còn cả những sợ hãi thuộc tâm lý nghiêm trọng hơn. Sợ hãi có liên quan đến cái gì đó; nó không tự-tồn tại một mình. Lúc này, liệu bạn có thể nhận biết được sợ hãi này, thâm nhập nó, hiểu rõ nó? Sợ hãi là sự diễn tả của đòi hỏi hoàn toàn được an toàn bởi vì bộ não đòi hỏi rằng nó phải tuyệt đối và trọn vẹn được an toàn, được bảo vệ, giống như đứa trẻ. Nơi nào không có sự an toàn như trong xã hội hiện đại, có sợ hãi. Và liệu sợ hãi này có thể được xóa sạch qua sự phân tích?


Đây thực sự là một vấn đề rất nghiêm túc, không phải là một giải trí; nó cũng không là một vui chơi thuộc triết lý. Chúng ta đang làm việc cùng nhau. Chuyển tải có nghĩa rằng: làm việc, xây dựng, sáng tạo cùng nhau, không phải dành cho bạn chỉ lắng nghe một vài từ ngữ, đồng ý hay không đồng ý, và lang thang khỏi đây. Chúng ta đang cùng nhau tham gia trong sự hiểu rõ về một vấn đề to tát, mà không cần đồng ý hay không đồng ý. Nó yêu cầu rằng bạn chú ý nó, nhìn ngắm nó, học hành tất cả nó, nhưng bạn không thể học hành tất cả nó nếu bạn sợ hãi. Và do bởi sợ hãi, bạn cố gắng tẩu thoát khỏi nó. Tẩu thoát có lẽ qua nhậu nhẹt, phụ nữ, ái ân, đền chùa, hay trở thành một khất sĩ, một thầy tu; nhưng sợ hãi hiện diện ở đó.
Liệu sợ hãi này có thể được phân tích và xóa sạch? Đó là điều gì tất cả những người tâm lý học và những người phân tích đang cố gắng thực hiện. Liệu sợ hãi mà ở trong cái trí và quả tim của con người, có thể được xóa sạch? Liệu có thể được tự do khỏi sợ hãi qua sự phân tích? Trong phân tích được hàm ý người phân tích và vật được phân tích. Đúng chứ? Có người phân tích mà phân tích điều gì anh ấy gọi là sợ hãi, nhìn vào nguyên nhân
của sợ hãi, cố gắng phân tích nó, mổ xẻ nó, mở toang nó. Nhưng người phân tích có khác biệt sự việc anh ấy phân tích hay không? Hay người phân tích là vật được phân tích? Tôi không hiểu bạn sẽ trả lời câu hỏi này như thế nào. Có lẽ bạn đã không suy nghĩ về nó, dù bạn là những giáo sư quyền uy và những người trí thức. Điều này có lẽ mới mẻ với bạn, vì vậy bạn phải quan sát nó. Người quan sát khác biệt sự việc mà anh ấy quan sát? Chừng
nào còn có sự phân chia giữa người quan sát và vật được quan sát này, phải có xung đột, và đó là chính gốc rễ của bạo lực. Bạn hiểu rõ chứ, thưa bạn? Sự liên hệ của con người được đặt nền tảng trên nguyên tắc: người quan sát khác biệt với vật mà anh ấy quan sát.
Hãy quan sát nó, thưa bạn, bạn liên quan đến điều này. Bạn, người chồng hay người vợ, người cha hay người mẹ, bất kỳ là người nào, bạn có sống riêng của bạn, của tham vọng, tham lam, theo đuổi vui thú, sống ganh đua riêng của bạn, đang tìm kiếm chức vụ, thanh danh. Đó là sống của bạn, nếu bạn là một người đàn ông. Nếu bạn là một người phụ nữ, bạn có sống riêng của bạn, bị tách rời, khác biệt với sống của người chồng. Các bạn có
thể ngủ chung, nhưng sự kiện rằng các bạn là hai thực thể hoàn toàn khác biệt phía bên trong những bức tường của những ham muốn riêng của các bạn, phía bên trong những bức tường của những tham vọng riêng của các bạn và vân vân. Và sự liên hệ của các bạn được đặt nền tảng trên hình ảnh các bạn có về lẫn nhau. Sự liên hệ là giữa những hình ảnh, và vì vậy có sự phân chia và vì vậy có xung đột. Và đó là vấn đề thực sự: Liệu phân
chia này giữa con người và con người như người quan sát và vật được quan sát có thể biến mất.


Đó là, hiểu biết như trải nghiệm và ký ức tạo ra sự phân chia này giữa những con người.Bạn có một hình ảnh về người vợ, và người vợ có một hình ảnh về bạn, được dựng lên qua nhiều năm tháng của vui thú, bực dọc, tức giận và vân vân. Hai hình ảnh này có một liên hệ – không phải những con người nhưng những hình ảnh, mà là ký ức, quá khứ. Vì vậy, chừng nào còn có sự phân chia trong sống của một người như người quan sát và vật
được quan sát, phải có xung đột. Bạn biết không, thưa bạn, khi bạn nhìn một cái cây, thấy vẻ đẹp của nó, hình dáng, ánh sáng trên chiếc lá, thấy nó trong cơn mưa, thấy nó vào buổi tối và suốt thời gian ban ngày, nếu bạn nhìn nó bằng ký ức bạn đã có về cái cây đó, nếu bạn nói nó là một cây xoài hay một cây me hay bất kỳ cây gì, hiểu biết thuộc sinh học về
cái cây ngăn cản bạn nhìn ngắm nó. Bạn trở thành người quan sát cùng hiểu biết của bạn, và cái cây là cái gì đó tách khỏi bạn. Thế là, nơi nào có không gian giữa bạn như người quan sát và vật được quan sát, phải có sự mâu thuẫn và vì vậy phải có xung đột và bạo lực.


Vì vậy liệu phân chia này, mà là thời gian và không gian, có thể biến mất? Bạn hiểu câu hỏi của tôi chứ? Bởi vì chúng ta đã theo dõi rất cẩn thận qui trình của bạo lực, phương cách của bạo lực. Chừng nào còn có sự phân chia, sự tách rời, không gian, và thời gian giữa những con người, con người như người quan sát và người còn lại như vật được quan
sát, phải có xung đột. Khi người Ấn giáo, người Hồi giáo, người Thiên chúa giáo, cùng những hình ảnh của họ về chính họ và những niềm tin, những giáo điều, những mê tín riêng của họ, nhìn ngắm lẫn nhau, chắc chắn có sự phân chia và vì vậy xung đột và bạo lực. Đúng chứ? Bây giờ làm thế nào không gian này biến mất, không gian được tạo ra bởi suy nghĩ như người Ấn giáo, như người cộng sản, không gian được tạo ra bởi ký ức? Làm
thế nào điều đó biến mất để chúng ta gặp gỡ lẫn nhau mà không có người quan sát như ‘tôi’ và ‘bạn’, ‘chúng tôi’ và ‘chúng nó’? Làm thế nào điều này kết thúc hoàn toàn, trọn vẹn?


Và liệu tình yêu là vấn đề của vui thú, tình yêu là ham muốn? Bạn phải trả lời câu hỏi này, không phải dựa vào người nói, bởi vì điều đó không có giá trị gì cả. Luân lý, sự kính trọng trong xã hội của chúng ta được đặt nền tảng trên vui thú, và vì vậy nó hoàn toàn vô luân lý. Vì vậy người ta phải tìm ra cho chính người ta liệu không gian giữa con người và con người, như người quan sát và vật được quan sát, có thể hoàn toàn tan biến. Đó là, liệu
chúng ta có thể gặp gỡ nhau như những con người không có những nhãn hiệu, và liệu cái trí, mà là sản phẩm của thời gian, của tiến hoá, của hàng thế kỷ sang hàng thế kỷ của tình trạng bị quy định, có thể phá vỡ tình trạng bị quy định của nó, không phải trong thời gian xa xôi nào đó, nhưng ngay tức khắc? Ngược lại, ngôi nhà của bạn đang cháy, và bạn không đang thực hiện bất kỳ điều gì cho nó cả.


Lúc này đây là ‘Thiền định,’ nếu tôi có thể sử dụng từ ngữ đó, mà tôi hy vọng bạn sẽ quan sát, sẽ lắng nghe thật tinh tế, không phải cùng những hệ thống thiền định đặc biệt của bạn, không phải cùng ý tưởng đặc biệt của bạn về thiền định nên là gì, Phật giáo,
Zen, Ấn giáo. Nếu bạn quên tất cả điều đó và lắng nghe, bạn sẽ phát giác rằng từ ngữ ‘thiền định’ có nghĩa là cân nhắc, quan sát, chú ý, học hành. Nó không tuân theo hệ thống ngu xuẩn nào của thiền định nhưng làm cho cái trí tỉnh táo, sinh động lạ thường, không bị tắc nghẽn và thế là được tự do. Muốn tìm ra sự thật của phân chia này giữa con người và con người cần đến chất lượng của thiền định đó. Không quyển sách nào sẽ dạy bạn về nó,
không kinh Gita, kinh Upanishad, kinh Koran, kinh Bible, bởi vì những quyển sách đều vô giá trị dù chúng thiêng liêng đến chừng nào. Vì vậy bạn phải thâm nhập vào chính bạn, nhưng bạn không được đào một cái hố quá sâu bởi vì bạn càng đào sâu nhiều bao
nhiêu, bạn càng nhận được cùng sự việc; thâm nhập sâu hơn và sâu hơn bạn bị trói buộc trong chiều sâu. Bạn phải tiếp cận nó một cách nhẹ nhàng bởi vì sự thâm nhập vào chính người ta cần đến sự tinh tế vô cùng. Bạn đang học hành về nó. Và muốn học hành điều gì đó bạn không được tiếp cận nó bằng hiểu biết có trước, nói rằng bạn là đại ngã hay
không-đại ngã, linh hồn hay không-linh hồn; bạn phải đến với nó bằng cái trí mới mẻ. Và đó là vẻ đẹp của thiền định – không phải tất cả những ranh ma mà người ta đùa giỡn với nó.
Thế là, chúng ta có vấn đề này. Có một thách thức trong thế giới, không chỉ trong phần đất đặc biệt này của thế giới nhưng khắp mọi nơi, và tất cả những thách thức luôn luôn mới mẻ. Nó không là một thách thức cũ kỹ, và vì vậy nó yêu cầu bạn đáp lại nó bằng một cách hoàn toàn khác hẳn, bằng một phương pháp mới mẻ. Nếu bạn đáp lại nó bằng những quy định cũ kỹ, bạn đang phá hoại thế giới. Vì vậy bạn phải có một cái trí trong sáng, một
cái trí mới mẻ, một chất lượng mới mẻ của cái trí và quả tim. Điều đó có thể xảy ra chỉ khi nào bạn quan sát về chính bạn, khi bạn nhận biết về chính bạn, không phải chỉ trích bạn, nhưng chỉ đang nhận biết, đang nhìn ngắm. Và trong nhìn ngắm này không có hàm ý của đạo đức, và vì vậy không có chỉ trích. Nhìn ngắm như thế thực sự là cái trí tôn giáo, và chỉ một cái trí như thế mới có thể sống an bình cùng chính nó và sáng tạo hòa bình
trong thế giới.


Bây giờ, có lẽ, bạn thích đặt ra những câu hỏi. Trước hết, thưa các bạn, trước khi các bạn đặt ra những câu hỏi, hãy tìm ra tại sao các bạn đang đặt ra chúng, liệu rằng nó có thử thách người nói, gài bẫy ông ta, thể hiện sự khôn ngoan của các bạn, chất vấn vì sự lợi ích của tranh luận, hay liệu bạn đang đặt ra chúng để tìm ra sự thật là gì, một cách khách quan và phía bên trong. Hay liệu bạn đang đặt ra những câu hỏi trích dẫn từ những quyển
sách, so sánh điều gì đang được nói với điều gì bạn đã đọc rồi, hãy cho phép tôi được cam đoan với bạn rằng người nói đã không đọc bất kỳ những quyển sách triết học hay tâm lý, kinh Gita hay kinh Upanishads. Bởi vậy, nếu bạn sắp sửa trích dẫn và so sánh, lúc
đó bạn sẽ trích dẫn và so sánh cho chính bạn. Và muốn đặt ra nghi vấn đúng đắn là điều quan trọng lạ thường bởi vì nghi vấn đúng đắn chỉ có thể được đặt ra bởi một cái trí mà đã thực sự tìm hiểu tất cả điều này, đã thực sự tìm hiểu một cách khách quan, không phải như một người Ấn giáo hay như một người triết lý hay một giáo sư hay một người khoa học, nhưng như một con người. Vì vậy cái trí phải được tự do để tìm hiểu, và khi một cái
trí như thế đặt ra một nghi vấn, nó có giá trị, sức sống, sự quan trọng và chiều sâu. Nhưng làm ơn đừng suy nghĩ rằng trong khi nói điều này tôi đang ngăn cản bạn không đặt ra những câu hỏi.


Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Cái gì còn lại trong tình yêu?

Nếu ghen tuông, sở hữu, gắn bó, nhu cầu và mong đợi và ham muốn và ảo tưởng bị vứt bỏ, thì cái gì sẽ còn lại trong tình yêu của tôi? Có phải mọi thơ ca và đam mê của tôi đều là dối trá không? Những đau đớn tình yêu của tôi có liên quan nhiều tới đau đơn hơn là với tình yêu không? Tôi có học yêu được không?

Tình yêu không thể học được, nó không thể được trau dồi. Tình yêu trau dồi sẽ không là tình yêu chút nào. Nó sẽ không là hoa hồng thực, nó sẽ là hoa nhựa thôi. Khi bạn học cái gì đó, điều đó nghĩa là cái gì đó tới từ bên ngoài; nó không phải là sự trưởng thành bên trong. Và tình yêu phải là sự trưởng thành bên trong của bạn nếu nó là chân thực và thực sự.


Tình yêu không phải là việc học tập mà là sự trưởng thành. Tất cả mọi điều cần thiết về phần bạn không phải là học cách yêu, mà là gỡ bỏ cách không yêu. Rào cản phải được dỡ bỏ, chướng ngại phải bị phá huỷ - thế thì tình yêu là bản thể tự nhiên, tự phát của bạn. Một khi chướng ngại đã được loại bỏ, tảng đá đã bị vứt đi, luồng chảy bắt đầu. Nó đã có đó rồi - bị giấu kín đằng sau nhiều tảng đá, nhưng dòng suối thì đã có đó rồi. Nó là chính bản thể của bạn.


Nó là món quà, nhưng không phải là cái gì đó sẽ xảy ra trong tương lai; nó là món quà đã xảy ra cùng việc sinh của bạn. Hiện hữu là yêu đấy. Có khả năng thở là đủ để có khả năng yêu. Yêu giống như việc thở vậy. Điều việc thở là dành cho thân thể vật lí, thì yêu là dành cho bản thể tâm linh. Không có việc thở thân thể chết; không có tình yêu linh hồn chết.


Cho nên điều đầu tiên cần ghi nhớ: Nó không phải là cái gì đó bạn có thể học được. Và nếu bạn học bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề; bạn sẽ học cái gì đó khác nhân danh tình yêu. Nó sẽ là rởm, giả. Và đồng tiền giả có thể trông giống như đồng tiền thật; nếu bạn không biết cái thật, cái giả có thể cứ lừa dối bạn. Chỉ bằng việc biết cái thực, bạn mới có khả năng thấy sự phân biệt giữa cái giả và cái thực.


Và tất cả những cái này đều là chướng ngại: ghen tuông, sở hữu, gắn bó, trông đợi, ham muốn... Và nỗi sợ của bạn là đúng: "Nếu tất cả những cái này biến mất, cái gì sẽ còn lại từ tình yêu của tôi?" Chẳng cái gì sẽ còn lại từ tình yêu của bạn. Tình yêu sẽ còn lại... nhưng tình yêu không có liên quan gì tới cái "tôi" hay "bạn". Thực tế, khi tất cả sở hữu, tất cả ghen tuông, tất cả trông đợi đều biến mất, tình yêu không biến mất - bạn biến mất, bản ngã biến mất. Những điều này là cái bóng của bản ngã.


Không phải tình yêu là ghen tuông đâu. Hãy theo dõi, nhìn, lại quan sát. Khi bạn cảm thấy ghen tuông, đấy không phải là tình yêu cảm thấy ghen tuông đâu; tình yêu chưa bao giờ biết gì tới ghen tuông cả. Cũng như mặt trời chưa bao giờ biết gì tới bóng tối, tình yêu chưa bao giờ biết gì tới ghen tuông. Chính bản ngã mới cảm thấy đau, chính bản ngã mới cảm thấy cạnh tranh. trong tranh đấu thường xuyên. Chính bản ngã mới tham vọng và muốn cao hơn người khác, muốn là ai đó đặc biệt. Chính bản ngã mới bắt đầu cảm thấy ghen tuông, sở hữu - bởi vì bản ngã có thể tồn tại được chỉ với sở hữu.


Bạn càng sở hữu nhiều, bản ngã càng được làm mạnh thêm; không sở hữu gì bản ngã không thể tồn tại được. Nó học theo sở hữu, nó phụ thuộc vào sở hữu. Cho nên nếu bạn có nhiều tiền, nhiều quyền lực, nhiều danh tiếng, đàn bà đẹp, đàn ông đẹp, con cái đẹp, thì bản ngã cảm thấy được nuôi dưỡng nhiều lắm. Khi sở hữu biến mất, khi bạn không sở hữu cái gì cả, bạn sẽ không tìm thấy bản ngã bên trong. Sẽ không có ai có thể nói "tôi".


Và nếu bạn nghĩ đây là tình yêu của bạn, thế thì chắc chắn tình yêu của bạn cũng sẽ biến mất. Tình yêu của bạn không thực là tình yêu đâu. Nó là ghen tuông, sở hữu, thù hận, giận dữ, bạo hành; nó là nghìn lẻ một thứ ngoại trừ tình yêu. Nó đeo mặt nạ là tình yêu - bởi vì tất cả những điều này đều xấu tới mức chúng không thể tồn tại được nếu thiếu mặt nạ.


Một chuyện ngụ ngôn cổ:


Thế giới được tạo ra, và Thượng đế mọi ngày đều gửi những điều mới tới thế giới. Một hôm ngài gửi các cô Đẹp và Xấu tới thế giới. Đó là cuộc hành trình dài từ thiên đường tới địa đường - khoảnh khắc họ tới lúc đó đã là sáng sớm, mặt trời đã lên. Họ tiếp đất gần cái hồ và cả hai quyết định tắm cái đã bởi vì toàn thể thân thể, quần áo đều đầy bụi bặm.


Không biết cách thức của thế giới - họ còn mới thế - họ cởi quần áo ra; hoàn toàn trần truồng, họ nhảy xuống nước lạnh của hồ. Mặt trời lên, mọi người bắt đầu tới. Xấu giở thủ đoạn - khi Đẹp bơi ra xa giữa hồ, Xấu trèo lên bờ, đeo đồ trang sức của Đẹp vào, và trốn mất. Vào lúc Đẹp trở nên nhận biết rằng "Mọi người đang tới rồi mà mình lại trần truồng," và cô ta nhìn quanh... quần áo của cô ấy mất rồi! Xấu chuồn đi rồi còn Đẹp đang đứng trần truồng trong ánh mặt trời, và đám đông đang tới gần hơn. Chẳng tìm ra cách nào, cô ta mặc quần áo của Xấu và đi tìm Xấu để cho họ có thể đổi lại quần áo.


Câu chuyện kể rằng cô ấy vấn còn đang tìm... nhưng Xấu lại tinh ranh và cứ trốn hoài. Xấu vẫn mặc quần áo của Đẹp, đeo mặt nạ là Đẹp, còn Đẹp đang chuyển động trong quần áo của Xấu.


Đó là một câu chuyện ngụ ngôn cực kì hay.


Tất cả những thứ này đều xấu tới mức bạn không thể dung thứ ở cùng với chúng được cho dù chỉ một khoảnh khắc nếu bạn thấy thực tại của chúng. Cho nên chúng không cho phép bạn thấy thực tại. Ghen tuông giả vờ là tình yêu, sở hữu tạo ra mặt nạ tình yêu... và thế thì bạn thấy thoải mái.


Bạn không lừa được ai khác ngoài bản thân mình. Những điều này không phải là tình yêu. Cho nên điều bạn biết là tình yêu, điều bạn đã biết cho tới bây giờ là tình yêu, sẽ biết mất. Nó chẳng có thơ ca gì trong nó cả. Vâng, đam mê có đó - nhưng đam mê là trạng thái cuồng nhiệt, đam mê là trạng thái vô ý thức. Đam mê không mang tính thơ ca. Thơ ca chỉ được biết tới bởi chư phật - thơ ca của cuộc sống, thơ ca của sự tồn tại.


Kích động, sôi sục, không phải là cực lạc. Chúng có vẻ giống, đấy mới là vấn đề. Trong cuộc sống nhiều thứ trông giống nhau và sự khác biệt rất tinh vi và tế nhị và vi tế. Kích động có thể trông giống cực lạc - nó không phải vậy, bởi vì cực lạc về cơ bản là điềm tĩnh. Đam mê thì nóng. Tình yêu mát mẻ, không lạnh mà mát mẻ. Hận thù thì lạnh lẽo. Đam mê, thèm khát là nóng. Tình yêu đích xác ở giữa. Nó mát mẻ - không lạnh không nóng. Nó là trạng thái của sự yên bình vô cùng, bình thảnh, chân thành, im lặng. Và từ cái im lặng đó là thơ ca, từ cái im lặng đó là bài ca, từ cái im lặng đó nảy sinh điệu vũ của bản thể bạn.


Điều bạn gọi là thơ ca và đam mê thì không là gì ngoài dối trá - với cái mẽ ngoài đẹp đẽ. Trong số một trăm nhà thơ của bạn, chín mươi chín người không thực là nhà thơ mà chỉ là người trong trạng thái rối loạn, xúc động, đam mê, thèm khát, dục tình, nhục dục. Chỉ một người trong số một trăm nhà thơ của bạn mới là nhà thơ thực.


Và nhà thơ thực có thể chẳng bao giờ soạn ra bài thơ nào, bởi vì toàn thể bản thể người đó là thơ ca rồi. Cách người đó bước, cách người đó ngồi, cách người đó ăn, cách người đó ngủ - tất cả đều la thơ ca. Người đó tồn tại như thơ ca. Người đó có thể sáng tác thơ, người đó có thể không sáng tác thơ, điều đó không liên quan.


Nhưng điều bạn gọi là thơ ca thì lại không là gì ngoài cách diễn đạt của cơn sốt của bạn, của trạng thái tâm thức nóng bỏng của bạn. Nó là trạng thái không lành mạnh. Đam mê là không lành mạnh, mù quáng, vô ý thức - bởi vì nó cho bạn cảm giác cứ dường như nó là tình yêu.


Tình yêu là có thể chỉ khi thiền đã xảy ra. Nếu bạn không biết cách được định tâm trong bản thể mình, nếu bạn không biết cách nghỉ ngơi và thảnh thơi trong bản thể mình, nếu bạn không biết cách hoàn toàn một mình và phúc lạc, thì bạn sẽ không bao giờ biết tình yêu là gì.


Tình yêu có vẻ như sự thân thuộc, nhưng bắt đầu trong trạng thái cô đơn sâu sắc. Tình yêu bày tỏ như việc quan hệ, nhưng cội nguồn của tình yêu lại không ở trong việc quan hệ; cội nguồn của tình yêu là trong việc thiền. Khi bạn tuyệt đối hạnh phúc trong tính một mình của mình - khi bạn không cần người khác chút nào, khi người khác không phải là nhu cầu - thế thì bạn có khả năng của tình yêu. Nếu người khác là nhu cầu của bạn thì bạn chỉ có thể khai thác, thao túng, chi phối, nhưng bạn không thể yêu được.


Bởi vì bạn phụ thuộc vào người khác, nên sở hữu nảy sinh - từ nỗi sợ. "Ai biết được? Người ấy cùng mình hôm nay; ngày mai người ấy có thể không cùng mình nữa. Ai biết được về khoảnh khắc tiếp đây?" Người đàn bà của bạn có thể bỏ bạn, con bạn có thể lớn lên và ra đi, chồng bạn có thể bỏ bạn mà đi. Ai biết được về khoảnh khắc tiếp? Từ nỗi sợ đó về tương lai mà bạn trở nên rất sở hữu. Bạn tạo ra tù túng quanh người bạn nghĩ bạn yêu.


Nhưng tình yêu không thể tạo ra nhà tù được - và nếu tình yêu tạo ra nhà tù, thế thì chẳng cái gì được để lại cho hận thù làm. Tình yêu đem tới tự do, tình yêu cho tự do. Nó là không sở hữu. Nhưng điều đó là có thể chỉ nếu bạn đã biết phẩm chất khác toàn bộ của tình yêu, không phải là nhu cầu mà là chia sẻ.


Tình yêu là việc chia sẻ của niềm vui tuôn trào. Bạn quá tràn đầy niềm vui; bạn không thể chứa được nó, bạn phải chia sẻ nó. Thế thì có thơ ca và thế thì có cái gì đó cực kì đẹp mà không của thế giới này, mà là cái gì đó tới từ cõi bên kia. Tình yêu này không thể được học, nhưng chướng ngại có thể được vứt bỏ.


Nhiều lần tôi nói hãy học nghệ thuật của tình yêu, nhưng điều tôi thực sự ngụ ý là: Hãy học nghệ thuật loại bỏ tất cả những cái cản trở tình yêu. Nó là quá trình phủ định. Nó giống như đào giếng: Bạn cứ loại bỏ đi nhiều tầng đất, đá, đá tảng, và thế rồi bỗng nhiên có nước. Nước bao giờ cũng có đó rồi; nó là dòng chảy ngầm. Bây giờ bạn đã loại bỏ đi tất cả rào chắn, nước sẵn có đấy. Tình yêu cũng thế: Tình yêu là dòng chảy ngầm của bản thể bạn. Nó đã tuôn chảy rồi, nhưng có nhiều tảng đá, nhiều tầng đất cần phải bị loại bỏ.


Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói học nghệ thuật của tình yêu. Nó thực sự không phải là học yêu mà là tháo dỡ cách thức không yêu.

Nếu ghen tuông, sở hữu, gắn bó, nhu cầu và mong đợi và ham muốn và ảo tưởng bị vứt bỏ, thì cái gì sẽ còn lại trong tình yêu của tôi? Có phải mọi thơ ca và đam mê của tôi đều là dối trá không? Những đau đớn tình yêu của tôi có liên quan nhiều tới đau đơn hơn là với tình yêu không? Tôi có học yêu được không?

Tình yêu không thể học được, nó không thể được trau dồi. Tình yêu trau dồi sẽ không là tình yêu chút nào. Nó sẽ không là hoa hồng thực, nó sẽ là hoa nhựa thôi. Khi bạn học cái gì đó, điều đó nghĩa là cái gì đó tới từ bên ngoài; nó không phải là sự trưởng thành bên trong. Và tình yêu phải là sự trưởng thành bên trong của bạn nếu nó là chân thực và thực sự.


Tình yêu không phải là việc học tập mà là sự trưởng thành. Tất cả mọi điều cần thiết về phần bạn không phải là học cách yêu, mà là gỡ bỏ cách không yêu. Rào cản phải được dỡ bỏ, chướng ngại phải bị phá huỷ - thế thì tình yêu là bản thể tự nhiên, tự phát của bạn. Một khi chướng ngại đã được loại bỏ, tảng đá đã bị vứt đi, luồng chảy bắt đầu. Nó đã có đó rồi - bị giấu kín đằng sau nhiều tảng đá, nhưng dòng suối thì đã có đó rồi. Nó là chính bản thể của bạn.


Nó là món quà, nhưng không phải là cái gì đó sẽ xảy ra trong tương lai; nó là món quà đã xảy ra cùng việc sinh của bạn. Hiện hữu là yêu đấy. Có khả năng thở là đủ để có khả năng yêu. Yêu giống như việc thở vậy. Điều việc thở là dành cho thân thể vật lí, thì yêu là dành cho bản thể tâm linh. Không có việc thở thân thể chết; không có tình yêu linh hồn chết.


Cho nên điều đầu tiên cần ghi nhớ: Nó không phải là cái gì đó bạn có thể học được. Và nếu bạn học bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề; bạn sẽ học cái gì đó khác nhân danh tình yêu. Nó sẽ là rởm, giả. Và đồng tiền giả có thể trông giống như đồng tiền thật; nếu bạn không biết cái thật, cái giả có thể cứ lừa dối bạn. Chỉ bằng việc biết cái thực, bạn mới có khả năng thấy sự phân biệt giữa cái giả và cái thực.


Và tất cả những cái này đều là chướng ngại: ghen tuông, sở hữu, gắn bó, trông đợi, ham muốn... Và nỗi sợ của bạn là đúng: "Nếu tất cả những cái này biến mất, cái gì sẽ còn lại từ tình yêu của tôi?" Chẳng cái gì sẽ còn lại từ tình yêu của bạn. Tình yêu sẽ còn lại... nhưng tình yêu không có liên quan gì tới cái "tôi" hay "bạn". Thực tế, khi tất cả sở hữu, tất cả ghen tuông, tất cả trông đợi đều biến mất, tình yêu không biến mất - bạn biến mất, bản ngã biến mất. Những điều này là cái bóng của bản ngã.


Không phải tình yêu là ghen tuông đâu. Hãy theo dõi, nhìn, lại quan sát. Khi bạn cảm thấy ghen tuông, đấy không phải là tình yêu cảm thấy ghen tuông đâu; tình yêu chưa bao giờ biết gì tới ghen tuông cả. Cũng như mặt trời chưa bao giờ biết gì tới bóng tối, tình yêu chưa bao giờ biết gì tới ghen tuông. Chính bản ngã mới cảm thấy đau, chính bản ngã mới cảm thấy cạnh tranh. trong tranh đấu thường xuyên. Chính bản ngã mới tham vọng và muốn cao hơn người khác, muốn là ai đó đặc biệt. Chính bản ngã mới bắt đầu cảm thấy ghen tuông, sở hữu - bởi vì bản ngã có thể tồn tại được chỉ với sở hữu.


Bạn càng sở hữu nhiều, bản ngã càng được làm mạnh thêm; không sở hữu gì bản ngã không thể tồn tại được. Nó học theo sở hữu, nó phụ thuộc vào sở hữu. Cho nên nếu bạn có nhiều tiền, nhiều quyền lực, nhiều danh tiếng, đàn bà đẹp, đàn ông đẹp, con cái đẹp, thì bản ngã cảm thấy được nuôi dưỡng nhiều lắm. Khi sở hữu biến mất, khi bạn không sở hữu cái gì cả, bạn sẽ không tìm thấy bản ngã bên trong. Sẽ không có ai có thể nói "tôi".


Và nếu bạn nghĩ đây là tình yêu của bạn, thế thì chắc chắn tình yêu của bạn cũng sẽ biến mất. Tình yêu của bạn không thực là tình yêu đâu. Nó là ghen tuông, sở hữu, thù hận, giận dữ, bạo hành; nó là nghìn lẻ một thứ ngoại trừ tình yêu. Nó đeo mặt nạ là tình yêu - bởi vì tất cả những điều này đều xấu tới mức chúng không thể tồn tại được nếu thiếu mặt nạ.


Một chuyện ngụ ngôn cổ:


Thế giới được tạo ra, và Thượng đế mọi ngày đều gửi những điều mới tới thế giới. Một hôm ngài gửi các cô Đẹp và Xấu tới thế giới. Đó là cuộc hành trình dài từ thiên đường tới địa đường - khoảnh khắc họ tới lúc đó đã là sáng sớm, mặt trời đã lên. Họ tiếp đất gần cái hồ và cả hai quyết định tắm cái đã bởi vì toàn thể thân thể, quần áo đều đầy bụi bặm.


Không biết cách thức của thế giới - họ còn mới thế - họ cởi quần áo ra; hoàn toàn trần truồng, họ nhảy xuống nước lạnh của hồ. Mặt trời lên, mọi người bắt đầu tới. Xấu giở thủ đoạn - khi Đẹp bơi ra xa giữa hồ, Xấu trèo lên bờ, đeo đồ trang sức của Đẹp vào, và trốn mất. Vào lúc Đẹp trở nên nhận biết rằng "Mọi người đang tới rồi mà mình lại trần truồng," và cô ta nhìn quanh... quần áo của cô ấy mất rồi! Xấu chuồn đi rồi còn Đẹp đang đứng trần truồng trong ánh mặt trời, và đám đông đang tới gần hơn. Chẳng tìm ra cách nào, cô ta mặc quần áo của Xấu và đi tìm Xấu để cho họ có thể đổi lại quần áo.


Câu chuyện kể rằng cô ấy vấn còn đang tìm... nhưng Xấu lại tinh ranh và cứ trốn hoài. Xấu vẫn mặc quần áo của Đẹp, đeo mặt nạ là Đẹp, còn Đẹp đang chuyển động trong quần áo của Xấu.


Đó là một câu chuyện ngụ ngôn cực kì hay.


Tất cả những thứ này đều xấu tới mức bạn không thể dung thứ ở cùng với chúng được cho dù chỉ một khoảnh khắc nếu bạn thấy thực tại của chúng. Cho nên chúng không cho phép bạn thấy thực tại. Ghen tuông giả vờ là tình yêu, sở hữu tạo ra mặt nạ tình yêu... và thế thì bạn thấy thoải mái.


Bạn không lừa được ai khác ngoài bản thân mình. Những điều này không phải là tình yêu. Cho nên điều bạn biết là tình yêu, điều bạn đã biết cho tới bây giờ là tình yêu, sẽ biết mất. Nó chẳng có thơ ca gì trong nó cả. Vâng, đam mê có đó - nhưng đam mê là trạng thái cuồng nhiệt, đam mê là trạng thái vô ý thức. Đam mê không mang tính thơ ca. Thơ ca chỉ được biết tới bởi chư phật - thơ ca của cuộc sống, thơ ca của sự tồn tại.


Kích động, sôi sục, không phải là cực lạc. Chúng có vẻ giống, đấy mới là vấn đề. Trong cuộc sống nhiều thứ trông giống nhau và sự khác biệt rất tinh vi và tế nhị và vi tế. Kích động có thể trông giống cực lạc - nó không phải vậy, bởi vì cực lạc về cơ bản là điềm tĩnh. Đam mê thì nóng. Tình yêu mát mẻ, không lạnh mà mát mẻ. Hận thù thì lạnh lẽo. Đam mê, thèm khát là nóng. Tình yêu đích xác ở giữa. Nó mát mẻ - không lạnh không nóng. Nó là trạng thái của sự yên bình vô cùng, bình thảnh, chân thành, im lặng. Và từ cái im lặng đó là thơ ca, từ cái im lặng đó là bài ca, từ cái im lặng đó nảy sinh điệu vũ của bản thể bạn.


Điều bạn gọi là thơ ca và đam mê thì không là gì ngoài dối trá - với cái mẽ ngoài đẹp đẽ. Trong số một trăm nhà thơ của bạn, chín mươi chín người không thực là nhà thơ mà chỉ là người trong trạng thái rối loạn, xúc động, đam mê, thèm khát, dục tình, nhục dục. Chỉ một người trong số một trăm nhà thơ của bạn mới là nhà thơ thực.


Và nhà thơ thực có thể chẳng bao giờ soạn ra bài thơ nào, bởi vì toàn thể bản thể người đó là thơ ca rồi. Cách người đó bước, cách người đó ngồi, cách người đó ăn, cách người đó ngủ - tất cả đều la thơ ca. Người đó tồn tại như thơ ca. Người đó có thể sáng tác thơ, người đó có thể không sáng tác thơ, điều đó không liên quan.


Nhưng điều bạn gọi là thơ ca thì lại không là gì ngoài cách diễn đạt của cơn sốt của bạn, của trạng thái tâm thức nóng bỏng của bạn. Nó là trạng thái không lành mạnh. Đam mê là không lành mạnh, mù quáng, vô ý thức - bởi vì nó cho bạn cảm giác cứ dường như nó là tình yêu.


Tình yêu là có thể chỉ khi thiền đã xảy ra. Nếu bạn không biết cách được định tâm trong bản thể mình, nếu bạn không biết cách nghỉ ngơi và thảnh thơi trong bản thể mình, nếu bạn không biết cách hoàn toàn một mình và phúc lạc, thì bạn sẽ không bao giờ biết tình yêu là gì.


Tình yêu có vẻ như sự thân thuộc, nhưng bắt đầu trong trạng thái cô đơn sâu sắc. Tình yêu bày tỏ như việc quan hệ, nhưng cội nguồn của tình yêu lại không ở trong việc quan hệ; cội nguồn của tình yêu là trong việc thiền. Khi bạn tuyệt đối hạnh phúc trong tính một mình của mình - khi bạn không cần người khác chút nào, khi người khác không phải là nhu cầu - thế thì bạn có khả năng của tình yêu. Nếu người khác là nhu cầu của bạn thì bạn chỉ có thể khai thác, thao túng, chi phối, nhưng bạn không thể yêu được.


Bởi vì bạn phụ thuộc vào người khác, nên sở hữu nảy sinh - từ nỗi sợ. "Ai biết được? Người ấy cùng mình hôm nay; ngày mai người ấy có thể không cùng mình nữa. Ai biết được về khoảnh khắc tiếp đây?" Người đàn bà của bạn có thể bỏ bạn, con bạn có thể lớn lên và ra đi, chồng bạn có thể bỏ bạn mà đi. Ai biết được về khoảnh khắc tiếp? Từ nỗi sợ đó về tương lai mà bạn trở nên rất sở hữu. Bạn tạo ra tù túng quanh người bạn nghĩ bạn yêu.


Nhưng tình yêu không thể tạo ra nhà tù được - và nếu tình yêu tạo ra nhà tù, thế thì chẳng cái gì được để lại cho hận thù làm. Tình yêu đem tới tự do, tình yêu cho tự do. Nó là không sở hữu. Nhưng điều đó là có thể chỉ nếu bạn đã biết phẩm chất khác toàn bộ của tình yêu, không phải là nhu cầu mà là chia sẻ.


Tình yêu là việc chia sẻ của niềm vui tuôn trào. Bạn quá tràn đầy niềm vui; bạn không thể chứa được nó, bạn phải chia sẻ nó. Thế thì có thơ ca và thế thì có cái gì đó cực kì đẹp mà không của thế giới này, mà là cái gì đó tới từ cõi bên kia. Tình yêu này không thể được học, nhưng chướng ngại có thể được vứt bỏ.


Nhiều lần tôi nói hãy học nghệ thuật của tình yêu, nhưng điều tôi thực sự ngụ ý là: Hãy học nghệ thuật loại bỏ tất cả những cái cản trở tình yêu. Nó là quá trình phủ định. Nó giống như đào giếng: Bạn cứ loại bỏ đi nhiều tầng đất, đá, đá tảng, và thế rồi bỗng nhiên có nước. Nước bao giờ cũng có đó rồi; nó là dòng chảy ngầm. Bây giờ bạn đã loại bỏ đi tất cả rào chắn, nước sẵn có đấy. Tình yêu cũng thế: Tình yêu là dòng chảy ngầm của bản thể bạn. Nó đã tuôn chảy rồi, nhưng có nhiều tảng đá, nhiều tầng đất cần phải bị loại bỏ.


Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói học nghệ thuật của tình yêu. Nó thực sự không phải là học yêu mà là tháo dỡ cách thức không yêu.

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011

Chu kì bẩy năm của cuộc sống

Cuộc sống có hình mẫu bên trong, hiểu được nó là tốt. Cứ bẩy năm một, các nhà sinh lí nói, thân thể và tâm trí trải qua khủng hoảng và thay đổi, được đổi mới hoàn toàn. Thực tế nếu bạn sống bẩy mươi tuổi, giới hạn trung bình, thân thể bạn chết đi mười lần. Cứ mỗi bẩy năm mọi sự lại thay đổi -- điều đó cũng giống như đổi mùa. Trong bẩy mươi năm vòng tròn này hoàn chỉnh. Đường đi từ việc sinh tới việc tử, vòng tròn này hoàn chỉnh trong bẩy mươi năm. Nó có mười việc phân chia.


Thực tế cuộc đời con người không nên bị phân chia thành thời thơ ấu, thời thanh niên, thời già lão -- điều đó không khoa học lắm bởi vì cứ bẩy năm một thời kì mới lại bắt đầu, một bước mới được thực hiện.


Trong bẩy năm đầu tiên đứa trẻ coi mình là trung tâm, cứ dường như nó là trung tâm của toàn thể thế giới. Toàn thể gia đình xoay quanh nó. Bất kì cái gì nó cần, họ đều hoàn thành ngay lập tức; bằng không nó sẽ nổi cơn tam bành, giận dữ, cuồng nộ. Nó sống như một hoàng đế, một hoàng đế thực thụ -- mẹ, bố, mọi người phục vụ, và cả gia đình chỉ tồn tại vì nó. Và tất nhiên nó nghĩ cùng điều đó cũng đúng cho thế giới rộng hơn. Mặt trăng lên vì nó, mặt trời lên vì nó, mùa vụ đổi vì nó. Đứa trẻ trong bẩy năm vẫn còn tuyệt đối bản ngã, lấy mình làm trung tâm. Nếu bạn hỏi các nhà tâm lí thì họ sẽ nói đứa trẻ trong bẩy năm vẫn còn tự thoả mãn, thoả mãn cho chính mình. Nó không cần cái gì khác, không cần ai khác. Nó cảm thấy đầy đủ.

Sau bẩy năm -- một đột phá. Đứa trẻ không còn lấy mình làm trung tâm nữa; nó trở thành lệch tâm, theo đúng nghĩa. Lệch tâm -- từ này có nghĩa là "đi ra ngoài trung tâm." Nó đi tới người khác. Người khác trở thành hiện tượng quan trọng -- bạn bè, kéo bè kéo cánh... Bây giờ nó không còn quan tâm nhiều tới bản thân mình nữa; nó quan tâm tới người khác, thế giới lớn hơn. Nó đi vào cuộc phiêu lưu để biết "người khác" này là ai. Cuộc truy tìm bắt đầu.


Sau bẩy năm đứa trẻ trở thành người hay hỏi lớn. Nó hỏi về mọi thứ. Nó trở thành người hoài nghi lớn vì việc truy tìm của nó đang đó. Nó hỏi cả triệu câu hỏi. Nó làm cho bố mẹ chán đến chết, nó trở thành mối phiền toái. Nó quan tâm tới người khác, và mọi thứ của thế giới đều là mối quan tâm của nó. Tại sao cây lại xanh? Tại sao Thượng đế đã tạo ra thế giới? Tại sao điều này là như vậy? Nó bắt đầu trở nên ngày một triết lí hơn -- truy tìm, hoài nghi, nó cứ khăng khăng đi vào mọi thứ.


Nó giết con bướm để xem cái gì ở bên trong, nó phá đồ chơi chỉ để xem đồ chơi vận hành thế nào, nó ném đồng hồ đi chỉ để nhìn vào bên trong đồng hồ, sao mà đồng hồ cứ tích tắc và rung chuông -- cái gì đang diễn ra bên trong? Nó trở nên quan tâm tới người khác -- nhưng người khác vẫn còn cùng giới. Nó không quan tâm tới con gái. Nếu con trai khác quan tâm tới con gái nó sẽ nghĩ bọn họ là chị em. Con gái không quan tâm tới con trai. Nếu con gái nào đó quan tâm tới con trai và chơi với chúng thì cô bé này là con gái kiểu con trai, không bình thường, không trung bình; cái gì đó sai. Giai đoạn thứ hai này các nhà phân tâm và tâm lí sẽ nói là đồng dục.


Sau mười bốn tuổi cánh cửa thứ ba mở ra. Nó không còn quan tâm tới con trai nữa, con gái không còn quan tâm tới con gái. Chúng lễ phép, nhưng không quan tâm. Đó là lí do tại sao bất kì tình bạn nào xảy ra giữa bẩy và mười bốn tuổi đều sâu sắc nhất, bởi vì tâm trí là đồng dục, và trong cuộc sống tình bạn như vậy sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa. Những người bạn đó vẫn còn là bạn vĩnh viễn, nó là mối liên hệ sâu sắc thế. Bạn sẽ trở nên thân thiện với mọi người nhưng điều đó sẽ vẫn còn là sự quen biết, không phải là hiện tượng sâu sắc đã xảy ra giữa bẩy và mười bốn tuổi.


Nhưng sau tuổi mười bốn con trai không còn quan tâm tới con trai. Nếu mọi sự xảy ra bình thường, nếu nó không bị mắc kẹt ở đâu đó, nó sẽ quan tâm tới con gái. Bây giờ nó trở thành dị dục -- không chỉ quan tâm tới những người khác, mà thực sự quan tâm tới một người khác -- bởi vì khi con trai quan tâm tới con trai, con trai có thể là "người khác" nhưng người khác vẫn là con trai như bản thân nó, không đích xác là người khác. Khi con trai trở nên quan tâm tới con gái, bây giờ nó thực sự quan tâm tới cái đối lập, người khác thực. Khi con gái trở nên quan tâm tới con trai, bây giờ thế giới đi vào.

Tuổi mười bốn là tuổi cách mạng lớn lao. Dục trở nên chín muồi, người ta bắt đầu ngihĩ dưới dạng dục; những phóng túng dục trở thành nổi bật trong giấc mơ. Con trai trở thành Don Juan lớn, bắt đầu tán tỉnh. Thơ ca nảy sinh, lãng mạn. Nó đi vào trong thế giới.

Đến tuổi hai mươi mốt -- nếu mọi sự diễn ra bình thường, và đứa trẻ không bị xã hội bó buộc phải làm điều gì đó không tự nhiên -- đến tuổi hai mươi mốt đứa trẻ trở nên quan tâm tới tham vọng hoài bão nhiều hơn tình yêu. Nó muốn xe Rolls Royce, biệt thự lớn. Nó muốn là người thành công, một Rockefeller, một thủ tướng. Tham vọng trở thành nổi bật; ham muốn về tương lai, được thành công, cách thành công, cách hoàn thành, cách đi vào cuộc tranh đấu là toàn bộ mối quan tâm của nó.


Bây giờ nó không chỉ đi vào thế giới tự nhiên, nó đang đi vào thế giới con người, bãi chợ. Bây giờ nó đi vào thế giới của sự điên khùng. Bây giờ chợ trở thành điều nổi bật nhất. Toàn thể bản thể của nó đều hướng tới chợ -- tiền bạc, quyền lực, danh tiếng.

Nếu mọi sự đi đúng -- vì nó chẳng bao giờ đi đúng cả, toi đang nói về hiện tượng tự nhiên tuyệt đối -- thì đến tuổi hai mươi tám con người không còn cố gắng đi vào trong cuộc sống phiêu lưu theo bất kì cách nào. Từ hai mươi mốt tới hai mươi tám người ta sống trong phiêu lưu; đến tuổi hai mươi tám người ta trở nên tỉnh táo hơn rằng tất cả các ham muốn không thể được hoàn thành hết. Có nhiều hiểu biết hơn rằng nhiều ham muốn là không thể được. Nếu bạn ngu bạn có thể cứ theo đuổi chúng, nhưng những người thông minh lại đi vào một cánh cửa khác khi đến tuổi hai mươi tám. Họ trở nên quan tâm đến an ninh và tiện nghi, ít phiêu lưu và tham vọng hơn. Họ bắt đầu lắng đọng. Tuổi hai mươi tám là chỗ hết cho thời lập dị chống lại xã hội.

Đến tuổi hai mươi tám mọi người hippies đều trở thành thật thà, nhà cách mạng không còn là nhà cách mạng nữa; họ bắt đầu lắng đọng, họ tìm kiếm cuộc sống tiện nghi, một số dư ngân hàng nho nhỏ. Họ không muốn là Rockefellers -- chuyện đó kết thúc rồi, niềm thôi thúc đó không còn nữa. Họ muốn có ngôi nhà nhỏ, nhưng là một chỗ ấm cúng, được thiết lập để sống, để có an ninh, để cho ít nhất họ bao giờ cũng có thể có một số dư ngân hàng nho nhỏ. Họ tới công ti bảo hiểm quãng tuổi hai mươi tám. Họ bắt đầu lắng đọng. Bây giờ kẻ lêu lổng không còn là kẻ lêu lổng nữa. Anh ta mua nhà, bắt đầu sống trong đó; anh ta trở nên văn minh. Từ văn minh civilization bắt nguồn từ civis, công dân. Bây giờ anh ta trở thành một phần của thị trấn, thành phố, của một định chế. Anh ta không còn là kẻ lêu lổng, không còn là kẻ lang thang. Bây giờ anh ta không đi tới Kathmandu và Goa. Anh ta không đi đâu cả -- mọi sự đã kết thúc, đã du hành đủ rồi, đã biết đủ rồi; bây giờ anh ta muốn định cư và nghỉ lại một chút.

Đến tuổi ba mươi lăm năng lượng sống đạt tới điểm đỉnh của nó. Vòng tròn đã hoàn thành một nửa và năng lượng bắt đầu suy giảm. Bây giờ người này không chỉ quan tâm tới an ninh và tiện nghi, người này trở thành một Tory, chính thống. Người đó không chỉ quan tâm tới cách mạng, người đó trở thành người phản cách mạng. Bây giờ người đó chống lại mọi thay đổi, người đó là người tuân thủ theo tôn giáo. Người đó chống lại mọi cuộc cách mạng; người đó muốn giữ nguyên trạng bởi vì bây giờ người đó đã lắng đọng và nếu bất kì cái gì thay đổi thì mọi sự sẽ bị đảo lộn. Bây giờ người đó nói chống lại kẻ hippies, chống lại nổi dậy; Bây giờ người đó đã thực sự trở thành một phần của định chế.


Và điều này là tự nhiên -- chừng nào điều gì đó còn không đi sai thì con người sẽ không còn ở tình trạng hippie mãi mãi. Đó là một pha, đi qua thì tốt nhưng mắc kẹt lại là xấu. Điều đó nghĩa là bạn vẫn còn bị mắc kẹt ở giai đoạn nào đó. Là đồng dục giữa bẩy và mười bốn tuổi là tốt, nhưng nếu người ta vẫn còn đồng dục trong cả đời thì điều đó có nghĩa là người đó đã không trưởng thành, người đó không là người lớn. Phải có tiếp xúc với đàn bà, đó là một phần của cuộc sống. Giới khác phải trở thành quan trọng bởi vì chỉ thế thì bạn mới có khả năng biết được sự hài hoà của các phía đối lập, sự xung đột, khốn khổ, và cực lạc -- nỗi khổ và cực lạc cả hai. Đó là sự huấn luyện, sự huấn luyện cần thiết.


Đến tuổi ba mươi nhăm người ta phải trở thành một phần của thế giới qui ước. Người ta bắt đầu tin vào tín ngưỡng, trong quá khứ, tin vào Vedas, kinh Koran, Kinh Thánh. Người ta dứt khoát chống lại thay đổi bởi vì mọi thay đổi nghĩa là cuộc sống riêng của bạn sẽ bị quấy rối; bây giờ bạn có nhiều thứ bị mất. Bạn không thể ủng hộ cách mạng được -- bạn muốn bảo vệ... Người ta thiên về luật pháp và toà án và chính phủ. Người ta không còn là kẻ vô chính phủ nữa; người ta đều ủng hộ cho chính phủ, các qui tắc, điều luật, kỉ luật.

Đến tuổt bốn mươi hai tất cả mọi loại ốm yếu thể chết và tinh thần bột phát, bởi vì bây giờ cuộc sống đang suy giảm. Năng lượng đang hướng tới cái chết. Như lúc bắt đầu -- năng lượng của bạn đã đi lên và bạn đã trở nên ngày một sống động, mạnh mẽ hơn, bạn đã trở nên ngày một mạnh hơn -- bây giờ chính điều đối lập lại xảy ra, bạn trở nên ngày một yếu hơn mọi ngày. Nhưng thói quen của bạn vẫn còn dai dẳng. Bạn đã ăn đủ cho tới tuổi ba mươi nhăm; bây giờ nếu bạn tiếp tục thói quen của mình thì bạn sẽ bắt đầu tích trữ mỡ. Bây giờ, lượng thức ăn đó là không cần thiết. Nó đã được cần tới trước đây nhưng bây giờ nó không còn cần thiết nữa bởi vì cuộc sống đang đi tới cái chết, cuộc sống không cần nhiều thức ăn như vậy. Nếu bạn cứ nhét đầy bụng mình như bạn đã làm trước đây, thế thì đủ mọi loại bệnh tật sẽ xuất hiện: cao huyết áp, đau tim, mất ngủ, ung nhọt -- chúng tất cả xảy ra quãng độ bốn mươi hai tuổi; bốn mươi hai tuổi là một trong những điểm nguy hiểm nhất. Tóc bắt đầu rụng, bạc dần. Cuộc sống biến vào trong cái chết.


Và gần tuổi bốn mươi hai thì tôn giáo bắt đầu trở thành quan trọng lần đầu tiên. Bạn có thể đã từng dính dáng đây đó vào tôn giáo trước đây, nhưng bây giờ tôn giáo lần đầu tiên bắt đầu trở nên quan trọng -- bởi vì tôn giáo có liên quan sâu sắc với cái chết. Bây giờ cái chết đang lại gần và ham muốn đầu tiên về tôn giáo nảy sinh.

Carl Gustav Jung đã viết rằng trong cả đời mình ông ấy đã từng quan sát rằng những người tới ông ấy quãng độ tuổi bốn mươi bao giờ cũng có nhu cầu tôn giáo. Nếu họ phát điên, thần kinh, tâm thần, họ không thể nào được giúp đỡ nếu họ không trở nên bắt rễ sâu sắc vào tôn giáo. Họ cần tôn giáo; nhu cầu cơ sở của họ là tôn giáo. Và nếu xã hội là thế tục và bạn còn chưa hề được dạy về tôn giáo, thì khó khăn lớn nhất tới vào quãng độ tuổi bốn mươi hai -- bởi vì xã hội không cho bạn bất kì một đại lộ, một cánh cửa, một chiều hướng nào.


Xã hội là tốt khi bạn mười bốn tuổi, bởi vì xã hội cho đủ dục -- toàn thể xã hội đều mang tính dục; dục dường như là món hàng duy nhất ẩn kín trong mọi món hàng. Nếu bạn muốn bán xe tải mười tấn thì thế nữa bạn phải dùng một phụ nữ trần truồng. Hay thuốc đánh răng - thế nữa. Xe tải hay thuốc đánh răng, cũng chẳng tạo ra khác biệt gì: đàn bà trần truồng bao giờ cũng mỉm cười ở đó đằng sau. Thực sự đàn bà được bán. Xe tải không được bán, thuốc đánh răng không được bán, đàn bà được bán. Và bởi vì đàn bà tới, nụ cười của đàn bà tới cùng thuốc đánh răng, bạn phải mua thuốc đánh răng nữa. Mọi nơi dục đều được bán.


Cho nên xã hội này, xã hội trần tục này, là tốt cho người trẻ. Nhưng họ sẽ không còn trẻ mãi được. Khi họ lên tới bốn hai tuổi bỗng nhiên xã hội bỏ quên lãng họ. Họ không biết phải làm gì bây giờ. Họ trở nên thần kinh bởi vì họ không biết, họ chưa bao giờ được huấn luyện, không kỉ luật nào đã được trao cho họ để đối diện với cái chết. Xã hội đã làm cho họ sẵn sàng cho cuộc sống, nhưng không ai đã dạy họ trở nên sẵn sàng cho cái chết. Họ cần nhiều giáo dục về cái chết cũng như họ cần giáo dục về cuộc sống.

Nếu tôi mà được phép theo cách của mình thì tôi sẽ chia các đại học thành hai phần: một phần cho người trẻ, phần kia cho người già. Người trẻ sẽ tới để học nghệ thuật của cuộc sống -- dục, tham vọng, tranh đấu. Thế rồi khi họ trở nên già hơn và họ đạt tới điểm đánh dấu bốn mươi hai, họ sẽ quay lại đại học để học về cái chết, Thượng đế, thiền -- bởi vì bây giờ các đại học cũ sẽ không còn có ích gì cho họ. Họ cần việc huấn luyện mới, kỉ luật mới, để cho họ có thể được bắt vào pha mới đang xảy ra cho họ.


Xã hội này bỏ quên lãng họ; đó là lí do tại sao ở phương Tây có nhiều bệnh tinh thần thế. Phương Đông không nhiều đến như vậy. Tại sao? -- bởi vì phương Đông vẫn còn có chút ít huấn luyện trong tôn giáo. Điều đó chưa biến mất hoàn toàn; dù là giả, dù dỏm, nó vẫn có đó, nó tồn tại ngay góc kia thôi. Không còn trong bãi chợ, không còn trong bề dày của cuộc sống; chỉ ở ngay bên cạnh -- nhưng có đền chùa. Bên ngoài con đường của cuộc sống, nhưng nó vẫn có đó. Bạn phải bước vài bước và bạn có thể đi tới đó, nó vẫn tồn tại.


Ở phương Tây tôn giáo không còn là một phần của cuộc sống. Đến quãng độ tuổi bốn mươi hai mọi người phương Tây đều trải qua các vấn đề tâm lí. Hàng nghìn kiểu loạn thần kinh xảy ra -- và ung nhọt. Ung nhọt là dấu vết của tham vọng. Người tham vọng nhất định bị ung nhọt trong dạ dầy: tham vọng cắn xé, nó ăn vào bạn. Ung nhọt không là gì khác hơn việc ăn bản thân bạn. Bạn căng thẳng tới mức bạn bắt đầu ăn thành dạ dầy của mình. Bạn căng thẳng thế, dạ dầy của bạn căng thẳng thế nó chưa bao giờ được thảnh thơi. Bất kì khi nào tâm trí căng thẳn thì dạ dầy căng thẳng.

Ung nhọt là dấu vết của tham vọng. Nếu bạn có ung nhọt điều đó chỉ ra bạn là người rất thành công. Nếu bạn không có ung nhọt bạn là người nghèo; cuộc sống của bạn đã thất bại, bạn đã thất bại hoàn toàn. Nếu bạn bị đau tim lần đầu tiên quãng bốn mươi hai tuổi bạn là người thành công lớn. Ít nhất bạn cũng là bộ trưởng nội các hay nhà công nghiệp giầu có hay nghệ sĩ nổi tiếng; bằng không, làm sao bạn giải thích được cho cơn đau tim? Đau tim là định nghĩa của thành công.


Tất cả mọi người thành công đều sẽ bị đau tim, họ phải bị vậy. Toàn thể hệ thống của họ đều bị nặng trĩu bởi các yếu tố độc hại: tham vọng, ham muốn, tương lai, ngày mai, cái không bao giờ có đó. Bạn đã sống trong mơ, bây giờ hệ thống của bạn không thể dung thứ được điều đó thêm nữa. Và bạn vẫn còn căng thẳng với tương lai tới mức sự căng thẳng này đã trở thành chính phong cách sống của bạn. Bây giờ nó là thói quen bắt rễ sâu.


Tại tuổi bốn mươi hai, lại một đột phá mới tới. Người ta bắt đầu nghĩ về tôn giáo, thế giới khác. Cuộc sống dường như quá nhiều,  và thời gian còn lại ít ỏi thế -- làm sao bạn có thể đạt tới Thượng đế, niết bàn, chứng ngộ? Do đó mới có lí thuyết hoá thân: "Đừng sợ. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa mà, cứ sinh đi sinh lại, và bánh xe cuộc sống sẽ cứ chuyển động mãi. Đừng sợ: có đủ thời gian, có đủ vĩnh hằng còn lại -- bạn có thể đạt tới được."


Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ ba tôn giáo lớn đã phát sinh -- Jaina giáo, Phật giáo và Hindu giáo -- và họ không đồng ý về bất kì điểm nào ngoại trừ hoá thân. Các lí thuyết bất đồng thế, thậm chí không đồng ý được trên nền tảng cơ sở về Thượng đế, bản chất của cái ta... nhưng tất cả chúng đều đồng ý về lí thuyết hoá thân -- phải có cái gì đó cho nó. Tất cả chúng đều cần thời gian, bởi vì để đạt tới Brahman -- người Hindus gọi nó là Brahman -- phải cần nhiều thời gian. Đó là một tham vọng lớn thế, và chỉ vào tuổi bốn mươi hai bạn mới trở nên quan tâm. Chỉ còn lại hai mươi tám năm nữa thôi.

Và đây mới chỉ là bắt đầu của mối quan tâm. Thực tế vào độ tuổi bốn mươi hai bạn trở lại là đứa trẻ trong thế giới của tôn giáo và chỉ còn lại hai mươi tám năm nữa thôi. Thời gian dường như quá ngắn, không đủ chút nào để đạt tới những đỉnh cao như vậy -- Brahman, người Hindus gọi nó là vậy. Người Jainas gọi nó là moksha, tự do tuyệt đối khỏi mọi nghiệp quá khứ. Nhưng hàng nghìn và hàng triệu kiếp đã có đó trong quá khứ; trong vòng hai mươi tám năm làm sao bạn bao quát được? Làm sao bạn sẽ hoàn tác toàn bộ quá khứ? Quá khứ mênh mông thế đang có đó, nghiệp xấu và nghiệp tốt -- làm sao bạn lau sạch các tội lỗi của mình trong vòng hai mươi tám năm? Điều đó dường như không đúng! Thượng đế đòi hỏi quá nhiều, điều đó là không thể được. Bạn sẽ cảm thấy thất vọng nếu bạn chỉ được cho hai mươi tám năm. Và các Phật tử, người không tin vào Thượng đế, không tin cả vào linh hồn -- họ cũng tin vào hoá thân. Niết bàn, sự trống rỗng cuối cùng, cái trống rỗng toàn bộ… khi bạn vẫn còn bị chất đầy với biết bao nhiêu rác rưởi thế trong biết bao nhiêu kiếp sống, làm sao bạn sẽ làm nhẹ nhõm bản thân mình trong vòng hai mươi tám năm? Điều đó là quá nhiều, dường như là việc không thể được. Cho nên tất cả họ đều đồng ý về một việc, là cần nhiều tương lai hơn, cần nhiều thời gian hơn.


Bất kì khi nào bạn có tham vọng thì đều cần tới thời gian. Và với tôi người tôn giáo là người không cần thời gian. Người đó được giải thoát ở đây và bây giờ, người đó đạt tới Brahman ở đây và bây giờ, người đó được giải thoát, chứng ngộ, ở đây và bây giờ. Người tôn giáo không cần thời gian chút nào bởi vì tôn giáo xảy ra trong khoảnh khắc vô thời gian. Nó xảy ra bây giờ, nó bao giờ cũng xảy ra; bằng không thì nó chẳng bao giờ xảy ra cả. Không có cách khác mà nó đã từng xảy ra.


Vào độ tuổi bốn mươi hai niềm thôi thúc đầu tiên nảy sinh, mơ hồ, không rõ ràng, lẫn lộn. Bạn thậm chí không nhận biết về điều đang xảy ra, nhưng bạn bắt đầu nhìn vào đền chùa với sự quan tâm thiết tha. Đôi khi nhân tiện, như một khách thăm vô tình, bạn cũng tới nhà thờ. Đôi khi -- lúc có thời gian, chẳng phải làm gì -- bạn bắt đầu nhìn vào Kinh Thánh, đọng đầy bụi trên bàn. Mơ hồ, không đích xác rõ ràng, cũng giống như đứa trẻ nhỏ mơ hồ về dục bắt đầu chơi với bộ phận sinh dục của mình, chẳng biết mình đang làm gì. Một thôi thúc mơ hồ... Đôi khi người ta ngồi một mình im lặng, bỗng nhiên cảm thấn an bình, chẳng biết mình đang làm gì. Đôi khi người ta bắt đầu lẩm nhẩm câu mật chú đã được nghe từ hồi nhỏ. Bà già hay lẩm nhẩm đọc nó; cảm thấy căng thẳng, người ta bắt đầu lẩm nhẩm đọc nó. Người ta bắt đầu tìm kiếm, tìm thầy, ai đó hướng dẫn cho mình. Người ta nhận điểm đạo, bắt đầu học mật chú, thỉnh thoảng lặp lại nó, rồi lại quên mất trong vài ngày, lại lặp lại … việc tìm kiếm mơ hồ, dò dẫm.


Đến tuổi bốn mươi chín việc tìm kiếm trở thành rõ ràng; phải mất bẩy năm cho việc tìm kiếm trở nên rõ ràng. Bây giờ một quyết tâm nảy sinh. Bạn không còn quan tâm tới người khác nữa, đặc biệt nếu mọi thứ đã đi đúng -- và tôi phải nhắc đi nhắc lại điều này bởi vì mọi thứ chẳng bao giờ đi đúng cả -- vào độ tuổi bốn mươi chín người ta trở nên không quan tâm tới đàn bà -- mãn kinh, vào tuổi bốn mươi chín. Đàn ông không cảm thấy thích tình dục. Toàn bộ mọi sự có vẻ giống như một thiếu niên, toàn bộ mọi sự có vẻ giống như hơi chút chưa trưởng thành.


Nhưng xã hội có thể ép buộc… Ở phương Đông họ đã chống lại dục và họ đã kìm nén dục. Khi con trai mười bốn tuổi chúng kìm nén dục và chúng muốn tin rằng con trai vẫn là đứa trẻ, nó không nghĩ tới con gái. Những đứa con trai khác là có thể -- những đứa con trai này bao giờ cũng có thể tìm được ở nhà hàng xóm – nhưng chẳng bao giờ là con trai của bạn; nó hồn nhiên như đứa trẻ, như thiên thần. Và nó trông rất hồn nhiên, nhưng điều đó không đúng -- nó mơ màng. Con gái đã đi vào tâm thức nó, phải đi vào, điều đó là tự nhiên -- và nó phải che dấu điều đó. Nó bắt đầu thủ dâm và nó phải che dấu điều đó. Nó có những giấc mơ ướt quần và nó phải che dấu điều đó.


Ở phương Đông con trai mười bốn tuổi trở nên mặc cảm. Cái gì đó sai đang xảy ra -- chỉ với nó, bởi vì nó không thể biết được rằng mọi người ở mọi nơi đều làm cùng điều đó. Và nhiều điều mọi người đang trông chờ ở nó -- rằng nó phải vẫn còn là một thiên thần, đồng trinh, không nghĩ tới con gái, thậm chí không mơ về con gái. Nhưng nó đã trở nên quan tâm -- xã hội đang kìm nén nó.

Ở phương Tây việc kìm nén này đã biến mất nhưng việc kìm nén khác lại tới -- và điều này phải được hiểu bởi vì đây là cảm giác của tôi, rằng xã hội không bao giờ có thể không mang tính kìm nén được. Nếu nó vứt bỏ kìm nén này, thì lập tức nó bắt đầu kìm nén khác. Bây giờ việc kìm nén lại vào quãng bốn mươi chín ở phương Tây: mọi người bị buộc vẫn còn trong dục bởi vì toàn thể việc dạy bảo nói, "Anh đang làm gì vậy? -- đàn ông có khả năng dục mãi cho tới tuổi chín mươi kia!" Những người có thẩm quyền lớn lao đều nói điều đó. Và nếu bạn bất lực và bạn không quan tâm, bạn bắt đầu cảm thấy mặc cảm. Vào độ tuổi bốn mươi chín đàn ông bắt đầu cảm thấy mặc cảm rằng mình không làm tình được nhiều như mình đáng phải làn.


Và có những thầy giáo cứ thuyết giảng, "Điều này là vô nghĩa. Bạn có thể làm tình, bạn có thể làm tình mãi tới chín mươi tuổi kia. Cứ làm tình đi." Và họ nói nếu bạn không làm tình bạn sẽ bị liệt dương; nếu bạn tiếp tục làm tình thì máy của bạn vẫn tiếp tục làm việc. Nếu bạn dừng lại thì chúng sẽ dừng lại, và một khi bạn dừng dục thì năng lượng sống của bạn sẽ sụt giảm, bạn sẽ chóng chết. Nếu chồng dừng lại, vợ quan tâm chăm sóc: "Anh làm gì thế?" Nếu vợ dừng lại chồng sẽ quan tâm chăm sóc cô ấy: "Điều này là ngược với các nhà tâm lí và điều này có thể tạo ra sự suy đồi nào đó."


Ở phương Đông chúng ta đã làm một điều ngu xuẩn và ở phương Tây cũng vậy, vào thời xưa, họ đã làm cùng điều ngu xuẩn này. Điều đó là chống lại tôn giáo vì đứa trẻ mười bốn tuổi trở nên có khả năng dục -- và nó trở nên có khả năng một cách tự nhiên thế. Đứa trẻ chẳng thể làm được gì, điều đó ở ngoài sự kiểm soát của nó. Nó có thể làm được gì? Làm sao nó có thể làm được điều đó? Mọi giáo huấn về độc thân vào độ tuổi mười bốn đều ngu xuẩn, bạn đang kìm nén con người này. Nhưng những nhà cầm quyền, các tín ngưỡng , các guru già nua, các nhà tâm lí già cả và những người tôn giáo -- họ tất cả đều chống lại dục, toàn thể giới cầm quyền đều chống lại dục. Đứa trẻ bị kìm nén, bị làm cho mặc cảm. Tự nhiên không được phép.


Bây giờ chính điều đối lập đang xảy ra tại đầu kia. Vào độ tuổi bốn mươi chín các nhà tâm lí đang buộc mọi người tiếp tục làm tình; bằng không bạn sẽ mất cuộc sống. Và vào độ tuổi bốn mươi chín... như tại độ tuổi mười bốn dục phát sinh tự nhiên, thì tại độ tuổi bốn mươi chín nó tự nhiên giảm đi. Nó phải như vậy, bởi vì mọi vòng tròn đều phải hoàn chỉnh.


Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ chúng ta đã quyết định rằng vào tuổi năm mươi đàn ông nên bắt đầu trở thành một vanprasth, mắt nên hướng vào rừng, lưng nên quay vào bãi chợ. Vanprasth là một từ hay; nó có nghĩa là người bắt đầu nhìn lên Himalayas, nhìn vào rừng. Bây giờ lưng người đó hướng vào cuộc sống và tham vọng và ham muốn và tất cả mọi thứ đó -- đều kết thúc. Người đó bắt đầu đi tới sự một mình, hướng tới bản thân mình.

Trước điều này, cuộc sống đã thành quá nhiều và người đó không thể một mình được; có những trách nhiệm cần phải được hoàn thành, trẻ con cần được nâng đỡ. Bây giờ chúng đã lớn khôn. Chúng xây dựng gia đình -- vào lúc bạn bốn mươi chín thì con bạn lấy vợ lấy chồng, định cư. Chúng không còn là kẻ hippies, chúng phải đạt tới độ tuổi hai mươi tám. Chúng sẽ lắng đọng -- bây giờ bạn có thể đảo lộn được. Bây giờ bạn có thể đi ra khỏi nhà, bạn có thể trở thành vô gia cư. Vào độ tuổi thứ bốn mươi chín người ta nên bắt đầu nhìn về rừng rậm, đi vào nội tâm, trở thành ngày một mang tính thiến và tính cầu nguyện hơn.


Vào độ tuổi năm mươi sáu lại một thay đổi tới, một cuộc cách mạng. Bây giờ nhìn lên Himalayas cũng không đủ; người ta phải thực sự du hành, người ta phải đi. Cuộc sống đang chấm dứt, cái chết đang tới ngày một gần hơn. Vào độ tuổi bốn mươi chín người ta trở nên không quan tâm tới dục khác giới. Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên trở nên không quan tâm tới người khác, tới xã hội, tới các nghi lễ xã hội, câu lạc bộ. Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên từ nhiệm khỏi mọi câu lạc bộ Rotaries, mọi câu lạc bộ Lions; bây giờ điều đó có vẻ ngu xuẩn, trẻ con. Cứ tới câu lạc bộ Rotary hay Lions nào đó mà xem mọi người, ăn vận tề chỉnh với cà vạt và đủ mọi thứ -- điều đó trông có vẻ thiếu niên, trẻ con. Họ đang làm gì? Lions sư tử -- chính cái tên này có vẻ ngu ngốc. Với một đứa trẻ nhỏ, tốt -- bây giờ họ có câu lạc bộ "Mãnh thú" cho trẻ nhỏ, và cho đàn bà câu lạc bộ "Sư tử cái". Với mãnh thú điều đó là hoàn toàn đúng, nhưng với sư tử và sư tử cái...? Điều đó chỉ ra rằng tâm trí là tầm thường.

Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên trưởng thành khi thoát ra ngoài tất cả mọi vướng víu xã hội. Kết thúc rồi! Người ta đã sống đủ, đã học đủ; bây giờ người ta nên cám ơn mọi người và bước ra khỏi nó. Năm mươi sáu tuổi là thời gian người ta nên tự nhiên trở thành một sannyasin. Người ta nên nhận tính chất sannyas, người ta nên từ bỏ, điều đó là tự nhiên -- khi bạn đi vào, bạn nên từ bỏ. Cuộc sống nên có một lối vào và nó nên có một lối ra; bằng không nó sẽ thành ngạt thở. Bạn đi vào và bạn chẳng bao giờ bước ra và rồi bạn nói bạn ngạt thở, trong đau buồn. Có lối ra đấy, và đó là tính chất sannyas -- bạn bước ra khỏi xã hội. Bạn thậm chí không quan tâm tới người khác vào độ tuổi năm mươi sáu.


Đến độ tuổi sáu mươi ba bạn lại trở thành giống đứa trẻ, chỉ quan tâm tới bản thân mình. Đó là điều thiền là gì -- đi vào nội tâm, cứ dường như mọi thứ khác đã rơi đâu mất và chỉ mỗi bạn tồn tại. Lần nữa bạn trở thành đứa trẻ -- tất nhiên được làm giầu rất nhiều bởi cuộc sống, rất trưởng thành, hiểu biết, với thông minh lớn lao. Bây giờ bạn lại trở thành hồn nhiên. Bạn bắt đầu đi vào nội tâm. Chỉ còn lại vài năm nữa thôi, và bạn phải chuẩn bị cho cái chết. Bạn phải sẵn sàng để chết.


Và sẵn sàng chết là gì? Mở hội với cái chết là sẵn sàng chết. Chết hạnh phúc, vui sướng, chết một cách sẵn lòng, đón chào, là sẵn sàng. Thương đế đã cho bạn một cơ hội để học tập, và hiện hữu, và bạn đã học. Bây giờ bạn muốn nghỉ ngơi. Bây giờ bạn muốn đi về nhà tối thượng. Đó đã là nơi tạm trú. Bạn đã lang thang ở miền đất lạ, bạn đã sống với những người lạ, bạn đã yêu những người lạ và bạn đã học nhiều. Bây giờ thời điểm đã tới: hoàng tử phải trở về vương quốc riêng của mình.


Sáu mươi ba là thời điểm khi người ta trở thành hoàn toàn đóng vào trong mình. Toàn thể năng lượng đi vào và đi vào và đi vào, quay vào trong. Bạn trở thành cái vòng tròn năng lượng, không đi đâu cả. Không đọc, không nói nhiều. Ngày một im lặng hơn, ngày một trở nên bản thân mình hơn, hoàn toàn độc lập với tất cả mọi thứ xung quanh bạn. Năng lượng cứ ngày một sụt giảm dần.


Đến độ tuổi bẩy mươi bạn sẵn sàng rồi. Và nếu bạn đã tuân theo hình mẫu tự nhiên này, chỉ ngay trước cái chết của bạn -- chín tháng trước cái chết của bạn -- bạn sẽ trở nên nhận biết rằng cái chết đang tới. Như đứa trẻ phải trải qua chín tháng trong bụng mẹ, cùng chu kì này được lặp lại hoàn toàn, lặp lại đầy đủ, lặp lại trọn vẹn. Trước lúc cái chết tới, chín tháng trước đó, bạn sẽ trở nên nhận biết. Bây giờ bạn đang đi vào bụng mẹ lần mữa. Bụng mẹ này không còn trong người mẹ, bụng mẹ này ở bên trong bạn.


Người Ấn Độ gọi điện thờ bên trong nhất của ngôi đền là garbha, bụng mẹ. Khi bạn đi tới ngôi đền thì phần bên trong nhất của ngôi đền này được gọi là bụng mẹ. Nó được gọi một cách rất biểu tượng như vậy, rất có chủ ý; đó là bụng mẹ người ta phải đi vào. Trong pha cuối cùng -- chín tháng -- người ta đi vào chính bản thân mình, thân thể riêng của mình trở thành bụng mẹ. Người ta đi vào điện thờ bên trong nhất nơi ngọn lửa bao giờ cũng cháy, nơi ánh sáng bao giờ cũng có, nơi ngôi đền hiện hữu, nơi thượng đế bao giờ cũng sống. Đây là quá trình tự nhiên.


Với quá trình tự nhiên này, không cần tương lai nào cả. Bạn đã sống một cách tự nhiên khoảnh khắc này. Khoảnh khắc tiếp sẽ bắt nguồn từ nó theo cách riêng của nó. Cũng hệt như đứa trẻ lớn lên và trở thành thanh niên -- không cần lập kế hoạch cho điều đó, người ta đơn giản trở thành; điều đó là tự nhiên, nó xảy ra. Như dòng sông tuôn chảy và tới đại dương -- theo cùng cách này -- bạn tuôn chảy và bạn đi tới chỗ kết thúc, tới đại dương. Nhưng người ta phải vẫn còn tự nhiên, trôi nổi và trong khoảnh khắc này. Một khi bạn bắt đầu nghĩ về tương lai và tham vọng và ham muốn, bạn bỏ lỡ khoảnh khắc này. Và khoảnh khắc này bị bỏ lỡ sẽ tạo ra sự suy đồi bởi vì bạn bao giờ cũng sẽ bỏ thiếu mất cái gì đó; lỗ hổng sẽ có đó.


Nếu đứa trẻ mà không sống thời thơ ấu của mình cho đủ, thì thời thơ ấu chưa được sống đủ đó sẽ đi vào trong thời thanh niên của bạn -- bởi vì nó sẽ đi đâu được? Nó phải được sống qua chứ. Khi đứa trẻ lên bốn và nhảy múa và chơi và chạy khắp nơi, đuổi bắt bướm, điều đó là đẹp. Nhưng khi một thanh niên hai mươi tuổi đuổi bắt bướm thì anh ta dở hơi rồi -- thế thì bạn phải nhận anh ta vào bệnh viện, anh ta là một ca tâm thần. Chẳng có gì sai với điều đó ở bốn tuổi; điều đó là tự nhiên, đó là việc cần làm. Đó là đúng việc cần làm -- nếu đứa trẻ không đuổi theo bướm thì cái gì đó bị sai, nó phải được đưa tới nhà phân tâm. Thế thì điều đó là được -- nhưng khi anh ta hai mươi tuổi và vẫn tung tăng đuổi bướm thì bạn phải nghi ngờ điều gì đó đã đi sai, anh ta vẫn còn chưa trưởng thành. Thân thể đã trưởng thành, tâm trí đang tụt lại sau. Anh ta phải ở đâu đó trong thời thơ ấu của mình -- anh ta đã không được phép sống thời thơ ấu một cách trọn vẹn. Nếu anh ta sống thời thơ ấu một cách trọn vẹn thì anh ta sẽ trở thành thanh niên, đẹp, tươi, không bị vẩn đục bởi tuổi thơ. Anh ta sẽ lột bỏ tuổi thơ như con rắn lột da cũ của nó. Anh ta sẽ đi ra từ đó tươi tắn. Anh ta sẽ có thông minh của thanh niên và anh ta sẽ không trông như người chậm tiến.


Sống tuổi thanh niên một cách trọn vẹn. Đừng nghe lời những người có thẩm quyền cổ đại, vứt bỏ những lời đó ra khỏi con đường. Đừng nghe họ - bởi vì họ đã giết chết tuổi thanh niên, họ kìm nén tuổi thanh niên. Họ chống lại dục và nếu xã hội nào đó chống lại dục thì dục sẽ lan toả khắp cuộc sống của bạn, nó sẽ trở thành chất độc. Sống nó đi! Tận hưởng nó!


Giữa mười bốn và hai mươi mốt tuổi con trai đạt đỉnh dục cao nhất. Thực tế gần độ tuổi mười bảy hay mười tám nó đạt tới đỉnh dục. Nó sẽ chẳng bao giờ có năng lực như vậy nữa, và nếu những khoảnh khắc này bị bỏ lỡ nó sẽ chẳng bao giờ đạt tới cực thích đẹp đẽ mà nó có thể đã đạt được gần độ tuổi mười bẩy hay mười tám.

Tôi liên tục gặp khó khăn, vì xã hội buộc bạn phải vẫn còn độc thân ít nhất cho tới hai mươi mốt tuổi -- điều đó nghĩa là khả năng lớn nhất cho việc đạt tới dục, học về dục, sẽ bị bỏ lỡ. Vào lúc bạn đạt tới hai mươi mốt, hai mươi hai, bạn đã già rồi khi có liên quan tới dục. Gần độ tuổi mười bẩy bạn còn ở đỉnh -- nhiều năng lực, mạnh mẽ tới mức cực thích, cực thích dục, sẽ lan toả khắp các tế bào của bạn. Toan thể thân thể bạn đã tắm trong phúc lạc vĩnh hằng. Và khi tôi nói dục có thể trở thành samadhi, siêu tâm thức, tôi không nói điều đó cho những người bẩy mươi tuổi, nhớ lấy! Tôi đang nói điều đó cho những người mười bẩy tuổi. Về cuốn sách của tôi, Từ Dục tới Siêu tâm thức... người già tới tôi và họ nói, "Chúng tôi đã đọc cuốn sách của ông nhưng chúng tôi chẳng đạt được cái gì giống thế này cả." Làm sao bạn có thể đạt được? Bạn đã bỏ lỡ thời gian, và nó không thể được thay thế. Và tôi không chịu trách nhiệm; xã hội của bạn mới chịu trách nhiệm và bạn đã nghe theo nó.


Nếu giữa độ tuổi mười bốn và hai mươi mốt mà đứa trẻ được phép có dục tự do, dục tuyệt đối tự do, nó sẽ chẳng bao giờ bận tâm về dục nữa. Nó sẽ hoàn toàn tự do. Nó sẽ không xem các tạp chí Playboy và Playgirl. Nó sẽ không che giấu những bức tranh khiêu dâm, xấu xí trong tủ hay trong Kinh Thánh. Nó sẽ không đi ra khỏi con đường của mình để ném mọi thứ vào đàn bà, nó sẽ không trở thành thằng cha dâm dê (bottom-pincher). Những điều này là xấu, đơn giản xấu – nhưng bạn cứ tha thứ cho họ và không cảm thấy điều gì đang xảy ra, tại sao mọi người đều thần kinh.


Một khi bạn tìm ra cơ hội xoa bóp thân thể đàn bà thì bạn chẳng bao giờ bỏ lỡ nó -- xấu làm sao! Xoa bóp thân thể sao? – cái gì đó vẫn còn chưa được hoàn thành trong bạn. Và khi một lão già với con mắt thèm khát, thì chẳng cái gì so sánh được với điều đó; đó là điều xấu nhất trên thế giới khi một lão già nhìn với sự thèm khát trong đôi mắt mình. Mắt ông ấy bây giờ nên hồn nhiên, ông ấy phải kết thúc bây giờ rồi. Không phải dục là cái gì đó xấu xí, nhớ lấy – tôi không nói dục xấu. Dục là đẹp vào thời và mùa vụ của nó và dục là xấu nếu không đúng mùa vụ, không đúng thời. Dục là bệnh hoạn khi nó có trong ông già chín mươi tuổi. Đó là lí do tại sao mọi người nói "lão già dơ dáy." Nó dơ dáy.


Một thanh niên là đẹp, có tính dục. Anh ta biểu lộ sức sống, cuộc sống. Một lão già, dâm dê, biểu lộ một cuộc sống chưa được sống, một cuộc sống trống rỗng, không trưởng thành. Ông ta đã bỏ lỡ cơ hội và bây giờ ông ta không thể làm được gì, nhưng ông ta cứ nghĩ ngợi, huyên thuyên trong tâm trí về dục, cứ hư cấu.


Nhớ lấy, giữa mười bốn và hai mươi mốt tuổi một xã hội đúng sẽ cho phép tự do tuyệt đối về dục. Và thế thì xã hội đó sẽ tự nhiên trở nên ít tính dục; bên ngoài một thời gian nào đó sẽ không có dục. Căn bệnh này sẽ không có đó – sống dục khi thời gian chín muồi và quên nó đi khi khoảnh khắc đó đã qua. Nhưng điều đó bạn chỉ làm được nếu bạn đã sống; bằng không bạn không thể quên được và bạn không thể tha thứ được. Bạn sẽ níu bám, nó sẽ trở thành vết thương lòng.


Ở phương Đông bạn đừng nghe những người có quyền, bất kì điều gì họ nói. Lắng nghe tự nhiên –khi tự nhiên nói đấy là lúc cho yêu, thì yêu. Khi tự nhiên nói đấy là lúc từ bỏ, thì từ bỏ. Và đừng nghe các nhà phân tâm và các nhà tâm lí ngu xuẩn ở phương Tây. Dù họ có các dụng cụ tinh xảo đến đâu -- Thầy và Johnson và những người khác – và dù họ đã kiểm nghiệm và kiểm tra bao nhiêu âm đạo, họ chẳng biết cuộc sống.


Thực tế tôi ngờ rằng các Thầy và Johnsons và Kinseys đều là những người nhìn lén. Bản thân họ ốm yếu về dục; bằng không ai bận tâm quan sát cả nghìn âm đạo bằng dụng dụ -- quan sát điều gì đang xảy ra bên trong khi đàn bà làm tình? Ai bận tâm? Vô nghĩa làm sao! Nhưng khi mọi sự trở nên suy đồi thì những kiểu việc này xảy ra. Bây giờ các Thầy và Johnsons đã trở thành các chuyên gia, những người có thẩm quyền cuối cùng. Nếu bạn có bất kì vấn đề dục nào thì họ là những người có thẩm quyền cuối cùng cần tới. Và tôi ngờ họ đã bỏ lỡ tuổi thanh niên của mình, họ đã không sống cuộc sống dục của mình một cách đúng đắn. Ở đâu đó cái gì đó đang thiếu và họ đang hoàn thành nó qua những trò như vậy.


Và khi một thứ rơi vào sự nắm bắt của khoa học thì bạn có thể làm bất kì cái gì. Bây giờ họ đã làm ra các dương vật điện, giả, và những dương vật điện đó cứ rung rung trong âm đạo thật, và họ cứ thử để tìm xem điều gì đang xảy ra bên trong, liệu cực thích là ở âm vật hay âm đạo, hay hoóc môn nào đang chảy, hoóc môn nào không chảy, và đàn bà có thể làm tình bao lâu. Họ nói đến tận cùng – trên giường chết đàn bà vẫn có thể làm tình.


Thực tế gợi ý của họ là ở chỗ sau thời kì mãn kinh đàn bà có thể làm tình còn tốt hơn bao giờ hết -- điều đó có nghĩa là sau tuổi bốn mươi chín. Sao họ lại nói điều đó? -- bởi vì, họ nói, trước bốn mươi chín tuổi đàn bà bao giờ cũng sợ bị mang thai. Cho dù cô ấy có uống thuốc, chẳng thuốc nào công hiệu một trăm phần trăm; có nỗi sợ. Đến trước tuổi bốn mươi chín, khi sự mãn kinh tới và kinh nguyệt dừng lại, thì không có nỗi sợ; đàn bà hoàn toàn tự do. Nếu giáo lí của họ lan rộng thì đàn bà sẽ trở thành ma cà rồng, và bà già sẽ săn đuổi đàn ông bởi vì bây giờ họ không sợ và nhà cầm quyền thừa nhận điều đó. Thực tế họ nói rằng đấy là lúc để tận hưởng – không có trách nhiệm gì.


Và với đàn ông nữa, họ cũng cứ nói cùng điều đó. Họ đã bắt gặp những đàn ông – cho nên bây giờ họ nói không có số trung bình -- họ đã bắt gặp một người vào độ tuổi sáu mươi vẫn có thể làm tình năm lần một ngày. Người này dường như là một người kì dị. Cái gì đó sai với hoóc môn của người đó và thân thể người đó. Vào độ tuổi sáu mươi! Người đó không tự nhiên, bởi vì như tôi thấy điều đó – và điều này tôi đang nói từ kinh nghiệm riêng của mình trong nhiều kiếp, tôi có thể nhớ chúng -- đến trước bốn mươi chín tuổi đàn ông tự nhiên không quan tâm tới đàn bà; mối quan tâm ra đi. Như nó tới, nó lại ra đi.


Mọi thứ tới đều phải ra đi. Mọi thứ nảy sinh đều phải rụng xuống. Mọi con sóng nảy sinh đều phải biến mất, phải có thời điểm nó ra đi. Vào mười bốn tuổi nó tới; vào bốn mươi chín tuổi hay quãng thế nó ra đi. Nhưng một đàn ông làm tình năm lần một ngày vào độ tuổi sáu mươi – cái gì đó sai rồi. Cái gì đó rất, rất sai; thân thể người đó không vận hành đúng. Đó là đầu bên kia của bất lực, cực đoan khác. Khi một đứa trẻ mười bốn tuổi không cảm thấy dục gì, một thanh niên mười tám tuổi không có ham muốn, điều gì đó sai rồi -- người đó phải được chữa trị. Khi một người sáu mươi tuổi cần làm tình năm lần một ngày, điều gì đó sai rồi. Thân thể người đó đã trở thành nổi đoá; nó không vận hành đúng, tự nhiên.


Nếu bạn sống trong khoảnh khắc một cách toàn bộ thì không có nhu cầu lo lắng về tương lai. Tuổi thơ được sống đúng đắn sẽ đem bạn tới tuổi thanh niên chín muồi, đúng – tuôn chảy, sống động, một đại dương năng lượng hoang dã. Tuổi thanh niên được sống đúng sẽ đem bạn tới cuộc sống yên tĩnh và bình thản, rất lắng đọng. Cuộc sống yên tĩnh và bình thản đem bạn tới cuộc truy tìm tôn giáo: Cuộc sống là gì? Việc sống là không đủ, người ta phải thấm vào điều bí ẩn. Cuộc sống yên tĩnh và bình thản đem bạn tới những khoảnh khắc thiền. Thiền đem bạn tới việc từ bỏ mọi cái bây giờ vô dụng, chỉ là đồ đồng nát, rác rưởi. Toàn thể cuộc sống trở thành rác rưởi; chỉ mỗi một điều bao giờ cũng còn lại, có giá trị vĩnh hằng, và đó là nhận biết của bạn.


Vào lúc bẩy mươi tuổi, khi bạn sẵn sàng chết -- nếu bạn sống mọi sự đúng đắn, vào khoảnh khắc đó, đừng bao giờ trì hoãn cho tương lai, đừng bao giờ mơ mộng về tương lai, bạn đã sống nó một cách toàn bộ trong khoảnh khắc dù nó là bất kì cái gì – chín tháng trước cái chết của mình bạn sẽ trở nên nhận biết. Bạn đã đạt tới nhiều nhận biết thế, bạn có thể thấy rằng bây giờ cái chết đang tới.


Nhiều thánh nhân đã tuyên bố cái chết của họ trước thời điểm đó, nhưng tôi không gặp một ví dụ nào mà cái chết được công bố trước chín tháng. Đích xác chín tháng trước đó, con người của nhận biết, đã thông tỏ với quá khứ... bởi vì người chưa bao giờ nghĩ tới tương lai sẽ chẳng bao giờ nghĩ về quá khứ. Chúng là cùng nhau; quá khứ và tương lai là cùng nhau, gắn cùng nhau. Khi bạn nghĩ về tương lai đấy chẳng là gì ngoài sự phóng chiếu của quá khứ; khi bạn nghĩ về quá khứ đấy chẳng là gì ngoài cố gắng lập kế hoạch cho tương lai – chúng là cùng nhau. Hiện tại ở ngoài cả hai -- người sống trong khoảnh khắc này bây giờ và ở đây không bị cản trở bởi quá khứ và không bị cản trở bởi tương lai, người đó vẫn còn không bị nặng gánh. Người đó không có gánh nặng phải mang, người đó đi vô trọng lượng. Lực trọng trường không tác động vào người đó. Thực tế, người đó không bước, người đó bay. Người đó có cánh. Trước khi chết, đích xác chín tháng trước đó, người đó sẽ trở nên nhận biết rằng cái chết đang tới.


Và người đó sẽ tận hưởng và người đó sẽ mở hội và người đó sẽ nói với mọi người, "Con tàu của tôi đang tới, và tôi chỉ còn lại chút thời gian trên bờ này. Chẳng mấy chốc tôi sẽ ra đi về nhà mình. Cuộc sống này đã là một kinh nghiệm tuyệt vời, kì lạ. Tôi đã yêu, đã học, đã sống nhiều, tôi được giầu có. Tôi đã tới đây chẳng có gì và tôi ra đi với nhiều kinh nghiệm, nhiều trưởng thành." Người đó sẽ cám ơn tất cả những gì đã xảy ra -- cả tốt lẫn xấu, cả đúng lẫn sai, bởi vì từ mọi thứ người đó đã học. Không chỉ từ cái đúng, mà cả từ cái sai nữa – các hiền nhân mà người đó đã bắt gặp, người đó đã học từ họ và cả các tội nhân, vâng, cả từ họ nữa. Tất cả họ đều đã giúp đỡ. Những người trộm cắp người đó đã giúp đỡ, những người đã giúp cho người đó cũng giúp đỡ. Những người là bạn đã giúp đỡ, những người là thù cũng giúp đỡ -- mọi thứ đều giúp đỡ. Mùa hè và mùa đông, no nê và đói khát, mọi thứ đều giúp đỡ. Người ta có thể cám ơn tất cả.


Khi người ta cám ơn tất cả và sẵn sàng chết, mở hội cho cơ hội này mà người ta được trao cho, thì cái chết trở thành đẹp. Thế thì cái chết không phải là kẻ thù, nó là người bạn lớn nhất bởi vì nó là cao trào của cuộc sống. Nó là đỉnh cao nhất mà cuộc sống đạt tới. Nó không phải là kết thúc của cuộc sống, nó là cực đỉnh. Nó giống như chỗ kết thúc bởi vì bạn chưa bao giờ biết cuộc sống -- với người đã biết cuộc sống nó dường như là chính cao trào, chính đỉnh cao, đỉnh cao nhất.


Cái chết là cực điểm, sự hoàn thành. Cuộc sống không kết thúc trong nó; thực tế cuộc sống nở hoa trong nó – nó là bông hoa. Nhưng để biết cái đẹp của cái chết người ta phải sẵn sàng cho nó, người ta phải học nghệ thuật.
Cuộc sống có hình mẫu bên trong, hiểu được nó là tốt. Cứ bẩy năm một, các nhà sinh lí nói, thân thể và tâm trí trải qua khủng hoảng và thay đổi, được đổi mới hoàn toàn. Thực tế nếu bạn sống bẩy mươi tuổi, giới hạn trung bình, thân thể bạn chết đi mười lần. Cứ mỗi bẩy năm mọi sự lại thay đổi -- điều đó cũng giống như đổi mùa. Trong bẩy mươi năm vòng tròn này hoàn chỉnh. Đường đi từ việc sinh tới việc tử, vòng tròn này hoàn chỉnh trong bẩy mươi năm. Nó có mười việc phân chia.


Thực tế cuộc đời con người không nên bị phân chia thành thời thơ ấu, thời thanh niên, thời già lão -- điều đó không khoa học lắm bởi vì cứ bẩy năm một thời kì mới lại bắt đầu, một bước mới được thực hiện.


Trong bẩy năm đầu tiên đứa trẻ coi mình là trung tâm, cứ dường như nó là trung tâm của toàn thể thế giới. Toàn thể gia đình xoay quanh nó. Bất kì cái gì nó cần, họ đều hoàn thành ngay lập tức; bằng không nó sẽ nổi cơn tam bành, giận dữ, cuồng nộ. Nó sống như một hoàng đế, một hoàng đế thực thụ -- mẹ, bố, mọi người phục vụ, và cả gia đình chỉ tồn tại vì nó. Và tất nhiên nó nghĩ cùng điều đó cũng đúng cho thế giới rộng hơn. Mặt trăng lên vì nó, mặt trời lên vì nó, mùa vụ đổi vì nó. Đứa trẻ trong bẩy năm vẫn còn tuyệt đối bản ngã, lấy mình làm trung tâm. Nếu bạn hỏi các nhà tâm lí thì họ sẽ nói đứa trẻ trong bẩy năm vẫn còn tự thoả mãn, thoả mãn cho chính mình. Nó không cần cái gì khác, không cần ai khác. Nó cảm thấy đầy đủ.

Sau bẩy năm -- một đột phá. Đứa trẻ không còn lấy mình làm trung tâm nữa; nó trở thành lệch tâm, theo đúng nghĩa. Lệch tâm -- từ này có nghĩa là "đi ra ngoài trung tâm." Nó đi tới người khác. Người khác trở thành hiện tượng quan trọng -- bạn bè, kéo bè kéo cánh... Bây giờ nó không còn quan tâm nhiều tới bản thân mình nữa; nó quan tâm tới người khác, thế giới lớn hơn. Nó đi vào cuộc phiêu lưu để biết "người khác" này là ai. Cuộc truy tìm bắt đầu.


Sau bẩy năm đứa trẻ trở thành người hay hỏi lớn. Nó hỏi về mọi thứ. Nó trở thành người hoài nghi lớn vì việc truy tìm của nó đang đó. Nó hỏi cả triệu câu hỏi. Nó làm cho bố mẹ chán đến chết, nó trở thành mối phiền toái. Nó quan tâm tới người khác, và mọi thứ của thế giới đều là mối quan tâm của nó. Tại sao cây lại xanh? Tại sao Thượng đế đã tạo ra thế giới? Tại sao điều này là như vậy? Nó bắt đầu trở nên ngày một triết lí hơn -- truy tìm, hoài nghi, nó cứ khăng khăng đi vào mọi thứ.


Nó giết con bướm để xem cái gì ở bên trong, nó phá đồ chơi chỉ để xem đồ chơi vận hành thế nào, nó ném đồng hồ đi chỉ để nhìn vào bên trong đồng hồ, sao mà đồng hồ cứ tích tắc và rung chuông -- cái gì đang diễn ra bên trong? Nó trở nên quan tâm tới người khác -- nhưng người khác vẫn còn cùng giới. Nó không quan tâm tới con gái. Nếu con trai khác quan tâm tới con gái nó sẽ nghĩ bọn họ là chị em. Con gái không quan tâm tới con trai. Nếu con gái nào đó quan tâm tới con trai và chơi với chúng thì cô bé này là con gái kiểu con trai, không bình thường, không trung bình; cái gì đó sai. Giai đoạn thứ hai này các nhà phân tâm và tâm lí sẽ nói là đồng dục.


Sau mười bốn tuổi cánh cửa thứ ba mở ra. Nó không còn quan tâm tới con trai nữa, con gái không còn quan tâm tới con gái. Chúng lễ phép, nhưng không quan tâm. Đó là lí do tại sao bất kì tình bạn nào xảy ra giữa bẩy và mười bốn tuổi đều sâu sắc nhất, bởi vì tâm trí là đồng dục, và trong cuộc sống tình bạn như vậy sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa. Những người bạn đó vẫn còn là bạn vĩnh viễn, nó là mối liên hệ sâu sắc thế. Bạn sẽ trở nên thân thiện với mọi người nhưng điều đó sẽ vẫn còn là sự quen biết, không phải là hiện tượng sâu sắc đã xảy ra giữa bẩy và mười bốn tuổi.


Nhưng sau tuổi mười bốn con trai không còn quan tâm tới con trai. Nếu mọi sự xảy ra bình thường, nếu nó không bị mắc kẹt ở đâu đó, nó sẽ quan tâm tới con gái. Bây giờ nó trở thành dị dục -- không chỉ quan tâm tới những người khác, mà thực sự quan tâm tới một người khác -- bởi vì khi con trai quan tâm tới con trai, con trai có thể là "người khác" nhưng người khác vẫn là con trai như bản thân nó, không đích xác là người khác. Khi con trai trở nên quan tâm tới con gái, bây giờ nó thực sự quan tâm tới cái đối lập, người khác thực. Khi con gái trở nên quan tâm tới con trai, bây giờ thế giới đi vào.

Tuổi mười bốn là tuổi cách mạng lớn lao. Dục trở nên chín muồi, người ta bắt đầu ngihĩ dưới dạng dục; những phóng túng dục trở thành nổi bật trong giấc mơ. Con trai trở thành Don Juan lớn, bắt đầu tán tỉnh. Thơ ca nảy sinh, lãng mạn. Nó đi vào trong thế giới.

Đến tuổi hai mươi mốt -- nếu mọi sự diễn ra bình thường, và đứa trẻ không bị xã hội bó buộc phải làm điều gì đó không tự nhiên -- đến tuổi hai mươi mốt đứa trẻ trở nên quan tâm tới tham vọng hoài bão nhiều hơn tình yêu. Nó muốn xe Rolls Royce, biệt thự lớn. Nó muốn là người thành công, một Rockefeller, một thủ tướng. Tham vọng trở thành nổi bật; ham muốn về tương lai, được thành công, cách thành công, cách hoàn thành, cách đi vào cuộc tranh đấu là toàn bộ mối quan tâm của nó.


Bây giờ nó không chỉ đi vào thế giới tự nhiên, nó đang đi vào thế giới con người, bãi chợ. Bây giờ nó đi vào thế giới của sự điên khùng. Bây giờ chợ trở thành điều nổi bật nhất. Toàn thể bản thể của nó đều hướng tới chợ -- tiền bạc, quyền lực, danh tiếng.

Nếu mọi sự đi đúng -- vì nó chẳng bao giờ đi đúng cả, toi đang nói về hiện tượng tự nhiên tuyệt đối -- thì đến tuổi hai mươi tám con người không còn cố gắng đi vào trong cuộc sống phiêu lưu theo bất kì cách nào. Từ hai mươi mốt tới hai mươi tám người ta sống trong phiêu lưu; đến tuổi hai mươi tám người ta trở nên tỉnh táo hơn rằng tất cả các ham muốn không thể được hoàn thành hết. Có nhiều hiểu biết hơn rằng nhiều ham muốn là không thể được. Nếu bạn ngu bạn có thể cứ theo đuổi chúng, nhưng những người thông minh lại đi vào một cánh cửa khác khi đến tuổi hai mươi tám. Họ trở nên quan tâm đến an ninh và tiện nghi, ít phiêu lưu và tham vọng hơn. Họ bắt đầu lắng đọng. Tuổi hai mươi tám là chỗ hết cho thời lập dị chống lại xã hội.

Đến tuổi hai mươi tám mọi người hippies đều trở thành thật thà, nhà cách mạng không còn là nhà cách mạng nữa; họ bắt đầu lắng đọng, họ tìm kiếm cuộc sống tiện nghi, một số dư ngân hàng nho nhỏ. Họ không muốn là Rockefellers -- chuyện đó kết thúc rồi, niềm thôi thúc đó không còn nữa. Họ muốn có ngôi nhà nhỏ, nhưng là một chỗ ấm cúng, được thiết lập để sống, để có an ninh, để cho ít nhất họ bao giờ cũng có thể có một số dư ngân hàng nho nhỏ. Họ tới công ti bảo hiểm quãng tuổi hai mươi tám. Họ bắt đầu lắng đọng. Bây giờ kẻ lêu lổng không còn là kẻ lêu lổng nữa. Anh ta mua nhà, bắt đầu sống trong đó; anh ta trở nên văn minh. Từ văn minh civilization bắt nguồn từ civis, công dân. Bây giờ anh ta trở thành một phần của thị trấn, thành phố, của một định chế. Anh ta không còn là kẻ lêu lổng, không còn là kẻ lang thang. Bây giờ anh ta không đi tới Kathmandu và Goa. Anh ta không đi đâu cả -- mọi sự đã kết thúc, đã du hành đủ rồi, đã biết đủ rồi; bây giờ anh ta muốn định cư và nghỉ lại một chút.

Đến tuổi ba mươi lăm năng lượng sống đạt tới điểm đỉnh của nó. Vòng tròn đã hoàn thành một nửa và năng lượng bắt đầu suy giảm. Bây giờ người này không chỉ quan tâm tới an ninh và tiện nghi, người này trở thành một Tory, chính thống. Người đó không chỉ quan tâm tới cách mạng, người đó trở thành người phản cách mạng. Bây giờ người đó chống lại mọi thay đổi, người đó là người tuân thủ theo tôn giáo. Người đó chống lại mọi cuộc cách mạng; người đó muốn giữ nguyên trạng bởi vì bây giờ người đó đã lắng đọng và nếu bất kì cái gì thay đổi thì mọi sự sẽ bị đảo lộn. Bây giờ người đó nói chống lại kẻ hippies, chống lại nổi dậy; Bây giờ người đó đã thực sự trở thành một phần của định chế.


Và điều này là tự nhiên -- chừng nào điều gì đó còn không đi sai thì con người sẽ không còn ở tình trạng hippie mãi mãi. Đó là một pha, đi qua thì tốt nhưng mắc kẹt lại là xấu. Điều đó nghĩa là bạn vẫn còn bị mắc kẹt ở giai đoạn nào đó. Là đồng dục giữa bẩy và mười bốn tuổi là tốt, nhưng nếu người ta vẫn còn đồng dục trong cả đời thì điều đó có nghĩa là người đó đã không trưởng thành, người đó không là người lớn. Phải có tiếp xúc với đàn bà, đó là một phần của cuộc sống. Giới khác phải trở thành quan trọng bởi vì chỉ thế thì bạn mới có khả năng biết được sự hài hoà của các phía đối lập, sự xung đột, khốn khổ, và cực lạc -- nỗi khổ và cực lạc cả hai. Đó là sự huấn luyện, sự huấn luyện cần thiết.


Đến tuổi ba mươi nhăm người ta phải trở thành một phần của thế giới qui ước. Người ta bắt đầu tin vào tín ngưỡng, trong quá khứ, tin vào Vedas, kinh Koran, Kinh Thánh. Người ta dứt khoát chống lại thay đổi bởi vì mọi thay đổi nghĩa là cuộc sống riêng của bạn sẽ bị quấy rối; bây giờ bạn có nhiều thứ bị mất. Bạn không thể ủng hộ cách mạng được -- bạn muốn bảo vệ... Người ta thiên về luật pháp và toà án và chính phủ. Người ta không còn là kẻ vô chính phủ nữa; người ta đều ủng hộ cho chính phủ, các qui tắc, điều luật, kỉ luật.

Đến tuổt bốn mươi hai tất cả mọi loại ốm yếu thể chết và tinh thần bột phát, bởi vì bây giờ cuộc sống đang suy giảm. Năng lượng đang hướng tới cái chết. Như lúc bắt đầu -- năng lượng của bạn đã đi lên và bạn đã trở nên ngày một sống động, mạnh mẽ hơn, bạn đã trở nên ngày một mạnh hơn -- bây giờ chính điều đối lập lại xảy ra, bạn trở nên ngày một yếu hơn mọi ngày. Nhưng thói quen của bạn vẫn còn dai dẳng. Bạn đã ăn đủ cho tới tuổi ba mươi nhăm; bây giờ nếu bạn tiếp tục thói quen của mình thì bạn sẽ bắt đầu tích trữ mỡ. Bây giờ, lượng thức ăn đó là không cần thiết. Nó đã được cần tới trước đây nhưng bây giờ nó không còn cần thiết nữa bởi vì cuộc sống đang đi tới cái chết, cuộc sống không cần nhiều thức ăn như vậy. Nếu bạn cứ nhét đầy bụng mình như bạn đã làm trước đây, thế thì đủ mọi loại bệnh tật sẽ xuất hiện: cao huyết áp, đau tim, mất ngủ, ung nhọt -- chúng tất cả xảy ra quãng độ bốn mươi hai tuổi; bốn mươi hai tuổi là một trong những điểm nguy hiểm nhất. Tóc bắt đầu rụng, bạc dần. Cuộc sống biến vào trong cái chết.


Và gần tuổi bốn mươi hai thì tôn giáo bắt đầu trở thành quan trọng lần đầu tiên. Bạn có thể đã từng dính dáng đây đó vào tôn giáo trước đây, nhưng bây giờ tôn giáo lần đầu tiên bắt đầu trở nên quan trọng -- bởi vì tôn giáo có liên quan sâu sắc với cái chết. Bây giờ cái chết đang lại gần và ham muốn đầu tiên về tôn giáo nảy sinh.

Carl Gustav Jung đã viết rằng trong cả đời mình ông ấy đã từng quan sát rằng những người tới ông ấy quãng độ tuổi bốn mươi bao giờ cũng có nhu cầu tôn giáo. Nếu họ phát điên, thần kinh, tâm thần, họ không thể nào được giúp đỡ nếu họ không trở nên bắt rễ sâu sắc vào tôn giáo. Họ cần tôn giáo; nhu cầu cơ sở của họ là tôn giáo. Và nếu xã hội là thế tục và bạn còn chưa hề được dạy về tôn giáo, thì khó khăn lớn nhất tới vào quãng độ tuổi bốn mươi hai -- bởi vì xã hội không cho bạn bất kì một đại lộ, một cánh cửa, một chiều hướng nào.


Xã hội là tốt khi bạn mười bốn tuổi, bởi vì xã hội cho đủ dục -- toàn thể xã hội đều mang tính dục; dục dường như là món hàng duy nhất ẩn kín trong mọi món hàng. Nếu bạn muốn bán xe tải mười tấn thì thế nữa bạn phải dùng một phụ nữ trần truồng. Hay thuốc đánh răng - thế nữa. Xe tải hay thuốc đánh răng, cũng chẳng tạo ra khác biệt gì: đàn bà trần truồng bao giờ cũng mỉm cười ở đó đằng sau. Thực sự đàn bà được bán. Xe tải không được bán, thuốc đánh răng không được bán, đàn bà được bán. Và bởi vì đàn bà tới, nụ cười của đàn bà tới cùng thuốc đánh răng, bạn phải mua thuốc đánh răng nữa. Mọi nơi dục đều được bán.


Cho nên xã hội này, xã hội trần tục này, là tốt cho người trẻ. Nhưng họ sẽ không còn trẻ mãi được. Khi họ lên tới bốn hai tuổi bỗng nhiên xã hội bỏ quên lãng họ. Họ không biết phải làm gì bây giờ. Họ trở nên thần kinh bởi vì họ không biết, họ chưa bao giờ được huấn luyện, không kỉ luật nào đã được trao cho họ để đối diện với cái chết. Xã hội đã làm cho họ sẵn sàng cho cuộc sống, nhưng không ai đã dạy họ trở nên sẵn sàng cho cái chết. Họ cần nhiều giáo dục về cái chết cũng như họ cần giáo dục về cuộc sống.

Nếu tôi mà được phép theo cách của mình thì tôi sẽ chia các đại học thành hai phần: một phần cho người trẻ, phần kia cho người già. Người trẻ sẽ tới để học nghệ thuật của cuộc sống -- dục, tham vọng, tranh đấu. Thế rồi khi họ trở nên già hơn và họ đạt tới điểm đánh dấu bốn mươi hai, họ sẽ quay lại đại học để học về cái chết, Thượng đế, thiền -- bởi vì bây giờ các đại học cũ sẽ không còn có ích gì cho họ. Họ cần việc huấn luyện mới, kỉ luật mới, để cho họ có thể được bắt vào pha mới đang xảy ra cho họ.


Xã hội này bỏ quên lãng họ; đó là lí do tại sao ở phương Tây có nhiều bệnh tinh thần thế. Phương Đông không nhiều đến như vậy. Tại sao? -- bởi vì phương Đông vẫn còn có chút ít huấn luyện trong tôn giáo. Điều đó chưa biến mất hoàn toàn; dù là giả, dù dỏm, nó vẫn có đó, nó tồn tại ngay góc kia thôi. Không còn trong bãi chợ, không còn trong bề dày của cuộc sống; chỉ ở ngay bên cạnh -- nhưng có đền chùa. Bên ngoài con đường của cuộc sống, nhưng nó vẫn có đó. Bạn phải bước vài bước và bạn có thể đi tới đó, nó vẫn tồn tại.


Ở phương Tây tôn giáo không còn là một phần của cuộc sống. Đến quãng độ tuổi bốn mươi hai mọi người phương Tây đều trải qua các vấn đề tâm lí. Hàng nghìn kiểu loạn thần kinh xảy ra -- và ung nhọt. Ung nhọt là dấu vết của tham vọng. Người tham vọng nhất định bị ung nhọt trong dạ dầy: tham vọng cắn xé, nó ăn vào bạn. Ung nhọt không là gì khác hơn việc ăn bản thân bạn. Bạn căng thẳng tới mức bạn bắt đầu ăn thành dạ dầy của mình. Bạn căng thẳng thế, dạ dầy của bạn căng thẳng thế nó chưa bao giờ được thảnh thơi. Bất kì khi nào tâm trí căng thẳn thì dạ dầy căng thẳng.

Ung nhọt là dấu vết của tham vọng. Nếu bạn có ung nhọt điều đó chỉ ra bạn là người rất thành công. Nếu bạn không có ung nhọt bạn là người nghèo; cuộc sống của bạn đã thất bại, bạn đã thất bại hoàn toàn. Nếu bạn bị đau tim lần đầu tiên quãng bốn mươi hai tuổi bạn là người thành công lớn. Ít nhất bạn cũng là bộ trưởng nội các hay nhà công nghiệp giầu có hay nghệ sĩ nổi tiếng; bằng không, làm sao bạn giải thích được cho cơn đau tim? Đau tim là định nghĩa của thành công.


Tất cả mọi người thành công đều sẽ bị đau tim, họ phải bị vậy. Toàn thể hệ thống của họ đều bị nặng trĩu bởi các yếu tố độc hại: tham vọng, ham muốn, tương lai, ngày mai, cái không bao giờ có đó. Bạn đã sống trong mơ, bây giờ hệ thống của bạn không thể dung thứ được điều đó thêm nữa. Và bạn vẫn còn căng thẳng với tương lai tới mức sự căng thẳng này đã trở thành chính phong cách sống của bạn. Bây giờ nó là thói quen bắt rễ sâu.


Tại tuổi bốn mươi hai, lại một đột phá mới tới. Người ta bắt đầu nghĩ về tôn giáo, thế giới khác. Cuộc sống dường như quá nhiều,  và thời gian còn lại ít ỏi thế -- làm sao bạn có thể đạt tới Thượng đế, niết bàn, chứng ngộ? Do đó mới có lí thuyết hoá thân: "Đừng sợ. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa mà, cứ sinh đi sinh lại, và bánh xe cuộc sống sẽ cứ chuyển động mãi. Đừng sợ: có đủ thời gian, có đủ vĩnh hằng còn lại -- bạn có thể đạt tới được."


Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ ba tôn giáo lớn đã phát sinh -- Jaina giáo, Phật giáo và Hindu giáo -- và họ không đồng ý về bất kì điểm nào ngoại trừ hoá thân. Các lí thuyết bất đồng thế, thậm chí không đồng ý được trên nền tảng cơ sở về Thượng đế, bản chất của cái ta... nhưng tất cả chúng đều đồng ý về lí thuyết hoá thân -- phải có cái gì đó cho nó. Tất cả chúng đều cần thời gian, bởi vì để đạt tới Brahman -- người Hindus gọi nó là Brahman -- phải cần nhiều thời gian. Đó là một tham vọng lớn thế, và chỉ vào tuổi bốn mươi hai bạn mới trở nên quan tâm. Chỉ còn lại hai mươi tám năm nữa thôi.

Và đây mới chỉ là bắt đầu của mối quan tâm. Thực tế vào độ tuổi bốn mươi hai bạn trở lại là đứa trẻ trong thế giới của tôn giáo và chỉ còn lại hai mươi tám năm nữa thôi. Thời gian dường như quá ngắn, không đủ chút nào để đạt tới những đỉnh cao như vậy -- Brahman, người Hindus gọi nó là vậy. Người Jainas gọi nó là moksha, tự do tuyệt đối khỏi mọi nghiệp quá khứ. Nhưng hàng nghìn và hàng triệu kiếp đã có đó trong quá khứ; trong vòng hai mươi tám năm làm sao bạn bao quát được? Làm sao bạn sẽ hoàn tác toàn bộ quá khứ? Quá khứ mênh mông thế đang có đó, nghiệp xấu và nghiệp tốt -- làm sao bạn lau sạch các tội lỗi của mình trong vòng hai mươi tám năm? Điều đó dường như không đúng! Thượng đế đòi hỏi quá nhiều, điều đó là không thể được. Bạn sẽ cảm thấy thất vọng nếu bạn chỉ được cho hai mươi tám năm. Và các Phật tử, người không tin vào Thượng đế, không tin cả vào linh hồn -- họ cũng tin vào hoá thân. Niết bàn, sự trống rỗng cuối cùng, cái trống rỗng toàn bộ… khi bạn vẫn còn bị chất đầy với biết bao nhiêu rác rưởi thế trong biết bao nhiêu kiếp sống, làm sao bạn sẽ làm nhẹ nhõm bản thân mình trong vòng hai mươi tám năm? Điều đó là quá nhiều, dường như là việc không thể được. Cho nên tất cả họ đều đồng ý về một việc, là cần nhiều tương lai hơn, cần nhiều thời gian hơn.


Bất kì khi nào bạn có tham vọng thì đều cần tới thời gian. Và với tôi người tôn giáo là người không cần thời gian. Người đó được giải thoát ở đây và bây giờ, người đó đạt tới Brahman ở đây và bây giờ, người đó được giải thoát, chứng ngộ, ở đây và bây giờ. Người tôn giáo không cần thời gian chút nào bởi vì tôn giáo xảy ra trong khoảnh khắc vô thời gian. Nó xảy ra bây giờ, nó bao giờ cũng xảy ra; bằng không thì nó chẳng bao giờ xảy ra cả. Không có cách khác mà nó đã từng xảy ra.


Vào độ tuổi bốn mươi hai niềm thôi thúc đầu tiên nảy sinh, mơ hồ, không rõ ràng, lẫn lộn. Bạn thậm chí không nhận biết về điều đang xảy ra, nhưng bạn bắt đầu nhìn vào đền chùa với sự quan tâm thiết tha. Đôi khi nhân tiện, như một khách thăm vô tình, bạn cũng tới nhà thờ. Đôi khi -- lúc có thời gian, chẳng phải làm gì -- bạn bắt đầu nhìn vào Kinh Thánh, đọng đầy bụi trên bàn. Mơ hồ, không đích xác rõ ràng, cũng giống như đứa trẻ nhỏ mơ hồ về dục bắt đầu chơi với bộ phận sinh dục của mình, chẳng biết mình đang làm gì. Một thôi thúc mơ hồ... Đôi khi người ta ngồi một mình im lặng, bỗng nhiên cảm thấn an bình, chẳng biết mình đang làm gì. Đôi khi người ta bắt đầu lẩm nhẩm câu mật chú đã được nghe từ hồi nhỏ. Bà già hay lẩm nhẩm đọc nó; cảm thấy căng thẳng, người ta bắt đầu lẩm nhẩm đọc nó. Người ta bắt đầu tìm kiếm, tìm thầy, ai đó hướng dẫn cho mình. Người ta nhận điểm đạo, bắt đầu học mật chú, thỉnh thoảng lặp lại nó, rồi lại quên mất trong vài ngày, lại lặp lại … việc tìm kiếm mơ hồ, dò dẫm.


Đến tuổi bốn mươi chín việc tìm kiếm trở thành rõ ràng; phải mất bẩy năm cho việc tìm kiếm trở nên rõ ràng. Bây giờ một quyết tâm nảy sinh. Bạn không còn quan tâm tới người khác nữa, đặc biệt nếu mọi thứ đã đi đúng -- và tôi phải nhắc đi nhắc lại điều này bởi vì mọi thứ chẳng bao giờ đi đúng cả -- vào độ tuổi bốn mươi chín người ta trở nên không quan tâm tới đàn bà -- mãn kinh, vào tuổi bốn mươi chín. Đàn ông không cảm thấy thích tình dục. Toàn bộ mọi sự có vẻ giống như một thiếu niên, toàn bộ mọi sự có vẻ giống như hơi chút chưa trưởng thành.


Nhưng xã hội có thể ép buộc… Ở phương Đông họ đã chống lại dục và họ đã kìm nén dục. Khi con trai mười bốn tuổi chúng kìm nén dục và chúng muốn tin rằng con trai vẫn là đứa trẻ, nó không nghĩ tới con gái. Những đứa con trai khác là có thể -- những đứa con trai này bao giờ cũng có thể tìm được ở nhà hàng xóm – nhưng chẳng bao giờ là con trai của bạn; nó hồn nhiên như đứa trẻ, như thiên thần. Và nó trông rất hồn nhiên, nhưng điều đó không đúng -- nó mơ màng. Con gái đã đi vào tâm thức nó, phải đi vào, điều đó là tự nhiên -- và nó phải che dấu điều đó. Nó bắt đầu thủ dâm và nó phải che dấu điều đó. Nó có những giấc mơ ướt quần và nó phải che dấu điều đó.


Ở phương Đông con trai mười bốn tuổi trở nên mặc cảm. Cái gì đó sai đang xảy ra -- chỉ với nó, bởi vì nó không thể biết được rằng mọi người ở mọi nơi đều làm cùng điều đó. Và nhiều điều mọi người đang trông chờ ở nó -- rằng nó phải vẫn còn là một thiên thần, đồng trinh, không nghĩ tới con gái, thậm chí không mơ về con gái. Nhưng nó đã trở nên quan tâm -- xã hội đang kìm nén nó.

Ở phương Tây việc kìm nén này đã biến mất nhưng việc kìm nén khác lại tới -- và điều này phải được hiểu bởi vì đây là cảm giác của tôi, rằng xã hội không bao giờ có thể không mang tính kìm nén được. Nếu nó vứt bỏ kìm nén này, thì lập tức nó bắt đầu kìm nén khác. Bây giờ việc kìm nén lại vào quãng bốn mươi chín ở phương Tây: mọi người bị buộc vẫn còn trong dục bởi vì toàn thể việc dạy bảo nói, "Anh đang làm gì vậy? -- đàn ông có khả năng dục mãi cho tới tuổi chín mươi kia!" Những người có thẩm quyền lớn lao đều nói điều đó. Và nếu bạn bất lực và bạn không quan tâm, bạn bắt đầu cảm thấy mặc cảm. Vào độ tuổi bốn mươi chín đàn ông bắt đầu cảm thấy mặc cảm rằng mình không làm tình được nhiều như mình đáng phải làn.


Và có những thầy giáo cứ thuyết giảng, "Điều này là vô nghĩa. Bạn có thể làm tình, bạn có thể làm tình mãi tới chín mươi tuổi kia. Cứ làm tình đi." Và họ nói nếu bạn không làm tình bạn sẽ bị liệt dương; nếu bạn tiếp tục làm tình thì máy của bạn vẫn tiếp tục làm việc. Nếu bạn dừng lại thì chúng sẽ dừng lại, và một khi bạn dừng dục thì năng lượng sống của bạn sẽ sụt giảm, bạn sẽ chóng chết. Nếu chồng dừng lại, vợ quan tâm chăm sóc: "Anh làm gì thế?" Nếu vợ dừng lại chồng sẽ quan tâm chăm sóc cô ấy: "Điều này là ngược với các nhà tâm lí và điều này có thể tạo ra sự suy đồi nào đó."


Ở phương Đông chúng ta đã làm một điều ngu xuẩn và ở phương Tây cũng vậy, vào thời xưa, họ đã làm cùng điều ngu xuẩn này. Điều đó là chống lại tôn giáo vì đứa trẻ mười bốn tuổi trở nên có khả năng dục -- và nó trở nên có khả năng một cách tự nhiên thế. Đứa trẻ chẳng thể làm được gì, điều đó ở ngoài sự kiểm soát của nó. Nó có thể làm được gì? Làm sao nó có thể làm được điều đó? Mọi giáo huấn về độc thân vào độ tuổi mười bốn đều ngu xuẩn, bạn đang kìm nén con người này. Nhưng những nhà cầm quyền, các tín ngưỡng , các guru già nua, các nhà tâm lí già cả và những người tôn giáo -- họ tất cả đều chống lại dục, toàn thể giới cầm quyền đều chống lại dục. Đứa trẻ bị kìm nén, bị làm cho mặc cảm. Tự nhiên không được phép.


Bây giờ chính điều đối lập đang xảy ra tại đầu kia. Vào độ tuổi bốn mươi chín các nhà tâm lí đang buộc mọi người tiếp tục làm tình; bằng không bạn sẽ mất cuộc sống. Và vào độ tuổi bốn mươi chín... như tại độ tuổi mười bốn dục phát sinh tự nhiên, thì tại độ tuổi bốn mươi chín nó tự nhiên giảm đi. Nó phải như vậy, bởi vì mọi vòng tròn đều phải hoàn chỉnh.


Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ chúng ta đã quyết định rằng vào tuổi năm mươi đàn ông nên bắt đầu trở thành một vanprasth, mắt nên hướng vào rừng, lưng nên quay vào bãi chợ. Vanprasth là một từ hay; nó có nghĩa là người bắt đầu nhìn lên Himalayas, nhìn vào rừng. Bây giờ lưng người đó hướng vào cuộc sống và tham vọng và ham muốn và tất cả mọi thứ đó -- đều kết thúc. Người đó bắt đầu đi tới sự một mình, hướng tới bản thân mình.

Trước điều này, cuộc sống đã thành quá nhiều và người đó không thể một mình được; có những trách nhiệm cần phải được hoàn thành, trẻ con cần được nâng đỡ. Bây giờ chúng đã lớn khôn. Chúng xây dựng gia đình -- vào lúc bạn bốn mươi chín thì con bạn lấy vợ lấy chồng, định cư. Chúng không còn là kẻ hippies, chúng phải đạt tới độ tuổi hai mươi tám. Chúng sẽ lắng đọng -- bây giờ bạn có thể đảo lộn được. Bây giờ bạn có thể đi ra khỏi nhà, bạn có thể trở thành vô gia cư. Vào độ tuổi thứ bốn mươi chín người ta nên bắt đầu nhìn về rừng rậm, đi vào nội tâm, trở thành ngày một mang tính thiến và tính cầu nguyện hơn.


Vào độ tuổi năm mươi sáu lại một thay đổi tới, một cuộc cách mạng. Bây giờ nhìn lên Himalayas cũng không đủ; người ta phải thực sự du hành, người ta phải đi. Cuộc sống đang chấm dứt, cái chết đang tới ngày một gần hơn. Vào độ tuổi bốn mươi chín người ta trở nên không quan tâm tới dục khác giới. Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên trở nên không quan tâm tới người khác, tới xã hội, tới các nghi lễ xã hội, câu lạc bộ. Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên từ nhiệm khỏi mọi câu lạc bộ Rotaries, mọi câu lạc bộ Lions; bây giờ điều đó có vẻ ngu xuẩn, trẻ con. Cứ tới câu lạc bộ Rotary hay Lions nào đó mà xem mọi người, ăn vận tề chỉnh với cà vạt và đủ mọi thứ -- điều đó trông có vẻ thiếu niên, trẻ con. Họ đang làm gì? Lions sư tử -- chính cái tên này có vẻ ngu ngốc. Với một đứa trẻ nhỏ, tốt -- bây giờ họ có câu lạc bộ "Mãnh thú" cho trẻ nhỏ, và cho đàn bà câu lạc bộ "Sư tử cái". Với mãnh thú điều đó là hoàn toàn đúng, nhưng với sư tử và sư tử cái...? Điều đó chỉ ra rằng tâm trí là tầm thường.

Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên trưởng thành khi thoát ra ngoài tất cả mọi vướng víu xã hội. Kết thúc rồi! Người ta đã sống đủ, đã học đủ; bây giờ người ta nên cám ơn mọi người và bước ra khỏi nó. Năm mươi sáu tuổi là thời gian người ta nên tự nhiên trở thành một sannyasin. Người ta nên nhận tính chất sannyas, người ta nên từ bỏ, điều đó là tự nhiên -- khi bạn đi vào, bạn nên từ bỏ. Cuộc sống nên có một lối vào và nó nên có một lối ra; bằng không nó sẽ thành ngạt thở. Bạn đi vào và bạn chẳng bao giờ bước ra và rồi bạn nói bạn ngạt thở, trong đau buồn. Có lối ra đấy, và đó là tính chất sannyas -- bạn bước ra khỏi xã hội. Bạn thậm chí không quan tâm tới người khác vào độ tuổi năm mươi sáu.


Đến độ tuổi sáu mươi ba bạn lại trở thành giống đứa trẻ, chỉ quan tâm tới bản thân mình. Đó là điều thiền là gì -- đi vào nội tâm, cứ dường như mọi thứ khác đã rơi đâu mất và chỉ mỗi bạn tồn tại. Lần nữa bạn trở thành đứa trẻ -- tất nhiên được làm giầu rất nhiều bởi cuộc sống, rất trưởng thành, hiểu biết, với thông minh lớn lao. Bây giờ bạn lại trở thành hồn nhiên. Bạn bắt đầu đi vào nội tâm. Chỉ còn lại vài năm nữa thôi, và bạn phải chuẩn bị cho cái chết. Bạn phải sẵn sàng để chết.


Và sẵn sàng chết là gì? Mở hội với cái chết là sẵn sàng chết. Chết hạnh phúc, vui sướng, chết một cách sẵn lòng, đón chào, là sẵn sàng. Thương đế đã cho bạn một cơ hội để học tập, và hiện hữu, và bạn đã học. Bây giờ bạn muốn nghỉ ngơi. Bây giờ bạn muốn đi về nhà tối thượng. Đó đã là nơi tạm trú. Bạn đã lang thang ở miền đất lạ, bạn đã sống với những người lạ, bạn đã yêu những người lạ và bạn đã học nhiều. Bây giờ thời điểm đã tới: hoàng tử phải trở về vương quốc riêng của mình.


Sáu mươi ba là thời điểm khi người ta trở thành hoàn toàn đóng vào trong mình. Toàn thể năng lượng đi vào và đi vào và đi vào, quay vào trong. Bạn trở thành cái vòng tròn năng lượng, không đi đâu cả. Không đọc, không nói nhiều. Ngày một im lặng hơn, ngày một trở nên bản thân mình hơn, hoàn toàn độc lập với tất cả mọi thứ xung quanh bạn. Năng lượng cứ ngày một sụt giảm dần.


Đến độ tuổi bẩy mươi bạn sẵn sàng rồi. Và nếu bạn đã tuân theo hình mẫu tự nhiên này, chỉ ngay trước cái chết của bạn -- chín tháng trước cái chết của bạn -- bạn sẽ trở nên nhận biết rằng cái chết đang tới. Như đứa trẻ phải trải qua chín tháng trong bụng mẹ, cùng chu kì này được lặp lại hoàn toàn, lặp lại đầy đủ, lặp lại trọn vẹn. Trước lúc cái chết tới, chín tháng trước đó, bạn sẽ trở nên nhận biết. Bây giờ bạn đang đi vào bụng mẹ lần mữa. Bụng mẹ này không còn trong người mẹ, bụng mẹ này ở bên trong bạn.


Người Ấn Độ gọi điện thờ bên trong nhất của ngôi đền là garbha, bụng mẹ. Khi bạn đi tới ngôi đền thì phần bên trong nhất của ngôi đền này được gọi là bụng mẹ. Nó được gọi một cách rất biểu tượng như vậy, rất có chủ ý; đó là bụng mẹ người ta phải đi vào. Trong pha cuối cùng -- chín tháng -- người ta đi vào chính bản thân mình, thân thể riêng của mình trở thành bụng mẹ. Người ta đi vào điện thờ bên trong nhất nơi ngọn lửa bao giờ cũng cháy, nơi ánh sáng bao giờ cũng có, nơi ngôi đền hiện hữu, nơi thượng đế bao giờ cũng sống. Đây là quá trình tự nhiên.


Với quá trình tự nhiên này, không cần tương lai nào cả. Bạn đã sống một cách tự nhiên khoảnh khắc này. Khoảnh khắc tiếp sẽ bắt nguồn từ nó theo cách riêng của nó. Cũng hệt như đứa trẻ lớn lên và trở thành thanh niên -- không cần lập kế hoạch cho điều đó, người ta đơn giản trở thành; điều đó là tự nhiên, nó xảy ra. Như dòng sông tuôn chảy và tới đại dương -- theo cùng cách này -- bạn tuôn chảy và bạn đi tới chỗ kết thúc, tới đại dương. Nhưng người ta phải vẫn còn tự nhiên, trôi nổi và trong khoảnh khắc này. Một khi bạn bắt đầu nghĩ về tương lai và tham vọng và ham muốn, bạn bỏ lỡ khoảnh khắc này. Và khoảnh khắc này bị bỏ lỡ sẽ tạo ra sự suy đồi bởi vì bạn bao giờ cũng sẽ bỏ thiếu mất cái gì đó; lỗ hổng sẽ có đó.


Nếu đứa trẻ mà không sống thời thơ ấu của mình cho đủ, thì thời thơ ấu chưa được sống đủ đó sẽ đi vào trong thời thanh niên của bạn -- bởi vì nó sẽ đi đâu được? Nó phải được sống qua chứ. Khi đứa trẻ lên bốn và nhảy múa và chơi và chạy khắp nơi, đuổi bắt bướm, điều đó là đẹp. Nhưng khi một thanh niên hai mươi tuổi đuổi bắt bướm thì anh ta dở hơi rồi -- thế thì bạn phải nhận anh ta vào bệnh viện, anh ta là một ca tâm thần. Chẳng có gì sai với điều đó ở bốn tuổi; điều đó là tự nhiên, đó là việc cần làm. Đó là đúng việc cần làm -- nếu đứa trẻ không đuổi theo bướm thì cái gì đó bị sai, nó phải được đưa tới nhà phân tâm. Thế thì điều đó là được -- nhưng khi anh ta hai mươi tuổi và vẫn tung tăng đuổi bướm thì bạn phải nghi ngờ điều gì đó đã đi sai, anh ta vẫn còn chưa trưởng thành. Thân thể đã trưởng thành, tâm trí đang tụt lại sau. Anh ta phải ở đâu đó trong thời thơ ấu của mình -- anh ta đã không được phép sống thời thơ ấu một cách trọn vẹn. Nếu anh ta sống thời thơ ấu một cách trọn vẹn thì anh ta sẽ trở thành thanh niên, đẹp, tươi, không bị vẩn đục bởi tuổi thơ. Anh ta sẽ lột bỏ tuổi thơ như con rắn lột da cũ của nó. Anh ta sẽ đi ra từ đó tươi tắn. Anh ta sẽ có thông minh của thanh niên và anh ta sẽ không trông như người chậm tiến.


Sống tuổi thanh niên một cách trọn vẹn. Đừng nghe lời những người có thẩm quyền cổ đại, vứt bỏ những lời đó ra khỏi con đường. Đừng nghe họ - bởi vì họ đã giết chết tuổi thanh niên, họ kìm nén tuổi thanh niên. Họ chống lại dục và nếu xã hội nào đó chống lại dục thì dục sẽ lan toả khắp cuộc sống của bạn, nó sẽ trở thành chất độc. Sống nó đi! Tận hưởng nó!


Giữa mười bốn và hai mươi mốt tuổi con trai đạt đỉnh dục cao nhất. Thực tế gần độ tuổi mười bảy hay mười tám nó đạt tới đỉnh dục. Nó sẽ chẳng bao giờ có năng lực như vậy nữa, và nếu những khoảnh khắc này bị bỏ lỡ nó sẽ chẳng bao giờ đạt tới cực thích đẹp đẽ mà nó có thể đã đạt được gần độ tuổi mười bẩy hay mười tám.

Tôi liên tục gặp khó khăn, vì xã hội buộc bạn phải vẫn còn độc thân ít nhất cho tới hai mươi mốt tuổi -- điều đó nghĩa là khả năng lớn nhất cho việc đạt tới dục, học về dục, sẽ bị bỏ lỡ. Vào lúc bạn đạt tới hai mươi mốt, hai mươi hai, bạn đã già rồi khi có liên quan tới dục. Gần độ tuổi mười bẩy bạn còn ở đỉnh -- nhiều năng lực, mạnh mẽ tới mức cực thích, cực thích dục, sẽ lan toả khắp các tế bào của bạn. Toan thể thân thể bạn đã tắm trong phúc lạc vĩnh hằng. Và khi tôi nói dục có thể trở thành samadhi, siêu tâm thức, tôi không nói điều đó cho những người bẩy mươi tuổi, nhớ lấy! Tôi đang nói điều đó cho những người mười bẩy tuổi. Về cuốn sách của tôi, Từ Dục tới Siêu tâm thức... người già tới tôi và họ nói, "Chúng tôi đã đọc cuốn sách của ông nhưng chúng tôi chẳng đạt được cái gì giống thế này cả." Làm sao bạn có thể đạt được? Bạn đã bỏ lỡ thời gian, và nó không thể được thay thế. Và tôi không chịu trách nhiệm; xã hội của bạn mới chịu trách nhiệm và bạn đã nghe theo nó.


Nếu giữa độ tuổi mười bốn và hai mươi mốt mà đứa trẻ được phép có dục tự do, dục tuyệt đối tự do, nó sẽ chẳng bao giờ bận tâm về dục nữa. Nó sẽ hoàn toàn tự do. Nó sẽ không xem các tạp chí Playboy và Playgirl. Nó sẽ không che giấu những bức tranh khiêu dâm, xấu xí trong tủ hay trong Kinh Thánh. Nó sẽ không đi ra khỏi con đường của mình để ném mọi thứ vào đàn bà, nó sẽ không trở thành thằng cha dâm dê (bottom-pincher). Những điều này là xấu, đơn giản xấu – nhưng bạn cứ tha thứ cho họ và không cảm thấy điều gì đang xảy ra, tại sao mọi người đều thần kinh.


Một khi bạn tìm ra cơ hội xoa bóp thân thể đàn bà thì bạn chẳng bao giờ bỏ lỡ nó -- xấu làm sao! Xoa bóp thân thể sao? – cái gì đó vẫn còn chưa được hoàn thành trong bạn. Và khi một lão già với con mắt thèm khát, thì chẳng cái gì so sánh được với điều đó; đó là điều xấu nhất trên thế giới khi một lão già nhìn với sự thèm khát trong đôi mắt mình. Mắt ông ấy bây giờ nên hồn nhiên, ông ấy phải kết thúc bây giờ rồi. Không phải dục là cái gì đó xấu xí, nhớ lấy – tôi không nói dục xấu. Dục là đẹp vào thời và mùa vụ của nó và dục là xấu nếu không đúng mùa vụ, không đúng thời. Dục là bệnh hoạn khi nó có trong ông già chín mươi tuổi. Đó là lí do tại sao mọi người nói "lão già dơ dáy." Nó dơ dáy.


Một thanh niên là đẹp, có tính dục. Anh ta biểu lộ sức sống, cuộc sống. Một lão già, dâm dê, biểu lộ một cuộc sống chưa được sống, một cuộc sống trống rỗng, không trưởng thành. Ông ta đã bỏ lỡ cơ hội và bây giờ ông ta không thể làm được gì, nhưng ông ta cứ nghĩ ngợi, huyên thuyên trong tâm trí về dục, cứ hư cấu.


Nhớ lấy, giữa mười bốn và hai mươi mốt tuổi một xã hội đúng sẽ cho phép tự do tuyệt đối về dục. Và thế thì xã hội đó sẽ tự nhiên trở nên ít tính dục; bên ngoài một thời gian nào đó sẽ không có dục. Căn bệnh này sẽ không có đó – sống dục khi thời gian chín muồi và quên nó đi khi khoảnh khắc đó đã qua. Nhưng điều đó bạn chỉ làm được nếu bạn đã sống; bằng không bạn không thể quên được và bạn không thể tha thứ được. Bạn sẽ níu bám, nó sẽ trở thành vết thương lòng.


Ở phương Đông bạn đừng nghe những người có quyền, bất kì điều gì họ nói. Lắng nghe tự nhiên –khi tự nhiên nói đấy là lúc cho yêu, thì yêu. Khi tự nhiên nói đấy là lúc từ bỏ, thì từ bỏ. Và đừng nghe các nhà phân tâm và các nhà tâm lí ngu xuẩn ở phương Tây. Dù họ có các dụng cụ tinh xảo đến đâu -- Thầy và Johnson và những người khác – và dù họ đã kiểm nghiệm và kiểm tra bao nhiêu âm đạo, họ chẳng biết cuộc sống.


Thực tế tôi ngờ rằng các Thầy và Johnsons và Kinseys đều là những người nhìn lén. Bản thân họ ốm yếu về dục; bằng không ai bận tâm quan sát cả nghìn âm đạo bằng dụng dụ -- quan sát điều gì đang xảy ra bên trong khi đàn bà làm tình? Ai bận tâm? Vô nghĩa làm sao! Nhưng khi mọi sự trở nên suy đồi thì những kiểu việc này xảy ra. Bây giờ các Thầy và Johnsons đã trở thành các chuyên gia, những người có thẩm quyền cuối cùng. Nếu bạn có bất kì vấn đề dục nào thì họ là những người có thẩm quyền cuối cùng cần tới. Và tôi ngờ họ đã bỏ lỡ tuổi thanh niên của mình, họ đã không sống cuộc sống dục của mình một cách đúng đắn. Ở đâu đó cái gì đó đang thiếu và họ đang hoàn thành nó qua những trò như vậy.


Và khi một thứ rơi vào sự nắm bắt của khoa học thì bạn có thể làm bất kì cái gì. Bây giờ họ đã làm ra các dương vật điện, giả, và những dương vật điện đó cứ rung rung trong âm đạo thật, và họ cứ thử để tìm xem điều gì đang xảy ra bên trong, liệu cực thích là ở âm vật hay âm đạo, hay hoóc môn nào đang chảy, hoóc môn nào không chảy, và đàn bà có thể làm tình bao lâu. Họ nói đến tận cùng – trên giường chết đàn bà vẫn có thể làm tình.


Thực tế gợi ý của họ là ở chỗ sau thời kì mãn kinh đàn bà có thể làm tình còn tốt hơn bao giờ hết -- điều đó có nghĩa là sau tuổi bốn mươi chín. Sao họ lại nói điều đó? -- bởi vì, họ nói, trước bốn mươi chín tuổi đàn bà bao giờ cũng sợ bị mang thai. Cho dù cô ấy có uống thuốc, chẳng thuốc nào công hiệu một trăm phần trăm; có nỗi sợ. Đến trước tuổi bốn mươi chín, khi sự mãn kinh tới và kinh nguyệt dừng lại, thì không có nỗi sợ; đàn bà hoàn toàn tự do. Nếu giáo lí của họ lan rộng thì đàn bà sẽ trở thành ma cà rồng, và bà già sẽ săn đuổi đàn ông bởi vì bây giờ họ không sợ và nhà cầm quyền thừa nhận điều đó. Thực tế họ nói rằng đấy là lúc để tận hưởng – không có trách nhiệm gì.


Và với đàn ông nữa, họ cũng cứ nói cùng điều đó. Họ đã bắt gặp những đàn ông – cho nên bây giờ họ nói không có số trung bình -- họ đã bắt gặp một người vào độ tuổi sáu mươi vẫn có thể làm tình năm lần một ngày. Người này dường như là một người kì dị. Cái gì đó sai với hoóc môn của người đó và thân thể người đó. Vào độ tuổi sáu mươi! Người đó không tự nhiên, bởi vì như tôi thấy điều đó – và điều này tôi đang nói từ kinh nghiệm riêng của mình trong nhiều kiếp, tôi có thể nhớ chúng -- đến trước bốn mươi chín tuổi đàn ông tự nhiên không quan tâm tới đàn bà; mối quan tâm ra đi. Như nó tới, nó lại ra đi.


Mọi thứ tới đều phải ra đi. Mọi thứ nảy sinh đều phải rụng xuống. Mọi con sóng nảy sinh đều phải biến mất, phải có thời điểm nó ra đi. Vào mười bốn tuổi nó tới; vào bốn mươi chín tuổi hay quãng thế nó ra đi. Nhưng một đàn ông làm tình năm lần một ngày vào độ tuổi sáu mươi – cái gì đó sai rồi. Cái gì đó rất, rất sai; thân thể người đó không vận hành đúng. Đó là đầu bên kia của bất lực, cực đoan khác. Khi một đứa trẻ mười bốn tuổi không cảm thấy dục gì, một thanh niên mười tám tuổi không có ham muốn, điều gì đó sai rồi -- người đó phải được chữa trị. Khi một người sáu mươi tuổi cần làm tình năm lần một ngày, điều gì đó sai rồi. Thân thể người đó đã trở thành nổi đoá; nó không vận hành đúng, tự nhiên.


Nếu bạn sống trong khoảnh khắc một cách toàn bộ thì không có nhu cầu lo lắng về tương lai. Tuổi thơ được sống đúng đắn sẽ đem bạn tới tuổi thanh niên chín muồi, đúng – tuôn chảy, sống động, một đại dương năng lượng hoang dã. Tuổi thanh niên được sống đúng sẽ đem bạn tới cuộc sống yên tĩnh và bình thản, rất lắng đọng. Cuộc sống yên tĩnh và bình thản đem bạn tới cuộc truy tìm tôn giáo: Cuộc sống là gì? Việc sống là không đủ, người ta phải thấm vào điều bí ẩn. Cuộc sống yên tĩnh và bình thản đem bạn tới những khoảnh khắc thiền. Thiền đem bạn tới việc từ bỏ mọi cái bây giờ vô dụng, chỉ là đồ đồng nát, rác rưởi. Toàn thể cuộc sống trở thành rác rưởi; chỉ mỗi một điều bao giờ cũng còn lại, có giá trị vĩnh hằng, và đó là nhận biết của bạn.


Vào lúc bẩy mươi tuổi, khi bạn sẵn sàng chết -- nếu bạn sống mọi sự đúng đắn, vào khoảnh khắc đó, đừng bao giờ trì hoãn cho tương lai, đừng bao giờ mơ mộng về tương lai, bạn đã sống nó một cách toàn bộ trong khoảnh khắc dù nó là bất kì cái gì – chín tháng trước cái chết của mình bạn sẽ trở nên nhận biết. Bạn đã đạt tới nhiều nhận biết thế, bạn có thể thấy rằng bây giờ cái chết đang tới.


Nhiều thánh nhân đã tuyên bố cái chết của họ trước thời điểm đó, nhưng tôi không gặp một ví dụ nào mà cái chết được công bố trước chín tháng. Đích xác chín tháng trước đó, con người của nhận biết, đã thông tỏ với quá khứ... bởi vì người chưa bao giờ nghĩ tới tương lai sẽ chẳng bao giờ nghĩ về quá khứ. Chúng là cùng nhau; quá khứ và tương lai là cùng nhau, gắn cùng nhau. Khi bạn nghĩ về tương lai đấy chẳng là gì ngoài sự phóng chiếu của quá khứ; khi bạn nghĩ về quá khứ đấy chẳng là gì ngoài cố gắng lập kế hoạch cho tương lai – chúng là cùng nhau. Hiện tại ở ngoài cả hai -- người sống trong khoảnh khắc này bây giờ và ở đây không bị cản trở bởi quá khứ và không bị cản trở bởi tương lai, người đó vẫn còn không bị nặng gánh. Người đó không có gánh nặng phải mang, người đó đi vô trọng lượng. Lực trọng trường không tác động vào người đó. Thực tế, người đó không bước, người đó bay. Người đó có cánh. Trước khi chết, đích xác chín tháng trước đó, người đó sẽ trở nên nhận biết rằng cái chết đang tới.


Và người đó sẽ tận hưởng và người đó sẽ mở hội và người đó sẽ nói với mọi người, "Con tàu của tôi đang tới, và tôi chỉ còn lại chút thời gian trên bờ này. Chẳng mấy chốc tôi sẽ ra đi về nhà mình. Cuộc sống này đã là một kinh nghiệm tuyệt vời, kì lạ. Tôi đã yêu, đã học, đã sống nhiều, tôi được giầu có. Tôi đã tới đây chẳng có gì và tôi ra đi với nhiều kinh nghiệm, nhiều trưởng thành." Người đó sẽ cám ơn tất cả những gì đã xảy ra -- cả tốt lẫn xấu, cả đúng lẫn sai, bởi vì từ mọi thứ người đó đã học. Không chỉ từ cái đúng, mà cả từ cái sai nữa – các hiền nhân mà người đó đã bắt gặp, người đó đã học từ họ và cả các tội nhân, vâng, cả từ họ nữa. Tất cả họ đều đã giúp đỡ. Những người trộm cắp người đó đã giúp đỡ, những người đã giúp cho người đó cũng giúp đỡ. Những người là bạn đã giúp đỡ, những người là thù cũng giúp đỡ -- mọi thứ đều giúp đỡ. Mùa hè và mùa đông, no nê và đói khát, mọi thứ đều giúp đỡ. Người ta có thể cám ơn tất cả.


Khi người ta cám ơn tất cả và sẵn sàng chết, mở hội cho cơ hội này mà người ta được trao cho, thì cái chết trở thành đẹp. Thế thì cái chết không phải là kẻ thù, nó là người bạn lớn nhất bởi vì nó là cao trào của cuộc sống. Nó là đỉnh cao nhất mà cuộc sống đạt tới. Nó không phải là kết thúc của cuộc sống, nó là cực đỉnh. Nó giống như chỗ kết thúc bởi vì bạn chưa bao giờ biết cuộc sống -- với người đã biết cuộc sống nó dường như là chính cao trào, chính đỉnh cao, đỉnh cao nhất.


Cái chết là cực điểm, sự hoàn thành. Cuộc sống không kết thúc trong nó; thực tế cuộc sống nở hoa trong nó – nó là bông hoa. Nhưng để biết cái đẹp của cái chết người ta phải sẵn sàng cho nó, người ta phải học nghệ thuật.

Hoài nghi - Tin tưởng - Đức tin - Tin cậy

Bất kì chỗ nào bạn bắt gặp từ 'tin tưởng', thận trọng vào. Phật chưa bao giờ ngụ ý điều bạn ngụ ý bởi từ 'tin tưởng'. Từ của ông ấy là shraddha. Shraddha không có nghĩa tin tưởng, nó thậm chí không có nghĩa đức tin; nó ngụ ý tin cậy, điều là hiện tượng hoàn toàn khác.
Shraddha nghĩa là trạng thái của tin cậy toàn bộ. Tin tưởng không phải là tin cậy toàn bộ; hoài nghi vẫn còn trong nó, bị kìm nén. Tin tưởng là cái vỏ che đậy. Bạn hoài nghi nhưng bạn đã che đậy nó bằng cái chăn, bằng tin tưởng. Bạn sợ hoài nghi. Hoài nghi quấy rối, cho nên bạn níu bám lấy tin tưởng, nhưng tin tưởng không bao giờ có thể đưa bạn vượt ra ngoài hoài nghi.

Tin tưởng là hoài nghi đứng trên đầu nó, đứng lộn ngược, có vậy thôi. Người hoài nghi hoài nghi, người tin tưởng tin tưởng, nhưng cả hai đều mù quáng. Họ ở trong cùng một con thuyền, có thể ngồi xoay lưng lại nhau, nhưng trong cùng một con thuyền. Do đó người tin tưởng bao giờ cũng sợ ai đó khêu gợi cái hoài nghi của mình ra, còn người hoài nghi bao giờ cũng cảnh giác để không ai thuyết phục được mình về bất kì tin tưởng nào. Họ cả hai đều vướng víu vào nhau.

Tin cậy là gì? Tin cậy là đi vượt ra ngoài hoài nghi và tin tưởng. Tin tưởng bao giờ cũng ở trong một ý niệm nào đó; tin cậy bao giờ cũng ở trong cái đang hiện hữu - không ở trong ý niệm mà trong bản thân sự tồn tại, bên trong và bên ngoài. Và giữa tin tưởng và tin cậy có từ khác, 'đức tin' - cảnh giác với từ đó nữa. Phật chưa bao giờ ngụ ý đức tin khi ông ấy dùng shraddha, và ông ấy bao giờ cũng dùng shraddha. Đức tin là ở giữa: tin tưởng vào một ý niệm, đức tin vào một người, còn tin cậy vào bản thân sự tồn tại. Phật chưa bao giờ muốn bạn mang đức tin bởi vì đức tin tạo ra cuồng tín, đức tin tạo ra thần kinh.

Mới đêm hôm nọ, một thanh nữ tới để nhận tính chất sannyas. Cách thức cô ấy tiếp cận tới tôi làm tôi trở nên nhận biết rằng cô ấy thần kinh. Nhưng tôi không bao giờ nói không với bất kì ai. Ai mà biết được, bao giờ cũng có khả năng - người ta không bao giờ có thể nói được - rằng người thần kinh có thể trở nên bình thường. Và ít nhất, nếu cô ấy sẵn lòng nhận tính chất sannyas, cô ấy vẫn có tri giác nào đó còn lại; có thể cô ấy được giúp đỡ.

Tôi có thể thấy điều đó sẽ là khó khăn - cách cô ấy tới, cách cô ấy ngồi... Và cuối cùng, khi tôi gọi cô ấy tới gần tôi, cô ấy từ chối tới gần. Cô ấy đứng dậy hai tay giơ lên và nói, "Tôi là Jesus Christ!" Tôi chẳng nói gì với cô ấy cả, mặc dầu tôi muốn nói, "Vậy, anh già, anh quay lại rồi! Anh đã quên điều đã xảy ra lần trước rồi sao? Có thể đó là lí do tại sao anh đã tới dưới dạng đàn bà lần này." Và với việc công bố rằng cô ấy là Jesus Christ, cô ấy đi mất.

Đức tin tạo ra những kiểu thần kinh này. Ki tô giáo có nhiều người thần kinh, bởi vì toàn thể ý niệm lệ thuộc vào đức tin: "Tin vào Jesus Christ, có đức tin vào ngài! Ngài sẽ cứu ông!" - cứ dường như ông ấy chịu trách nhiệm cho cảnh nô lệ của bạn! Ông ấy có thể cứu bạn chỉ nếu ông ấy đã đưa bạn vào tù; bằng không, làm sao ông ấy có thể cứu bạn được? Ông ấy là cứu tinh và bạn là kẻ được cứu; ông ấy là người chăn chiên và bạn là con chiên. Bạn không thấy cái vô nhân phẩm được bao hàm trong đó sao? Bạn trở thành cừu. Mọi tôn giáo, ít hay nhiều, đều đã làm điều này. Nếu bạn tin vào người, bạn sẽ bị thu thành cừu - bạn sẽ không là con người. Tính người của bạn bị phá huỷ. Bạn bị cầm tù trong những nhà tù rất tinh vi, vô hình. Bạn không thể thấy được chúng, chúng trong suốt.

Phật nói: Là ánh sáng lên chính mình. Đừng tin vào người, đừng tin vào ý thức hệ. Và khi bạn không tin vào bất kì ý thức hệ nào, và bạn không tin vào bất kì người nào, tin cậy lớn lao bùng nổ, tin cậy vào bản thân sự tồn tại - vào cây cối, vào tảng đá, vào mọi người, vào các vì sao, dòng sông, núi non, vào mọi thứ đang hiện hữu. Tất nhiên, chư phật là một phần của nó, nhưng bạn không tin vào Phật nói riêng. Bạn đơn giản tin vào sự tồn tại. Bạn tin vào hương thơm của Jesus. Nhưng tin tưởng này không bắt rễ vào bất kì quan niệm nào. Thực ra, nó là cái gì đó chủ thể, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì đối thể nào.

Nếu bạn tin vào Jesus bạn không thể tin được vào Krishna. Nếu bạn tin vào Krishna bạn không thể tin được vào Mahavira. Một cách tự nhiên, nếu bạn tin vào người này bạn phải không tin vào mọi người khác. Đó là cách tin tưởng chia rẽ mọi người. Và toàn thể lịch sử đầy những tắm máu, sát hại, tàn sát. Nó đầy máu và bạo hành nhân danh tôn giáo, bởi vì bạn đã được bảo tin vào người này chống lại mọi người khác.

Tin cậy là hoàn toàn khác. Nếu bạn tin cậy sự tồn tại... sự tồn tại ngụ ý Jesus cũng nhiều như Krishna, như Phật, như Zarathustra. Họ tất cả đều là một phần của nó. Và bạn không chỉ tin cậy vào chư phật, bạn tin cậy vào người thường bao quanh bạn nữa; không chỉ vào người mà cả con vật, cây cối, đất đá. Vấn đề không phải là điều bạn tin cậy - đối thể trở thành không liên quan. Bạn đơn giản có trái tim tin cậy, tin cậy lớn lao rằng chúng ta thuộc vào sự tồn tại này, chúng ta là một phần của sự tồn tại huyền bí này, rằng sự tồn tại không thể không thân thiện với chúng ta được. Nó đã cho sinh thành ra chúng ta, và làm sao người mẹ có thể không thân thiện được?
Đây là nghĩa hoàn toàn khác của tin cậy. Nó không tin tưởng cũng không đức tin. Nhớ hai từ này bởi vì chúng cứ bị dịch sai hoài.
Bất kì chỗ nào bạn bắt gặp từ 'tin tưởng', thận trọng vào. Phật chưa bao giờ ngụ ý điều bạn ngụ ý bởi từ 'tin tưởng'. Từ của ông ấy là shraddha. Shraddha không có nghĩa tin tưởng, nó thậm chí không có nghĩa đức tin; nó ngụ ý tin cậy, điều là hiện tượng hoàn toàn khác.
Shraddha nghĩa là trạng thái của tin cậy toàn bộ. Tin tưởng không phải là tin cậy toàn bộ; hoài nghi vẫn còn trong nó, bị kìm nén. Tin tưởng là cái vỏ che đậy. Bạn hoài nghi nhưng bạn đã che đậy nó bằng cái chăn, bằng tin tưởng. Bạn sợ hoài nghi. Hoài nghi quấy rối, cho nên bạn níu bám lấy tin tưởng, nhưng tin tưởng không bao giờ có thể đưa bạn vượt ra ngoài hoài nghi.

Tin tưởng là hoài nghi đứng trên đầu nó, đứng lộn ngược, có vậy thôi. Người hoài nghi hoài nghi, người tin tưởng tin tưởng, nhưng cả hai đều mù quáng. Họ ở trong cùng một con thuyền, có thể ngồi xoay lưng lại nhau, nhưng trong cùng một con thuyền. Do đó người tin tưởng bao giờ cũng sợ ai đó khêu gợi cái hoài nghi của mình ra, còn người hoài nghi bao giờ cũng cảnh giác để không ai thuyết phục được mình về bất kì tin tưởng nào. Họ cả hai đều vướng víu vào nhau.

Tin cậy là gì? Tin cậy là đi vượt ra ngoài hoài nghi và tin tưởng. Tin tưởng bao giờ cũng ở trong một ý niệm nào đó; tin cậy bao giờ cũng ở trong cái đang hiện hữu - không ở trong ý niệm mà trong bản thân sự tồn tại, bên trong và bên ngoài. Và giữa tin tưởng và tin cậy có từ khác, 'đức tin' - cảnh giác với từ đó nữa. Phật chưa bao giờ ngụ ý đức tin khi ông ấy dùng shraddha, và ông ấy bao giờ cũng dùng shraddha. Đức tin là ở giữa: tin tưởng vào một ý niệm, đức tin vào một người, còn tin cậy vào bản thân sự tồn tại. Phật chưa bao giờ muốn bạn mang đức tin bởi vì đức tin tạo ra cuồng tín, đức tin tạo ra thần kinh.

Mới đêm hôm nọ, một thanh nữ tới để nhận tính chất sannyas. Cách thức cô ấy tiếp cận tới tôi làm tôi trở nên nhận biết rằng cô ấy thần kinh. Nhưng tôi không bao giờ nói không với bất kì ai. Ai mà biết được, bao giờ cũng có khả năng - người ta không bao giờ có thể nói được - rằng người thần kinh có thể trở nên bình thường. Và ít nhất, nếu cô ấy sẵn lòng nhận tính chất sannyas, cô ấy vẫn có tri giác nào đó còn lại; có thể cô ấy được giúp đỡ.

Tôi có thể thấy điều đó sẽ là khó khăn - cách cô ấy tới, cách cô ấy ngồi... Và cuối cùng, khi tôi gọi cô ấy tới gần tôi, cô ấy từ chối tới gần. Cô ấy đứng dậy hai tay giơ lên và nói, "Tôi là Jesus Christ!" Tôi chẳng nói gì với cô ấy cả, mặc dầu tôi muốn nói, "Vậy, anh già, anh quay lại rồi! Anh đã quên điều đã xảy ra lần trước rồi sao? Có thể đó là lí do tại sao anh đã tới dưới dạng đàn bà lần này." Và với việc công bố rằng cô ấy là Jesus Christ, cô ấy đi mất.

Đức tin tạo ra những kiểu thần kinh này. Ki tô giáo có nhiều người thần kinh, bởi vì toàn thể ý niệm lệ thuộc vào đức tin: "Tin vào Jesus Christ, có đức tin vào ngài! Ngài sẽ cứu ông!" - cứ dường như ông ấy chịu trách nhiệm cho cảnh nô lệ của bạn! Ông ấy có thể cứu bạn chỉ nếu ông ấy đã đưa bạn vào tù; bằng không, làm sao ông ấy có thể cứu bạn được? Ông ấy là cứu tinh và bạn là kẻ được cứu; ông ấy là người chăn chiên và bạn là con chiên. Bạn không thấy cái vô nhân phẩm được bao hàm trong đó sao? Bạn trở thành cừu. Mọi tôn giáo, ít hay nhiều, đều đã làm điều này. Nếu bạn tin vào người, bạn sẽ bị thu thành cừu - bạn sẽ không là con người. Tính người của bạn bị phá huỷ. Bạn bị cầm tù trong những nhà tù rất tinh vi, vô hình. Bạn không thể thấy được chúng, chúng trong suốt.

Phật nói: Là ánh sáng lên chính mình. Đừng tin vào người, đừng tin vào ý thức hệ. Và khi bạn không tin vào bất kì ý thức hệ nào, và bạn không tin vào bất kì người nào, tin cậy lớn lao bùng nổ, tin cậy vào bản thân sự tồn tại - vào cây cối, vào tảng đá, vào mọi người, vào các vì sao, dòng sông, núi non, vào mọi thứ đang hiện hữu. Tất nhiên, chư phật là một phần của nó, nhưng bạn không tin vào Phật nói riêng. Bạn đơn giản tin vào sự tồn tại. Bạn tin vào hương thơm của Jesus. Nhưng tin tưởng này không bắt rễ vào bất kì quan niệm nào. Thực ra, nó là cái gì đó chủ thể, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì đối thể nào.

Nếu bạn tin vào Jesus bạn không thể tin được vào Krishna. Nếu bạn tin vào Krishna bạn không thể tin được vào Mahavira. Một cách tự nhiên, nếu bạn tin vào người này bạn phải không tin vào mọi người khác. Đó là cách tin tưởng chia rẽ mọi người. Và toàn thể lịch sử đầy những tắm máu, sát hại, tàn sát. Nó đầy máu và bạo hành nhân danh tôn giáo, bởi vì bạn đã được bảo tin vào người này chống lại mọi người khác.

Tin cậy là hoàn toàn khác. Nếu bạn tin cậy sự tồn tại... sự tồn tại ngụ ý Jesus cũng nhiều như Krishna, như Phật, như Zarathustra. Họ tất cả đều là một phần của nó. Và bạn không chỉ tin cậy vào chư phật, bạn tin cậy vào người thường bao quanh bạn nữa; không chỉ vào người mà cả con vật, cây cối, đất đá. Vấn đề không phải là điều bạn tin cậy - đối thể trở thành không liên quan. Bạn đơn giản có trái tim tin cậy, tin cậy lớn lao rằng chúng ta thuộc vào sự tồn tại này, chúng ta là một phần của sự tồn tại huyền bí này, rằng sự tồn tại không thể không thân thiện với chúng ta được. Nó đã cho sinh thành ra chúng ta, và làm sao người mẹ có thể không thân thiện được?
Đây là nghĩa hoàn toàn khác của tin cậy. Nó không tin tưởng cũng không đức tin. Nhớ hai từ này bởi vì chúng cứ bị dịch sai hoài.

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

Chín tầng tâm thức

Tâm lí học hiện đại đã phát hiện ra vài điều có ý nghĩa; mặc dầu người ta mới chỉ phát hiện ra về mặt trí tuệ, đấy vẫn là việc mở đầu tốt đẹp. Nếu về mặt trí tuệ mà chúng đã được phát hiện ra, thì sớm hay muộn chúng cũng sẽ được kinh nghiệm về sự tồn tại.
Freud là người tiên phong vĩ đại; tất nhiên, không phải là vị phật, nhưng vẫn là một người có ý nghĩa lớn, bởi vì ông ấy là người đầu tiên đưa ra ý tưởng được phần lớn nhân loại chấp nhận rằng con người có vô thức lớn ẩn bên trong mình. Tâm trí có ý thức chỉ là một phần mười, và tâm trí vô ý thức gấp chín lần lớn hơn phần có ý thức.
Thế rồi một đệ tử của ông ấy, Jung, đi xa thêm chút ít, sâu hơn chút ít, và đã khám phá ra vô thức tập thể. Đằng sau vô thức cá nhân có vô thức tập thể. Bây giờ ai đó được cần để khám phá ra một điều nữa vẫn đang có đó, và tôi hi vọng... Sớm hay muộn các cuộc nghiên cứu tâm lí đang tiếp diễn, ở cả hai phía tấm màn sắt, nhất định sẽ khám phá ra nó - vô thức vũ trụ. Phật đã nói về nó.
Cho nên chúng ta có thể nói: tâm trí có ý thức, một điều rất mỏng manh, một phần rất nhỏ của bản thể bạn. Đằng sau ý thức là tâm trí tiềm thức - mơ hồ. Bạn có thể nghe thấy tiếng thì thào của nó nhưng bạn không thể hình dung ra nó được. Nó bao giờ cũng có đó, đằng sau ý thức, giật dây.
Thứ ba: tâm trí vô thức cái bạn bắt gặp chỉ trong mơ hay khi bạn dùng ma tuý. Thế rồi, tâm trí vô thức tập thể. Bạn bắt gặp nó chỉ khi bạn đi vào truy tìm rất sâu trong tâm trí vô thức của bạn; thế rồi bạn bắt gặp vô thức tập thể. Và nếu bạn vẫn đi xa hơn nữa, sâu hơn nữa, bạn sẽ tới vô thức vũ trụ.
Vô thức vũ trụ là tự nhiên. Vô thức tập thể là toàn thể nhân loại đã sống cho tới giờ, nó là một phần của bạn. Vô thức này là vô thức cá nhân của bạn mà xã hội đã kìm nén trong bạn, cái không được phép diễn đạt. Do đó nó tới theo cửa sau trong đêm, trong mơ của bạn. Và tâm trí có ý thức... Tôi sẽ gọi nó là cái gọi là tâm trí có ý thức bởi vì nó vẫn chỉ được gọi như vậy. Nó quá nhỏ bé, chỉ là một đốm sáng lung linh, nhưng cho dù nó chỉ là một đốm sáng lung linh nó là quan trọng bởi vì nó có hạt mầm; hạt mầm bao giờ cũng nhỏ. Nó có tiềm năng lớn.
Bây giờ một chiều hướng hoàn toàn mới đang mở ra. Cũng như Freud đã mở ra chiều hướng dưới ý thức, Sri Aurobindo đã mở ra chiều hướng trên ý thức. Freud và Sri Aurobindo là hai người quan trọng nhất của thời đại này. Cả hai đều là trí thức, không người nào là người đã thức tỉnh, nhưng cả hai đã phục vụ được rất nhiều cho nhân loại. Về mặt trí tuệ họ đã làm cho chúng ta nhận biết rằng chúng ta không nhỏ bé thế như chúng ta dường như vậy trên bề mặt, rằng bề mặt đang che giấu chiều sâu và chiều cao lớn.
Freud đi vào chiều sâu, Sri Aurobindo cố gắng thấm vào chiều cao. Trên cái gọi là tâm trí có ý thức là tâm trí có ý thức thực; điều đó được đạt tới chỉ qua thiền. Khi tâm trí có thức bình thường của bạn được bổ sung thêm thiền, khi tâm trí có ý thức bình thường của bạn được cộng với thiền, thì nó trở thành tâm trí có ý thức thực. Bên ngoài tâm trí có ý thức thực là tâm trí siêu ý thức.
Khi bạn thiền thì bạn có chỉ các thoáng nhìn. Thiền là dò dẫm trong bóng tối. Vâng, vài cửa sổ sẽ mở ra, nhưng bạn cứ rơi đi rơi lại mãi. Tâm thức siêu ý thức có nghĩa là samadhi - bạn đã đạt tới cảm nhận trong như pha lê, bạn đã đạt tới nhận biết tích hợp. Bây giờ bạn không thể rơi xuống thấp hơn nó; nó là của bạn. Ngay cả trong giấc ngủ nó vẫn còn với bạn.
Bên ngoài siêu ý thức là siêu ý thức tập thể; siêu ý thức tập thể là cái được biết tới như “thần” trong các tôn giáo. Và bên ngoài siêu ý thức tập thể là siêu ý thức vũ trụ cái thậm chí vượt ra ngoài các thần. Phật gọi nó là niết bàn, Mahavira gọi nó là kaivalya, các nhà huyền môn Hindu đã gọi nó là moksha; bạn có thể gọi nó là chân lí.
Đấy là chín trạng thái của bản thể bạn, và bạn chỉ đang sống trong một góc nhỏ của bản thể mình - tâm trí có ý thức tí xíu; dường như ai đó có lâu đài và đã quên mất hoàn toàn về lâu đài này và bắt đầu sống trong hành lang - và tưởng đây là tất cả.
Tâm lí học hiện đại đã phát hiện ra vài điều có ý nghĩa; mặc dầu người ta mới chỉ phát hiện ra về mặt trí tuệ, đấy vẫn là việc mở đầu tốt đẹp. Nếu về mặt trí tuệ mà chúng đã được phát hiện ra, thì sớm hay muộn chúng cũng sẽ được kinh nghiệm về sự tồn tại.
Freud là người tiên phong vĩ đại; tất nhiên, không phải là vị phật, nhưng vẫn là một người có ý nghĩa lớn, bởi vì ông ấy là người đầu tiên đưa ra ý tưởng được phần lớn nhân loại chấp nhận rằng con người có vô thức lớn ẩn bên trong mình. Tâm trí có ý thức chỉ là một phần mười, và tâm trí vô ý thức gấp chín lần lớn hơn phần có ý thức.
Thế rồi một đệ tử của ông ấy, Jung, đi xa thêm chút ít, sâu hơn chút ít, và đã khám phá ra vô thức tập thể. Đằng sau vô thức cá nhân có vô thức tập thể. Bây giờ ai đó được cần để khám phá ra một điều nữa vẫn đang có đó, và tôi hi vọng... Sớm hay muộn các cuộc nghiên cứu tâm lí đang tiếp diễn, ở cả hai phía tấm màn sắt, nhất định sẽ khám phá ra nó - vô thức vũ trụ. Phật đã nói về nó.
Cho nên chúng ta có thể nói: tâm trí có ý thức, một điều rất mỏng manh, một phần rất nhỏ của bản thể bạn. Đằng sau ý thức là tâm trí tiềm thức - mơ hồ. Bạn có thể nghe thấy tiếng thì thào của nó nhưng bạn không thể hình dung ra nó được. Nó bao giờ cũng có đó, đằng sau ý thức, giật dây.
Thứ ba: tâm trí vô thức cái bạn bắt gặp chỉ trong mơ hay khi bạn dùng ma tuý. Thế rồi, tâm trí vô thức tập thể. Bạn bắt gặp nó chỉ khi bạn đi vào truy tìm rất sâu trong tâm trí vô thức của bạn; thế rồi bạn bắt gặp vô thức tập thể. Và nếu bạn vẫn đi xa hơn nữa, sâu hơn nữa, bạn sẽ tới vô thức vũ trụ.
Vô thức vũ trụ là tự nhiên. Vô thức tập thể là toàn thể nhân loại đã sống cho tới giờ, nó là một phần của bạn. Vô thức này là vô thức cá nhân của bạn mà xã hội đã kìm nén trong bạn, cái không được phép diễn đạt. Do đó nó tới theo cửa sau trong đêm, trong mơ của bạn. Và tâm trí có ý thức... Tôi sẽ gọi nó là cái gọi là tâm trí có ý thức bởi vì nó vẫn chỉ được gọi như vậy. Nó quá nhỏ bé, chỉ là một đốm sáng lung linh, nhưng cho dù nó chỉ là một đốm sáng lung linh nó là quan trọng bởi vì nó có hạt mầm; hạt mầm bao giờ cũng nhỏ. Nó có tiềm năng lớn.
Bây giờ một chiều hướng hoàn toàn mới đang mở ra. Cũng như Freud đã mở ra chiều hướng dưới ý thức, Sri Aurobindo đã mở ra chiều hướng trên ý thức. Freud và Sri Aurobindo là hai người quan trọng nhất của thời đại này. Cả hai đều là trí thức, không người nào là người đã thức tỉnh, nhưng cả hai đã phục vụ được rất nhiều cho nhân loại. Về mặt trí tuệ họ đã làm cho chúng ta nhận biết rằng chúng ta không nhỏ bé thế như chúng ta dường như vậy trên bề mặt, rằng bề mặt đang che giấu chiều sâu và chiều cao lớn.
Freud đi vào chiều sâu, Sri Aurobindo cố gắng thấm vào chiều cao. Trên cái gọi là tâm trí có ý thức là tâm trí có ý thức thực; điều đó được đạt tới chỉ qua thiền. Khi tâm trí có thức bình thường của bạn được bổ sung thêm thiền, khi tâm trí có ý thức bình thường của bạn được cộng với thiền, thì nó trở thành tâm trí có ý thức thực. Bên ngoài tâm trí có ý thức thực là tâm trí siêu ý thức.
Khi bạn thiền thì bạn có chỉ các thoáng nhìn. Thiền là dò dẫm trong bóng tối. Vâng, vài cửa sổ sẽ mở ra, nhưng bạn cứ rơi đi rơi lại mãi. Tâm thức siêu ý thức có nghĩa là samadhi - bạn đã đạt tới cảm nhận trong như pha lê, bạn đã đạt tới nhận biết tích hợp. Bây giờ bạn không thể rơi xuống thấp hơn nó; nó là của bạn. Ngay cả trong giấc ngủ nó vẫn còn với bạn.
Bên ngoài siêu ý thức là siêu ý thức tập thể; siêu ý thức tập thể là cái được biết tới như “thần” trong các tôn giáo. Và bên ngoài siêu ý thức tập thể là siêu ý thức vũ trụ cái thậm chí vượt ra ngoài các thần. Phật gọi nó là niết bàn, Mahavira gọi nó là kaivalya, các nhà huyền môn Hindu đã gọi nó là moksha; bạn có thể gọi nó là chân lí.
Đấy là chín trạng thái của bản thể bạn, và bạn chỉ đang sống trong một góc nhỏ của bản thể mình - tâm trí có ý thức tí xíu; dường như ai đó có lâu đài và đã quên mất hoàn toàn về lâu đài này và bắt đầu sống trong hành lang - và tưởng đây là tất cả.

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2011

Bản ngã trong ba tầng thân thể - tâm trí - cái ta

Nhớ lấy, có ba tầng của bản thể bạn: thân thể, tâm trí và cái ta. Và bên ngoài ba điều này là vô ngã của bạn. Và do vậy có ba khả năng cho bản ngã để tự khẳng định nó. Hoặc nó tự khẳng định nó trên tầng thân thể - thân thể đẹp, thân thể mạnh, 'Tôi có thân thể đẹp trai nhất, thân thể mạnh mẽ nhất,' Ai đó là hoàng hậu đẹp, Hoa hậu vũ trụ, và ai đó là Mohammed Ali, người mạnh nhất, ông Vũ trụ. Trên tầng của thân thể bản ngã có thể tự khẳng định nó. Nếu bản ngã tự khẳng định nó trên tầng của thân thể người ta trở thành có tính con vật. Tất cả các lực sĩ của bạn, những lực sĩ vĩ đại, không là gì ngoài việc quá bị gắn bó với phần con vật của họ, để cho khi bạn thấy thân thể của ông Vũ trụ bạn có thể cảm thấy nó; người đó trông giống nhiều phần con vật hơn giống người. Chắc chắn người đó rất mạnh về thể chất. Bản ngã của người đó đang khẳng định bản thân nó trên con đường đó. Người đó sẽ rất hung hăng, tàn bạo, bạo hành. Người đó sẽ rất dâm dục, mê đắm, vô ý thức. Người đó sẽ đi như người máy, như máy. Người đó sẽ không có ý thức về bất kì cái gì. Toàn thể cuộc sống của người đó sẽ là: Ăn, uống và vui vẻ. Người đó sẽ sống trên tầng rất nông cạn của cuộc sống của người đó. Các nền văn minh đều chống lại điều đó, văn hoá chống lại điều đó. Họ nói 'Điều này là không tốt. Vứt bỏ bản ngã này.' Họ cứ dạy cho mọi đứa trẻ được sinh ra trên trái đất này 'Vứt bỏ bản ngã này đi. Trở thành không hùng hổ, trở thành bất bạo hành. Không tàn bạo, có lòng tốt, thông cảm.' Thế rồi bản ngã bắt đầu tự khẳng định bản thân nó trên mức độ khác, mức độ của tâm trí.
Tại mức tâm trí nó trở thành tri thức, thông thái, tiền bạc. Tiền là cao hơn dâm dục, cho nên những người trở nên quan tâm tới tiền quên tất cả về dục; họ không còn quan tâm tới dục. Toàn thể dâm dục của họ trở thành hướng theo tiền... hay quyền lực, chính trị, tham vọng. Những người trở thành tham vọng về quyền lực; họ cũng có thể hi sinh dục, mê đắm - mọi thứ họ có thể hi sinh.
Trên tầng thứ nhất họ có thể hi sinh, bởi vì trên tầng thứ hai họ cần mọi năng lượng sẵn có. Cho nên họ kìm nén ở tầng thứ nhất và bản ngã tự khẳng định nó ở tầng thứ hai. Mọi văn hoá tuỳ thuộc vào điều này. Thực ra, mọi nền văn hoá đều dùng nó như một kĩ thuật: Kìm nén bản ngã của trẻ con ở tầng thứ nhất và nó sẽ trở nên bản ngã ở tầng thứ hai. Thế rồi nó sẽ bắt đầu khao khát huân chương vàng ở đại học, trở thành thông thái hơn, đứng thứ nhất trong đại học. Nó sẽ bắt đầu trở nên hùng hổ về mặt tâm trí hơn mặt thể chất.

Bạn có thể thấy điều đó trong các đại học. Mọi sinh viên trong thể thao là rất nghèo nàn khi có liên quan tới phát triển tâm trí của họ, và mọi sinh viên có tâm trí là rất láu cá và tinh ranh đều nghèo nàn về thể chất. Nhà thể thao sống ở tầng thứ nhất và học giả ở tầng thứ hai. Học giả sẽ có thân thể tinh tế, sẽ đeo kính từ chính lúc ban đầu; người đó sẽ già ngay cả khi người đó còn trẻ. Trên mức độ thể chất bản ngã của người đó đã biến mất. Người đó không thể đánh nhau, nhưng người đó có thể tranh cãi. Đánh nhau của người đó bây giờ tự khẳng định bản thân nó là luận cứ. Người đó có thể thảo luận và tranh cãi; người đó đã tìm ra một công cụ tinh vi hơn để chinh phục và năng nổ với nó. Người đó sẽ không trở thành lực sĩ, người đó sẽ trở thành luật sư. Người đó sẽ sống qua biện luận, qua tri thức của người đó - nói bất kì cái gì ngược với tri thức của người đó và người đó sẵn sàng đánh nhau. Tất nhiên đánh nhau của người đó sẽ bằng lời, nói ra thôi. Nếu bạn đánh nhau bằng thân thể người đó sẽ gọi là tàn bạo, súc vật, nguyên thuỷ; nếu bạn đánh nhau trên mức độ lời nói và ngôn ngữ và logic người đó sẽ nói đây là 'trận đánh văn minh'... nhưng cùng bản ngã đó đang tự khẳng định nó trên tầng tứ hai.

Tôn giáo phụ thuộc vào kìm nén tầng thứ hai này của bản ngã. Văn minh phụ thuộc vào kìm nén thứ nhất: kìm nén bản ngã trên mức thân thể để cho nó tự khẳng định bản thân nó trên mức độ tâm trí. Tôn giáo phụ thuộc vào kìm nén trên mức độ thứ hai để cho bản ngã bắt đầu tự khẳng định bản thân nó trên mức thứ ba, mức của cái ta. Cho nên tôn giáo nói: Tri thức không là gì, chính trị không là gì, tiền không là gì, trở thành nghệ sĩ vĩ đại không là gì, trở thành tiểu thuyết gia vĩ đại, nhà văn, không là gì. Thế thì cái gì là quyền năng thực? Quyền năng thực là siddhi. Nếu bạn có thể làm phép màu, nếu bạn có thể chạm vào một người là người đó được chữa lành khi người đó ốm, và nếu bạn chạm vào người chết và xác chết được phục sinh, thế thì bạn có cái gì đó. Nếu bạn có thể tạo ra được các thứ từ cái không, nếu bạn trở thành người có phép màu, thế thì bạn có cái gì đó. Cho nên tôn giáo kìm nén bản ngã ở tầng thứ hai, thế rồi bản ngã tự khẳng định bản thân nó ở tầng thứ ba.

Đạo nói: Bản ngã phải biến mất khỏi mọi tầng. Người ta phải hiểu nó toàn bộ tới mức nó không thể tìm ra cách khác cho sự tồn tại của nó, để cho nó không thể tìm thấy chỗ trú ẩn khác trong bản thể bạn. Khi bản ngã biến mất toàn bộ và không có cách nào cho nó tự khẳng định bản thân nó thế thì bạn không hiện hữu theo một nghĩa nào đó và bạn hiện hữu, lần đầu tiên, theo nghĩa khác. Bạn không hiện hữu như một cá nhân nữa, bạn là cái toàn thể.
Đây là nghĩa của con người linh thiêng trong Đạo giáo: Người linh thiêng là người không hiện hữu. Rất ngược đời. Và nhớ, Đạo không dạy bạn trở nên khiêm tốn. Nếu bạn trở nên khiêm tốn bản ngã sẽ tiếp tục - nó sẽ trở thành bản ngã của người khiêm tốn, nó sẽ ẩn đằng sau sự khiêm nhường. Cho nên khiêm nhường được thực hành, khiêm nhường được trau dồi, sẽ không giúp ích. Thế thì cái gì được làm?

Nếu bạn hỏi Liệt Tử, Trang Tử hay Lão Tử, họ sẽ nói rằng không cái gì đã được làm bởi vì bất kì cái gì bạn làm đều sẽ tạo ra bản ngã; bản ngã được tạo ra từ việc làm. Không cái gì là được làm. Người ta chỉ phải nhìn cách thức của bản ngã, cách thức tinh tế của bản ngã, cách thức tinh ranh của bản ngã; người ta phải thấy chúng một cách toàn bộ thế.... Người ta phải theo dõi bản ngã vào trong bản thể của mình từ thân thể tới tâm trí, từ tâm trí tới cái ta, người ta phải tìm và thấy mọi nơi ẩn náu. Một khi bạn đã biết tất cả các khả năng của việc khẳng định bản ngã, trong chính hiểu biết đó, trong chính nhận biết đó, bản ngã biến mất.

Khi bản  ngã biến mất thân thể bạn khác đi, tâm trí bạn khác đi, cái ta của bạn khác đi. Khi bản ngã biến mất, nhiều thứ xảy ra. Đầu tiên, bây giờ bạn không còn bị đồng nhất với thân thể của bạn. Bạn ở trong thân thể, nhưng bạn không là thân thể. Khi bản ngã biến mất bạn không còn bị đồng nhất với tâm trí. Bạn dùng tâm trí, tâm trí trở thành dụng cụ - một dụng cụ hay - nhưng bạn không bị đồng nhất với tâm trí nữa. Khi bản ngã biến mất bạn dùng cái ta, nhưng bạn cũng không bị đồng nhất với cái ta. Bạn vẫn còn là cá nhân: bạn bước và sống như một cá nhân, nhưng liên tục nhận biết rằng sóng chỉ là hình tướng, thực tại là đại dương; rằng 'Mình chỉ là một con sóng. Thượng đế là đại dương, Đạo là đại dương.'

Biến mất của bản ngã là biến mất của điều Gurdjieff gọi là đồng nhất. Đó là từ đúng: đồng nhất. Chúng ta bị đồng nhất với mọi thứ, bất kì cái gì chúng ta ở gần. Bạn ở rất gần với thân thể, cho nên bạn bắt đầu nghĩ 'Mình là thân thể.' Bạn cảm thấy đói và bạn nói 'Tôi đói.' Điều đó không đúng. Thân thể đói, bạn là người biết, bạn là người biết rằng thân thể đói. Đôi khi bạn bị xúc phạm và tâm trí cảm thấy khổ, nhưng bạn không khổ. Bạn là người biết người để ý rằng tâm trí khổ. Đôi khi bạn thấy phép màu xảy ra trong cuộc sống của bạn, nhưng bạn biết rằng bạn không là người làm, bạn không là cái ta. Chúng xảy ra, nhưng chúng xảy ra từ cái toàn thể. Đó là lí do tại sao Jesus cứ nói đi nói lại mãi....

Một người tới Jesus và nói 'Chúng tôi rất biết ơn ông. Ông là người tốt và vĩ đại.' Và Jesus nói 'Đừng khẳng định điều như thế. Duy nhất Thượng đế là tốt và vĩ đại. Tôi không có đâu.' Ông ấy nói gì? Ông ấy nói 'Tôi không là cái ta. Tôi vận hành như cái ta, nhưng chức năng này không phải là thực tại, chức năng chỉ là chức năng. Thực tại là khổng lồ hơn nhiều, lớn hơn nhiều, to lớn, vô hạn.'
Dường như bạn đang đứng trước ngôi nhà của bạn bên cạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài. Khung cửa sổ trở thành khung trời mặc dầu bạn biết rõ rằng bầu trời không có khung. Có xu hướng trong hội hoạ hiện đại không làm khung cho tranh vẽ. Điều đó có ý nghĩa. Khoảnh khắc bạn tạo khung cho tranh nó trở thành nhân tạo, bởi vì sự tồn tại là không bị đóng khung; mọi khung đều nhân tạo. Sự tồn tại không có khung. Nhưng nếu bạn nhìn từ cửa sổ, thế thì khung của cửa sổ trở thành khung của bầu trời; và bầu trời không có khung. Và nếu bạn bao giờ cũng khoá cửa sổ và bạn chưa bao giờ ở bên ngoài nhà, thế thì một cách tự nhiên bạn sẽ nghĩ rằng giới hạn của cửa sổ là giới hạn của bầu trời. Nhìn từ thân thể, bạn trở nên bị đóng khung bên trong thân thể; nó chỉ là cửa sổ. Nhìn từ tâm trí, bạn trở nên bị đóng khung bên trong tâm trí; nó lại chỉ là cửa sổ. Nhìn từ cái ta, bạn trở nên bị đóng khung bên trong cái ta; nó lại chỉ là cửa sổ.
Một khi bạn bắt đầy thoát ra ngoài những cửa sổ này, thế thì bạn biết rằng thậm chí bầu trời cũng không là giới hạn của bạn; bạn là vô giới hạn. Bạn là vô giới hạn như cái toàn thể. Sẽ có biến đổi lớn lao.
Chỉ dâm dục của tầng thân thể sẽ biến mất. Dục sẽ có đó, nhưng dâm dục sẽ biến mất. Khi bạn bị đồng nhất với dục nó trở thành dâm dục. Khi bạn không bị đồng nhất với dục thế thì nó là đẹp như bất kì cái gì khác, nhưng nó không phải là dâm dục; nó đơn giản là dục, dục tự nhiên. Con vật không dâm dục. Chúng có dục, nhưng chúng không dâm dục. Nếu bạn cho con chó xem bức ảnh bạn gái trần truồng nó sẽ không quan tâm - chả quan tâm chút nào. Bạn không thể lưu hành tạp chí kiểu như Playboy cho con vật được, chúng sẽ không quan tâm chút nào, chúng sẽ không nhìn. Chúng không dâm dục, chúng không có mơ tượng dâm dục, chúng không nghĩ về điều đó. Dục của chúng là thuần khiết và đơn giản. Nó không trở thành hoạt động trí não, nó đã không đi vào đầu chúng.

Khi dục đi vào trong đầu nó trở thành dâm dục. Khi dục là dục nó là đẹp. Khi bạn ăn bởi  vì bạn đói nó là đẹp, nhưng khi bạn trở nên bị ám ảnh với thức ăn thế thì bạn điên. Khi bạn bắt đầu nghĩ về thức ăn, ngồi và thiền về thức ăn với mắt nhắm, trong việc mơ ban đêm về thức ăn, thế thì bạn điên. Thế thì cơn đói của bạ đã đi ra ngoài các giới hạn của lành mạnh. Bạn tắm - tốt, nhưng bạn không nghĩ về nó cả ngày. Bạn không mơ tưởng về đứng dưới vòi hoa sen lặp đi lặp lại; nếu bạn bắt đầu làm điều đó, thế thì cái gì đó sai.
...
Nếu bản ngã biến mất khỏi thân thể, có hai khả năng. Nếu bạn kìm nén nó, nó sẽ tự khẳng định nó trên mức tâm trí. Nếu bạn không kìm nén nó, nếu bạn đơn giản hiểu nó - và qua hiểu biết nó biến mất - thế thì nó sẽ không tự khẳng định nó ở bất kì đâu, và thân thể bạn sẽ thay đổi. Bạn sẽ đạt tới sáng suốt mới. Thân thể bạn sẽ trở nên có tình, ấm áp hơn. Thân thể bạn sẽ có phẩm chất mới nào đó cho nó, phẩm chất của vô trọng lượng, cứ dường như lực trọng trường không ảnh hưởng gì tới bạn mấy như nó vẫn thường ảnh hưởng tới bạn trước đây. Bạn sẽ gần như cảm thấy rằng bạn có thể bay. Bạn sẽ trở nên đáng yêu nhiều hơn.

Khi dục không còn là dâm dục, thế thì dục bắt đầu trên con đường đúng và, dần dần, năng lượng dục bắt đầu biến thành năng lượng yêu. Yêu là biến đổi của năng lượng dục. Dâm dục là kìm nén, và kìm nén chưa bao giờ biến đổi. Nhớ lấy, kìm nén là thoái lui. Biến đổi là điều khác toàn bộ: bạn đạt tới mức cao hơn - năng lượng dục trở thành yêu. Người ta trở nên đáng yêu hơn và ít dâm dục hơn, nhiều nhạy cảm hơn và ít nhục dục hơn. Người đó không nghĩ dưới dạng dâm dục, thân-tâm người đó, thân thể-trí huệ của người đó đã thay đổi: thân thể của người đó đã trở thành trưởng thành. Tất nhiên, nếu người đó nhìn cây, người đó sẽ thấy xanh hơn bạn có thể thấy bởi vì người đó đã trở nên nhạy cảm hơn. Nếu người đó nhìn vào bầu trời, bầu trời sẽ biếc hơn và sâu hơn bạn sẽ thấy nó. Toàn thể cuộc sống trở thành điều huyền bí lớn.

Điều thỉnh thoảng xảy ra dưới ma tuý là giác quan của bạn trở nên nhạy cảm tới mức bạn không thể tin được vào nó. Khi Aldous Huxley dùng LSD lần đầu tiên, ông ấy ngồi trước chiếc ghế và đột nhiên ghế trở nên chói sáng, đa mầu, cứ dường như nó là cầu vồng. Ông ấy không thể tin được vào mắt mình... chiếc ghế thường.... Và ông ấy đã nhìn chiếc ghế đó trong nhiều năm nó bao giờ cũng trong nghiên cứu của ông ấy - nhưng chưa bao giờ có bất kì mầu sắc nào trong nó, chưa bao giờ sống động. Bây giờ đột nhiên nó có cuộc sống của riêng nó, nhiều mầu sắc, và đẹp thế. Ông ấy tới và chạm vào nó và ông ấy lại không thể nào tin được vì đường viền của nó đơn giản lạ thường. Ông ấy muốn ôm choàng lấy ghế và hát bài ca cho nó, nhảy múa điệu vũ cho nó. Chiếc ghế thường có thể trở thành phi thường.

Với hoạ sĩ điều đó bao giờ cũng như vậy. Bạn có thể đã thấy bức tranh vĩ đại của Vincent van Gogh, Chiếc ghế. Bình thường bạn sẽ nghĩ 'Sao hoạ sĩ phải nghĩ tới vẽ chiếc ghế, ghế thường?' Nhưng với van Gogh chiếc ghế đó không thường. Điều đã xảy ra cho Aldous Huxley dưới tác động của ma tuý là rất tự nhiên cho van Gogh. Mắt ông ấy rất nhạy cảm, ông ấy có thể nhìn thấu suốt: không còn màn ảnh nữa - không cái gì chắn đường. Nhạy cảm của ông ấy là rất rõ ràng.
Bạn sẽ sống nữa, bạn sẽ yêu nữa, bạn sẽ ăn với hương vị. Khi bạn chạm vào một thứ bạn sẽ biết đường viền. Khi bạn nghe bài ca nó sẽ đi tới chính trái tim bạn. Thân thể bạn sẽ không quấy rối nó; thân thể bạn sẽ chỉ là lối chuyển, cực kì nhạy cảm: nó sẽ đơn giản thấm đẫm điều đó và đem điều đó tới trái tim bạn. Và toàn thể cuộc sống sẽ lấy sự chói sáng khác - nó sẽ trở thành đầy mầu sắc, phiêu diêu.
...
Bản ngã là ma tuý lớn nhất. LSD không là gì, cần sa không là gì, rượu cồn không là gì. Bản ngã giữ bạn bị ru ngủ thế, buồn ngủ thế, vô ý thức thế. Một khi thân thể đạt tới nhạy cảm, bạn sẽ thấy vui vẻ qua thân thể, vui vẻ lớn lao. Những điều nhỏ bé trở thành vui thích thế. Chỉ tắm và nó trở thành vui thích tới mức bạn sẽ cảm thấy biết ơn lớn lao hướng tới Thượng đế - chỉ tắm thôi. Nước rơi lên người bạn, cái mát lạnh của nó, cái tươi tắn tới trong bạn....
Bạn sẽ mất hút trong cái đẹp của nó. Những điều nhỏ bé: ăn, nói chuyện với bạn, cầm tay bạn, nhìn lên trời hay nhìn vào cây cối, chỉ bơi trong sông, hay nằm dài trên cát chỉ tắm nắng, và mọi thứ trở thành vui vẻ thế. Toàn thể cuộc sống lấy mầu sắc mới của hân hoan. Bạn sẽ có khả năng nhảy múa và ca hát nếu thân thể được phục sinh.

Bản ngã là cái chết của thân thể. Bản ngã phải biến mất. Nhưng để tôi nhắc lại lần nữa: nó phải không bị kìm nén, bằng không nó sẽ nổi bong bóng ở mức độ sâu hơn. Khi bản ngã biến mất khỏi tâm trí, tri thức biến mất, việc biết nảy sinh: bạn không có tri thức nào, nhưng bạn có năng lực để biết. Bất kì chỗ nào bạn nhìn, bất kì cái gì mắt bạn thấy, bạn có thể thấy thấu suốt. Bạn có thể không có thông tin nào, nhưng sáng suốt của bạn là lớn lao. Kinh sách biến mất, tri thức vay mượn trở thành vô nghĩa, năng lực biết riêng của bạn nảy sinh. Bạn có chiếc đèn bên trong, và im lặng phát triển.
Tri thức là việc nói chuyện huyên thuyên liên tục bên trong bạn, việc nói liên hồi bên trong bạn, việc nói liên tục. Thỉnh thoảng bạn đâm ra phân vân tại sao bạn cứ nó hoài bên trong. Tại sao có độc thoại này? Để làm gì? Và bạn cứ lặp lại cùng điều lặp đi lặp lại mãi. Bạn đã nghĩ những ý nghĩ đó nhiều lần rồi, thế sao bạn cứ lặp lại mãi? Có lí do: chỉ bằng lặp lại liên tục bạn mới có thể duy trì tri thức của bạn, bằng không tri thức của bạn sẽ biến mất. Bằng liên tục lặp lại, huyên thuyên, lẩm bẩm bên trong, bạn duy trì tri thức của bạn, bằng không nó sẽ biến mất; bạn sẽ không có khả năng sở hữu nó. Đây là cách duy nhất để sở hữu nó. Bởi vì nó được vay mượn, cách duy nhất để sở hữu nó là qua lặp lại thường xuyên.

Nhưng khi bản ngã không còn đó nữa trong tâm trí, mọi rào chắn biến mất. Tâm trí trở thành tấm gương: bạn phản xạ thực tại. Và nó là kinh nghiệm riêng của bạn, cho nên bạn không cần liên tục giữ nó chuyển động trong tâm trí bạn, bạn không cần lặp lại nó; nó là sáng suốt của bạn. Ngày mai, cũng vậy, bạn sẽ có khả năng nhìn vào trong thực tại theo cùng cách - có thể sâu hơn nhiều, bởi vì thời gian sẽ cho bạn chiều sâu. Cho nên sao phải lặp lại nó?
Con người của việc biết không bao giờ mang tải trọng nào. Người đó có thể tuỳ thuộc vào việc biết của mình. Bạn không thể tuỳ thuộc vào việc biết của bạn, cho nên bạn phải mang tri thức, bằng không bạn sẽ trong khó khăn vào bất kì khoảnh khắc nào. Nếu một số vấn đề nảy sinh, bạn không thể tin cậy được vào bản thân bạn: bạn phải mang tri thức. Nếu bạn có thể tin cậy vào bản thân bạn, thế thì không có nhu cầu. Bạn có thể nhìn vào vấn đề và giải pháp sẽ tới từ nó, bởi vì từng vấn đề có giải pháp sẵn có riêng của nó. Nó không được mang tới từ bên ngoài, vấn đề chỉ phải được hiểu cho đúng, và nó sẽ cho bạn giải pháp.

Im lặng sẽ nảy sinh. Con người của việc biết là rất im lặng. Lời không tiếp tục nổi lên trong tâm thức người đó; không có độc thoại. người đó không liên tục trong việc nói bên trong... và nhận biết nảy sinh, và lễ hội; con người trở nên sáng tạo. Đó là điều lễ hội là gì: người ta bắt đầu tham gia vào trong Thượng đế Đấng sáng tạo. Đó là điều lễ hội tất cả là gì. Bất kì khi nào bạn thực sự mở hội, bạn sáng tạo cái gì đó. Dù nó là bất kì cái gì, bạn tạo ra cái gì đó: bạn trở thành người tham gia trong quá trình sáng tạo của cuộc sống. Và khi ở mức thứ ba cái ta, bản ngã, biến mất, bùng nổ lớn xảy ra. Đó là điều Thiền nhân gọi là satory, Yoga gọi là samadhi.
Khi trong cái ta, cái ta biến mất, khi bạn nhìn vào bên trong bản thân bạn và bạn không thấy người nào ở đó: chỉ  nhận biết thuần khiết, việc chứng kiến, vô ngã, bạn đã về nhà.

Đây là chính cách tiếp cận cơ bản của Đạo, rằng bản ngã phải biến mất trên ba mức. Bản ngã mất đi... thân thể trở thành ngôi đền, tâm trí trở thành điện thờ bên trong nhất, và cái ta trở thành cái toàn thể - nó là mơ bây giờ, nhưng nó có thể được biến đổi thành thực tại tôn giáo khi thân thể bạn là ngôi đền, tâm trí bạn là điện thờ và bạn không là gì ngoài bản thân Thượng đế, bản thân cái toàn thể.
Đây là viễn kiến để được mang theo. Nó là mơ bây giờ, nhưng nó có thể được biến đổi thành thực tại bất kì khoảng khắc nào bạn đủ dũng cảm để đi vào trong nó. Nó có thể được biến đổi thành thực tại rất dễ dàng, bởi vì trò chơi bản ngã chỉ là mơ. Một khi bạn thoát ra khỏi mơ, thực tại sẽ là sẵn có. Nó sẵn có ngay bây giờ - chỉ bạn đang mơ.

Cứ dường như là bạn rơi vào giấc ngủ ở đây tại Poona và bạn mơ tới Constantinople hay Timbuktu. Trong đêm bạn mơ về Constantinople, nhưng bạn vẫn ở Poona: việc mơ của bạn không đem bạn tới Constantinople. Đến sáng, khi bạn mở mắt ra, bạn sẽ không thấy bản thân bạn ở Constantinople, bạn sẽ ở Poona, và bạn sẽ có tiếng cười thoải mái. Thực ra, trong đêm, khi bạn đột nhiên thấy bản thân bạn ở trên đường phố của Constantinople, bạn lo nghĩ về làm sao bạn xoay xở quay về... và đến tám giờ sáng bạn phải ở đây trong thính phòng Trang Tử - làm sao bạn sẽ xoay xở được? Bạn có thể đã xô tới sân bay để hỏi liệu có máy bay nào đi ngay bây giờ không. Nhưng đến sáng, đột nhiên bạn sẽ thấy rằng không có nhu cầu đi ra sân bay, không có nhu cầu đi đâu cả, bạn bao giờ, mọi lúc, đều ở đây. Bạn chưa bao giờ đi trong thực tế.

Bản ngã là giấc mơ, và bất kì cái gì bạn đã mơ qua bản ngã đều là giả, nó là ảo tưởng. Đó là điều người Hindus gọi là maya.
Nhớ lấy, có ba tầng của bản thể bạn: thân thể, tâm trí và cái ta. Và bên ngoài ba điều này là vô ngã của bạn. Và do vậy có ba khả năng cho bản ngã để tự khẳng định nó. Hoặc nó tự khẳng định nó trên tầng thân thể - thân thể đẹp, thân thể mạnh, 'Tôi có thân thể đẹp trai nhất, thân thể mạnh mẽ nhất,' Ai đó là hoàng hậu đẹp, Hoa hậu vũ trụ, và ai đó là Mohammed Ali, người mạnh nhất, ông Vũ trụ. Trên tầng của thân thể bản ngã có thể tự khẳng định nó. Nếu bản ngã tự khẳng định nó trên tầng của thân thể người ta trở thành có tính con vật. Tất cả các lực sĩ của bạn, những lực sĩ vĩ đại, không là gì ngoài việc quá bị gắn bó với phần con vật của họ, để cho khi bạn thấy thân thể của ông Vũ trụ bạn có thể cảm thấy nó; người đó trông giống nhiều phần con vật hơn giống người. Chắc chắn người đó rất mạnh về thể chất. Bản ngã của người đó đang khẳng định bản thân nó trên con đường đó. Người đó sẽ rất hung hăng, tàn bạo, bạo hành. Người đó sẽ rất dâm dục, mê đắm, vô ý thức. Người đó sẽ đi như người máy, như máy. Người đó sẽ không có ý thức về bất kì cái gì. Toàn thể cuộc sống của người đó sẽ là: Ăn, uống và vui vẻ. Người đó sẽ sống trên tầng rất nông cạn của cuộc sống của người đó. Các nền văn minh đều chống lại điều đó, văn hoá chống lại điều đó. Họ nói 'Điều này là không tốt. Vứt bỏ bản ngã này.' Họ cứ dạy cho mọi đứa trẻ được sinh ra trên trái đất này 'Vứt bỏ bản ngã này đi. Trở thành không hùng hổ, trở thành bất bạo hành. Không tàn bạo, có lòng tốt, thông cảm.' Thế rồi bản ngã bắt đầu tự khẳng định bản thân nó trên mức độ khác, mức độ của tâm trí.
Tại mức tâm trí nó trở thành tri thức, thông thái, tiền bạc. Tiền là cao hơn dâm dục, cho nên những người trở nên quan tâm tới tiền quên tất cả về dục; họ không còn quan tâm tới dục. Toàn thể dâm dục của họ trở thành hướng theo tiền... hay quyền lực, chính trị, tham vọng. Những người trở thành tham vọng về quyền lực; họ cũng có thể hi sinh dục, mê đắm - mọi thứ họ có thể hi sinh.
Trên tầng thứ nhất họ có thể hi sinh, bởi vì trên tầng thứ hai họ cần mọi năng lượng sẵn có. Cho nên họ kìm nén ở tầng thứ nhất và bản ngã tự khẳng định nó ở tầng thứ hai. Mọi văn hoá tuỳ thuộc vào điều này. Thực ra, mọi nền văn hoá đều dùng nó như một kĩ thuật: Kìm nén bản ngã của trẻ con ở tầng thứ nhất và nó sẽ trở nên bản ngã ở tầng thứ hai. Thế rồi nó sẽ bắt đầu khao khát huân chương vàng ở đại học, trở thành thông thái hơn, đứng thứ nhất trong đại học. Nó sẽ bắt đầu trở nên hùng hổ về mặt tâm trí hơn mặt thể chất.

Bạn có thể thấy điều đó trong các đại học. Mọi sinh viên trong thể thao là rất nghèo nàn khi có liên quan tới phát triển tâm trí của họ, và mọi sinh viên có tâm trí là rất láu cá và tinh ranh đều nghèo nàn về thể chất. Nhà thể thao sống ở tầng thứ nhất và học giả ở tầng thứ hai. Học giả sẽ có thân thể tinh tế, sẽ đeo kính từ chính lúc ban đầu; người đó sẽ già ngay cả khi người đó còn trẻ. Trên mức độ thể chất bản ngã của người đó đã biến mất. Người đó không thể đánh nhau, nhưng người đó có thể tranh cãi. Đánh nhau của người đó bây giờ tự khẳng định bản thân nó là luận cứ. Người đó có thể thảo luận và tranh cãi; người đó đã tìm ra một công cụ tinh vi hơn để chinh phục và năng nổ với nó. Người đó sẽ không trở thành lực sĩ, người đó sẽ trở thành luật sư. Người đó sẽ sống qua biện luận, qua tri thức của người đó - nói bất kì cái gì ngược với tri thức của người đó và người đó sẵn sàng đánh nhau. Tất nhiên đánh nhau của người đó sẽ bằng lời, nói ra thôi. Nếu bạn đánh nhau bằng thân thể người đó sẽ gọi là tàn bạo, súc vật, nguyên thuỷ; nếu bạn đánh nhau trên mức độ lời nói và ngôn ngữ và logic người đó sẽ nói đây là 'trận đánh văn minh'... nhưng cùng bản ngã đó đang tự khẳng định nó trên tầng tứ hai.

Tôn giáo phụ thuộc vào kìm nén tầng thứ hai này của bản ngã. Văn minh phụ thuộc vào kìm nén thứ nhất: kìm nén bản ngã trên mức thân thể để cho nó tự khẳng định bản thân nó trên mức độ tâm trí. Tôn giáo phụ thuộc vào kìm nén trên mức độ thứ hai để cho bản ngã bắt đầu tự khẳng định bản thân nó trên mức thứ ba, mức của cái ta. Cho nên tôn giáo nói: Tri thức không là gì, chính trị không là gì, tiền không là gì, trở thành nghệ sĩ vĩ đại không là gì, trở thành tiểu thuyết gia vĩ đại, nhà văn, không là gì. Thế thì cái gì là quyền năng thực? Quyền năng thực là siddhi. Nếu bạn có thể làm phép màu, nếu bạn có thể chạm vào một người là người đó được chữa lành khi người đó ốm, và nếu bạn chạm vào người chết và xác chết được phục sinh, thế thì bạn có cái gì đó. Nếu bạn có thể tạo ra được các thứ từ cái không, nếu bạn trở thành người có phép màu, thế thì bạn có cái gì đó. Cho nên tôn giáo kìm nén bản ngã ở tầng thứ hai, thế rồi bản ngã tự khẳng định bản thân nó ở tầng thứ ba.

Đạo nói: Bản ngã phải biến mất khỏi mọi tầng. Người ta phải hiểu nó toàn bộ tới mức nó không thể tìm ra cách khác cho sự tồn tại của nó, để cho nó không thể tìm thấy chỗ trú ẩn khác trong bản thể bạn. Khi bản ngã biến mất toàn bộ và không có cách nào cho nó tự khẳng định bản thân nó thế thì bạn không hiện hữu theo một nghĩa nào đó và bạn hiện hữu, lần đầu tiên, theo nghĩa khác. Bạn không hiện hữu như một cá nhân nữa, bạn là cái toàn thể.
Đây là nghĩa của con người linh thiêng trong Đạo giáo: Người linh thiêng là người không hiện hữu. Rất ngược đời. Và nhớ, Đạo không dạy bạn trở nên khiêm tốn. Nếu bạn trở nên khiêm tốn bản ngã sẽ tiếp tục - nó sẽ trở thành bản ngã của người khiêm tốn, nó sẽ ẩn đằng sau sự khiêm nhường. Cho nên khiêm nhường được thực hành, khiêm nhường được trau dồi, sẽ không giúp ích. Thế thì cái gì được làm?

Nếu bạn hỏi Liệt Tử, Trang Tử hay Lão Tử, họ sẽ nói rằng không cái gì đã được làm bởi vì bất kì cái gì bạn làm đều sẽ tạo ra bản ngã; bản ngã được tạo ra từ việc làm. Không cái gì là được làm. Người ta chỉ phải nhìn cách thức của bản ngã, cách thức tinh tế của bản ngã, cách thức tinh ranh của bản ngã; người ta phải thấy chúng một cách toàn bộ thế.... Người ta phải theo dõi bản ngã vào trong bản thể của mình từ thân thể tới tâm trí, từ tâm trí tới cái ta, người ta phải tìm và thấy mọi nơi ẩn náu. Một khi bạn đã biết tất cả các khả năng của việc khẳng định bản ngã, trong chính hiểu biết đó, trong chính nhận biết đó, bản ngã biến mất.

Khi bản  ngã biến mất thân thể bạn khác đi, tâm trí bạn khác đi, cái ta của bạn khác đi. Khi bản ngã biến mất, nhiều thứ xảy ra. Đầu tiên, bây giờ bạn không còn bị đồng nhất với thân thể của bạn. Bạn ở trong thân thể, nhưng bạn không là thân thể. Khi bản ngã biến mất bạn không còn bị đồng nhất với tâm trí. Bạn dùng tâm trí, tâm trí trở thành dụng cụ - một dụng cụ hay - nhưng bạn không bị đồng nhất với tâm trí nữa. Khi bản ngã biến mất bạn dùng cái ta, nhưng bạn cũng không bị đồng nhất với cái ta. Bạn vẫn còn là cá nhân: bạn bước và sống như một cá nhân, nhưng liên tục nhận biết rằng sóng chỉ là hình tướng, thực tại là đại dương; rằng 'Mình chỉ là một con sóng. Thượng đế là đại dương, Đạo là đại dương.'

Biến mất của bản ngã là biến mất của điều Gurdjieff gọi là đồng nhất. Đó là từ đúng: đồng nhất. Chúng ta bị đồng nhất với mọi thứ, bất kì cái gì chúng ta ở gần. Bạn ở rất gần với thân thể, cho nên bạn bắt đầu nghĩ 'Mình là thân thể.' Bạn cảm thấy đói và bạn nói 'Tôi đói.' Điều đó không đúng. Thân thể đói, bạn là người biết, bạn là người biết rằng thân thể đói. Đôi khi bạn bị xúc phạm và tâm trí cảm thấy khổ, nhưng bạn không khổ. Bạn là người biết người để ý rằng tâm trí khổ. Đôi khi bạn thấy phép màu xảy ra trong cuộc sống của bạn, nhưng bạn biết rằng bạn không là người làm, bạn không là cái ta. Chúng xảy ra, nhưng chúng xảy ra từ cái toàn thể. Đó là lí do tại sao Jesus cứ nói đi nói lại mãi....

Một người tới Jesus và nói 'Chúng tôi rất biết ơn ông. Ông là người tốt và vĩ đại.' Và Jesus nói 'Đừng khẳng định điều như thế. Duy nhất Thượng đế là tốt và vĩ đại. Tôi không có đâu.' Ông ấy nói gì? Ông ấy nói 'Tôi không là cái ta. Tôi vận hành như cái ta, nhưng chức năng này không phải là thực tại, chức năng chỉ là chức năng. Thực tại là khổng lồ hơn nhiều, lớn hơn nhiều, to lớn, vô hạn.'
Dường như bạn đang đứng trước ngôi nhà của bạn bên cạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài. Khung cửa sổ trở thành khung trời mặc dầu bạn biết rõ rằng bầu trời không có khung. Có xu hướng trong hội hoạ hiện đại không làm khung cho tranh vẽ. Điều đó có ý nghĩa. Khoảnh khắc bạn tạo khung cho tranh nó trở thành nhân tạo, bởi vì sự tồn tại là không bị đóng khung; mọi khung đều nhân tạo. Sự tồn tại không có khung. Nhưng nếu bạn nhìn từ cửa sổ, thế thì khung của cửa sổ trở thành khung của bầu trời; và bầu trời không có khung. Và nếu bạn bao giờ cũng khoá cửa sổ và bạn chưa bao giờ ở bên ngoài nhà, thế thì một cách tự nhiên bạn sẽ nghĩ rằng giới hạn của cửa sổ là giới hạn của bầu trời. Nhìn từ thân thể, bạn trở nên bị đóng khung bên trong thân thể; nó chỉ là cửa sổ. Nhìn từ tâm trí, bạn trở nên bị đóng khung bên trong tâm trí; nó lại chỉ là cửa sổ. Nhìn từ cái ta, bạn trở nên bị đóng khung bên trong cái ta; nó lại chỉ là cửa sổ.
Một khi bạn bắt đầy thoát ra ngoài những cửa sổ này, thế thì bạn biết rằng thậm chí bầu trời cũng không là giới hạn của bạn; bạn là vô giới hạn. Bạn là vô giới hạn như cái toàn thể. Sẽ có biến đổi lớn lao.
Chỉ dâm dục của tầng thân thể sẽ biến mất. Dục sẽ có đó, nhưng dâm dục sẽ biến mất. Khi bạn bị đồng nhất với dục nó trở thành dâm dục. Khi bạn không bị đồng nhất với dục thế thì nó là đẹp như bất kì cái gì khác, nhưng nó không phải là dâm dục; nó đơn giản là dục, dục tự nhiên. Con vật không dâm dục. Chúng có dục, nhưng chúng không dâm dục. Nếu bạn cho con chó xem bức ảnh bạn gái trần truồng nó sẽ không quan tâm - chả quan tâm chút nào. Bạn không thể lưu hành tạp chí kiểu như Playboy cho con vật được, chúng sẽ không quan tâm chút nào, chúng sẽ không nhìn. Chúng không dâm dục, chúng không có mơ tượng dâm dục, chúng không nghĩ về điều đó. Dục của chúng là thuần khiết và đơn giản. Nó không trở thành hoạt động trí não, nó đã không đi vào đầu chúng.

Khi dục đi vào trong đầu nó trở thành dâm dục. Khi dục là dục nó là đẹp. Khi bạn ăn bởi  vì bạn đói nó là đẹp, nhưng khi bạn trở nên bị ám ảnh với thức ăn thế thì bạn điên. Khi bạn bắt đầu nghĩ về thức ăn, ngồi và thiền về thức ăn với mắt nhắm, trong việc mơ ban đêm về thức ăn, thế thì bạn điên. Thế thì cơn đói của bạ đã đi ra ngoài các giới hạn của lành mạnh. Bạn tắm - tốt, nhưng bạn không nghĩ về nó cả ngày. Bạn không mơ tưởng về đứng dưới vòi hoa sen lặp đi lặp lại; nếu bạn bắt đầu làm điều đó, thế thì cái gì đó sai.
...
Nếu bản ngã biến mất khỏi thân thể, có hai khả năng. Nếu bạn kìm nén nó, nó sẽ tự khẳng định nó trên mức tâm trí. Nếu bạn không kìm nén nó, nếu bạn đơn giản hiểu nó - và qua hiểu biết nó biến mất - thế thì nó sẽ không tự khẳng định nó ở bất kì đâu, và thân thể bạn sẽ thay đổi. Bạn sẽ đạt tới sáng suốt mới. Thân thể bạn sẽ trở nên có tình, ấm áp hơn. Thân thể bạn sẽ có phẩm chất mới nào đó cho nó, phẩm chất của vô trọng lượng, cứ dường như lực trọng trường không ảnh hưởng gì tới bạn mấy như nó vẫn thường ảnh hưởng tới bạn trước đây. Bạn sẽ gần như cảm thấy rằng bạn có thể bay. Bạn sẽ trở nên đáng yêu nhiều hơn.

Khi dục không còn là dâm dục, thế thì dục bắt đầu trên con đường đúng và, dần dần, năng lượng dục bắt đầu biến thành năng lượng yêu. Yêu là biến đổi của năng lượng dục. Dâm dục là kìm nén, và kìm nén chưa bao giờ biến đổi. Nhớ lấy, kìm nén là thoái lui. Biến đổi là điều khác toàn bộ: bạn đạt tới mức cao hơn - năng lượng dục trở thành yêu. Người ta trở nên đáng yêu hơn và ít dâm dục hơn, nhiều nhạy cảm hơn và ít nhục dục hơn. Người đó không nghĩ dưới dạng dâm dục, thân-tâm người đó, thân thể-trí huệ của người đó đã thay đổi: thân thể của người đó đã trở thành trưởng thành. Tất nhiên, nếu người đó nhìn cây, người đó sẽ thấy xanh hơn bạn có thể thấy bởi vì người đó đã trở nên nhạy cảm hơn. Nếu người đó nhìn vào bầu trời, bầu trời sẽ biếc hơn và sâu hơn bạn sẽ thấy nó. Toàn thể cuộc sống trở thành điều huyền bí lớn.

Điều thỉnh thoảng xảy ra dưới ma tuý là giác quan của bạn trở nên nhạy cảm tới mức bạn không thể tin được vào nó. Khi Aldous Huxley dùng LSD lần đầu tiên, ông ấy ngồi trước chiếc ghế và đột nhiên ghế trở nên chói sáng, đa mầu, cứ dường như nó là cầu vồng. Ông ấy không thể tin được vào mắt mình... chiếc ghế thường.... Và ông ấy đã nhìn chiếc ghế đó trong nhiều năm nó bao giờ cũng trong nghiên cứu của ông ấy - nhưng chưa bao giờ có bất kì mầu sắc nào trong nó, chưa bao giờ sống động. Bây giờ đột nhiên nó có cuộc sống của riêng nó, nhiều mầu sắc, và đẹp thế. Ông ấy tới và chạm vào nó và ông ấy lại không thể nào tin được vì đường viền của nó đơn giản lạ thường. Ông ấy muốn ôm choàng lấy ghế và hát bài ca cho nó, nhảy múa điệu vũ cho nó. Chiếc ghế thường có thể trở thành phi thường.

Với hoạ sĩ điều đó bao giờ cũng như vậy. Bạn có thể đã thấy bức tranh vĩ đại của Vincent van Gogh, Chiếc ghế. Bình thường bạn sẽ nghĩ 'Sao hoạ sĩ phải nghĩ tới vẽ chiếc ghế, ghế thường?' Nhưng với van Gogh chiếc ghế đó không thường. Điều đã xảy ra cho Aldous Huxley dưới tác động của ma tuý là rất tự nhiên cho van Gogh. Mắt ông ấy rất nhạy cảm, ông ấy có thể nhìn thấu suốt: không còn màn ảnh nữa - không cái gì chắn đường. Nhạy cảm của ông ấy là rất rõ ràng.
Bạn sẽ sống nữa, bạn sẽ yêu nữa, bạn sẽ ăn với hương vị. Khi bạn chạm vào một thứ bạn sẽ biết đường viền. Khi bạn nghe bài ca nó sẽ đi tới chính trái tim bạn. Thân thể bạn sẽ không quấy rối nó; thân thể bạn sẽ chỉ là lối chuyển, cực kì nhạy cảm: nó sẽ đơn giản thấm đẫm điều đó và đem điều đó tới trái tim bạn. Và toàn thể cuộc sống sẽ lấy sự chói sáng khác - nó sẽ trở thành đầy mầu sắc, phiêu diêu.
...
Bản ngã là ma tuý lớn nhất. LSD không là gì, cần sa không là gì, rượu cồn không là gì. Bản ngã giữ bạn bị ru ngủ thế, buồn ngủ thế, vô ý thức thế. Một khi thân thể đạt tới nhạy cảm, bạn sẽ thấy vui vẻ qua thân thể, vui vẻ lớn lao. Những điều nhỏ bé trở thành vui thích thế. Chỉ tắm và nó trở thành vui thích tới mức bạn sẽ cảm thấy biết ơn lớn lao hướng tới Thượng đế - chỉ tắm thôi. Nước rơi lên người bạn, cái mát lạnh của nó, cái tươi tắn tới trong bạn....
Bạn sẽ mất hút trong cái đẹp của nó. Những điều nhỏ bé: ăn, nói chuyện với bạn, cầm tay bạn, nhìn lên trời hay nhìn vào cây cối, chỉ bơi trong sông, hay nằm dài trên cát chỉ tắm nắng, và mọi thứ trở thành vui vẻ thế. Toàn thể cuộc sống lấy mầu sắc mới của hân hoan. Bạn sẽ có khả năng nhảy múa và ca hát nếu thân thể được phục sinh.

Bản ngã là cái chết của thân thể. Bản ngã phải biến mất. Nhưng để tôi nhắc lại lần nữa: nó phải không bị kìm nén, bằng không nó sẽ nổi bong bóng ở mức độ sâu hơn. Khi bản ngã biến mất khỏi tâm trí, tri thức biến mất, việc biết nảy sinh: bạn không có tri thức nào, nhưng bạn có năng lực để biết. Bất kì chỗ nào bạn nhìn, bất kì cái gì mắt bạn thấy, bạn có thể thấy thấu suốt. Bạn có thể không có thông tin nào, nhưng sáng suốt của bạn là lớn lao. Kinh sách biến mất, tri thức vay mượn trở thành vô nghĩa, năng lực biết riêng của bạn nảy sinh. Bạn có chiếc đèn bên trong, và im lặng phát triển.
Tri thức là việc nói chuyện huyên thuyên liên tục bên trong bạn, việc nói liên hồi bên trong bạn, việc nói liên tục. Thỉnh thoảng bạn đâm ra phân vân tại sao bạn cứ nó hoài bên trong. Tại sao có độc thoại này? Để làm gì? Và bạn cứ lặp lại cùng điều lặp đi lặp lại mãi. Bạn đã nghĩ những ý nghĩ đó nhiều lần rồi, thế sao bạn cứ lặp lại mãi? Có lí do: chỉ bằng lặp lại liên tục bạn mới có thể duy trì tri thức của bạn, bằng không tri thức của bạn sẽ biến mất. Bằng liên tục lặp lại, huyên thuyên, lẩm bẩm bên trong, bạn duy trì tri thức của bạn, bằng không nó sẽ biến mất; bạn sẽ không có khả năng sở hữu nó. Đây là cách duy nhất để sở hữu nó. Bởi vì nó được vay mượn, cách duy nhất để sở hữu nó là qua lặp lại thường xuyên.

Nhưng khi bản ngã không còn đó nữa trong tâm trí, mọi rào chắn biến mất. Tâm trí trở thành tấm gương: bạn phản xạ thực tại. Và nó là kinh nghiệm riêng của bạn, cho nên bạn không cần liên tục giữ nó chuyển động trong tâm trí bạn, bạn không cần lặp lại nó; nó là sáng suốt của bạn. Ngày mai, cũng vậy, bạn sẽ có khả năng nhìn vào trong thực tại theo cùng cách - có thể sâu hơn nhiều, bởi vì thời gian sẽ cho bạn chiều sâu. Cho nên sao phải lặp lại nó?
Con người của việc biết không bao giờ mang tải trọng nào. Người đó có thể tuỳ thuộc vào việc biết của mình. Bạn không thể tuỳ thuộc vào việc biết của bạn, cho nên bạn phải mang tri thức, bằng không bạn sẽ trong khó khăn vào bất kì khoảnh khắc nào. Nếu một số vấn đề nảy sinh, bạn không thể tin cậy được vào bản thân bạn: bạn phải mang tri thức. Nếu bạn có thể tin cậy vào bản thân bạn, thế thì không có nhu cầu. Bạn có thể nhìn vào vấn đề và giải pháp sẽ tới từ nó, bởi vì từng vấn đề có giải pháp sẵn có riêng của nó. Nó không được mang tới từ bên ngoài, vấn đề chỉ phải được hiểu cho đúng, và nó sẽ cho bạn giải pháp.

Im lặng sẽ nảy sinh. Con người của việc biết là rất im lặng. Lời không tiếp tục nổi lên trong tâm thức người đó; không có độc thoại. người đó không liên tục trong việc nói bên trong... và nhận biết nảy sinh, và lễ hội; con người trở nên sáng tạo. Đó là điều lễ hội là gì: người ta bắt đầu tham gia vào trong Thượng đế Đấng sáng tạo. Đó là điều lễ hội tất cả là gì. Bất kì khi nào bạn thực sự mở hội, bạn sáng tạo cái gì đó. Dù nó là bất kì cái gì, bạn tạo ra cái gì đó: bạn trở thành người tham gia trong quá trình sáng tạo của cuộc sống. Và khi ở mức thứ ba cái ta, bản ngã, biến mất, bùng nổ lớn xảy ra. Đó là điều Thiền nhân gọi là satory, Yoga gọi là samadhi.
Khi trong cái ta, cái ta biến mất, khi bạn nhìn vào bên trong bản thân bạn và bạn không thấy người nào ở đó: chỉ  nhận biết thuần khiết, việc chứng kiến, vô ngã, bạn đã về nhà.

Đây là chính cách tiếp cận cơ bản của Đạo, rằng bản ngã phải biến mất trên ba mức. Bản ngã mất đi... thân thể trở thành ngôi đền, tâm trí trở thành điện thờ bên trong nhất, và cái ta trở thành cái toàn thể - nó là mơ bây giờ, nhưng nó có thể được biến đổi thành thực tại tôn giáo khi thân thể bạn là ngôi đền, tâm trí bạn là điện thờ và bạn không là gì ngoài bản thân Thượng đế, bản thân cái toàn thể.
Đây là viễn kiến để được mang theo. Nó là mơ bây giờ, nhưng nó có thể được biến đổi thành thực tại bất kì khoảng khắc nào bạn đủ dũng cảm để đi vào trong nó. Nó có thể được biến đổi thành thực tại rất dễ dàng, bởi vì trò chơi bản ngã chỉ là mơ. Một khi bạn thoát ra khỏi mơ, thực tại sẽ là sẵn có. Nó sẵn có ngay bây giờ - chỉ bạn đang mơ.

Cứ dường như là bạn rơi vào giấc ngủ ở đây tại Poona và bạn mơ tới Constantinople hay Timbuktu. Trong đêm bạn mơ về Constantinople, nhưng bạn vẫn ở Poona: việc mơ của bạn không đem bạn tới Constantinople. Đến sáng, khi bạn mở mắt ra, bạn sẽ không thấy bản thân bạn ở Constantinople, bạn sẽ ở Poona, và bạn sẽ có tiếng cười thoải mái. Thực ra, trong đêm, khi bạn đột nhiên thấy bản thân bạn ở trên đường phố của Constantinople, bạn lo nghĩ về làm sao bạn xoay xở quay về... và đến tám giờ sáng bạn phải ở đây trong thính phòng Trang Tử - làm sao bạn sẽ xoay xở được? Bạn có thể đã xô tới sân bay để hỏi liệu có máy bay nào đi ngay bây giờ không. Nhưng đến sáng, đột nhiên bạn sẽ thấy rằng không có nhu cầu đi ra sân bay, không có nhu cầu đi đâu cả, bạn bao giờ, mọi lúc, đều ở đây. Bạn chưa bao giờ đi trong thực tế.

Bản ngã là giấc mơ, và bất kì cái gì bạn đã mơ qua bản ngã đều là giả, nó là ảo tưởng. Đó là điều người Hindus gọi là maya.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến