Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Bài nói về Adhyatma Upanishad

Từ upanishad nghĩa là hạt mầm - hạt mầm của khoa học/
nghệ thuật phương Đông cổ đại về học quan sát tâm trí và
các quá trình của nó một cách thảnh thơi và không phán xét,
do vậy tạo khả năng cho người ta siêu việt lên trên cuộc sống
nô lệ vào các giác quan và tìm thấy cảm nhận và sáng tỏ của
tự nhận biết.
Trong mười bẩy bài nói này, Osho dùng trí huệ cổ đại
của Adhyatma Upanishad như bàn đạp cho thông điệp của
ông gửi tới nhân loại đang chuyển động ngày càng nhanh
hơn hướng tới người biết mọi điều, vào buổi bình minh của
thế kỉ hai mươi mốt. "...Lần đầu tiên Upanishad đã dùng
ngôn ngữ khoa học và đã gạt sang bên ngôn ngữ trung tâm
của con người."
Các bản kinh cổ thường được trình bày dưới dạng đối
thoại thầy-đệ tử. Adhyatma Upanishad thay đổi cách thức
này để cho bản thân đệ tử nói với mình về tự hiểu biết và làm
chi tiết cách hiểu của mình và các bước trên con đường tới
chứng ngộ.
Osho nói, theo cách nói của người tìm kiếm vô danh,
"Đây là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
là cuộc đọ sức trực tiếp với tâm linh. Không có học thuyết
trong nó; chỉ có kinh nghiệm của người đã được hoàn
thành... Trong nó không có thảo luận về cái được sinh ra từ
tò mò hay thóc mách, không; trong nó có những hướng dẫn
cho những người đầy khao khát giải thoát từ những người đã
đạt tới giải thoát..."
"Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn
đồng ý đặt cược tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng có thể trở thành kinh nghiệm của bạn. Kinh nghiệm
không thuộc vào bất kì ai; chúng đến với bất kì người nào
sẵn sàng đón nhận chúng. Không ai có độc quyền về chân lí;
bất kì người nào sẵn lòng tan biến đều kế thừa nó. Chân lí
thuộc về người biểu hiện sự sẵn sàng hỏi về nó - người mở
cánh cửa trái tim họ và mời đón nó...
"Tôi sẽ nói với bạn chỉ những điều tôi biết, bởi vì chỉ
trong việc nói đó mới có giá trị nào đó; bởi vì chỉ có những
điều tôi biết mới có thể, nếu bạn sẵn lòng, làm rung động trái
tim bạn qua tác động sống của nó."
Khi nào câu hỏi, "Phải có cái gì đó nhiều hơn thế này
chứ?" nảy sinh trong lòng bạn, bạn trở thành người tìm kiếm.
Cuốn sách này là câu chuyện về một trong những người tìm
kiếm như thế và con đường của người đó, rộn ràng với bài ca
trong tim và nhảy múa theo bản thể của người: "Tôi là cái tôi
đã từng tìm kiếm, tôi là điều tối thượng, điều thiêng liêng."
Điệu vũ này, bài ca này cũng là quyền tập ấm của bạn.
Ma Kamaal


Điều thiêng liêng là bạn
 

Triệu thỉnh
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
Om, an bình, an bình, an bình.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết. Tôi sẽ chỉ nói điều bạn cũng
có thể biết. Với biết tôi ngụ ý sống với nó. Người ta có thể
biết mặc dầu không sống nó, nhưng tri thức như thế là gánh
nặng; người ta có thể chìm vì nó, nhưng người ta không thể
được nó cứu. Biết cũng có thể là sống động nữa. Việc biết
như vậy đem lại cho chúng ta vô trọng lượng - nhẹ đến mức
chúng ta có thể bay trên trời. Chỉ khi việc biết trở thành sống
động, cánh phát triển, xiềng xích bung ra và cánh cửa tới
điều vô hạn trở nên rộng mở.
Nhưng việc biết là khó đấy; tích luỹ tri thức là dễ. Tâm
trí chọn cái dễ và tránh cái khó. Nhưng người tránh cái khó
sẽ lỡ luôn cả tôn giáo nữa. Người muốn tránh không chỉ cái
khó mà cả cái không thể nữa sẽ không bao giờ đến gần được
tôn giáo.
Tôn giáo chỉ dành cho những người sẵn sàng đi vào cái
không có thể. Tôn giáo dành cho những người liều lĩnh,
không dành cho các chủ hiệu. Tôn giáo không phải là giao
dịch kinh doanh cũng không là thoả hiệp. Tôn giáo là đặt
cược. Kẻ đánh bạc đặt cược của cải của mình; người tôn giáo
đặt cược chính bản thân mình bởi vì đó là của cải tối thượng.
Người không sẵn sàng đặt cược chính cuộc đời mình sẽ
không bao giờ có khả năng biết được bí ẩn giấu kín của cuộc
đời. Những bí mật đó không có sẵn với giá rẻ đâu. Tri thức
có sẵn với giá rẻ; tri thức đầy rẫy trong sách vở, trong kinh
sách, trong giáo dục, với các thầy giáo. Tri thức có sẵn gần
như cho không; bạn không phải trả gì để được nó. Trong tôn
giáo bạn phải trả nhiều lắm. Nói trả ‘nhiều lắm’ cũng chưa
đúng, bởi vì chỉ khi ai đó đặt cược mọi thứ thì cánh cửa tới
cuộc sống đó mới mở. Cánh cửa tới cuộc sống đó chỉ mở cho
những người đặt cược cuộc đời này. Đặt cược cuộc đời này là chìa khoá
duy nhất cho cánh cửa của cuộc đời đó. Nhưng
tri thức rất rẻ, cho nên tâm trí chọn cách dễ hơn và rẻ hơn.
Chúng ta học mọi thứ - từ ngữ, học thuyết - và nghĩ rằng
chúng ta biết. Tri thức như vậy chỉ là dốt nát nâng cao.
Người dốt nát ít nhất biết rằng người đó không biết; ít
nhất người đó cũng có chân lí tới chừng nấy. Nhưng người ta
không thể tìm được những người giả dối nhiều hơn những
người chúng ta gọi là thông thái. Họ thậm chí không biết
rằng họ không biết. Cái gì đó được nghe, cái gì đó được giao
cho trí nhớ đã lừa dối họ trong việc nghĩ họ cũng đã biết.
Tôi sẽ nói với bạn chỉ điều tôi biết, bởi vì chỉ trong việc
nói đó có giá trị nào đó; bởi vì chỉ điều mà tôi có thể biết,
nếu bạn sẵn lòng, mới làm rung động sợi dây trái tim bạn
cùng với tác động sống của nó.
Điều mà bản thân tôi không biết và điều chỉ sâu như lớp
da trong tôi, không thể đi sâu hơn chừng ấy vào bạn được.
Chỉ những cái đã đi sâu vào tim tôi mới có khả năng đó; nếu
bạn hợp tác, nó có thể đạt tới tim bạn. Ngay cả thế thì hợp
tác của bạn cũng là điều phải có, bởi vì nếu trái tim bạn đóng
kín, không có cách nào ép buộc chân lí vào trong đó. Và
cũng là tốt nó là như vậy, bởi vì nếu chân lí bị ép buộc lên
bạn, nó không thể trở thành tự do của bạn được, nó chỉ có thể
trở thành nô lệ của bạn. Mọi cưỡng bách đều trở thành nô lệ.
Cho nên trong thế giới này, mọi thứ đều có thể trao cho
bạn thông qua sức mạnh; chỉ chân lí là không thể được, bởi
vì chân lí chưa bao giờ trở thành nô lệ cả. Chính bản chất của
chân lí là tự do. Cho nên chân lí là cái duy nhất trong thế giới
này không ai có thể trao cho bạn bằng sức mạnh, cái không
ai có thể tống vào bạn, cái không thể choàng vào bạn từ bên
ngoài như quần áo; với cái đó điều tiên quyết là sự sẵn lòng,
cởi mở, dễ cảm nhận, mời chào, trái tim tràn đầy lòng biết ơn
của bạn. Nếu trái tim bạn trở thành tựa đất khô trước mùa
mưa khi nó khát nước, nứt nẻ dưới cái nóng mùa hè như
nung như nấu - dường như nó cong môi đây đó ngóng chờ
cơn mưa - thế thì chân lí đi vào bạn. Bằng không, chân lí
quay lưng ngay từ chính ngưỡng cửa của bạn. Nhiều lần nó
đã quay đi, trong nhiều, nhiều kiếp.
Bạn không phải là mới - không có gì mới trên thế gian
này cả; tất cả các bạn đều rất cổ. Bạn đã ngồi dưới chân Phật
và nghe ông ấy, bạn đã từng thấy Krishna, bạn cũng đã từng
vây quanh Jesus, nhưng dầu vậy bạn đã lỡ, bởi vì trái tim bạn
chưa bao giờ sẵn sàng. Các con sông của Phật và Mahavira
đã chảy qua bạn, nhưng bạn vẫn còn khát.
Ngày Phật sắp rời bỏ thân thể mình, Ananda đã khóc và
đấm ngực trong mối tuyệt vọng. Phật đã hỏi ông ta, “Sao ông
khóc? Ta đã gần ông đủ lâu rồi... bốn mươi năm! Và nếu
điều ấy thậm chí còn chưa xảy ra trong bốn mươi năm ấy thì
phỏng có ích gì mà khóc bây giờ? Và tại sao ông cảm thấy
phiền muộn đến thế về cái chết của ta?”
Ananda trả lời, “Tôi đau buồn quá bởi vì tôi không thể
nào đảm đương việc tan biến trong khi thầy còn ở đây. Nếu
như tôi đã tan biến thì thầy đã có thể bước vào tôi. Trong
suốt bốn mươi năm sông đã chảy qua bên tôi mà tôi vẫn còn
khát. Bây giờ tôi khóc bởi vì tôi không biết khi nào và đến
kiếp nào tôi mới có thể gặp lại được dòng sông này.”
Bạn đâu có mới. Bạn đã hoả táng các vị phật, bạn đã hoả
táng Mahavira - Jesus, Krishna và mọi người; bạn đang sống
sau khi hoả táng tất cả họ. Họ đã thua trận chiến với bạn.
Bạn rất cổ. Bạn đã từng ở đây từ khi có cuộc sống. Đó đã
từng là cuộc hành trình vô tận. Chúng ta đang lỡ ở đâu? Đấy
chỉ là vì bạn còn chưa mở, bạn đóng đấy thôi.
Tôi sẽ nói cho bạn chỉ những điều tôi đã biết. Nếu bạn có thể làm cho bản
thân mình cởi mở ra, bạn cũng sẽ biết điều
đó. Và không phải là có cái gì khó khăn ghê lắm trong đó.
Chỉ có mỗi một khó khăn thôi, và đó là bạn.
Một số người đi chỉ vì tò mò, hệt như trẻ nhỏ hỏi trong
khi chúng đang bước, “Tên của cây này là gì ạ?” Và nếu bạn
không trả lời, chúng lập tức quên ngay rằng chúng vừa hỏi
điều gì đó và chúng lại bắt đầu hỏi cái gì đó khác: “Tại sao
hòn đá này lại nằm đây thế nhỉ?” Chúng hỏi chỉ với mục
đích để hỏi chứ không phải để biết. Chúng không hỏi để biết,
chúng hỏi vì chúng không thể vẫn còn không hỏi.
Những người đang sống từ tò mò vẫn là trẻ con. Nếu bạn
hỏi, “Thượng đế là gì?” ngẫu nhiên hệt như đứa trẻ sẽ hỏi khi
thấy hiệu đồ chơi bên đường, “Đồ chơi này là gì?” bạn vẫn
còn là trẻ con. Và trẻ con có thể được tha thứ, nhưng bạn thì
không.
Tò mò sẽ không có có tác dụng. Tôn giáo không phải là
trò chơi trẻ con. Cho dù bạn có được trao cho câu trả lời, nó
cũng không phục vụ cho mục đích gì. Vui đùa của trẻ con là
trong việc hỏi. Nó có thể hỏi, đó là vui đùa của nó. Cho dù
bạn cho nó câu trả lời, nó cũng không quan tâm mấy đến câu
trả lời đó. Có vấn đề gì?
Các nhà tâm lí nói rằng khi trẻ con học nói, lần đầu tiên
chúng chỉ thực hành việc nói bằng cách hỏi, khi đứa trẻ lần
đầu tiên học đi, nó thử mọi lúc để đứng dậy và bước. Cho
nên trẻ con cứ lặp đi lặp lại cùng một câu bởi vì chúng đã thu
được kinh nghiệm mới, chiều hướng mới qua việc nói. Cho
nên trong chiều hướng mới đó chúng trôi nổi và diễn tập; đó
là lí do tại sao chúng cứ hỏi mọi thứ, chúng nói đủ mọi thứ.
Trong thế giới tôn giáo, nếu bạn cũng hỏi đủ mọi thứ,
nói đủ mọi thứ, nghĩ đủ mọi thứ mà không có ham muốn sâu
sắc nào để biết - chỉ từ tò mò - thế thì bạn sẽ vẫn hoả thiêu
nhiều vị phật; thế thì ai biết bao nhiêu vị phật nữa sẽ vẫn
phải làm việc vất vả về bạn?
Chân lí không quan hệ gì với tò mò cả.
Một số người tăng thêm chút ít tính tò mò và trở thành
hay hỏi. Cũng có một chút ít sâu sắc hơn trong hay hỏi,
nhưng chỉ chút xíu thêm thôi. Hay hỏi không phải là rất sâu
sắc, nó là nông, vì nó chỉ là trí năng. Trí năng hệt như bệnh
ghẻ lở: nếu gãi một chút, bạn cảm thấy dễ chịu. Cho nên trí
năng cứ tiếp tục gây ngứa: có Thượng đế không? Có linh hồn
không? Có cứu rỗi linh hồn không? Thiền là gì? - không phải
là bạn muốn làm việc đó. Thượng đế là gì? - không phải bạn
muốn biết về điều đó, nhưng chỉ để thảo luận, chỉ để nói
chuyện. Đấy là bài tập tâm trí, giải trí trí năng. Cho nên mọi
người chỉ nói lớn, họ chưa bao giờ đặt cược điều gì. Dù
Thượng đế có hay không, đấy không phải là mối quan tâm
thực sự của họ; và họ vẫn còn không biến đổi dù Thượng đế
có hay không.
Đây là điều rất hay: người này tin có Thượng đế, người
kia tin không có Thượng đế, và cuộc sống của cả hai là hệt
nhau. Nếu ai đó bị lăng mạ thì người tin vào có Thượng đế
cáu mà người tin vào không có Thượng đế cũng cáu. Đôi khi
điều xảy ra là người tin vào có Thượng đế cáu hơn. Người
tin không có Thượng đế, người đó có thể làm đến đâu với
bạn? Nhiều nhất người đó có thể lăng mạ bạn để đáp lại,
đánh bạn hay giết bạn. Nhưng người tin có Thượng đế có thể
tống cổ bạn cho chết dần mòn trong đau đớn của địa ngục.
Người đó có nhiều cách hơn để trở nên giận dữ.
Nếu việc tin vào Thượng đế hay không tin vào Thượng
đế không đem lại thay đổi gì trong cuộc sống người ta, điều
đó chỉ có nghĩa là nó không có quan hệ gì đến Thượng đế cả,
nó chỉ là nói chuyện trí năng thôi. Việc hay hỏi như thế làm cho con
người thành triết gia. Người đó liên tục suy ngẫm và
cân nhắc, người đó học kinh sách, tích luỹ quá nhiều học
thuyết, có khả năng nghĩ về mọi cái ủng hộ, cái chống đối,
tham dự tranh cãi, nhưng người đó chưa bao giờ sống cả.
Nếu bạn cũng chỉ toàn hay hỏi sẽ không có cuộc hành
trình nào cả. Người đầy câu hỏi là những người ngồi cạnh
cột cây số và hỏi, “Đích là gì? Đích còn bao xa nữa?” Họ
tiếp tục hỏi điều này nhưng họ không bao giờ đứng dậy và
bắt đầu bước.
Bạn biết nhiều thế! Cái gì có đó bị thiếu trong việc biết
của bạn? Bạn biết gần như mọi thứ - bất kì cái gì Phật biết
hay Mahavira hay Krishna biết, bạn cũng biết. Trong khi đọc
Gita, bạn không cảm thấy bạn biết tất cả những điều này
sao? Có đấy, bạn cũng biết, nhưng đây tất cả chỉ trong đầu
bạn. Hạt mầm còn chưa đạt tới tim bạn. Và những ý tưởng
này, chỉ trong tâm trí, giống như hạt mầm nằm trên đá. Hạt
mầm có đấy, nằm trên đá, nhưng nó không thể nảy mầm
được. Để nảy mầm, hạt mầm sẽ phải rơi ra khỏi tảng đá và
tìm tới đất. Và mặt đất cũng chưa phù hợp, vì còn cần cả hơi
nước ẩm nữa. Cho nên nó phải chui xuống dưới mặt đất tới
chỗ có nước, nơi có nước tinh tuý chảy qua.
Hạt mầm vẫn còn trong tâm trí tựa như hạt mầm nằm
trên đá. Chừng nào nó còn chưa rơi vào trong tim thì đất ướt
vẫn còn chưa có sẵn. Trong tim nước tinh tuý chảy, tình yêu
nào đó; có nước ở đó. Nếu hạt mầm rơi vào đó, nó sẽ nảy
mầm.
Người hay hỏi có rất nhiều điều bên trong họ; mọi thứ
đều có đấy, nhưng nó cũng tựa như hạt mầm nằm trên đá.
Đất không xa lắm, nhưng thậm chí cuộc hành trình nhỏ bé
này cũng lại là khó khăn lớn đối với họ. Họ không thích di
chuyển, cho nên hạt mầm vẫn còn trên tảng đá. Cuộc hành
trình nhỏ này sẽ phải được tiến hành - đó là việc hạt mầm rơi
ra khỏi đá để vào đất, tìm một chỗ trong đất, tìm ra một chút
ẩm ướt, và ẩn mình một chút bên trong đất.
Nhớ lấy, bất kì cái gì được sinh ra trong thế giới này đều
cần im lặng sâu sắc, cần tĩnh mịch và bóng tối. Những cái
được giữ trong tâm trí là cái được giữ nơi ánh sáng để mở.
Việc nảy mầm không thể có ở đó. Tim là mảnh đất ướt ẩn
bên trong bạn. Cái gì đó có thể nảy mầm ở đấy.
Do đó những người sống chỉ với việc hay hỏi trở thành
học giả và bác học; thông thái, nhưng không có gì nảy mầm
được bên trong họ cả - không sinh thành mới, không cuộc
sống mới, không hoa mới, không cái gì cả.
Có một chiều của việc tìm kiếm: chúng ta gọi nó là
mumuksha, khát khao sâu sắc về giải thoát. Tại đây không có
mối quan tâm về việc biết, mối quan tâm là về hiện hữu. Tại
đây không có mối quan tâm về hiểu biết, mối quan tâm là về
con người. Câu hỏi không phải là liệu có Thượng đế hay
không, câu hỏi là liệu tôi có thể là Thượng đế hay không. Có
thể có Thượng đế, nhưng nếu tôi không thể trở thành
Thượng đế thì phỏng có ích gì trong đó. Câu hỏi không phải
là liệu có giải thoát hay không, câu hỏi là liệu tôi có thể cũng
được giải thoát hay không. Nếu không có khả năng nào để
tôi trở nên được giải thoát thì cho dù có giải thoát ở đâu đó
nó cũng là vô nghĩa đối với tôi. Vấn đề không phải là liệu có
linh hồn bên trong hay không - có thể có, có thể không có -
vấn đề thực là liệu tôi có thể trở thành linh hồn hay không.
Mumuksha, khát khao về giải thoát, là tìm kiếm hiện
hữu. Và khi người ta muốn hiện hữu, người ta phải đặt cược
chính bản thân mình. Đây là lí do tại sao tôi nói tôn giáo là
chuyện của những kẻ liều lĩnh.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn đồng ý đặt cược
tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng đều trở thành của bạn. Kinh nghiệm không thuộc về bất
kì ai; bất kì ai sẵn sàng đón nhận chúng, chúng đến với người
đó. Không ai có bất kì quyền gì về chân lí, bất kì ai sẵn sàng
biến mất đều thừa kế nó. Chân lí thuộc về người biểu hiện sự
sẵn sàng hỏi đến nó - người mở cánh cửa trái tim mình và
mời gọi nó vào.
Đó là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
này là đương đầu trực tiếp với tâm linh. Không có siddhants,
học thuyết, trong nó; trong nó chỉ có kinh nghiệm của
siddhas, người đã được hoàn thành. Trong nó không có thảo
luận về điều được sinh ra từ tò mò hoặc hay hỏi, không;
trong nó có hướng dẫn cho những người tràn đầy khao khát
về giải thoát bởi những người đã đạt tới giải thoát.
Có một số người còn chưa đạt tới, họ chưa thể nào vứt
bỏ được việc thích thú hướng dẫn người khác. Cho sự hướng
dẫn là điều rất thích thú. Trên toàn thế giới, cái được đem
cho nhiều nhất là hướng dẫn và cái được nhận ít nhất cũng là
hướng dẫn. Mọi người đều cho, không ai nhận.
Bất kì khi nào bạn có cơ hội để nêu cho ai đó lời khuyên,
bạn đâu có để lỡ dịp đó. Không cần là bạn có khả năng đưa
ra lời khuyên này; không nhất thiết bất kì cái gì bạn nói cũng
là việc biết của bạn, nhưng khi nêu ra lời khuyên, cám dỗ của
niềm vui được làm thầy là rất khó vượt qua.
Niềm vui được làm thầy là gì? Bạn bỗng nhiên, chẳng
mất chi phí nào, ở phía cao hơn còn người kia thì ở phía thấp
hơn. Nếu ai đó tới bạn xin đồ tặng, bạn thấy khó khăn làm
sao khi phải cho đi một xu! Khó khăn là ở chỗ bạn phải cho
cái gì đó từ cái bạn có. Nhưng trong khi cho lời hướng dẫn
bạn đâu có khó khăn, bởi vì có khó khăn gì ở đó khi bạn đem
cho cái mà bạn không có? Bạn chả mất gì cả. Ngược lại, bạn
thu được cái gì đó: bạn thu được vui vẻ, bạn thu được việc
làm tăng bản ngã. Hôm nay bạn ở vị trí hướng dẫn, và người
kia ở đầu nhận. Bạn là ở trên đỉnh, người kia ở dưới.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng, trong Upanishad này,
không có vui thích của việc cho bất kì lời khuyên hay hướng
dẫn nào; thay vì thế có nỗi đau lớn, bởi vì điều mà người
thấy của Upanishad này đang cho, người đó cho sau khi biết
nó. Người đó chia sẻ cái gì đó rất thân thiết, rất bên trong.
Hướng dẫn là ngắn gọn nhưng sâu sắc. Cú đánh rất ít
nhưng chết người. Và, nếu bạn sẵn sàng, mũi tên sẽ xuyên
thẳng vào tim bạn và sẽ không để bạn sống nữa. Nó sẽ giết
chết bạn. Do đó, nhận biết và tỉnh táo đi, bởi vì chính việc
này là nguy hiểm. Bạn sẽ phải mất cái bạn nghĩ bạn đang là.
Trong nó, không có cách nào đạt tới mà không mất bản thân
bạn. Ở đây chỉ những người mất mới là người đạt tới.
Đấy cũng là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này.
Thực tế tôi có thể nói thẳng với bạn, không có lí do gì để
đem Upanishad vào - nhưng tôi sẽ dùng nó như cái cớ, chỗ
nấp. Nếu bạn bắn một mũi tên trực tiếp, người ta có thể
thoát; nhưng nếu ẩn sau Upanishad thì ít có cơ may bạn bắn
trượt. Tôi đã chọn Upanishad để cho bạn có thể không biết
rằng tôi đang nhắm thẳng vào bạn. Theo cách này cơ hội trốn
thoát bị tối thiểu hoá. Mọi thợ săn đều biết rằng việc đi săn
thuận lợi hơn nếu được thực hiện ở nơi có chỗ ẩn nấp.
Upanishad này là nơi ẩn nấp duy nhất.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi đã biết, nhưng thế thì không có
khác biệt giữa cái đó và Upanishad, vì bất kì cái gì người
thấy của Upanishad này đã từng nói, ông ta cũng đã biết nó.
Upanishad này là biểu hiện của những bí ẩn tinh tế nhất
về tâm linh. Nhưng nếu tôi cứ tiếp tục chỉ nói về Upanishad,
có nỗi sợ là việc nói chuyện vẫn đơn thuần là nói chuyện.
Cho nên nói chuyện sẽ chỉ là bối cảnh, và cùng với nó sẽ có
các thực nghiệm. Bất kì điều gì được nói ra, bất kì điều gì
người thấy đã thấy, hay bất kì điều gì tôi nói, và tôi đã thấy -
đều sẽ có những nỗ lực để làm quay mặt bạn ra, để nâng mắt
bạn lên hướng về điều đó. Nỗ lực nâng tầm mắt bạn lên
hướng về điều đó sẽ là điều chính; việc nói chuyện về
Upanishad sẽ chỉ để tạo ra nơi chốn. Những rung động như
vậy có thể được tạo ra khắp xung quanh bạn để cho bạn quên
mất thế kỉ hai mươi và hướng tới thế giới của người thấy của
Upanishad, sao cho thế giới này, cái đã trở thành mờ xỉn và
xấu xí đến thế, có thể biến mất đi và kí ức có thể nảy sinh về
những ngày mà người thấy này đã sống. Bầu không khí, nơi
chốn - Upanishad chỉ là để dành cho điều đó. Nhưng điều đó
vẫn chưa đủ; nó là cần, nhưng không đủ.
Cho nên bất kì điều gì tôi nói, nếu bạn chỉ dừng nghe về
nó tôi sẽ biết ngay bạn không nghe nó chút nào cả. Bất kì ai
không bắt đầu khởi hành cuộc hành trình sau khi nghe về
điều này, tôi đều tin là người đó đã không nghe. Nếu bạn
nghĩ bạn đã hiểu chỉ bởi việc nghe... đừng vội vã như thế!
Nếu có thể hiểu được điều gì đó chỉ bằng việc nghe, chúng ta
đã hiểu được từ lâu rồi. Nếu như có thể hiểu được điều gì đó
chỉ bằng việc nghe thì đã không thiếu những người hiểu
trong thế giới này và khó mà tìm thấy người dốt nát. Nhưng
như nó vậy, thế giới toàn những người dốt nát.
Không có gì được hiểu chỉ bằng việc nghe. Bằng việc
nghe chúng ta chỉ siết nắm tay giữ lấy lời. Không phải bởi
việc nghe mà bởi việc làm, người ta mới hiểu. Cho nên nghe
để tìm ra cách làm, không phải để hiểu. Nghe để làm, làm để
hiểu. Đừng đi tới kết luận rằng chỉ có bằng cáchg nghe bạn
đã hiểu; mối nối trung gian đó của việc làm là cần thiết.
Không có cách khác. Nhưng tâm trí chúng ta nói, “Tôi đã
nắm được điều ấy; bây giờ cần gì làm?”
Đích được đạt tới bằng việc đi tới chúng. Bạn có thể đã
hiểu mọi thứ, toàn bộ con đường của cuộc hành trình của bạn
có thể đã được bạn ghi nhớ, bạn có thể có bản đồ chi tiết
trong túi; dẫu thế, không đi không ai đã bao giờ tới được
đích của mình. Nhưng có thể mơ đã tới đích. Một người có
thể ngủ ngay đây và có thể mơ đã tới đâu đó... Tâm trí là
chuyên gia về mơ.
Đừng nghĩ rằng chỉ bạn mới thấy những giấc mơ như
vậy; ngay cả những người bạn gọi là rất thông minh cũng
vẫn cứ có những giấc mơ này. Các thánh nhân, các sư và
sannyasin - những người đã từng tìm kiếm nhiều năm trời -
vẫn còn chưa đến gần thêm cho dù một li tới bất kì đâu. Họ
vẫn còn chưa bắt đầu cuộc hành trình chút nào và họ đã tìm
kiếm trong nhiều năm ròng rã! Toàn bộ tìm kiếm của họ đã
là vòng tròn. Trong tâm trí vòng tròn đã được tạo ra - một
loại xoáy nước. Và trong xoáy nước đó họ cứ đi vòng tròn và
vòng tròn, và cuối cùng mọi thứ đều mất đi. Mọi Veda,
Upanishad, Koran, Kinh Thánh - mọi thứ đều mất đi, nhưng
thậm chí không có lấy một li chuyển động.
Chúng ta sẽ thảo luận về Upanishad không phải để làm
cho bạn hiểu về Upanishad mà để cho bạn trở thành
Upanishad. Nếu bằng việc nghe bạn ghi nhớ điều gì đó và
bắt đầu lặp lại nó, điều đó có nghĩa là tôi đã làm hại bạn; tôi
đã không chứng tỏ là người bạn của bạn. Việc lặp lại của bạn
về điều bạn đã nghe là không có giá trị gì. Khi tôi có thể thấy
rằng cùng một điều xảy ra cho bạn như đã xảy ra cho tôi,
rằng mắt bạn cũng mở ra, chỉ thế thì bạn mới trở thành
Upanishad.
Hiểu điều đó theo cách này: nhà thơ ca lên bài ca về đoá
hoa. Có thể có dịu ngọt lớn, có nhịp điệu và âm nhạc trong
bài ca này - bài ca có cái đẹp của riêng nó - nhưng dù bài ca có thể hát
về đoá hoa nhiều thế nào, vậy mà bài ca cũng vẫn
chỉ là bài ca, nó không thể là đoá hoa được, nó không phải là
hương hoa. Và nếu bạn được thoả mãn chỉ với bài ca đó, thế
thì bạn đã đi lạc lối.
Upanishad là bài ca về đoá hoa mà bạn chưa từng thấy.
Bài ca này thật kì diệu: ca sĩ đã thấy đoá hoa đó. Những
đừng thoả mãn với bài ca, bài ca không phải là hoa.
Đôi khi sự việc xảy ra là bạn cũng tới gần với hoa - chỉ
đôi khi thôi. Đôi khi bạn cũng có thoáng nhìn về hoa - ngẫu
nhiên, bất chợt - bởi vì hoa không xa lạ với bạn, nó chính là
bản tính của bạn. Nó rất gần bạn, chỉ ngay bên cạnh bạn. Đôi
khi nó chạm vào bạn, không đếm xỉa tới bạn. Đôi khi hoa
cho bạn thoáng nhìn, thoáng nhìn tựa ánh chớp loé. Trong
một khoảnh khắc nào đó nó bất ngờ lọt vào kinh nghiệm của
bạn: bạn cảm thấy rằng có cái gì đó nhiều hơn trong thế giới
này, rằng thế giới này, mà bạn đã biết, không phải là nó chút
nào. Trong thế giới cứng như đá này có cái gì đó khác không
phải là đá mà là hoa, sinh động và nở rộ. Và nếu bạn đã thấy
nó trong giấc mơ nào đó, hay tia chớp loé trong bóng tối của
đêm... Bạn thấy cái gì đó và nó biến mất đi - do vậy thỉnh
thoảng nó xuất hiện trong cuộc sống của bạn. Điều thường
hay xảy ra trong cuộc sống của nhà thơ, điều thường hay xảy
ra trong cuộc sống của hoạ sĩ, là thoáng nhìn về hoa tới gần
cạnh kề.
Vậy mà dù có gần tới đoá hoa, dù thoáng nhìn bạn đã có
lớn đến đâu, tính gần gũi này cũng vẫn là khoảng cách. Hoa
có tới gần bạn đến đâu đi chăng nữa cũng không thành vấn
đề, khoảng cách vẫn còn đó. Và ngay cả nếu tôi thực tế có
thể chạm tay vào đoá hoa, dầu vậy vẫn không chắc chắn rằng
kinh nghiệm tôi có là kinh nghiệm về hoa, bởi vì thông điệp
tới qua tay tôi. Tay có thể cho thông điệp sai. Không có gì
chắc chắn về việc tay tôi cho thông điệp đúng cả: không có lí
do nào để hoàn toàn tin cậy vào tay tôi được. Lại nữa, thông
điệp mà tay cho thường sẽ ít phần về hoa mà lại nhiều phần
về bản thân nó.
Nếu hoa được cảm thấy là lạnh, không nhất thiết là hoa
đang lạnh; có thể tay tôi đang sốt và đó là lí do tại sao hoa
được cảm thấy là lạnh. Thông điệp vậy là nhiều phần về tay
hơn, vì bất kì khi nào thông điệp tới qua trung gian thì nó
bao giờ cũng tương đối. Người ta không thể tuyệt đối chắc
chắn về nó được.
Tôi đã đọc hồi kí do Popov viết. Popov là người tìm
kiếm, một người tìm kiếm hăng hái. Cô ấy đã thực hành kỉ
luật tâm linh với Piotr Dimitrovich Ouspensky. Có lần cô
đang ngồi với Ouspensky, một quí ông tới và hỏi ông ấy liệu
có Thượng đế hay không. Ouspensky kêu lên, “Thượng đế?
Không, không có Thượng đế.” Ouspensky dừng lại một chút
rồi nói, “Nhưng tôi không thể nói với bảo đảm nào được, vì
bất kì điều gì tôi biết đều là thông qua trung gian. Đôi khi tôi
đã thấy qua mắt, nhưng mắt không thể được tin cậy. Đôi khi
tôi nghe qua tai, nhưng tai cũng có thể sai. Đôi khi tôi chạm
bằng tay, nhưng chạm cũng không thể nào tin cậy được. Tới
giờ tôi đã không thấy một cách trực tiếp, tôi chưa bao giờ
từng mặt đối mặt cả. Do đó tôi không thể nói với đảm bảo
nào. Bất kì điều gì tôi đã biết cho tới giờ đều không cho tôi
kinh nghiệm nào về Thượng đế. Nhưng điều ấy cũng không
chứng tỏ rằng không có Thượng đế, nó chỉ báo cho ông về
kinh nghiệm của tôi là gì. Cho nên tôi không thể nêu cho ông
bất kì đảm bảo nào rằng Thượng đế là không có. Nhưng
đừng vứt bỏ tìm kiếm của ông và tin tôi đi, ông cứ tiếp tục
tìm kiếm cho chính ông đi.”
Bất kì khi nào cái gì đó xảy ra qua trung gian cũng đều không đáng tin cậy
cả. Cho dù chúng ta có đến rất gần hoa,
đấy cũng vẫn chỉ là mắt thấy, tay sờ, và mũi thu lấy hương
thơm. Tất cả những cái này đều là kinh nghiệm qua giác
quan của chúng ta. Vậy nó là cái mà đôi khi nhà thơ tới gần
với đoá hoa tối thượng đến mức tiếng vọng của nó choàng
xuống đi vào trong bài ca của ông ta. Nhưng dầu vậy ông ta
không phải là Phật, không phải là Mahavira.
Phật là ai? Mahavira là ai? Phật là tâm thức đó, cái đã trở
thành bản thân đoá hoa đó; ngay cả khoảng cách chừng đó
đó, khoảng cách của việc thấy đoá hoa, cũng không tồn tại.
Tâm thức đã trở thành đoá hoa.
Chỉ trở thành đoá hoa người ta mới hiểu biết đầy đủ cái
gì có đó.
Đây là những phát biểu của người thấy của Upanishad.
Nó tựa như bài ca về đoá hoa nào đó. Tiếp tục rì rào về nó đi
- có rất nhiều vị ngọt ngào và mùi vị tuyệt vời trong đó,
nhưng nó không phải là đoá hoa, nó chỉ là bài ca. Nếu bạn
làm nỗ lực, đôi khi bạn sẽ thấy đoá hoa.
Mọi người đến tôi và nói, “Có ánh sáng lớn trong thiền,
nhưng tôi lại làm mất nó. Ánh sáng vô hạn có đấy, nhưng nó
lại biến mất đi. Có phúc lạc mênh mông, nhưng bây giờ nó đi
đâu rồi?” Bây giờ họ đi tìm nó lần nữa nhưng không thể tìm
thấy nó.
Thoáng nhìn nghĩa là bạn đã tới gần. Nhưng thoáng nhìn
nhất định sẽ bị mất. Nhiều nhất thiền có thể cho chỉ thoáng
nhìn. Nhưng đừng dừng ở đó; đừng bị mắc kẹt vào việc tìm
đi tìm lại cùng cái thoáng nhìn đó. Mục đích duy nhất của
thiền là ở chỗ người ta có được thoáng nhìn. Rồi người ta
phải tiến lên trước, đi vào samadhi, vào trong chứng ngộ, để
cho người ta trở thành chính đoá hoa.
Trong thiền là thoáng nhìn; samadhi là việc là chính nó.
Đừng dừng lại ở thoáng nhìn. Chúng rất đáng yêu: toàn
thế giới bắt đầu trông nhạt nhoà - chỉ một thoáng nhìn về đoá
hoa sống đó, việc nở hoa đó ở bên trong, và toàn bộ thế giới
trở thành vô vị và vô nghĩa. Nhưng thế rồi người nào đó nắm
bắt các thoáng nhìn và bắt đầu lặp lại chúng và nghĩ mọi sự
đã xảy ra. Không, chừng nào bản thân bạn còn chưa là điều
thiêng liêng, đừng tin rằng đó là Thượng đế.
Bạn có thể là nó, vì bạn đã là nó. Bạn chỉ phải cởi mở ra
một chút, để mở ra một chút. Bạn đang hiện diện tại đây và
bây giờ, chỉ đang ẩn nấp. Chỉ có vài tầng quần áo bao phủ
lấy bạn - và chúng nữa cũng rất mỏng - cho nên nếu bạn ham
muốn thế, bạn có thể vứt bỏ chúng ngay bây giờ, thoát khỏi
chúng và trở thành điều thiêng liêng. Nhưng níu bám của bạn
là rất mạnh; mặc dù quần áo mỏng, nắm giữ của bạn lại rất
chặt. Tại sao nắm giữ này mạnh đến thế? Nắm giữ mạnh đến
thế bởi vì chúng ta nghĩ rằng quần áo này là con người chúng
ta, rằng đây là chính chúng ta. Bên cạnh đó chúng ta không
biết gì về bất kì sự tồn tại nào khác.
Trong Upanishad này sẽ có các hướng dẫn về sự tồn tại
đó nằm ngoài những cái che phủ này. Và cùng với
Upanishad này chúng ta sẽ thiền, vậy chúng ta có thể thu
được thoáng nhìn. Và chúng ta sẽ hi vọng về samadhi, chứng
ngộ, để cho chúng ta trở thành không có nó thì cũng không
có mãn nguyện, không an bình và không chân lí.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện
gửi tới toàn thể vũ trụ.
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
và thầy con.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện này. Cuộc hành
trình tôn giáo bắt đầu với lời cầu nguyện. Nó phải là như
vậy. Lời cầu nguyện có nghĩa là tin cậy và hi vọng. Lời cầu
nguyện có nghĩa là tình cảm của chúng ta về việc là một với
toàn thể vũ trụ. Lời cầu nguyện nghĩa là, “Làm sao tôi có thể
xoay xở được một mình?”
Nếu như có khả năng một mình bạn có thể làm cho điều
này xảy ra, chắc nó đã xảy ra từ lâu rồi. Nhưng với bản thân
bạn thậm chí điều tầm thường cũng không thể được đạt tới.
Bạn đã ham muốn tiền bạc, bạn không thể nào đạt tới được
ngay cả điều đó. Bạn đã ước ao địa vị, bạn không thể xoay
xở được ngay cả với điều đó. Bạn có đủ loại ước muốn, lớn
có nhỏ có, nhưng không cái nào được hoàn thành. Một mình
bạn thậm chí không thể đảm đương được cả thế gian: cuộc
hành trình vĩ đại đi tìm chân lí này liệu có thể được riêng bản
thân bạn tiến hành không? Với riêng bản thân mình, bạn
thậm chí thất bại ngay trong thế gian.
Mọi người đều bị thất bại trong thế gian này. Ngay cả
những người dường như là chiến thắng cũng bị thất bại. Họ
chỉ dường như là chiến thắng với người khác; trong bản thân
mình họ bị thất bại hoàn toàn. Bạn với bản thân mình cũng
dường như bị thất bại, nhưng với người khác bạn dường như
chiến thắng. Có những người đằng sau bạn, người cảm thấy
rằng bạn đã đạt tới, rằng bạn đã thắng trong trận chiến thế
gian. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào trong con người, mọi
người đều thất bại.
Thế giới này là câu chuyện dài những thất bại. Ở đây
thắng lợi không xảy ra, ở đây thắng lợi không thể xảy ra
được; nó không phải là bản chất của thế giới. Thất bại là định
mệnh ở đây. Thất bại không phải của bất kì cá nhân nào,
không phải của bất kì người nào, nhưng định mệnh làm
người trong thế gian này là thất bại rồi. Bạn sẽ phải chấp
nhận thất bại ở đó. Không ai đã bao giờ thắng được ở đó.
Chúng ta không thể thắng trong thế giới này nơi mối
quan tâm duy nhất là với những điều nhỏ bé, nơi nó chỉ là
mơ - Shankara gọi nó là maya, ảo vọng. Khi mà chúng ta bị
thất bại ngay trong ảo vọng đó, trong việc xảy ra tựa mơ, thế
thì làm sao chúng ta có thể hi vọng chiến thắng theo cách
riêng của mình trong thế giới của chân lí?
Lời cầu nguyện nghĩa là nhận biết của người đã bị thất
bại trong thế gian. Khi thậm chí sau khi thử trong hết kiếp nọ
đến kiếp kia người đó đều bị thất bại trong những cái tầm
thường, người đó có thể thỉnh cầu khả năng nào ở thầy về
điều linh thiêng và điều tuyệt đối?
Do đó có lời cầu nguyện. Do đó người thấy đã khẩn cầu
toàn thể vũ trụ tới giúp người đó. Người đó đã khẩn cầu mặt
trời, người đó đã khẩn cầu Varuna. Tất cả những cái tên này
đều là biểu tượng của quyền năng của vũ trụ. Mặt trời được
khẩn cầu trước nhất bởi vì mặt trời là cuộc sống của chúng
ta. Không có mặt trời không có chúng ta. Bên trong chúng ta
đó là mặt trời sống, nóng bỏng. Nếu mặt trời tắt ở đằng kia,
chúng ta cũng tắt ở đây. Mặt trời là cuộc sống chúng ta, do đó ngài đã
được khẩn cầu tới.
Người thấy nói: Xin chào Vayu, thần không khí - Vayu
đã được đặc biệt chào mừng trong lời cầu nguyện này - vì
ngài là biểu hiện của Brahman. Điều này có hơi lạ một chút.
Nghĩ một chút mà xem. Điều này rất hay, bởi vì Vayu tuyệt
đối không biểu hiện; mọi thứ khác đều biểu hiện. Nếu như
người thấy đã nói với mặt trời, “Ngài là biểu hiện của
Brahman” - toả sáng, cháy bỏng, nóng rực, sống - điều đó
chắc có thể hiểu được. Nhưng người thấy đã không gọi mặt
trời là “biểu hiện của Brahman”; ông ta nói điều đó cho
Vayu, người chúng ta không thấy gì hết cả, người thực sự là
không biểu hiện.
Biểu hiện của Vayu ở đâu? Chúng ta chỉ suy diễn ra nó
là vậy, chúng ta chỉ cảm thấy rằng nó là vậy, nhưng nó
không thể thấy được. Nó sẵn có ở đâu để cho mắt thấy được?
Biểu hiện có nghĩa là cái có thể thấy được bằng mắt. Bây
giờ, Vayu không có sẵn chút nào cho mắt thấy. Đá, núi,
chúng tất cả là thấy được, nhưng Vayu thì không.
Nhưng người thấy nói: Hỡi Vayu, lời chào đặc biệt gửi
tới ngài, vì ngài là biểu hiện của Brahman. Ông ta nói như
vậy vì Vayu, không khí, là không thấy được nhưng vẫn có
đấy; là không thấy được bằng mắt, dầu vậy nó vẫn đang
chạm vào mắt từng khoảnh khắc - và cùng điều đó là tình
huống với chân lí tối thượng. Nó không thấy được nhưng nó
đang chạm vào chúng ta mọi khoảnh khắc.
Vayu là không thấy được bởi vì chúng ta không có mắt
để thấy nó. Vayu đơn giản có đó. Không có Vayu chúng ta
không thể tồn tại được. Vayu là trong hơi thở chúng ta, bảo
vệ chúng ta, và chính cuộc sống chúng ta phụ thuộc vào việc
hít vào thở ra nó. Cái gì đó gần gũi chúng ta thế, chính là
nhịp thở của ta, chúng ta không thể thấy được bởi vì mắt
chúng ta rất thô. Bất kì cái gì rất thô đó là cái ta thấy. Bất kì
cái gì tinh tế chúng ta đều không thể nào thấy được.
Vayu, không khí, là rất tinh tế. Nó hiện diện trước chúng
ta; nó ở bên trong và bên ngoài chúng ta. Nó hiện diện trong
từng tế bào của thân thể chúng ta, nhưng không thấy được.
Đó là lí do tại sao người ta nói: Ngài là biểu hiện của
Brahman - ngài hệt như Brahman.
Brahman hiện diện ở đây nhưng không thấy được. Và nó
đang hiện diện trong từng thớ thịt của chúng ta; thực tế, nó là
từng thớ thịt và vậy mà chúng ta không thấy dấu vết nào của
nó. Đó là lí do tại sao Vayu đã được chào - vì chúng ta biết
tới Vayu nhưng không biết tới Brahman. Sợi chỉ quan hệ đã
được thử lập, rằng Brahman là hệt như Vayu, không khí.
“Con sẽ gọi ngài là biểu hiện của Brahman,” người thấy
nói, “con cũng sẽ đặt tên ngài là chân lí và rit, luật, vì ngài
giống hệt như cái đang đó và không được biết đối với chúng
con; người là bản thân chúng con và vậy mà chúng con
không biết là ai; ai đang ở tại đây và bây giờ từ vĩnh hằng và
không được chúng con biết. Nhưng việc tìm kiếm này có thể
được hoàn thành, nếu tất cả các thần bảo vệ chúng con.”
Điều được ngụ ý bởi các thần là vô số các lực sống từ
vĩnh hằng. Và cuộc sống là mạng lưới mênh mông của vô số
lực. Sự tồn tại của bạn cũng là một mạng lưới mênh mông
của vô số sức mạnh này. Bên trong bạn gặp mặt trời, Varuna,
Indra, Vayu; Agni, lửa; Prithvi, đất; Akash, bầu trời - tất cả
chúng đều gặp nhau. Nếu chúng ta có thể biết một cá nhân
trong tính toàn bộ của người đó, chúng ta cũng biết đến cái
toàn thể của sự tồn tại dưới dạng hạt mầm. Mọi thứ đều có
đấy trong từng cá nhân, mọi thứ đều thống nhất trong người
đó, và trong sự gặp gỡ của chúng cá nhân tồn tại.
Cho nên lời cầu nguyện là cầu sự giúp đỡ từ tất cả những điều này. Nhưng
mặt trời có giúp không? Câu hỏi đó quả có
nảy sinh. Cho dù lời cầu nguyện được thực hiện, mặt trời có
giúp hay Vayu có giúp hay đất có giúp không? Vấn đề không
phải là sự giúp đỡ của đất hay của mặt trời, nhưng điều bạn
đã cầu nguyện - đó là sự giúp đỡ lớn nhất! Để điều này được
hiểu đúng.
Không mặt trời nào đến giúp bạn cả, nhưng bạn cầu
nguyện và điều đó sẽ ảnh hưởng tới bạn, không phải mặt
trời, bởi vì tâm trí cầu nguyện trở nên khiêm tốn, tâm trí cầu
nguyện trở nên không tự lực được, tâm trí cầu nguyện chấp
nhận sự kiện rằng một mình nó không thể hoàn thành được
bất kì cái gì; tâm trí cầu nguyện sẵn sàng tan biến và từ bỏ
bản ngã của nó và cảm thấy rằng nó có thể làm được việc đó.
Và những điều này đem lại kết quả. Toàn bộ kết quả của lời
cầu nguyện là vào bạn. Lời cầu nguyện không làm thay đổi
mặt trời, nhưng làm thay đổi bạn. Và khoảnh khắc bạn thay
đổi, bạn đi vào thế giới khác.
Thông thường, khi bạn cầu nguyện, bạn nghĩ rằng ai đó
sẽ làm điều gì đó cho bạn, và đó là lí do tại sao bạn cầu
nguyện. Không, lời cầu nguyện chỉ là phương tiện. Chắc
chắn bạn chắp tay trong lời cầu nguyện để hướng tới ai đó
khác, nhưng hậu quả của nó xảy ra bên trong bạn - trong
người đã chắp tay cầu nguyện.
Vậy có những khó khăn trong việc hiểu nó. Nếu bạn cầu
nguyện trong sự hiện diện của nhà khoa học, “Xin mặt trời
giúp con!” nhà khoa học sẽ nói, “Vô nghĩa làm sao! Làm sao
mặt trời lại có thể giúp anh được? Đã bao giờ mặt trời giúp
được người nào chưa?” Hay bạn cầu nguyện, “Cầu Indra
mưa xuống!” và người đó sẽ nói, “Anh có điên không đấy?
Đã bao giờ mưa rơi xuống bởi lời cầu nguyện chưa?” Nhà
khoa học cũng đúng.
Cả mặt trời lẫn mây lẫn gió đều không nghe bạn đâu.
Không ai nghe bạn cả. Nhưng sự kiện là bạn đã kêu cầu sẽ
làm biến đổi bạn. Bạn càng kêu cầu mãnh liệt càng tạo ra sự
mãnh liệt sâu sắc bên trong bạn. Nếu toàn thể con người bạn
kêu cầu, bạn sẽ trở thành người hoàn toàn khác.
Đây chính là điều lời cầu nguyện để làm gì.
Từ upanishad nghĩa là hạt mầm - hạt mầm của khoa học/
nghệ thuật phương Đông cổ đại về học quan sát tâm trí và
các quá trình của nó một cách thảnh thơi và không phán xét,
do vậy tạo khả năng cho người ta siêu việt lên trên cuộc sống
nô lệ vào các giác quan và tìm thấy cảm nhận và sáng tỏ của
tự nhận biết.
Trong mười bẩy bài nói này, Osho dùng trí huệ cổ đại
của Adhyatma Upanishad như bàn đạp cho thông điệp của
ông gửi tới nhân loại đang chuyển động ngày càng nhanh
hơn hướng tới người biết mọi điều, vào buổi bình minh của
thế kỉ hai mươi mốt. "...Lần đầu tiên Upanishad đã dùng
ngôn ngữ khoa học và đã gạt sang bên ngôn ngữ trung tâm
của con người."
Các bản kinh cổ thường được trình bày dưới dạng đối
thoại thầy-đệ tử. Adhyatma Upanishad thay đổi cách thức
này để cho bản thân đệ tử nói với mình về tự hiểu biết và làm
chi tiết cách hiểu của mình và các bước trên con đường tới
chứng ngộ.
Osho nói, theo cách nói của người tìm kiếm vô danh,
"Đây là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
là cuộc đọ sức trực tiếp với tâm linh. Không có học thuyết
trong nó; chỉ có kinh nghiệm của người đã được hoàn
thành... Trong nó không có thảo luận về cái được sinh ra từ
tò mò hay thóc mách, không; trong nó có những hướng dẫn
cho những người đầy khao khát giải thoát từ những người đã
đạt tới giải thoát..."
"Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn
đồng ý đặt cược tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng có thể trở thành kinh nghiệm của bạn. Kinh nghiệm
không thuộc vào bất kì ai; chúng đến với bất kì người nào
sẵn sàng đón nhận chúng. Không ai có độc quyền về chân lí;
bất kì người nào sẵn lòng tan biến đều kế thừa nó. Chân lí
thuộc về người biểu hiện sự sẵn sàng hỏi về nó - người mở
cánh cửa trái tim họ và mời đón nó...
"Tôi sẽ nói với bạn chỉ những điều tôi biết, bởi vì chỉ
trong việc nói đó mới có giá trị nào đó; bởi vì chỉ có những
điều tôi biết mới có thể, nếu bạn sẵn lòng, làm rung động trái
tim bạn qua tác động sống của nó."
Khi nào câu hỏi, "Phải có cái gì đó nhiều hơn thế này
chứ?" nảy sinh trong lòng bạn, bạn trở thành người tìm kiếm.
Cuốn sách này là câu chuyện về một trong những người tìm
kiếm như thế và con đường của người đó, rộn ràng với bài ca
trong tim và nhảy múa theo bản thể của người: "Tôi là cái tôi
đã từng tìm kiếm, tôi là điều tối thượng, điều thiêng liêng."
Điệu vũ này, bài ca này cũng là quyền tập ấm của bạn.
Ma Kamaal


Điều thiêng liêng là bạn
 

Triệu thỉnh
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
Om, an bình, an bình, an bình.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết. Tôi sẽ chỉ nói điều bạn cũng
có thể biết. Với biết tôi ngụ ý sống với nó. Người ta có thể
biết mặc dầu không sống nó, nhưng tri thức như thế là gánh
nặng; người ta có thể chìm vì nó, nhưng người ta không thể
được nó cứu. Biết cũng có thể là sống động nữa. Việc biết
như vậy đem lại cho chúng ta vô trọng lượng - nhẹ đến mức
chúng ta có thể bay trên trời. Chỉ khi việc biết trở thành sống
động, cánh phát triển, xiềng xích bung ra và cánh cửa tới
điều vô hạn trở nên rộng mở.
Nhưng việc biết là khó đấy; tích luỹ tri thức là dễ. Tâm
trí chọn cái dễ và tránh cái khó. Nhưng người tránh cái khó
sẽ lỡ luôn cả tôn giáo nữa. Người muốn tránh không chỉ cái
khó mà cả cái không thể nữa sẽ không bao giờ đến gần được
tôn giáo.
Tôn giáo chỉ dành cho những người sẵn sàng đi vào cái
không có thể. Tôn giáo dành cho những người liều lĩnh,
không dành cho các chủ hiệu. Tôn giáo không phải là giao
dịch kinh doanh cũng không là thoả hiệp. Tôn giáo là đặt
cược. Kẻ đánh bạc đặt cược của cải của mình; người tôn giáo
đặt cược chính bản thân mình bởi vì đó là của cải tối thượng.
Người không sẵn sàng đặt cược chính cuộc đời mình sẽ
không bao giờ có khả năng biết được bí ẩn giấu kín của cuộc
đời. Những bí mật đó không có sẵn với giá rẻ đâu. Tri thức
có sẵn với giá rẻ; tri thức đầy rẫy trong sách vở, trong kinh
sách, trong giáo dục, với các thầy giáo. Tri thức có sẵn gần
như cho không; bạn không phải trả gì để được nó. Trong tôn
giáo bạn phải trả nhiều lắm. Nói trả ‘nhiều lắm’ cũng chưa
đúng, bởi vì chỉ khi ai đó đặt cược mọi thứ thì cánh cửa tới
cuộc sống đó mới mở. Cánh cửa tới cuộc sống đó chỉ mở cho
những người đặt cược cuộc đời này. Đặt cược cuộc đời này là chìa khoá
duy nhất cho cánh cửa của cuộc đời đó. Nhưng
tri thức rất rẻ, cho nên tâm trí chọn cách dễ hơn và rẻ hơn.
Chúng ta học mọi thứ - từ ngữ, học thuyết - và nghĩ rằng
chúng ta biết. Tri thức như vậy chỉ là dốt nát nâng cao.
Người dốt nát ít nhất biết rằng người đó không biết; ít
nhất người đó cũng có chân lí tới chừng nấy. Nhưng người ta
không thể tìm được những người giả dối nhiều hơn những
người chúng ta gọi là thông thái. Họ thậm chí không biết
rằng họ không biết. Cái gì đó được nghe, cái gì đó được giao
cho trí nhớ đã lừa dối họ trong việc nghĩ họ cũng đã biết.
Tôi sẽ nói với bạn chỉ điều tôi biết, bởi vì chỉ trong việc
nói đó có giá trị nào đó; bởi vì chỉ điều mà tôi có thể biết,
nếu bạn sẵn lòng, mới làm rung động sợi dây trái tim bạn
cùng với tác động sống của nó.
Điều mà bản thân tôi không biết và điều chỉ sâu như lớp
da trong tôi, không thể đi sâu hơn chừng ấy vào bạn được.
Chỉ những cái đã đi sâu vào tim tôi mới có khả năng đó; nếu
bạn hợp tác, nó có thể đạt tới tim bạn. Ngay cả thế thì hợp
tác của bạn cũng là điều phải có, bởi vì nếu trái tim bạn đóng
kín, không có cách nào ép buộc chân lí vào trong đó. Và
cũng là tốt nó là như vậy, bởi vì nếu chân lí bị ép buộc lên
bạn, nó không thể trở thành tự do của bạn được, nó chỉ có thể
trở thành nô lệ của bạn. Mọi cưỡng bách đều trở thành nô lệ.
Cho nên trong thế giới này, mọi thứ đều có thể trao cho
bạn thông qua sức mạnh; chỉ chân lí là không thể được, bởi
vì chân lí chưa bao giờ trở thành nô lệ cả. Chính bản chất của
chân lí là tự do. Cho nên chân lí là cái duy nhất trong thế giới
này không ai có thể trao cho bạn bằng sức mạnh, cái không
ai có thể tống vào bạn, cái không thể choàng vào bạn từ bên
ngoài như quần áo; với cái đó điều tiên quyết là sự sẵn lòng,
cởi mở, dễ cảm nhận, mời chào, trái tim tràn đầy lòng biết ơn
của bạn. Nếu trái tim bạn trở thành tựa đất khô trước mùa
mưa khi nó khát nước, nứt nẻ dưới cái nóng mùa hè như
nung như nấu - dường như nó cong môi đây đó ngóng chờ
cơn mưa - thế thì chân lí đi vào bạn. Bằng không, chân lí
quay lưng ngay từ chính ngưỡng cửa của bạn. Nhiều lần nó
đã quay đi, trong nhiều, nhiều kiếp.
Bạn không phải là mới - không có gì mới trên thế gian
này cả; tất cả các bạn đều rất cổ. Bạn đã ngồi dưới chân Phật
và nghe ông ấy, bạn đã từng thấy Krishna, bạn cũng đã từng
vây quanh Jesus, nhưng dầu vậy bạn đã lỡ, bởi vì trái tim bạn
chưa bao giờ sẵn sàng. Các con sông của Phật và Mahavira
đã chảy qua bạn, nhưng bạn vẫn còn khát.
Ngày Phật sắp rời bỏ thân thể mình, Ananda đã khóc và
đấm ngực trong mối tuyệt vọng. Phật đã hỏi ông ta, “Sao ông
khóc? Ta đã gần ông đủ lâu rồi... bốn mươi năm! Và nếu
điều ấy thậm chí còn chưa xảy ra trong bốn mươi năm ấy thì
phỏng có ích gì mà khóc bây giờ? Và tại sao ông cảm thấy
phiền muộn đến thế về cái chết của ta?”
Ananda trả lời, “Tôi đau buồn quá bởi vì tôi không thể
nào đảm đương việc tan biến trong khi thầy còn ở đây. Nếu
như tôi đã tan biến thì thầy đã có thể bước vào tôi. Trong
suốt bốn mươi năm sông đã chảy qua bên tôi mà tôi vẫn còn
khát. Bây giờ tôi khóc bởi vì tôi không biết khi nào và đến
kiếp nào tôi mới có thể gặp lại được dòng sông này.”
Bạn đâu có mới. Bạn đã hoả táng các vị phật, bạn đã hoả
táng Mahavira - Jesus, Krishna và mọi người; bạn đang sống
sau khi hoả táng tất cả họ. Họ đã thua trận chiến với bạn.
Bạn rất cổ. Bạn đã từng ở đây từ khi có cuộc sống. Đó đã
từng là cuộc hành trình vô tận. Chúng ta đang lỡ ở đâu? Đấy
chỉ là vì bạn còn chưa mở, bạn đóng đấy thôi.
Tôi sẽ nói cho bạn chỉ những điều tôi đã biết. Nếu bạn có thể làm cho bản
thân mình cởi mở ra, bạn cũng sẽ biết điều
đó. Và không phải là có cái gì khó khăn ghê lắm trong đó.
Chỉ có mỗi một khó khăn thôi, và đó là bạn.
Một số người đi chỉ vì tò mò, hệt như trẻ nhỏ hỏi trong
khi chúng đang bước, “Tên của cây này là gì ạ?” Và nếu bạn
không trả lời, chúng lập tức quên ngay rằng chúng vừa hỏi
điều gì đó và chúng lại bắt đầu hỏi cái gì đó khác: “Tại sao
hòn đá này lại nằm đây thế nhỉ?” Chúng hỏi chỉ với mục
đích để hỏi chứ không phải để biết. Chúng không hỏi để biết,
chúng hỏi vì chúng không thể vẫn còn không hỏi.
Những người đang sống từ tò mò vẫn là trẻ con. Nếu bạn
hỏi, “Thượng đế là gì?” ngẫu nhiên hệt như đứa trẻ sẽ hỏi khi
thấy hiệu đồ chơi bên đường, “Đồ chơi này là gì?” bạn vẫn
còn là trẻ con. Và trẻ con có thể được tha thứ, nhưng bạn thì
không.
Tò mò sẽ không có có tác dụng. Tôn giáo không phải là
trò chơi trẻ con. Cho dù bạn có được trao cho câu trả lời, nó
cũng không phục vụ cho mục đích gì. Vui đùa của trẻ con là
trong việc hỏi. Nó có thể hỏi, đó là vui đùa của nó. Cho dù
bạn cho nó câu trả lời, nó cũng không quan tâm mấy đến câu
trả lời đó. Có vấn đề gì?
Các nhà tâm lí nói rằng khi trẻ con học nói, lần đầu tiên
chúng chỉ thực hành việc nói bằng cách hỏi, khi đứa trẻ lần
đầu tiên học đi, nó thử mọi lúc để đứng dậy và bước. Cho
nên trẻ con cứ lặp đi lặp lại cùng một câu bởi vì chúng đã thu
được kinh nghiệm mới, chiều hướng mới qua việc nói. Cho
nên trong chiều hướng mới đó chúng trôi nổi và diễn tập; đó
là lí do tại sao chúng cứ hỏi mọi thứ, chúng nói đủ mọi thứ.
Trong thế giới tôn giáo, nếu bạn cũng hỏi đủ mọi thứ,
nói đủ mọi thứ, nghĩ đủ mọi thứ mà không có ham muốn sâu
sắc nào để biết - chỉ từ tò mò - thế thì bạn sẽ vẫn hoả thiêu
nhiều vị phật; thế thì ai biết bao nhiêu vị phật nữa sẽ vẫn
phải làm việc vất vả về bạn?
Chân lí không quan hệ gì với tò mò cả.
Một số người tăng thêm chút ít tính tò mò và trở thành
hay hỏi. Cũng có một chút ít sâu sắc hơn trong hay hỏi,
nhưng chỉ chút xíu thêm thôi. Hay hỏi không phải là rất sâu
sắc, nó là nông, vì nó chỉ là trí năng. Trí năng hệt như bệnh
ghẻ lở: nếu gãi một chút, bạn cảm thấy dễ chịu. Cho nên trí
năng cứ tiếp tục gây ngứa: có Thượng đế không? Có linh hồn
không? Có cứu rỗi linh hồn không? Thiền là gì? - không phải
là bạn muốn làm việc đó. Thượng đế là gì? - không phải bạn
muốn biết về điều đó, nhưng chỉ để thảo luận, chỉ để nói
chuyện. Đấy là bài tập tâm trí, giải trí trí năng. Cho nên mọi
người chỉ nói lớn, họ chưa bao giờ đặt cược điều gì. Dù
Thượng đế có hay không, đấy không phải là mối quan tâm
thực sự của họ; và họ vẫn còn không biến đổi dù Thượng đế
có hay không.
Đây là điều rất hay: người này tin có Thượng đế, người
kia tin không có Thượng đế, và cuộc sống của cả hai là hệt
nhau. Nếu ai đó bị lăng mạ thì người tin vào có Thượng đế
cáu mà người tin vào không có Thượng đế cũng cáu. Đôi khi
điều xảy ra là người tin vào có Thượng đế cáu hơn. Người
tin không có Thượng đế, người đó có thể làm đến đâu với
bạn? Nhiều nhất người đó có thể lăng mạ bạn để đáp lại,
đánh bạn hay giết bạn. Nhưng người tin có Thượng đế có thể
tống cổ bạn cho chết dần mòn trong đau đớn của địa ngục.
Người đó có nhiều cách hơn để trở nên giận dữ.
Nếu việc tin vào Thượng đế hay không tin vào Thượng
đế không đem lại thay đổi gì trong cuộc sống người ta, điều
đó chỉ có nghĩa là nó không có quan hệ gì đến Thượng đế cả,
nó chỉ là nói chuyện trí năng thôi. Việc hay hỏi như thế làm cho con
người thành triết gia. Người đó liên tục suy ngẫm và
cân nhắc, người đó học kinh sách, tích luỹ quá nhiều học
thuyết, có khả năng nghĩ về mọi cái ủng hộ, cái chống đối,
tham dự tranh cãi, nhưng người đó chưa bao giờ sống cả.
Nếu bạn cũng chỉ toàn hay hỏi sẽ không có cuộc hành
trình nào cả. Người đầy câu hỏi là những người ngồi cạnh
cột cây số và hỏi, “Đích là gì? Đích còn bao xa nữa?” Họ
tiếp tục hỏi điều này nhưng họ không bao giờ đứng dậy và
bắt đầu bước.
Bạn biết nhiều thế! Cái gì có đó bị thiếu trong việc biết
của bạn? Bạn biết gần như mọi thứ - bất kì cái gì Phật biết
hay Mahavira hay Krishna biết, bạn cũng biết. Trong khi đọc
Gita, bạn không cảm thấy bạn biết tất cả những điều này
sao? Có đấy, bạn cũng biết, nhưng đây tất cả chỉ trong đầu
bạn. Hạt mầm còn chưa đạt tới tim bạn. Và những ý tưởng
này, chỉ trong tâm trí, giống như hạt mầm nằm trên đá. Hạt
mầm có đấy, nằm trên đá, nhưng nó không thể nảy mầm
được. Để nảy mầm, hạt mầm sẽ phải rơi ra khỏi tảng đá và
tìm tới đất. Và mặt đất cũng chưa phù hợp, vì còn cần cả hơi
nước ẩm nữa. Cho nên nó phải chui xuống dưới mặt đất tới
chỗ có nước, nơi có nước tinh tuý chảy qua.
Hạt mầm vẫn còn trong tâm trí tựa như hạt mầm nằm
trên đá. Chừng nào nó còn chưa rơi vào trong tim thì đất ướt
vẫn còn chưa có sẵn. Trong tim nước tinh tuý chảy, tình yêu
nào đó; có nước ở đó. Nếu hạt mầm rơi vào đó, nó sẽ nảy
mầm.
Người hay hỏi có rất nhiều điều bên trong họ; mọi thứ
đều có đấy, nhưng nó cũng tựa như hạt mầm nằm trên đá.
Đất không xa lắm, nhưng thậm chí cuộc hành trình nhỏ bé
này cũng lại là khó khăn lớn đối với họ. Họ không thích di
chuyển, cho nên hạt mầm vẫn còn trên tảng đá. Cuộc hành
trình nhỏ này sẽ phải được tiến hành - đó là việc hạt mầm rơi
ra khỏi đá để vào đất, tìm một chỗ trong đất, tìm ra một chút
ẩm ướt, và ẩn mình một chút bên trong đất.
Nhớ lấy, bất kì cái gì được sinh ra trong thế giới này đều
cần im lặng sâu sắc, cần tĩnh mịch và bóng tối. Những cái
được giữ trong tâm trí là cái được giữ nơi ánh sáng để mở.
Việc nảy mầm không thể có ở đó. Tim là mảnh đất ướt ẩn
bên trong bạn. Cái gì đó có thể nảy mầm ở đấy.
Do đó những người sống chỉ với việc hay hỏi trở thành
học giả và bác học; thông thái, nhưng không có gì nảy mầm
được bên trong họ cả - không sinh thành mới, không cuộc
sống mới, không hoa mới, không cái gì cả.
Có một chiều của việc tìm kiếm: chúng ta gọi nó là
mumuksha, khát khao sâu sắc về giải thoát. Tại đây không có
mối quan tâm về việc biết, mối quan tâm là về hiện hữu. Tại
đây không có mối quan tâm về hiểu biết, mối quan tâm là về
con người. Câu hỏi không phải là liệu có Thượng đế hay
không, câu hỏi là liệu tôi có thể là Thượng đế hay không. Có
thể có Thượng đế, nhưng nếu tôi không thể trở thành
Thượng đế thì phỏng có ích gì trong đó. Câu hỏi không phải
là liệu có giải thoát hay không, câu hỏi là liệu tôi có thể cũng
được giải thoát hay không. Nếu không có khả năng nào để
tôi trở nên được giải thoát thì cho dù có giải thoát ở đâu đó
nó cũng là vô nghĩa đối với tôi. Vấn đề không phải là liệu có
linh hồn bên trong hay không - có thể có, có thể không có -
vấn đề thực là liệu tôi có thể trở thành linh hồn hay không.
Mumuksha, khát khao về giải thoát, là tìm kiếm hiện
hữu. Và khi người ta muốn hiện hữu, người ta phải đặt cược
chính bản thân mình. Đây là lí do tại sao tôi nói tôn giáo là
chuyện của những kẻ liều lĩnh.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn đồng ý đặt cược
tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng đều trở thành của bạn. Kinh nghiệm không thuộc về bất
kì ai; bất kì ai sẵn sàng đón nhận chúng, chúng đến với người
đó. Không ai có bất kì quyền gì về chân lí, bất kì ai sẵn sàng
biến mất đều thừa kế nó. Chân lí thuộc về người biểu hiện sự
sẵn sàng hỏi đến nó - người mở cánh cửa trái tim mình và
mời gọi nó vào.
Đó là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
này là đương đầu trực tiếp với tâm linh. Không có siddhants,
học thuyết, trong nó; trong nó chỉ có kinh nghiệm của
siddhas, người đã được hoàn thành. Trong nó không có thảo
luận về điều được sinh ra từ tò mò hoặc hay hỏi, không;
trong nó có hướng dẫn cho những người tràn đầy khao khát
về giải thoát bởi những người đã đạt tới giải thoát.
Có một số người còn chưa đạt tới, họ chưa thể nào vứt
bỏ được việc thích thú hướng dẫn người khác. Cho sự hướng
dẫn là điều rất thích thú. Trên toàn thế giới, cái được đem
cho nhiều nhất là hướng dẫn và cái được nhận ít nhất cũng là
hướng dẫn. Mọi người đều cho, không ai nhận.
Bất kì khi nào bạn có cơ hội để nêu cho ai đó lời khuyên,
bạn đâu có để lỡ dịp đó. Không cần là bạn có khả năng đưa
ra lời khuyên này; không nhất thiết bất kì cái gì bạn nói cũng
là việc biết của bạn, nhưng khi nêu ra lời khuyên, cám dỗ của
niềm vui được làm thầy là rất khó vượt qua.
Niềm vui được làm thầy là gì? Bạn bỗng nhiên, chẳng
mất chi phí nào, ở phía cao hơn còn người kia thì ở phía thấp
hơn. Nếu ai đó tới bạn xin đồ tặng, bạn thấy khó khăn làm
sao khi phải cho đi một xu! Khó khăn là ở chỗ bạn phải cho
cái gì đó từ cái bạn có. Nhưng trong khi cho lời hướng dẫn
bạn đâu có khó khăn, bởi vì có khó khăn gì ở đó khi bạn đem
cho cái mà bạn không có? Bạn chả mất gì cả. Ngược lại, bạn
thu được cái gì đó: bạn thu được vui vẻ, bạn thu được việc
làm tăng bản ngã. Hôm nay bạn ở vị trí hướng dẫn, và người
kia ở đầu nhận. Bạn là ở trên đỉnh, người kia ở dưới.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng, trong Upanishad này,
không có vui thích của việc cho bất kì lời khuyên hay hướng
dẫn nào; thay vì thế có nỗi đau lớn, bởi vì điều mà người
thấy của Upanishad này đang cho, người đó cho sau khi biết
nó. Người đó chia sẻ cái gì đó rất thân thiết, rất bên trong.
Hướng dẫn là ngắn gọn nhưng sâu sắc. Cú đánh rất ít
nhưng chết người. Và, nếu bạn sẵn sàng, mũi tên sẽ xuyên
thẳng vào tim bạn và sẽ không để bạn sống nữa. Nó sẽ giết
chết bạn. Do đó, nhận biết và tỉnh táo đi, bởi vì chính việc
này là nguy hiểm. Bạn sẽ phải mất cái bạn nghĩ bạn đang là.
Trong nó, không có cách nào đạt tới mà không mất bản thân
bạn. Ở đây chỉ những người mất mới là người đạt tới.
Đấy cũng là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này.
Thực tế tôi có thể nói thẳng với bạn, không có lí do gì để
đem Upanishad vào - nhưng tôi sẽ dùng nó như cái cớ, chỗ
nấp. Nếu bạn bắn một mũi tên trực tiếp, người ta có thể
thoát; nhưng nếu ẩn sau Upanishad thì ít có cơ may bạn bắn
trượt. Tôi đã chọn Upanishad để cho bạn có thể không biết
rằng tôi đang nhắm thẳng vào bạn. Theo cách này cơ hội trốn
thoát bị tối thiểu hoá. Mọi thợ săn đều biết rằng việc đi săn
thuận lợi hơn nếu được thực hiện ở nơi có chỗ ẩn nấp.
Upanishad này là nơi ẩn nấp duy nhất.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi đã biết, nhưng thế thì không có
khác biệt giữa cái đó và Upanishad, vì bất kì cái gì người
thấy của Upanishad này đã từng nói, ông ta cũng đã biết nó.
Upanishad này là biểu hiện của những bí ẩn tinh tế nhất
về tâm linh. Nhưng nếu tôi cứ tiếp tục chỉ nói về Upanishad,
có nỗi sợ là việc nói chuyện vẫn đơn thuần là nói chuyện.
Cho nên nói chuyện sẽ chỉ là bối cảnh, và cùng với nó sẽ có
các thực nghiệm. Bất kì điều gì được nói ra, bất kì điều gì
người thấy đã thấy, hay bất kì điều gì tôi nói, và tôi đã thấy -
đều sẽ có những nỗ lực để làm quay mặt bạn ra, để nâng mắt
bạn lên hướng về điều đó. Nỗ lực nâng tầm mắt bạn lên
hướng về điều đó sẽ là điều chính; việc nói chuyện về
Upanishad sẽ chỉ để tạo ra nơi chốn. Những rung động như
vậy có thể được tạo ra khắp xung quanh bạn để cho bạn quên
mất thế kỉ hai mươi và hướng tới thế giới của người thấy của
Upanishad, sao cho thế giới này, cái đã trở thành mờ xỉn và
xấu xí đến thế, có thể biến mất đi và kí ức có thể nảy sinh về
những ngày mà người thấy này đã sống. Bầu không khí, nơi
chốn - Upanishad chỉ là để dành cho điều đó. Nhưng điều đó
vẫn chưa đủ; nó là cần, nhưng không đủ.
Cho nên bất kì điều gì tôi nói, nếu bạn chỉ dừng nghe về
nó tôi sẽ biết ngay bạn không nghe nó chút nào cả. Bất kì ai
không bắt đầu khởi hành cuộc hành trình sau khi nghe về
điều này, tôi đều tin là người đó đã không nghe. Nếu bạn
nghĩ bạn đã hiểu chỉ bởi việc nghe... đừng vội vã như thế!
Nếu có thể hiểu được điều gì đó chỉ bằng việc nghe, chúng ta
đã hiểu được từ lâu rồi. Nếu như có thể hiểu được điều gì đó
chỉ bằng việc nghe thì đã không thiếu những người hiểu
trong thế giới này và khó mà tìm thấy người dốt nát. Nhưng
như nó vậy, thế giới toàn những người dốt nát.
Không có gì được hiểu chỉ bằng việc nghe. Bằng việc
nghe chúng ta chỉ siết nắm tay giữ lấy lời. Không phải bởi
việc nghe mà bởi việc làm, người ta mới hiểu. Cho nên nghe
để tìm ra cách làm, không phải để hiểu. Nghe để làm, làm để
hiểu. Đừng đi tới kết luận rằng chỉ có bằng cáchg nghe bạn
đã hiểu; mối nối trung gian đó của việc làm là cần thiết.
Không có cách khác. Nhưng tâm trí chúng ta nói, “Tôi đã
nắm được điều ấy; bây giờ cần gì làm?”
Đích được đạt tới bằng việc đi tới chúng. Bạn có thể đã
hiểu mọi thứ, toàn bộ con đường của cuộc hành trình của bạn
có thể đã được bạn ghi nhớ, bạn có thể có bản đồ chi tiết
trong túi; dẫu thế, không đi không ai đã bao giờ tới được
đích của mình. Nhưng có thể mơ đã tới đích. Một người có
thể ngủ ngay đây và có thể mơ đã tới đâu đó... Tâm trí là
chuyên gia về mơ.
Đừng nghĩ rằng chỉ bạn mới thấy những giấc mơ như
vậy; ngay cả những người bạn gọi là rất thông minh cũng
vẫn cứ có những giấc mơ này. Các thánh nhân, các sư và
sannyasin - những người đã từng tìm kiếm nhiều năm trời -
vẫn còn chưa đến gần thêm cho dù một li tới bất kì đâu. Họ
vẫn còn chưa bắt đầu cuộc hành trình chút nào và họ đã tìm
kiếm trong nhiều năm ròng rã! Toàn bộ tìm kiếm của họ đã
là vòng tròn. Trong tâm trí vòng tròn đã được tạo ra - một
loại xoáy nước. Và trong xoáy nước đó họ cứ đi vòng tròn và
vòng tròn, và cuối cùng mọi thứ đều mất đi. Mọi Veda,
Upanishad, Koran, Kinh Thánh - mọi thứ đều mất đi, nhưng
thậm chí không có lấy một li chuyển động.
Chúng ta sẽ thảo luận về Upanishad không phải để làm
cho bạn hiểu về Upanishad mà để cho bạn trở thành
Upanishad. Nếu bằng việc nghe bạn ghi nhớ điều gì đó và
bắt đầu lặp lại nó, điều đó có nghĩa là tôi đã làm hại bạn; tôi
đã không chứng tỏ là người bạn của bạn. Việc lặp lại của bạn
về điều bạn đã nghe là không có giá trị gì. Khi tôi có thể thấy
rằng cùng một điều xảy ra cho bạn như đã xảy ra cho tôi,
rằng mắt bạn cũng mở ra, chỉ thế thì bạn mới trở thành
Upanishad.
Hiểu điều đó theo cách này: nhà thơ ca lên bài ca về đoá
hoa. Có thể có dịu ngọt lớn, có nhịp điệu và âm nhạc trong
bài ca này - bài ca có cái đẹp của riêng nó - nhưng dù bài ca có thể hát
về đoá hoa nhiều thế nào, vậy mà bài ca cũng vẫn
chỉ là bài ca, nó không thể là đoá hoa được, nó không phải là
hương hoa. Và nếu bạn được thoả mãn chỉ với bài ca đó, thế
thì bạn đã đi lạc lối.
Upanishad là bài ca về đoá hoa mà bạn chưa từng thấy.
Bài ca này thật kì diệu: ca sĩ đã thấy đoá hoa đó. Những
đừng thoả mãn với bài ca, bài ca không phải là hoa.
Đôi khi sự việc xảy ra là bạn cũng tới gần với hoa - chỉ
đôi khi thôi. Đôi khi bạn cũng có thoáng nhìn về hoa - ngẫu
nhiên, bất chợt - bởi vì hoa không xa lạ với bạn, nó chính là
bản tính của bạn. Nó rất gần bạn, chỉ ngay bên cạnh bạn. Đôi
khi nó chạm vào bạn, không đếm xỉa tới bạn. Đôi khi hoa
cho bạn thoáng nhìn, thoáng nhìn tựa ánh chớp loé. Trong
một khoảnh khắc nào đó nó bất ngờ lọt vào kinh nghiệm của
bạn: bạn cảm thấy rằng có cái gì đó nhiều hơn trong thế giới
này, rằng thế giới này, mà bạn đã biết, không phải là nó chút
nào. Trong thế giới cứng như đá này có cái gì đó khác không
phải là đá mà là hoa, sinh động và nở rộ. Và nếu bạn đã thấy
nó trong giấc mơ nào đó, hay tia chớp loé trong bóng tối của
đêm... Bạn thấy cái gì đó và nó biến mất đi - do vậy thỉnh
thoảng nó xuất hiện trong cuộc sống của bạn. Điều thường
hay xảy ra trong cuộc sống của nhà thơ, điều thường hay xảy
ra trong cuộc sống của hoạ sĩ, là thoáng nhìn về hoa tới gần
cạnh kề.
Vậy mà dù có gần tới đoá hoa, dù thoáng nhìn bạn đã có
lớn đến đâu, tính gần gũi này cũng vẫn là khoảng cách. Hoa
có tới gần bạn đến đâu đi chăng nữa cũng không thành vấn
đề, khoảng cách vẫn còn đó. Và ngay cả nếu tôi thực tế có
thể chạm tay vào đoá hoa, dầu vậy vẫn không chắc chắn rằng
kinh nghiệm tôi có là kinh nghiệm về hoa, bởi vì thông điệp
tới qua tay tôi. Tay có thể cho thông điệp sai. Không có gì
chắc chắn về việc tay tôi cho thông điệp đúng cả: không có lí
do nào để hoàn toàn tin cậy vào tay tôi được. Lại nữa, thông
điệp mà tay cho thường sẽ ít phần về hoa mà lại nhiều phần
về bản thân nó.
Nếu hoa được cảm thấy là lạnh, không nhất thiết là hoa
đang lạnh; có thể tay tôi đang sốt và đó là lí do tại sao hoa
được cảm thấy là lạnh. Thông điệp vậy là nhiều phần về tay
hơn, vì bất kì khi nào thông điệp tới qua trung gian thì nó
bao giờ cũng tương đối. Người ta không thể tuyệt đối chắc
chắn về nó được.
Tôi đã đọc hồi kí do Popov viết. Popov là người tìm
kiếm, một người tìm kiếm hăng hái. Cô ấy đã thực hành kỉ
luật tâm linh với Piotr Dimitrovich Ouspensky. Có lần cô
đang ngồi với Ouspensky, một quí ông tới và hỏi ông ấy liệu
có Thượng đế hay không. Ouspensky kêu lên, “Thượng đế?
Không, không có Thượng đế.” Ouspensky dừng lại một chút
rồi nói, “Nhưng tôi không thể nói với bảo đảm nào được, vì
bất kì điều gì tôi biết đều là thông qua trung gian. Đôi khi tôi
đã thấy qua mắt, nhưng mắt không thể được tin cậy. Đôi khi
tôi nghe qua tai, nhưng tai cũng có thể sai. Đôi khi tôi chạm
bằng tay, nhưng chạm cũng không thể nào tin cậy được. Tới
giờ tôi đã không thấy một cách trực tiếp, tôi chưa bao giờ
từng mặt đối mặt cả. Do đó tôi không thể nói với đảm bảo
nào. Bất kì điều gì tôi đã biết cho tới giờ đều không cho tôi
kinh nghiệm nào về Thượng đế. Nhưng điều ấy cũng không
chứng tỏ rằng không có Thượng đế, nó chỉ báo cho ông về
kinh nghiệm của tôi là gì. Cho nên tôi không thể nêu cho ông
bất kì đảm bảo nào rằng Thượng đế là không có. Nhưng
đừng vứt bỏ tìm kiếm của ông và tin tôi đi, ông cứ tiếp tục
tìm kiếm cho chính ông đi.”
Bất kì khi nào cái gì đó xảy ra qua trung gian cũng đều không đáng tin cậy
cả. Cho dù chúng ta có đến rất gần hoa,
đấy cũng vẫn chỉ là mắt thấy, tay sờ, và mũi thu lấy hương
thơm. Tất cả những cái này đều là kinh nghiệm qua giác
quan của chúng ta. Vậy nó là cái mà đôi khi nhà thơ tới gần
với đoá hoa tối thượng đến mức tiếng vọng của nó choàng
xuống đi vào trong bài ca của ông ta. Nhưng dầu vậy ông ta
không phải là Phật, không phải là Mahavira.
Phật là ai? Mahavira là ai? Phật là tâm thức đó, cái đã trở
thành bản thân đoá hoa đó; ngay cả khoảng cách chừng đó
đó, khoảng cách của việc thấy đoá hoa, cũng không tồn tại.
Tâm thức đã trở thành đoá hoa.
Chỉ trở thành đoá hoa người ta mới hiểu biết đầy đủ cái
gì có đó.
Đây là những phát biểu của người thấy của Upanishad.
Nó tựa như bài ca về đoá hoa nào đó. Tiếp tục rì rào về nó đi
- có rất nhiều vị ngọt ngào và mùi vị tuyệt vời trong đó,
nhưng nó không phải là đoá hoa, nó chỉ là bài ca. Nếu bạn
làm nỗ lực, đôi khi bạn sẽ thấy đoá hoa.
Mọi người đến tôi và nói, “Có ánh sáng lớn trong thiền,
nhưng tôi lại làm mất nó. Ánh sáng vô hạn có đấy, nhưng nó
lại biến mất đi. Có phúc lạc mênh mông, nhưng bây giờ nó đi
đâu rồi?” Bây giờ họ đi tìm nó lần nữa nhưng không thể tìm
thấy nó.
Thoáng nhìn nghĩa là bạn đã tới gần. Nhưng thoáng nhìn
nhất định sẽ bị mất. Nhiều nhất thiền có thể cho chỉ thoáng
nhìn. Nhưng đừng dừng ở đó; đừng bị mắc kẹt vào việc tìm
đi tìm lại cùng cái thoáng nhìn đó. Mục đích duy nhất của
thiền là ở chỗ người ta có được thoáng nhìn. Rồi người ta
phải tiến lên trước, đi vào samadhi, vào trong chứng ngộ, để
cho người ta trở thành chính đoá hoa.
Trong thiền là thoáng nhìn; samadhi là việc là chính nó.
Đừng dừng lại ở thoáng nhìn. Chúng rất đáng yêu: toàn
thế giới bắt đầu trông nhạt nhoà - chỉ một thoáng nhìn về đoá
hoa sống đó, việc nở hoa đó ở bên trong, và toàn bộ thế giới
trở thành vô vị và vô nghĩa. Nhưng thế rồi người nào đó nắm
bắt các thoáng nhìn và bắt đầu lặp lại chúng và nghĩ mọi sự
đã xảy ra. Không, chừng nào bản thân bạn còn chưa là điều
thiêng liêng, đừng tin rằng đó là Thượng đế.
Bạn có thể là nó, vì bạn đã là nó. Bạn chỉ phải cởi mở ra
một chút, để mở ra một chút. Bạn đang hiện diện tại đây và
bây giờ, chỉ đang ẩn nấp. Chỉ có vài tầng quần áo bao phủ
lấy bạn - và chúng nữa cũng rất mỏng - cho nên nếu bạn ham
muốn thế, bạn có thể vứt bỏ chúng ngay bây giờ, thoát khỏi
chúng và trở thành điều thiêng liêng. Nhưng níu bám của bạn
là rất mạnh; mặc dù quần áo mỏng, nắm giữ của bạn lại rất
chặt. Tại sao nắm giữ này mạnh đến thế? Nắm giữ mạnh đến
thế bởi vì chúng ta nghĩ rằng quần áo này là con người chúng
ta, rằng đây là chính chúng ta. Bên cạnh đó chúng ta không
biết gì về bất kì sự tồn tại nào khác.
Trong Upanishad này sẽ có các hướng dẫn về sự tồn tại
đó nằm ngoài những cái che phủ này. Và cùng với
Upanishad này chúng ta sẽ thiền, vậy chúng ta có thể thu
được thoáng nhìn. Và chúng ta sẽ hi vọng về samadhi, chứng
ngộ, để cho chúng ta trở thành không có nó thì cũng không
có mãn nguyện, không an bình và không chân lí.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện
gửi tới toàn thể vũ trụ.
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
và thầy con.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện này. Cuộc hành
trình tôn giáo bắt đầu với lời cầu nguyện. Nó phải là như
vậy. Lời cầu nguyện có nghĩa là tin cậy và hi vọng. Lời cầu
nguyện có nghĩa là tình cảm của chúng ta về việc là một với
toàn thể vũ trụ. Lời cầu nguyện nghĩa là, “Làm sao tôi có thể
xoay xở được một mình?”
Nếu như có khả năng một mình bạn có thể làm cho điều
này xảy ra, chắc nó đã xảy ra từ lâu rồi. Nhưng với bản thân
bạn thậm chí điều tầm thường cũng không thể được đạt tới.
Bạn đã ham muốn tiền bạc, bạn không thể nào đạt tới được
ngay cả điều đó. Bạn đã ước ao địa vị, bạn không thể xoay
xở được ngay cả với điều đó. Bạn có đủ loại ước muốn, lớn
có nhỏ có, nhưng không cái nào được hoàn thành. Một mình
bạn thậm chí không thể đảm đương được cả thế gian: cuộc
hành trình vĩ đại đi tìm chân lí này liệu có thể được riêng bản
thân bạn tiến hành không? Với riêng bản thân mình, bạn
thậm chí thất bại ngay trong thế gian.
Mọi người đều bị thất bại trong thế gian này. Ngay cả
những người dường như là chiến thắng cũng bị thất bại. Họ
chỉ dường như là chiến thắng với người khác; trong bản thân
mình họ bị thất bại hoàn toàn. Bạn với bản thân mình cũng
dường như bị thất bại, nhưng với người khác bạn dường như
chiến thắng. Có những người đằng sau bạn, người cảm thấy
rằng bạn đã đạt tới, rằng bạn đã thắng trong trận chiến thế
gian. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào trong con người, mọi
người đều thất bại.
Thế giới này là câu chuyện dài những thất bại. Ở đây
thắng lợi không xảy ra, ở đây thắng lợi không thể xảy ra
được; nó không phải là bản chất của thế giới. Thất bại là định
mệnh ở đây. Thất bại không phải của bất kì cá nhân nào,
không phải của bất kì người nào, nhưng định mệnh làm
người trong thế gian này là thất bại rồi. Bạn sẽ phải chấp
nhận thất bại ở đó. Không ai đã bao giờ thắng được ở đó.
Chúng ta không thể thắng trong thế giới này nơi mối
quan tâm duy nhất là với những điều nhỏ bé, nơi nó chỉ là
mơ - Shankara gọi nó là maya, ảo vọng. Khi mà chúng ta bị
thất bại ngay trong ảo vọng đó, trong việc xảy ra tựa mơ, thế
thì làm sao chúng ta có thể hi vọng chiến thắng theo cách
riêng của mình trong thế giới của chân lí?
Lời cầu nguyện nghĩa là nhận biết của người đã bị thất
bại trong thế gian. Khi thậm chí sau khi thử trong hết kiếp nọ
đến kiếp kia người đó đều bị thất bại trong những cái tầm
thường, người đó có thể thỉnh cầu khả năng nào ở thầy về
điều linh thiêng và điều tuyệt đối?
Do đó có lời cầu nguyện. Do đó người thấy đã khẩn cầu
toàn thể vũ trụ tới giúp người đó. Người đó đã khẩn cầu mặt
trời, người đó đã khẩn cầu Varuna. Tất cả những cái tên này
đều là biểu tượng của quyền năng của vũ trụ. Mặt trời được
khẩn cầu trước nhất bởi vì mặt trời là cuộc sống của chúng
ta. Không có mặt trời không có chúng ta. Bên trong chúng ta
đó là mặt trời sống, nóng bỏng. Nếu mặt trời tắt ở đằng kia,
chúng ta cũng tắt ở đây. Mặt trời là cuộc sống chúng ta, do đó ngài đã
được khẩn cầu tới.
Người thấy nói: Xin chào Vayu, thần không khí - Vayu
đã được đặc biệt chào mừng trong lời cầu nguyện này - vì
ngài là biểu hiện của Brahman. Điều này có hơi lạ một chút.
Nghĩ một chút mà xem. Điều này rất hay, bởi vì Vayu tuyệt
đối không biểu hiện; mọi thứ khác đều biểu hiện. Nếu như
người thấy đã nói với mặt trời, “Ngài là biểu hiện của
Brahman” - toả sáng, cháy bỏng, nóng rực, sống - điều đó
chắc có thể hiểu được. Nhưng người thấy đã không gọi mặt
trời là “biểu hiện của Brahman”; ông ta nói điều đó cho
Vayu, người chúng ta không thấy gì hết cả, người thực sự là
không biểu hiện.
Biểu hiện của Vayu ở đâu? Chúng ta chỉ suy diễn ra nó
là vậy, chúng ta chỉ cảm thấy rằng nó là vậy, nhưng nó
không thể thấy được. Nó sẵn có ở đâu để cho mắt thấy được?
Biểu hiện có nghĩa là cái có thể thấy được bằng mắt. Bây
giờ, Vayu không có sẵn chút nào cho mắt thấy. Đá, núi,
chúng tất cả là thấy được, nhưng Vayu thì không.
Nhưng người thấy nói: Hỡi Vayu, lời chào đặc biệt gửi
tới ngài, vì ngài là biểu hiện của Brahman. Ông ta nói như
vậy vì Vayu, không khí, là không thấy được nhưng vẫn có
đấy; là không thấy được bằng mắt, dầu vậy nó vẫn đang
chạm vào mắt từng khoảnh khắc - và cùng điều đó là tình
huống với chân lí tối thượng. Nó không thấy được nhưng nó
đang chạm vào chúng ta mọi khoảnh khắc.
Vayu là không thấy được bởi vì chúng ta không có mắt
để thấy nó. Vayu đơn giản có đó. Không có Vayu chúng ta
không thể tồn tại được. Vayu là trong hơi thở chúng ta, bảo
vệ chúng ta, và chính cuộc sống chúng ta phụ thuộc vào việc
hít vào thở ra nó. Cái gì đó gần gũi chúng ta thế, chính là
nhịp thở của ta, chúng ta không thể thấy được bởi vì mắt
chúng ta rất thô. Bất kì cái gì rất thô đó là cái ta thấy. Bất kì
cái gì tinh tế chúng ta đều không thể nào thấy được.
Vayu, không khí, là rất tinh tế. Nó hiện diện trước chúng
ta; nó ở bên trong và bên ngoài chúng ta. Nó hiện diện trong
từng tế bào của thân thể chúng ta, nhưng không thấy được.
Đó là lí do tại sao người ta nói: Ngài là biểu hiện của
Brahman - ngài hệt như Brahman.
Brahman hiện diện ở đây nhưng không thấy được. Và nó
đang hiện diện trong từng thớ thịt của chúng ta; thực tế, nó là
từng thớ thịt và vậy mà chúng ta không thấy dấu vết nào của
nó. Đó là lí do tại sao Vayu đã được chào - vì chúng ta biết
tới Vayu nhưng không biết tới Brahman. Sợi chỉ quan hệ đã
được thử lập, rằng Brahman là hệt như Vayu, không khí.
“Con sẽ gọi ngài là biểu hiện của Brahman,” người thấy
nói, “con cũng sẽ đặt tên ngài là chân lí và rit, luật, vì ngài
giống hệt như cái đang đó và không được biết đối với chúng
con; người là bản thân chúng con và vậy mà chúng con
không biết là ai; ai đang ở tại đây và bây giờ từ vĩnh hằng và
không được chúng con biết. Nhưng việc tìm kiếm này có thể
được hoàn thành, nếu tất cả các thần bảo vệ chúng con.”
Điều được ngụ ý bởi các thần là vô số các lực sống từ
vĩnh hằng. Và cuộc sống là mạng lưới mênh mông của vô số
lực. Sự tồn tại của bạn cũng là một mạng lưới mênh mông
của vô số sức mạnh này. Bên trong bạn gặp mặt trời, Varuna,
Indra, Vayu; Agni, lửa; Prithvi, đất; Akash, bầu trời - tất cả
chúng đều gặp nhau. Nếu chúng ta có thể biết một cá nhân
trong tính toàn bộ của người đó, chúng ta cũng biết đến cái
toàn thể của sự tồn tại dưới dạng hạt mầm. Mọi thứ đều có
đấy trong từng cá nhân, mọi thứ đều thống nhất trong người
đó, và trong sự gặp gỡ của chúng cá nhân tồn tại.
Cho nên lời cầu nguyện là cầu sự giúp đỡ từ tất cả những điều này. Nhưng
mặt trời có giúp không? Câu hỏi đó quả có
nảy sinh. Cho dù lời cầu nguyện được thực hiện, mặt trời có
giúp hay Vayu có giúp hay đất có giúp không? Vấn đề không
phải là sự giúp đỡ của đất hay của mặt trời, nhưng điều bạn
đã cầu nguyện - đó là sự giúp đỡ lớn nhất! Để điều này được
hiểu đúng.
Không mặt trời nào đến giúp bạn cả, nhưng bạn cầu
nguyện và điều đó sẽ ảnh hưởng tới bạn, không phải mặt
trời, bởi vì tâm trí cầu nguyện trở nên khiêm tốn, tâm trí cầu
nguyện trở nên không tự lực được, tâm trí cầu nguyện chấp
nhận sự kiện rằng một mình nó không thể hoàn thành được
bất kì cái gì; tâm trí cầu nguyện sẵn sàng tan biến và từ bỏ
bản ngã của nó và cảm thấy rằng nó có thể làm được việc đó.
Và những điều này đem lại kết quả. Toàn bộ kết quả của lời
cầu nguyện là vào bạn. Lời cầu nguyện không làm thay đổi
mặt trời, nhưng làm thay đổi bạn. Và khoảnh khắc bạn thay
đổi, bạn đi vào thế giới khác.
Thông thường, khi bạn cầu nguyện, bạn nghĩ rằng ai đó
sẽ làm điều gì đó cho bạn, và đó là lí do tại sao bạn cầu
nguyện. Không, lời cầu nguyện chỉ là phương tiện. Chắc
chắn bạn chắp tay trong lời cầu nguyện để hướng tới ai đó
khác, nhưng hậu quả của nó xảy ra bên trong bạn - trong
người đã chắp tay cầu nguyện.
Vậy có những khó khăn trong việc hiểu nó. Nếu bạn cầu
nguyện trong sự hiện diện của nhà khoa học, “Xin mặt trời
giúp con!” nhà khoa học sẽ nói, “Vô nghĩa làm sao! Làm sao
mặt trời lại có thể giúp anh được? Đã bao giờ mặt trời giúp
được người nào chưa?” Hay bạn cầu nguyện, “Cầu Indra
mưa xuống!” và người đó sẽ nói, “Anh có điên không đấy?
Đã bao giờ mưa rơi xuống bởi lời cầu nguyện chưa?” Nhà
khoa học cũng đúng.
Cả mặt trời lẫn mây lẫn gió đều không nghe bạn đâu.
Không ai nghe bạn cả. Nhưng sự kiện là bạn đã kêu cầu sẽ
làm biến đổi bạn. Bạn càng kêu cầu mãnh liệt càng tạo ra sự
mãnh liệt sâu sắc bên trong bạn. Nếu toàn thể con người bạn
kêu cầu, bạn sẽ trở thành người hoàn toàn khác.
Đây chính là điều lời cầu nguyện để làm gì.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến