Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

Con người là huyền thoại

Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Con người là điều huyền thoại, và là điều huyền thoại
nguy hiểm nhất, bởi vì nếu bạn tin rằng con người tồn tại thế
thì bạn không cố gắng để làm tiến hoá con người chút nào,
không có nhu cầu. Nếu bạn tin rằng mình đã là người rồi, thế
thì tất cả mọi trưởng thành đều chấm dứt.
Bạn vẫn chưa là con người, bạn mới chỉ có tiềm năng
cho điều đó thôi. Bạn có thể là con người, bạn có thể không,
bạn có thể bỏ lỡ. Nhớ lấy, điều đó có thể bị bỏ lỡ.
Con người còn chưa được sinh ra; là con người không
phải là sự kiện được cho sẵn, bạn không thể có được điều đó
bằng việc cho không. Đấy chỉ là một khả năng. Con người
tồn tại như hạt mầm, không như cây - còn chưa thành cây.
Con người còn chưa là thực tại, và khác biệt giữa tiềm năng
và thực tại là lớn lao.
Con người như người đó đang tồn tại chỉ là cái máy, vậy
mà con người vẫn làm việc, vậy mà con người vẫn thành
công trong thế giới này, vậy mà con người vẫn sống cái gọi
là cuộc sống và chết. Nhưng nhớ lấy, con người không tồn
tại. Chức năng của người đó là ở chức năng của cái máy,
người đó là người máy.
Con người là cái máy. Vâng, cái máy này có thể trưởng
thành trong nó mà nó có thể vượt ra ngoài cái máy. Cái máy này không phải là cái máy thường; nó có tiềm năng vô cùng
để vượt ra ngoài bản thân nó. Nó có thể tạo ra cái gì đó siêu
việt lên trên cấu trúc riêng của nó. Đôi khi nó đã tạo ra... một
Phật, một Christ, một Gurdjieff - đôi khi nó đã tạo ra con
người. Nhưng bạn đừng tin rằng mình đã là con người. Nếu
bạn tin, niềm tin của bạn sẽ mang tính tự sát - bởi vì một khi
chúng ta tin rằng điều gì đó đã có đó thế thì chúng ta chấm
dứt tìm kiếm nó, thế thì chúng ta chấm dứt tạo ra nó, thế thì
chúng ta chấm dứt phát hiện nó, thế thì chúng ta chấm dứt
tiến hoá nó.
Nghĩ xem: một người ốm, một người ốm nặng, nghĩ
mình mạnh khoẻ. Sao người đó phải tới bác sĩ? Sao người đó
phải uống thuốc? Sao người đó phải đi trị liệu? Sao người đó
sẵn lòng đi bệnh viện? Người đó tin mình mạnh khoẻ, người
đó có sức khoẻ hoàn hảo... và người đó đang chết! Niềm tin
của người đó sẽ giết chết người đó.
Đó là lí do tại sao tôi nói huyền thoại này là nguy hiểm,
huyền thoại nguy hiểm nhất mà các tu sĩ và chính khách đã
hư cấu ra: rằng con người đã có trên trái đất. Hàng triệu
người này trên trái đất chỉ là những khả năng, và không may
là đại đa số họ lại chưa bao giờ sẽ trở thành thực tại; không
may, nhiều người trong số họ sẽ chết như cái máy.
Tôi ngụ ý gì khi tôi nói con người là cái máy? Tôi ngụ ý
rằng con người sống từ quá khứ. Con người sống từ một cấu
trúc chết, con người sống từ thói quen, con người sống cuộc
sống thường lệ. Con người cứ đi cùng vòng tròn ấy, theo
cùng con đường mòn ấy, đi đi, đi lại. Bạn không thể thấy
được cái vòng luẩn quẩn trong cuộc sống của mình sao?
Cùng những điều ấy bạn đã làm mọi ngày: hi vọng, giận dữ,
ham muốn, tham vọng, nhục dục, tình dục, thất vọng, lại hi
vọng... cứ cái vòng tròn ấy chuyển động... Mỗi hi vọng lại
dẫn tới thất vọng, chưa bao giờ nó khác đi; và sau mỗi thất
vọng, một hi vọng mới, và cái vòng ấy lại bắt đầu chuyển
động.
Tại phương Đông chúng ta gọi nó là cái bánh xe của
luân hồi samsara. Nó là cái bánh xe, các nan hoa là như
nhau. Và bạn bị nó lừa đi lừa lại, bạn lại cứ hi vọng. Và bạn
biết mình đã hi vọng trước đây, bạn đã hi vọng cả triệu lần
rồi, mà chẳng cái gì xảy ra từ hi vọng đó. Chỉ bánh xe là cứ
chuyển, và cứ giết chết bạn, cứ phá huỷ cuộc sống của bạn.
Thời gian chạy khỏi tay bạn. Mỗi khoảnh khắc mất đi là mất
đi mãi mãi, và bạn cứ lặp lại cái cũ.
Đây là điều tôi muốn nói khi tôi nói con người là cái
máy. Tôi đồng ý với George Gurdjieff tuyệt đối; ông ấy hay
nói rằng bạn còn chưa có linh hồn. Ông ấy là người đầu tiên
nói điều đó một cách quyết liệt thế, rằng bạn còn chưa có
linh hồn. Vâng, linh hồn có thể được sinh ra trong bạn,
nhưng bạn sẽ phải trao việc sinh thành cho nó; bạn sẽ phải
trở nên có khả năng trao việc sinh cho nó.
Suốt hàng thế kỉ các tu sĩ đã bảo bạn rằng bạn đã có linh
hồn rồi, rằng bạn đã có con người đó. Điều đó không phải
như vậy; bạn chỉ mới có tiềm năng như vậy thôi. Thực tế bạn
có thể trở thành, nhưng huyền thoại này phải bị phá bỏ. Thấy
sự kiện của nó: bạn còn chưa là sinh linh có ý thức; và nếu
bạn không là sinh linh có ý thức, làm sao bạn có thể là con
người được?
Đâu là khác biệt giữa tảng đá và bạn? Đâu là khác biệt
giữa con vật và bạn? Đâu là khác biệt giữa cây và bạn? Khác
biệt là khác về ý thức. Nhưng bạn có bao nhiêu ý thức?... chỉ
mong manh đây đó. Chỉ đôi khi, trong những khoảnh khắc
hiếm hoi, bạn mới trở nên có ý thức; và điều đó chỉ trong vài giây rồi bạn lại rơi trở lại vào trong vô ý thức. Vâng, đôi khi
điều đó xảy ra, bởi vì nó là tiềm năng của bạn.
Đôi khi điều đó xảy ra mặc bạn... một hôm mặt trời lên
và bạn rơi vào hài hoà với sự tồn tại - rồi bỗng nhiên nó có
đó: cái đẹp của nó, phúc lành của nó, hương thơm của nó,
ánh sáng của nó. Bỗng nhiên nó có đó và bạn có hương vị
của cái đang có đó, cái có thể hiện hữu, cái hiện hữu. Nhưng
khoảnh khắc bạn trở nên tỉnh táo rằng nó có đó, nó đã trôi
qua rồi. Chỉ kí ức là còn lại. Chỉ hiếm khoảnh khắc: đôi khi
trong tình yêu, đôi khi ngắm trăng tròn, đôi khi mặt trời lên,
đôi khi ngồi trong hang núi im lặng, đôi khi nhìn vào đứa trẻ
đang chơi đùa, khúc khích; vâng, đôi khi trong âm nhạc...
Nhưng những khoảnh khắc này là hiếm hoi.
Nếu một người bình thường, cái gọi là con người, mà đạt
tới bẩy khoảnh khắc nhận biết trong toàn bộ cuộc sống của
mình, điều đó sẽ là quá nhiều. Hiếm lắm, rất hiếm hoi, chỉ
một tia sáng đi vào, và thế rồi nó lại đi mất. Còn bạn quay lại
với cuộc sống tầm thường của mình, đờ đẫn và chết. Và điều
này không chỉ vậy với người bình thường, nó là vậy với
những người được gọi là phi thường của bạn.
Mới hôm nọ tôi đã đọc về Carl Jung, một trong những
nhà tâm lí vĩ đại nhất của thời đại này... nhưng đôi khi người
ta tự hỏi liệu có nên gọi những người này là các nhà tâm lí
hay không. Ông ấy là con người rất bất an, hoàn toàn bất an.
Ông ấy không thể nào ngồi im lặng một khoảnh khắc; ông ấy
sẽ quay người, trở mình, ông ấy sẽ làm điều này điều khác.
Nếu không có gì để làm, ông ấy sẽ hút tẩu thuốc, và ông ấy
là người hút hết điếu nọ tới điếu kia. Thế rồi ông ấy bị đau
tim và các bác sĩ nói phải dừng việc hút thuốc, dừng hoàn
toàn. Bây giờ điều đó là rất khó. Ông ấy bắt đầu cảm thấy sự
bất an của mình quá nhiều, ông ấy bắt đầu cảm thấy phát
điên. Ông ấy sẽ đi lại trong trong phòng, ông ấy sẽ đi ra
ngoài, chẳng có lí do gì; ông ấy sẽ ngồi trong chiếc ghế này
ghế nọ. Và thế rồi ông ấy nhận ra sự kiện rằng cái tẩu đã rất,
rất có ích. Đấy là giải thoát, một loại giải thoát khỏi cái bất
an của mình. Cho nên ông ấy hỏi bác sĩ, "Tôi có thể ngậm
chiếc tẩu rỗng trong mồm được không? Điều đó có được
phép không?" - chiếc tẩu rỗng! "Điều đó sẽ có ích cho tôi."
Ông ấy được phép, và thế rồi trong hàng năm ông ấy
quen ngậm chiếc tẩu rỗng trong mồm, chỉ giả vờ rằng ông ấy
hút thuốc. Và thế rồi ông ấy nhìn vào cái tẩu, cầm cái tẩu
trong tay, chơi với cái tẩu. Và đây là về một nhà tâm lí vĩ đại
của thời đại này! Vô ý thức làm sao! Quá nhiều trong việc
ôm giữ thói quen đó, quá nhiều trong việc ôm giữ điều vô ý
thức! - điều đó có vẻ trẻ con. Và thế rồi chúng ta cứ tìm cách
hợp lí hoá; thế rồi chúng ta cứ giả vờ với chính mình, thế rồi
chúng ta cứ bảo vệ và phòng thủ cho mình nhưng tại sao
chúng ta làm điều này.
Vào độ tuổi bốn mươi lăm Carl Jung yêu một phụ nữ.
Ông ấy là một đàn ông đã có gia đình với bà vợ rất đáng yêu.
Chẳng có gì sai cả, nhưng điều đó phải đã là bất an. Chuyện
gần như bao giờ cũng xảy ra là gần độ tuổi bốn mươi lăm,
người ta bắt đầu cảm thấy rằng cả cuộc sống đã trôi qua. Cái
chết đang tới gần hơn, và bởi vì cái chết đang tới gần hơn,
nên hoặc bạn trở thành mang tính tâm linh hoặc bạn trở
thành mang tính dục nhiều hơn.
Đây là hai cách phòng thủ duy nhất: hoặc bạn quay sang
tìm kiếm chân lí, tìm kiếm cái vĩnh hằng không có cái chết,
hoặc bạn bắt đầu nhấn chìm mình vào trong những chuyện
tình ái tưởng tượng. Và đặc biệt là những người trí thức -
những người đã sống cả đời qua cái đầu - là nạn nhân nhiều
hơn vào độ tuổi bốn mươi lăm. Thế thì bản năng dục báo thù.

Nó đã bị chối bỏ; bây giờ cái chết đang tới gần hơn và thế rồi
người ta chẳng bao giờ biết được liệu mình sẽ có lại ở đây
nữa hay không, liệu cuộc sống sẽ có đó hay không. Cái chết
đang tới đây còn bạn đã sống cuộc sống của cái đầu. Bản
năng dục bùng phát với sự báo thù.
Carl Gustav Jung yêu một phụ nữ trẻ. Bây giờ điều đó rất
phản lại danh tiếng của ông ấy. Bà vợ bị khuấy động, và bà
vợ đã yêu ông ấy cực kì và đã tin cậy vào ông ấy. Ông ấy
hợp lí hoá điều đó thật hay. Nhìn vào việc hợp lí hoá của ông
ấy - đó là cách con người vô ý thức cứ sống. Ông ấy sẽ làm
điều gì đó vô ý thức, thế rồi sẽ cố gắng hợp lí hoá nó và sẽ cố
gắng chứng minh rằng điều đó là không vô ý thức: "Tôi đang
làm điều đó rất có ý thức - trong thực tế, điều đó phải được
làm."
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy bỗng nhiên phát triển một lí
thuyết rằng có hai kiểu phụ nữ trên thế giới: một là kiểu
người mẹ, kiểu chăm sóc, kiểu vợ; và kiểu kia, kiểu tình
nhân, người yêu, người trở thành nguồn hứng khởi. Và đàn
ông cần cả hai - và đàn ông kiểu như Carl Gustav Jung chắc
chắn cần cả hai. Ông ấy cần hứng khởi nữa. Ông ấy cần một
phụ nữ chăm sóc; điều đó vợ ông ấy đang thực hiện - bà ấy
đáng yêu, thuộc kiểu người mẹ. Nhưng điều đó không đáp
ứng cho nhu cầu của ông ấy - ông ấy cần hứng khởi nữa, ông
ấy cần một phụ nữ lãng mạn nữa, một tình nhân người có thể
đưa ông ấy vào những giấc mơ sâu; đó là điều phải có với
ông ấy. Jung đã phát triển lí thuyết này... đây là hợp lí hoá.
Bây giờ ông ấy chẳng bao giờ phát triển phần kia của nó,
rằng đàn ông có hai kiểu. Đó là nơi bạn có thể tìm thấy rằng
đó là hợp lí hoá. Nếu đó là sáng suốt thực sự thế thì phần kia,
rằng đàn ông có hai kiểu, kiểu người bố và kiểu người yêu...
thế thì vợ của Jung cũng cần đến hai kiểu! Nếu Jung nghĩ
rằng ông ấy là kiểu người yêu, thế thì bà ấy cần kiểu người
bố; nếu Jung nghĩ ông ấy là kiểu người bố, thế thì bà ấy cần
kiểu người yêu. Nhưng điều đó ông ấy chưa bao giờ phát
triển cả. Đấy là cách bạn có thể thấy nó không phải là sáng
suốt; nó chỉ là một tâm trí thủ đoạn, hợp lí hoá.
Chúng ta cứ hợp lí hoá. Chúng là mọi việc một cách vô ý
thức, chúng ta làm chúng mà không biết tại sao chúng ta
đang làm chúng. Nhưng chúng ta không thể nào chấp nhận
sự kiện này: rất xấu hổ để chấp nhận rằng, "Tôi đã làm điều
gì đó mà tôi lại không nhận biết về điều đó và tôi không biết
tại sao." Nhận biết về việc hợp lí hoá này.
Và làm sao những người như vậy có thể làm lợi được
cho người khác? Chính sự kiện rất nổi tiếng là nhiều bệnh
nhân của Carl Jung đã tự tử. Tại sao? Họ đã tới để được giúp
đỡ, tại sao họ tự tử? Cái gì đó về cơ bản đã phải sai rồi. Việc
phân tích của ông ấy chỉ là điều tệ hại. Ông ấy là con người
rất kiêu ngạo, rất bản ngã, liên tục chỉ chực đánh nhau. Có
thể toàn bộ việc phân tâm của ông ấy đã được phát triển chỉ
vì kiêu ngạo của ông ấy chống lại Sigmund Freud. Có thể
đấy lại chỉ là hợp lí hoá, bởi vì bản thân ông ấy dường như
đang chịu cùng những vấn đề mà ông ấy nghĩ để giúp cho
người khác.
Jung bao giờ cũng rất sợ ma; ngay cả trong tuổi già của
mình ông ấy cũng sợ ma. Ông ấy đã không xuất bản cuốn
sách quan trọng nhất của mình trong khi còn sống bởi vì ông
ấy sợ rằng mọi người sẽ đi tới biết các sự kiện. Cho nên các
truyện kí của ông ấy được xuất bản, nhưng ông ấy đã phải
chắc chắn rằng chúng được xuất bản chỉ khi ông ấy chết. Bây
giờ đây là cái kiểu chân lí và đích thực gì? Ông ấy sợ bị phát
hiện ra là sai, hay trong cái sai, đến mức ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì sự kiện nào được tiết lộ về cuộc sống của
mình trong khi ông ấy còn sống.
Tôi đã đọc một giai thoại...
Một người tới một nhà tâm thần và bắt đầu bộc bạch
trước bác sĩ về lịch sử cuộc sống mình, bao quát các kinh
nghiệm thời niên thiếu của mình, cuộc sống tình cảm, thói
quen ăn uống, vấn đề nghề nghiệp, và đủ mọi thứ người đó
có thể nghĩ tới. "Được," bác sĩ nói, "với tôi dường như chẳng
có gì sai với ông cả. Ông dường như cũng lành mạnh như tôi
vậy."
"Nhưng bác sĩ này," bệnh nhân phản đối, một dấu hiệu
khiếp hãi len vào giọng người đó, "đấy là những con bướm
này. Tôi không thể nào chống lại được chúng. Chúng ở khắp
trên tôi."
"Lạy chúa," bác sĩ kêu lên, nhảy lùi lại, "Chớ có phẩy
chúng lên tôi đấy!"
Bệnh nhân và bác sĩ, tất cả đều trên cùng một thuyền.
Nhà phân tâm và người được phân tích không phải xa xôi gì.
Đấy là trò chơi. Có thể nhà phân tâm còn láu cá hơn, nhưng
không phải là ông ta biết thực tại, bởi vì để biết thực tại thì
bạn sẽ phải trở nên cực kì ý thức; không có cách khác. Vấn
đề không phải là suy nghĩ trí tuệ, điều đó chẳng liên can gì
tới việc triết lí của bạn cả. Để biết thực tại thì người ta phải
trưởng thành trong nhận biết.
Gurdjieff hay nói về tâm lí học tương lai. Ông ấy hay nói
rằng tâm lí học vẫn không tồn tại, bởi vì làm sao nó có thể
tồn tại được? Ngay cả con người cũng không tồn tại! Khi con
người không có đó, làm sao khoa học về con người có thể
tồn tại được? Ngay bây giờ bất kì cái gì tồn tại thì cũng
không phải là tâm lí học. Có thể nó là cái gì đó về cái máy là
con người.
Tâm lí học chỉ có thể tồn tại quanh vị phật. Với tâm thức,
Phật sống. Bạn có thể thấy tâm lí của ông ấy là gì, linh hồn
của ông ấy là gì. Người thường sống không có linh hồn.
Vâng, bạn có thể tìm thấy cái gì đó sai sót trong cái máy của
người đó, và cái sai đó có thể được chữa thành đúng. Điều
chúng ta biết như tâm lí học ngày nay chẳng là gì ngoài chủ
nghĩa hành vi. Và theo nghĩa đó thì Pavlov và Skinner còn
đúng hơn Freud và Jung, bởi vì họ nghĩ con người là máy.
Họ đúng về con người đang tồn tại, mặc dầu họ hoàn toàn
không đúng bởi vì họ nghĩ đây là mục đích, con người không
thể khác được. Đó là giới hạn của họ: họ nghĩ con người chỉ
là máy thôi. Họ là đúng khi có liên quan tới con người hiện
tại ngày nay - con người là máy - nhưng họ nghĩ rằng con
người không thể khác được. Tại đó họ sai. Nhưng Freud và
Jung và Adler còn sai hơn bởi vì họ nghĩ con người đã có
trên trái đất này; tất cả mọi điều bạn cần là nghiên cứu con
người và bạn sẽ biết. Nhưng con người không có đó. Đấy là
một hiện tượng rất vô ý thức.
Con người là huyền thoại. Bạn để điều đó là một trong
những sáng suốt cơ bản nhất. Nó sẽ giúp bạn thoát ra khỏi
dối trá, thoát ra khỏi lừa dối.
Mật tông là nỗ lực để làm cho bạn ý thức hơn. Chính từ
Mật tông (Tantra) có nghĩa là mở rộng của nhận biết. Nó bắt
nguồn từ gốc tiếng Phạn tan: tan có nghĩa là mở rộng. Mật
tông có nghĩa là sự mở rộng của tâm thức - và sự kiện cơ sở
và sự kiện nền tảng nhất cần được hiểu là ở chỗ bạn đang
ngủ say. Bạn phải được đánh thức dậy.
Mật tông tin vào các phương pháp trường phái: điều đó
cũng phải được hiểu. Theo nghĩa đó Gurdjieff là một trong những người mật tông vĩ đại nhất của thời đại này. Chẳng
hạn, nếu một người đang ngủ, có rất ít khả năng người đó có
thể trở nên thức tỉnh một mình. Nhìn vào điều đó theo cách
này: vào ngày đầu năm bạn nghĩ như bạn bao giờ cũng
nghĩ... và nhiều ngày đầu năm đã trôi qua, và bao giờ bạn
cũng đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ không bao giờ hút thuốc
lại nữa; và lần nữa năm mới lại tới và bạn bắt đầu nghĩ lần
này điều đó sắp xảy ra. Bạn đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ
không bao giờ hút thuốc, nhưng bạn không đi nói điều đó
cho người khác, bạn sợ việc nói. Nói điều đó cho người khác
là nguy hiểm bởi vì bạn biết mình, nhiều lần bạn đã phá bỏ
lời nguyện rồi; thế thì điều đó rất xấu hổ. Cho nên bạn giữ
điều đó cho mình. Bây giờ chỉ có một khả năng trong một
trăm khả năng là lời nguyện sẽ được giữ; chín mươi chín khả
năng là nó sẽ bị phá bỏ chẳng chóng thì chầy.
Bạn là người vô ý thức; lời nguyện của bạn chẳng có
nghĩa gì nhiều. Nhưng nếu bạn đi và bạn nói cho mọi người
trong thành phố - bạn bè, đồng nghiệp, con cái, vợ... bạn đi
và bảo với mọi người, "Tôi đã nguyện là tôi sẽ không hút
thuốc nữa," có nhiều khả năng, ít nhất là mười phần trăm,
rằng bạn sẽ không hút thuốc. Lần đầu chỉ có một phần trăm,
bây giờ có mười khả năng. Chín mươi phần trăm khả năng là
bạn sẽ hút thuốc, nhưng việc không hút thuốc có nền tảng
hơn, vững chắc hơn; từ một phần trăm nó đã lên tới mười
phần trăm. Nhưng nếu bạn tham gia vào một nhóm người
không hút thuốc, nếu bạn tham gia vào một đoàn thể những
người không hút thuốc, thế thì khả năng thậm chí còn nhiều
hơn: chín mươi chín phần trăm là khả năng bạn sẽ không hút
thuốc. Điều gì xảy ra?
Khi bạn một mình, bạn không có hỗ trợ nào từ bên ngoài
- bạn một mình, bạn có thể rơi vào giấc ngủ dễ dàng. Và
chẳng ai biết cả, cho nên bạn cũng không lo nghĩ. Khi tất cả
đều biết, việc biết của họ sẽ vận hành để giữ cho bạn tỉnh táo
hơn. Bây giờ bản ngã của bạn đang lâm nguy, kính trọng và
tôn trọng với bạn đang lâm nguy. Nhưng nếu bạn gia nhập
một đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì khả năng
còn nhiều hơn, bởi vì bạn sống qua thói quen. Ai đó rút bao
thuốc lá ra khỏi túi, và bỗng nhiên bạn bắt đầu nhìn vào túi
mình. Bạn chỉ như cái máy: ai đó hút thuốc và bạn bắt đầu
nghĩ hút thuốc cũng hay làm sao. Không ai hút thuốc, và bạn
trong đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì không
ai nhắc nhở bạn cả; và thói quen này dần dần sẽ biến mất, vì
không dùng tới. Nếu một thói quen không được dùng tới,
dần dần nó biến mất; nó có khuynh hướng trở nên chết, nó
mất níu bám vào bạn.
Mật tông nói: con người có thể trở nên thức tỉnh chỉ qua
phương pháp nhóm, qua trường phái. Đó là lí do tại sao tôi
nhấn mạnh nhiều vào tính chất sannyas. Một mình, bạn
không chống lại được cơ hội. Cùng nhau, có nhiều khả năng
hơn. Cũng dường như là có mười người bị lạc trong sa mạc
và rất nguy hiểm trong đêm: kẻ thù có thể giết họ, thú hoang
có thể giết họ, cướp có thể tới, kẻ giết người có thể thấy - rất
khó khăn. Bây giờ họ quyết định theo phương pháp nhóm,
họ nói: "Mỗi người sẽ thức trong một tiếng." Cho rằng từng
người sẽ vẫn còn thức tỉnh cả tám tiếng trong đêm là đòi hỏi
quá nhiều với người vô ý thức, nhưng từng người sẽ vẫn còn
thức tỉnh trong một tiếng. Và trước khi người đó bắt đầu rơi
vào giấc ngủ, người đó nên làm cho ai đó khác thức dậy, thế
thì có nhiều khả năng là ít nhất một người trong nhóm sẽ có
khả năng thức cả đêm.
Hay như Gurdjieff hay nói: Bạn đang trong tù và bạn
muốn thoát ra khỏi nhà tù. Một mình không mấy cơ may;
nhưng nếu tất cả các tù nhân trở thành một nhóm, thế thì có
nhiều cơ may hơn - họ có thể ném vào lính gác, họ có thể giết lính gác, họ có thể phá vỡ tường. Nếu tất cả các tù nhân
đều cùng nhau, thế thì có nhiều cơ may là họ có thể thoát tù,
được tự do.
Nhưng cơ may sẽ tăng lên thậm chí còn nhiều hơn nữa
nếu họ có tiếp xúc với vài người ở ngoài nhà tù, người đã tự
do. Đó là toàn bộ ý nghĩa của việc tìm ra thầy: tìm ra một ai
đó đã ở ngoài nhà tù. Người đó có thể là sự giúp đỡ vô biên,
bởi nhiều lí do. Người đó có thể cung cấp những điều cần
thiết, những điều sẽ cần cho bạn để thoát ra khỏi nhà tù;
người đó có thể gửi các dụng cụ, giũa, để cho bạn có thể phá
vỡ nhà tù. Người đó có thể quan sát từ bên ngoài và người đó
có thể thông báo cho bạn khi nào đổi gác; trong khoảng giữa
đó có khả năng để thoát ra. Người đó có thể thông báo cho
bạn khi nào lính gác ngủ say trong đêm. Người đó có thể thu
xếp để cho lính gác uống rượu say vào một đêm đặc biệt,
người đó có thể mời cai tù tới nhà mình dự tiệc; người đó có
thể làm cả nghìn lẻ một điều mà bạn không thể làm được từ
bên trong. Người đó có thể tìm ra sự hỗ trợ cho bạn từ bên
ngoài. Người đó có thể tạo ra bầu không khí để cho khi bạn
được thoát ra khỏi tù thì bạn sẽ được mọi người chấp nhận,
bạn sẽ có chỗ ở, được đón vào nhà. Nếu xã hội không sẵn
sàng chấp nhận bạn từ bên ngoài, có thể thoát khỏi giam cầm
nhưng xã hội sẽ tống bạn trở lại vào tay giới coi giữ nhà tù.
Tiếp xúc với ai đó đã thức tỉnh là một điều cần thiết. Và
ở cùng với những người mà tất cả họ đều nghĩ tới việc trở
nên thức tỉnh cũng là điều cần thiết. Đây là ý nghĩa của
phương pháp trường phái, phương pháp nhóm. Mật tông là
phương pháp nhóm. Nó nói: Ở cùng nhau, tìm ra tất cả các
khả năng. Cho nên nhiều người có thể ở cùng và họ có thể
chung năng lượng. Ai đó rất thông minh và ai đó rất đáng
yêu - cả hai đều một nửa, nhưng ở cùng nhau thì họ trở nên
thống nhất hơn, toàn thể hơn.
Đàn ông là một nửa, đàn bà là một nửa. Ngoại trừ Mật
tông, tất cả những người tìm kiếm đều cố gắng tìm kiếm mà
không có người khác. Đàn ông đã cố gắng một mình, đàn bà
đã cố gắng một mình. Mật tông nói: Sao không ở cùng nhau,
tay nắm tay nhau? đàn bà là một nửa, đàn ông là một nửa -
cùng nhau họ là một năng lượng lớn hơn, một năng lượng
toàn thể hơn, năng lượng lành mạnh hơn. Gắn lại với nhau!
Để âm và dương vận hành cùng nhau. Sẽ có nhiều khả năng
hơn để thoát ra khỏi nó.
Các phương pháp khác dùng tranh đấu và xung đột. Đàn
ông bắt đầu đánh nhau với đàn bà, bắt đầu trốn thoát khỏi
đàn bà; thay vì dùng khả năng của giúp đỡ thì người đó bắt
đầu nghĩ đàn bà như kẻ thù. Mật tông nói đây là điều cực kì
ngu xuẩn, bạn đang phí hoài năng lượng của mình một cách
không cần thiết để đánh nhau với đàn bà, bởi vì có những
điều lớn lao hơn cần phải được tranh đấu với! Tốt hơn cả là
cùng đi với đàn bà; để cho cô ấy giúp bạn, và bạn giúp cô ấy.
Đi cùng nhau như một đơn vị và các bạn có nhiều cơ may
hơn để chống lại bản tính vô ý thức.
Dùng mọi khả năng; chỉ thế thì mới có cơ may nào đó là
mà bạn có thể tiến hoá thành sinh linh có ý thức, bạn có thể
trở thành vị phật.
Bây giờ lời kinh... đây là lời kinh rất có ý nghĩa. Lời kinh
thứ nhất:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Điều đầu tiên: như tôi đã nói, con người là cái máy. Con
người sống theo thói quen, theo quá khứ, theo kí ức; con người sống từ tri thức mà mình đã biết, đã thu nhận từ trước.
Cho nên người đó cứ bỏ lỡ cái mới, còn chân lí thì bao giờ
cũng là cái mới. Người đó giống như ruồi thích mùi thịt ôi,
mùi hôi hám và hôi thối; hương thơm của gỗ đàn là hôi hám
với con ruồi. Ruồi có sắc thái kí ức nào đó, quá khứ nào đó;
nó bao giờ cũng nghĩ rằng mùi thối rữa của thịt là mùi thơm.
Đó là tri thức của nó, đó là thói quen của nó, đó là lệ thường
của nó - đó là quá khứ chết của nó. Bây giờ bỗng nhiên nó
bắt gặp gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương với
con ruồi cứ dường như là mùi rất hôi và thối.
Bạn đừng ngạc nhiên... đó là điều xảy ra cho bạn. Nếu
bạn đã sống quá nhiều trong thân thể, thế thì thậm chí có tới
gần hơn với người sống trong linh hồn, bạn vẫn cứ cảm thấy
cái gì đó sai. Tới với vị phật, bạn sẽ không cảm thấy hương
thơm; bạn thậm chí có thể bắt đầu cảm thấy mùi hôi. Cách
diễn giải của bạn... bằng không thì tại sao mọi người giết
chết Jesus? Jesus là gỗ đàn hương! và mọi người đơn giản đã
giết chết ông ấy. Tại sao mọi người lại đầu độc Socrates?
Socrates là gỗ đàn hương! Nhưng ruồi - chúng hiểu quá khứ
riêng của mình, chúng diễn giải theo quá khứ của chúng.
Một hôm tôi đọc thấy...
Một gái mãi dâm, gái mãi dâm nổi tiếng nhất của thành
Athens, có lần tới gặp Socrates. Và vài người đang ngồi đó,
chỉ vài người, cũng như ở đây có vài người ngồi, còn
Socrates đang nói với họ. Gái mãi dâm này nhìn quanh và
nói với Socrates, "Sao vậy? - một người vĩ đại như ông, và
lại chỉ ít người nghe ông thế? Tôi cứ nghĩ cả thành Athens
này phải ở đây cơ đấy! Mà tôi chẳng thấy người đáng kính
nhất, người đáng trọng nhất ở đây - các chính khách, các tu
sĩ, các nhà trí thức - tôi không thấy họ ở đây. Có vấn đề gì
vậy? Một ngày nào đó, Socrates, ông tới nhà tôi; ông sẽ thấy
họ đứng xếp hàng ở đó!"
Socrates nói, "Cô phải đấy - bởi vì cô có thể mua vui cho
đòi hỏi đại chúng. Tôi thì không. Tôi chỉ hấp dẫn có vài
người, vài người được chọn lọc. Những người khác không
thể cảm thấy hương thơm của tôi được, họ lẩn tránh! Cho dù
họ có tới với tôi, họ cũng chuồn thôi, họ sợ. Nó là một hương
thơm hoàn toàn khác," Socrates nói.
Gái mãi dâm này phải cực kì thông minh. Cô ta nhìn vào
trong mắt của Socrates, cúi mình xuống và nói, "Socrates,
xin hãy chấp nhận tôi làm một trong những người bạn của
ông," và chẳng bao giờ rời đi, trở thành một phần của nhóm
nhỏ đó.
Phải là một phụ nữ của nhận biết lớn lao... cho nên bỗng
nhiên có sự thay đổi, cô ấy đã hiểu điều đó ngay lập tức!
Nhưng Athens đã giết chết Socrates, họ đã không thích con
người này. Con người này có vẻ rất nguy hiểm. Có nhiều lời
buộc tội chống lại ông ấy. Một lời buộc tội là ông ấy phá huỷ
niềm tin của mọi người, ông ấy phá huỷ tâm trí thanh niên,
rằng ông ấy là vô chính phủ, rằng nếu ông ấy được phép
sống lâu thêm nữa thì xã hội sẽ bị mất gốc. Ông ấy là kẻ thù
nguy hiểm.
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy đã làm điều gì đó hoàn toàn
khác: ông ấy đã cố gắng tạo ra trạng thái vô trí. Nhưng mọi
người nghĩ, "Ông ta phá huỷ tâm trí mọi người." Họ cũng
phải, những con ruồi ấy. Vâng, thanh niên cực kì bị hấp dẫn
tới Socrates - bởi vì chỉ thanh niên mới có thể bị hấp dẫn tới
những điều như vậy. Chỉ thanh niên mới có dũng cảm đó.
Ngay cả người già tới tôi hay tới Socrates, họ cũng chỉ là
thanh niên; đó là lí do tại sao họ lại tới, bằng không thì họ
không thể tới được. Tâm trí già cỗi, mục nát không thể tới tôi được. Có thể thân thể là già, nhưng nếu một ông già tới tôi
hay một bà già, bà ấy chỉ tới bởi vì bà ấy vẫn có tính thanh
niên của linh hồn mình, bà ấy vẫn còn trẻ ở đâu đó; bà ấy
vẫn có khả năng hiểu cái mới, học cái mới. Họ nói bạn
không thể dạy một con chó già những trò mới... điều đó rất
khó; con chó già biết các trò cũ và nó cứ lặp lại chúng. Rất
khó dạy điều gì cho tâm trí cũ.
Và những điều này mới khác biệt triệt để thế, đối lập qua
đường kính với tất cả những điều mà đã từng được dạy cho
bạn, đến mức chừng nào một người còn chưa thực sự trẻ thì
người đó thậm chí không thể nào lắng nghe được. Cho nên
người trẻ bị hấp dẫn. Đó là dấu hiệu rằng cái gì đó của vĩnh
hằng, cái gì đó của tính trẻ vĩnh hằng của vũ trụ đang trào ra
qua Socrates.
Khi Jesus còn sống bạn sẽ thấy thanh niên theo ông ấy.
Bạn sẽ không thấy thanh niên tới gặp giáo hoàng; người già,
người sắp chết, người chết từ rất lâu, lâu rồi... họ tới gặp giáo
hoàng. Khi Shankaracharya nguyên thuỷ còn sống bạn sẽ tìm
thấy thanh niên tất cả quanh ông ấy. Nhưng với
shankaracharya của Puri thì chỉ các thân thể chết, các xác
chết lắng nghe. Những người sống đâu? - bạn không thể tìm
thấy họ được.
Bạn có thể đi và nhìn vào trong bất kì ngôi đền nào và
bạn sẽ thấy những bà già và ông già; thanh niên không có đó.
Trong thực tế, bất kì khi nào tôn giáo thực sự có đó, thanh
niên bị hấp dẫn; khi chân lí có đó, thanh niên bị hấp dẫn. Khi
chỉ có dối trá còn lại - học thuyết, giáo điều, tín điều - thế thì
người già tới. Khi thanh niên bị hấp dẫn, điều đó có nghĩa là
chân lí là trẻ và thanh niên bị hấp dẫn. Khi chân lí già, gần
chết, thế thì người gần chết bị hấp dẫn.
Người già bị hấp dẫn chỉ bởi vì sợ chết. Trong tuổi già
thậm chí kẻ vô thần cũng trở thành hữu thần... sợ hãi. Khi
thanh niên được hấp dẫn tới cái gì đó, đấy không phải bởi vì
sợ chết bởi vì người đó chưa biết gì về cái chết cả; đấy là vì
tình yêu cực kì với cuộc sống. Và đó là khác biệt giữa tôn
giáo thật và tôn giáo không thật. Tôn giáo không thật là
hướng cái sợ. Tôn giáo thật là hướng tình yêu.
Bạn phải đã nghe... trong mọi ngôn ngữ của thế giới cái
từ xấu xí đó tồn tại: Sợ thượng đế. Từ đó phải đã được đặt ra
bởi những người chết, đờ đẫn, người già. Sợ Thượng đế sao?
Làm sao người ta có thể sợ Thượng đế được? Và nếu bạn sợ
Thượng đế, làm sao bạn có thể yêu ngài được? Từ sợ, bạn có
thể chống lại Thượng đế, bởi vì ngài sẽ là kẻ thù của bạn;
làm sao bạn có thể yêu ngài được? Và nếu bạn yêu ngài, làm
sao bạn có thể sợ ngài được? Bạn có bao giờ sợ người bạn
yêu không? Bạn có bao giờ sợ mẹ mình nếu bạn yêu mẹ
không? Bạn có bao giờ sợ người đàn bà nếu bạn yêu người
đó không? Nếu bạn yêu, không có sợ; tình yêu xoá đi mọi sợ.
Yêu Thượng đế... lãng mạn trong tình yêu với Thượng đế...
cực lạc trong tình yêu với Thượng đế...
Nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ trung. Dù tâm
trí trẻ là ở trong thân thể trẻ hay trong thân thể già, điều đó
không liên quan - nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ
trung. Bây giờ Socrates bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp
dẫn thanh niên. Phật bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp dẫn
thanh niên. Nhưng bạn bao giờ cũng nhớ: bất kì khi nào một
tôn giáo được sinh ra, thanh niên cũng xô tới từ mọi góc trên
thế giới.
Họ phải là biểu tượng cho cái gì đó đã xảy ra. Khi người
già xô về cái gì đó, bạn có thể chắc chắn chẳng cái gì xảy ra ở đấy cả, đấy không phải là nơi hành động diễn ra! Nơi thanh
niên đi tới, đó là nơi hành động diễn ra. Nhưng:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Chân lí là điều không biết, bí ẩn. Bạn không thể tiếp cận
nó qua thói quen quá khứ của mình. Bạn có thể tiếp cận nó
chỉ khi bạn lột bỏ hết mọi thói quen.
Áo choàng của các linh mục Ki tô giáo được gọi là habit
- nó là việc dùng hay cho từ habit. Vâng, tôi nói, khi bạn trần
trụi với mọi thói quen (habit), trần trụi với mọi loại áo, mọi
trang phục đều bị vứt bỏ, bạn hành động không qua kí ức mà
qua nhận biết... Đây là hai chức năng khác nhau. Bạn hành
động qua kí ức, thế thì bạn không thấy cái đang đó; bạn cứ
thấy cái bạn đã thấy trước đây. Bạn cứ diễn giải hiện tại dưới
dạng của quá khứ, bạn cứ áp đặt điều gì đó không có đó; bạn
cứ thấy những thứ không có, và bạn cứ không thấy những cái
đang có. Kí ức phải bị gạt sang bên. Kí ức là tốt,dùng nó,
nhưng chân lí chưa bao giờ được biết tới qua kí ức cả. Làm
sao bạn có thể biết chân lí qua kí ức được? Bạn chưa bao giờ
biết tới chân lí trong quá khứ.
Chân lí là điều không biết. Chân lí là vị khách lạ. Bạn sẽ
phải gạt tất cả mọi kí ức sang bên; bạn sẽ phải nói với tâm
trí, "Im đi, để cho ta thấy mà không có mi! Để ta nhìn chỉ với
sự sáng tỏ, không với đôi mắt vẩn đục: không ý nghĩ, không
niềm tin, không kinh sách, không triết lí, không tôn giáo. Để
ta nhìn trực tiếp, ngay lập tức! Để ta nhìn ở đây bây giờ, để
ta nhìn vào trong cái đang đương đầu với ta." Chỉ thế thì bạn
mới hài hoà với bí ẩn của chân lí.
Và nhớ: chân lí chưa bao giờ trở thành kí ức cả. Ngay cả
khi bạn đã biết nó, nó cũng chẳng bao giờ trở thành kí ức.
Chân lí bao la thế, nó không thể nào bị hàm chứa bởi kí ức.
Và bất kì khi nào nó có đó, bạn sẽ biết nó, nó sẽ lại là mới.
Nó chưa bao giờ cũ cả, nó bao giờ cũng mới, nó bao giờ
cũng tươi mát. Đó là một trong những phẩm chất của nó,
rằng nó không bao giờ trở nên cũ đi. Nó bao giờ cũng trẻ
trung.
Cho nên nếu bạn muốn biết chân lí, Saraha nói với nhà
vua, "Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn biết chân lí của
điều đang xảy ra cho ta, xin bệ hạ gạt tâm trí mình sang bên.
Ta biết bệ hạ chỉ giống như ruồi; bệ hạ đã sống trong thân
thể và tâm trí, bệ hạ không biết gì bên ngoài chúng. Ta đang
đứng đây; ta ở ngoài cả hai. Và không có cách nào để giải
thích điều đó cho bệ hạ tương ứng theo tâm trí của bệ hạ;
không, điều đó không thể được giải thích. Nếu bệ hạ thực sự
muốn kinh nghiệm nó, bệ hạ có thể kinh nghiệm nó, nhưng
nó không thể nào được giải thích."
Thượng đế không thể nào được định nghĩa. Thượng đế
không thể nào được giải thích. Xin nhớ: chớ bao giờ giải
thích điều đó, bởi vì nếu bạn giải thích nó, bạn sẽ giải thích
nó xa xôi đi. Thượng đế không thể nào bị hàm chứa bởi bất
kì ý nghĩ nào. Nhưng Thượng đế có thể được sống, Thượng
đế có thể được yêu. Bạn có thể trở thành thượng đế! - đó là
điều có thể - nhưng tâm trí không thể nào chứa đựng được
Thượng đế. Tâm trí là cái bình chứa rất nhỏ, nó giống như
chiếc thìa trà vậy - và bạn muốn có Thái bình dương trong
chiếc thìa trà sao? Vâng, bạn có thể có chút ít nước mặn
trong chiếc thìa trà của mình, nhưng điều đó sẽ không cho ý
tưởng về Thái bình dương, về sự bao la. Bão tố sẽ không xảy
ra trong chiếc thìa trà của bạn, sóng lớn sẽ không phát sinh.
Vâng, vị nó thì giống thế, nhưng nó sẽ không là đại dương.

Saraha nói: Nếu bệ hạn muốn thấy ta, bệ hạ sẽ phải gạt
tâm trí mình sang bên. Bệ hạ có tâm trí của ruồi. Bệ hạ có
những thói quen nào đó về suy nghĩ, về cảm giác, bệ hạ có
thói quen sống nào đó. Bệ hạ đã sống một cuộc sống của
thân thể và tâm trí, và nhiều nhất bất kì cái gì bệ hạ đã biết
cho tới giờ đều chỉ do bệ hạ nghe thấy, bệ hạ đã đọc kinh
sách... Bản thân Saraha đã đọc kinh sách cho nhà vua trước
đây, anh ta biết điều đó rõ lắm. Anh ta biết điều nhà vua biết:
tri thức của anh ta chỉ là thông tin. Saraha nói: Điều đó đã
xảy ra cho ta! Nhưng để thấy điều đó bệ hạ sẽ cần phẩm chất
thấy khác.
Tâm trí không bao giờ gặp chân lí cả, không bao giờ
đương đầu với chân lí. Con đường của tâm trí và con đường
của chân lí là hoàn toàn tách rời. Nó là thực tại tách rời. Do
đó nhấn mạnh của mọi nhà huyền môn trên thế giới là đạt tới
trạng thái vô trí. Đó là điều thiền tất cả là gì: trạng thái vô trí,
trạng thái không suy nghĩ - vậy mà đầy nhận biết, chói sáng
với nhận biết. Khi không có một ý nghĩ, bầu trời của bạn
sạch mây, và thế thì mặt trời bừng sáng.
Thông thường chúng ta bị che phủ bởi nhiều ý nghĩ, ham
muốn, tham vọng, mơ mộng đến mức mặt trời không thể
chiếu sáng được. Nó bị che khuất đằng sau những đám mây
đem đó: ham muốn là đám mây, ý nghĩ là đám mây, tưởng
tượng là đám mây, và người ta cần được quang đãng để biết
cái đang đó.
Saraha nói:
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Luân hồi (samsara) có nghĩa là sống như thân thể, như
tâm trí, như bản ngã. Luân hồi nghĩa là sống hướng ngoại,
luân hồi nghĩa là sống với mọi vật. Luân hồi nghĩa là sống
với ý tưởng rằng tất cả đều là vật chất và chẳng có gì khác.
Luân hồi nghĩa là ba chất độc: sức mạnh, danh vọng, thế lực
- sống trong thế giới với ý tưởng có nhiều sức mạnh hơn,
nhiều danh vọng hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều thế lực
hơn...thế này và thế nọ; sống trong đồ vật và vì đồ vật. Đó là
ý nghĩa của từ luân hồi - thế giới.
Quan sát bản thân mình: bạn đã bao giờ sống với con
người hay bạn sống chỉ với đồ vật? Vợ bạn là người hay đồ
vật? Chồng bạn là người hay đồ vật? Bạn đối xử với chồng
mình như một con người, như một người có giá trị bản chất,
tuyệt vời, hay chỉ như một thứ tiện dụng, rằng anh ta là
người cung cấp bánh mì và bơ, hay rằng cô ta là người nội
trợ, chăm sóc con cái? Vợ bạn có là mục đích tự thân hay cô
ấy chỉ là một thứ tiện dụng, một món hàng để được dùng?
Đôi khi bạn dùng cô ấy về mặt dục, đôi khi bạn dùng cô ấy
theo cách khác - nhưng việc dùng người đó có nghĩa là người
đó là một vật với bạn, không phải là người.
Người không thể được dùng; chỉ vật mới có thể được
dùng. Người không thể bị mua bán; chỉ vật mới có thể được
mua bán. Người có giá trị vô cùng thế, thiêng liêng thế, nhân
phẩm thế - làm sao bạn có thể dùng một người được? Vâng,
người đó có thể cho tình yêu của mình, nhưng bạn không thể
dùng được. Và bạn phải biết ơn. Bạn đã bao giờ cám ơn vợ
mình chưa? Bạn đã bao giờ cám ơn bố bạn, mẹ bạn chưa?
Bạn đã bao giờ cám ơn bạn bè mình chưa? Đôi khi bạn cám
ơn người lạ nhưng chẳng bao giờ cám ơn những người của
riêng mình, bởi vì bạn coi họ như có sẵn.
Sống với đồ vật là sống trong luân hồi.
Sống với người là sống trong niết bàn. 

Và một khi bạn bắt đầu sống với người, mọi đồ vật biến
mất. Thông thường ngay cả người cũng bị thu về đồ vật, còn
khi người bắt đầu trở nên thiền thì ngay cả đồ vật cũng bắt
đầu trở thành người; ngay cả cây cối cũng trở thành người,
tảng đá cũng trở thành người. Mọi thứ dần dần bắt đầu có
nhân tính, bởi vì Thượng đế lan toả khắp mọi sự tồn tại.
Saraha nói: Tâu bệ hạ, bệ hạ đã sống trong luân hồi và bệ
hạ không thể hiểu được con đường của niết bàn. Nếu bệ hạ
thực sự muốn hiểu nó, bệ hạ sẽ phải sống nó, không có cách
khác. Để biết, bệ hạ sẽ phải nếm trải cái gì đó của nó. Và ta ở
đây, đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu giải thích!
Niết bàn đang đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu các
lí thuyết. Không chỉ điều đó - bệ hạ phải hoàn toàn mù quáng
- bệ hạ đã tới để thuyết phục ta quay lại với luân hồi của bệ
hạ! Ruồi đang thuyết phục ta rời bỏ rừng đàn hương cùng
hương thơm của nó để lấy mùi ôi thiu của thịt.
"Bệ hạ có điên không đấy?" Saraha nói với nhà vua. "Để
ta thuyết phục bệ hạ tới thế giới của ta thay vì bệ hạ thuyết
phục ta tới thế giới của bệ hạ. Ta đã biết thế giới của bệ hạ
và ta đã biết thực tại mới này nữa; ta có thể so sánh được. Bệ
hạ chỉ biết mỗi thế giới của mình; bệ hạ không biết thực tại
của ta, bệ hạ không thể so sánh được."
Khi vị phật nói thế giới này là ảo tưởng, thiền về điều đó,
bởi vì ông ấy đã biết thế giới này nữa. Khi người vô thần nào
đó, người duy vật, người cộng sản nào đó nói rằng thế giới
của niết bàn chỉ là ảo tưởng, không cần phải bận bâm về điều
đó chút nào, bởi vì người đó vẫn còn chưa biết nó. Người đó
chỉ biết thế giới này; bạn không thể tin cậy vào câu trả lời
của người đó về thế giới khác được. Người đó chưa bao giờ
thiền, người đó chưa bao giờ đi vào trong nó.
Nhìn vào nó đi: nhìn vào tất cả những người đã thiền,
không nhìn vào chỉ một người đã chối bỏ thực tại bên trong.
Không vào chỉ một người! Không một ngoại lệ nào, tất cả
các thiền nhân đều đã trở thành nhà huyền môn. Những
người còn chưa thiền, họ chỉ biết tới thế giới của ruồi và thế
giới của mùi hôi hám và hôi thối của thịt ôi. Họ sống trong
thế giới mục nát của đồ vật, nhưng họ chỉ biết điều đó, và
chắc chắn phát biểu của họ không thể nào tin cậy được. Một
Phật có thể được tin cậy, một Christ có thể được tin cậy, một
Mahavira có thể được tin cậy; họ đã biết cả hai. Họ đã biết
cái thấp hơn và cái cao hơn, và bởi việc biết cái cao hơn mà
họ nói điều gì đó về cái thấp hơn phải được thiền. Bạn đừng
bác bỏ thẳng thừng.
Chẳng hạn: Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, họ chưa
bao giờ thiền cả, và họ nói không có Thượng đế. Bây giờ
điều đó cũng gần như là một người chưa bao giờ tới phòng
thí nghiệm của nhà khoa học và nói điều gì đó về khoa học.
Một người chưa bao giờ đi vào phòng thí nghiệm và nói rằng
lí thuyết tương đối chỉ là vật thờ mù quáng, điều đó không
thể tin được. Bạn phải tới phòng thí nghiệm, bạn phải đi vào
trong toán học cao cấp, bạn phải chứng minh nó! Chỉ bởi vì
bạn không thể hiểu nó nên bạn không thể được phép chối bỏ
nó.
Có rất ít người hiểu lí thuyết tương đối. Người ta nói
rằng khi Einstein còn sống chỉ có mười hai người đang sống
hiểu lí thuyết của ông ấy, trên khắp thế giới. Và có vài người
nghĩ rằng đấy là điều phóng đại, số đó là không đúng: thậm
chí mười hai người cũng không có đó để mà hiểu đúng lí
thuyết của ông ấy. Nhưng bởi vì điều đó bạn không thể nói
nó là không đúng; bạn không thể bỏ phiếu về nó, bạn không
thể làm thất bại nó qua bầu cử. Bạn sẽ phải đi qua cùng
những quá trình đó.

Bây giờ Marx nói không có Thượng đế chỉ đơn giản là
một phát biểu ngu xuẩn... Chưa bao giờ thiền, chưa bao giờ
suy tư, chưa bao giờ cầu nguyện - phát biểu của ông ấy
chẳng liên can gì. Những người đã thiền, những người đã
đào sâu chút ít vào trong bản thể mình, họ đều đi tới cùng
chân lí.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Saraha đang nói: Bệ hạ vứt bỏ niết bàn và bệ hạ cứ chạy
xô theo ảo tưởng. Bệ hạ đã tới thuyết phục ta, thưa bệ hạ?
Xin nhìn ta đây, ta cực lạc làm sao! Nhìn ta đây; ta không
phải là cùng con người đã rời bỏ triều đình của bệ hạ, ta là
một người hoàn toàn khác.
Anh ta đang cố gắng đưa nhận biết của nhà vua về
khoảnh khắc hiện tại, và anh ta đã thành công. Anh ta phải
đã là một con người của sự hiện diện vĩ đại. Anh ta kéo nhà
vua ra khỏi thế giới của ruồi nhặng, ra khỏi thế giới của thịt
ôi. Anh ta kéo nhà vua tới thế giới của gỗ đàn hương và
hương thơm của nó.
Lời kinh thứ hai:
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Anh ta nói: Nhìn đây! Một con bò đã bước qua, và còn
dấu chân trên đất, và dấu chân này ngập đầy nước, nước
mưa. Nó sẽ có đó bao lâu? Chẳng chóng thì chầy nước sẽ
bay hơi, và dấu chân bò đầy nước sẽ không còn đó chút nào
nữa. Nhưng đại dương bao giờ cũng hiện hữu. Mặc dầu nước
trong dấu chân bò cũng là từ đại dương, cái gì đó vẫn khác.
Đại dương bao giờ cũng còn lại, không hề tăng, không
hề giảm. Những đám mây lớn nảy sinh ra từ nó, nó chưa bao
giờ giảm. Những dòng sông lớn đổ nước vào nó, nó chưa
bao giờ tăng. Nó bao giờ cũng còn như cũ. Nhưng dấu chân
nhỏ này của con bò thì đầy nước bây giờ đấy; trong vài giờ
hay vài ngày nó sẽ biến mất, nó sẽ khô đi. Bộ óc của tâm trí
con người cũng vậy: nó chỉ là một dấu chân bò, một thứ nhỏ
bé thế. Chỉ chút ít nước có đó - đừng tin cậy vào nó nhiều, nó
đang khô di rồi, nó sẽ biến mất. Bộ óc là thứ rất nhỏ bé...
đừng nghĩ rằng bạn có thể chứa vũ trụ này trong bộ óc. Và
nó chỉ có thể là tạm thời, nó chẳng thể nào là vĩnh hằng
được.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Bạn đang giữ cái gì trong bộ óc nhỏ bé của mình? Nội
dung của nó là gì? Ham muốn, mơ mộng, tham vọng, ý nghĩ,
tưởng tượng, ý chí, xúc động - đây là những vật bạn đang giữ
như nội dung. Chúng tất cả sẽ khô đi, mọi nội dung sẽ khô
đi. Cho nên thay đổi nhấn mạnh từ những nội dung đó và
đừng nhìn vào nội dung đó. Bầu trời đầy mây, đừng nhìn vào
mây, nhìn vào bầu trời. Đừng nhìn vào cái có trong đầu bạn,
cái có trong tâm trí bạn; chỉ nhìn vào tâm thức bạn. Xúc
động có đó, giận dữ có đó, tình yêu có đó, tham lam có đó,
sợ có đó, ghen có đó - đây là nội dung. Chỉ ngay sau chúng
là bầu trời vô hạn của tâm thức. 

Người sống qua nội dung thì sống cuộc sống của cái
máy. Còn người bắt đầu thay đổi nhấn mạnh của mình từ nội
dung sang bình chứa thì bắt đầu sống cuộc sống của nhận
biết, của phật tính.
Và Saraha nói: Tâu bệ hạ, những nội dung này mà bệ hạ
có trong tâm trí sẽ sớm khô di. Bệ hạ nhìn vào dấu chân bò
kia! Đầu bệ hạ không lớn hơn cái đó, bộ óc không lớn hơn
cái đó. Nhưng tâm thức bệ hạ là vô hạn.
Bây giờ điều này phải được hiểu: xúc động là trong đầu
bạn, nhưng tâm thức không trong đầu bạn. Trong thực tế đầu
bạn là trong tâm thức bạn! Tâm thức là bao la, vô hạn. Xúc
động, ham muốn, tham vọng là trong đầu bạn; chúng sẽ khô
đi. Nhưng ngay cả khi đầu bạn đã hoàn toàn bị vứt bỏ và
biến mất vào trong đất, tâm thức bạn sẽ không biến mất. Bạn
không chứa tâm thức trong mình; tâm thức chứa bạn, nó lớn
hơn bạn.
Có những người hỏi... đôi khi ai đó tới tôi và hỏi: "Linh
hồn ở đâu trong thân thể con người? Trong tim? trong rốn?
Trong đầu? Linh hồn ở đâu?" Họ nghĩ họ đang hỏi một câu
hỏi rất thích đáng. Nó chẳng ở đâu trong thân thể cả: thân thể
bạn là ở trong linh hồn. Linh hồn là hiện tượng lớn hơn thân
thể bạn, linh hồn bao quanh bạn.
Và linh hồn bạn và linh hồn tôi là không khác nhau!
Chúng ta sống trong sự tồn tại, chúng ta sống trong một đại
dương linh hồn. Một linh hồn bao quanh chúng ta, bên trong
và bên ngoài. Nó tất cả là một năng lượng; tôi không có linh
hồn khác và bạn không có linh hồn khác. Chúng ta có các
thân thể khác nhau. Điều đó gần giống như điện chạy trong
bóng đèn và chạy trong radio và chạy trong ti vi và làm quạt
quay, và làm cả nghìn lẻ một thứ. Quạt là khác với bóng đèn,
nhưng điện làm chúng chạy là như nhau.
Chúng ta là một năng lượng. Cách diễn đạt của chúng ta
là khác nhau, nhưng thực tại của chúng ta là một. Nếu bạn
nhìn vào nội dung, nếu tôi nhìn vào nội dung, thế thì giấc mơ
của tôi chắc chắn là khác với giấc mơ của bạn. Chúng ta
không thể có chung giấc mơ. Tôi có tham vọng của tôi, bạn
có tham vọng của bạn. Và không chỉ chúng ta không thể có
chung giấc mơ: giấc mơ của chúng ta còn xung đột nhau.
Tham vọng của tôi là ngược lại tham vọng của bạn; tham
vọng của bạn chống lại tham vọng của tôi. Nhưng nếu chúng
ta quên đi nội dung và chỉ nhìn vào tâm thức, tâm thức thuần
khiết, bầu trời không mây, thế thì 'bạn' ở đâu và 'tôi' ở đâu?
Chúng ta là một.
Trong khoảnh khắc đó có sự thống nhất. Và trong
khoảnh khắc đó có tâm thức vũ trụ.
Mọi tâm thức đều là vũ trụ. Vô thức là riêng tư, tâm thức
là vũ trụ. Cái ngày bạn thực sự trở thành một con người, bạn
là con người vũ trụ. Đó là ý nghĩa của 'christ': con người vũ
trụ, con của Thượng đế. Đó là ý nghĩa của 'phật': con người
vũ trụ đi tới nhận biết toàn bộ và tuyệt đối.
Con người như cái máy lại khác... điều này cần được
hiểu. Nếu bạn có vấn đề ở thận, tôi không có; nếu tôi bị đau
đầu, bạn không đau đầu; cho dù bạn yêu tôi thì bạn cũng
không thể chia sẻ đau đầu được. Cho dù tôi yêu bạn nhưng
tôi vẫn không thể có cái đau của bạn được. Nhưng nếu hai
chúng ta ngồi cùng nhau và thiền và một khoảnh khắc tới khi
tôi không có nội dung trong tâm trí mình và bạn cũng không
có nội dung nào trong tâm trí bạn, chúng ta sẽ không là hai.
Các thiền nhân bắt đầu như sự tách biệt, nhưng cuối cùng
như một.
Nếu các bạn tất cả ngồi trong thiền ở đây, lắng nghe tôi,
thế thì các bạn không là nhiều, thế thì các bạn là một. Thế thì các bạn không chỉ là một: người nói và người nghe không
tách biệt, thế thì chúng ta được bắc cầu với nhau. Hai mươi
thiền nhân trong một phòng thiền, khi họ đi tới việc thiền
thực, không còn là hai mươi nữa: chỉ có một phẩm chất thiền
trong phòng.
Có một câu chuyện...
Vài người tới gặp Phật. Ananda đang ngồi canh ở ngoài
phòng, nhưng những người này lấy quá nhiều thời gian đến
mức Ananda trở nên lo nghĩ. Nhiều lần ông ấy nhìn vào,
nhưng họ vẫn tiếp tục và cứ tiếp tục, tiếp tục... Thế rồi ông
ấy đi vào trong phòng để xem điều gì xảy ra. Và tại đó ông
ấy chẳng thấy ai cả, chỉ Phật ngồi. Cho nên ông ấy hỏi Phật,
"Những anh chàng kia đi đâu cả rồi?" Và không có cửa
khác... mà tôi lại đang ngồi ngay cái cửa duy nhất, cho nên
họ đã đi đâu rồi?"
Và Phật nói, "Họ đang thiền."
Đấy là một câu chuyện hay. Tất cả họ đều rơi vào trong
thiền, còn Ananda đã không thể nào thấy được họ bởi vì ông
ấy vẫn không phải là thiền nhân. Ông ấy không thể nào thấy
được hiện tượng mới này, sự dịch chuyển hoàn toàn của
năng lượng. Họ đã không có đó, bởi vì họ đã không như thân
thể họ ở đó, họ đã không như tâm trí họ ở đó. Những bản ngã
này đã tan biến. Ananda chỉ có thể thấy điều ông ấy có thể
thấy. Một thực tại đã xảy ra.
Một vị vua lớn có lần tới gặp Phật. Tể tướng của ông ấy
khuyên ông ấy tới, nhưng ông ấy là con người rất đa nghi,
như các chính khách và vua thì thường vậy, rất đa nghi. Ông
ấy đã không muốn tới ngay chỗ đầu tiên... Chỉ bởi lí do
chính trị mà ông ấy tới để gặp Phật bởi vì trong thủ đô tin
đồn đang lan truyền rằng ông ấy chống lại Phật; còn mọi
người lại ủng hộ Phật, cho nên ông ấy trở nên sợ hãi, điều đó
không ngoại giao. Cho nên ông ấy tới cùng tể tướng của
mình.
Khi ông ấy tới khu rừng nhỏ nơi Phật đang ngồi cùng với
mười nghìn sư của mình, ông ấy bắt đầu trở nên rất sợ hãi.
Ông ấy tuốt kiếm ra và ông ấy nói với tể tướng, "Có chuyện
gì vậy? - bởi vì khanh nói mười nghìn người đang ở đó, và
chúng ta tới gần thế mà chẳng có tiếng động nào cả! Liệu có
mưu đồ gì không?"
Tể tướng cười và nói, "Bệ hạ không biết người của Phật.
Cất kiếm đi! Bệ hạ cứ tới đi - không có mưu đồ hay cái gì cả.
Bệ hạ không cần phải sợ, họ không định giết bệ hạ. Bệ hạ
không biết người của Phật."
Nhưng rất đa nghi, vẫn lăm lăm cây kiếm trong tay, nhà
vua đi vào trong khu rừng. Ông ta sửng sốt. Ông ta không
thể nào tin được có mười nghìn người đang ngồi dưới gốc
cây một cách im lặng, dường như không có ai cả. Ông ta hỏi
Phật, "Đây là phép màu! - mười nghìn người... ngay cả mười
người cùng nhau cũng tạo ra nhiều ồn ào thế! Những người
này làm gì vậy? Điều gì đã xảy ra cho những người này, cái
gì đã đi sai sao? Họ vẫn còn sống chứ? - họ trông như tượng
cả! Và họ đang ngồi đây làm gì vậy? Họ phải làm cái gì
chứ!"
Còn Phật nói, "Họ đang làm cái gì đó, nhưng điều đó
chẳng liên quan gì tới bên ngoài cả. Họ đang làm điều gì đó
trong thế giới bên trong của mình. Họ không trong thân thể
mình, họ trong bản thể mình, tại chính cốt lõi. Và đây không
phải là mười nghìn người ngay lúc này, họ tất cả đều là một
phần của một tâm thức." 

Lời kinh thứ ba:
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Thái độ Mật tông cơ bản là: Bản năng dục có thể được
biến đổi thành cái siêu phàm, vật chất có thể được biến đổi
thành tâm trí, vô thức có thể được biến đổi thành tâm thức.
Vật lí hiện đại nói vật chất có thể được biến đổi thành
năng lượng, năng lượng có thể được biến đổi thành vật chất.
Trong thực tế chúng không phải là hai mà là cùng một năng
lượng vận hành như hai dạng. Mật tông nói dục có thể được
biến đổi thành samadhi - cùng cách tiếp cận ấy, rất cơ bản và
cơ sở. Cái thấp hơn có thể được biến đổi thành cái cao hơn,
bởi vì cái thấp hơn và cao hơn được nối với nhau; nó là chiếc
thang. Chúng không bao giờ tách rời, không ở đâu tách rời,
không có lỗ hổng giữa chúng. Bạn có thể đi từ thấp lên cao,
bạn có thể đi từ cao xuống thấp.
Và cái thang đó là điều con người là gì. Con người có thể
tồn tại ở bậc thang thấp nhất; đó là quyết định của người đó.
Con người có thể đi lên, người đó có thể tồn tại ở bậc thang
cao nhất. Người đó có thể tồn tại như con vật hoặc người đó
có thể tồn tại như vị phật: cả hai đều là các bậc thang của
người đó, bậc thấp nhất và cao nhất. Và con người là chiếc
thang: người đó có thể rơi vào trong vô thức sâu và trở thành
tảng đá, và người đó có thể vươn lên tâm thức tuyệt đối, và
có thể trở thành thượng đế. Nhưng chúng không tách biệt, đó
là cái đẹp của Mật tông.
Mật tông không mang tính phân chia, Mật tông là tôn
giáo duy nhất không tinh thần phân liệt. Mật tông là tôn giáo
duy nhất thực sự lành mạnh, tôn giáo lành mạnh nhất, bởi vì
nó không phân chia. Nếu bạn phân chia, bạn tạo ra chia chẻ.
Nếu bạn bảo mọi người rằng thân thể là xấu, rằng thân thể là
kẻ thù, rằng thân thể phải bị lên án, rằng thân thể đang phục
vụ quỉ, thế thì bạn đang tạo ra chia chẻ trong con người, thế
thì con người trở nên sợ thân thể. Và thế thì dần dần sẽ tạo ra
cái hố sâu không thể bắc cầu qua được và con người bị kéo
vào hai phần, con người bị giằng xé theo hai hướng đối lập.
Thân thể kéo thân thể thành hai, tâm trí cố gắng kéo tâm trí
thành hai; có xung đột và lẫn lộn.
Mật tông nói bạn là một, không cần phải có bất kì lẫn lộn
gì. Bạn có thể được hợp nhất lại trong một thực tại. Không
cần phải có bất kì xung đột nào, không cần phải bị xé ra,
không cần phải mất trí. Bạn có thể yêu tất cả những cái đang
có sẵn, và bạn có thể làm tiến hoá nó - với tình yêu sâu sắc,
sự chăm nom, tính sáng tạo, nó có thể được tiến hoá. Thân
thể không phải là kẻ thù của linh hồn bạn, thân thể chỉ là bao
gươm của thanh gươm của bạn. Thân thể chỉ là ngôi đền, nó
là chỗ trú ngụ của bạn. Nó không phải là kẻ thù, nó là bạn
của bạn.
Mật tông vứt bỏ mọi loại bạo hành, không chỉ bạo hành
với người khác mà bạo hành với chính mình. Mật tông nói:
Yêu thực tại trong tính toàn bộ của nó. Vâng, nhiều điều có
thể được tiến hoá, nhưng mọi tiến hoá đều là thông qua tình
yêu. Và không cần đánh nhau.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên… 

Bạn không thể uống nước biển mặn đựơc, nó mặn thế;
nó toàn là muối. Bạn sẽ chết nếu bạn uống nước biển. Nhưng
khi một đám mây tới và rút nước từ biển, nó biến thành ngọt,
và thế thì bạn có thể uống được nó.
Saraha nói: Samadhi giống như đám mây, năng lượng
thiền giống như đám mây, cái biến bản năng dục của bạn
thành những thực tại cao hơn, cái biến sự tồn tại vật lí của
bạn thành sự tôn tại phi vật lí, cái biến vị mặn chát, kinh
nghiệm đắng cay về thế giới thành đường ngọt, kinh nghiệm
tựa nước cam lồ về niết bàn. Bản thân luân hồi trở thành niết
bàn nếu bạn có thể tạo ra đám mây làm biến đổi nó. Đám
mây đó Phật thực tế đã gọi là dharmamegha samadhi,
samadhi của đám mây của luật nền tảng – dharmamegha
samadhi.
Bạn có thể tạo ra được đám mây đó. Đám mây đó được
tạo ra bằng thiền. Bạn thiền mãnh liệt, vứt bỏ các ý nghĩ, vứt
bỏ các ham muốn, tham vọng… dần dần tâm thức bạn là
ngọn lửa bùng cháy - đám mây đó có đó. Bây giờ bạn có thể
biến đổi bất kì cái gì qua ngọn lửa đó; ngọn lửa đó làm
chuyển hoá, ngọn lửa đó là giả kim thuật. Qua thiền cái thấp
hơn trở thành cái cao hơn, sắt cơ sở hơn biến thành vàng.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Hai điều: thứ nhất, người ta phải tạo ra đám mây thiền
trong bản thể của mình; và điều thứ hai là từ bi - người làm
việc vì người khác. Phật nhấn mạnh vào hai điều: thiền và từ
bi, pragyan và karuna. Ông ấy nói rằng đôi khi chuyện xảy
ra là một thiền nhân có thể trở thành ích kỉ quá nhiều; thế
nữa điều gì đó sẽ thành chua ra. Thiền, vui sướng, nhưng
chia sẻ vui sướng đó, chia sẻ nó đi. Đừng tích trữ nó, bởi vì
một khi bạn bắt đầu tích trữ, bản ngã bắt đầu nảy sinh. Đừng
bao giờ tích trữ cái gì. Khoảnh khắc bạn được nó, đem cho
nó đi, và bạn sẽ được ngày càng nhiều hơn. Bạn càng cho đi
nhiều, bạn lại càng nhận được nhiều. Thế thì mọi thứ trở
thành cam lồ. Mọi thứ là cam lồ; chúng ta chỉ phải biết cách
biến đổi nó, chúng ta phải biết thuật giả kim.
Câu kinh cuối:
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Không thể tả được... Saraha nói: Đừng hỏi ta nó là gì -
điều đó là không thể tả được, điều đó không thể nói ra được.
Điều đó không thể được diễn tả, không ngôn ngữ nào hiện có
mà có thể diễn tả được nó. Nhưng nó có thể được kinh
nghiệm. Nhìn mãn nguyện của ta đây! Nhìn xem ta đã trở
nên được thoả mãn thế nào! Bệ hạ đã biết ta từ trước nữa, ta
đã bất an làm sao, không thoả mãn với mọi thứ làm sao. Và
tất cả đều có sẵn; ta là ái khanh của bệ hạ, tất cả mọi thứ đều
sẵn cho ta, vậy mà ta vẫn không thoả mãn. Bây giờ, bệ hạ
nhìn xem! Ta đang đứng trong bãi hoả thiêu, thậm chí không
có một mái lều trên đầu! Và ta không sống với vua và hoàng
hậu, ta đang sống với người đàn bà rèn tên này. Nhưng nhìn vào mắt ta… ta mãn nguyện làm sao. Bệ hạ không thể thấy
được cái gì đó không diễn tả nổi đã xảy ra đó sao? Bệ hạ
không thể cảm thấy rung động của ta sao? Bệ hạ đờ đẫn và
chết đến mức bệ hạ phải cần lời giải thích sao?
Nếu mà không thể tả được, chẳng bao giờ người ta lại
không được thoả mãn cả...
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Đó là tiêu chuẩn duy nhất cho liệu một người đã đạt tới
chân lí hay chưa: người đó sẽ không bao giờ không thoả
mãn, mãn nguyện của người đó là tuyệt đối. Bạn không thể
lôi người đó ra khỏi mãn nguyện của mình được, bạn không
thể làm cho người đó không bằng lòng; bất kì điều gì xảy ra,
người đó vẫn vậy, hài lòng. Thành công hay thất bại, sống
hay chết, bạn hay không bạn, người yêu hay không người
yêu, không có khác biệt. Yên bình của người đó, tĩnh lặng
của người đó là hoàn toàn tuyệt đối. Người đó được định
tâm… Nếu không thể nói ra được, đừng bao giờ là người
không thoả mãn.
Nếu điều không thể nào được nói ra lại xảy ra, thế thì chỉ
có một cách để biết nó, và cách đó là thấy mãn nguyện.
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Và ta biết, anh ta nói: Bệ hạ không thể hình dung ra được
điều đã xảy ra cho ta. Làm sao bệ hạ có thể hình dung ra
được? Bởi vì bệ hạ chưa từng biết tới điều đó. Tưởng tượng
bao giờ cũng lặp lại cùng điều bệ hạ đã biết.
Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc; bạn đã biết từng chút
và từng mẩu của nó. Bạn có thể tưởng tượng bất hạnh; bạn
đã biết nó, nhiều về nó. Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc
cho dù bạn đang không biết hạnh phúc. Bạn có thể tưởng
tượng nó như cái ngược lại với bất hạnh. Nhưng làm sao bạn
có thể tưởng tượng được phúc lạc? Bạn không biết nó. Và
chẳng có gì mâu thuẫn nó cả, nó là không nhị nguyên. Điều
đó là không thể tưởng tượng nổi.
Cho nên Saraha nói: Ta có thể hiểu được... bệ hạ không
thể tưởng tượng ra điều đó được, nhưng ta không nói tưởng
tượng nó. Nhìn đây! Nó đang hiện diện ở đây và bây giờ. Và
nếu bệ hạ không thể tưởng tượng ra nó, điều đó nữa cũng là
một trong những tiêu chuẩn của chân lí: chân lí không thể
nào được tưởng tượng ra. Nó có thể được thấy, nhưng không
được tưởng tượng. Bệ hạ có thể có linh ảnh về nó, nhưng bệ
hạ không thể mơ về nó được. Và đó là khác biệt giữa giấc
mơ và linh ảnh.
Giấc mơ là của bạn. Linh ảnh không phải là của bạn.
Christ thấy Thượng đế, và kinh sách nói ông ấy thấy linh
ảnh. Bây giờ nhà phân tâm sẽ nói đấy chỉ là giấc mơ; ông ấy
không biết khác biệt giữa giấc mơ và linh ảnh. Giấc mơ là
của bạn: bạn đã tưởng tượng, bạn đã tạo ra nó, nó bao giờ
cũng là phóng tác của bạn. Linh ảnh là cái gì đó xuất phát từ
trời xanh mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới, thậm chí bạn cũng
chưa bao giờ nghĩ tới một phần của nó. Nó hoàn toàn mới
thế… thế thì nó là linh ảnh. Nếu không thể nào tưởng tượng
ra nổi, nó phải là bản thân phúc lạc...
Nhìn vào tôi - bạn không thể hình dung ra được điều đã
xảy ra. Bạn không thể thấy được nó sao? Bạn có mắt để thấy
- nhìn, quan sát, cầm tay tôi! Lại gần tôi hơn, mong manh
với tôi, để cho rung động của tôi có thể làm rung động bản thể bạn, và điều không thể tưởng tượng nổi và không thể nói
được có thể được kinh nghiệm.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ…
Và Saraha nói: Ta biết.... Anh ta phải đã thấy nhà vua có
chút ít sợ hãi. Tôi thấy điều đó hàng ngày. Mọi người tới tôi
và tôi thấy họ run rẩy, sợ hãi, hoảng hốt, kinh hoàng, và họ
nói, "Chúng tôi sợ lắm, Osho." Tôi biết! Saraha phải đã thấy
nhà vua đang run rẩy sâu bên trong… có thể không ở bên
ngoài. Ông ta là một vị vua lớn, ông ta phải là người rất kỉ
luật, ông ta phải đã đứng thẳng - nhưng sâu bên dưới ông ta
phải đã sợ hãi.
Điều đó bao giờ cũng xảy ra khi bạn ở gần một người
như Saraha, hay người như Phật, bạn nhất định sợ. Mới đêm
hôm nọ một thanh niên tới và anh ta nói, "Nhưng sao tôi sợ
thầy? Thầy đã chẳng làm điều gì sai với tôi cả - sao tôi sợ
thầy? Chắc chắn tôi yêu thầy, nhưng sao tôi lại sợ thầy?"
Điều đó là tự nhiên. Khi bạn tới gần vực thẳm, bạn trông
đợi điều gì? - bạn sẽ sợ. Có mọi khả năng bạn có thể rơi vào
trong nó và sẽ không thể nào khôi phục lại mình nữa; điều đó
sẽ là không thể khôi phục lại được, không thể phục hồi được.
Bạn sẽ mất đi hoàn toàn, toàn bộ vào trong nó. Bạn sẽ không
có khả năng kéo lại. Sợ là tự nhiên.
Saraha nói: Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm
nổ… Anh ta nói: ta giống như đám mây và bệ hạ sợ hãi bởi
vì tiếng sấm, vì sét. Nhưng nhớ lấy. Mùa màng chín rộ khi từ
đám mây đó đổ mưa xuống. Nếu bệ hạ cho phép ta mưa lên
bệ hạ, hạt mầm sẽ mọc, tâu bệ hạ, và con người vẫn ẩn kín
đằng sau bệ hạ, vẫn còn chưa được sinh ra, sẽ được sinh ra.
Bệ hạ sẽ có khả năng chín, chín muồi, bệ hạ sẽ có khả năng
nở hoa. Ta mời bệ hạ, Saraha nói, với một mùa màng bội
thu… mùa màng của tâm thức, mùa màng của nhận biết.
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Con người là điều huyền thoại, và là điều huyền thoại
nguy hiểm nhất, bởi vì nếu bạn tin rằng con người tồn tại thế
thì bạn không cố gắng để làm tiến hoá con người chút nào,
không có nhu cầu. Nếu bạn tin rằng mình đã là người rồi, thế
thì tất cả mọi trưởng thành đều chấm dứt.
Bạn vẫn chưa là con người, bạn mới chỉ có tiềm năng
cho điều đó thôi. Bạn có thể là con người, bạn có thể không,
bạn có thể bỏ lỡ. Nhớ lấy, điều đó có thể bị bỏ lỡ.
Con người còn chưa được sinh ra; là con người không
phải là sự kiện được cho sẵn, bạn không thể có được điều đó
bằng việc cho không. Đấy chỉ là một khả năng. Con người
tồn tại như hạt mầm, không như cây - còn chưa thành cây.
Con người còn chưa là thực tại, và khác biệt giữa tiềm năng
và thực tại là lớn lao.
Con người như người đó đang tồn tại chỉ là cái máy, vậy
mà con người vẫn làm việc, vậy mà con người vẫn thành
công trong thế giới này, vậy mà con người vẫn sống cái gọi
là cuộc sống và chết. Nhưng nhớ lấy, con người không tồn
tại. Chức năng của người đó là ở chức năng của cái máy,
người đó là người máy.
Con người là cái máy. Vâng, cái máy này có thể trưởng
thành trong nó mà nó có thể vượt ra ngoài cái máy. Cái máy này không phải là cái máy thường; nó có tiềm năng vô cùng
để vượt ra ngoài bản thân nó. Nó có thể tạo ra cái gì đó siêu
việt lên trên cấu trúc riêng của nó. Đôi khi nó đã tạo ra... một
Phật, một Christ, một Gurdjieff - đôi khi nó đã tạo ra con
người. Nhưng bạn đừng tin rằng mình đã là con người. Nếu
bạn tin, niềm tin của bạn sẽ mang tính tự sát - bởi vì một khi
chúng ta tin rằng điều gì đó đã có đó thế thì chúng ta chấm
dứt tìm kiếm nó, thế thì chúng ta chấm dứt tạo ra nó, thế thì
chúng ta chấm dứt phát hiện nó, thế thì chúng ta chấm dứt
tiến hoá nó.
Nghĩ xem: một người ốm, một người ốm nặng, nghĩ
mình mạnh khoẻ. Sao người đó phải tới bác sĩ? Sao người đó
phải uống thuốc? Sao người đó phải đi trị liệu? Sao người đó
sẵn lòng đi bệnh viện? Người đó tin mình mạnh khoẻ, người
đó có sức khoẻ hoàn hảo... và người đó đang chết! Niềm tin
của người đó sẽ giết chết người đó.
Đó là lí do tại sao tôi nói huyền thoại này là nguy hiểm,
huyền thoại nguy hiểm nhất mà các tu sĩ và chính khách đã
hư cấu ra: rằng con người đã có trên trái đất. Hàng triệu
người này trên trái đất chỉ là những khả năng, và không may
là đại đa số họ lại chưa bao giờ sẽ trở thành thực tại; không
may, nhiều người trong số họ sẽ chết như cái máy.
Tôi ngụ ý gì khi tôi nói con người là cái máy? Tôi ngụ ý
rằng con người sống từ quá khứ. Con người sống từ một cấu
trúc chết, con người sống từ thói quen, con người sống cuộc
sống thường lệ. Con người cứ đi cùng vòng tròn ấy, theo
cùng con đường mòn ấy, đi đi, đi lại. Bạn không thể thấy
được cái vòng luẩn quẩn trong cuộc sống của mình sao?
Cùng những điều ấy bạn đã làm mọi ngày: hi vọng, giận dữ,
ham muốn, tham vọng, nhục dục, tình dục, thất vọng, lại hi
vọng... cứ cái vòng tròn ấy chuyển động... Mỗi hi vọng lại
dẫn tới thất vọng, chưa bao giờ nó khác đi; và sau mỗi thất
vọng, một hi vọng mới, và cái vòng ấy lại bắt đầu chuyển
động.
Tại phương Đông chúng ta gọi nó là cái bánh xe của
luân hồi samsara. Nó là cái bánh xe, các nan hoa là như
nhau. Và bạn bị nó lừa đi lừa lại, bạn lại cứ hi vọng. Và bạn
biết mình đã hi vọng trước đây, bạn đã hi vọng cả triệu lần
rồi, mà chẳng cái gì xảy ra từ hi vọng đó. Chỉ bánh xe là cứ
chuyển, và cứ giết chết bạn, cứ phá huỷ cuộc sống của bạn.
Thời gian chạy khỏi tay bạn. Mỗi khoảnh khắc mất đi là mất
đi mãi mãi, và bạn cứ lặp lại cái cũ.
Đây là điều tôi muốn nói khi tôi nói con người là cái
máy. Tôi đồng ý với George Gurdjieff tuyệt đối; ông ấy hay
nói rằng bạn còn chưa có linh hồn. Ông ấy là người đầu tiên
nói điều đó một cách quyết liệt thế, rằng bạn còn chưa có
linh hồn. Vâng, linh hồn có thể được sinh ra trong bạn,
nhưng bạn sẽ phải trao việc sinh thành cho nó; bạn sẽ phải
trở nên có khả năng trao việc sinh cho nó.
Suốt hàng thế kỉ các tu sĩ đã bảo bạn rằng bạn đã có linh
hồn rồi, rằng bạn đã có con người đó. Điều đó không phải
như vậy; bạn chỉ mới có tiềm năng như vậy thôi. Thực tế bạn
có thể trở thành, nhưng huyền thoại này phải bị phá bỏ. Thấy
sự kiện của nó: bạn còn chưa là sinh linh có ý thức; và nếu
bạn không là sinh linh có ý thức, làm sao bạn có thể là con
người được?
Đâu là khác biệt giữa tảng đá và bạn? Đâu là khác biệt
giữa con vật và bạn? Đâu là khác biệt giữa cây và bạn? Khác
biệt là khác về ý thức. Nhưng bạn có bao nhiêu ý thức?... chỉ
mong manh đây đó. Chỉ đôi khi, trong những khoảnh khắc
hiếm hoi, bạn mới trở nên có ý thức; và điều đó chỉ trong vài giây rồi bạn lại rơi trở lại vào trong vô ý thức. Vâng, đôi khi
điều đó xảy ra, bởi vì nó là tiềm năng của bạn.
Đôi khi điều đó xảy ra mặc bạn... một hôm mặt trời lên
và bạn rơi vào hài hoà với sự tồn tại - rồi bỗng nhiên nó có
đó: cái đẹp của nó, phúc lành của nó, hương thơm của nó,
ánh sáng của nó. Bỗng nhiên nó có đó và bạn có hương vị
của cái đang có đó, cái có thể hiện hữu, cái hiện hữu. Nhưng
khoảnh khắc bạn trở nên tỉnh táo rằng nó có đó, nó đã trôi
qua rồi. Chỉ kí ức là còn lại. Chỉ hiếm khoảnh khắc: đôi khi
trong tình yêu, đôi khi ngắm trăng tròn, đôi khi mặt trời lên,
đôi khi ngồi trong hang núi im lặng, đôi khi nhìn vào đứa trẻ
đang chơi đùa, khúc khích; vâng, đôi khi trong âm nhạc...
Nhưng những khoảnh khắc này là hiếm hoi.
Nếu một người bình thường, cái gọi là con người, mà đạt
tới bẩy khoảnh khắc nhận biết trong toàn bộ cuộc sống của
mình, điều đó sẽ là quá nhiều. Hiếm lắm, rất hiếm hoi, chỉ
một tia sáng đi vào, và thế rồi nó lại đi mất. Còn bạn quay lại
với cuộc sống tầm thường của mình, đờ đẫn và chết. Và điều
này không chỉ vậy với người bình thường, nó là vậy với
những người được gọi là phi thường của bạn.
Mới hôm nọ tôi đã đọc về Carl Jung, một trong những
nhà tâm lí vĩ đại nhất của thời đại này... nhưng đôi khi người
ta tự hỏi liệu có nên gọi những người này là các nhà tâm lí
hay không. Ông ấy là con người rất bất an, hoàn toàn bất an.
Ông ấy không thể nào ngồi im lặng một khoảnh khắc; ông ấy
sẽ quay người, trở mình, ông ấy sẽ làm điều này điều khác.
Nếu không có gì để làm, ông ấy sẽ hút tẩu thuốc, và ông ấy
là người hút hết điếu nọ tới điếu kia. Thế rồi ông ấy bị đau
tim và các bác sĩ nói phải dừng việc hút thuốc, dừng hoàn
toàn. Bây giờ điều đó là rất khó. Ông ấy bắt đầu cảm thấy sự
bất an của mình quá nhiều, ông ấy bắt đầu cảm thấy phát
điên. Ông ấy sẽ đi lại trong trong phòng, ông ấy sẽ đi ra
ngoài, chẳng có lí do gì; ông ấy sẽ ngồi trong chiếc ghế này
ghế nọ. Và thế rồi ông ấy nhận ra sự kiện rằng cái tẩu đã rất,
rất có ích. Đấy là giải thoát, một loại giải thoát khỏi cái bất
an của mình. Cho nên ông ấy hỏi bác sĩ, "Tôi có thể ngậm
chiếc tẩu rỗng trong mồm được không? Điều đó có được
phép không?" - chiếc tẩu rỗng! "Điều đó sẽ có ích cho tôi."
Ông ấy được phép, và thế rồi trong hàng năm ông ấy
quen ngậm chiếc tẩu rỗng trong mồm, chỉ giả vờ rằng ông ấy
hút thuốc. Và thế rồi ông ấy nhìn vào cái tẩu, cầm cái tẩu
trong tay, chơi với cái tẩu. Và đây là về một nhà tâm lí vĩ đại
của thời đại này! Vô ý thức làm sao! Quá nhiều trong việc
ôm giữ thói quen đó, quá nhiều trong việc ôm giữ điều vô ý
thức! - điều đó có vẻ trẻ con. Và thế rồi chúng ta cứ tìm cách
hợp lí hoá; thế rồi chúng ta cứ giả vờ với chính mình, thế rồi
chúng ta cứ bảo vệ và phòng thủ cho mình nhưng tại sao
chúng ta làm điều này.
Vào độ tuổi bốn mươi lăm Carl Jung yêu một phụ nữ.
Ông ấy là một đàn ông đã có gia đình với bà vợ rất đáng yêu.
Chẳng có gì sai cả, nhưng điều đó phải đã là bất an. Chuyện
gần như bao giờ cũng xảy ra là gần độ tuổi bốn mươi lăm,
người ta bắt đầu cảm thấy rằng cả cuộc sống đã trôi qua. Cái
chết đang tới gần hơn, và bởi vì cái chết đang tới gần hơn,
nên hoặc bạn trở thành mang tính tâm linh hoặc bạn trở
thành mang tính dục nhiều hơn.
Đây là hai cách phòng thủ duy nhất: hoặc bạn quay sang
tìm kiếm chân lí, tìm kiếm cái vĩnh hằng không có cái chết,
hoặc bạn bắt đầu nhấn chìm mình vào trong những chuyện
tình ái tưởng tượng. Và đặc biệt là những người trí thức -
những người đã sống cả đời qua cái đầu - là nạn nhân nhiều
hơn vào độ tuổi bốn mươi lăm. Thế thì bản năng dục báo thù.

Nó đã bị chối bỏ; bây giờ cái chết đang tới gần hơn và thế rồi
người ta chẳng bao giờ biết được liệu mình sẽ có lại ở đây
nữa hay không, liệu cuộc sống sẽ có đó hay không. Cái chết
đang tới đây còn bạn đã sống cuộc sống của cái đầu. Bản
năng dục bùng phát với sự báo thù.
Carl Gustav Jung yêu một phụ nữ trẻ. Bây giờ điều đó rất
phản lại danh tiếng của ông ấy. Bà vợ bị khuấy động, và bà
vợ đã yêu ông ấy cực kì và đã tin cậy vào ông ấy. Ông ấy
hợp lí hoá điều đó thật hay. Nhìn vào việc hợp lí hoá của ông
ấy - đó là cách con người vô ý thức cứ sống. Ông ấy sẽ làm
điều gì đó vô ý thức, thế rồi sẽ cố gắng hợp lí hoá nó và sẽ cố
gắng chứng minh rằng điều đó là không vô ý thức: "Tôi đang
làm điều đó rất có ý thức - trong thực tế, điều đó phải được
làm."
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy bỗng nhiên phát triển một lí
thuyết rằng có hai kiểu phụ nữ trên thế giới: một là kiểu
người mẹ, kiểu chăm sóc, kiểu vợ; và kiểu kia, kiểu tình
nhân, người yêu, người trở thành nguồn hứng khởi. Và đàn
ông cần cả hai - và đàn ông kiểu như Carl Gustav Jung chắc
chắn cần cả hai. Ông ấy cần hứng khởi nữa. Ông ấy cần một
phụ nữ chăm sóc; điều đó vợ ông ấy đang thực hiện - bà ấy
đáng yêu, thuộc kiểu người mẹ. Nhưng điều đó không đáp
ứng cho nhu cầu của ông ấy - ông ấy cần hứng khởi nữa, ông
ấy cần một phụ nữ lãng mạn nữa, một tình nhân người có thể
đưa ông ấy vào những giấc mơ sâu; đó là điều phải có với
ông ấy. Jung đã phát triển lí thuyết này... đây là hợp lí hoá.
Bây giờ ông ấy chẳng bao giờ phát triển phần kia của nó,
rằng đàn ông có hai kiểu. Đó là nơi bạn có thể tìm thấy rằng
đó là hợp lí hoá. Nếu đó là sáng suốt thực sự thế thì phần kia,
rằng đàn ông có hai kiểu, kiểu người bố và kiểu người yêu...
thế thì vợ của Jung cũng cần đến hai kiểu! Nếu Jung nghĩ
rằng ông ấy là kiểu người yêu, thế thì bà ấy cần kiểu người
bố; nếu Jung nghĩ ông ấy là kiểu người bố, thế thì bà ấy cần
kiểu người yêu. Nhưng điều đó ông ấy chưa bao giờ phát
triển cả. Đấy là cách bạn có thể thấy nó không phải là sáng
suốt; nó chỉ là một tâm trí thủ đoạn, hợp lí hoá.
Chúng ta cứ hợp lí hoá. Chúng là mọi việc một cách vô ý
thức, chúng ta làm chúng mà không biết tại sao chúng ta
đang làm chúng. Nhưng chúng ta không thể nào chấp nhận
sự kiện này: rất xấu hổ để chấp nhận rằng, "Tôi đã làm điều
gì đó mà tôi lại không nhận biết về điều đó và tôi không biết
tại sao." Nhận biết về việc hợp lí hoá này.
Và làm sao những người như vậy có thể làm lợi được
cho người khác? Chính sự kiện rất nổi tiếng là nhiều bệnh
nhân của Carl Jung đã tự tử. Tại sao? Họ đã tới để được giúp
đỡ, tại sao họ tự tử? Cái gì đó về cơ bản đã phải sai rồi. Việc
phân tích của ông ấy chỉ là điều tệ hại. Ông ấy là con người
rất kiêu ngạo, rất bản ngã, liên tục chỉ chực đánh nhau. Có
thể toàn bộ việc phân tâm của ông ấy đã được phát triển chỉ
vì kiêu ngạo của ông ấy chống lại Sigmund Freud. Có thể
đấy lại chỉ là hợp lí hoá, bởi vì bản thân ông ấy dường như
đang chịu cùng những vấn đề mà ông ấy nghĩ để giúp cho
người khác.
Jung bao giờ cũng rất sợ ma; ngay cả trong tuổi già của
mình ông ấy cũng sợ ma. Ông ấy đã không xuất bản cuốn
sách quan trọng nhất của mình trong khi còn sống bởi vì ông
ấy sợ rằng mọi người sẽ đi tới biết các sự kiện. Cho nên các
truyện kí của ông ấy được xuất bản, nhưng ông ấy đã phải
chắc chắn rằng chúng được xuất bản chỉ khi ông ấy chết. Bây
giờ đây là cái kiểu chân lí và đích thực gì? Ông ấy sợ bị phát
hiện ra là sai, hay trong cái sai, đến mức ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì sự kiện nào được tiết lộ về cuộc sống của
mình trong khi ông ấy còn sống.
Tôi đã đọc một giai thoại...
Một người tới một nhà tâm thần và bắt đầu bộc bạch
trước bác sĩ về lịch sử cuộc sống mình, bao quát các kinh
nghiệm thời niên thiếu của mình, cuộc sống tình cảm, thói
quen ăn uống, vấn đề nghề nghiệp, và đủ mọi thứ người đó
có thể nghĩ tới. "Được," bác sĩ nói, "với tôi dường như chẳng
có gì sai với ông cả. Ông dường như cũng lành mạnh như tôi
vậy."
"Nhưng bác sĩ này," bệnh nhân phản đối, một dấu hiệu
khiếp hãi len vào giọng người đó, "đấy là những con bướm
này. Tôi không thể nào chống lại được chúng. Chúng ở khắp
trên tôi."
"Lạy chúa," bác sĩ kêu lên, nhảy lùi lại, "Chớ có phẩy
chúng lên tôi đấy!"
Bệnh nhân và bác sĩ, tất cả đều trên cùng một thuyền.
Nhà phân tâm và người được phân tích không phải xa xôi gì.
Đấy là trò chơi. Có thể nhà phân tâm còn láu cá hơn, nhưng
không phải là ông ta biết thực tại, bởi vì để biết thực tại thì
bạn sẽ phải trở nên cực kì ý thức; không có cách khác. Vấn
đề không phải là suy nghĩ trí tuệ, điều đó chẳng liên can gì
tới việc triết lí của bạn cả. Để biết thực tại thì người ta phải
trưởng thành trong nhận biết.
Gurdjieff hay nói về tâm lí học tương lai. Ông ấy hay nói
rằng tâm lí học vẫn không tồn tại, bởi vì làm sao nó có thể
tồn tại được? Ngay cả con người cũng không tồn tại! Khi con
người không có đó, làm sao khoa học về con người có thể
tồn tại được? Ngay bây giờ bất kì cái gì tồn tại thì cũng
không phải là tâm lí học. Có thể nó là cái gì đó về cái máy là
con người.
Tâm lí học chỉ có thể tồn tại quanh vị phật. Với tâm thức,
Phật sống. Bạn có thể thấy tâm lí của ông ấy là gì, linh hồn
của ông ấy là gì. Người thường sống không có linh hồn.
Vâng, bạn có thể tìm thấy cái gì đó sai sót trong cái máy của
người đó, và cái sai đó có thể được chữa thành đúng. Điều
chúng ta biết như tâm lí học ngày nay chẳng là gì ngoài chủ
nghĩa hành vi. Và theo nghĩa đó thì Pavlov và Skinner còn
đúng hơn Freud và Jung, bởi vì họ nghĩ con người là máy.
Họ đúng về con người đang tồn tại, mặc dầu họ hoàn toàn
không đúng bởi vì họ nghĩ đây là mục đích, con người không
thể khác được. Đó là giới hạn của họ: họ nghĩ con người chỉ
là máy thôi. Họ là đúng khi có liên quan tới con người hiện
tại ngày nay - con người là máy - nhưng họ nghĩ rằng con
người không thể khác được. Tại đó họ sai. Nhưng Freud và
Jung và Adler còn sai hơn bởi vì họ nghĩ con người đã có
trên trái đất này; tất cả mọi điều bạn cần là nghiên cứu con
người và bạn sẽ biết. Nhưng con người không có đó. Đấy là
một hiện tượng rất vô ý thức.
Con người là huyền thoại. Bạn để điều đó là một trong
những sáng suốt cơ bản nhất. Nó sẽ giúp bạn thoát ra khỏi
dối trá, thoát ra khỏi lừa dối.
Mật tông là nỗ lực để làm cho bạn ý thức hơn. Chính từ
Mật tông (Tantra) có nghĩa là mở rộng của nhận biết. Nó bắt
nguồn từ gốc tiếng Phạn tan: tan có nghĩa là mở rộng. Mật
tông có nghĩa là sự mở rộng của tâm thức - và sự kiện cơ sở
và sự kiện nền tảng nhất cần được hiểu là ở chỗ bạn đang
ngủ say. Bạn phải được đánh thức dậy.
Mật tông tin vào các phương pháp trường phái: điều đó
cũng phải được hiểu. Theo nghĩa đó Gurdjieff là một trong những người mật tông vĩ đại nhất của thời đại này. Chẳng
hạn, nếu một người đang ngủ, có rất ít khả năng người đó có
thể trở nên thức tỉnh một mình. Nhìn vào điều đó theo cách
này: vào ngày đầu năm bạn nghĩ như bạn bao giờ cũng
nghĩ... và nhiều ngày đầu năm đã trôi qua, và bao giờ bạn
cũng đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ không bao giờ hút thuốc
lại nữa; và lần nữa năm mới lại tới và bạn bắt đầu nghĩ lần
này điều đó sắp xảy ra. Bạn đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ
không bao giờ hút thuốc, nhưng bạn không đi nói điều đó
cho người khác, bạn sợ việc nói. Nói điều đó cho người khác
là nguy hiểm bởi vì bạn biết mình, nhiều lần bạn đã phá bỏ
lời nguyện rồi; thế thì điều đó rất xấu hổ. Cho nên bạn giữ
điều đó cho mình. Bây giờ chỉ có một khả năng trong một
trăm khả năng là lời nguyện sẽ được giữ; chín mươi chín khả
năng là nó sẽ bị phá bỏ chẳng chóng thì chầy.
Bạn là người vô ý thức; lời nguyện của bạn chẳng có
nghĩa gì nhiều. Nhưng nếu bạn đi và bạn nói cho mọi người
trong thành phố - bạn bè, đồng nghiệp, con cái, vợ... bạn đi
và bảo với mọi người, "Tôi đã nguyện là tôi sẽ không hút
thuốc nữa," có nhiều khả năng, ít nhất là mười phần trăm,
rằng bạn sẽ không hút thuốc. Lần đầu chỉ có một phần trăm,
bây giờ có mười khả năng. Chín mươi phần trăm khả năng là
bạn sẽ hút thuốc, nhưng việc không hút thuốc có nền tảng
hơn, vững chắc hơn; từ một phần trăm nó đã lên tới mười
phần trăm. Nhưng nếu bạn tham gia vào một nhóm người
không hút thuốc, nếu bạn tham gia vào một đoàn thể những
người không hút thuốc, thế thì khả năng thậm chí còn nhiều
hơn: chín mươi chín phần trăm là khả năng bạn sẽ không hút
thuốc. Điều gì xảy ra?
Khi bạn một mình, bạn không có hỗ trợ nào từ bên ngoài
- bạn một mình, bạn có thể rơi vào giấc ngủ dễ dàng. Và
chẳng ai biết cả, cho nên bạn cũng không lo nghĩ. Khi tất cả
đều biết, việc biết của họ sẽ vận hành để giữ cho bạn tỉnh táo
hơn. Bây giờ bản ngã của bạn đang lâm nguy, kính trọng và
tôn trọng với bạn đang lâm nguy. Nhưng nếu bạn gia nhập
một đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì khả năng
còn nhiều hơn, bởi vì bạn sống qua thói quen. Ai đó rút bao
thuốc lá ra khỏi túi, và bỗng nhiên bạn bắt đầu nhìn vào túi
mình. Bạn chỉ như cái máy: ai đó hút thuốc và bạn bắt đầu
nghĩ hút thuốc cũng hay làm sao. Không ai hút thuốc, và bạn
trong đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì không
ai nhắc nhở bạn cả; và thói quen này dần dần sẽ biến mất, vì
không dùng tới. Nếu một thói quen không được dùng tới,
dần dần nó biến mất; nó có khuynh hướng trở nên chết, nó
mất níu bám vào bạn.
Mật tông nói: con người có thể trở nên thức tỉnh chỉ qua
phương pháp nhóm, qua trường phái. Đó là lí do tại sao tôi
nhấn mạnh nhiều vào tính chất sannyas. Một mình, bạn
không chống lại được cơ hội. Cùng nhau, có nhiều khả năng
hơn. Cũng dường như là có mười người bị lạc trong sa mạc
và rất nguy hiểm trong đêm: kẻ thù có thể giết họ, thú hoang
có thể giết họ, cướp có thể tới, kẻ giết người có thể thấy - rất
khó khăn. Bây giờ họ quyết định theo phương pháp nhóm,
họ nói: "Mỗi người sẽ thức trong một tiếng." Cho rằng từng
người sẽ vẫn còn thức tỉnh cả tám tiếng trong đêm là đòi hỏi
quá nhiều với người vô ý thức, nhưng từng người sẽ vẫn còn
thức tỉnh trong một tiếng. Và trước khi người đó bắt đầu rơi
vào giấc ngủ, người đó nên làm cho ai đó khác thức dậy, thế
thì có nhiều khả năng là ít nhất một người trong nhóm sẽ có
khả năng thức cả đêm.
Hay như Gurdjieff hay nói: Bạn đang trong tù và bạn
muốn thoát ra khỏi nhà tù. Một mình không mấy cơ may;
nhưng nếu tất cả các tù nhân trở thành một nhóm, thế thì có
nhiều cơ may hơn - họ có thể ném vào lính gác, họ có thể giết lính gác, họ có thể phá vỡ tường. Nếu tất cả các tù nhân
đều cùng nhau, thế thì có nhiều cơ may là họ có thể thoát tù,
được tự do.
Nhưng cơ may sẽ tăng lên thậm chí còn nhiều hơn nữa
nếu họ có tiếp xúc với vài người ở ngoài nhà tù, người đã tự
do. Đó là toàn bộ ý nghĩa của việc tìm ra thầy: tìm ra một ai
đó đã ở ngoài nhà tù. Người đó có thể là sự giúp đỡ vô biên,
bởi nhiều lí do. Người đó có thể cung cấp những điều cần
thiết, những điều sẽ cần cho bạn để thoát ra khỏi nhà tù;
người đó có thể gửi các dụng cụ, giũa, để cho bạn có thể phá
vỡ nhà tù. Người đó có thể quan sát từ bên ngoài và người đó
có thể thông báo cho bạn khi nào đổi gác; trong khoảng giữa
đó có khả năng để thoát ra. Người đó có thể thông báo cho
bạn khi nào lính gác ngủ say trong đêm. Người đó có thể thu
xếp để cho lính gác uống rượu say vào một đêm đặc biệt,
người đó có thể mời cai tù tới nhà mình dự tiệc; người đó có
thể làm cả nghìn lẻ một điều mà bạn không thể làm được từ
bên trong. Người đó có thể tìm ra sự hỗ trợ cho bạn từ bên
ngoài. Người đó có thể tạo ra bầu không khí để cho khi bạn
được thoát ra khỏi tù thì bạn sẽ được mọi người chấp nhận,
bạn sẽ có chỗ ở, được đón vào nhà. Nếu xã hội không sẵn
sàng chấp nhận bạn từ bên ngoài, có thể thoát khỏi giam cầm
nhưng xã hội sẽ tống bạn trở lại vào tay giới coi giữ nhà tù.
Tiếp xúc với ai đó đã thức tỉnh là một điều cần thiết. Và
ở cùng với những người mà tất cả họ đều nghĩ tới việc trở
nên thức tỉnh cũng là điều cần thiết. Đây là ý nghĩa của
phương pháp trường phái, phương pháp nhóm. Mật tông là
phương pháp nhóm. Nó nói: Ở cùng nhau, tìm ra tất cả các
khả năng. Cho nên nhiều người có thể ở cùng và họ có thể
chung năng lượng. Ai đó rất thông minh và ai đó rất đáng
yêu - cả hai đều một nửa, nhưng ở cùng nhau thì họ trở nên
thống nhất hơn, toàn thể hơn.
Đàn ông là một nửa, đàn bà là một nửa. Ngoại trừ Mật
tông, tất cả những người tìm kiếm đều cố gắng tìm kiếm mà
không có người khác. Đàn ông đã cố gắng một mình, đàn bà
đã cố gắng một mình. Mật tông nói: Sao không ở cùng nhau,
tay nắm tay nhau? đàn bà là một nửa, đàn ông là một nửa -
cùng nhau họ là một năng lượng lớn hơn, một năng lượng
toàn thể hơn, năng lượng lành mạnh hơn. Gắn lại với nhau!
Để âm và dương vận hành cùng nhau. Sẽ có nhiều khả năng
hơn để thoát ra khỏi nó.
Các phương pháp khác dùng tranh đấu và xung đột. Đàn
ông bắt đầu đánh nhau với đàn bà, bắt đầu trốn thoát khỏi
đàn bà; thay vì dùng khả năng của giúp đỡ thì người đó bắt
đầu nghĩ đàn bà như kẻ thù. Mật tông nói đây là điều cực kì
ngu xuẩn, bạn đang phí hoài năng lượng của mình một cách
không cần thiết để đánh nhau với đàn bà, bởi vì có những
điều lớn lao hơn cần phải được tranh đấu với! Tốt hơn cả là
cùng đi với đàn bà; để cho cô ấy giúp bạn, và bạn giúp cô ấy.
Đi cùng nhau như một đơn vị và các bạn có nhiều cơ may
hơn để chống lại bản tính vô ý thức.
Dùng mọi khả năng; chỉ thế thì mới có cơ may nào đó là
mà bạn có thể tiến hoá thành sinh linh có ý thức, bạn có thể
trở thành vị phật.
Bây giờ lời kinh... đây là lời kinh rất có ý nghĩa. Lời kinh
thứ nhất:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Điều đầu tiên: như tôi đã nói, con người là cái máy. Con
người sống theo thói quen, theo quá khứ, theo kí ức; con người sống từ tri thức mà mình đã biết, đã thu nhận từ trước.
Cho nên người đó cứ bỏ lỡ cái mới, còn chân lí thì bao giờ
cũng là cái mới. Người đó giống như ruồi thích mùi thịt ôi,
mùi hôi hám và hôi thối; hương thơm của gỗ đàn là hôi hám
với con ruồi. Ruồi có sắc thái kí ức nào đó, quá khứ nào đó;
nó bao giờ cũng nghĩ rằng mùi thối rữa của thịt là mùi thơm.
Đó là tri thức của nó, đó là thói quen của nó, đó là lệ thường
của nó - đó là quá khứ chết của nó. Bây giờ bỗng nhiên nó
bắt gặp gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương với
con ruồi cứ dường như là mùi rất hôi và thối.
Bạn đừng ngạc nhiên... đó là điều xảy ra cho bạn. Nếu
bạn đã sống quá nhiều trong thân thể, thế thì thậm chí có tới
gần hơn với người sống trong linh hồn, bạn vẫn cứ cảm thấy
cái gì đó sai. Tới với vị phật, bạn sẽ không cảm thấy hương
thơm; bạn thậm chí có thể bắt đầu cảm thấy mùi hôi. Cách
diễn giải của bạn... bằng không thì tại sao mọi người giết
chết Jesus? Jesus là gỗ đàn hương! và mọi người đơn giản đã
giết chết ông ấy. Tại sao mọi người lại đầu độc Socrates?
Socrates là gỗ đàn hương! Nhưng ruồi - chúng hiểu quá khứ
riêng của mình, chúng diễn giải theo quá khứ của chúng.
Một hôm tôi đọc thấy...
Một gái mãi dâm, gái mãi dâm nổi tiếng nhất của thành
Athens, có lần tới gặp Socrates. Và vài người đang ngồi đó,
chỉ vài người, cũng như ở đây có vài người ngồi, còn
Socrates đang nói với họ. Gái mãi dâm này nhìn quanh và
nói với Socrates, "Sao vậy? - một người vĩ đại như ông, và
lại chỉ ít người nghe ông thế? Tôi cứ nghĩ cả thành Athens
này phải ở đây cơ đấy! Mà tôi chẳng thấy người đáng kính
nhất, người đáng trọng nhất ở đây - các chính khách, các tu
sĩ, các nhà trí thức - tôi không thấy họ ở đây. Có vấn đề gì
vậy? Một ngày nào đó, Socrates, ông tới nhà tôi; ông sẽ thấy
họ đứng xếp hàng ở đó!"
Socrates nói, "Cô phải đấy - bởi vì cô có thể mua vui cho
đòi hỏi đại chúng. Tôi thì không. Tôi chỉ hấp dẫn có vài
người, vài người được chọn lọc. Những người khác không
thể cảm thấy hương thơm của tôi được, họ lẩn tránh! Cho dù
họ có tới với tôi, họ cũng chuồn thôi, họ sợ. Nó là một hương
thơm hoàn toàn khác," Socrates nói.
Gái mãi dâm này phải cực kì thông minh. Cô ta nhìn vào
trong mắt của Socrates, cúi mình xuống và nói, "Socrates,
xin hãy chấp nhận tôi làm một trong những người bạn của
ông," và chẳng bao giờ rời đi, trở thành một phần của nhóm
nhỏ đó.
Phải là một phụ nữ của nhận biết lớn lao... cho nên bỗng
nhiên có sự thay đổi, cô ấy đã hiểu điều đó ngay lập tức!
Nhưng Athens đã giết chết Socrates, họ đã không thích con
người này. Con người này có vẻ rất nguy hiểm. Có nhiều lời
buộc tội chống lại ông ấy. Một lời buộc tội là ông ấy phá huỷ
niềm tin của mọi người, ông ấy phá huỷ tâm trí thanh niên,
rằng ông ấy là vô chính phủ, rằng nếu ông ấy được phép
sống lâu thêm nữa thì xã hội sẽ bị mất gốc. Ông ấy là kẻ thù
nguy hiểm.
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy đã làm điều gì đó hoàn toàn
khác: ông ấy đã cố gắng tạo ra trạng thái vô trí. Nhưng mọi
người nghĩ, "Ông ta phá huỷ tâm trí mọi người." Họ cũng
phải, những con ruồi ấy. Vâng, thanh niên cực kì bị hấp dẫn
tới Socrates - bởi vì chỉ thanh niên mới có thể bị hấp dẫn tới
những điều như vậy. Chỉ thanh niên mới có dũng cảm đó.
Ngay cả người già tới tôi hay tới Socrates, họ cũng chỉ là
thanh niên; đó là lí do tại sao họ lại tới, bằng không thì họ
không thể tới được. Tâm trí già cỗi, mục nát không thể tới tôi được. Có thể thân thể là già, nhưng nếu một ông già tới tôi
hay một bà già, bà ấy chỉ tới bởi vì bà ấy vẫn có tính thanh
niên của linh hồn mình, bà ấy vẫn còn trẻ ở đâu đó; bà ấy
vẫn có khả năng hiểu cái mới, học cái mới. Họ nói bạn
không thể dạy một con chó già những trò mới... điều đó rất
khó; con chó già biết các trò cũ và nó cứ lặp lại chúng. Rất
khó dạy điều gì cho tâm trí cũ.
Và những điều này mới khác biệt triệt để thế, đối lập qua
đường kính với tất cả những điều mà đã từng được dạy cho
bạn, đến mức chừng nào một người còn chưa thực sự trẻ thì
người đó thậm chí không thể nào lắng nghe được. Cho nên
người trẻ bị hấp dẫn. Đó là dấu hiệu rằng cái gì đó của vĩnh
hằng, cái gì đó của tính trẻ vĩnh hằng của vũ trụ đang trào ra
qua Socrates.
Khi Jesus còn sống bạn sẽ thấy thanh niên theo ông ấy.
Bạn sẽ không thấy thanh niên tới gặp giáo hoàng; người già,
người sắp chết, người chết từ rất lâu, lâu rồi... họ tới gặp giáo
hoàng. Khi Shankaracharya nguyên thuỷ còn sống bạn sẽ tìm
thấy thanh niên tất cả quanh ông ấy. Nhưng với
shankaracharya của Puri thì chỉ các thân thể chết, các xác
chết lắng nghe. Những người sống đâu? - bạn không thể tìm
thấy họ được.
Bạn có thể đi và nhìn vào trong bất kì ngôi đền nào và
bạn sẽ thấy những bà già và ông già; thanh niên không có đó.
Trong thực tế, bất kì khi nào tôn giáo thực sự có đó, thanh
niên bị hấp dẫn; khi chân lí có đó, thanh niên bị hấp dẫn. Khi
chỉ có dối trá còn lại - học thuyết, giáo điều, tín điều - thế thì
người già tới. Khi thanh niên bị hấp dẫn, điều đó có nghĩa là
chân lí là trẻ và thanh niên bị hấp dẫn. Khi chân lí già, gần
chết, thế thì người gần chết bị hấp dẫn.
Người già bị hấp dẫn chỉ bởi vì sợ chết. Trong tuổi già
thậm chí kẻ vô thần cũng trở thành hữu thần... sợ hãi. Khi
thanh niên được hấp dẫn tới cái gì đó, đấy không phải bởi vì
sợ chết bởi vì người đó chưa biết gì về cái chết cả; đấy là vì
tình yêu cực kì với cuộc sống. Và đó là khác biệt giữa tôn
giáo thật và tôn giáo không thật. Tôn giáo không thật là
hướng cái sợ. Tôn giáo thật là hướng tình yêu.
Bạn phải đã nghe... trong mọi ngôn ngữ của thế giới cái
từ xấu xí đó tồn tại: Sợ thượng đế. Từ đó phải đã được đặt ra
bởi những người chết, đờ đẫn, người già. Sợ Thượng đế sao?
Làm sao người ta có thể sợ Thượng đế được? Và nếu bạn sợ
Thượng đế, làm sao bạn có thể yêu ngài được? Từ sợ, bạn có
thể chống lại Thượng đế, bởi vì ngài sẽ là kẻ thù của bạn;
làm sao bạn có thể yêu ngài được? Và nếu bạn yêu ngài, làm
sao bạn có thể sợ ngài được? Bạn có bao giờ sợ người bạn
yêu không? Bạn có bao giờ sợ mẹ mình nếu bạn yêu mẹ
không? Bạn có bao giờ sợ người đàn bà nếu bạn yêu người
đó không? Nếu bạn yêu, không có sợ; tình yêu xoá đi mọi sợ.
Yêu Thượng đế... lãng mạn trong tình yêu với Thượng đế...
cực lạc trong tình yêu với Thượng đế...
Nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ trung. Dù tâm
trí trẻ là ở trong thân thể trẻ hay trong thân thể già, điều đó
không liên quan - nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ
trung. Bây giờ Socrates bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp
dẫn thanh niên. Phật bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp dẫn
thanh niên. Nhưng bạn bao giờ cũng nhớ: bất kì khi nào một
tôn giáo được sinh ra, thanh niên cũng xô tới từ mọi góc trên
thế giới.
Họ phải là biểu tượng cho cái gì đó đã xảy ra. Khi người
già xô về cái gì đó, bạn có thể chắc chắn chẳng cái gì xảy ra ở đấy cả, đấy không phải là nơi hành động diễn ra! Nơi thanh
niên đi tới, đó là nơi hành động diễn ra. Nhưng:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Chân lí là điều không biết, bí ẩn. Bạn không thể tiếp cận
nó qua thói quen quá khứ của mình. Bạn có thể tiếp cận nó
chỉ khi bạn lột bỏ hết mọi thói quen.
Áo choàng của các linh mục Ki tô giáo được gọi là habit
- nó là việc dùng hay cho từ habit. Vâng, tôi nói, khi bạn trần
trụi với mọi thói quen (habit), trần trụi với mọi loại áo, mọi
trang phục đều bị vứt bỏ, bạn hành động không qua kí ức mà
qua nhận biết... Đây là hai chức năng khác nhau. Bạn hành
động qua kí ức, thế thì bạn không thấy cái đang đó; bạn cứ
thấy cái bạn đã thấy trước đây. Bạn cứ diễn giải hiện tại dưới
dạng của quá khứ, bạn cứ áp đặt điều gì đó không có đó; bạn
cứ thấy những thứ không có, và bạn cứ không thấy những cái
đang có. Kí ức phải bị gạt sang bên. Kí ức là tốt,dùng nó,
nhưng chân lí chưa bao giờ được biết tới qua kí ức cả. Làm
sao bạn có thể biết chân lí qua kí ức được? Bạn chưa bao giờ
biết tới chân lí trong quá khứ.
Chân lí là điều không biết. Chân lí là vị khách lạ. Bạn sẽ
phải gạt tất cả mọi kí ức sang bên; bạn sẽ phải nói với tâm
trí, "Im đi, để cho ta thấy mà không có mi! Để ta nhìn chỉ với
sự sáng tỏ, không với đôi mắt vẩn đục: không ý nghĩ, không
niềm tin, không kinh sách, không triết lí, không tôn giáo. Để
ta nhìn trực tiếp, ngay lập tức! Để ta nhìn ở đây bây giờ, để
ta nhìn vào trong cái đang đương đầu với ta." Chỉ thế thì bạn
mới hài hoà với bí ẩn của chân lí.
Và nhớ: chân lí chưa bao giờ trở thành kí ức cả. Ngay cả
khi bạn đã biết nó, nó cũng chẳng bao giờ trở thành kí ức.
Chân lí bao la thế, nó không thể nào bị hàm chứa bởi kí ức.
Và bất kì khi nào nó có đó, bạn sẽ biết nó, nó sẽ lại là mới.
Nó chưa bao giờ cũ cả, nó bao giờ cũng mới, nó bao giờ
cũng tươi mát. Đó là một trong những phẩm chất của nó,
rằng nó không bao giờ trở nên cũ đi. Nó bao giờ cũng trẻ
trung.
Cho nên nếu bạn muốn biết chân lí, Saraha nói với nhà
vua, "Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn biết chân lí của
điều đang xảy ra cho ta, xin bệ hạ gạt tâm trí mình sang bên.
Ta biết bệ hạ chỉ giống như ruồi; bệ hạ đã sống trong thân
thể và tâm trí, bệ hạ không biết gì bên ngoài chúng. Ta đang
đứng đây; ta ở ngoài cả hai. Và không có cách nào để giải
thích điều đó cho bệ hạ tương ứng theo tâm trí của bệ hạ;
không, điều đó không thể được giải thích. Nếu bệ hạ thực sự
muốn kinh nghiệm nó, bệ hạ có thể kinh nghiệm nó, nhưng
nó không thể nào được giải thích."
Thượng đế không thể nào được định nghĩa. Thượng đế
không thể nào được giải thích. Xin nhớ: chớ bao giờ giải
thích điều đó, bởi vì nếu bạn giải thích nó, bạn sẽ giải thích
nó xa xôi đi. Thượng đế không thể nào bị hàm chứa bởi bất
kì ý nghĩ nào. Nhưng Thượng đế có thể được sống, Thượng
đế có thể được yêu. Bạn có thể trở thành thượng đế! - đó là
điều có thể - nhưng tâm trí không thể nào chứa đựng được
Thượng đế. Tâm trí là cái bình chứa rất nhỏ, nó giống như
chiếc thìa trà vậy - và bạn muốn có Thái bình dương trong
chiếc thìa trà sao? Vâng, bạn có thể có chút ít nước mặn
trong chiếc thìa trà của mình, nhưng điều đó sẽ không cho ý
tưởng về Thái bình dương, về sự bao la. Bão tố sẽ không xảy
ra trong chiếc thìa trà của bạn, sóng lớn sẽ không phát sinh.
Vâng, vị nó thì giống thế, nhưng nó sẽ không là đại dương.

Saraha nói: Nếu bệ hạn muốn thấy ta, bệ hạ sẽ phải gạt
tâm trí mình sang bên. Bệ hạ có tâm trí của ruồi. Bệ hạ có
những thói quen nào đó về suy nghĩ, về cảm giác, bệ hạ có
thói quen sống nào đó. Bệ hạ đã sống một cuộc sống của
thân thể và tâm trí, và nhiều nhất bất kì cái gì bệ hạ đã biết
cho tới giờ đều chỉ do bệ hạ nghe thấy, bệ hạ đã đọc kinh
sách... Bản thân Saraha đã đọc kinh sách cho nhà vua trước
đây, anh ta biết điều đó rõ lắm. Anh ta biết điều nhà vua biết:
tri thức của anh ta chỉ là thông tin. Saraha nói: Điều đó đã
xảy ra cho ta! Nhưng để thấy điều đó bệ hạ sẽ cần phẩm chất
thấy khác.
Tâm trí không bao giờ gặp chân lí cả, không bao giờ
đương đầu với chân lí. Con đường của tâm trí và con đường
của chân lí là hoàn toàn tách rời. Nó là thực tại tách rời. Do
đó nhấn mạnh của mọi nhà huyền môn trên thế giới là đạt tới
trạng thái vô trí. Đó là điều thiền tất cả là gì: trạng thái vô trí,
trạng thái không suy nghĩ - vậy mà đầy nhận biết, chói sáng
với nhận biết. Khi không có một ý nghĩ, bầu trời của bạn
sạch mây, và thế thì mặt trời bừng sáng.
Thông thường chúng ta bị che phủ bởi nhiều ý nghĩ, ham
muốn, tham vọng, mơ mộng đến mức mặt trời không thể
chiếu sáng được. Nó bị che khuất đằng sau những đám mây
đem đó: ham muốn là đám mây, ý nghĩ là đám mây, tưởng
tượng là đám mây, và người ta cần được quang đãng để biết
cái đang đó.
Saraha nói:
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Luân hồi (samsara) có nghĩa là sống như thân thể, như
tâm trí, như bản ngã. Luân hồi nghĩa là sống hướng ngoại,
luân hồi nghĩa là sống với mọi vật. Luân hồi nghĩa là sống
với ý tưởng rằng tất cả đều là vật chất và chẳng có gì khác.
Luân hồi nghĩa là ba chất độc: sức mạnh, danh vọng, thế lực
- sống trong thế giới với ý tưởng có nhiều sức mạnh hơn,
nhiều danh vọng hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều thế lực
hơn...thế này và thế nọ; sống trong đồ vật và vì đồ vật. Đó là
ý nghĩa của từ luân hồi - thế giới.
Quan sát bản thân mình: bạn đã bao giờ sống với con
người hay bạn sống chỉ với đồ vật? Vợ bạn là người hay đồ
vật? Chồng bạn là người hay đồ vật? Bạn đối xử với chồng
mình như một con người, như một người có giá trị bản chất,
tuyệt vời, hay chỉ như một thứ tiện dụng, rằng anh ta là
người cung cấp bánh mì và bơ, hay rằng cô ta là người nội
trợ, chăm sóc con cái? Vợ bạn có là mục đích tự thân hay cô
ấy chỉ là một thứ tiện dụng, một món hàng để được dùng?
Đôi khi bạn dùng cô ấy về mặt dục, đôi khi bạn dùng cô ấy
theo cách khác - nhưng việc dùng người đó có nghĩa là người
đó là một vật với bạn, không phải là người.
Người không thể được dùng; chỉ vật mới có thể được
dùng. Người không thể bị mua bán; chỉ vật mới có thể được
mua bán. Người có giá trị vô cùng thế, thiêng liêng thế, nhân
phẩm thế - làm sao bạn có thể dùng một người được? Vâng,
người đó có thể cho tình yêu của mình, nhưng bạn không thể
dùng được. Và bạn phải biết ơn. Bạn đã bao giờ cám ơn vợ
mình chưa? Bạn đã bao giờ cám ơn bố bạn, mẹ bạn chưa?
Bạn đã bao giờ cám ơn bạn bè mình chưa? Đôi khi bạn cám
ơn người lạ nhưng chẳng bao giờ cám ơn những người của
riêng mình, bởi vì bạn coi họ như có sẵn.
Sống với đồ vật là sống trong luân hồi.
Sống với người là sống trong niết bàn. 

Và một khi bạn bắt đầu sống với người, mọi đồ vật biến
mất. Thông thường ngay cả người cũng bị thu về đồ vật, còn
khi người bắt đầu trở nên thiền thì ngay cả đồ vật cũng bắt
đầu trở thành người; ngay cả cây cối cũng trở thành người,
tảng đá cũng trở thành người. Mọi thứ dần dần bắt đầu có
nhân tính, bởi vì Thượng đế lan toả khắp mọi sự tồn tại.
Saraha nói: Tâu bệ hạ, bệ hạ đã sống trong luân hồi và bệ
hạ không thể hiểu được con đường của niết bàn. Nếu bệ hạ
thực sự muốn hiểu nó, bệ hạ sẽ phải sống nó, không có cách
khác. Để biết, bệ hạ sẽ phải nếm trải cái gì đó của nó. Và ta ở
đây, đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu giải thích!
Niết bàn đang đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu các
lí thuyết. Không chỉ điều đó - bệ hạ phải hoàn toàn mù quáng
- bệ hạ đã tới để thuyết phục ta quay lại với luân hồi của bệ
hạ! Ruồi đang thuyết phục ta rời bỏ rừng đàn hương cùng
hương thơm của nó để lấy mùi ôi thiu của thịt.
"Bệ hạ có điên không đấy?" Saraha nói với nhà vua. "Để
ta thuyết phục bệ hạ tới thế giới của ta thay vì bệ hạ thuyết
phục ta tới thế giới của bệ hạ. Ta đã biết thế giới của bệ hạ
và ta đã biết thực tại mới này nữa; ta có thể so sánh được. Bệ
hạ chỉ biết mỗi thế giới của mình; bệ hạ không biết thực tại
của ta, bệ hạ không thể so sánh được."
Khi vị phật nói thế giới này là ảo tưởng, thiền về điều đó,
bởi vì ông ấy đã biết thế giới này nữa. Khi người vô thần nào
đó, người duy vật, người cộng sản nào đó nói rằng thế giới
của niết bàn chỉ là ảo tưởng, không cần phải bận bâm về điều
đó chút nào, bởi vì người đó vẫn còn chưa biết nó. Người đó
chỉ biết thế giới này; bạn không thể tin cậy vào câu trả lời
của người đó về thế giới khác được. Người đó chưa bao giờ
thiền, người đó chưa bao giờ đi vào trong nó.
Nhìn vào nó đi: nhìn vào tất cả những người đã thiền,
không nhìn vào chỉ một người đã chối bỏ thực tại bên trong.
Không vào chỉ một người! Không một ngoại lệ nào, tất cả
các thiền nhân đều đã trở thành nhà huyền môn. Những
người còn chưa thiền, họ chỉ biết tới thế giới của ruồi và thế
giới của mùi hôi hám và hôi thối của thịt ôi. Họ sống trong
thế giới mục nát của đồ vật, nhưng họ chỉ biết điều đó, và
chắc chắn phát biểu của họ không thể nào tin cậy được. Một
Phật có thể được tin cậy, một Christ có thể được tin cậy, một
Mahavira có thể được tin cậy; họ đã biết cả hai. Họ đã biết
cái thấp hơn và cái cao hơn, và bởi việc biết cái cao hơn mà
họ nói điều gì đó về cái thấp hơn phải được thiền. Bạn đừng
bác bỏ thẳng thừng.
Chẳng hạn: Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, họ chưa
bao giờ thiền cả, và họ nói không có Thượng đế. Bây giờ
điều đó cũng gần như là một người chưa bao giờ tới phòng
thí nghiệm của nhà khoa học và nói điều gì đó về khoa học.
Một người chưa bao giờ đi vào phòng thí nghiệm và nói rằng
lí thuyết tương đối chỉ là vật thờ mù quáng, điều đó không
thể tin được. Bạn phải tới phòng thí nghiệm, bạn phải đi vào
trong toán học cao cấp, bạn phải chứng minh nó! Chỉ bởi vì
bạn không thể hiểu nó nên bạn không thể được phép chối bỏ
nó.
Có rất ít người hiểu lí thuyết tương đối. Người ta nói
rằng khi Einstein còn sống chỉ có mười hai người đang sống
hiểu lí thuyết của ông ấy, trên khắp thế giới. Và có vài người
nghĩ rằng đấy là điều phóng đại, số đó là không đúng: thậm
chí mười hai người cũng không có đó để mà hiểu đúng lí
thuyết của ông ấy. Nhưng bởi vì điều đó bạn không thể nói
nó là không đúng; bạn không thể bỏ phiếu về nó, bạn không
thể làm thất bại nó qua bầu cử. Bạn sẽ phải đi qua cùng
những quá trình đó.

Bây giờ Marx nói không có Thượng đế chỉ đơn giản là
một phát biểu ngu xuẩn... Chưa bao giờ thiền, chưa bao giờ
suy tư, chưa bao giờ cầu nguyện - phát biểu của ông ấy
chẳng liên can gì. Những người đã thiền, những người đã
đào sâu chút ít vào trong bản thể mình, họ đều đi tới cùng
chân lí.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Saraha đang nói: Bệ hạ vứt bỏ niết bàn và bệ hạ cứ chạy
xô theo ảo tưởng. Bệ hạ đã tới thuyết phục ta, thưa bệ hạ?
Xin nhìn ta đây, ta cực lạc làm sao! Nhìn ta đây; ta không
phải là cùng con người đã rời bỏ triều đình của bệ hạ, ta là
một người hoàn toàn khác.
Anh ta đang cố gắng đưa nhận biết của nhà vua về
khoảnh khắc hiện tại, và anh ta đã thành công. Anh ta phải
đã là một con người của sự hiện diện vĩ đại. Anh ta kéo nhà
vua ra khỏi thế giới của ruồi nhặng, ra khỏi thế giới của thịt
ôi. Anh ta kéo nhà vua tới thế giới của gỗ đàn hương và
hương thơm của nó.
Lời kinh thứ hai:
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Anh ta nói: Nhìn đây! Một con bò đã bước qua, và còn
dấu chân trên đất, và dấu chân này ngập đầy nước, nước
mưa. Nó sẽ có đó bao lâu? Chẳng chóng thì chầy nước sẽ
bay hơi, và dấu chân bò đầy nước sẽ không còn đó chút nào
nữa. Nhưng đại dương bao giờ cũng hiện hữu. Mặc dầu nước
trong dấu chân bò cũng là từ đại dương, cái gì đó vẫn khác.
Đại dương bao giờ cũng còn lại, không hề tăng, không
hề giảm. Những đám mây lớn nảy sinh ra từ nó, nó chưa bao
giờ giảm. Những dòng sông lớn đổ nước vào nó, nó chưa
bao giờ tăng. Nó bao giờ cũng còn như cũ. Nhưng dấu chân
nhỏ này của con bò thì đầy nước bây giờ đấy; trong vài giờ
hay vài ngày nó sẽ biến mất, nó sẽ khô đi. Bộ óc của tâm trí
con người cũng vậy: nó chỉ là một dấu chân bò, một thứ nhỏ
bé thế. Chỉ chút ít nước có đó - đừng tin cậy vào nó nhiều, nó
đang khô di rồi, nó sẽ biến mất. Bộ óc là thứ rất nhỏ bé...
đừng nghĩ rằng bạn có thể chứa vũ trụ này trong bộ óc. Và
nó chỉ có thể là tạm thời, nó chẳng thể nào là vĩnh hằng
được.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Bạn đang giữ cái gì trong bộ óc nhỏ bé của mình? Nội
dung của nó là gì? Ham muốn, mơ mộng, tham vọng, ý nghĩ,
tưởng tượng, ý chí, xúc động - đây là những vật bạn đang giữ
như nội dung. Chúng tất cả sẽ khô đi, mọi nội dung sẽ khô
đi. Cho nên thay đổi nhấn mạnh từ những nội dung đó và
đừng nhìn vào nội dung đó. Bầu trời đầy mây, đừng nhìn vào
mây, nhìn vào bầu trời. Đừng nhìn vào cái có trong đầu bạn,
cái có trong tâm trí bạn; chỉ nhìn vào tâm thức bạn. Xúc
động có đó, giận dữ có đó, tình yêu có đó, tham lam có đó,
sợ có đó, ghen có đó - đây là nội dung. Chỉ ngay sau chúng
là bầu trời vô hạn của tâm thức. 

Người sống qua nội dung thì sống cuộc sống của cái
máy. Còn người bắt đầu thay đổi nhấn mạnh của mình từ nội
dung sang bình chứa thì bắt đầu sống cuộc sống của nhận
biết, của phật tính.
Và Saraha nói: Tâu bệ hạ, những nội dung này mà bệ hạ
có trong tâm trí sẽ sớm khô di. Bệ hạ nhìn vào dấu chân bò
kia! Đầu bệ hạ không lớn hơn cái đó, bộ óc không lớn hơn
cái đó. Nhưng tâm thức bệ hạ là vô hạn.
Bây giờ điều này phải được hiểu: xúc động là trong đầu
bạn, nhưng tâm thức không trong đầu bạn. Trong thực tế đầu
bạn là trong tâm thức bạn! Tâm thức là bao la, vô hạn. Xúc
động, ham muốn, tham vọng là trong đầu bạn; chúng sẽ khô
đi. Nhưng ngay cả khi đầu bạn đã hoàn toàn bị vứt bỏ và
biến mất vào trong đất, tâm thức bạn sẽ không biến mất. Bạn
không chứa tâm thức trong mình; tâm thức chứa bạn, nó lớn
hơn bạn.
Có những người hỏi... đôi khi ai đó tới tôi và hỏi: "Linh
hồn ở đâu trong thân thể con người? Trong tim? trong rốn?
Trong đầu? Linh hồn ở đâu?" Họ nghĩ họ đang hỏi một câu
hỏi rất thích đáng. Nó chẳng ở đâu trong thân thể cả: thân thể
bạn là ở trong linh hồn. Linh hồn là hiện tượng lớn hơn thân
thể bạn, linh hồn bao quanh bạn.
Và linh hồn bạn và linh hồn tôi là không khác nhau!
Chúng ta sống trong sự tồn tại, chúng ta sống trong một đại
dương linh hồn. Một linh hồn bao quanh chúng ta, bên trong
và bên ngoài. Nó tất cả là một năng lượng; tôi không có linh
hồn khác và bạn không có linh hồn khác. Chúng ta có các
thân thể khác nhau. Điều đó gần giống như điện chạy trong
bóng đèn và chạy trong radio và chạy trong ti vi và làm quạt
quay, và làm cả nghìn lẻ một thứ. Quạt là khác với bóng đèn,
nhưng điện làm chúng chạy là như nhau.
Chúng ta là một năng lượng. Cách diễn đạt của chúng ta
là khác nhau, nhưng thực tại của chúng ta là một. Nếu bạn
nhìn vào nội dung, nếu tôi nhìn vào nội dung, thế thì giấc mơ
của tôi chắc chắn là khác với giấc mơ của bạn. Chúng ta
không thể có chung giấc mơ. Tôi có tham vọng của tôi, bạn
có tham vọng của bạn. Và không chỉ chúng ta không thể có
chung giấc mơ: giấc mơ của chúng ta còn xung đột nhau.
Tham vọng của tôi là ngược lại tham vọng của bạn; tham
vọng của bạn chống lại tham vọng của tôi. Nhưng nếu chúng
ta quên đi nội dung và chỉ nhìn vào tâm thức, tâm thức thuần
khiết, bầu trời không mây, thế thì 'bạn' ở đâu và 'tôi' ở đâu?
Chúng ta là một.
Trong khoảnh khắc đó có sự thống nhất. Và trong
khoảnh khắc đó có tâm thức vũ trụ.
Mọi tâm thức đều là vũ trụ. Vô thức là riêng tư, tâm thức
là vũ trụ. Cái ngày bạn thực sự trở thành một con người, bạn
là con người vũ trụ. Đó là ý nghĩa của 'christ': con người vũ
trụ, con của Thượng đế. Đó là ý nghĩa của 'phật': con người
vũ trụ đi tới nhận biết toàn bộ và tuyệt đối.
Con người như cái máy lại khác... điều này cần được
hiểu. Nếu bạn có vấn đề ở thận, tôi không có; nếu tôi bị đau
đầu, bạn không đau đầu; cho dù bạn yêu tôi thì bạn cũng
không thể chia sẻ đau đầu được. Cho dù tôi yêu bạn nhưng
tôi vẫn không thể có cái đau của bạn được. Nhưng nếu hai
chúng ta ngồi cùng nhau và thiền và một khoảnh khắc tới khi
tôi không có nội dung trong tâm trí mình và bạn cũng không
có nội dung nào trong tâm trí bạn, chúng ta sẽ không là hai.
Các thiền nhân bắt đầu như sự tách biệt, nhưng cuối cùng
như một.
Nếu các bạn tất cả ngồi trong thiền ở đây, lắng nghe tôi,
thế thì các bạn không là nhiều, thế thì các bạn là một. Thế thì các bạn không chỉ là một: người nói và người nghe không
tách biệt, thế thì chúng ta được bắc cầu với nhau. Hai mươi
thiền nhân trong một phòng thiền, khi họ đi tới việc thiền
thực, không còn là hai mươi nữa: chỉ có một phẩm chất thiền
trong phòng.
Có một câu chuyện...
Vài người tới gặp Phật. Ananda đang ngồi canh ở ngoài
phòng, nhưng những người này lấy quá nhiều thời gian đến
mức Ananda trở nên lo nghĩ. Nhiều lần ông ấy nhìn vào,
nhưng họ vẫn tiếp tục và cứ tiếp tục, tiếp tục... Thế rồi ông
ấy đi vào trong phòng để xem điều gì xảy ra. Và tại đó ông
ấy chẳng thấy ai cả, chỉ Phật ngồi. Cho nên ông ấy hỏi Phật,
"Những anh chàng kia đi đâu cả rồi?" Và không có cửa
khác... mà tôi lại đang ngồi ngay cái cửa duy nhất, cho nên
họ đã đi đâu rồi?"
Và Phật nói, "Họ đang thiền."
Đấy là một câu chuyện hay. Tất cả họ đều rơi vào trong
thiền, còn Ananda đã không thể nào thấy được họ bởi vì ông
ấy vẫn không phải là thiền nhân. Ông ấy không thể nào thấy
được hiện tượng mới này, sự dịch chuyển hoàn toàn của
năng lượng. Họ đã không có đó, bởi vì họ đã không như thân
thể họ ở đó, họ đã không như tâm trí họ ở đó. Những bản ngã
này đã tan biến. Ananda chỉ có thể thấy điều ông ấy có thể
thấy. Một thực tại đã xảy ra.
Một vị vua lớn có lần tới gặp Phật. Tể tướng của ông ấy
khuyên ông ấy tới, nhưng ông ấy là con người rất đa nghi,
như các chính khách và vua thì thường vậy, rất đa nghi. Ông
ấy đã không muốn tới ngay chỗ đầu tiên... Chỉ bởi lí do
chính trị mà ông ấy tới để gặp Phật bởi vì trong thủ đô tin
đồn đang lan truyền rằng ông ấy chống lại Phật; còn mọi
người lại ủng hộ Phật, cho nên ông ấy trở nên sợ hãi, điều đó
không ngoại giao. Cho nên ông ấy tới cùng tể tướng của
mình.
Khi ông ấy tới khu rừng nhỏ nơi Phật đang ngồi cùng với
mười nghìn sư của mình, ông ấy bắt đầu trở nên rất sợ hãi.
Ông ấy tuốt kiếm ra và ông ấy nói với tể tướng, "Có chuyện
gì vậy? - bởi vì khanh nói mười nghìn người đang ở đó, và
chúng ta tới gần thế mà chẳng có tiếng động nào cả! Liệu có
mưu đồ gì không?"
Tể tướng cười và nói, "Bệ hạ không biết người của Phật.
Cất kiếm đi! Bệ hạ cứ tới đi - không có mưu đồ hay cái gì cả.
Bệ hạ không cần phải sợ, họ không định giết bệ hạ. Bệ hạ
không biết người của Phật."
Nhưng rất đa nghi, vẫn lăm lăm cây kiếm trong tay, nhà
vua đi vào trong khu rừng. Ông ta sửng sốt. Ông ta không
thể nào tin được có mười nghìn người đang ngồi dưới gốc
cây một cách im lặng, dường như không có ai cả. Ông ta hỏi
Phật, "Đây là phép màu! - mười nghìn người... ngay cả mười
người cùng nhau cũng tạo ra nhiều ồn ào thế! Những người
này làm gì vậy? Điều gì đã xảy ra cho những người này, cái
gì đã đi sai sao? Họ vẫn còn sống chứ? - họ trông như tượng
cả! Và họ đang ngồi đây làm gì vậy? Họ phải làm cái gì
chứ!"
Còn Phật nói, "Họ đang làm cái gì đó, nhưng điều đó
chẳng liên quan gì tới bên ngoài cả. Họ đang làm điều gì đó
trong thế giới bên trong của mình. Họ không trong thân thể
mình, họ trong bản thể mình, tại chính cốt lõi. Và đây không
phải là mười nghìn người ngay lúc này, họ tất cả đều là một
phần của một tâm thức." 

Lời kinh thứ ba:
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Thái độ Mật tông cơ bản là: Bản năng dục có thể được
biến đổi thành cái siêu phàm, vật chất có thể được biến đổi
thành tâm trí, vô thức có thể được biến đổi thành tâm thức.
Vật lí hiện đại nói vật chất có thể được biến đổi thành
năng lượng, năng lượng có thể được biến đổi thành vật chất.
Trong thực tế chúng không phải là hai mà là cùng một năng
lượng vận hành như hai dạng. Mật tông nói dục có thể được
biến đổi thành samadhi - cùng cách tiếp cận ấy, rất cơ bản và
cơ sở. Cái thấp hơn có thể được biến đổi thành cái cao hơn,
bởi vì cái thấp hơn và cao hơn được nối với nhau; nó là chiếc
thang. Chúng không bao giờ tách rời, không ở đâu tách rời,
không có lỗ hổng giữa chúng. Bạn có thể đi từ thấp lên cao,
bạn có thể đi từ cao xuống thấp.
Và cái thang đó là điều con người là gì. Con người có thể
tồn tại ở bậc thang thấp nhất; đó là quyết định của người đó.
Con người có thể đi lên, người đó có thể tồn tại ở bậc thang
cao nhất. Người đó có thể tồn tại như con vật hoặc người đó
có thể tồn tại như vị phật: cả hai đều là các bậc thang của
người đó, bậc thấp nhất và cao nhất. Và con người là chiếc
thang: người đó có thể rơi vào trong vô thức sâu và trở thành
tảng đá, và người đó có thể vươn lên tâm thức tuyệt đối, và
có thể trở thành thượng đế. Nhưng chúng không tách biệt, đó
là cái đẹp của Mật tông.
Mật tông không mang tính phân chia, Mật tông là tôn
giáo duy nhất không tinh thần phân liệt. Mật tông là tôn giáo
duy nhất thực sự lành mạnh, tôn giáo lành mạnh nhất, bởi vì
nó không phân chia. Nếu bạn phân chia, bạn tạo ra chia chẻ.
Nếu bạn bảo mọi người rằng thân thể là xấu, rằng thân thể là
kẻ thù, rằng thân thể phải bị lên án, rằng thân thể đang phục
vụ quỉ, thế thì bạn đang tạo ra chia chẻ trong con người, thế
thì con người trở nên sợ thân thể. Và thế thì dần dần sẽ tạo ra
cái hố sâu không thể bắc cầu qua được và con người bị kéo
vào hai phần, con người bị giằng xé theo hai hướng đối lập.
Thân thể kéo thân thể thành hai, tâm trí cố gắng kéo tâm trí
thành hai; có xung đột và lẫn lộn.
Mật tông nói bạn là một, không cần phải có bất kì lẫn lộn
gì. Bạn có thể được hợp nhất lại trong một thực tại. Không
cần phải có bất kì xung đột nào, không cần phải bị xé ra,
không cần phải mất trí. Bạn có thể yêu tất cả những cái đang
có sẵn, và bạn có thể làm tiến hoá nó - với tình yêu sâu sắc,
sự chăm nom, tính sáng tạo, nó có thể được tiến hoá. Thân
thể không phải là kẻ thù của linh hồn bạn, thân thể chỉ là bao
gươm của thanh gươm của bạn. Thân thể chỉ là ngôi đền, nó
là chỗ trú ngụ của bạn. Nó không phải là kẻ thù, nó là bạn
của bạn.
Mật tông vứt bỏ mọi loại bạo hành, không chỉ bạo hành
với người khác mà bạo hành với chính mình. Mật tông nói:
Yêu thực tại trong tính toàn bộ của nó. Vâng, nhiều điều có
thể được tiến hoá, nhưng mọi tiến hoá đều là thông qua tình
yêu. Và không cần đánh nhau.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên… 

Bạn không thể uống nước biển mặn đựơc, nó mặn thế;
nó toàn là muối. Bạn sẽ chết nếu bạn uống nước biển. Nhưng
khi một đám mây tới và rút nước từ biển, nó biến thành ngọt,
và thế thì bạn có thể uống được nó.
Saraha nói: Samadhi giống như đám mây, năng lượng
thiền giống như đám mây, cái biến bản năng dục của bạn
thành những thực tại cao hơn, cái biến sự tồn tại vật lí của
bạn thành sự tôn tại phi vật lí, cái biến vị mặn chát, kinh
nghiệm đắng cay về thế giới thành đường ngọt, kinh nghiệm
tựa nước cam lồ về niết bàn. Bản thân luân hồi trở thành niết
bàn nếu bạn có thể tạo ra đám mây làm biến đổi nó. Đám
mây đó Phật thực tế đã gọi là dharmamegha samadhi,
samadhi của đám mây của luật nền tảng – dharmamegha
samadhi.
Bạn có thể tạo ra được đám mây đó. Đám mây đó được
tạo ra bằng thiền. Bạn thiền mãnh liệt, vứt bỏ các ý nghĩ, vứt
bỏ các ham muốn, tham vọng… dần dần tâm thức bạn là
ngọn lửa bùng cháy - đám mây đó có đó. Bây giờ bạn có thể
biến đổi bất kì cái gì qua ngọn lửa đó; ngọn lửa đó làm
chuyển hoá, ngọn lửa đó là giả kim thuật. Qua thiền cái thấp
hơn trở thành cái cao hơn, sắt cơ sở hơn biến thành vàng.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Hai điều: thứ nhất, người ta phải tạo ra đám mây thiền
trong bản thể của mình; và điều thứ hai là từ bi - người làm
việc vì người khác. Phật nhấn mạnh vào hai điều: thiền và từ
bi, pragyan và karuna. Ông ấy nói rằng đôi khi chuyện xảy
ra là một thiền nhân có thể trở thành ích kỉ quá nhiều; thế
nữa điều gì đó sẽ thành chua ra. Thiền, vui sướng, nhưng
chia sẻ vui sướng đó, chia sẻ nó đi. Đừng tích trữ nó, bởi vì
một khi bạn bắt đầu tích trữ, bản ngã bắt đầu nảy sinh. Đừng
bao giờ tích trữ cái gì. Khoảnh khắc bạn được nó, đem cho
nó đi, và bạn sẽ được ngày càng nhiều hơn. Bạn càng cho đi
nhiều, bạn lại càng nhận được nhiều. Thế thì mọi thứ trở
thành cam lồ. Mọi thứ là cam lồ; chúng ta chỉ phải biết cách
biến đổi nó, chúng ta phải biết thuật giả kim.
Câu kinh cuối:
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Không thể tả được... Saraha nói: Đừng hỏi ta nó là gì -
điều đó là không thể tả được, điều đó không thể nói ra được.
Điều đó không thể được diễn tả, không ngôn ngữ nào hiện có
mà có thể diễn tả được nó. Nhưng nó có thể được kinh
nghiệm. Nhìn mãn nguyện của ta đây! Nhìn xem ta đã trở
nên được thoả mãn thế nào! Bệ hạ đã biết ta từ trước nữa, ta
đã bất an làm sao, không thoả mãn với mọi thứ làm sao. Và
tất cả đều có sẵn; ta là ái khanh của bệ hạ, tất cả mọi thứ đều
sẵn cho ta, vậy mà ta vẫn không thoả mãn. Bây giờ, bệ hạ
nhìn xem! Ta đang đứng trong bãi hoả thiêu, thậm chí không
có một mái lều trên đầu! Và ta không sống với vua và hoàng
hậu, ta đang sống với người đàn bà rèn tên này. Nhưng nhìn vào mắt ta… ta mãn nguyện làm sao. Bệ hạ không thể thấy
được cái gì đó không diễn tả nổi đã xảy ra đó sao? Bệ hạ
không thể cảm thấy rung động của ta sao? Bệ hạ đờ đẫn và
chết đến mức bệ hạ phải cần lời giải thích sao?
Nếu mà không thể tả được, chẳng bao giờ người ta lại
không được thoả mãn cả...
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Đó là tiêu chuẩn duy nhất cho liệu một người đã đạt tới
chân lí hay chưa: người đó sẽ không bao giờ không thoả
mãn, mãn nguyện của người đó là tuyệt đối. Bạn không thể
lôi người đó ra khỏi mãn nguyện của mình được, bạn không
thể làm cho người đó không bằng lòng; bất kì điều gì xảy ra,
người đó vẫn vậy, hài lòng. Thành công hay thất bại, sống
hay chết, bạn hay không bạn, người yêu hay không người
yêu, không có khác biệt. Yên bình của người đó, tĩnh lặng
của người đó là hoàn toàn tuyệt đối. Người đó được định
tâm… Nếu không thể nói ra được, đừng bao giờ là người
không thoả mãn.
Nếu điều không thể nào được nói ra lại xảy ra, thế thì chỉ
có một cách để biết nó, và cách đó là thấy mãn nguyện.
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Và ta biết, anh ta nói: Bệ hạ không thể hình dung ra được
điều đã xảy ra cho ta. Làm sao bệ hạ có thể hình dung ra
được? Bởi vì bệ hạ chưa từng biết tới điều đó. Tưởng tượng
bao giờ cũng lặp lại cùng điều bệ hạ đã biết.
Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc; bạn đã biết từng chút
và từng mẩu của nó. Bạn có thể tưởng tượng bất hạnh; bạn
đã biết nó, nhiều về nó. Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc
cho dù bạn đang không biết hạnh phúc. Bạn có thể tưởng
tượng nó như cái ngược lại với bất hạnh. Nhưng làm sao bạn
có thể tưởng tượng được phúc lạc? Bạn không biết nó. Và
chẳng có gì mâu thuẫn nó cả, nó là không nhị nguyên. Điều
đó là không thể tưởng tượng nổi.
Cho nên Saraha nói: Ta có thể hiểu được... bệ hạ không
thể tưởng tượng ra điều đó được, nhưng ta không nói tưởng
tượng nó. Nhìn đây! Nó đang hiện diện ở đây và bây giờ. Và
nếu bệ hạ không thể tưởng tượng ra nó, điều đó nữa cũng là
một trong những tiêu chuẩn của chân lí: chân lí không thể
nào được tưởng tượng ra. Nó có thể được thấy, nhưng không
được tưởng tượng. Bệ hạ có thể có linh ảnh về nó, nhưng bệ
hạ không thể mơ về nó được. Và đó là khác biệt giữa giấc
mơ và linh ảnh.
Giấc mơ là của bạn. Linh ảnh không phải là của bạn.
Christ thấy Thượng đế, và kinh sách nói ông ấy thấy linh
ảnh. Bây giờ nhà phân tâm sẽ nói đấy chỉ là giấc mơ; ông ấy
không biết khác biệt giữa giấc mơ và linh ảnh. Giấc mơ là
của bạn: bạn đã tưởng tượng, bạn đã tạo ra nó, nó bao giờ
cũng là phóng tác của bạn. Linh ảnh là cái gì đó xuất phát từ
trời xanh mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới, thậm chí bạn cũng
chưa bao giờ nghĩ tới một phần của nó. Nó hoàn toàn mới
thế… thế thì nó là linh ảnh. Nếu không thể nào tưởng tượng
ra nổi, nó phải là bản thân phúc lạc...
Nhìn vào tôi - bạn không thể hình dung ra được điều đã
xảy ra. Bạn không thể thấy được nó sao? Bạn có mắt để thấy
- nhìn, quan sát, cầm tay tôi! Lại gần tôi hơn, mong manh
với tôi, để cho rung động của tôi có thể làm rung động bản thể bạn, và điều không thể tưởng tượng nổi và không thể nói
được có thể được kinh nghiệm.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ…
Và Saraha nói: Ta biết.... Anh ta phải đã thấy nhà vua có
chút ít sợ hãi. Tôi thấy điều đó hàng ngày. Mọi người tới tôi
và tôi thấy họ run rẩy, sợ hãi, hoảng hốt, kinh hoàng, và họ
nói, "Chúng tôi sợ lắm, Osho." Tôi biết! Saraha phải đã thấy
nhà vua đang run rẩy sâu bên trong… có thể không ở bên
ngoài. Ông ta là một vị vua lớn, ông ta phải là người rất kỉ
luật, ông ta phải đã đứng thẳng - nhưng sâu bên dưới ông ta
phải đã sợ hãi.
Điều đó bao giờ cũng xảy ra khi bạn ở gần một người
như Saraha, hay người như Phật, bạn nhất định sợ. Mới đêm
hôm nọ một thanh niên tới và anh ta nói, "Nhưng sao tôi sợ
thầy? Thầy đã chẳng làm điều gì sai với tôi cả - sao tôi sợ
thầy? Chắc chắn tôi yêu thầy, nhưng sao tôi lại sợ thầy?"
Điều đó là tự nhiên. Khi bạn tới gần vực thẳm, bạn trông
đợi điều gì? - bạn sẽ sợ. Có mọi khả năng bạn có thể rơi vào
trong nó và sẽ không thể nào khôi phục lại mình nữa; điều đó
sẽ là không thể khôi phục lại được, không thể phục hồi được.
Bạn sẽ mất đi hoàn toàn, toàn bộ vào trong nó. Bạn sẽ không
có khả năng kéo lại. Sợ là tự nhiên.
Saraha nói: Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm
nổ… Anh ta nói: ta giống như đám mây và bệ hạ sợ hãi bởi
vì tiếng sấm, vì sét. Nhưng nhớ lấy. Mùa màng chín rộ khi từ
đám mây đó đổ mưa xuống. Nếu bệ hạ cho phép ta mưa lên
bệ hạ, hạt mầm sẽ mọc, tâu bệ hạ, và con người vẫn ẩn kín
đằng sau bệ hạ, vẫn còn chưa được sinh ra, sẽ được sinh ra.
Bệ hạ sẽ có khả năng chín, chín muồi, bệ hạ sẽ có khả năng
nở hoa. Ta mời bệ hạ, Saraha nói, với một mùa màng bội
thu… mùa màng của tâm thức, mùa màng của nhận biết.

Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012

Cái bóng của bản ngã

Sầu não hay gắn bó nào
có thể còn có đấy cho linh hồn đã chứng ngộ -
người trí huệ -
khi mọi đối tượng hữu tình và vô tình
của thế giới
đã trở thành cái ta của người ấy,
khi người ấy thấy cái một ở mọi nơi?

Sầu não nào hay gắn bó nào có thể có đó cho người đã nhận
ra - người trí huệ - người đã biết bản thân mình trong mọi đối
tượng hữu tình và vô tình, hay đã biết mọi đối tượng hữu tình và
vô tình trong bản thân người ấy?
Có ba hay bốn điểm quan trọng cần phải hiểu trong lời kinh
này. Thứ nhất, Upanishad gọi ai là người trí huệ? Từ gốc mà từ
này được dẫn ra là ved. Từ ved nghĩa là biết. Ý nghĩa của từ
‘người trí huệ’ là người biết. Người ấy biết cái gì? Ai đó biết về
toán học, ai đó biết về hoá học, ai đó biết về vật lí. Có cả nghìn
thứ để biết. Ai đó biết kinh sách. Một số biết tất cả những vấn đề
về bí ẩn sâu sắc do các vị thánh nói lại. Nhưng Upanishad không
coi họ là trí huệ.
Đây là một điều rất kì lạ và đáng quan tâm. Tích luỹ thông
tin không phải là tri thức theo Upanishad. Họ gọi người trí huệ là
người biết chỉ một yếu tố vĩ đại - chân lí: tức là người biết bản
thân mình, vì người biết bản thân mình, biết tất cả. Khi người ấy
biết bản thân mình, người ấy trở thành tấm gương mà trong đó
hình ảnh được phản xạ của tất cả mọi thứ bắt đầu xuất hiện.
Nhưng sự kiện là người ấy biết tất cả không có nghĩa là người ấy
phải là một nhà toán học lớn hay một nhà hoá học nổi danh hay
một nhà khoa học vĩ đại. Không, đấy không phải là nghĩa. Nghĩa
duy nhất của câu này - “Bởi việc biết bản thân mình người ấy
biết tất cả” - là ở chỗ qua việc biết bản thân mình người ấy đi tới
biết rằng cái tối cao đó, cái thuần khiết nhất đó, yếu tố huyền bí
đó đang bị che giấu bên trong tất cả. Người ấy biết công thức, cái
bản chất có vai trò là tất cả điều này. Người ấy biết rằng luật tối
cao có thẩm quyền ngự trị tại mọi nơi. Người ấy biết rằng vị chúa
tể tối cao có trong mọi con người. Người ấy biết rằng ông bầu tối
cao đó giữ trong tay mình sợi dây để điểu khiển mọi con rối nhảy
múa. 

Người ấy không phải là chuyên gia - người ấy không phải là
chuyên gia chút nào. Nếu bạn hỏi người ấy về một điều đặc biệt
người ấy có thể không biết câu trả lời. Người ấy biết điều bản
chất ẩn kín trong toàn thể vũ trụ. Người ấy không biết từng cái lá,
nhưng người ấy cầm chiếc rễ trong tay. Người ấy biết sinh lực
sâu sắc và vĩ đại, bí ẩn; và ngay khi người ấy biết điều đó, người
ấy trở thành tự do khỏi sầu não và gắn bó.
Đây là đặc trưng của người trí huệ, và nó là đặc trưng kì lạ.
Nó không phải là năng lực của ông ấy để đáp lại các câu hỏi của
bạn, không phải là ông ấy sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề
của bạn. Đấy chỉ là việc ông ấy trở nên tự do khỏi ảnh hưởng của
sầu não và gắn bó. Một nhà toán học, dù là một chuyên gia lớn
đến đâu, sẽ không thể thoát khỏi sầu não và gắn bó. Cứ cho là
ông ấy là một nhà tâm lí vĩ đại như Freud - và có rất ít nhà tâm lí
như Freud trên thế giới này - tâm trí của ông ấy vẫn sẽ là tâm trí
của người thường, ngay cả sau khi biết rất nhiều về tâm trí. Đâu
có khác biệt gì, không có một biến đổi nhỏ nhất nào trong tâm trí
ông ấy. Ông ấy vẫn trở nên lo lắng, sợ sệt, bùng lên với giận dữ
và ghen tức, và vẫn sầu não và gắn bó như bất kì người thường
nào. Và điều ngược đời là ở chỗ ông ấy có nhiều tri thức lí thuyết
về sợ hãi, về ghen tức, có lẽ là hơn bất kì người nào khác trên thế
giới. Ông ấy có đầy tri thức về dục tính, nhưng ngay cả trong tuổi
già nó vẫn khuấy động tâm trí ông ấy nhiều như nó khuấy động
tâm trí của bất kì ai khác.
Upanishad không coi người như thế là có học. Upanishad
thậm chí không coi tri thức của ông ấy là tri thức đúng. Họ gọi nó
là kho thông tin. Người như thế là chuyên gia. Bất kì điều gì
được biết về sợ đều được ông ấy biết tới. Ông ấy biết về sợ,
nhưng không phải là bản thân nỗi sợ. Nếu ông ấy đã biết thực sự
về sợ, ông ấy sẽ được tự do khỏi nó. Một chuyên gia về kinh sách
tôn giáo biết mọi điều về tôn giáo, nhưng không biết đến tôn
giáo. Ông ấy biết điều Veda nói, điều Upanishad nói, điều Gita
nói, điều Koran nói, điều Kinh thánh nói - ông ấy biết tất cả
những điều này. Ông ấy biết điều được nói, nhưng ông ấy không
biết về người nói ra điều này, cách thức nào điều này được nói ra,
với kinh nghiệm nào điều này được nói ra.
Khác biệt tựa như thế này - rằng một người biết mọi điều về
việc bơi nhưng không biết cách bơi. Không khó để biết việc bơi
về mặt lí thuyết; có thể nghiên cứu qua một cuốn sách về bơi. Tất
cả tài liệu về bơi lội đều có thể được ghi nhớ. Một người có thể là
một chuyên gia về bơi lội và có thể trả lời bất kì câu hỏi nào
được hỏi về việc bơi. Và vậy mà, đừng sai lầm đẩy người ấy
xuống sông, vì biết bơi là vấn đề hoàn toàn khác.
Không cần phải biết mọi điều về việc bơi đối với một người
biết bơi. Có thể là người ấy chỉ biết bơi nhưng dốt nát về bất kì
tri thức lí thuyết nào. Nhưng toàn bộ tri thức lí thuyết của một
người sẽ không hữu dụng gì cho người ấy nếu thuyền của người
ấy bị chìm và cuộc sống của người ấy bị lâm nguy. Vào lúc như
vậy, người không biết gì về tri thức bơi lội nhưng biết chính việc
bơi sẽ có khả năng bơi và cứu mạng mình. Đây là lí do tại sao
hiền nhân của Upanishad chỉ đúng những đặc trưng nền tảng của
người có học thực sự. Ông ấy nói họ là người có học, người trí
huệ, người thấy mọi đối tượng hữu tình và vô tình trong bản thân
họ và thấy bản thân họ trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình.
Những người như thế trở thành tự do khỏi mọi sầu não và gắn bó.
Tại sao ông ấy đã gộp nhóm hai điều này - sầu não và gắn bó
- với nhau? Chúng được gộp nhóm với nhau bởi vì hai điều này
là một; chúng là những bộ phận cùng xảy ra, không tránh khỏi
của cùng một hoàn cảnh tâm trí. Trong hai điều này, một điều
không bao giờ đứng một mình. Cho nên hiểu chúng cho đúng.
Tâm trí bị gắn bó thì sẽ buồn rầu và sầu não nữa; và nơi không có
gắn bó sầu não không thể có đó được. Thực ra, sầu não xảy ra khi
đối tượng của gắn bó bị phá huỷ. Không có lí do nào khác cho buồn rầu. Giả sử tôi có gắn bó với ai đó: nếu người ấy chết, tôi bị
đắm chìm trong buồn rầu. Buồn rầu tựa như cái bóng đi theo gắn
bó. Nếu tôi không có gắn bó với bất kì ai, không thể buồn được,
cho dù tôi muốn thế.
Có một ngôi nhà mà tôi gắn bó. Nếu nó bị cháy tôi cảm thấy
sầu não. Có sầu não ngay khi gắn bó bị dứt đoạn và đứt gẫy - bất
kì đâu nó gặp khó khăn, bất kì đâu nó bị tan vỡ, bất kì đâu nó bị
chống đối. Và nhớ lấy, khi sầu não tới thì bạn sẽ phải tạo ra gắn
bó để cứu lấy bản thân mình khỏi sầu não. Khi sầu não tới bạn sẽ
phải tìm ra một đối tượng mới cho gắn bó của bạn, để cứu bản
thân bạn khỏi sầu não, để tránh xa nó. Nếu một người bạn yêu
chết đi, bạn không có khả năng quên được người đó chừng nào
bạn còn chưa tìm thấy cái thay thế để yêu. Khó quên gắn bó cũ
chừng nào bạn còn chưa ném nó đi và thay thế nó bởi việc bầy tỏ
tình yêu của bạn cho cái thay thế mới.
Cho nên sầu não tới khi gắn bó bị tan vỡ, và để trốn chạy
khỏi sầu não đó chúng ta phải tạo ra những đối tượng mới cho
gắn bó của mình. Vậy cái vòng luẩn quẩn này cứ tiếp diễn. Mọi
gắn bó đều đem tới sầu não và mọi sầu não bị kìm nén bởi những
đối tượng mới của gắn bó. Bệnh tật tới; thuốc phải được cho, và
nó gây ra các kiểu bệnh tật khác. Thế rồi thuốc mới được đưa ra
cho bệnh mới và những bệnh mới này làm phát sinh những bệnh
mới nữa. Vậy là cái vòng này cứ tiếp diễn. Cho nên đó là một
quyết định trí huệ gộp nhóm hai điều này với nhau.
Đây là lí do tại sao người ta nói rằng người biết trở nên tự do
khỏi sầu não và gắn bó. Làm sao những ý tưởng về của tôi và của
anh có thể tới được với người thấy bản thân mình trong mọi đối
tượng hữu tình và vô tình và thấy tất cả chúng trong bản thân
người ấy? Thế thì làm sao gắn bó được tạo ra? Nó được tạo ra chỉ
khi bạn gắn bản thân mình với ai đó, và nói, “Cái này là của tôi,
phần còn lại không phải của tôi,” hay khi bạn nói, “Toà nhà này
là của tôi, phần còn lại không phải là của tôi.”
Khi tôi tới đây, một bà nào đó tới gặp tôi. Bà ấy nói, “Do ân
huệ lớn của thầy cửa hàng của con trai tôi được cứu khỏi bị bắt
cháy. Toà nhà kế bên bị bắt cháy, và lửa sắp lan sang cửa hàng
chúng tôi. Nhưng cửa hàng của chúng tôi đã được cứu.” Bà ấy
mang đồ ngọt tới biếu tôi. Bà ấy vui mừng rằng cửa hàng của con
bà ấy đã được cứu. Không, bà ấy không tiếc gì cho toà nhà đã bị
lửa tàn phá cả, vì bà ấy không có gắn bó với chúng. Ngược lại, bà
ấy hài lòng vì toà nhà mà bà ấy gắn bó đã được cứu thoát.
Gắn bó bao giờ cũng mang tính loại trừ; nó bám vào cái này
và bỏ ra phần còn lại. Nó nói, “Đây là vợ tôi, đây là chồng tôi,
đây là con tôi, đây là nhà tôi, đây là cửa hàng của tôi” - có cái tôi
trong tất cả những thứ này - “và tôi không quan tâm tới những cái
còn lại!” Nếu bất kì điều gì xảy ra cho phần còn lại, nó không
ảnh hưởng tới bạn theo bất kì cách nào, nó không tạo ra khác biệt
gì cho bạn. Bạn hài lòng rằng cái của riêng bạn được cứu thoát.
Mức độ gắn bó giảm đi khi trường gắn bó trải rộng ra. Cái
gắn bó lớn lao nhất là cho bản thân mình, vì không cái gì dường
như là ‘của tôi’ nhiều hơn bản thân người ta. Cho nên, chẳng hạn,
dường như là con thuyền đang chìm, có một người chồng và một
người vợ đang trong nó, và tình huống là tới mức chỉ một trong
hai người có thể được cứu, thế thì cả hai đều sẽ muốn được cứu.
Nếu lửa bùng lên trong toà nhà, người chủ sẽ nhảy ra trước hết và
rồi hỏi han về các thành viên khác trong gia đình. Một người biết
tới đám cháy không sớm hơn bản thân người đó chạy ra. Cho
nên, gắn bó được tập trung phần lớn quanh cái tôi; nó là liên kết
mạnh nhất với cái tôi. Thế rồi nó giảm dần đi khi trường của cái
‘của tôi’ mở rộng ra. Nó sẽ ít hơn khi hướng tới gia đình, ít nữa
khi hướng tới thành phố, càng ít nữa khi hướng tới quốc gia, và
thậm chí còn ít hơn nữa khi hướng tới toàn thể nhân loại. Và nếu mọi người đang sống trên hành tinh khác nào đó, sẽ không có
gắn bó nào hướng tới họ.
Các nhà khoa học tuyên bố rằng có sự sống trên ít nhất năm
mươi nghìn hành tinh khác. Chúng ta không biểu lộ sự gắn bó gì
với họ cả. Ngay cả hướng tới nhân loại cũng dường như tối thiểu.
Chúng ta vẫn còn không quan tâm và không bị ảnh hưởng khi
bẩy trăm nghìn người chết ở Pakistan. Nếu một người chết trong
gia đình chúng ta, chúng ta còn bị tác động sầu não hơn là khi
biết bao nhiêu người chết ở Pakistan, và nếu một ngón tay chúng
ta bị đứt, chúng ta kinh nghiệm còn đau hơn là chúng ta cảm thấy
khi bẩy trăm nghìn người kia chết. Khi chúng ta tiến dần tới cái
‘tôi’, gắn bó trở nên tập trung hơn, và khi chúng ta đi xa khỏi cái
‘của tôi’, bóng dáng của nó trở nên mảnh mai và hiếm hơn.
Gắn bó là cái bóng của bản ngã. Gắn bó lập tức được tạo ra
bất kì chỗ nào bạn thấy ‘tôi đây’. Nhưng như tôi đã nói, gắn bó
mang tính loại trừ; để làm gắn bó thành có thể, cái gì đó hay ai đó
phải bị bỏ ra. Do đó, hiền nhân này nói, người đã thấy mọi đối
tượng hữu tình và vô tình trong bản thân mình, trở thành không
loại trừ; cảm giác trong người ấy bây giờ là, “Tất cả đều là của
ta.” Người ấy trở thành người bao hàm tất cả. Thế thì gắn bó
không xảy ra, bởi vì bây giờ không có nền tảng cho nó.
Khi tất cả đều là ‘của tôi’, không có mục đích nào trong việc
gọi bất kì ai là của tôi. Đã có một mục đích cho việc nói ‘của tôi’
chừng nào còn có một mục đích cho việc nói ‘của bạn’ - có ai đó
không phải là ‘của tôi’. Cho nên bạn tạo ra biên giới, bạn vẽ ra
đường bao để chỉ ra giới hạn của cái ‘của tôi’. Bạn tạo ra bức
tường, biên giới. Bên ngoài giới hạn này, một thế giới khác bắt
đầu mà với nó bạn không quan tâm chút nào. “Dù nó chết hay bị
tàn phá là không liên quan tới cái của tôi.” Phía bên này của biên
giới là thế giới của bạn, vì cái đó mà bạn mong muốn rằng không
có khổ, không có tai hoạ, không có đau buồn, vì bạn bị sầu não
khi nó gặp rắc rối.
Upanishad nói gắn bó của một người tan biến đi khi người
ấy thấy bản thân mình không chỉ trong mọi loài vật, không chỉ
trong mọi vật sống, mà trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình,
thậm chí trong từng hạt cát - tức là nói trong bất kì sự tồn tại nào
trong thế giới này. Thế thì không có gắn bó nào còn lại. Gắn bó
có đó trong khi biên giới có đó. Gắn bó không thể vô giới hạn
được. Nhớ lấy, gắn bó vô giới hạn là không thể được. Nó sống
bên trong các giới hạn. Khi biên giới mở rộng dần ra, gắn bó yếu
đi; và khi các giới hạn hẹp lại, gắn bó trở nên mạnh thêm. Trong
cái vô giới hạn, gắn bó biến mất.
Và thế thì làm sao sầu não có thể có được khi gắn bó đã biến
mất? Nó không tồn tại mà không có gắn bó. Nếu không có gắn
bó, không có sầu não. Cho nên Upanishad gọi người ấy là người
trí huệ, người đứng ngoài cả gắn bó và sầu não. Và làm sao
người ấy đứng ngoài? Người ấy đứng ngoài bởi việc thấy bản
thân mình trong toàn bộ sự tồn tại, cái có đó lan toả bao quanh tất
cả chúng ta nhưng không thấy được đối với chúng ta bởi vì
chúng ta cũng có đó trong nó.
Sự kiện sau đây xảy ra trong cuộc sống của Rabindranath
Tagore. Cũng đáng để ý đến. Ông ấy đã viết lời cầu nguyện về
Thượng đế trong Gitanjali, bởi điều đó ông ấy đã nhận được giải
thưởng Nobel và trở nên nổi tiếng trên thế giới. Nhưng còn có
một cụ già sống gần nhà ông, người bắt đầu thường xuyên gây
phiền nhiễu cho ông. Bất kì khi nào cụ già gặp Rabindranath, cụ
đều giữ ông tấy lại và hỏi, “Xin nói cho tôi sự thực: ông đã biết
Thượng đế chưa?”
Cụ già thật bướng bỉnh còn Rabindranath, là một người
lương thiện, không thể nói dối được. Cụ già nhìn thẳng và sâu
vào mắt Rabindranath đến mức tay và chân ông ấy run lên. Đây là người đã được giải thưởng Nobel đấy. Bất kì khi nào ông ấy đi
ra ngoài ông ấy đều được nhiều người tôn kính. Người ta hay nói,
“Đây là tấm gương sống về một người mà Upanishad gọi là
Maharishi.” Vậy mà ông ấy ở đây, bị một cụ già hàng xóm làm
cho bối rối. Và việc gây phiền nhiễu này không chỉ có một ngày
hay một sáng hay một tối, mà liên tục mọi ngày, vì cụ già, không
có gì làm, để toàn bộ thời gian ngồi trên ghế cạnh cửa nhà ông ấy
cho nên Rabindranath thấy khó mà tránh được cụ.
Rabindranath đã viết trong nhật kí rằng ông thấy rất khó rời
khỏi nhà: ‘Trước khi đi ra ngoài, tôi sẽ hỏi liệu cụ già này có
đang ngồi đó hay không. Bằng không cụ ấy sẽ túm lấy tôi và hỏi,
“Ông đã thấy Thượng đế chưa? Ông có biết ngài không?” Tôi
thường bị run lên khi nghe những câu hỏi này bởi vì tôi không
biết gì về ngài cả. Khi nghe câu trả lời của tôi, cụ già sẽ cười to
và toàn tâm. Cái cười của cụ theo cách đó làm hỏng giấc ngủ của
tôi, nó bắt đầu ám ảnh tôi; tôi bắt đầu sợ ông cụ ấy. Một lần tôi
nghĩ, ‘Mình thực sự tạo ra rắc rối cho bản thân mình khi viết
cuốn Gitanjali này.’ Tôi nghĩ, ‘Cụ già đó phải đã có thoáng nhìn
nào đó về Thượng đế, bằng không cụ không thể ám ảnh mình đến
thế.’” Từ mắt cụ ấy dường như là cụ đã biết điều gì đó, bởi vì
Rabindranath không thể trốn tránh cái nhìn đó được khi nhìn vào
cụ và lặp lại một hay hai dòng Gitanjali để trả lời cho câu hỏi của
cụ.
Rồi nhiều năm trôi qua, và cụ già vẫn cứ tiếp tục là nỗi ám
ảnh của ông ấy. Rabindranath đã nói: “Một tải trọng lớn được
nhấc ra khỏi tâm trí tôi vào cái ngày mà tôi có thể nói cho cụ,
‘Tôi đã biết Thượng đế.’” Đó là vào đầu mùa mưa, và những cơn
mưa để bùn nhão nhoét ở mọi nơi. Vũng chứa nước và những hố
nhỏ trên đường tràn đầy nước. Ếch kêu ồm ộp. Hôm đó là buổi
sáng và Rabindranath bị lôi cuốn đi ra ngoài bởi những thay đổi
đó trong tự nhiên - tiếng ếch kêu oàm oạp, tiếng rào rào của mưa
rơi, hương mới của đất. Ông ấy thấy cụ già ấy không ngồi ở vị trí
thường lệ. Có lẽ cụ già còn chưa dậy.
Rabindranath chạy ra khỏi nhà. Mặt trời đã lên trên biển.
Ông dừng trên bãi biển. Mặt trời lung linh trên sóng. Ông nhìn
vào mặt trời và sự phản xạ của nó, và rồi bắt đầu trở về nhà. Mặt
trời được phản xạ trong từng vũng nước, trong từng ao nhỏ, trong
từng rãnh nước bẩn bên vệ đường. Nó lấp lánh khắp xung quanh
- trong những vũng nước bẩn, trên biển khơi, trên dòng suối nhỏ
sạch sẽ, trong mọi phía. Thấy tất cả điều này, một điệu nhạc nào
đó, một cái chưa biết nào đó, một âm thanh vô định bên trong bắt
đầu ngân lên trong tim Rabindranath.
Khi ông ấy quay trở về, ông ấy nhảy múa. Ông ấy nhảy múa
vì ông đã thấy rằng sự phản xạ của mặt trời không bao giờ bị mờ
xỉn . Ông ấy nhảy múa bởi vì ông ấy đã thấy rằng sự phản xạ của
mặt trời tươi tắn và sạch sẽ trong nước bùn bẩn cứ như là trong
nước sạch nhất. Sự phản xạ không bao giờ bẩn cả. Làm sao nó có
thể bẩn được? Chỉ nước có thể bùn và bẩn thôi. Nhưng mặt trời
mà nhìn trong đó, sự phản xạ của mặt trời trong đó, là không bẩn.
Nó tuyệt đối tươi tắn và sạch sẽ. Không nước nào có thể làm hư
hỏng nó được. Đây là một kinh nghiệm cách mạng, rất lớn lao
cho ông ấy. Điều đó có nghĩa là Thượng đế, người ở bên trong
ngay cả cái tồi tệ nhất của con người, không thể bị làm bẩn. Sự
phản xạ của Thượng đế trong con người tội lỗi nhất là thuần khiết
như nó có trong những người ngoan đạo nhất. Cho nên ông ấy đã
trở về trong nhảy múa. Cánh cửa đã mở ra bên trong.
Cụ già kia đã ngồi gần cánh cửa. Đây là lần đầu tiên ông ấy
không còn sợ cụ già, và lần đầu tiên cụ già nói, “Được rồi, dường
như là anh đã biết ngài.” Cụ già lại gần Rabindranath ôm choàng
lấy ông ấy và nói, “Cực lạc của anh, điệu nhảy của anh hôm nay
đã nói cho ta rằng anh đã biết ngài. Bây giờ ta có thể kính trọng
anh!” 

Thế rồi trong ba ngày Rabindranath vẫn còn trong trạng thái
cực lạc - trong trạng thái điên khùng. Mọi người trong gia đình
đều lo sợ khi thấy điều này. Chỉ cụ già ấy thường tới và bảo họ,
“Vui mừng đi! Vui vẻ đi!” và bắt đầu thông báo cho láng giềng
rằng ông ấy đã biết Thượng đế. Nhưng mọi người trong nhà đều
rất sợ vì Rabindranath hành xử một cách rất kì cục. Nếu ông ấy
thấy một cột trụ, ông sẽ ôm chầm lấy nó. Nếu một con bò đi
ngang qua trên đường ông ấy sẽ ôm lấy con bò nữa. Nếu ông ấy
thấy một cái cây ông ấy sẽ ôm chầm lấy nó. Mọi người trong nhà
nghĩ ông ấy đã mất trí: “Ông ấy đã phát điên rồi!” Nhưng cụ già
này vẫn tiếp tục nói, “Đừng lo. Ông ấy điên khùng từ trước cho
tới nay, và bây giờ ông ấy lành mạnh. Bây giờ ông ấy bắt đầu
thấy, trong tất cả sự tồn tại, cái mà không có nó bài hát ông ấy
vẫn hát mọi lần đều vô dụng. Đấy chỉ là nhịp điệu, một cái cớ
nghèo nàn cho nhà thơ. Chỉ bây giờ, âm nhạc thực sự được sinh
ra trong cuộc đời ông ấy.”
Rabindranath đã viết: “Tôi có thể, dần dần, kiểm soát bản
thân mình và đem cực lạc của mình vào sự kiểm soát, với nỗ lực
rất lớn. Bằng không tôi mong mỏi ôm choàng mọi người và mọi
thứ tôi gặp. Cho tới nay tôi đã mong mỏi và cầu nguyện, ‘Cầu
Trời, cánh cửa của ngài ở đâu?’ Bây giờ Thượng đế là cánh cửa
của tôi, và bây giờ bất kì khi nào tôi nhìn tôi đều thấy cánh cửa
của ngài. Từ trước tới nay tôi vẫn cứ tìm ngài và hỏi, ‘Ngài trốn
ở đâu vậy?’ Nhưng bây giờ tôi ngạc nhiên bởi vì ngài đã có đó
trong tôi; không cái gì khác ngoài ngài.”
Người thấy sự hiện diện của mình trong tất cả sự tồn tại hay
thấy toàn bộ sự tồn tại trong bản thân mình thực sự là người trí
huệ; và người như vậy ở ngoài gắn bó và sầu não. Nhớ lấy,
không có hạnh phúc không có bất hạnh trong cuộc đời người đó,
chỉ có cực lạc. Cái thuần khiết của sự tồn tại nhảy múa trong
cuộc đời người ấy. Người ấy là bản thân cuộc sống; nhảy múa và
ca hát ngợi ca sự tồn tại. Bản thân cuộc đời người ấy là âm nhạc;
và tất cả những cái đem đến sầu não, tất cả những cái trói buộc,
tất cả những cái trở thành gắn bó, tất cả những cái dường như là
đem lại hạnh phúc hôm nay nhưng là nguyên nhân của bất hạnh
ngày mai - tất cả những cái này không còn chỗ trong cuộc sống
người ấy. Người ấy bây giờ là tấm gương.
Khi bạn đứng trước một tấm gương bạn được phản chiếu vào
trong nó, và khi bạn đi xa khỏi nó, nó lập tức rời bỏ bạn. Nó
không nắm giữ bạn. Ngay khi bạn đi ra khỏi nó, nó trở thành
trống rỗng, không phản xạ. Tấm gương không mang gắn bó nào
với bạn. Đó là lí do tại sao, khi bạn đứng dẹp sang bên, thay vì
đứng trước nó, nó không bị tan thành từng mảnh vì buồn rầu với
bạn. Trái tim nó không tan nát. Nó không nói, “Làm sao tôi có
thể sống được mà không có bạn?” Thay vì thế nó nói, “Khi bạn
đứng trước tôi bạn rất đẹp, rất tốt, và bạn đã biểu lộ ân huệ lớn
cho tôi; và khi bạn rời bỏ tôi, tôi không cảm thấy khó chịu.”
Không cái gì thay đổi. Tấm gương vui vẻ khi nó rỗng không và
không phản xạ cũng như khi nó tràn đầy với phản xạ.
Do vậy người có học sống tựa tấm gương trong thế giới.
Người ấy hài lòng với bất kì cái gì tới trước mình. Người ấy hạnh
phúc nếu thấy hoa và trở thành phản xạ của hoa, dội sự phản xạ
của nó lại, thấy tính thượng đế trong nó. Nếu không có ai ở trước
người ấy - khi tất cả là trống rỗng - người ấy thấy tính thượng đế
trong cái trống rỗng. Chính cái trống rỗng là tính thượng đế. Thế
thì người ấy nhảy múa trong cái trống rỗng đó, và người ấy là
trong cực lạc ngay cả trong cái trống rỗng.
Đủ cho hôm nay. Bây giờ tự chúng ta thử trở thành những
tấm gương. 


Sầu não hay gắn bó nào
có thể còn có đấy cho linh hồn đã chứng ngộ -
người trí huệ -
khi mọi đối tượng hữu tình và vô tình
của thế giới
đã trở thành cái ta của người ấy,
khi người ấy thấy cái một ở mọi nơi?

Sầu não nào hay gắn bó nào có thể có đó cho người đã nhận
ra - người trí huệ - người đã biết bản thân mình trong mọi đối
tượng hữu tình và vô tình, hay đã biết mọi đối tượng hữu tình và
vô tình trong bản thân người ấy?
Có ba hay bốn điểm quan trọng cần phải hiểu trong lời kinh
này. Thứ nhất, Upanishad gọi ai là người trí huệ? Từ gốc mà từ
này được dẫn ra là ved. Từ ved nghĩa là biết. Ý nghĩa của từ
‘người trí huệ’ là người biết. Người ấy biết cái gì? Ai đó biết về
toán học, ai đó biết về hoá học, ai đó biết về vật lí. Có cả nghìn
thứ để biết. Ai đó biết kinh sách. Một số biết tất cả những vấn đề
về bí ẩn sâu sắc do các vị thánh nói lại. Nhưng Upanishad không
coi họ là trí huệ.
Đây là một điều rất kì lạ và đáng quan tâm. Tích luỹ thông
tin không phải là tri thức theo Upanishad. Họ gọi người trí huệ là
người biết chỉ một yếu tố vĩ đại - chân lí: tức là người biết bản
thân mình, vì người biết bản thân mình, biết tất cả. Khi người ấy
biết bản thân mình, người ấy trở thành tấm gương mà trong đó
hình ảnh được phản xạ của tất cả mọi thứ bắt đầu xuất hiện.
Nhưng sự kiện là người ấy biết tất cả không có nghĩa là người ấy
phải là một nhà toán học lớn hay một nhà hoá học nổi danh hay
một nhà khoa học vĩ đại. Không, đấy không phải là nghĩa. Nghĩa
duy nhất của câu này - “Bởi việc biết bản thân mình người ấy
biết tất cả” - là ở chỗ qua việc biết bản thân mình người ấy đi tới
biết rằng cái tối cao đó, cái thuần khiết nhất đó, yếu tố huyền bí
đó đang bị che giấu bên trong tất cả. Người ấy biết công thức, cái
bản chất có vai trò là tất cả điều này. Người ấy biết rằng luật tối
cao có thẩm quyền ngự trị tại mọi nơi. Người ấy biết rằng vị chúa
tể tối cao có trong mọi con người. Người ấy biết rằng ông bầu tối
cao đó giữ trong tay mình sợi dây để điểu khiển mọi con rối nhảy
múa. 

Người ấy không phải là chuyên gia - người ấy không phải là
chuyên gia chút nào. Nếu bạn hỏi người ấy về một điều đặc biệt
người ấy có thể không biết câu trả lời. Người ấy biết điều bản
chất ẩn kín trong toàn thể vũ trụ. Người ấy không biết từng cái lá,
nhưng người ấy cầm chiếc rễ trong tay. Người ấy biết sinh lực
sâu sắc và vĩ đại, bí ẩn; và ngay khi người ấy biết điều đó, người
ấy trở thành tự do khỏi sầu não và gắn bó.
Đây là đặc trưng của người trí huệ, và nó là đặc trưng kì lạ.
Nó không phải là năng lực của ông ấy để đáp lại các câu hỏi của
bạn, không phải là ông ấy sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề
của bạn. Đấy chỉ là việc ông ấy trở nên tự do khỏi ảnh hưởng của
sầu não và gắn bó. Một nhà toán học, dù là một chuyên gia lớn
đến đâu, sẽ không thể thoát khỏi sầu não và gắn bó. Cứ cho là
ông ấy là một nhà tâm lí vĩ đại như Freud - và có rất ít nhà tâm lí
như Freud trên thế giới này - tâm trí của ông ấy vẫn sẽ là tâm trí
của người thường, ngay cả sau khi biết rất nhiều về tâm trí. Đâu
có khác biệt gì, không có một biến đổi nhỏ nhất nào trong tâm trí
ông ấy. Ông ấy vẫn trở nên lo lắng, sợ sệt, bùng lên với giận dữ
và ghen tức, và vẫn sầu não và gắn bó như bất kì người thường
nào. Và điều ngược đời là ở chỗ ông ấy có nhiều tri thức lí thuyết
về sợ hãi, về ghen tức, có lẽ là hơn bất kì người nào khác trên thế
giới. Ông ấy có đầy tri thức về dục tính, nhưng ngay cả trong tuổi
già nó vẫn khuấy động tâm trí ông ấy nhiều như nó khuấy động
tâm trí của bất kì ai khác.
Upanishad không coi người như thế là có học. Upanishad
thậm chí không coi tri thức của ông ấy là tri thức đúng. Họ gọi nó
là kho thông tin. Người như thế là chuyên gia. Bất kì điều gì
được biết về sợ đều được ông ấy biết tới. Ông ấy biết về sợ,
nhưng không phải là bản thân nỗi sợ. Nếu ông ấy đã biết thực sự
về sợ, ông ấy sẽ được tự do khỏi nó. Một chuyên gia về kinh sách
tôn giáo biết mọi điều về tôn giáo, nhưng không biết đến tôn
giáo. Ông ấy biết điều Veda nói, điều Upanishad nói, điều Gita
nói, điều Koran nói, điều Kinh thánh nói - ông ấy biết tất cả
những điều này. Ông ấy biết điều được nói, nhưng ông ấy không
biết về người nói ra điều này, cách thức nào điều này được nói ra,
với kinh nghiệm nào điều này được nói ra.
Khác biệt tựa như thế này - rằng một người biết mọi điều về
việc bơi nhưng không biết cách bơi. Không khó để biết việc bơi
về mặt lí thuyết; có thể nghiên cứu qua một cuốn sách về bơi. Tất
cả tài liệu về bơi lội đều có thể được ghi nhớ. Một người có thể là
một chuyên gia về bơi lội và có thể trả lời bất kì câu hỏi nào
được hỏi về việc bơi. Và vậy mà, đừng sai lầm đẩy người ấy
xuống sông, vì biết bơi là vấn đề hoàn toàn khác.
Không cần phải biết mọi điều về việc bơi đối với một người
biết bơi. Có thể là người ấy chỉ biết bơi nhưng dốt nát về bất kì
tri thức lí thuyết nào. Nhưng toàn bộ tri thức lí thuyết của một
người sẽ không hữu dụng gì cho người ấy nếu thuyền của người
ấy bị chìm và cuộc sống của người ấy bị lâm nguy. Vào lúc như
vậy, người không biết gì về tri thức bơi lội nhưng biết chính việc
bơi sẽ có khả năng bơi và cứu mạng mình. Đây là lí do tại sao
hiền nhân của Upanishad chỉ đúng những đặc trưng nền tảng của
người có học thực sự. Ông ấy nói họ là người có học, người trí
huệ, người thấy mọi đối tượng hữu tình và vô tình trong bản thân
họ và thấy bản thân họ trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình.
Những người như thế trở thành tự do khỏi mọi sầu não và gắn bó.
Tại sao ông ấy đã gộp nhóm hai điều này - sầu não và gắn bó
- với nhau? Chúng được gộp nhóm với nhau bởi vì hai điều này
là một; chúng là những bộ phận cùng xảy ra, không tránh khỏi
của cùng một hoàn cảnh tâm trí. Trong hai điều này, một điều
không bao giờ đứng một mình. Cho nên hiểu chúng cho đúng.
Tâm trí bị gắn bó thì sẽ buồn rầu và sầu não nữa; và nơi không có
gắn bó sầu não không thể có đó được. Thực ra, sầu não xảy ra khi
đối tượng của gắn bó bị phá huỷ. Không có lí do nào khác cho buồn rầu. Giả sử tôi có gắn bó với ai đó: nếu người ấy chết, tôi bị
đắm chìm trong buồn rầu. Buồn rầu tựa như cái bóng đi theo gắn
bó. Nếu tôi không có gắn bó với bất kì ai, không thể buồn được,
cho dù tôi muốn thế.
Có một ngôi nhà mà tôi gắn bó. Nếu nó bị cháy tôi cảm thấy
sầu não. Có sầu não ngay khi gắn bó bị dứt đoạn và đứt gẫy - bất
kì đâu nó gặp khó khăn, bất kì đâu nó bị tan vỡ, bất kì đâu nó bị
chống đối. Và nhớ lấy, khi sầu não tới thì bạn sẽ phải tạo ra gắn
bó để cứu lấy bản thân mình khỏi sầu não. Khi sầu não tới bạn sẽ
phải tìm ra một đối tượng mới cho gắn bó của bạn, để cứu bản
thân bạn khỏi sầu não, để tránh xa nó. Nếu một người bạn yêu
chết đi, bạn không có khả năng quên được người đó chừng nào
bạn còn chưa tìm thấy cái thay thế để yêu. Khó quên gắn bó cũ
chừng nào bạn còn chưa ném nó đi và thay thế nó bởi việc bầy tỏ
tình yêu của bạn cho cái thay thế mới.
Cho nên sầu não tới khi gắn bó bị tan vỡ, và để trốn chạy
khỏi sầu não đó chúng ta phải tạo ra những đối tượng mới cho
gắn bó của mình. Vậy cái vòng luẩn quẩn này cứ tiếp diễn. Mọi
gắn bó đều đem tới sầu não và mọi sầu não bị kìm nén bởi những
đối tượng mới của gắn bó. Bệnh tật tới; thuốc phải được cho, và
nó gây ra các kiểu bệnh tật khác. Thế rồi thuốc mới được đưa ra
cho bệnh mới và những bệnh mới này làm phát sinh những bệnh
mới nữa. Vậy là cái vòng này cứ tiếp diễn. Cho nên đó là một
quyết định trí huệ gộp nhóm hai điều này với nhau.
Đây là lí do tại sao người ta nói rằng người biết trở nên tự do
khỏi sầu não và gắn bó. Làm sao những ý tưởng về của tôi và của
anh có thể tới được với người thấy bản thân mình trong mọi đối
tượng hữu tình và vô tình và thấy tất cả chúng trong bản thân
người ấy? Thế thì làm sao gắn bó được tạo ra? Nó được tạo ra chỉ
khi bạn gắn bản thân mình với ai đó, và nói, “Cái này là của tôi,
phần còn lại không phải của tôi,” hay khi bạn nói, “Toà nhà này
là của tôi, phần còn lại không phải là của tôi.”
Khi tôi tới đây, một bà nào đó tới gặp tôi. Bà ấy nói, “Do ân
huệ lớn của thầy cửa hàng của con trai tôi được cứu khỏi bị bắt
cháy. Toà nhà kế bên bị bắt cháy, và lửa sắp lan sang cửa hàng
chúng tôi. Nhưng cửa hàng của chúng tôi đã được cứu.” Bà ấy
mang đồ ngọt tới biếu tôi. Bà ấy vui mừng rằng cửa hàng của con
bà ấy đã được cứu. Không, bà ấy không tiếc gì cho toà nhà đã bị
lửa tàn phá cả, vì bà ấy không có gắn bó với chúng. Ngược lại, bà
ấy hài lòng vì toà nhà mà bà ấy gắn bó đã được cứu thoát.
Gắn bó bao giờ cũng mang tính loại trừ; nó bám vào cái này
và bỏ ra phần còn lại. Nó nói, “Đây là vợ tôi, đây là chồng tôi,
đây là con tôi, đây là nhà tôi, đây là cửa hàng của tôi” - có cái tôi
trong tất cả những thứ này - “và tôi không quan tâm tới những cái
còn lại!” Nếu bất kì điều gì xảy ra cho phần còn lại, nó không
ảnh hưởng tới bạn theo bất kì cách nào, nó không tạo ra khác biệt
gì cho bạn. Bạn hài lòng rằng cái của riêng bạn được cứu thoát.
Mức độ gắn bó giảm đi khi trường gắn bó trải rộng ra. Cái
gắn bó lớn lao nhất là cho bản thân mình, vì không cái gì dường
như là ‘của tôi’ nhiều hơn bản thân người ta. Cho nên, chẳng hạn,
dường như là con thuyền đang chìm, có một người chồng và một
người vợ đang trong nó, và tình huống là tới mức chỉ một trong
hai người có thể được cứu, thế thì cả hai đều sẽ muốn được cứu.
Nếu lửa bùng lên trong toà nhà, người chủ sẽ nhảy ra trước hết và
rồi hỏi han về các thành viên khác trong gia đình. Một người biết
tới đám cháy không sớm hơn bản thân người đó chạy ra. Cho
nên, gắn bó được tập trung phần lớn quanh cái tôi; nó là liên kết
mạnh nhất với cái tôi. Thế rồi nó giảm dần đi khi trường của cái
‘của tôi’ mở rộng ra. Nó sẽ ít hơn khi hướng tới gia đình, ít nữa
khi hướng tới thành phố, càng ít nữa khi hướng tới quốc gia, và
thậm chí còn ít hơn nữa khi hướng tới toàn thể nhân loại. Và nếu mọi người đang sống trên hành tinh khác nào đó, sẽ không có
gắn bó nào hướng tới họ.
Các nhà khoa học tuyên bố rằng có sự sống trên ít nhất năm
mươi nghìn hành tinh khác. Chúng ta không biểu lộ sự gắn bó gì
với họ cả. Ngay cả hướng tới nhân loại cũng dường như tối thiểu.
Chúng ta vẫn còn không quan tâm và không bị ảnh hưởng khi
bẩy trăm nghìn người chết ở Pakistan. Nếu một người chết trong
gia đình chúng ta, chúng ta còn bị tác động sầu não hơn là khi
biết bao nhiêu người chết ở Pakistan, và nếu một ngón tay chúng
ta bị đứt, chúng ta kinh nghiệm còn đau hơn là chúng ta cảm thấy
khi bẩy trăm nghìn người kia chết. Khi chúng ta tiến dần tới cái
‘tôi’, gắn bó trở nên tập trung hơn, và khi chúng ta đi xa khỏi cái
‘của tôi’, bóng dáng của nó trở nên mảnh mai và hiếm hơn.
Gắn bó là cái bóng của bản ngã. Gắn bó lập tức được tạo ra
bất kì chỗ nào bạn thấy ‘tôi đây’. Nhưng như tôi đã nói, gắn bó
mang tính loại trừ; để làm gắn bó thành có thể, cái gì đó hay ai đó
phải bị bỏ ra. Do đó, hiền nhân này nói, người đã thấy mọi đối
tượng hữu tình và vô tình trong bản thân mình, trở thành không
loại trừ; cảm giác trong người ấy bây giờ là, “Tất cả đều là của
ta.” Người ấy trở thành người bao hàm tất cả. Thế thì gắn bó
không xảy ra, bởi vì bây giờ không có nền tảng cho nó.
Khi tất cả đều là ‘của tôi’, không có mục đích nào trong việc
gọi bất kì ai là của tôi. Đã có một mục đích cho việc nói ‘của tôi’
chừng nào còn có một mục đích cho việc nói ‘của bạn’ - có ai đó
không phải là ‘của tôi’. Cho nên bạn tạo ra biên giới, bạn vẽ ra
đường bao để chỉ ra giới hạn của cái ‘của tôi’. Bạn tạo ra bức
tường, biên giới. Bên ngoài giới hạn này, một thế giới khác bắt
đầu mà với nó bạn không quan tâm chút nào. “Dù nó chết hay bị
tàn phá là không liên quan tới cái của tôi.” Phía bên này của biên
giới là thế giới của bạn, vì cái đó mà bạn mong muốn rằng không
có khổ, không có tai hoạ, không có đau buồn, vì bạn bị sầu não
khi nó gặp rắc rối.
Upanishad nói gắn bó của một người tan biến đi khi người
ấy thấy bản thân mình không chỉ trong mọi loài vật, không chỉ
trong mọi vật sống, mà trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình,
thậm chí trong từng hạt cát - tức là nói trong bất kì sự tồn tại nào
trong thế giới này. Thế thì không có gắn bó nào còn lại. Gắn bó
có đó trong khi biên giới có đó. Gắn bó không thể vô giới hạn
được. Nhớ lấy, gắn bó vô giới hạn là không thể được. Nó sống
bên trong các giới hạn. Khi biên giới mở rộng dần ra, gắn bó yếu
đi; và khi các giới hạn hẹp lại, gắn bó trở nên mạnh thêm. Trong
cái vô giới hạn, gắn bó biến mất.
Và thế thì làm sao sầu não có thể có được khi gắn bó đã biến
mất? Nó không tồn tại mà không có gắn bó. Nếu không có gắn
bó, không có sầu não. Cho nên Upanishad gọi người ấy là người
trí huệ, người đứng ngoài cả gắn bó và sầu não. Và làm sao
người ấy đứng ngoài? Người ấy đứng ngoài bởi việc thấy bản
thân mình trong toàn bộ sự tồn tại, cái có đó lan toả bao quanh tất
cả chúng ta nhưng không thấy được đối với chúng ta bởi vì
chúng ta cũng có đó trong nó.
Sự kiện sau đây xảy ra trong cuộc sống của Rabindranath
Tagore. Cũng đáng để ý đến. Ông ấy đã viết lời cầu nguyện về
Thượng đế trong Gitanjali, bởi điều đó ông ấy đã nhận được giải
thưởng Nobel và trở nên nổi tiếng trên thế giới. Nhưng còn có
một cụ già sống gần nhà ông, người bắt đầu thường xuyên gây
phiền nhiễu cho ông. Bất kì khi nào cụ già gặp Rabindranath, cụ
đều giữ ông tấy lại và hỏi, “Xin nói cho tôi sự thực: ông đã biết
Thượng đế chưa?”
Cụ già thật bướng bỉnh còn Rabindranath, là một người
lương thiện, không thể nói dối được. Cụ già nhìn thẳng và sâu
vào mắt Rabindranath đến mức tay và chân ông ấy run lên. Đây là người đã được giải thưởng Nobel đấy. Bất kì khi nào ông ấy đi
ra ngoài ông ấy đều được nhiều người tôn kính. Người ta hay nói,
“Đây là tấm gương sống về một người mà Upanishad gọi là
Maharishi.” Vậy mà ông ấy ở đây, bị một cụ già hàng xóm làm
cho bối rối. Và việc gây phiền nhiễu này không chỉ có một ngày
hay một sáng hay một tối, mà liên tục mọi ngày, vì cụ già, không
có gì làm, để toàn bộ thời gian ngồi trên ghế cạnh cửa nhà ông ấy
cho nên Rabindranath thấy khó mà tránh được cụ.
Rabindranath đã viết trong nhật kí rằng ông thấy rất khó rời
khỏi nhà: ‘Trước khi đi ra ngoài, tôi sẽ hỏi liệu cụ già này có
đang ngồi đó hay không. Bằng không cụ ấy sẽ túm lấy tôi và hỏi,
“Ông đã thấy Thượng đế chưa? Ông có biết ngài không?” Tôi
thường bị run lên khi nghe những câu hỏi này bởi vì tôi không
biết gì về ngài cả. Khi nghe câu trả lời của tôi, cụ già sẽ cười to
và toàn tâm. Cái cười của cụ theo cách đó làm hỏng giấc ngủ của
tôi, nó bắt đầu ám ảnh tôi; tôi bắt đầu sợ ông cụ ấy. Một lần tôi
nghĩ, ‘Mình thực sự tạo ra rắc rối cho bản thân mình khi viết
cuốn Gitanjali này.’ Tôi nghĩ, ‘Cụ già đó phải đã có thoáng nhìn
nào đó về Thượng đế, bằng không cụ không thể ám ảnh mình đến
thế.’” Từ mắt cụ ấy dường như là cụ đã biết điều gì đó, bởi vì
Rabindranath không thể trốn tránh cái nhìn đó được khi nhìn vào
cụ và lặp lại một hay hai dòng Gitanjali để trả lời cho câu hỏi của
cụ.
Rồi nhiều năm trôi qua, và cụ già vẫn cứ tiếp tục là nỗi ám
ảnh của ông ấy. Rabindranath đã nói: “Một tải trọng lớn được
nhấc ra khỏi tâm trí tôi vào cái ngày mà tôi có thể nói cho cụ,
‘Tôi đã biết Thượng đế.’” Đó là vào đầu mùa mưa, và những cơn
mưa để bùn nhão nhoét ở mọi nơi. Vũng chứa nước và những hố
nhỏ trên đường tràn đầy nước. Ếch kêu ồm ộp. Hôm đó là buổi
sáng và Rabindranath bị lôi cuốn đi ra ngoài bởi những thay đổi
đó trong tự nhiên - tiếng ếch kêu oàm oạp, tiếng rào rào của mưa
rơi, hương mới của đất. Ông ấy thấy cụ già ấy không ngồi ở vị trí
thường lệ. Có lẽ cụ già còn chưa dậy.
Rabindranath chạy ra khỏi nhà. Mặt trời đã lên trên biển.
Ông dừng trên bãi biển. Mặt trời lung linh trên sóng. Ông nhìn
vào mặt trời và sự phản xạ của nó, và rồi bắt đầu trở về nhà. Mặt
trời được phản xạ trong từng vũng nước, trong từng ao nhỏ, trong
từng rãnh nước bẩn bên vệ đường. Nó lấp lánh khắp xung quanh
- trong những vũng nước bẩn, trên biển khơi, trên dòng suối nhỏ
sạch sẽ, trong mọi phía. Thấy tất cả điều này, một điệu nhạc nào
đó, một cái chưa biết nào đó, một âm thanh vô định bên trong bắt
đầu ngân lên trong tim Rabindranath.
Khi ông ấy quay trở về, ông ấy nhảy múa. Ông ấy nhảy múa
vì ông đã thấy rằng sự phản xạ của mặt trời không bao giờ bị mờ
xỉn . Ông ấy nhảy múa bởi vì ông ấy đã thấy rằng sự phản xạ của
mặt trời tươi tắn và sạch sẽ trong nước bùn bẩn cứ như là trong
nước sạch nhất. Sự phản xạ không bao giờ bẩn cả. Làm sao nó có
thể bẩn được? Chỉ nước có thể bùn và bẩn thôi. Nhưng mặt trời
mà nhìn trong đó, sự phản xạ của mặt trời trong đó, là không bẩn.
Nó tuyệt đối tươi tắn và sạch sẽ. Không nước nào có thể làm hư
hỏng nó được. Đây là một kinh nghiệm cách mạng, rất lớn lao
cho ông ấy. Điều đó có nghĩa là Thượng đế, người ở bên trong
ngay cả cái tồi tệ nhất của con người, không thể bị làm bẩn. Sự
phản xạ của Thượng đế trong con người tội lỗi nhất là thuần khiết
như nó có trong những người ngoan đạo nhất. Cho nên ông ấy đã
trở về trong nhảy múa. Cánh cửa đã mở ra bên trong.
Cụ già kia đã ngồi gần cánh cửa. Đây là lần đầu tiên ông ấy
không còn sợ cụ già, và lần đầu tiên cụ già nói, “Được rồi, dường
như là anh đã biết ngài.” Cụ già lại gần Rabindranath ôm choàng
lấy ông ấy và nói, “Cực lạc của anh, điệu nhảy của anh hôm nay
đã nói cho ta rằng anh đã biết ngài. Bây giờ ta có thể kính trọng
anh!” 

Thế rồi trong ba ngày Rabindranath vẫn còn trong trạng thái
cực lạc - trong trạng thái điên khùng. Mọi người trong gia đình
đều lo sợ khi thấy điều này. Chỉ cụ già ấy thường tới và bảo họ,
“Vui mừng đi! Vui vẻ đi!” và bắt đầu thông báo cho láng giềng
rằng ông ấy đã biết Thượng đế. Nhưng mọi người trong nhà đều
rất sợ vì Rabindranath hành xử một cách rất kì cục. Nếu ông ấy
thấy một cột trụ, ông sẽ ôm chầm lấy nó. Nếu một con bò đi
ngang qua trên đường ông ấy sẽ ôm lấy con bò nữa. Nếu ông ấy
thấy một cái cây ông ấy sẽ ôm chầm lấy nó. Mọi người trong nhà
nghĩ ông ấy đã mất trí: “Ông ấy đã phát điên rồi!” Nhưng cụ già
này vẫn tiếp tục nói, “Đừng lo. Ông ấy điên khùng từ trước cho
tới nay, và bây giờ ông ấy lành mạnh. Bây giờ ông ấy bắt đầu
thấy, trong tất cả sự tồn tại, cái mà không có nó bài hát ông ấy
vẫn hát mọi lần đều vô dụng. Đấy chỉ là nhịp điệu, một cái cớ
nghèo nàn cho nhà thơ. Chỉ bây giờ, âm nhạc thực sự được sinh
ra trong cuộc đời ông ấy.”
Rabindranath đã viết: “Tôi có thể, dần dần, kiểm soát bản
thân mình và đem cực lạc của mình vào sự kiểm soát, với nỗ lực
rất lớn. Bằng không tôi mong mỏi ôm choàng mọi người và mọi
thứ tôi gặp. Cho tới nay tôi đã mong mỏi và cầu nguyện, ‘Cầu
Trời, cánh cửa của ngài ở đâu?’ Bây giờ Thượng đế là cánh cửa
của tôi, và bây giờ bất kì khi nào tôi nhìn tôi đều thấy cánh cửa
của ngài. Từ trước tới nay tôi vẫn cứ tìm ngài và hỏi, ‘Ngài trốn
ở đâu vậy?’ Nhưng bây giờ tôi ngạc nhiên bởi vì ngài đã có đó
trong tôi; không cái gì khác ngoài ngài.”
Người thấy sự hiện diện của mình trong tất cả sự tồn tại hay
thấy toàn bộ sự tồn tại trong bản thân mình thực sự là người trí
huệ; và người như vậy ở ngoài gắn bó và sầu não. Nhớ lấy,
không có hạnh phúc không có bất hạnh trong cuộc đời người đó,
chỉ có cực lạc. Cái thuần khiết của sự tồn tại nhảy múa trong
cuộc đời người ấy. Người ấy là bản thân cuộc sống; nhảy múa và
ca hát ngợi ca sự tồn tại. Bản thân cuộc đời người ấy là âm nhạc;
và tất cả những cái đem đến sầu não, tất cả những cái trói buộc,
tất cả những cái trở thành gắn bó, tất cả những cái dường như là
đem lại hạnh phúc hôm nay nhưng là nguyên nhân của bất hạnh
ngày mai - tất cả những cái này không còn chỗ trong cuộc sống
người ấy. Người ấy bây giờ là tấm gương.
Khi bạn đứng trước một tấm gương bạn được phản chiếu vào
trong nó, và khi bạn đi xa khỏi nó, nó lập tức rời bỏ bạn. Nó
không nắm giữ bạn. Ngay khi bạn đi ra khỏi nó, nó trở thành
trống rỗng, không phản xạ. Tấm gương không mang gắn bó nào
với bạn. Đó là lí do tại sao, khi bạn đứng dẹp sang bên, thay vì
đứng trước nó, nó không bị tan thành từng mảnh vì buồn rầu với
bạn. Trái tim nó không tan nát. Nó không nói, “Làm sao tôi có
thể sống được mà không có bạn?” Thay vì thế nó nói, “Khi bạn
đứng trước tôi bạn rất đẹp, rất tốt, và bạn đã biểu lộ ân huệ lớn
cho tôi; và khi bạn rời bỏ tôi, tôi không cảm thấy khó chịu.”
Không cái gì thay đổi. Tấm gương vui vẻ khi nó rỗng không và
không phản xạ cũng như khi nó tràn đầy với phản xạ.
Do vậy người có học sống tựa tấm gương trong thế giới.
Người ấy hài lòng với bất kì cái gì tới trước mình. Người ấy hạnh
phúc nếu thấy hoa và trở thành phản xạ của hoa, dội sự phản xạ
của nó lại, thấy tính thượng đế trong nó. Nếu không có ai ở trước
người ấy - khi tất cả là trống rỗng - người ấy thấy tính thượng đế
trong cái trống rỗng. Chính cái trống rỗng là tính thượng đế. Thế
thì người ấy nhảy múa trong cái trống rỗng đó, và người ấy là
trong cực lạc ngay cả trong cái trống rỗng.
Đủ cho hôm nay. Bây giờ tự chúng ta thử trở thành những
tấm gương. 


Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Hạnh phúc là gì?


Hạnh phúc chẳng liên quan gì tới thành công,
hạnh phúc chẳng liên quan gì tới tham vọng,
hạnh phúc chẳng liên quan gì tới tiền bạc, quyền
lực, danh vọng. Hạnh phúc có cái gì đó liên
quan tới tâm thức của bạn, không với cá tính của
bạn.
Điều đó tuỳ ở bạn
Hạnh phúc là gì? Điều đó tuỳ ở bạn, ở trạng thái
của bạn có ý thức hay vô ý thức, liệu bạn đang ngủ hay
thức. Có một câu châm ngôn nổi tiếng của Murphy.
Ông ấy nói có hai loại người: người bao giờ cũng chia
nhân loại thành hai kiểu, và loại kia, người không phân
chia nhân loại chút nào. Tôi thuộc vào loại thứ nhất:
Nhân loại có thể được chia thành hai loại, người ngủ và
người thức - và, tất nhiên, một nhóm nhỏ ở giữa.
Hạnh phúc sẽ phụ thuộc vào nơi bạn đang ở trong ý
thức của mình. Nếu bạn ngủ, thế thì sướng là hạnh
phúc. Sướng nghĩa là cảm giác, cố gắng đạt tới cái gì
đó qua thân thể cái mà không thể nào đạt được qua thân
thể - ép buộc thân thể đạt tới cái gì đó mà nó không có
khả năng đạt tới. Mọi người đều cố gắng, theo đủ mọi
cách, để đạt tới hạnh phúc qua thân thể.
Thân thể có thể cho bạn chỉ cái sướng nhất thời, và
mỗi sướng được cân bằng bởi đau theo cùng lượng, tới
cùng mức độ. Từng sướng đều có theo sau cái đối lập
của nó bởi vì thân thể tồn tại trong thế giới nhị nguyên.
Cũng như ngày được tiếp nối bởi đêm và chết được tiếp
nối bởi sống và sống được tiếp nối bởi chết; đó là cái
vòng luẩn quẩn. Sướng của bạn sẽ được tiếp nối bởi
đau, đau của bạn sẽ được tiếp nối bởi sướng. Nhưng
bạn sẽ không bao giờ thoải mái. Khi bạn trong trạng
thái sướng bạn sẽ sợ rằng bạn đang sắp làm mất nó, và
nỗi sợ đó sẽ đầu độc nó. Và khi bạn bị mất hút vào
trong đau, tất nhiên, bạn sẽ trong đau khổ và bạn sẽ làm
mọi nỗ lực có thể được để thoát ra khỏi nó - chỉ để rơi
lại vào trong nó lần nữa.
Phật gọi điều này là bánh xe sinh và tử. Chúng ta
cứ đi cùng bánh xe này, bám lấy bánh xe này... và bánh
xe này quay mãi. Đôi khi sướng tới và đôi khi đau tới,
nhưng chúng ta bị nghiền nát giữa hai tảng đá này.
Nhưng người ngủ chẳng biết gì khác. Người đó chỉ
biết vài cảm giác của thân thể - thức ăn, dục; đây là thế
giới của người đó. Người đó cứ di chuyển giữa hai điều
này. Đây là hai đầu của thân thể người đó: thức ăn và
dục. Nếu người đó kìm nén dục người đó trở nên
nghiện thức ăn; nếu người đó kìm nén thức ăn người đó
trở nên nghiện dục. Năng lượng cứ chuyển động tựa
như con lắc. Và bất kì cái gì bạn gọi là sướng, nhiều
nhất, nó chỉ là giảm nhẹ khỏi trạng thái căng thẳng.

Năng lượng dục tụ tập, tích luỹ; bạn trở nên căng
thẳng và nặng nề và bạn muốn xả nó ra. Với người
đang ngủ, hoạt động dục không là gì ngoài việc làm
giảm nhẹ, tựa như việc hắt hơi tốt. Nó không cho người
đó cái gì ngoài giảm nhẹ nào đó - căng thẳng có đó, bây
giờ nó không còn có đó. Nhưng nó sẽ tích luỹ lại. Thức
ăn cho bạn chỉ chút ít vị trên lưỡi; để sống không cần
nhiều mấy. Nhưng nhiều người đang sống chỉ để ăn; có
rất ít người ăn để sống.
Câu chuyện về Colombus rất nổi tiếng. Đó là cuộc
hành trình dài. Trong ba tháng họ chẳng thấy gì
ngoài nước. Thế rồi một hôm Columbus nhìn ra
chân trời và thấy cây. Và nếu bạn nghĩ Columbus
hạnh phúc khi thấy cây, bạn phải đã thấy con chó
của ông ấy!
Đây là thế giới của sướng. Chó có thể được tha thứ,
nhưng bạn không thể được tha thứ.
Trong ngày đầu tiên của họ, anh thanh niên, tìm
cách sướng, đã mời một cô thanh niên xem cô có
thích đi chơi bowling không. Cô ấy đáp rằng cô ấy
chẳng quan tâm tới chơi bowling. Thế là anh ta gợi
ý đi xem phim, nhưng cô ấy trả lời rằng cho ấy
cũng chẳng quan tâm tới phim. Cố gắng nghĩ tới cái
gì đó khác anh ta mời cô ấy thuốc lá, cô ấy từ chối.
Thế rồi anh ta lại hỏi cô ấy có muốn đi nhảy, đi
uống ở câu lạc bộ khiêu vũ không. Cô ấy lại từ chối
nói rằng cô ấy chẳng quan tâm tới những thứ đó.
Thất vọng quá anh ta hỏi thẳng cô ấy có muốn tới
căn hộ của anh ta để làm tình một đêm không. Anh
ta thật sự ngạc nhiên cô ấy sung sướng đồng ý, hôn
anh ta một cách đắm đuối, và nói, "Anh thấy đấy,
anh chẳng cần những thứ khác để có sướng!"
Cái chúng ta gọi là "hạnh phúc" tuỳ thuộc vào từng
người. Với người ngủ, cảm giác là hạnh phúc. Người
ngủ sống từ sướng này sang sướng khác. Người đó
chạy xô từ cảm giác này sang cảm giác khác. Người đó
sống vì những xúc động nhỏ bé; cuộc sống của người
đó rất nông cạn. Nó không có chiều sâu, nó không có
phẩm chất. Người đó sống trong thế giới của số lượng.
Thế rồi có những người sống ở giữa, người không
ngủ cũng không thức, người đang trong quên lãng, chút
ít ngủ, chút ít thức. Bạn đôi khi cũng có kinh nghiệm đó
vào sáng sớm - vẫn ngủ đấy, nhưng bạn không thể nói
bạn đang ngủ được vì bạn có thể nghe thấy tiếng động
trong nhà, bạn tình của bạn đang pha trà, tiếng động
của ấm đun nước hay trẻ con đang sửa soạn tới trường.
Bạn có thể nghe thấy những thứ này, nhưng dầu vậy
bạn vẫn không thức. Mơ hồ, lơ mơ, những tiếng động
đó vọng tới bạn, cứ dường như có khoảng cách xa xăm
giữa bạn và tất cả những điều đang xảy ra quanh bạn.
Có cảm giác dường như nó vẫn là một phần của giấc
mơ. Nó không phải là một phần của giấc mơ, nhưng
bạn đang trong trạng thái lưng chừng.
Cùng điều đó xảy ra khi bạn bắt đầu thiền. Người
không thiền ngủ, mơ; thiền nhân bắt đầu đi xa khỏi giấc
ngủ hướng tới thức tỉnh, là trong trạng thái chuyển đổi.
Thế thì hạnh phúc có nghĩa hoàn toàn khác: Nó trở thành nhiều phẩm hơn, ít lượng đi; nó mang tính tâm lí
nhiều hơn, ít tính vật lí. Thiền nhân tận hưởng âm nhạc
nhiều hơn, tận hưởng thơ ca nhiều hơn, tận hưởng việc
tạo ra cái gì đó. Những người này tận hưởng tự nhiên,
cái đẹp của nó. Họ tận hưởng im lặng, họ tận hưởng
điều họ chưa bao giờ tận hưởng trước đây, và điều này
kéo dài lâu hơn nhiều. Cho dù âm nhạc có dừng lại, cái
gì đó vẫn còn lửng lơ trong bạn.
Và nó không phải là giảm nhẹ. Khác biệt giữa
sướng và phẩm chất này của hạnh phúc là ở chỗ nó
không phải là giảm nhẹ, nó là việc làm giàu có thêm.
Bạn trở nên tràn đầy hơn, bạn bắt đầu tuôn chảy. Trong
khi bạn nghe nhạc hay, cái gì
đó được nảy ra trong bản thể
bạn, hài hoà nảy sinh trong
bạn - bạn trở thành âm nhạc.
Hay nhảy múa, bỗng nhiên
bạn quên mất thân thể mình;
thân thể bạn trở thành vô
trọng lượng. Việc bám của
sức hút lên bạn bị mất đi.
Bỗng nhiên bạn ở trong
không gian khác: Bản ngã
không còn rắn chắc thế, vũ
công tan chảy và hội nhập
vào điệu vũ.
Điều này còn cao hơn nhiều, sâu hơn nhiều so với
sướng bạn có được từ thức ăn hay dục. Điều này có
chiều sâu. Nhưng đây cũng không phải là điều tối
thượng. Điều tối thượng xảy ra chỉ khi bạn thức tỉnh
đầy đủ, khi bạn là vị phật, khi mọi giấc ngủ đều đã qua
và tất cả mọi việc mơ đều đã qua - khi toàn thể bản thể
bạn tràn đầy ánh sáng, khi không còn bóng tối bên
trong bạn. Mọi bóng tối đều đã biến mất và với bóng tối
đó, bản ngã cũng mất. Mọi căng thẳng đều biến mất,
mọi khổ sở, mọi lo âu. Bạn ở trong trạng thái của mãn
nguyện toàn bộ. Bạn sống trong hiện tại; không quá
khứ, không tương lai nào thêm nữa. Bạn hoàn toàn ở
đây bây giờ. Khoảnh khắc này là tất cả. Bây giờ là thời
gian duy nhất và ở đây là không gian duy nhất. Và thế
rồi bỗng nhiên toàn thể bầu trời rơi vào trong bạn. Đây
là phúc lạc. Đây là hạnh phúc thực.
Tìm phúc lạc đi; nó là quyền tập ấn của bạn. Đừng
vẫn còn bị mất hút trong rừng sướng; vươn lên cao hơn
một chút. Đạt tới hạnh phúc và thế rồi tới phúc lạc.
Sướng mang tính con vật, hạnh phúc mang tính con
người, phúc lạc mang tính thiêng liêng. Sướng trói buộc
bạn, nó là tù túng, nó xiềng xích bạn. Hạnh phúc cho
bạn cái áo rộng hơn chút ít, tự do hơn chút ít, nhưng chỉ
chút ít thôi. Phúc lạc là tự do tuyệt đối. Bạn bắt đầu đi
lên; nó cho bạn đôi cánh. Bạn không còn là một phần
của đất thô; bạn trở thành một phần của bầu trời. Bạn
trở thành ánh sáng, bạn trở thành vui vẻ.
Sướng phụ thuộc vào người khác. Hạnh phúc
không phụ thuộc vào người khác đến thế, nhưng dầu
vậy nó vẫn tách rời khỏi bạn. Phúc lạc không phụ
thuộc, nó cũng không tách rời; nó là chính bản thể bạn,
nó là chính bản tính của bạn.

Hạnh phúc chẳng liên quan gì tới thành công,
hạnh phúc chẳng liên quan gì tới tham vọng,
hạnh phúc chẳng liên quan gì tới tiền bạc, quyền
lực, danh vọng. Hạnh phúc có cái gì đó liên
quan tới tâm thức của bạn, không với cá tính của
bạn.
Điều đó tuỳ ở bạn
Hạnh phúc là gì? Điều đó tuỳ ở bạn, ở trạng thái
của bạn có ý thức hay vô ý thức, liệu bạn đang ngủ hay
thức. Có một câu châm ngôn nổi tiếng của Murphy.
Ông ấy nói có hai loại người: người bao giờ cũng chia
nhân loại thành hai kiểu, và loại kia, người không phân
chia nhân loại chút nào. Tôi thuộc vào loại thứ nhất:
Nhân loại có thể được chia thành hai loại, người ngủ và
người thức - và, tất nhiên, một nhóm nhỏ ở giữa.
Hạnh phúc sẽ phụ thuộc vào nơi bạn đang ở trong ý
thức của mình. Nếu bạn ngủ, thế thì sướng là hạnh
phúc. Sướng nghĩa là cảm giác, cố gắng đạt tới cái gì
đó qua thân thể cái mà không thể nào đạt được qua thân
thể - ép buộc thân thể đạt tới cái gì đó mà nó không có
khả năng đạt tới. Mọi người đều cố gắng, theo đủ mọi
cách, để đạt tới hạnh phúc qua thân thể.
Thân thể có thể cho bạn chỉ cái sướng nhất thời, và
mỗi sướng được cân bằng bởi đau theo cùng lượng, tới
cùng mức độ. Từng sướng đều có theo sau cái đối lập
của nó bởi vì thân thể tồn tại trong thế giới nhị nguyên.
Cũng như ngày được tiếp nối bởi đêm và chết được tiếp
nối bởi sống và sống được tiếp nối bởi chết; đó là cái
vòng luẩn quẩn. Sướng của bạn sẽ được tiếp nối bởi
đau, đau của bạn sẽ được tiếp nối bởi sướng. Nhưng
bạn sẽ không bao giờ thoải mái. Khi bạn trong trạng
thái sướng bạn sẽ sợ rằng bạn đang sắp làm mất nó, và
nỗi sợ đó sẽ đầu độc nó. Và khi bạn bị mất hút vào
trong đau, tất nhiên, bạn sẽ trong đau khổ và bạn sẽ làm
mọi nỗ lực có thể được để thoát ra khỏi nó - chỉ để rơi
lại vào trong nó lần nữa.
Phật gọi điều này là bánh xe sinh và tử. Chúng ta
cứ đi cùng bánh xe này, bám lấy bánh xe này... và bánh
xe này quay mãi. Đôi khi sướng tới và đôi khi đau tới,
nhưng chúng ta bị nghiền nát giữa hai tảng đá này.
Nhưng người ngủ chẳng biết gì khác. Người đó chỉ
biết vài cảm giác của thân thể - thức ăn, dục; đây là thế
giới của người đó. Người đó cứ di chuyển giữa hai điều
này. Đây là hai đầu của thân thể người đó: thức ăn và
dục. Nếu người đó kìm nén dục người đó trở nên
nghiện thức ăn; nếu người đó kìm nén thức ăn người đó
trở nên nghiện dục. Năng lượng cứ chuyển động tựa
như con lắc. Và bất kì cái gì bạn gọi là sướng, nhiều
nhất, nó chỉ là giảm nhẹ khỏi trạng thái căng thẳng.

Năng lượng dục tụ tập, tích luỹ; bạn trở nên căng
thẳng và nặng nề và bạn muốn xả nó ra. Với người
đang ngủ, hoạt động dục không là gì ngoài việc làm
giảm nhẹ, tựa như việc hắt hơi tốt. Nó không cho người
đó cái gì ngoài giảm nhẹ nào đó - căng thẳng có đó, bây
giờ nó không còn có đó. Nhưng nó sẽ tích luỹ lại. Thức
ăn cho bạn chỉ chút ít vị trên lưỡi; để sống không cần
nhiều mấy. Nhưng nhiều người đang sống chỉ để ăn; có
rất ít người ăn để sống.
Câu chuyện về Colombus rất nổi tiếng. Đó là cuộc
hành trình dài. Trong ba tháng họ chẳng thấy gì
ngoài nước. Thế rồi một hôm Columbus nhìn ra
chân trời và thấy cây. Và nếu bạn nghĩ Columbus
hạnh phúc khi thấy cây, bạn phải đã thấy con chó
của ông ấy!
Đây là thế giới của sướng. Chó có thể được tha thứ,
nhưng bạn không thể được tha thứ.
Trong ngày đầu tiên của họ, anh thanh niên, tìm
cách sướng, đã mời một cô thanh niên xem cô có
thích đi chơi bowling không. Cô ấy đáp rằng cô ấy
chẳng quan tâm tới chơi bowling. Thế là anh ta gợi
ý đi xem phim, nhưng cô ấy trả lời rằng cho ấy
cũng chẳng quan tâm tới phim. Cố gắng nghĩ tới cái
gì đó khác anh ta mời cô ấy thuốc lá, cô ấy từ chối.
Thế rồi anh ta lại hỏi cô ấy có muốn đi nhảy, đi
uống ở câu lạc bộ khiêu vũ không. Cô ấy lại từ chối
nói rằng cô ấy chẳng quan tâm tới những thứ đó.
Thất vọng quá anh ta hỏi thẳng cô ấy có muốn tới
căn hộ của anh ta để làm tình một đêm không. Anh
ta thật sự ngạc nhiên cô ấy sung sướng đồng ý, hôn
anh ta một cách đắm đuối, và nói, "Anh thấy đấy,
anh chẳng cần những thứ khác để có sướng!"
Cái chúng ta gọi là "hạnh phúc" tuỳ thuộc vào từng
người. Với người ngủ, cảm giác là hạnh phúc. Người
ngủ sống từ sướng này sang sướng khác. Người đó
chạy xô từ cảm giác này sang cảm giác khác. Người đó
sống vì những xúc động nhỏ bé; cuộc sống của người
đó rất nông cạn. Nó không có chiều sâu, nó không có
phẩm chất. Người đó sống trong thế giới của số lượng.
Thế rồi có những người sống ở giữa, người không
ngủ cũng không thức, người đang trong quên lãng, chút
ít ngủ, chút ít thức. Bạn đôi khi cũng có kinh nghiệm đó
vào sáng sớm - vẫn ngủ đấy, nhưng bạn không thể nói
bạn đang ngủ được vì bạn có thể nghe thấy tiếng động
trong nhà, bạn tình của bạn đang pha trà, tiếng động
của ấm đun nước hay trẻ con đang sửa soạn tới trường.
Bạn có thể nghe thấy những thứ này, nhưng dầu vậy
bạn vẫn không thức. Mơ hồ, lơ mơ, những tiếng động
đó vọng tới bạn, cứ dường như có khoảng cách xa xăm
giữa bạn và tất cả những điều đang xảy ra quanh bạn.
Có cảm giác dường như nó vẫn là một phần của giấc
mơ. Nó không phải là một phần của giấc mơ, nhưng
bạn đang trong trạng thái lưng chừng.
Cùng điều đó xảy ra khi bạn bắt đầu thiền. Người
không thiền ngủ, mơ; thiền nhân bắt đầu đi xa khỏi giấc
ngủ hướng tới thức tỉnh, là trong trạng thái chuyển đổi.
Thế thì hạnh phúc có nghĩa hoàn toàn khác: Nó trở thành nhiều phẩm hơn, ít lượng đi; nó mang tính tâm lí
nhiều hơn, ít tính vật lí. Thiền nhân tận hưởng âm nhạc
nhiều hơn, tận hưởng thơ ca nhiều hơn, tận hưởng việc
tạo ra cái gì đó. Những người này tận hưởng tự nhiên,
cái đẹp của nó. Họ tận hưởng im lặng, họ tận hưởng
điều họ chưa bao giờ tận hưởng trước đây, và điều này
kéo dài lâu hơn nhiều. Cho dù âm nhạc có dừng lại, cái
gì đó vẫn còn lửng lơ trong bạn.
Và nó không phải là giảm nhẹ. Khác biệt giữa
sướng và phẩm chất này của hạnh phúc là ở chỗ nó
không phải là giảm nhẹ, nó là việc làm giàu có thêm.
Bạn trở nên tràn đầy hơn, bạn bắt đầu tuôn chảy. Trong
khi bạn nghe nhạc hay, cái gì
đó được nảy ra trong bản thể
bạn, hài hoà nảy sinh trong
bạn - bạn trở thành âm nhạc.
Hay nhảy múa, bỗng nhiên
bạn quên mất thân thể mình;
thân thể bạn trở thành vô
trọng lượng. Việc bám của
sức hút lên bạn bị mất đi.
Bỗng nhiên bạn ở trong
không gian khác: Bản ngã
không còn rắn chắc thế, vũ
công tan chảy và hội nhập
vào điệu vũ.
Điều này còn cao hơn nhiều, sâu hơn nhiều so với
sướng bạn có được từ thức ăn hay dục. Điều này có
chiều sâu. Nhưng đây cũng không phải là điều tối
thượng. Điều tối thượng xảy ra chỉ khi bạn thức tỉnh
đầy đủ, khi bạn là vị phật, khi mọi giấc ngủ đều đã qua
và tất cả mọi việc mơ đều đã qua - khi toàn thể bản thể
bạn tràn đầy ánh sáng, khi không còn bóng tối bên
trong bạn. Mọi bóng tối đều đã biến mất và với bóng tối
đó, bản ngã cũng mất. Mọi căng thẳng đều biến mất,
mọi khổ sở, mọi lo âu. Bạn ở trong trạng thái của mãn
nguyện toàn bộ. Bạn sống trong hiện tại; không quá
khứ, không tương lai nào thêm nữa. Bạn hoàn toàn ở
đây bây giờ. Khoảnh khắc này là tất cả. Bây giờ là thời
gian duy nhất và ở đây là không gian duy nhất. Và thế
rồi bỗng nhiên toàn thể bầu trời rơi vào trong bạn. Đây
là phúc lạc. Đây là hạnh phúc thực.
Tìm phúc lạc đi; nó là quyền tập ấn của bạn. Đừng
vẫn còn bị mất hút trong rừng sướng; vươn lên cao hơn
một chút. Đạt tới hạnh phúc và thế rồi tới phúc lạc.
Sướng mang tính con vật, hạnh phúc mang tính con
người, phúc lạc mang tính thiêng liêng. Sướng trói buộc
bạn, nó là tù túng, nó xiềng xích bạn. Hạnh phúc cho
bạn cái áo rộng hơn chút ít, tự do hơn chút ít, nhưng chỉ
chút ít thôi. Phúc lạc là tự do tuyệt đối. Bạn bắt đầu đi
lên; nó cho bạn đôi cánh. Bạn không còn là một phần
của đất thô; bạn trở thành một phần của bầu trời. Bạn
trở thành ánh sáng, bạn trở thành vui vẻ.
Sướng phụ thuộc vào người khác. Hạnh phúc
không phụ thuộc vào người khác đến thế, nhưng dầu
vậy nó vẫn tách rời khỏi bạn. Phúc lạc không phụ
thuộc, nó cũng không tách rời; nó là chính bản thể bạn,
nó là chính bản tính của bạn.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến