Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

Thiền không lời cầu nguyện có tương lai lớn

Người hỏi: Thầy nói tại trại thiền Nargol tổ chức
gần đây, rằng sadhana hay kỉ luật về kundalini là
cách chuẩn bị thân thể. Xin thầy giải thích điều đó?

Trước hết, thân thể và linh hồn trong chính chiều
sâu của chúng là không tách rời; khác biệt giữa chúng là
rất bề mặt. Khi toàn thể chân lí của nó được biết tới,
chúng ta không còn thấy thân thể và linh hồn như hai
thực thể tách biệt; chúng ta thực sự thấy chúng là một
và như nhau. Trong thực tế, thân thể là phần của linh
hồn có thể được lĩnh hội qua các giác quan, còn linh
hồn là phần của thân thể ở bên ngoài lĩnh hội của các
giác quan. Cho nên linh hồn là đầu vô hình của thân thể,
còn thân thể là đầu hữu hình của linh hồn.
Nhưng điều này được biết tới chỉ khi người ta đi tới
việc kinh nghiệm tối thượng về chân lí.
Điều kì cục là nói chung chúng ta tất cả đều tin rằng
thân thể và linh hồn là một và cùng một thứ. Nhưng tin
chung này là ảo tưởng, bởi vì chúng ta thực sự không
biết linh hồn là gì. Thay vì thế chúng ta lấy thân thể thế
cho linh hồn. Nhưng ngay cả ảo tưởng và niềm tin phổ
biến này cũng đều xuất phát từ cùng một chân lí cơ sở -
đằng sau nó có cùng tri thức về sự thống nhất này; ở nơi
sâu kín vô hình nào đó của bản thể mình chúng ta có
biết rằng thân thể và linh hồn là một.
Tuy nhiên, tri thức về tính một này làm nảy sinh ra
hai loại lỗi lầm. Một mặt có những người duy tâm,
người nói rằng chỉ có linh hồn và không có thân thể; và
mặt khác, có những người duy vật như Charvaka và
Epicurus, người tuyên bố rằng chỉ có thân thể và không
có linh hồn. Hai quan niệm sai lầm này, mâu thuẫn lẫn
nhau, đều phát sinh từ cùng một hiện thực sâu sắc là
thân thể và linh hồn là không tách rời.
Và như những người duy vật, mọi người thường -
người chúng ta nói là dốt nát - đều cho rằng mình chỉ là
thân thể.
Nhưng khi cuộc hành trình nội tâm bắt đầu, niềm
tin rằng thân thể và linh hồn là một sẽ bị tan nát, và
người ta sẽ đi tới biết ra rằng chúng là tách biệt. Bởi vì
ngay khi người ta biết rằng có linh hồn, người đó cũng
biết rằng thân thể là tách rời và linh hồn cũng tách rời.
Nhưng điều này xảy ra trong giai đoạn trung gian
của cuộc hành trình. Khi bạn đi sâu hơn và sâu hơn nữa,khi bạn đạt tới kinh nghiệm tối thượng, bạn sẽ biết rằng
chúng không tách rời. Chúng thực sự là một và như
nhau; chúng là các dạng khác nhau của cùng một thực
tại.
Điều đó giống như tôi là một người với hai tay - tay
phải và tay trái. Nếu ai đó quan sát hai tay tôi từ bên
ngoài và nói rằng chúng là một và như nhau, thì người
đó sai, bởi vì chúng là hai tay rõ ràng tách rời lẫn nhau.
Lại gần tôi hơn người đó sẽ biết rằng tay trái tôi là hoàn
toàn tách rời với tay phải. Có thể, tay trái tôi bị đau còn
tay phải tôi không đau. Có thể tay phải bị đứt rời còn
tay trái thì vẫn tốt. Cho nên hai tay này hiển nhiên
không là một và không như nhau. Nhưng nếu ai đó đi
vào lãnh thổ của tôi người đó sẽ thấy rằng tôi là một
người và cả hai tay đều là của tôi. Khi tay trái bị gẫy thì
chính tôi là người bị đau; và khi tay phải bị gẫy, lại
chính tôi là người chịu đựng. Và theo cùng cách này khi
tay trái giơ lên, thì chính tôi là người giơ nó lên, còn khi
tay phải được giơ lên, lại chính là tôi đang giơ nó lên.
Cho nên trong kinh nghiệm tối thượng thân thể và
linh hồn là không tách rời; chúng là hai mặt, như hai tay
tôi, của cùng một chân lí. Tôi đem ra tương tự này để
cho bạn hiểu sự việc được rõ.
Thế thì cuộc hành trình có thể được bắt đầu từ bất kì
điểm nào trong hai điểm này - hoặc là từ thân thể hoặc
là từ linh hồn. Nếu ai đó bắt đầu nó với thân thể và cứ đi
ngày một sâu hơn vào trong nó, người đó chung cuộc sẽ
đạt tới linh hồn. Điều đó cũng giống như ai đó cầm tay
phải của tôi và đưa lên; người đó sớm hay muộn sẽ đạt
tới tay trái tôi. Tương tự ai đó có thể bắt đầu trực tiếp
bằng linh hồn và cuối cùng đạt tới thân thể.
Tuy nhiên rất khó bắt đầu bằng linh hồn. Nó khó
bởi vì linh hồn không được chúng ta biết tới. Vì chúng
ta gần như tồn tại ở bình diện vật lí, cuộc hành trình của
chúng ta chỉ có thể bắt đầu với thân thể. Tuy nhiên có
những kĩ thuật trực tiếp bắt đầu với linh hồn; nhưng nói
chung chúng có ích chỉ cho rất ít người. Một trong hàng
triệu người mới có thể dùng những kĩ thuật bắt đầu với
linh hồn. Tuyệt đại đa số mọi người sẽ phải bắt đầu với
thân thể. Cuộc hành trình của người ta chỉ có thể bắt
đầu tại nơi họ đang ở.
Và để bắt đầu cuộc hành trình với thân thể thì
kundalini bao hàm công việc chuẩn bị. Kundalini là chỗ
cơ bản của những kinh nghiệm sâu sắc nhất về thân thể.
Trong thực tế, thân thể không chỉ là điều chúng ta
biết nó đang là vậy, hay các nhà sinh lí học biết; nó còn
nhiều hơn thế nhiều. Chẳng hạn, cái quạt đang bật đây.
Nếu chúng ta tháo chiếc quạt xuống và dỡ nó ra thành
từng phần để khảo cứu nó, chúng ta sẽ không bắt gặp
điện ở đâu cả. Và có thể, trên cơ sở của việc khảo cứu
này một người rất thông minh nói rằng không có những
thứ như điện trong máy móc của quạt. Người đó sẽ
không bao giờ thấy nó ở bất kì phần nào của chính chiếc
quạt. Vậy mà sự kiện là ở chỗ khi quạt chuyển động, nó
được điện làm cho quay. Và chiếc quạt sẽ dừng chuyển
động vào khoảnh khắc dòng điện dừng không tới nó
nữa. Các nhà sinh lí học nghiên cứu thân thể bằng việc
giải phẫu nó và họ không tìm thấy kundalini ở đâu cả.
Họ sẽ không bao giờ tìm thấy được nó. Vậy mà toàn thể
thân thể được điều khiển bằng năng lượng điện chính là
kundalini, tựa như quạt chạy bằng điện. Năng lượng
điện này của kundalini không thể được biết qua những
phân tích được thực hiện từ bên ngoài, bởi vì trong quá trình phân tích năng lượng tan rã và biến mất. Nó chỉ có
thể được biết tới qua việc kinh nghiệm bên trong về nó.
Có hai cách để biết thân thể. Các bạn có thể biết nó
từ bên ngoài như nhà sinh lí học làm bằng việc giải
phẫu nó - đây là một cách; và cách kia là biết nó từ bên
trong nó. Người đi sâu vào bên trong nó và sống ở đó
thì biết nó từ bên trong.
Người ta bắt đầu biết thân thể mình từ bên trong...
Và nhớ lấy, chúng ta biết thân thể mình từ bên ngoài.
Ngay cả thân thể riêng của mình chúng ta cũng biết tới
chỉ từ bên ngoài. Nếu tôi biết tay trái tôi, tôi biết nó qua
mắt đã thực sự thấy chúng. Cho nên tri thức của tôi về
tay trái tôi thực sự là tri thức của nhà sinh lí học. Nhưng
nếu tôi nhắm mắt lại và cảm thấy tay trái tôi, việc cảm
bên trong này về nó sẽ là của riêng tôi. Cho nên nếu ai
đó đi tới biết thân thể mình từ bên trong, người đó sẽ
sớm đạt tới kunda, kho chứa, chính là cội nguồn của tất
cả năng lượng thân thể của chúng ta. Năng lượng nằm
ngủ tại kunda này, tại bể này, được gọi là kundalini. Và
thế thì người đó sẽ biết cho chính mình rằng mọi thứ bắt
nguồn từ đó và toả khắp toàn bộ thân thể. Nó cũng
giống như ngọn đèn cháy lên và chiếu sáng cả căn
phòng. Nếu bạn thám hiểm vào cội nguồn của ánh sáng
đang tràn ngập toàn bộ căn phòng, bạn sẽ đi tới chiếc
đèn này và thấy rằng tất cả mọi tia sáng đều phát ra từ
ngọn lửa này. Thế thì bạn sẽ biết rằng mặc dầu các tia
sáng đã đạt tới những góc phòng ở xa, vậy mà chiếc đèn
vẫn còn là cội nguồn của chúng.
Ở đây chúng ta quan tâm tới việc tìm kiếm điểm đặc
biệt đó mà từ đó sinh lực phát ra và tràn ngập toàn thể
thân thể chúng ta. Sinh lực phải có một trung tâm;
không năng lượng nào có thể hiện hữu mà không có cội
nguồn. Mặc dầu mặt trời ở xa chúng ta một trăm triệu
dặm, vậy mà chúng ta vẫn có những tia sáng của nó
chiếu tới mình; chúng ta có thể nói rằng phải có một
trung tâm, một cội nguồn từ đó chúng phát ra và tràn
ngập trái đất. Trong thực tế, không năng lượng nào có
thể hiện hữu mà không có trung tâm; nếu có năng
lượng, nó phải có trung tâm. Làm sao có thể có vòng
tròn, đường tròn, mà không có trung tâm? Nơi có đường
tròn chắc chắn cũng có trung tâm nữa.
Điều thân thể bạn là chùm năng lượng là hiển
nhiên; điều đó không cần chứng minh. Nó là đống năng
lượng dâng lên và hạ xuống, di chuyển và dừng lại và đi
vào giấc ngủ. Và không phải là năng lượng của nó bao
giờ cũng vận hành một cách đều đặn; đôi khi nó tích
cực và mạnh mẽ và vào lúc khác nó lại vào trạng thái lờ
phờ, suy nhược và trì trệ. Khi bạn giận dữ bạn ném
mạnh hòn đá lớn vào ai đó, hòn đá mà bạn khó có thể di
chuyển được trong trạng thái bình thường. Khi bạn đang
rất hoảng sợ bạn chạy với tốc độ mà vận động viên chạy
phải thèm muốn trong các cuộc đua Olympic. Cho nên
năng lượng của bạn không phải bao giờ cũng trong cùng
trạng thái; nó thăng giáng theo hoàn cảnh bên trong và
xung quanh bạn.
Do đó hiển nhiên là bạn có một loại kho dự trữ, một
nguồn, từ đó năng lượng đi vào trong hành động hay
không đi vào hành động. Nó đi vào trong hành động bất
kì khi nào cần thiết; bằng không thì nó nằm ngủ tại
nguồn. Từ nguồn này bạn rút ra năng lượng trong cả hai
hoàn cảnh bình thường hay bất thường - trong nhu cầu
hàng ngày của bạn và cả trong những trường hợp khẩn
cấp của bạn. Vậy mà kho dự trữ này chẳng bao giờ
trống rỗng, nó bao giờ cũng đầy; bạn không thể làm cạn
kiệt nó được. Nó không bao giờ hết.


Điều thú vị là biết rằng chúng ta chẳng bao giờ
dùng hết kho năng lượng lớn này của mình. Những
người đã thám hiểm lĩnh vực này đều nói rằng ngay cả
những người phi thường nhất, những người nổi tiếng là
các thiên tài, cũng không dùng quá mười lăm phần trăm
năng lượng của mình. Ngay cả những vĩ nhân của lịch
sử - những người làm nên lịch sử - cũng không vượt quá
giới hạn mười lăm phần trăm này. Và khi có liên quan
tới người thường, người đó đi qua toàn bộ cuộc đời
mình chỉ với hai tới hai phẩy năm phần trăm của nó;
chín mươi tám phần trăm năng lượng của người đó
không được dùng tới.
Cho nên về mặt tiềm năng, theo quan điểm về năng
lượng mầm mống, không có khác biệt giữa người phi
thường và người bình thường. Khác biệt là dùng và
không dùng năng lượng. Năng lượng mà người thiên tài
đã đưa vào sử dụng cũng hệt như người rất bình thường
có mà không dùng nó. Người thường là người không
bao giờ tập trung năng lượng của mình vào hành động;
người đó không bao giờ huy động nó, đem nó ra đương
đầu với thách thức. Người đó thoả mãn với cái nhỏ bé
mình có trên bề mặt, điều người đó nghĩ là cái tối đa
của mình. Người đó làm với cái tối thiểu của mình và
bỏ lại tiềm năng bao la không được động tới. Và đó là lí
do tại sao trong khoảnh khắc của khủng hoảng, thậm chí
người bình thường nhất cũng thể hiện sức mạnh và khả
năng phi thường. Cho nên chỉ trong khoảnh khắc khủng
khoảng chúng ta mới đi tới biết tiềm năng bên trong của
mình là gì.
Có một trung tâm trong từng người chúng ta nơi
toàn thể năng lượng này cư ngụ - ẩn kín và ngủ. Người
ta phải nói rằng nó nằm đó dưới dạng hạt mầm - đóng
kín và tiềm tàng; nhưng nó có thể trở thành biểu lộ. Và
nó được gọi là kunda, cái bể, hay kho dự trữ.
Từ "kunda" rất có ý nghĩa; nó có nhiều nghĩa. Một
nghĩa là ở chỗ nó là cái bể tĩnh lặng và thanh bình
không gợn sóng. Nếu cho dù một gợn sóng có đó thôi,
điều đó sẽ có nghĩa là năng lượng này trở nên tích cực.
Kunda nghĩa là nội dung của nó, năng lượng của nó,
không có chuyển động nào; nó hoàn toàn thụ động, bình
thản và nghỉ ngơi. Và nghĩa khác là ở chỗ mặc dầu nó
thụ động và ngủ, bất kì khoảng khắc nào nó cũng đều có
thể trở thành tỉnh táo, tích cực và chuyển động. Nó
không phải là cái bể khô và chết; nó tràn đầy ăm ắp. Và
bất kì khoảnh khắc nào nó cũng đều có thể trở thành
tích cực, năng động; mặc dầu ngay bây giờ nó ở trong
trạng thái thụ động, đang ngủ.
Điều đó có thể là lí do tại sao chúng ta không biết
cái gì đang ngủ bên trong mình. Chúng ta chỉ có thể biết
khi nó trở nên thức dậy và tích cực, chỉ phần tích cực
của năng lượng này đi vào ý thức của các bạn, còn phần
thụ động của nó vẫn nằm ngủ trong vô thức của các bạn.
Đó là lí do tại sao ngay cả những người vĩ đại nhất,
chừng nào họ còn chưa đạt tới tính vĩ đại, vẫn còn
không nhận biết về năng lượng này. Mahavira, Phật,
Krishna và Jesus, không ai trong số họ đã nhận biết về
tiềm năng của mình khi họ chưa hiện thực hoá nó, khi
họ chưa đạt tới chiều cao của tính vĩ đại của họ.
Đó là lí do tại sao khi biến cố về việc thức tỉnh xảy
ra một cách vô nỗ lực, người thức tỉnh đi tới tin rằng đó
là món quà của ân huệ từ điều không biết. Họ tự hỏi làm
sao và khi nào món quà này tới họ. Và do vậy họ cảm
thấy rằng nó tới từ bất kì ai ở gần họ nhất. Nếu thầy là
người gần gũi nhất, họ sẽ nói nó là món quà từ thầy.

Còn nếu đối tượng gần gũi nhất là một thần tượng về
Thượng đế, và không phải là thầy, họ sẽ qui tất cả mọi
công lao cho chính thần tượng đó. Bất kì cái gì đi ngay
trước biến cố này - một Phật, hay Thượng đế trên trời -
sẽ được lấy làm cội nguồn. Nhưng sự kiện là ở chỗ nó
bao giờ cũng tới từ chính cội nguồn bên trong riêng của
họ. Nhưng bởi vì không nhận biết quá khứ của mình mà
họ qui cho tác nhân bên ngoài nào đó như thầy hay
Thượng đế, điều xảy ra gần nhất với biến cố đó.
Tôi tình cờ hôm vừa rồi mới đọc một câu chuyện.
Hai nông dân lên tàu hoả lần đầu tiên. Họ là cư dân của
một làng vùng núi non và họ được sinh ra vào cùng
ngày. Cho nên khi ngày sinh của họ tới, mọi người
trong làng nghĩ tới việc cho họ món quà sinh nhật nào
đó. Và khi đường ray tàu hoả vừa mới được dẫn tới
phần quê của họ, thì không thể có món quà nào tốt hơn
là một chuyến đi tàu hoả cho họ. Cho nên các nông dân
này nhận được hai vé tàu hoả từ làng mình, và bắt đầu
đi du lịch lần đầu tiên bằng tàu hoả.
Vì đó là kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với họ, họ
kích động và tò mò về mọi điều xảy ra trên đường của
mình. Một người bán nước ngọt ngẫu nhiên đi ngang
qua và họ quyết định mua một chai nước ngọt và nếm
thử nó. Họ đã quyết định cùng uống chai nước ngọt và
nếu họ thấy ngon, thì họ sẽ mua cho mình chai nữa.
Mua xong chai nước, một người trong số họ bắt đầu
uống phần của mình. Khi anh ta uống được nửa chừng
thì tàu hoả đi vào đường hầm. Vào lúc này anh bạn anh
ta trở nên lo âu về phần nước của mình và anh ta bảo
người kia đừng có uống hết. Bạn anh ta nói, "Vì
Thượng đế, xin anh đừng chạm vào nó; nó là chất độc
đấy! Tôi đã bị nó làm cho mù đây này!"
Khi tàu hoả đi vào đường hầm, trời trở nên tối mò
khắp xung quanh và người nông dân này nghĩ rằng
nước uống đã làm cho anh ta bị mù. Cho nên biến cố
gần nhất - việc uống - đã được coi là nguyên nhân cho
sự mù. Điều đó là tự nhiên. Cái gì đi ngay trước một
biến cố đều được lấy làm nguyên nhân cho nó.
Tương tự vậy, chúng ta không biết nguồn gốc thực
của năng lượng của mình. Và chừng nào còn chưa được
thức tỉnh, thì không có cách nào để biết được nó. Và
chúng ta không nhận biết liệu nó có thể sẵn có cho
chúng ta không, và bằng cách nào nó có thể có sẵn
được.
Phần thức tỉnh của năng lượng ngủ này, kunda,
được gọi là kundalini. Bản thân kunda là vô ý thức, nó
ngủ; nhưng kundalini là ý thức và thức tỉnh. Chỉ phần
của năng lượng này thức dậy và đi ra khỏi kunda mới
được biết là kundalini. Kundalini không phải là toàn thể
nó; đấy chỉ là con sóng nảy sinh ra từ bể này.
Cho nên cuộc hành trình này là việc thám hiểm hai
phần. Kundalini, năng lượng thức tỉnh, đưa bạn tới
những cái mới có cội nguồn rất lớn ẩn bên trong bạn với
những khả năng mênh mông. Một tia sáng mặt trời mở
ra khả năng cho vô hạn tia sáng tới trong sự thức dậy
của nó. Cho nên một phần nằm ở việc thức tỉnh
kundalini điều sẽ làm cho bạn nhận biết hoàn toàn về
quyền năng của thân thể bạn. Và qua việc thức tỉnh của
năng lượng này các bạn sẽ đi tới những trung tâm đó,
những cánh cửa đó của thân thể bạn, từ đó việc đi sang
đầu vô hình của thân thể, điều chúng ta gọi là linh hồn,
trở thành dễ dàng.
Cần phải hiểu điều này một cách rõ ràng và đầy đủ,
bởi vì bất kì điều gì chúng ta làm, thực sự đấy chính là năng lượng của chúng ta làm nó thông qua lối mở hay
trung tâm nào đó. Chẳng hạn, tai chúng ta là một lối mở
như vậy, qua đó chúng ta nghe được. Nếu tai bạn bị
bệnh, bạn sẽ không có khả năng nghe thấy gì, bởi vì
năng lượng này sẽ bị chặn lại không tới được tai, và nó
sẽ quay ngược trở về nguồn của nó. Và dần dần năng
lượng này sẽ dừng đi vào tai, bởi vì nó chỉ di chuyển tới
nơi nó có cơ hội trở thành tích cực. Cho nên năng lượng
này sẽ không còn chuyển tới tai nữa.
Mâu thuẫn có thể xảy ra nữa. Nếu một người bị điếc
và người đó rất muốn nghe từ ngón tay của mình, thì có
thể là ngón tay người đó sẽ bắt đầu nghe thấy. Có
những người hiện diện trên trái đất này nghe qua các cơ
quan thân thể không là tai. Và có những người nhìn thấy
được qua các cơ quan khác mắt. Thực sự đó là cái gì mà
bạn gọi là mắt?
Nó không là gì ngoài một phần của da bạn, với khác
biệt này - rằng từ thời xa xưa con người đã dùng phần
đặc biệt này của da của mình cho ý định nhìn. Chắc
phải là ngẫu nhiên mà con người đầu tiên đã dùng phần
đó của thân thể mình cho ý định này; người ta cũng có
thể đã dùng bất kì phần nào khác cho việc đó. Các sinh
linh khác thực sự dùng các phần khác và hệ quả là mắt
chúng xuất hiện ở các phần khác nhau của thân thể
chúng. Có con vật và chim chóc và sâu bọ đã phát triển
hai bộ mắt - một bộ là mắt thực và bộ kia là mắt giả.
Khi chúng nhìn bằng mắt thực của mình, chúng dùng
mắt giả để lừa kẻ thù. Trong trường hợp kẻ thù làm
thương tổn mắt chúng, mắt thật của chúng được cứu.
Một con ruồi rất bình thường trong nhà bạn có một
nghìn con mắt; một con mắt của nó thực sự là tuyển tập
của một nghìn mắt. Đó là lí do tại sao khả năng thấy của
ruồi khổng lồ và đáng ngạc nhiên. Một số cá thấy được
cả đuôi của chúng, bởi vì chúng sợ kẻ thù đánh chúng
từ đằng sau.
Nếu chúng ta làm một khảo cứu về mắt của tất cả
các sinh linh trên thế giới, chúng ta sẽ biết rằng không
nhất thiết là mắt phải ở nơi chúng hiện đang ở. Tương
tự, không có nghĩa đặc biệt nào trong việc có tai của
chúng ta theo cách chúng hiện hữu. Chúng thực sự có
thể ở bất kì chỗ nào. Vị trí của mắt và tai người là kết
quả của việc lặp lại vô số lần các hành động thấy và
nghe từ cùng một chỗ. Và hệ quả là kí ức của chúng đã
được khắc hoạ và cố định sâu sắc nhất vào tâm thức
chúng ta. Cho nên chúng được lặp lại một cách máy
móc và dễ dàng.
Ngay cả một trong nhiều giác quan chúng ta có mà
mất đi, chúng ta sẽ mất phần đó của thế giới vẫn được
làm có sẵn cho chúng ta qua nó. Nếu chúng ta mất mắt,
thế giới của ánh sáng sẽ bị mất đối với chúng ta; chúng
ta sẽ dừng kinh nghiệm ánh sáng. Thế thì chúng ta sẽ
không biết ánh sáng cho dù chúng ta có tai và tay và các
giác quan khác tốt.
Cho nên khi kundalini bắt đầu thức dậy và dâng lên,
nó sẽ gõ vào những cánh cửa mới của thân thể bạn,
không phải thông thường chút nào. Qua những giác
quan phi thường này - sau khi chúng được kích thích
bởi năng lượng của kundalini - bạn bắt đầu biết những
điều mà bạn không thể biết được qua các giác quan
thông thường. Nói một cách đúng đắn, kundalini bắt
đầu điểm và đánh thức các giác quan bên trong của bạn.
Ngay cả bây giờ cũng là qua năng lượng này của
kundalini mà mắt và tai và các giác quan bình thường
khác của bạn hoạt động. Nhưng đây là các cơ quan
ngoài cần một khối lượng năng lượng kundalini rất nhỏ để làm việc. Tăng thêm chút ít về khối lượng này, và
bạn sẽ có năng lượng phụ dùng để kích hoạt các trung
tâm khác nữa.
Chẳng hạn, nếu chúng ta rót một ít nước lên sàn ở
đây, nó sẽ tạo thành một kênh chảy nhỏ, để lại một vệt
đằng sau nó để nhiều nước hơn chảy theo. Nhưng nếu
khối lượng nước đổ ra tăng lên thật lớn, nó sẽ phá ra
thành nhiều kênh mới, bởi vì kênh cũ không thể một
mình nó chứa đựng được tất cả nước.
Theo nghĩa vật lí sâu sắc hơn, thức tỉnh của
kundalini nghĩa là bạn có nhiều năng lượng trong mình
tới mức các kênh cũ của bạn không có khả năng chứa
nó, và do vậy nó tìm kiếm không cưỡng lại được những
đại lộ mới và cửa mới. Kết quả là nhiều giác quan mới
và tinh tế bên trong bạn sẽ trở nên thức dậy và hoạt
động. Những trung tâm ngoại cảm này sẽ làm cho các
bạn thành có khả năng ngoại cảm và thấu thị; các bạn sẽ
bắt đầu thấy và nghe được những điều ở bên ngoài tầm
của mắt và tai bình thường của mình. Các bạn sẽ kinh
nghiệm những điều nào đó mà các giác quan thông
thường của bạn chẳng có liên quan chút nào. Các giác
quan mới này sẽ trở thành tích cực bên trong bạn. Và
kết quả sâu lắng nhất của việc tăng cường các giác quan
mới này sẽ là ở chỗ các bạn sẽ bắt đầu biết tới thế giới
vô hình nằm ẩn kín trong thân thể mình, vốn là phần
tinh tế nhất và không thể nhận thấy được của thân thể
bạn, và là điều chúng ta gọi là atman hay linh hồn. Cho
nên với việc thức tỉnh của kundalini các khả năng cho
trưởng thành của bạn sẽ được nâng cao lên rất nhiều.
Nhưng công việc phải bắt đầu với thân thể.
Có cách khác nữa mà tôi đã loại ra ngoài từ trước
tới nay. Tôi đã giải thích cho tới nay cho các bạn điều
nói chúng cần phải được làm để đánh thức kundalini;
nhưng kundalini không phải là toàn thể kunda hay bể.
Còn có cách khác mà tôi có thể phải nói với các bạn
một cách tách biệt. Rất ít người trên thế giới đã lấy con
đường này. Đấy không phải là con đường thức tỉnh
kundalini chúng ta đã quen thuộc, mà là được hội nhập
vào trong chính kunda. Điều đó không giống như việc
đánh thức một phần nhỏ của năng lượng này và dùng nó
cho sự phát triển; đó là vấn đề hội nhập toàn thể tâm
thức chúng ta vào trong kunda hay bể năng lượng
nguyên thuỷ. Trong biến cố đó sẽ không có kinh
nghiệm ngoại cảm nào cả, và ngay cả kinh nghiệm về
linh hồn cũng bị mất đi hoàn toàn. Trong biến cố đó,
người ta sẽ đương đầu trực tiếp và kinh nghiệm Thượng
đế, điều tối cao.
Qua việc đánh thức kundalini, kinh nghiệm đầu tiên
tới trên con đường của bạn là về linh hồn. Với nó, các
bạn nhận ra rằng linh hồn mình là tách biệt với linh hồn
của những người khác. Những người đã đạt tới bằng
việc thức tỉnh kundalini thường tin vào sự tồn tại của
nhiều linh hồn. Họ nói rằng có nhiều linh hồn như có
bấy nhiêu người đang sống trên trái đất, rằng mọi người
đều có linh hồn tách biệt. Nhưng những người đã hội
nhập bản thân mình trực tiếp vào trong kunda nói rằng
không có linh hồn, chỉ có Thượng đế; không có gì ngoài
Thượng đế. Họ nói chỉ có một, không có nhiều. Bởi vì
bằng việc nhận chìm bản thân mình vào trong kunda,
bạn không chỉ hội nhập với kunda riêng của mình, mà
còn hội nhập với kunda của tất cả, kunda tập thể, kunda
vũ trụ. Kunda là một. Không phải kunda của tôi và
kunda của bạn và kunda của anh ấy là những thực thể
tách biệt; nó là một và như nhau.

Đó là lí do tại sao năng lượng của kunda mênh
mông và vô hạn. Bạn có rút ra từ nó bao nhiêu năng
lượng cũng chẳng thành vấn đề, bạn không thể làm
giảm nội dung của nó cho dù chỉ là một giọt; nó cứ còn
đầy tràn và toàn thể. Bạn có thể rút ra bất kì lượng năng
lượng nào cho việc chi dùng của mình, điều đó chẳng
tạo ra khác biệt gì trong nội dung của nó; nó bao giờ
cũng đầy và không hề cạn. Nhưng cái chúng ta rút ra từ
nó chúng ta có khuynh hướng gọi là của riêng mình.
Điều đó cũng giống như lấy nước từ đại dương và cất
nó vào bình nhỏ tách biệt của chúng ta. Và chúng ta
nghĩ rằng nội dung của bình chứa của chúng ta là khác
với bình chứa của người khác. Nhưng nếu ai đó hội
nhập bản thân mình với toàn thể biển cả, người đó sẽ
nói rằng biển là một, rằng nước trong các bình khác
nhau đều là một phần của cùng một biển, và nó sẽ trở
lại cội nguồn của nó lần nữa. Bạn không thể giữ nó tách
rời khỏi biển lâu được. Chẳng mấy chốc nước trong
bình sẽ bay hơi trong nhiệt của mặt trời, thế rồi biến
thành mây, và trở lại biển dưới dạng mưa. Thực sự nó
đã không bị tách rời khỏi cội nguồn của nó, nó không
thể thế được.
Những người tìm kiếm làm việc qua đánh thức
kundalini đều có kinh nghiệm ngoại cảm, vốn là những
kinh nghiệm thực sự phi thường và duy nhất. Chúng
thực sự là phiêu diêu. Và những người này đi tới nhận
ra linh hồn chỉ là một phần của Thượng đế, hay điều tối
cao. Do vậy họ cố gắng nhận ra cái toàn thể qua bộ
phận của nó. Điều đó giống như những người khác nhau
chạm tới đại dương mênh mông từ những bến bờ khác
nhau và xa cách của nó. Tôi có thể chạm tới cùng đại
dương từ bờ này; các bạn nữa, có thể chạm tới từ bờ
khác xa bờ của tôi hàng triệu dặm. Nhưng làm sao tôi
có thể tin được rằng bạn đã đạt tới cùng biển cả như tôi
đã đạt tới? Tôi đang chạm tới một bờ của nó mà tôi nghĩ
là của tôi - một đại dương tách biệt - còn bạn đang chạm
tới một bờ khác mà bạn nghĩ là của bạn - một đại dương
tách biệt. Điều đó cũng giống như tôi coi Ấn Độ dương
là của tôi, bạn coi Đại Tây dương là của bạn, và người
thứ ba coi Thái Bình dương là của người đó.
Nhưng trong thực tế tất cả mọi đại dương đều được
thống nhất và là một. Đó thực sự là một đại dương toàn
cầu bao la. Nhưng khó mà biết được nó chừng nào
chúng ta còn tiếp cận tới nó một cách manh mún; thế thì
chúng ta sẽ không biết một đại dương bao la. Thay vì
thế, chúng ta sẽ chia rẽ và phân ranh giới nó theo cái
nhìn giới hạn của mình về nó. Không chỉ đại dương
đâu, chúng ta sẽ phân chia cả bờ nữa.
Cho nên kinh nghiệm về linh hồn cũng tựa như việc
chạm vào đại dương từ một góc đặc biệt của nó. Và
điều này có thể tới bằng việc đánh thức chỉ một chút ít
năng lượng bao la này. Do đó việc trở thành cần thiết
cho người tìm kiếm đã đạt tới trên con đường này là
phải được chuẩn bị để làm mất linh hồn nữa, để siêu
việt lên trên nó và vượt ra ngoài. Bằng không thì cuộc
hành trình này sẽ bị cản trở, bởi vì nó vẫn chưa đầy đủ.
Nhận ra linh hồn không phải là cái toàn thể của nó;
người đó sẽ phải làm mất cả linh hồn nữa, và lấy cú
nhảy vào trong kunda. Nhưng thế thì điều đó trở thành
dễ dàng; nó dễ dàng hơn.
Nhiều lần đường dài chứng tỏ là đường dễ dàng
hơn, còn đường tắt hoá ra khó nhất. Và có lí do cho điều
đó, và toàn lí do chính đáng cả. Đường dài bao giờ cũng
là con đường dễ dàng hơn. Bây giờ, nếu tôi phải tới gần
bản thân mình hơn thì tôi sẽ phải làm như vậy qua trung gian của người khác. Nếu tôi muốn thấy hình ảnh riêng
của mình thì sẽ cần phải có sự giúp đỡ của tấm gương.
Dường như đấy là con đường dài và ngoằn ngoèo không
cần thiết, vì hình ảnh của tôi đi vào trong gương và thế
rồi trở lại tôi dưới dạng phản xạ của nó, cho nên tôi có
thể thấy khuôn mặt riêng của mình. "Sao đi đường vòng
dài thế?" người ta có thể hỏi. Nhưng không có cách
khác hơn thế này.
Mặc dầu khuôn mặt của tôi là gần tôi nhất, vậy mà
với cùng lí do này việc nhìn trực tiếp vào nó là điều khó
nhất.
Cho nên trong khi con đường của thức tỉnh một
phần của năng lượng kundalini chắc chắn tạo ra con
đường dài, điều đó gần như không tránh khỏi. Đó là
cách toàn thể thế giới các giác quan bên trong mở ra và
chúng ta đạt tới cái ta, hay linh hồn. Và từ đó bước nhảy
lượng tử trở thành điều cần phải có. Thực sự chính con
đường vòng dài này làm cho bước nhảy lượng tử được
trơn tru và dễ dàng. Bởi vì chính sau đó mà phúc lạc của
việc tự hiểu ra - điều tới qua việc biết về chính mình -
bắt đầu mời chào và thôi thúc người ta phấn đấu cho cái
cao nhất của phúc lạc.
Chắc chắn có phúc lạc trong việc biết và hiểu bản
thân mình, nhưng phúc lạc của việc làm mất bản thân
mình là cao nhất. Nó là phúc lạc tối cao. Sau khi bạn đã
biết tới bản thân mình, chỉ còn lại một loại đau: đó là
đau của cái ta, đau của việc biết rằng bạn hiện hữu. Với
việc đạt tới cái ta thì tri thức về tất cả mọi nỗi đau sẽ
biến mất, nhưng một nỗi đau sẽ vẫn còn theo đuổi bạn;
và đó là nỗi đau của việc hiện hữu. Bây giờ bạn sẽ tự
hỏi mình: "Sao lại thế này, sự hiện hữu của mình?" Bây
giờ bạn biết rằng hiện hữu cũng là không cần thiết và
đau đớn. Và thế rồi bạn sẽ lấy bước nhảy từ hiện hữu
vào vô hiện hữu. Một ngày nào đó bạn sẽ nói: "Bởi vì
tôi đã biết hiện hữu nên tôi muốn biết cả vô hiện hữu
nữa. Bởi vì tôi đã biết ánh sáng, tôi muốn biết cả bóng
tối nữa."
Dù ánh sáng có bao la thế nào, nó vẫn có giới hạn
của nó; nhưng bóng tối là vô giới hạn. Hiện hữu chắc
chắn có ý nghĩa lớn lao, vậy mà nó vẫn bị giới hạn; vô
hiện hữu là vô hạn vô cùng.
Mọi người không hiểu Phật bởi chính lí do này. Khi
ai đó hỏi ông ấy, "Tôi sẽ vẫn sống ở đó trong moksha
hay tự do chứ?" ông ấy nói, "Không, ông sẽ không sống
sót đâu; chính ông mới thực sự được tự do khỏi bản
thân mình." Thế rồi người đó hỏi thêm, "Cứ giả dụ là
trong moksha mọi thứ khác đều sẽ ra đi - ham muốn,
đau khổ và tội lỗi sẽ ra đi; nhưng thế còn hiện hữu của
tôi thì sao? Tôi sẽ không sống trong dạng nguyên thuỷ
của mình chứ?" Với điều này Phật nói, "Làm sao ông có
thể sống được? Sau khi các ham muốn, đau đớn và tội
lỗi đã biến mất, một đau đớn sẽ vẫn còn lại - đau của sự
hiện hữu. Thế thì chính sự hiện hữu của ông sẽ bắt đầu
làm đau ông."
Điều thú vị là biết rằng sau khi dừng các ham muốn
lại, chính sự hiện hữu của bạn bắt đầu làm phiền bạn,
làm đau bạn. Chừng nào bạn còn ham muốn, hiện hữu
dường như không gây ra cảm giác khó chịu nào, vì bạn
giữ cho sự hiện hữu của mình bị bận rộn với cái gì đó
này khác. Nếu các bạn theo đuổi tiền bạc, sự hiện hữu
của bạn bị bận rộn với việc làm tiền. Và nếu bạn muốn
uy tín và danh vọng, sự hiện hữu của bạn bị bận rộn với
việc kiếm uy tín và danh vọng cho bạn. Nhưng bạn sẽ
làm gì với sự hiện hữu của mình khi ham muốn của bạn về tiền đã từ bỏ bạn, khi bạn sẽ dừng ao ước địa vị và
tiếng tăm, khi ngay cả ham muốn dục cũng mất đi, và
bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có cái gì để làm, khi bản thân
việc làm sẽ dừng lại? Thế thì lúc đó sự hiện hữu của bạn
sẽ bắt đầu chì chiết bạn trực tiếp. Thế thì sự hiện hữu sẽ
quấy rối bạn và bạn sẽ đi tới cảm nhận rằng bạn không
cần nó. Chính vì tình huống này mà Phật nói, "Không,
sẽ không có gì còn lại cả. Sau việc tắt của ngọn đèn,
ngọn lửa đi đâu?"
Mãi cho tới thời ông ấy chết mọi người vẫn liên tục
hỏi Phật, "Điều gì xảy ra cho tathagata sau cái chết của
ông ấy? Điều gì sẽ xảy ra sau khi thầy sẽ chết?" Và Phật
bao giờ cũng nói, "Cái gì có đó để xảy ra sau khi ta
không còn nữa? Chẳng cái gì còn lại cả; giống như ngọn
đèn tàn lụi đi, mọi thứ sẽ tàn lụi đi. Các ông đừng bao
giờ hỏi điều gì xảy ra cho ngọn lửa sau khi ngọn đèn tàn
lụi đi. Khi ngọn lửa mất rồi, thì nó mất rồi."
Cho nên việc đạt tới linh hồn chỉ là một giai đoạn
trong việc chuẩn bị để làm mất đi linh hồn. Chúng ta
thu được nó chỉ để làm mất nó lúc chung cuộc. Nhưng
điều đó còn dễ dàng hơn nữa. Bởi vì nếu bạn hỏi trực
tiếp một người mà ham muốn của người này vẫn còn
sống động trong việc tự chìm mình vào trong kunda,
làm mất bản thân mình hoàn toàn, thì người đó không
thể làm được như vậy; người đó sẽ nói điều đó là không
thể được. Người đó sẽ nói rằng vì người đó có nhiều
điều quan trọng cần làm, người đó không thể đảm
đương được việc làm mất bản thân mình.
Tại sao chúng ta sợ làm mất bản thân mình thế?
Chúng ta sợ bởi vì bao giờ cũng có nhiều điều cần được
làm đến mức nếu chúng ta làm mất bản thân mình, mọi
sự sẽ vẫn còn không được làm, không đầy đủ. Chẳng
hạn, tôi phải xây cho mình ngôi nhà mà vẫn chưa xong,
và tôi nghĩ tôi sẽ sẵn sàng làm mất bản thân mình sau
khi hoàn thành cái nhà này. Và đến lúc ngôi nhà này
được hoàn thành, một số dự án và công việc chưa hoàn
thành khác sẽ bộc lộ chúng ra. Ham muốn làm thực sự
là ham muốn hoàn thành cái gì đó, và đó là điều thúc
giục chúng ta làm tiếp. Do đó chừng nào mà ham muốn
của người ta còn có đó, thì không thể nào đánh mất linh
hồn của người ta được, mặc dầu việc đánh mất linh hồn
người ta là cách trực tiếp tạo ra con đường ngắn nhất.
Làm sao người đó, người có ham muốn còn nguyên vẹn
có thể đánh mất được linh hồn của mình? Tất nhiên, nếu
ham muốn của người đó biến mất, người đó có thể sẵn
sàng đánh mất linh hồn nữa; bởi vì bây giờ người đó sẽ
không ích gì cho linh hồn.
Chẳng hạn, nếu bạn yêu cầu ai đó có khổ sở vẫn
đang tiếp diễn bỏ phúc lạc của mình đi, người đó sẽ nói
bạn đơn giản điên. Nhưng nếu khổ của người đó bỏ
người đó và người đó được bỏ lại với phúc lạc một
mình, thế thì người đó có thể chuẩn bị cho mình để từ
bỏ cả phúc lạc nữa. Với ham muốn mất đi, người đó sẽ
làm gì với phúc lạc? Và biến cố lớn lao xảy ra chỉ khi
người ta sẵn sàng từ bỏ cả phúc lạc nữa. Bất kì ai cũng
đều sẵn sàng từ bỏ nỗi buồn; nhưng một thời điểm sẽ tới
trong các kiếp sống của chúng ta khi chúng ta được
chẩn bị để sẵn lòng từ bỏ bản thân phúc lạc nữa. Và đó
là điều đưa tới sự tan biến của người ta và thống nhất
với sự hiện hữu tối cao.
Điều này có thể xảy ra trực tiếp nữa; người ta có thể
đi vào kunda trong một thoáng lướt nhanh. Tuy nhiên
rất khó để tự chuẩn bị cho điều đó ngay một lúc; việc
chuẩn bị dần dần do đó là con đường dễ dàng hơn.


Khi việc ham muốn biến mất, khi tâm trí dừng lại,
khi việc làm đi tới chấm dứt, khi tất cả mọi đồ dùng sân
khấu của bạn mà bạn đã sống với chúng rơi rụng đi, thế
thì đến cuối chỉ bạn còn lại không có cơ sở gì, không có
hỗ trợ gì. Chỉ thế thì bạn mới tự nói với mình, "Bây giờ
chẳng ích gì mà cứu lấy cái ta này; bây giờ mình có thể
buông bỏ cả nó nữa." Thế thì bạn tự nhấn chìm mình
vào trong kunda và hội nhập với nó. Việc hội nhập này
với kunda được gọi là niết bàn, hay tự do.
Nếu người nào đó muốn nhảy trực tiếp vào trong
kunda, thì kundalini không tới trên con đường của
người đó. Đó là lí do tại sao một số con đường tâm linh
không nói về kundalini; bởi vì điều đó là không cần
thiết. Những người được dạy hội nhập trực tiếp vào
kunda cho rằng không cần thiết phải nói tới kĩ thuật
đánh thức kundalini. Nhưng kinh nghiệm của riêng tôi
nói rằng những con đường trực tiếp không thể có tác
dụng. Chúng có thể có tác dụng cho một hay hai cá
nhân hiếm hoi, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề gì
mấy. Một bông hoa không tạo ra mùa xuân. Do đó,
người ta phải trải qua con đường dài hơn.
Nhiều lần người ta phải gõ vào cửa của nhiều nhà
khác để về tới nhà riêng của mình. Chỉ để về tới ngôi
nhà riêng của mình, bạn có thể trước hết phải đi qua nhà
của những người khác. Để biết khuôn mặt riêng của
mình bạn có thể trước hết phải biết nhiều khuôn mặt
khác. Và trước khi bạn đi tới yêu mến bản thân mình
bạn phải yêu nhiều người khác. Yêu bản thân mình
dường như đơn giản thế. Khó khăn gì có đó trong việc
yêu bản thân mình? Ai ngăn cản bạn trong việc yêu bản
thân mình? Quyền duy nhất là bạn phải về thẳng nhà.
Nhưng thực tế điều đó không xảy ra theo cách đó.
Trong thực tế, rất khó tìm ra ngôi nhà riêng của người ta
trước khi người ta đã tới thăm nhiều nhà của những
người khác. Và chừng nào người ta còn chưa cầu xin
tình yêu của người khác và chưa trao tình yêu của riêng
mình cho họ, người ta còn chưa đi tới biết rằng câu hỏi
thực là việc yêu mến bản mình.
Về kundalini tôi nói rằng nó là sự chuẩn bị của thân
thể; nó thực sự là việc chuẩn bị để đi vào vô thân thể, để
đi vào tâm linh, linh hồn. Và bạn không thể đi vào linh
hồn với khối lượng năng lượng hiện đang sẵn có cho
bạn, bởi vì nó chỉ đủ đưa bạn qua những việc vặt hàng
ngày của cuộc sống. Trong thực tế nó còn không đủ cho
cả điều này nữa; nó đạm bạc tới mức đến cuối ngày bạn
cảm thấy gần như kiệt sức. Năng lượng sẵn có không đủ
ngay cả cho nhu cầu hàng ngày của chúng ta; việc cung
cấp của nó nghèo nàn thế. Cho nên với năng lượng đạm
bạc này bạn không thể đạt tới linh hồn được; vấn đề này
đơn giản không nảy sinh.
Chính bởi lí do này mà khái niệm về sannyas mới đi
vào hiện hữu. Nó đi vào hiện hữu với quan điểm để bảo
tồn năng lượng của bạn bằng việc giải phóng chúng ta
khỏi các hoạt động gia đình, bởi vì chúng ta có khối
lượng năng lượng rất hạn chế trong tay. Năng lượng này
phải được chuyển kênh sang hướng khác nào đó; nó
phải được dùng cho ý định cao hơn nào đó. Cho nên
những người tìm kiếm đã hô hào đóng các cửa hàng và
trốn khỏi bãi chợ, trốn khỏi thế giới.
Với tôi, thái độ này là sai lầm. Năng lượng ít ỏi mà
chúng ta chi dùng trong cuộc sống hàng ngày của mình
không đáng tiết kiệm, bởi vì chúng ta sẽ phải chi dùng
nhiều năng lượng trong việc tiết kiệm nó. Ngay cả để
tiết kiệm năng lượng, người ta cũng phải chi dùng năng
lượng. Nhiều lần, bạn không dùng nhiều năng lượng để diễn đạt giận dữ như bạn làm trong việc kìm nén nó.
Đôi khi bạn phải dùng nhiều năng lượng để tránh đánh
nhau hơn là bạn đã dùng trong chính việc đánh nhau.
Cho nên tôi không coi nó là cách đúng; nó là cách thức
của kẻ keo kiệt.
Đây là tính chất sannyas sao? Đó là cách thức của
những người keo kiệt - tiết kiệm chút ít từ điều chúng ta
có, mà bản thân nó quá nghèo nàn. Cách tiếp cận keo
kiệt này chẳng ích lợi gì. Thay vì tiết kiệm chút ít năng
lượng tại đây và chút ít tại kia, chúng ta nên đánh thức
nhiều năng lượng đang ngủ - cái tràn đầy, cái vô hạn.
Tại sao tiết kiệm năng lượng? Đánh thức nó ngày
một nhiều hơn đi. Nếu bạn phải dùng nhiều năng lượng
hơn, rút nó từ bản thân kho dự trữ, cái vô giới hạn. Bạn
có nhiều đến mức bạn không thể dùng được tất cả nó
cho dù bạn muốn dùng; cho nên sao bận tâm tới việc
tiết kiệm nó?
Bây giờ một người sợ rằng nếu người đó yêu vợ
mình thì người đó không thể yêu được Thượng đế; bởi
vì người đó nghĩ rằng chút ít năng lượng mà người đó
có sẽ bị dùng hết trong việc yêu vợ mình. Cho nên
người đó quyết định tiết kiệm nó bằng việc chạy xa vợ
mình. Nhưng để tiết kiệm năng lượng người đó sẽ phải
tranh đấu với bản thân mình, điều này làm tốn năng
lượng của người đó. Bên cạnh đó, bạn có thể đạt tới
Thượng đế bằng chút ít năng lượng mà bạn dùng để yêu
vợ mình được không? Nó hiếm tới mức nó thực sự
không thể đưa bạn ngay cả tới với vợ bạn, cứ gạt riêng
mình Thượng đế ra. Nó không bao giờ có thể đưa bạn
tới Thượng đế được.
Tôi muốn nói rằng điều đó là cực kì điên khùng về
phần bạn - nghĩ tới việc xây cây cầu giữa bạn và cái vô
hạn bằng khối lượng năng lượng nhỏ mọn chẳng đủ để
bắc cầu cho bạn tới với người yêu của mình. Bạn cũng
nhận biết về tính không thích hợp hoàn toàn của nó
ngay cả trong các quan hệ nhỏ mọn của mình. Thời gian
qua đi và nó làm phai dần bạn, ngay cả trong nỗ lực của
bạn để đạt tới trái tim người yêu của mình.
Cho nên vấn đề không phải là tiết kiệm năng lượng;
vấn đề là đánh thức năng lượng lớn đang nằm ngủ bên
trong bạn. Và năng lượng này là vô hạn không tính nổi,
nó đơn giản không bao giờ cạn kiệt. Và một khi nó bắt
đầu thức tỉnh, nó càng thức tỉnh thì càng có khả năng
thức tỉnh nó thêm nữa; nó cứ mở ra mãi. Một khi đã
được bắt đầu, dòng suối năng lượng này bao la và vô
tận đến mức bạn không bao giờ vét cạn được nó. Nói
cách khác, không bao giờ có một khoảnh khắc trong đời
bạn mà bạn có thể nói rằng bây giờ không còn gì nữa để
được đánh thức.
Khả năng của việc đánh thức là vô hạn; bạn có thể
rút ra khối lượng năng lượng bất kì từ kho dự trữ vô hạn
này. Và bạn càng rút từ nó ra nhiều thì bạn càng trở nên
mạnh mẽ hơn để đánh thức ngày một nhiều hơn năng
lượng lớn lao này. Và khi bạn đã có dư thừa về năng
lượng bên trong này trong quyền sử dụng của mình, chỉ
thế thì bạn mới có thể dùng nó trong cuộc truy tìm cái
không biết. Và cũng chỉ thế thì bạn mới có thể mạo
hiểm bước đi trên con đường không biết và chưa hề
được vẽ bản đồ. Các bạn có hiểu điều tôi đang nói
không?
Có một loại giàu có khác trong thế giới bên ngoài
nữa. Một người đã tích luỹ của cải dư thừa và bây giờ
người đó nghĩ tới việc làm một chuyến đi lên mặt trăng.
Đi lên mặt trăng là vô nghĩa; chẳng có gì để thu được cả. Nhưng chẳng có gì sai về điều đó; bởi vì chẳng có gì
để mất cả. Người đó có nhiều đến mức người đó có thể
dễ dàng đảm đương được việc đó.
Chừng nào bạn không có thừa thãi của cải - bạn chỉ
có đủ cho việc sử dụng hàng ngày của mình hay thậm
chí còn thiếu - bạn sẽ giữ cái nhìn nghiêm ngặt vào việc
chi tiêu của mình; bạn sẽ nghĩ hai lần trước khi tiêu
ngay cả một đồng xu. Và do đó bạn sẽ không bao giờ
bước ra khỏi thế giới đã biết. Đi vào trong điều không
biết bạn cần năng lượng thừa thãi, dư thừa năng lượng.
Và kundalini sẽ rót đầy bạn bằng sự thừa thãi đó. Thế
thì bạn có nhiều tới mức vấn đề nảy sinh là làm sao
dùng được nó và dùng ở đâu.
Và nhớ lấy, khi bạn có năng lượng thừa thãi, bạn
bỗng nhiên thấy rằng tất cả các kênh năng lượng cũ đều
hoàn toàn bị tắc nghẹt; vì chúng bây giờ không có khả
năng nhận nhiều thế, chúng không được dự định cho
điều đó. Cũng giống như đại dương đã rơi vào trong
một dòng sông nhỏ, quét sạch dòng sông này khỏi sự
tồn tại ngay tức khắc. Dòng sông sẽ không bao giờ biết
chỗ nó đã bị biến mất và biến mất như thế nào. Các
kênh cũ của giận dữ của bạn, của dục của bạn và phần
còn lại của nó bỗng nhiên sẽ bị tắc nghẹt và biến mất.
Cái ngày trận lụt năng lượng sẽ dâng lên, nó sẽ nghiền
nát và phá huỷ tất cả những cầu tàu và bến bờ cũ của
nó. Bạn bỗng nhiên sẽ thấy rằng cái gì đó hoàn toàn mới
và khác biệt đã đi vào sự hiện hữu. Và bạn sẽ tự hỏi
điều gì đã xảy ra cho tất cả những việc tiết kiệm nhỏ bé
của mình và sự keo kiệt của mình và việc sống bủn xỉn
của mình. Những nỗ lực yếu ớt của bạn - như thực hành
vô dục và kìm nén giận dữ và làm cái này cái nọ - sẽ
biến mất vào trong thinh không, bởi vì các kênh và
dòng sông cũ đã biến mất và toàn thể đại dương đã xuất
hiện trong khung cảnh từ bây giờ ở đây.
Và khi bạn không còn cách nào khác để dùng năng
lượng mênh mông này, bạn bỗng nhiên thấy rằng năng
lượng này đã lập ra cuộc hành trình hoàn toàn khác. Bởi
vì cuộc hành trình này phải tiếp diễn không ngừng mãi;
nó không bao giờ có thể đi tới chỗ dừng được. Năng
lượng sẽ cứ chuyển động; nó không thể dừng được.
Cuộc hành hương này kéo dãi vĩnh viễn.
Vấn đề chỉ là đánh thức năng lượng này một lần
thôi. Thế rồi những cách sống cũ của bạn trở thành vô
nghĩa, và nhiều điều không biết và những cánh cửa
không quen thuộc, vẫn đóng im ỉm qua nhiều thời đại,
bắt đầu nhường đường cho năng lượng đang xô tới này.
Và bắt đầu có việc bạn kinh nghiệm ngoại cảm. Và
ngay khi những cánh cửa ngoại cảm mở ra bạn bắt đầu
nhận biết về phần vô thân thể của thân thể, điều có thể
được gọi là linh hồn hay tâm linh.
Cho nên kundalini là việc chuẩn bị của thân thể để
đi vào vô thân thể, linh hồn. Chính theo nghĩa này mà
tôi đã nói như vậy ở Nargol.
Người hỏi: khi nói về việc đi lên và đi xuống của
năng lượng kundalini, thầy nói rằng việc đi lên của
nó ở trước việc đi xuống. Liệu việc đi xuống của nó
có hệt như việc đi xuống hay hội nhập vào kunda
hay nó là cái gì đó khác? Xin thầy giải thích hiện
tượng đi lên và đi xuống. Thực tế, việc hội nhập vào kunda không phải là đi
xuống không phải là đi lên; nó không thuộc vào loại nào
cả. Vấn đề không phải là lên và xuống; đấy chỉ là vấn
đề biến mất, vấn đề dừng hiện hữu. Khi một giọt nước
rơi vào trong đại dương, nó không lên hay xuống, nó
chỉ biến mất vào trong đại dương. Tất nhiên, khi giọt
nước khô đi trong nhiệt mặt trời, nó chắc chắn bay lên
trời dưới dạng hơi nước. Và khi nó tiếp xúc với khí
lạnh, hơi nước biến thành mây; nó xuống đất dưới dạng
mưa. Nhưng cuộc hành trình của nó tới biển thì không
lên không xuống; nó đơn giản hội nhập, biến mất, chết
đi trong đại dương.
Cho nên câu hỏi về lên và xuống nảy sinh theo một
nghĩa rất khác biệt. Chính theo nghĩa này mà nhiều lần
năng lượng chúng ta dâng lên phải được đưa trở về
kunda, về bể. Chúng ta dâng năng lượng lên và đồng
thời chúng ta trả nó về cội nguồn, lặp đi lặp lại. Và cần
phải làm như vậy bởi nhiều nguyên nhân. Một nguyên
nhân lớn là ở chỗ thường khối lượng năng lượng được
đánh thức lại nhiều hơn điều chúng ta có thể chịu đựng
được, và do vậy nó phải được gửi trả lại cội nguồn của
nó; bằng không thì nó có thể tỏ ra nguy hiểm.
Năng lượng nào đó, nếu nó nhiều hơn điều chúng ta
có thể nhận... Khả năng của chúng ta mang được một
thứ nào đó là có giới hạn; ngay cả khả năng của chúng
ta để mang hạnh phúc cũng bị giới hạn. Cả khả năng
của chúng ta chịu đau đớn và quyền lực cũng bị giới
hạn. Và nếu cú sốc của hạnh phúc hay đau đớn hay
quyền lực xô tới mà nhiều hơn khả năng chúng ta có thể
nhận, thế thì các cơ quan thần kinh của chúng ta có thể
bị đánh thủng. Và điều này sẽ rất có hại. Đó là lí do tại
sao nhiều lần năng lượng quá nhiều đã phải trả lại về
cội nguồn của chúng. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào các
kĩ thuật. Điều đó không nhất thiết trong trường hợp kĩ
thuật mà tôi đang nói tới. Có những kĩ thuật đánh thức
năng lượng ngay lập tức và bất thần; chúng được gọi là
các kĩ thuật của đốn ngộ. Và bao giờ cũng có nguy hiểm
cố hữu trong việc thực hành những kĩ thuật như vậy, bởi
vì việc năng lượng xô tới có thể thành quá nhiều đến
mức bạn không chịu nổi; bạn có thể không được chuẩn
bị cho điều đó. Điện thế của nó có thể cao tới mức ngọn
đèn của bạn có thể bị tắt ngóm, hay cầu chì của bạn có
thể đứt, hay quạt của bạn có thể bị cháy, hay xe của bạn
có thể bốc cháy. Nhưng kĩ thuật mà tôi cho các bạn ở
đây không bị nguy hiểm này; ban đầu nó tạo ra tiềm
năng trong bạn và thế rồi đánh thức năng lượng của bạn.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Nếu một chiếc
đập lớn bục ra, nó sẽ gây ra rất nhiều hư hỏng. Nhưng
nước của cũng cái đập ấy có thể được chuyển kênh theo
cách có điều tiết và tuân theo nhu cầu của người dùng.
Một biến cố duy nhất xảy ra trong cuộc đời của
Krishnamurti. Trong thời vị thành niên của mình, ông
ấy đã bị một số người đặc biệt thuộc vào thông thiên
học buộc phải trải qua toàn bộ kỉ luật kundalini. Một số
thực nghiệm đã được thực hiện trên ông ấy, nhưng ông
ấy bây giờ không còn kí ức rõ ràng về chúng. Ông ấy
không nhận biết về điều ông ấy đã phải trải qua. Ông ấy
chỉ trở nên nhận biết khi đại dương của chứng ngộ đã đi
vào kênh chính là ông ấy. Đó là lí do tại sao ông ấy
không có tri thức về pha chuẩn bị cho cuộc sống tâm
linh của mình.
Và do vậy ông ấy không chấp nhận rằng bất kì việc
chuẩn bị nào cũng là cần thiết cho chứng ngộ. Nhưng sự
kiện là ở chỗ ông ấy đã được chuẩn bị cho điều này theo
cách lớn lao, điều chưa bao giờ xảy ra trên trái đất này trước ông ấy. Thực tế cũng có một số người đã làm
công việc chuẩn bị, nhưng họ đã tự mình làm nó. Tại
đây lần đầu tiên những người khác đã làm việc này cho
Krishnamurti. Họ thực sự đã làm việc trên ông ấy.

Người hỏi: Người khác có thể thực sự làm điều đó
được không?

Một cách tuyệt đối, những người khác có thể làm
được điều đó, bởi vì theo nghĩa sâu sắc nhất thì người
khác không phải là người khác. Những người với chúng
ta có vẻ như là người khác thì lại không phải vậy. Cho
nên người khác đã làm những chuẩn bị này, và họ đã
làm như vậy vì một nguyên nhân vĩ đại, để hiện thực
hoá một biến cố lớn lao. Nhưng biến cố này đã không
thể được hiện thực hoá; thực nghiệm này bị tịt.
Biến cố mà các nhà thông thiên học đã chuẩn bị là
việc đến, việc đi vào của một linh hồn vĩ đại, vì điều đó
mà Krishnamurti đã được chọn lựa làm phương tiện.
Krishnamurti chỉ bị sử dụng như phương tiện, và ông ấy
đã được chuẩn bị cho ý định này. Với ý định này các
kênh tâm linh đã được đào bới ra và năng lượng đã
được đánh thức qua trung gian của Krishnamurti.
Nhưng điều này chỉ mới là phần sơ bộ của công việc.
Chừng nào còn có liên quan tới Krishnamurti, ông ấy
không phải là mục đích của dự án, ông ấy chỉ được
dùng như phương tiện. Đó là vấn đề tạo ra chỗ trong
ông ấy để một linh hồn khác nào đó tới và thường trú.
Nhưng điều đó không thể thành công được; nó đã thất
bại.
Dự án này thất bại bởi vì khi sự việc tới,
Krishnamurti đã từ chối là phương tiện; ông ấy đã từ
chối đóng vai trò trung gian cho ai đó khác. Người ta sợ
rằng ông ấy sẽ làm như vậy. Nỗi sợ như vậy bao giờ
cũng có đó, và đó là lí do tại sao những thực nghiệm
như vậy chưa bao giờ được thực hiện trong quá khứ.
Nỗi sợ này là thực; bởi vì khi một người đi tới trạng thái
mà người đó có thể là chỗ chấm dứt cho bản thân mình,
thì sao người đó phải đồng ý là phương tiện cho ai đó
khác? Krishnamurti đã từ chối vào giờ cuối cùng.
Điều đó cũng giống như thế này: tôi đưa bạn chiếc
chìa khoá ngôi nhà tôi để cho bạn có thể chuẩn bị nó
cho một người khách được dự định tới đây vào ngày
mai. Nhưng sau khi tôi trao tay cho bạn chiếc chìa khoá
và rời khỏi nhà, bạn trở thành người chủ. Bạn rất có thể
từ chối đón người khách vào ngôi nhà này với lời tự
biện bạch rằng bạn là chủ của nó, chiếc chìa khoá đang
ở cùng bạn. Chiếc chìa khoá này được ai đó khác làm
ra, và ai đó khác đã xây dựng ngôi nhà này nữa. Và mặc
dầu bạn có chìa khoá, bạn vẫn không có tri thức về cách
làm khoá hay cách ngôi nhà đã được xây dựng. Nhưng
vì bạn sở hữu chiếc khoá và bạn biết cách mở ngôi nhà,
nên vấn đề chấm dứt ở đó.
Điều như vậy đã xảy ra. Một số người có thể được
chuẩn bị, và một số người khác tới đã được chuẩn bị từ
các kiếp trước của họ. Nhưng đây không phải là vấn đề
bình thường. Thông thường, mọi người đều phải tự
chuẩn bị cho chính mình. Và điều duy nhất đúng là việc
chuẩn bị phải tới trước và việc xảy ra chứng ngộ tới sau
đó. Nhiều nước hơn phải chảy vào trong kênh chỉ khi
khả năng tiếp nhận của nó tăng lên.


Phải hết sức chăm chú rằng năng lượng này được
đánh thức chỉ theo tỉ lệ với khả năng tiếp nhận của bạn,
không bao giờ nhiều hơn thế. Có những kĩ thuật đưa tới
việc xả ra năng lượng quá mức. Đó là cách nhiều người
đã bị phát điên và tẩu hoả nhập ma. Và chính bởi vì
những thực hành như vậy mà mọi người trở nên rất sợ
tôn giáo.
Cho nên chúng ta có thể có hai cách đánh thức năng
lượng và không có mấy khó khăn về nó.
Tôi định kể cho các bạn một kinh nghiệm gần đây
của Mĩ - từ việc quản lí nguồn cấp điện của họ - làm sao
nhiều lúc các kế hoạch của chúng ta cứ bị thất bại. Tình
huống như vậy có thể nảy sinh ngay cả trong phạm vi
nội bộ cuộc sống chúng ta. Ở Mĩ họ có 80 cơ quan được
tổ chức ra để phân phối điện sao cho nếu điện dư thừa ở
thị trấn đặc biệt nào đó - nếu vào đêm đặc biệt nào đó
thị trấn này dùng ít điện hơn hạn ngạch đã được phân bổ
- thì lượng điện thừa này được tự động truyền sang thị
trấn khác nơi đang cần. Điều đó ngụ ý rằng ngay cả một
lượng năng lượng điện nhỏ cũng không được phép còn
đó không được dùng tới tại bất kì chỗ nào; nó ngay lập
tức được truyền sang chỗ khác cần dùng nó.
Chẳng hạn, một nhà máy làm việc mãi tới tối hôm
qua đã đóng cửa ngày hôm nay do chuyện bất ổn lao
động, và nó sẽ không dùng năng lượng đã được cấp cho
nó. Rồi có thị trấn khác nơi một nhà máy có thể đang
nằm chơi nhàn rỗi vì thiếu năng lượng. Cho nên họ đã
tổ chức nó theo cách điện bên trong vùng này thường
được chuyển tiếp từ chỗ này sang chỗ khác, để cho
không có dư thừa ở chỗ này và khan hiếm ở chỗ khác.
Nhưng việc đã xảy ra như vậy vài năm trước đây -
và nó đã xảy ra vì hệ thống tự động truyền năng lượng
này - rằng trong mười tới mười hai giờ nước Mĩ chìm
ngập trong bóng tối, và một loại hỗn loạn chế ngự khắp
nơi. Khi điều đó xảy ra, đã có hỏng nguồn điện ở thị
trấn nào đó và kết quả là chân không đã được tạo ra ở
đó. Bây giờ toàn thể năng lượng quá mức trong mạng
của vùng đó tự động xô trở lại vùng đó - với lực mạnh
tới mức tất cả mọi cầu chì trong thị trấn đó đều bị nổ
tung và hậu quả là toàn thể hệ thống được liên nối lẫn
nhau của vùng đó bị gián đoạn và mất tổ chức. Toàn thể
tổ chức cung cấp điện sụp đổ, và bỗng nhiên trong hai
mươi bốn giờ nước Mĩ trở về trạng thái đã tồn tại hai
nghìn năm trước đây. Có việc tắt đèn khắp mọi nơi, và
tất cả cuộc sống xã hội đi tới chỗ dừng lại.
Chỉ từ đó họ mới nhận ra lần đầu tiên rằng tất cả
mọi nỗ lực của họ nhằm vào tính hiệu quả và tạo dòng
chảy đều có thể bật lại vào họ và chứng tỏ là thảm hoạ.
Việc này đáng không bao giờ xảy ra nếu từng thị trấn có
hệ thống tách bạch riêng của mình về nguồn cấp điện.
Việc này có thể không bao giờ xảy ra ở Ấn Độ, rằng
điện của toàn quốc bị mất ngay một lúc. Nó chỉ có thể
xảy ra ở Mĩ, nơi ngay cả nguồn cấp điện cũng được tổ
chức một cách toàn thể và tập trung và nơi mà mạch
điện chảy tràn đầy mọi lúc. Cho nên bao giờ cũng có
nguy hiểm.
Có một hệ thống như mạch điện bên trong con
người nữa. Và nếu dòng điện ở bên trong bạn chảy về
bạn với số lượng lớn hơn mức bạn có thể tiếp nhận, sẽ
có thể nguy hiểm. Và có những kĩ thuật mà với chúng
bạn có thể làm tăng luồng điện bên trong của mình.
Chẳng hạn, bạn đang ngồi với năm mươi người khác
trong phòng này. Với sự giúp đỡ của kĩ thuật nào đó
bạn có thể, nếu bạn muốn, làm cho năng lượng của tất
cả năm mươi người này chảy về bạn - một người. Trong biến cố đó tất cả năm mươi người này, bị rút cạn năng
lượng của họ, sẽ trở thành vô ý thức, trong khi bạn sẽ
trở thành cây cột trụ năng lượng, bạn sẽ bùng nổ bởi
năng lượng. Nhưng điều này có thể tỏ ra là nguy hiểm
cho bạn nữa. Có thể là năng lượng được xả ra thành quá
nhiều bạn không kham nổi. Và điều trái ngược lại cũng
có thể xảy ra. Qua cùng con đường, dòng năng lượng
của bạn có thể được hướng chảy sang người khác, rút
dần toàn thể năng lượng của bạn. Tất cả những thực
nghiệm như vậy đều đã được tiến hành trong quá khứ.
Cho nên có những phương pháp mà với chúng
người ta có thể trả lại năng lượng dư thừa về cội nguồn
trong trường hợp quá nhiều năng lượng chảy về các
trung tâm cao hơn vào một lúc, trong trường hợp có
thừa năng lượng. Nhưng điều này không nhất thiết có
trong trường hợp các kĩ thuật tôi đang trao cho các bạn
ở đây. Điều này hoàn toàn không cần thiết, bởi vì năng
lượng sẽ được xả ra trong trường hợp này chỉ tỉ lệ với
khả năng nhận nó của bạn. Chúng ta sẽ tạo ra không
gian trước hết và thế rồi thả năng lượng lấp đầy không
gian này. Cho nên các bạn sẽ không bao giờ cần trả lại
bất kì năng lượng thặng dư nào. Tình huống như vậy sẽ
không phát sinh ra. Tất nhiên, một ngày nào đó chính
bản thân bạn sẽ trở về cội nguồn; nhưng đấy là vấn đề
khác. Khi biết mọi điều bạn sẽ lấy cú nhảy và hội nhập
với kunda. Nhưng điều đó là việc hoàn toàn khác.
Những từ này, lên và xuống, đã được dùng với
nghĩa khác nữa. Nghĩa mà trong đó Shri Aurobindo
dùng chúng rất khác.
Chúng ta có thể nghĩ tới năng lượng thiêng liêng
theo hai cách: hoặc chúng ta nghĩ về nó như cái gì đó
nằm trên chúng ta, trên đỉnh, trên trời, hay như cái gì đó
nằm dưới, tại đáy, trong chiều sâu vực thẳm. Chúng ta
nghĩ dưới dạng điểm cao nhất hay điểm thấp nhất.
Nhưng chừng nào có liên quan tới cấp độ vũ trụ, thì
thuật ngữ trên và dưới, đỉnh và đáy, là vô nghĩa; chúng
không có liên quan về bất kì cái gì. Chúng chỉ là các
khái niệm tư duy của chúng ta; chúng chỉ đại diện cho
cách nghĩ của chúng ta. Chúng ta lấy trần căn phòng
này là trên chúng ta, nhưng nó không phải vậy. Nếu
chúng ta khoan đất ngay tại chỗ này bằng máy khoan và
cứ khoan tới, một ngày nào đó nó sẽ kết thúc ở Mĩ. Và
nếu ai đó quan sát từ đó thì người đó sẽ thấy cái trần
này ở dưới chúng ta - dưới đầu chúng ta, không ở trên
chúng. Chúng ta sẽ xuất hiện với người đó như một bầy
người đang làm shirshasana - đứng trên đầu mình.
Nhưng cái trần này vẫn còn như cũ. Điều đó tuỳ thuộc
vào cách thức và từ đâu chúng ta thấy nó.
Cùng cách này các khái niệm của chúng ta về đông
và tây đều là giả. Đông là gì và Tây là gì? Nếu bạn cứ đi
mãi về phương đông thì bạn sẽ tới phương tây. Và nếu
bạn cứ đi mãi theo phương tây bạn sẽ tới phương đông.
Tại sao gọi nó là phương tây nếu bước đi theo hướng
này bạn tới phương đông? Điều đó là vô nghĩa. Mọi
khái niệm như vậy đều tương đối, và do vậy nó là
không thực. Nó chỉ là một giả thiết tiện dụng, một khái
niệm tưởng tượng; nó có ích và vậy mà giả. Bạn có thể
nói phương đông ở đâu và nó bắt đầu từ đâu không? Nó
bắt đầu ở Calcutta, Rangoon hay Tokyo? Phương tây
bắt đầu và kết thúc ở đâu? Chúng thực sự bắt đầu bây
giờ ở đây và kết thúc bây giờ ở đây. Chúng chỉ là các
khái niệm tiện dụng, qua đó chúng ta phân chia trái đất
ra theo thuận tiện của mình.
Theo cùng cách này trên và dưới, đỉnh và đáy, là
các khái niệm tiện dụng. Trong khi đông và tây là các khái niệm chiều ngang, trên và dưới là các khái niệm
chiều đứng. Dù sao chúng cũng chỉ là những khái niệm.
Thực tế chẳng có gì như ở trên và ở dưới cả; bởi vì vũ
trụ không có mái và không có sàn. Nó bao la và vô giới
hạn thế. Cho nên mọi việc nói về ở trên và ở dưới, lên
và xuống, đều vô nghĩa.
Nhưng khái niệm tiện dụng này về trên và dưới đã
xâm lấn vào tư duy tôn giáo của chúng ta nữa. Cho nên
một số người kinh nghiệm Thượng đế là cái gì đó tới từ
trên cao; và thế rồi đó là trường hợp của năng lượng
giáng xuống họ. Một số người kinh nghiệm Thượng đế
như cái gì đó nảy sinh từ bên dưới, từ mái nhà; trong
trường hợp đó năng lượng dâng lên với họ, nhưng thực
tế phân chia này không có nghĩa. Nơi chúng ta đặt
Thượng đế - trên hay dưới - là vấn đề khuynh hướng và
thích hợp. Nhưng nếu chúng ta phải chọn lựa trong thu
xếp dịch chuyển này, tôi ưa thích khái niệm về lên hơn
khái niệm về xuống.
Khái niệm về đi lên của năng lượng sẽ ích lợi cho
bạn hơn so với khái niệm đi xuống, và có lí do cho điều
đó. Bởi vì nếu bạn lấy khái niệm đi lên, bạn sẽ phải
nâng năng lượng lên, bạn sẽ phải làm việc vì nó. Và
trong trường hợp bạn chọn khái niệm kia, việc đi xuống
của năng lượng, bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có gì ngoài lời
cầu nguyện, bạn sẽ không làm gì ngoài cầu nguyện. Nếu
đấy là vấn đề của năng lượng đi xuống, thì bạn chỉ có
thể khoanh tay và cầu nguyện.
Do đó, hai loại tôn giáo đã tiến hoá trên toàn thế
giới - một loại dựa trên thiền còn loại kia dựa trên lời
cầu nguyện. Các tôn giáo giao phó cho lời cầu nguyện
là những tôn giáo kinh nghiệm Thượng đế ở trên, trên
bầu trời. Ngài ở trên bầu trời trong sáng còn chúng ta
không thể làm được việc đem ngài xuống chỗ chúng ta.
Nếu chúng ta muốn tìm thấy ngài, chúng ta sẽ phải dâng
lên ngày một cao hơn. Và nếu chúng ta cố gắng làm như
vậy, bản thân chúng ta có thể trở thành Thượng đế.
Nhưng chúng ta không thể đi lên được; chúng phải vẫn
ở nơi chúng ta đang ở. Và do vậy tất cả những gì chúng
ta có thể làm được là gọi ngài trong lời cầu nguyện:
"Hỡi Thượng đế, xin ngài giáng xuống chúng con!
Xuống với chúng con đi."
Mặt khác, có những tôn giáo tin rằng chúng ta phải
dâng cái gì đó lên từ bên trong chúng ta, rằng có cái gì
đó đang ngủ ở gốc rễ chúng ta, và nó có thể được nâng
lên chỉ nếu chúng ta làm điều gì đó theo hướng này.
Những tôn giáo đó quay lưng lại với cầu nguyện và
chọn lấy thiền. Chúng trở thành tôn giáo của thiền. Cho
nên khái niệm về trên và dưới đã tạo ra tất cả khác biệt
giữa cầu nguyện và thiền. Tôn giáo của cầu nguyện tin
vào Thượng đế ở cao bên trên còn tôn giáo của thiền
nghĩ rằng ngài cư trú ở gốc rễ, từ nơi đó ngài phải được
nâng lên.
Và nhớ rằng dần dần, tôn giáo của lời cầu nguyện
đã làm mất dần nền tảng và chết đi. Không có tương lai
cho chúng; chúng không có tương lai về bất kì cái gì.
Còn tôn giáo của thiền phát triển hàng ngày về tiềm
năng, và họ có tương lai vô cùng trước họ.
Tôi muốn các bạn hiểu rằng con đường của cuộc
hành trình của chúng ta đi lên từ phía dưới, từ đây.
Khái niệm này có một số nghĩa khác nữa. Tuy nhiên
khái niệm này là tương đối. Do đó, không thành vấn đề
gì với tôi nếu các bạn tin vào Thượng đế ở trên trời kia.
Tôi sẽ không gặp khó khăn nào về điều đó. Nhưng tôi
biết rằng các bạn chắc chắn sẽ đối diện với khó khăn trong việc thực hiện điều đó. Tôi đã nói một chút trước
đây rằng nếu chúng ta cứ đi về phương đông mãi thì
chúng ta chung cuộc sẽ tới phương tây; nhưng điều này
không có nghĩa là chúng ta phải đi về phương đông nếu
chúng ta phải đi về phương tây; chúng ta chỉ nên đi về
phương tây. Mặc dầu khái niệm đông tây là vô nghĩa,
vậy mà chúng ta bắt đầu đi về phương tây nếu chúng ta
phải đi về phương tây. Điều này cũng đúng; rằng nếu
chúng ta cứ đi về phương đông mãi chúng ta chung
cuộc sẽ tới phương tây. Nhưng thế thì cuộc hành trình
sẽ quá dài không cần thiết. Bạn có hiểu điều tôi muốn
nói không?
Sẽ có nhiều khác biệt giữa người sùng kính và thiền
nhân. Thượng đế của người sùng kính ở mãi trên trời,
và do vậy người đó sẽ cầu nguyện và chờ đợi với tay
khoanh lại. Còn Thượng đế của thiền nhân thì ẩn kín
bên dưới trong gốc rễ của người đó và do vậy người đó
sẽ chuẩn bị sẵn sàng hành động và nỗ lực để đánh thức
ngài.
Có những cách diễn giải khác chúng ta cần nhớ
trong đầu. Khi chúng ta tin Thượng đế ở dưới thấp, tại
gốc rễ, sự hiện diện của ngài được cảm thấy ở mọi nơi,
ngay cả trong điều chúng ta gọi là bản năng và xúc động
cơ sở hơn của mình. Thế thì không có gì trong tâm trí
chúng ta còn lại là cơ sở và thấp cả, bởi vì nếu bản thân
Thượng đế sống ở vùng thấp, ngài hiện diện ngay cả
trong điều chúng ta gọi là vùng thấp nhất của cuộc sống
chúng ta. Và ngài có thể được đánh thức ngay cả ở đó.
Nếu dục là vùng đó, thì Thượng đế sẽ ở đấy nữa, và
ngài có thể được đánh thức và được đạt tới từ cả đầu đó
nữa. Nói cách khác, không thể có chỗ nào mà không tìm
được ngài. Ngài sẽ được tìm thấy ngay cả ở chỗ thấp
nhất của địa ngục, nếu như có chỗ đó.
Nhưng nếu chúng ta tin rằng Thượng đế ở đâu đó
trên tầng trời, thì việc kết án bắt đầu ngay lập tức; thế
thì bất kì cái gì đứng bên dưới đều bị kết án, bởi vì
Thượng đế không có ở đó. Và thế thì một cách vô ý
thức cảm giác về tự ti nắm bắt lấy người tin tưởng. Và
hậu quả của nó - hậu quả tâm lí của việc tự kết án và
mặc cảm - đơn giản là thảm hoạ.
Và nếu bạn muốn đứng trên đôi chân vững chắc và
mạnh mẽ, điều cần thiết là năng lượng phải tới từ bên
dưới, vì điều đó sẽ thêm phần làm mạnh cho đôi chân
bạn. Nếu năng lượng tới từ bên trên, nó sẽ chỉ chạm tới
đầu bạn. Nhưng vấn đề là ở chỗ năng lượng, để có hiệu
quả, phải đạt tới chính gốc rễ.
Và năng lượng tới từ bên trên bao giờ cũng dường
như xa lạ và ngoại lai. Đó là lí do mà những người đạt
tới qua lời cầu nguyện không bao giờ tin rằng Thượng
đế và chúng ta là một. Người Hồi giáo bao giờ cũng
kiên quyết phản đối bất kì ai nói rằng mình là Thượng
đế. Họ nghĩ rằng Thượng đế và con người không thể là
một và như nhau được, bởi vì Thượng đế ở tít trên trời
còn con người lại ở đây trên đất này, ở dưới đáy. Do đó
họ chặt đầu Mansoor và giết chết Sarmad. Với họ không
có báng bổ nào lớn hơn điều này, rằng bất kì ai cũng nói
rằng mình là Thượng đế. Bởi vì trong khi Thượng đế là
cao nhất, con người cùng lắm cũng chỉ như loài sâu bọ
bò trên đất. Làm sao con người thấp bé có thể đồng nhất
mình với điều cao nhất được?
Lí do cho niềm tin này là ở chỗ chúng ta coi
Thượng đế là ở tít cao còn bản thân chúng ta là những
sinh linh thấp bé, chúng ta nhất định là hai thực thể tách
biệt. Bởi chính lí do này mà người Sufis chưa bao giờ
chấp nhận được đạo Hồi - tôn giáo của những người Hồi giáo - bởi vì người Sufis công bố rằng họ và
Thượng đế là một.
Chúng ta có thể là một với Thượng đế chỉ nếu
Thượng đế đi từ chỗ thấp, bởi vì chúng ta ở chỗ thấp.
Chỉ nếu Thượng đế tới từ đất và không từ trời thì ngài
mới là có thể và chúng ta hợp nhất vào trong một sự
hiện hữu.
Ngay khi chúng ta đưa Thượng đế lên ngai vàng
trên trời, cuộc sống trần tục của chúng ta bị kết án; nó
trở thành tội lỗi. Và thế thì được sinh vào trong thế giới
này được xem như kết quả của tội lỗi của chúng ta. Còn
khi chúng ta đặt Thượng đế tại gốc rễ, cuộc sống trên
đất này trở thành phúc lạc, phúc lành. Thế thì nó chấm
dứt việc là kết quả của tội lỗi của chúng ta và biến thành
món quà của Thượng đế và từ bi của ngài. Và thế rồi sự
hiện diện của ánh sáng của ngài sẽ được cảm thấy ngay
cả ở chỗ tối nhất của mọi vật. Và thế rồi, Thượng đế sẽ
hiện diện trong bản thể bên trong nhất của ngay cả
người tồi tệ nhất, ngay cả người độc ác nhất.
Do đó tôi ưa thích là các bạn tin Thượng đế là lực đi
lên; mặc dầu thực tế không có khác biệt giữa hai khái
niệm này về lực đi lên và đi xuống. Không có khác biệt
về bất kì điều gì đối với người biết. Người đó sẽ nói
rằng cả hai ý tưởng này đều vô dụng. Nhưng nếu chúng
ta không biết và muốn đi trên cuộc hành trình tâm linh,
tốt hơn cả là chúng ta chọn con đường làm cho cuộc
hành trình được dễ dàng hơn. Cho nên tôi muốn người
tìm kiếm hiểu rằng năng lượng sẽ nảy sinh từ đáy và cứ
theo cuộc hành trình đi lên.
Do đó, những người chọn cuộc hành trình đi lên đều
chấp nhận lửa như biểu tượng của Thượng đế, bởi vì lửa
bao giờ cũng bốc lên. Lửa trong ngọn đèn, ngọn lửa của
nó, thường xuyên đi lên, bốc lên. Đó là lí do tại sao ở
chỗ thầm kín sâu nhất của tâm trí mình chúng ta đã chấp
nhận lửa như biểu tượng của Thượng đế - bởi một lẽ
đơn giản là bất luận điều bạn làm, lửa bao giờ cũng lên
thẳng, và khi nó lên thẳng chẳng mấy chốc nó biến mất
vào trong hư không. Ngọn lửa của đám lửa thấy được
trong một chốc và thế rồi tự nó mất đi trong thinh
không. Tương tự người tìm kiếm sẽ dâng lên, sẽ thấy
được trong một chốc và thế rồi người đó sẽ mất đi bản
thân mình trong cái không thấy được.
Do đó tôi nhấn mạnh vào việc đi lên của năng lượng
và không nhấn mạnh vào việc đi xuống của nó.
Người hỏi: Thầy nói tại trại Nargol rằng chúng ta
phải làm kiệt quệ thân thể qua việc thở mãnh liệt và
sâu và thường xuyên hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" để cho
chúng ta đi vào thiền sâu. Nhưng làm sao làm kiệt
quệ và nảy sinh việc thiếu năng lượng dẫn tới thiền
thực sự cần năng lượng dư thừa?
"Làm kiệt quệ" không có nghĩa là sẽ thiếu năng
lượng nào. Khi tôi nói các bạn phải làm cho bản thân
mình kiệt quệ, điều tôi ngụ ý bởi từ "bản thân mình" là
gì? Tại đây "bản thân mình" nghĩa là các giác quan của
bạn mà qua đó năng lượng của bạn chảy vào quá trình
đều đặn mọi ngày. Với "bản thân mình" tôi ngụ ý thân
thể bạn; tôi ngụ ý bạn như bạn ngay bây giờ. Tôi không
nói về bạn thực sự là gì; tại khoảnh khắc này tôi quan
tâm tới bạn là gì.
Cho nên khi các bạn tự làm kiệt quệ mình, hai điều
xảy ra cùng nhau. Khi các bạn làm kiệt quệ mình, tất cả các thực hành giác quan của bạn làm kiệt quệ thân-tâm
bạn, các cơ quan cảm giác của bạn, mặt khác nó cứ nện
búa vào kundalini của bạn. Cho nên từ một đầu các bạn
bị kiệt quệ và từ đầu bên kia năng lượng ngủ của các
bạn bắt đầu thức dậy.
Cả hai quá trình này là đồng thời. Một mặt các bạn
bị mệt đi và mặt khác năng lượng của bạn được đánh
thức dậy. Đồng thời, các bạn không ở vào vị trí dùng
năng lượng của mình thêm nữa. Mắt bạn mệt tới mức
chúng không thể nhìn được; tâm trí các bạn mệt tới mức
nó không thể nghĩ được, cho dù nó muốn nghĩ. Chân
bạn từ chối chuyển động, chúng hoàn toàn suy kiệt.
Trong tình huống này, nếu các bạn muốn di chuyển,
các bạn sẽ phải di chuyển không có chân, còn nếu các
bạn muốn nhìn, các bạn sẽ phải nhìn không có mắt, bởi
vì chúng đã kiệt quệ rồi. Cho nên khi các cơ quan của
bạn bị làm việc quá mức, nó từ chối làm việc. Nhưng
đồng thời năng lượng nào đó đã được đánh thức và nó
muốn làm điều gì đó một cách cấp thiết. Bây giờ năng
lượng này lập tức sẽ gõ vào những cánh cửa không bị
mệt của bạn, và sẵn sàng nhận lấy nó và làm việc với
nó. Những lối mở này bao giờ cũng sẵn sàng nhưng đã
bị phủ nhận mọi cơ hội để làm việc. Bạn mạnh đến mức
bạn có thể dùng tất cả năng lượng của mình. Bây giờ
bạn mệt mỏi, và năng lượng mới và tươi mát có đấy cho
hành động. Nhưng các cơ quan cũ của bạn như mắt và
tai sẽ từ chối nhận nó. Cho nên khi tai và mắt của bạn từ
chối, năng lượng mới đó sẽ làm gì?
Trong tình huống này các bạn sẽ bắt đầu nhìn từ
chiều nào đó rất khác, đó sẽ là một phần mới của bản
thể bạn. Trung tâm nhìn tâm linh của bạn sẽ bắt đầu làm
việc, và bạn sẽ thấy những điều mà bạn chưa bao giờ
thấy trước đây. Và các bạn sẽ thấy từ một không gian
mà các bạn chưa bao giờ quen thuộc trong quá khứ.
Không gian đó chưa bao giờ được cho cơ hội để vận
hành; bây giờ có cơ hội cho nó, lần đầu tiên.
Chính bởi lí do này mà tôi đã nhấn mạnh vào việc
làm cho bạn kiệt sức. Một mặt, thân thể bạn phải bị làm
cho thật mệt, tâm trí bạn phải bị làm cho thật mệt, tất cả
mọi điều bạn có là bị mệt lử, để cho điều bạn thực sự là
và điều bạn không nhận biết đó có thể trở nên tích cực.
Khi năng lượng tươi mát được khuấy động lên, nó đòi
hỏi làm việc, và bản thể bạn sẽ phải cung cấp nó cho
công việc. Thực tế năng lượng này sẽ tự nó tìm ra công
việc. Cho nên trong biến cố về tai bạn bị kiệt quệ, năng
lượng được đánh thức mới sẽ nghe thấy cái được gọi là
naad, hay âm thanh bên trong. Trong biến cố mắt bạn bị
mệt mỏi, năng lượng mới sẽ thấy ánh sáng, ánh sáng
bên trong. Để nghe âm thanh bên trong và thấy ánh sáng
bên trong, tai và mắt vật lí của bạn không được cần tới.
Nó sẽ ngửi thấy mùi hương ở bên ngoài tầm với của
mũi thường của bạn. Vậy, các giác quan rất tinh tế, điều
bạn gọi là siêu giác quan, sẽ trở thành sống động và
hoạt động.
Mỗi một trong các giác quan của chúng ta đều được
nối với một siêu giác quan tương ứng. Có tai nghe ra
bên ngoài và có tai khác nghe bên trong bạn. Nhưng tai
bên trong chẳng bao giờ được cho cơ hội nào để vận
hành cả. Bởi vì tai bên ngoài của bạn bị làm việc quá
sức và nó từ chối làm việc thêm nữa, mà năng lượng
mới tụ tập gần tai đang trơ ì của bạn, nó sẽ phải làm gì?
Nó sẽ kích hoạt tai kia của bạn, tai bên trong, chưa bao
giờ được dùng trong quá khứ. Cho nên bạn sẽ nghe thấy
và nhìn thấy những điều mà nếu bạn nói cho bạn bè
mình về chúng thì họ sẽ nói, "Anh mất trí rồi. Điều đó là không thể được. Anh đang bị ảo tưởng; anh đang mơ
đấy."
Nhưng bạn sẽ nghe thấy âm thanh đó còn rõ hơn
bạn nghe nhạc của veena của mình, đàn luýt của mình.
Đàn luýt bên trong sẽ được nghe thấy rõ ràng và to tới
mức bạn không bao giờ có thể nghĩ rằng nó có thể
không thực, giả tạo. Bạn sẽ nói rằng nếu đây mà là giả,
thì đàn veena bên ngoài hoàn toàn là giả.
Để cho những cánh cửa mới tới sự tồn tại của bạn
mở ra, điều cần thiết là ban đầu phải làm mệt mỏi các
giác quan của bạn. Một khi những cánh cửa đó được mở
ra, sẽ không có vấn đề gì. Thế thì bạn có thể so sánh, và
nói rằng nếu bạn phải nhìn, thì nhìn vào bên trong còn
tốt hơn nhiều, nhiều phúc lạc thế. Cái bên ngoài là vô
nghĩa nếu so với cái bên trong. Nhưng ngay bây giờ bạn
không có cách nào để so sánh cả, bạn không có chọn lựa
nào về bất kì cái gì. Nếu bạn muốn nhìn, chỉ có mỗi
cảnh bên ngoài để nhìn. Một khi mắt bên trong của bạn
bắt đầu thấy, bạn có chọn lựa rõ ràng; bạn có thể chọn
giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Và thế thì bạn bao
giờ cũng sẽ chọn cái bên trong bất kì khi nào bạn cảm
thấy thích nhìn. Và bạn sẽ không bỏ lỡ nó; cái bên ngoài
sẽ trở thành vô nghĩa.
Có một câu chuyện trong cuộc sống của Rabiya.
Một buổi chiều tà mặt trời đang lặn và bà ấy đang
ngồi bên trong lều của mình. Một thầy tu khổ hạnh fakir
có tên là Hassan tới thăm bà ấy. Đó là lúc mặt trời lặn
và buổi chiều tà đơn giản đang làm cho người ta say
mê. Thế là Hassan gọi bà ấy, "Rabiya ơi, bà đang làm gì
đó bên trong lều? Chiều tà đẹp thế, và mặt trời lặn huy
hoàng tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Buổi chiều rực
rỡ như thế có thể không thấy được lần nữa đâu. Bà ra
khỏi lều và ngắm nó đi."
Trả lời lại, Rabiya nói, "Ôi ông khờ ơi, ông còn tiếp
tục ngắm mặt trời bên ngoài được bao lâu nữa? Tôi bảo
ông quay vào trong đi, bởi vì ở đây tôi đang ngắm
người tạo ra mặt trời. Và tôi đang chứng kiến những
mặt trời như vậy ở đây vẫn còn chưa được tạo ra và sẽ
được tạo ra trong tương lai chưa thấy được. Cho nên tốt
hơn cả là ông đi vào đi."
Nhưng Hassan không thể đoán được điều Rabiya
muốn bảo ông ấy. Người đàn bà này thực sự hiếm hoi.
Rabiya là một trong số rất ít phụ nữ có ý nghĩa trong
toàn bộ lịch sử loài người. Nhưng Hassan không hiểu
được bà ấy; ông ấy cứ khẩn khoản mãi rằng Rabiya nên
bước ra khỏi lều và ngắm nhìn mặt trời lặn mà bà ấy
đang bỏ lỡ. Còn Rabiya cảnh báo ông ấy mãi đừng bị
lạc trong quyến rũ của mặt trời bên ngoài và do vậy bỏ
lỡ cái đẹp thực sự của cái bên trong.
Đối thoại này giữa Rabiya và Hassan xảy ra ở hai
bình diện khác nhau đồng thời. Hai loại giác quan khác
nhau cùng tham gia vào trong đó. Nếu bạn không nhận
biết về các giác quan bên trong, thế thì thế giới bên
ngoài là mọi thứ cho bạn.
Và đó cũng chính là ý nghĩa mà tôi nói rằng sẽ là tốt
nếu các giác quan bên ngoài bị kiệt quệ.
Người hỏi: vậy trong việc thiền này, việc làm kiệt
quệ không có nghĩa là thiếu năng lượng.


Không một chút nào. Nó có nghĩa là đánh thức năng
lượng - năng lượng đang ngủ bên trong từng người các
bạn. Và toàn bộ công việc được ngụ ý để đánh thức nó.
Đúng là các giác quan bị mệt mỏi; nhưng các giác quan
nào không chứa năng lượng, chúng đơn thuần là những
cánh cửa để năng lượng đi qua đó. Và bạn không là
cánh cửa; bạn là cái gì đó khác. Bạn đơn thuần đi qua
những cánh cửa này. Và chính những cánh cửa này bị
mệt mỏi và yêu cầu bạn không đi qua chúng nữa, bởi vì
chúng bị làm việc quá sức và cạn kiệt rồi. Mắt bạn từ
chối bị sử dụng. Và các giác quan khác cũng nói như
vậy.

Cho nên khởi đầu quá trình làm mệt mỏi các giác
quan này là rất có ích.
Người hỏi: nếu đó là trường hợp của việc đánh thức
năng lượng, thế thì việc thiền này nên đem tới tươi
mát thay vì mệt mỏi. Nhưng thông thường nó đem
chỉ mỗi mệt mỏi. Tại sao vậy?
Nó sẽ chỉ như vậy vào lúc bắt đầu. Nhưng dần dần
bạn sẽ cảm thấy tươi mát và sảng khoái. Tươi mát và
sảng khoái này tới mức bạn chẳng bao giờ biết trước
đây. Nhưng lúc ban đầu, để cho chắc, bạn sẽ cảm thấy
mệt. Nó là vậy bởi vì bạn đã đồng nhất mình với những
giác quan này. Bạn nghĩ chúng là chính bản thân mình.
Cho nên khi các giác quan này mệt, bạn nói rằng bạn
mệt. Sự đồng nhất này với các giác quan phải ra đi.
Chẳng hạn, bạn đang cưỡi ngựa và con ngựa bị mệt.
Bây giờ nếu bạn bị đồng nhất với ngựa thì bạn sẽ nói
rằng bạn mệt, bạn mệt chết đi. Chúng ta thấy mệt với tất
cả những gì chúng ta đồng nhất với. Nếu bạn đồng nhất
bản thân mình với ngựa, bạn sẽ mệt khi ngựa mệt. Cái
ngày bạn biết rằng bạn không là ngựa, tươi mát sẽ tới
thăm bạn theo cách rất khác. Và thế thì bạn sẽ biết rằng
đó chính là các giác quan mệt chứ không phải là bạn.
Ngược lại, khi các giác quan mệt và từ chối làm
việc, nhiều năng lượng, cái đã từng bị phung phí một
cách vô ích trước đây, nay được tiết kiệm và gìn giữ
trong kho năng lượng bên trong bạn. Thế thì bạn sẽ biết
cái được gọi là bảo tồn năng lượng, và nó sẽ ngày càng
biến thành kho tàng vô giá của bạn. Và vì năng lượng
này không đi ra, nên nó thấm vào mọi thớ thịt, mọi lỗ
chân lông của con người bạn. Năng lượng này là bạn, và
khi bạn hiểu nó thì bạn sẽ biết khác biệt.
Cho nên dần dần, sau thiền, bạn sẽ kinh nghiệm
tươi mát vô cùng. Nói rằng bạn sẽ cảm thấy tươi mát
cũng là sai, thay vì thế bạn sẽ trở thành bản thân sự tươi
mát. Không phải là bạn sẽ cảm thấy tươi mát, bạn sẽ là
tươi mát này. Nhưng điều này sẽ xảy ra chỉ khi đồng
nhất của bạn thay đổi. Ngay bây giờ bạn đang cưỡi
ngựa, và cả cuộc đời mình bạn đã đồng nhất mình với
ngựa. Sẽ phải mất thời gian để biết rằng bạn không là
ngựa mà là người cưỡi. Và sẽ dễ hiểu hơn cho bạn nếu
ngựa kiệt sức tới mức phải bỏ nó đi. Thế thì bạn sẽ phải
bước bộ, và bước bộ trên đôi chân riêng của bạn. Và khi
bạn bước đi, bạn sẽ biết rằng bạn là tách rời với ngựa.
Nhưng cưỡi trên lưng ngựa một thời gian lâu bạn đã
quên mất rằng bạn có thể bước bộ. Cho nên cũng tốt là
con ngựa bị kiệt sức.
Người hỏi: Thầy nói tại trại thiền Nargol tổ chức
gần đây, rằng sadhana hay kỉ luật về kundalini là
cách chuẩn bị thân thể. Xin thầy giải thích điều đó?

Trước hết, thân thể và linh hồn trong chính chiều
sâu của chúng là không tách rời; khác biệt giữa chúng là
rất bề mặt. Khi toàn thể chân lí của nó được biết tới,
chúng ta không còn thấy thân thể và linh hồn như hai
thực thể tách biệt; chúng ta thực sự thấy chúng là một
và như nhau. Trong thực tế, thân thể là phần của linh
hồn có thể được lĩnh hội qua các giác quan, còn linh
hồn là phần của thân thể ở bên ngoài lĩnh hội của các
giác quan. Cho nên linh hồn là đầu vô hình của thân thể,
còn thân thể là đầu hữu hình của linh hồn.
Nhưng điều này được biết tới chỉ khi người ta đi tới
việc kinh nghiệm tối thượng về chân lí.
Điều kì cục là nói chung chúng ta tất cả đều tin rằng
thân thể và linh hồn là một và cùng một thứ. Nhưng tin
chung này là ảo tưởng, bởi vì chúng ta thực sự không
biết linh hồn là gì. Thay vì thế chúng ta lấy thân thể thế
cho linh hồn. Nhưng ngay cả ảo tưởng và niềm tin phổ
biến này cũng đều xuất phát từ cùng một chân lí cơ sở -
đằng sau nó có cùng tri thức về sự thống nhất này; ở nơi
sâu kín vô hình nào đó của bản thể mình chúng ta có
biết rằng thân thể và linh hồn là một.
Tuy nhiên, tri thức về tính một này làm nảy sinh ra
hai loại lỗi lầm. Một mặt có những người duy tâm,
người nói rằng chỉ có linh hồn và không có thân thể; và
mặt khác, có những người duy vật như Charvaka và
Epicurus, người tuyên bố rằng chỉ có thân thể và không
có linh hồn. Hai quan niệm sai lầm này, mâu thuẫn lẫn
nhau, đều phát sinh từ cùng một hiện thực sâu sắc là
thân thể và linh hồn là không tách rời.
Và như những người duy vật, mọi người thường -
người chúng ta nói là dốt nát - đều cho rằng mình chỉ là
thân thể.
Nhưng khi cuộc hành trình nội tâm bắt đầu, niềm
tin rằng thân thể và linh hồn là một sẽ bị tan nát, và
người ta sẽ đi tới biết ra rằng chúng là tách biệt. Bởi vì
ngay khi người ta biết rằng có linh hồn, người đó cũng
biết rằng thân thể là tách rời và linh hồn cũng tách rời.
Nhưng điều này xảy ra trong giai đoạn trung gian
của cuộc hành trình. Khi bạn đi sâu hơn và sâu hơn nữa,khi bạn đạt tới kinh nghiệm tối thượng, bạn sẽ biết rằng
chúng không tách rời. Chúng thực sự là một và như
nhau; chúng là các dạng khác nhau của cùng một thực
tại.
Điều đó giống như tôi là một người với hai tay - tay
phải và tay trái. Nếu ai đó quan sát hai tay tôi từ bên
ngoài và nói rằng chúng là một và như nhau, thì người
đó sai, bởi vì chúng là hai tay rõ ràng tách rời lẫn nhau.
Lại gần tôi hơn người đó sẽ biết rằng tay trái tôi là hoàn
toàn tách rời với tay phải. Có thể, tay trái tôi bị đau còn
tay phải tôi không đau. Có thể tay phải bị đứt rời còn
tay trái thì vẫn tốt. Cho nên hai tay này hiển nhiên
không là một và không như nhau. Nhưng nếu ai đó đi
vào lãnh thổ của tôi người đó sẽ thấy rằng tôi là một
người và cả hai tay đều là của tôi. Khi tay trái bị gẫy thì
chính tôi là người bị đau; và khi tay phải bị gẫy, lại
chính tôi là người chịu đựng. Và theo cùng cách này khi
tay trái giơ lên, thì chính tôi là người giơ nó lên, còn khi
tay phải được giơ lên, lại chính là tôi đang giơ nó lên.
Cho nên trong kinh nghiệm tối thượng thân thể và
linh hồn là không tách rời; chúng là hai mặt, như hai tay
tôi, của cùng một chân lí. Tôi đem ra tương tự này để
cho bạn hiểu sự việc được rõ.
Thế thì cuộc hành trình có thể được bắt đầu từ bất kì
điểm nào trong hai điểm này - hoặc là từ thân thể hoặc
là từ linh hồn. Nếu ai đó bắt đầu nó với thân thể và cứ đi
ngày một sâu hơn vào trong nó, người đó chung cuộc sẽ
đạt tới linh hồn. Điều đó cũng giống như ai đó cầm tay
phải của tôi và đưa lên; người đó sớm hay muộn sẽ đạt
tới tay trái tôi. Tương tự ai đó có thể bắt đầu trực tiếp
bằng linh hồn và cuối cùng đạt tới thân thể.
Tuy nhiên rất khó bắt đầu bằng linh hồn. Nó khó
bởi vì linh hồn không được chúng ta biết tới. Vì chúng
ta gần như tồn tại ở bình diện vật lí, cuộc hành trình của
chúng ta chỉ có thể bắt đầu với thân thể. Tuy nhiên có
những kĩ thuật trực tiếp bắt đầu với linh hồn; nhưng nói
chung chúng có ích chỉ cho rất ít người. Một trong hàng
triệu người mới có thể dùng những kĩ thuật bắt đầu với
linh hồn. Tuyệt đại đa số mọi người sẽ phải bắt đầu với
thân thể. Cuộc hành trình của người ta chỉ có thể bắt
đầu tại nơi họ đang ở.
Và để bắt đầu cuộc hành trình với thân thể thì
kundalini bao hàm công việc chuẩn bị. Kundalini là chỗ
cơ bản của những kinh nghiệm sâu sắc nhất về thân thể.
Trong thực tế, thân thể không chỉ là điều chúng ta
biết nó đang là vậy, hay các nhà sinh lí học biết; nó còn
nhiều hơn thế nhiều. Chẳng hạn, cái quạt đang bật đây.
Nếu chúng ta tháo chiếc quạt xuống và dỡ nó ra thành
từng phần để khảo cứu nó, chúng ta sẽ không bắt gặp
điện ở đâu cả. Và có thể, trên cơ sở của việc khảo cứu
này một người rất thông minh nói rằng không có những
thứ như điện trong máy móc của quạt. Người đó sẽ
không bao giờ thấy nó ở bất kì phần nào của chính chiếc
quạt. Vậy mà sự kiện là ở chỗ khi quạt chuyển động, nó
được điện làm cho quay. Và chiếc quạt sẽ dừng chuyển
động vào khoảnh khắc dòng điện dừng không tới nó
nữa. Các nhà sinh lí học nghiên cứu thân thể bằng việc
giải phẫu nó và họ không tìm thấy kundalini ở đâu cả.
Họ sẽ không bao giờ tìm thấy được nó. Vậy mà toàn thể
thân thể được điều khiển bằng năng lượng điện chính là
kundalini, tựa như quạt chạy bằng điện. Năng lượng
điện này của kundalini không thể được biết qua những
phân tích được thực hiện từ bên ngoài, bởi vì trong quá trình phân tích năng lượng tan rã và biến mất. Nó chỉ có
thể được biết tới qua việc kinh nghiệm bên trong về nó.
Có hai cách để biết thân thể. Các bạn có thể biết nó
từ bên ngoài như nhà sinh lí học làm bằng việc giải
phẫu nó - đây là một cách; và cách kia là biết nó từ bên
trong nó. Người đi sâu vào bên trong nó và sống ở đó
thì biết nó từ bên trong.
Người ta bắt đầu biết thân thể mình từ bên trong...
Và nhớ lấy, chúng ta biết thân thể mình từ bên ngoài.
Ngay cả thân thể riêng của mình chúng ta cũng biết tới
chỉ từ bên ngoài. Nếu tôi biết tay trái tôi, tôi biết nó qua
mắt đã thực sự thấy chúng. Cho nên tri thức của tôi về
tay trái tôi thực sự là tri thức của nhà sinh lí học. Nhưng
nếu tôi nhắm mắt lại và cảm thấy tay trái tôi, việc cảm
bên trong này về nó sẽ là của riêng tôi. Cho nên nếu ai
đó đi tới biết thân thể mình từ bên trong, người đó sẽ
sớm đạt tới kunda, kho chứa, chính là cội nguồn của tất
cả năng lượng thân thể của chúng ta. Năng lượng nằm
ngủ tại kunda này, tại bể này, được gọi là kundalini. Và
thế thì người đó sẽ biết cho chính mình rằng mọi thứ bắt
nguồn từ đó và toả khắp toàn bộ thân thể. Nó cũng
giống như ngọn đèn cháy lên và chiếu sáng cả căn
phòng. Nếu bạn thám hiểm vào cội nguồn của ánh sáng
đang tràn ngập toàn bộ căn phòng, bạn sẽ đi tới chiếc
đèn này và thấy rằng tất cả mọi tia sáng đều phát ra từ
ngọn lửa này. Thế thì bạn sẽ biết rằng mặc dầu các tia
sáng đã đạt tới những góc phòng ở xa, vậy mà chiếc đèn
vẫn còn là cội nguồn của chúng.
Ở đây chúng ta quan tâm tới việc tìm kiếm điểm đặc
biệt đó mà từ đó sinh lực phát ra và tràn ngập toàn thể
thân thể chúng ta. Sinh lực phải có một trung tâm;
không năng lượng nào có thể hiện hữu mà không có cội
nguồn. Mặc dầu mặt trời ở xa chúng ta một trăm triệu
dặm, vậy mà chúng ta vẫn có những tia sáng của nó
chiếu tới mình; chúng ta có thể nói rằng phải có một
trung tâm, một cội nguồn từ đó chúng phát ra và tràn
ngập trái đất. Trong thực tế, không năng lượng nào có
thể hiện hữu mà không có trung tâm; nếu có năng
lượng, nó phải có trung tâm. Làm sao có thể có vòng
tròn, đường tròn, mà không có trung tâm? Nơi có đường
tròn chắc chắn cũng có trung tâm nữa.
Điều thân thể bạn là chùm năng lượng là hiển
nhiên; điều đó không cần chứng minh. Nó là đống năng
lượng dâng lên và hạ xuống, di chuyển và dừng lại và đi
vào giấc ngủ. Và không phải là năng lượng của nó bao
giờ cũng vận hành một cách đều đặn; đôi khi nó tích
cực và mạnh mẽ và vào lúc khác nó lại vào trạng thái lờ
phờ, suy nhược và trì trệ. Khi bạn giận dữ bạn ném
mạnh hòn đá lớn vào ai đó, hòn đá mà bạn khó có thể di
chuyển được trong trạng thái bình thường. Khi bạn đang
rất hoảng sợ bạn chạy với tốc độ mà vận động viên chạy
phải thèm muốn trong các cuộc đua Olympic. Cho nên
năng lượng của bạn không phải bao giờ cũng trong cùng
trạng thái; nó thăng giáng theo hoàn cảnh bên trong và
xung quanh bạn.
Do đó hiển nhiên là bạn có một loại kho dự trữ, một
nguồn, từ đó năng lượng đi vào trong hành động hay
không đi vào hành động. Nó đi vào trong hành động bất
kì khi nào cần thiết; bằng không thì nó nằm ngủ tại
nguồn. Từ nguồn này bạn rút ra năng lượng trong cả hai
hoàn cảnh bình thường hay bất thường - trong nhu cầu
hàng ngày của bạn và cả trong những trường hợp khẩn
cấp của bạn. Vậy mà kho dự trữ này chẳng bao giờ
trống rỗng, nó bao giờ cũng đầy; bạn không thể làm cạn
kiệt nó được. Nó không bao giờ hết.


Điều thú vị là biết rằng chúng ta chẳng bao giờ
dùng hết kho năng lượng lớn này của mình. Những
người đã thám hiểm lĩnh vực này đều nói rằng ngay cả
những người phi thường nhất, những người nổi tiếng là
các thiên tài, cũng không dùng quá mười lăm phần trăm
năng lượng của mình. Ngay cả những vĩ nhân của lịch
sử - những người làm nên lịch sử - cũng không vượt quá
giới hạn mười lăm phần trăm này. Và khi có liên quan
tới người thường, người đó đi qua toàn bộ cuộc đời
mình chỉ với hai tới hai phẩy năm phần trăm của nó;
chín mươi tám phần trăm năng lượng của người đó
không được dùng tới.
Cho nên về mặt tiềm năng, theo quan điểm về năng
lượng mầm mống, không có khác biệt giữa người phi
thường và người bình thường. Khác biệt là dùng và
không dùng năng lượng. Năng lượng mà người thiên tài
đã đưa vào sử dụng cũng hệt như người rất bình thường
có mà không dùng nó. Người thường là người không
bao giờ tập trung năng lượng của mình vào hành động;
người đó không bao giờ huy động nó, đem nó ra đương
đầu với thách thức. Người đó thoả mãn với cái nhỏ bé
mình có trên bề mặt, điều người đó nghĩ là cái tối đa
của mình. Người đó làm với cái tối thiểu của mình và
bỏ lại tiềm năng bao la không được động tới. Và đó là lí
do tại sao trong khoảnh khắc của khủng hoảng, thậm chí
người bình thường nhất cũng thể hiện sức mạnh và khả
năng phi thường. Cho nên chỉ trong khoảnh khắc khủng
khoảng chúng ta mới đi tới biết tiềm năng bên trong của
mình là gì.
Có một trung tâm trong từng người chúng ta nơi
toàn thể năng lượng này cư ngụ - ẩn kín và ngủ. Người
ta phải nói rằng nó nằm đó dưới dạng hạt mầm - đóng
kín và tiềm tàng; nhưng nó có thể trở thành biểu lộ. Và
nó được gọi là kunda, cái bể, hay kho dự trữ.
Từ "kunda" rất có ý nghĩa; nó có nhiều nghĩa. Một
nghĩa là ở chỗ nó là cái bể tĩnh lặng và thanh bình
không gợn sóng. Nếu cho dù một gợn sóng có đó thôi,
điều đó sẽ có nghĩa là năng lượng này trở nên tích cực.
Kunda nghĩa là nội dung của nó, năng lượng của nó,
không có chuyển động nào; nó hoàn toàn thụ động, bình
thản và nghỉ ngơi. Và nghĩa khác là ở chỗ mặc dầu nó
thụ động và ngủ, bất kì khoảng khắc nào nó cũng đều có
thể trở thành tỉnh táo, tích cực và chuyển động. Nó
không phải là cái bể khô và chết; nó tràn đầy ăm ắp. Và
bất kì khoảnh khắc nào nó cũng đều có thể trở thành
tích cực, năng động; mặc dầu ngay bây giờ nó ở trong
trạng thái thụ động, đang ngủ.
Điều đó có thể là lí do tại sao chúng ta không biết
cái gì đang ngủ bên trong mình. Chúng ta chỉ có thể biết
khi nó trở nên thức dậy và tích cực, chỉ phần tích cực
của năng lượng này đi vào ý thức của các bạn, còn phần
thụ động của nó vẫn nằm ngủ trong vô thức của các bạn.
Đó là lí do tại sao ngay cả những người vĩ đại nhất,
chừng nào họ còn chưa đạt tới tính vĩ đại, vẫn còn
không nhận biết về năng lượng này. Mahavira, Phật,
Krishna và Jesus, không ai trong số họ đã nhận biết về
tiềm năng của mình khi họ chưa hiện thực hoá nó, khi
họ chưa đạt tới chiều cao của tính vĩ đại của họ.
Đó là lí do tại sao khi biến cố về việc thức tỉnh xảy
ra một cách vô nỗ lực, người thức tỉnh đi tới tin rằng đó
là món quà của ân huệ từ điều không biết. Họ tự hỏi làm
sao và khi nào món quà này tới họ. Và do vậy họ cảm
thấy rằng nó tới từ bất kì ai ở gần họ nhất. Nếu thầy là
người gần gũi nhất, họ sẽ nói nó là món quà từ thầy.

Còn nếu đối tượng gần gũi nhất là một thần tượng về
Thượng đế, và không phải là thầy, họ sẽ qui tất cả mọi
công lao cho chính thần tượng đó. Bất kì cái gì đi ngay
trước biến cố này - một Phật, hay Thượng đế trên trời -
sẽ được lấy làm cội nguồn. Nhưng sự kiện là ở chỗ nó
bao giờ cũng tới từ chính cội nguồn bên trong riêng của
họ. Nhưng bởi vì không nhận biết quá khứ của mình mà
họ qui cho tác nhân bên ngoài nào đó như thầy hay
Thượng đế, điều xảy ra gần nhất với biến cố đó.
Tôi tình cờ hôm vừa rồi mới đọc một câu chuyện.
Hai nông dân lên tàu hoả lần đầu tiên. Họ là cư dân của
một làng vùng núi non và họ được sinh ra vào cùng
ngày. Cho nên khi ngày sinh của họ tới, mọi người
trong làng nghĩ tới việc cho họ món quà sinh nhật nào
đó. Và khi đường ray tàu hoả vừa mới được dẫn tới
phần quê của họ, thì không thể có món quà nào tốt hơn
là một chuyến đi tàu hoả cho họ. Cho nên các nông dân
này nhận được hai vé tàu hoả từ làng mình, và bắt đầu
đi du lịch lần đầu tiên bằng tàu hoả.
Vì đó là kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với họ, họ
kích động và tò mò về mọi điều xảy ra trên đường của
mình. Một người bán nước ngọt ngẫu nhiên đi ngang
qua và họ quyết định mua một chai nước ngọt và nếm
thử nó. Họ đã quyết định cùng uống chai nước ngọt và
nếu họ thấy ngon, thì họ sẽ mua cho mình chai nữa.
Mua xong chai nước, một người trong số họ bắt đầu
uống phần của mình. Khi anh ta uống được nửa chừng
thì tàu hoả đi vào đường hầm. Vào lúc này anh bạn anh
ta trở nên lo âu về phần nước của mình và anh ta bảo
người kia đừng có uống hết. Bạn anh ta nói, "Vì
Thượng đế, xin anh đừng chạm vào nó; nó là chất độc
đấy! Tôi đã bị nó làm cho mù đây này!"
Khi tàu hoả đi vào đường hầm, trời trở nên tối mò
khắp xung quanh và người nông dân này nghĩ rằng
nước uống đã làm cho anh ta bị mù. Cho nên biến cố
gần nhất - việc uống - đã được coi là nguyên nhân cho
sự mù. Điều đó là tự nhiên. Cái gì đi ngay trước một
biến cố đều được lấy làm nguyên nhân cho nó.
Tương tự vậy, chúng ta không biết nguồn gốc thực
của năng lượng của mình. Và chừng nào còn chưa được
thức tỉnh, thì không có cách nào để biết được nó. Và
chúng ta không nhận biết liệu nó có thể sẵn có cho
chúng ta không, và bằng cách nào nó có thể có sẵn
được.
Phần thức tỉnh của năng lượng ngủ này, kunda,
được gọi là kundalini. Bản thân kunda là vô ý thức, nó
ngủ; nhưng kundalini là ý thức và thức tỉnh. Chỉ phần
của năng lượng này thức dậy và đi ra khỏi kunda mới
được biết là kundalini. Kundalini không phải là toàn thể
nó; đấy chỉ là con sóng nảy sinh ra từ bể này.
Cho nên cuộc hành trình này là việc thám hiểm hai
phần. Kundalini, năng lượng thức tỉnh, đưa bạn tới
những cái mới có cội nguồn rất lớn ẩn bên trong bạn với
những khả năng mênh mông. Một tia sáng mặt trời mở
ra khả năng cho vô hạn tia sáng tới trong sự thức dậy
của nó. Cho nên một phần nằm ở việc thức tỉnh
kundalini điều sẽ làm cho bạn nhận biết hoàn toàn về
quyền năng của thân thể bạn. Và qua việc thức tỉnh của
năng lượng này các bạn sẽ đi tới những trung tâm đó,
những cánh cửa đó của thân thể bạn, từ đó việc đi sang
đầu vô hình của thân thể, điều chúng ta gọi là linh hồn,
trở thành dễ dàng.
Cần phải hiểu điều này một cách rõ ràng và đầy đủ,
bởi vì bất kì điều gì chúng ta làm, thực sự đấy chính là năng lượng của chúng ta làm nó thông qua lối mở hay
trung tâm nào đó. Chẳng hạn, tai chúng ta là một lối mở
như vậy, qua đó chúng ta nghe được. Nếu tai bạn bị
bệnh, bạn sẽ không có khả năng nghe thấy gì, bởi vì
năng lượng này sẽ bị chặn lại không tới được tai, và nó
sẽ quay ngược trở về nguồn của nó. Và dần dần năng
lượng này sẽ dừng đi vào tai, bởi vì nó chỉ di chuyển tới
nơi nó có cơ hội trở thành tích cực. Cho nên năng lượng
này sẽ không còn chuyển tới tai nữa.
Mâu thuẫn có thể xảy ra nữa. Nếu một người bị điếc
và người đó rất muốn nghe từ ngón tay của mình, thì có
thể là ngón tay người đó sẽ bắt đầu nghe thấy. Có
những người hiện diện trên trái đất này nghe qua các cơ
quan thân thể không là tai. Và có những người nhìn thấy
được qua các cơ quan khác mắt. Thực sự đó là cái gì mà
bạn gọi là mắt?
Nó không là gì ngoài một phần của da bạn, với khác
biệt này - rằng từ thời xa xưa con người đã dùng phần
đặc biệt này của da của mình cho ý định nhìn. Chắc
phải là ngẫu nhiên mà con người đầu tiên đã dùng phần
đó của thân thể mình cho ý định này; người ta cũng có
thể đã dùng bất kì phần nào khác cho việc đó. Các sinh
linh khác thực sự dùng các phần khác và hệ quả là mắt
chúng xuất hiện ở các phần khác nhau của thân thể
chúng. Có con vật và chim chóc và sâu bọ đã phát triển
hai bộ mắt - một bộ là mắt thực và bộ kia là mắt giả.
Khi chúng nhìn bằng mắt thực của mình, chúng dùng
mắt giả để lừa kẻ thù. Trong trường hợp kẻ thù làm
thương tổn mắt chúng, mắt thật của chúng được cứu.
Một con ruồi rất bình thường trong nhà bạn có một
nghìn con mắt; một con mắt của nó thực sự là tuyển tập
của một nghìn mắt. Đó là lí do tại sao khả năng thấy của
ruồi khổng lồ và đáng ngạc nhiên. Một số cá thấy được
cả đuôi của chúng, bởi vì chúng sợ kẻ thù đánh chúng
từ đằng sau.
Nếu chúng ta làm một khảo cứu về mắt của tất cả
các sinh linh trên thế giới, chúng ta sẽ biết rằng không
nhất thiết là mắt phải ở nơi chúng hiện đang ở. Tương
tự, không có nghĩa đặc biệt nào trong việc có tai của
chúng ta theo cách chúng hiện hữu. Chúng thực sự có
thể ở bất kì chỗ nào. Vị trí của mắt và tai người là kết
quả của việc lặp lại vô số lần các hành động thấy và
nghe từ cùng một chỗ. Và hệ quả là kí ức của chúng đã
được khắc hoạ và cố định sâu sắc nhất vào tâm thức
chúng ta. Cho nên chúng được lặp lại một cách máy
móc và dễ dàng.
Ngay cả một trong nhiều giác quan chúng ta có mà
mất đi, chúng ta sẽ mất phần đó của thế giới vẫn được
làm có sẵn cho chúng ta qua nó. Nếu chúng ta mất mắt,
thế giới của ánh sáng sẽ bị mất đối với chúng ta; chúng
ta sẽ dừng kinh nghiệm ánh sáng. Thế thì chúng ta sẽ
không biết ánh sáng cho dù chúng ta có tai và tay và các
giác quan khác tốt.
Cho nên khi kundalini bắt đầu thức dậy và dâng lên,
nó sẽ gõ vào những cánh cửa mới của thân thể bạn,
không phải thông thường chút nào. Qua những giác
quan phi thường này - sau khi chúng được kích thích
bởi năng lượng của kundalini - bạn bắt đầu biết những
điều mà bạn không thể biết được qua các giác quan
thông thường. Nói một cách đúng đắn, kundalini bắt
đầu điểm và đánh thức các giác quan bên trong của bạn.
Ngay cả bây giờ cũng là qua năng lượng này của
kundalini mà mắt và tai và các giác quan bình thường
khác của bạn hoạt động. Nhưng đây là các cơ quan
ngoài cần một khối lượng năng lượng kundalini rất nhỏ để làm việc. Tăng thêm chút ít về khối lượng này, và
bạn sẽ có năng lượng phụ dùng để kích hoạt các trung
tâm khác nữa.
Chẳng hạn, nếu chúng ta rót một ít nước lên sàn ở
đây, nó sẽ tạo thành một kênh chảy nhỏ, để lại một vệt
đằng sau nó để nhiều nước hơn chảy theo. Nhưng nếu
khối lượng nước đổ ra tăng lên thật lớn, nó sẽ phá ra
thành nhiều kênh mới, bởi vì kênh cũ không thể một
mình nó chứa đựng được tất cả nước.
Theo nghĩa vật lí sâu sắc hơn, thức tỉnh của
kundalini nghĩa là bạn có nhiều năng lượng trong mình
tới mức các kênh cũ của bạn không có khả năng chứa
nó, và do vậy nó tìm kiếm không cưỡng lại được những
đại lộ mới và cửa mới. Kết quả là nhiều giác quan mới
và tinh tế bên trong bạn sẽ trở nên thức dậy và hoạt
động. Những trung tâm ngoại cảm này sẽ làm cho các
bạn thành có khả năng ngoại cảm và thấu thị; các bạn sẽ
bắt đầu thấy và nghe được những điều ở bên ngoài tầm
của mắt và tai bình thường của mình. Các bạn sẽ kinh
nghiệm những điều nào đó mà các giác quan thông
thường của bạn chẳng có liên quan chút nào. Các giác
quan mới này sẽ trở thành tích cực bên trong bạn. Và
kết quả sâu lắng nhất của việc tăng cường các giác quan
mới này sẽ là ở chỗ các bạn sẽ bắt đầu biết tới thế giới
vô hình nằm ẩn kín trong thân thể mình, vốn là phần
tinh tế nhất và không thể nhận thấy được của thân thể
bạn, và là điều chúng ta gọi là atman hay linh hồn. Cho
nên với việc thức tỉnh của kundalini các khả năng cho
trưởng thành của bạn sẽ được nâng cao lên rất nhiều.
Nhưng công việc phải bắt đầu với thân thể.
Có cách khác nữa mà tôi đã loại ra ngoài từ trước
tới nay. Tôi đã giải thích cho tới nay cho các bạn điều
nói chúng cần phải được làm để đánh thức kundalini;
nhưng kundalini không phải là toàn thể kunda hay bể.
Còn có cách khác mà tôi có thể phải nói với các bạn
một cách tách biệt. Rất ít người trên thế giới đã lấy con
đường này. Đấy không phải là con đường thức tỉnh
kundalini chúng ta đã quen thuộc, mà là được hội nhập
vào trong chính kunda. Điều đó không giống như việc
đánh thức một phần nhỏ của năng lượng này và dùng nó
cho sự phát triển; đó là vấn đề hội nhập toàn thể tâm
thức chúng ta vào trong kunda hay bể năng lượng
nguyên thuỷ. Trong biến cố đó sẽ không có kinh
nghiệm ngoại cảm nào cả, và ngay cả kinh nghiệm về
linh hồn cũng bị mất đi hoàn toàn. Trong biến cố đó,
người ta sẽ đương đầu trực tiếp và kinh nghiệm Thượng
đế, điều tối cao.
Qua việc đánh thức kundalini, kinh nghiệm đầu tiên
tới trên con đường của bạn là về linh hồn. Với nó, các
bạn nhận ra rằng linh hồn mình là tách biệt với linh hồn
của những người khác. Những người đã đạt tới bằng
việc thức tỉnh kundalini thường tin vào sự tồn tại của
nhiều linh hồn. Họ nói rằng có nhiều linh hồn như có
bấy nhiêu người đang sống trên trái đất, rằng mọi người
đều có linh hồn tách biệt. Nhưng những người đã hội
nhập bản thân mình trực tiếp vào trong kunda nói rằng
không có linh hồn, chỉ có Thượng đế; không có gì ngoài
Thượng đế. Họ nói chỉ có một, không có nhiều. Bởi vì
bằng việc nhận chìm bản thân mình vào trong kunda,
bạn không chỉ hội nhập với kunda riêng của mình, mà
còn hội nhập với kunda của tất cả, kunda tập thể, kunda
vũ trụ. Kunda là một. Không phải kunda của tôi và
kunda của bạn và kunda của anh ấy là những thực thể
tách biệt; nó là một và như nhau.

Đó là lí do tại sao năng lượng của kunda mênh
mông và vô hạn. Bạn có rút ra từ nó bao nhiêu năng
lượng cũng chẳng thành vấn đề, bạn không thể làm
giảm nội dung của nó cho dù chỉ là một giọt; nó cứ còn
đầy tràn và toàn thể. Bạn có thể rút ra bất kì lượng năng
lượng nào cho việc chi dùng của mình, điều đó chẳng
tạo ra khác biệt gì trong nội dung của nó; nó bao giờ
cũng đầy và không hề cạn. Nhưng cái chúng ta rút ra từ
nó chúng ta có khuynh hướng gọi là của riêng mình.
Điều đó cũng giống như lấy nước từ đại dương và cất
nó vào bình nhỏ tách biệt của chúng ta. Và chúng ta
nghĩ rằng nội dung của bình chứa của chúng ta là khác
với bình chứa của người khác. Nhưng nếu ai đó hội
nhập bản thân mình với toàn thể biển cả, người đó sẽ
nói rằng biển là một, rằng nước trong các bình khác
nhau đều là một phần của cùng một biển, và nó sẽ trở
lại cội nguồn của nó lần nữa. Bạn không thể giữ nó tách
rời khỏi biển lâu được. Chẳng mấy chốc nước trong
bình sẽ bay hơi trong nhiệt của mặt trời, thế rồi biến
thành mây, và trở lại biển dưới dạng mưa. Thực sự nó
đã không bị tách rời khỏi cội nguồn của nó, nó không
thể thế được.
Những người tìm kiếm làm việc qua đánh thức
kundalini đều có kinh nghiệm ngoại cảm, vốn là những
kinh nghiệm thực sự phi thường và duy nhất. Chúng
thực sự là phiêu diêu. Và những người này đi tới nhận
ra linh hồn chỉ là một phần của Thượng đế, hay điều tối
cao. Do vậy họ cố gắng nhận ra cái toàn thể qua bộ
phận của nó. Điều đó giống như những người khác nhau
chạm tới đại dương mênh mông từ những bến bờ khác
nhau và xa cách của nó. Tôi có thể chạm tới cùng đại
dương từ bờ này; các bạn nữa, có thể chạm tới từ bờ
khác xa bờ của tôi hàng triệu dặm. Nhưng làm sao tôi
có thể tin được rằng bạn đã đạt tới cùng biển cả như tôi
đã đạt tới? Tôi đang chạm tới một bờ của nó mà tôi nghĩ
là của tôi - một đại dương tách biệt - còn bạn đang chạm
tới một bờ khác mà bạn nghĩ là của bạn - một đại dương
tách biệt. Điều đó cũng giống như tôi coi Ấn Độ dương
là của tôi, bạn coi Đại Tây dương là của bạn, và người
thứ ba coi Thái Bình dương là của người đó.
Nhưng trong thực tế tất cả mọi đại dương đều được
thống nhất và là một. Đó thực sự là một đại dương toàn
cầu bao la. Nhưng khó mà biết được nó chừng nào
chúng ta còn tiếp cận tới nó một cách manh mún; thế thì
chúng ta sẽ không biết một đại dương bao la. Thay vì
thế, chúng ta sẽ chia rẽ và phân ranh giới nó theo cái
nhìn giới hạn của mình về nó. Không chỉ đại dương
đâu, chúng ta sẽ phân chia cả bờ nữa.
Cho nên kinh nghiệm về linh hồn cũng tựa như việc
chạm vào đại dương từ một góc đặc biệt của nó. Và
điều này có thể tới bằng việc đánh thức chỉ một chút ít
năng lượng bao la này. Do đó việc trở thành cần thiết
cho người tìm kiếm đã đạt tới trên con đường này là
phải được chuẩn bị để làm mất linh hồn nữa, để siêu
việt lên trên nó và vượt ra ngoài. Bằng không thì cuộc
hành trình này sẽ bị cản trở, bởi vì nó vẫn chưa đầy đủ.
Nhận ra linh hồn không phải là cái toàn thể của nó;
người đó sẽ phải làm mất cả linh hồn nữa, và lấy cú
nhảy vào trong kunda. Nhưng thế thì điều đó trở thành
dễ dàng; nó dễ dàng hơn.
Nhiều lần đường dài chứng tỏ là đường dễ dàng
hơn, còn đường tắt hoá ra khó nhất. Và có lí do cho điều
đó, và toàn lí do chính đáng cả. Đường dài bao giờ cũng
là con đường dễ dàng hơn. Bây giờ, nếu tôi phải tới gần
bản thân mình hơn thì tôi sẽ phải làm như vậy qua trung gian của người khác. Nếu tôi muốn thấy hình ảnh riêng
của mình thì sẽ cần phải có sự giúp đỡ của tấm gương.
Dường như đấy là con đường dài và ngoằn ngoèo không
cần thiết, vì hình ảnh của tôi đi vào trong gương và thế
rồi trở lại tôi dưới dạng phản xạ của nó, cho nên tôi có
thể thấy khuôn mặt riêng của mình. "Sao đi đường vòng
dài thế?" người ta có thể hỏi. Nhưng không có cách
khác hơn thế này.
Mặc dầu khuôn mặt của tôi là gần tôi nhất, vậy mà
với cùng lí do này việc nhìn trực tiếp vào nó là điều khó
nhất.
Cho nên trong khi con đường của thức tỉnh một
phần của năng lượng kundalini chắc chắn tạo ra con
đường dài, điều đó gần như không tránh khỏi. Đó là
cách toàn thể thế giới các giác quan bên trong mở ra và
chúng ta đạt tới cái ta, hay linh hồn. Và từ đó bước nhảy
lượng tử trở thành điều cần phải có. Thực sự chính con
đường vòng dài này làm cho bước nhảy lượng tử được
trơn tru và dễ dàng. Bởi vì chính sau đó mà phúc lạc của
việc tự hiểu ra - điều tới qua việc biết về chính mình -
bắt đầu mời chào và thôi thúc người ta phấn đấu cho cái
cao nhất của phúc lạc.
Chắc chắn có phúc lạc trong việc biết và hiểu bản
thân mình, nhưng phúc lạc của việc làm mất bản thân
mình là cao nhất. Nó là phúc lạc tối cao. Sau khi bạn đã
biết tới bản thân mình, chỉ còn lại một loại đau: đó là
đau của cái ta, đau của việc biết rằng bạn hiện hữu. Với
việc đạt tới cái ta thì tri thức về tất cả mọi nỗi đau sẽ
biến mất, nhưng một nỗi đau sẽ vẫn còn theo đuổi bạn;
và đó là nỗi đau của việc hiện hữu. Bây giờ bạn sẽ tự
hỏi mình: "Sao lại thế này, sự hiện hữu của mình?" Bây
giờ bạn biết rằng hiện hữu cũng là không cần thiết và
đau đớn. Và thế rồi bạn sẽ lấy bước nhảy từ hiện hữu
vào vô hiện hữu. Một ngày nào đó bạn sẽ nói: "Bởi vì
tôi đã biết hiện hữu nên tôi muốn biết cả vô hiện hữu
nữa. Bởi vì tôi đã biết ánh sáng, tôi muốn biết cả bóng
tối nữa."
Dù ánh sáng có bao la thế nào, nó vẫn có giới hạn
của nó; nhưng bóng tối là vô giới hạn. Hiện hữu chắc
chắn có ý nghĩa lớn lao, vậy mà nó vẫn bị giới hạn; vô
hiện hữu là vô hạn vô cùng.
Mọi người không hiểu Phật bởi chính lí do này. Khi
ai đó hỏi ông ấy, "Tôi sẽ vẫn sống ở đó trong moksha
hay tự do chứ?" ông ấy nói, "Không, ông sẽ không sống
sót đâu; chính ông mới thực sự được tự do khỏi bản
thân mình." Thế rồi người đó hỏi thêm, "Cứ giả dụ là
trong moksha mọi thứ khác đều sẽ ra đi - ham muốn,
đau khổ và tội lỗi sẽ ra đi; nhưng thế còn hiện hữu của
tôi thì sao? Tôi sẽ không sống trong dạng nguyên thuỷ
của mình chứ?" Với điều này Phật nói, "Làm sao ông có
thể sống được? Sau khi các ham muốn, đau đớn và tội
lỗi đã biến mất, một đau đớn sẽ vẫn còn lại - đau của sự
hiện hữu. Thế thì chính sự hiện hữu của ông sẽ bắt đầu
làm đau ông."
Điều thú vị là biết rằng sau khi dừng các ham muốn
lại, chính sự hiện hữu của bạn bắt đầu làm phiền bạn,
làm đau bạn. Chừng nào bạn còn ham muốn, hiện hữu
dường như không gây ra cảm giác khó chịu nào, vì bạn
giữ cho sự hiện hữu của mình bị bận rộn với cái gì đó
này khác. Nếu các bạn theo đuổi tiền bạc, sự hiện hữu
của bạn bị bận rộn với việc làm tiền. Và nếu bạn muốn
uy tín và danh vọng, sự hiện hữu của bạn bị bận rộn với
việc kiếm uy tín và danh vọng cho bạn. Nhưng bạn sẽ
làm gì với sự hiện hữu của mình khi ham muốn của bạn về tiền đã từ bỏ bạn, khi bạn sẽ dừng ao ước địa vị và
tiếng tăm, khi ngay cả ham muốn dục cũng mất đi, và
bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có cái gì để làm, khi bản thân
việc làm sẽ dừng lại? Thế thì lúc đó sự hiện hữu của bạn
sẽ bắt đầu chì chiết bạn trực tiếp. Thế thì sự hiện hữu sẽ
quấy rối bạn và bạn sẽ đi tới cảm nhận rằng bạn không
cần nó. Chính vì tình huống này mà Phật nói, "Không,
sẽ không có gì còn lại cả. Sau việc tắt của ngọn đèn,
ngọn lửa đi đâu?"
Mãi cho tới thời ông ấy chết mọi người vẫn liên tục
hỏi Phật, "Điều gì xảy ra cho tathagata sau cái chết của
ông ấy? Điều gì sẽ xảy ra sau khi thầy sẽ chết?" Và Phật
bao giờ cũng nói, "Cái gì có đó để xảy ra sau khi ta
không còn nữa? Chẳng cái gì còn lại cả; giống như ngọn
đèn tàn lụi đi, mọi thứ sẽ tàn lụi đi. Các ông đừng bao
giờ hỏi điều gì xảy ra cho ngọn lửa sau khi ngọn đèn tàn
lụi đi. Khi ngọn lửa mất rồi, thì nó mất rồi."
Cho nên việc đạt tới linh hồn chỉ là một giai đoạn
trong việc chuẩn bị để làm mất đi linh hồn. Chúng ta
thu được nó chỉ để làm mất nó lúc chung cuộc. Nhưng
điều đó còn dễ dàng hơn nữa. Bởi vì nếu bạn hỏi trực
tiếp một người mà ham muốn của người này vẫn còn
sống động trong việc tự chìm mình vào trong kunda,
làm mất bản thân mình hoàn toàn, thì người đó không
thể làm được như vậy; người đó sẽ nói điều đó là không
thể được. Người đó sẽ nói rằng vì người đó có nhiều
điều quan trọng cần làm, người đó không thể đảm
đương được việc làm mất bản thân mình.
Tại sao chúng ta sợ làm mất bản thân mình thế?
Chúng ta sợ bởi vì bao giờ cũng có nhiều điều cần được
làm đến mức nếu chúng ta làm mất bản thân mình, mọi
sự sẽ vẫn còn không được làm, không đầy đủ. Chẳng
hạn, tôi phải xây cho mình ngôi nhà mà vẫn chưa xong,
và tôi nghĩ tôi sẽ sẵn sàng làm mất bản thân mình sau
khi hoàn thành cái nhà này. Và đến lúc ngôi nhà này
được hoàn thành, một số dự án và công việc chưa hoàn
thành khác sẽ bộc lộ chúng ra. Ham muốn làm thực sự
là ham muốn hoàn thành cái gì đó, và đó là điều thúc
giục chúng ta làm tiếp. Do đó chừng nào mà ham muốn
của người ta còn có đó, thì không thể nào đánh mất linh
hồn của người ta được, mặc dầu việc đánh mất linh hồn
người ta là cách trực tiếp tạo ra con đường ngắn nhất.
Làm sao người đó, người có ham muốn còn nguyên vẹn
có thể đánh mất được linh hồn của mình? Tất nhiên, nếu
ham muốn của người đó biến mất, người đó có thể sẵn
sàng đánh mất linh hồn nữa; bởi vì bây giờ người đó sẽ
không ích gì cho linh hồn.
Chẳng hạn, nếu bạn yêu cầu ai đó có khổ sở vẫn
đang tiếp diễn bỏ phúc lạc của mình đi, người đó sẽ nói
bạn đơn giản điên. Nhưng nếu khổ của người đó bỏ
người đó và người đó được bỏ lại với phúc lạc một
mình, thế thì người đó có thể chuẩn bị cho mình để từ
bỏ cả phúc lạc nữa. Với ham muốn mất đi, người đó sẽ
làm gì với phúc lạc? Và biến cố lớn lao xảy ra chỉ khi
người ta sẵn sàng từ bỏ cả phúc lạc nữa. Bất kì ai cũng
đều sẵn sàng từ bỏ nỗi buồn; nhưng một thời điểm sẽ tới
trong các kiếp sống của chúng ta khi chúng ta được
chẩn bị để sẵn lòng từ bỏ bản thân phúc lạc nữa. Và đó
là điều đưa tới sự tan biến của người ta và thống nhất
với sự hiện hữu tối cao.
Điều này có thể xảy ra trực tiếp nữa; người ta có thể
đi vào kunda trong một thoáng lướt nhanh. Tuy nhiên
rất khó để tự chuẩn bị cho điều đó ngay một lúc; việc
chuẩn bị dần dần do đó là con đường dễ dàng hơn.


Khi việc ham muốn biến mất, khi tâm trí dừng lại,
khi việc làm đi tới chấm dứt, khi tất cả mọi đồ dùng sân
khấu của bạn mà bạn đã sống với chúng rơi rụng đi, thế
thì đến cuối chỉ bạn còn lại không có cơ sở gì, không có
hỗ trợ gì. Chỉ thế thì bạn mới tự nói với mình, "Bây giờ
chẳng ích gì mà cứu lấy cái ta này; bây giờ mình có thể
buông bỏ cả nó nữa." Thế thì bạn tự nhấn chìm mình
vào trong kunda và hội nhập với nó. Việc hội nhập này
với kunda được gọi là niết bàn, hay tự do.
Nếu người nào đó muốn nhảy trực tiếp vào trong
kunda, thì kundalini không tới trên con đường của
người đó. Đó là lí do tại sao một số con đường tâm linh
không nói về kundalini; bởi vì điều đó là không cần
thiết. Những người được dạy hội nhập trực tiếp vào
kunda cho rằng không cần thiết phải nói tới kĩ thuật
đánh thức kundalini. Nhưng kinh nghiệm của riêng tôi
nói rằng những con đường trực tiếp không thể có tác
dụng. Chúng có thể có tác dụng cho một hay hai cá
nhân hiếm hoi, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề gì
mấy. Một bông hoa không tạo ra mùa xuân. Do đó,
người ta phải trải qua con đường dài hơn.
Nhiều lần người ta phải gõ vào cửa của nhiều nhà
khác để về tới nhà riêng của mình. Chỉ để về tới ngôi
nhà riêng của mình, bạn có thể trước hết phải đi qua nhà
của những người khác. Để biết khuôn mặt riêng của
mình bạn có thể trước hết phải biết nhiều khuôn mặt
khác. Và trước khi bạn đi tới yêu mến bản thân mình
bạn phải yêu nhiều người khác. Yêu bản thân mình
dường như đơn giản thế. Khó khăn gì có đó trong việc
yêu bản thân mình? Ai ngăn cản bạn trong việc yêu bản
thân mình? Quyền duy nhất là bạn phải về thẳng nhà.
Nhưng thực tế điều đó không xảy ra theo cách đó.
Trong thực tế, rất khó tìm ra ngôi nhà riêng của người ta
trước khi người ta đã tới thăm nhiều nhà của những
người khác. Và chừng nào người ta còn chưa cầu xin
tình yêu của người khác và chưa trao tình yêu của riêng
mình cho họ, người ta còn chưa đi tới biết rằng câu hỏi
thực là việc yêu mến bản mình.
Về kundalini tôi nói rằng nó là sự chuẩn bị của thân
thể; nó thực sự là việc chuẩn bị để đi vào vô thân thể, để
đi vào tâm linh, linh hồn. Và bạn không thể đi vào linh
hồn với khối lượng năng lượng hiện đang sẵn có cho
bạn, bởi vì nó chỉ đủ đưa bạn qua những việc vặt hàng
ngày của cuộc sống. Trong thực tế nó còn không đủ cho
cả điều này nữa; nó đạm bạc tới mức đến cuối ngày bạn
cảm thấy gần như kiệt sức. Năng lượng sẵn có không đủ
ngay cả cho nhu cầu hàng ngày của chúng ta; việc cung
cấp của nó nghèo nàn thế. Cho nên với năng lượng đạm
bạc này bạn không thể đạt tới linh hồn được; vấn đề này
đơn giản không nảy sinh.
Chính bởi lí do này mà khái niệm về sannyas mới đi
vào hiện hữu. Nó đi vào hiện hữu với quan điểm để bảo
tồn năng lượng của bạn bằng việc giải phóng chúng ta
khỏi các hoạt động gia đình, bởi vì chúng ta có khối
lượng năng lượng rất hạn chế trong tay. Năng lượng này
phải được chuyển kênh sang hướng khác nào đó; nó
phải được dùng cho ý định cao hơn nào đó. Cho nên
những người tìm kiếm đã hô hào đóng các cửa hàng và
trốn khỏi bãi chợ, trốn khỏi thế giới.
Với tôi, thái độ này là sai lầm. Năng lượng ít ỏi mà
chúng ta chi dùng trong cuộc sống hàng ngày của mình
không đáng tiết kiệm, bởi vì chúng ta sẽ phải chi dùng
nhiều năng lượng trong việc tiết kiệm nó. Ngay cả để
tiết kiệm năng lượng, người ta cũng phải chi dùng năng
lượng. Nhiều lần, bạn không dùng nhiều năng lượng để diễn đạt giận dữ như bạn làm trong việc kìm nén nó.
Đôi khi bạn phải dùng nhiều năng lượng để tránh đánh
nhau hơn là bạn đã dùng trong chính việc đánh nhau.
Cho nên tôi không coi nó là cách đúng; nó là cách thức
của kẻ keo kiệt.
Đây là tính chất sannyas sao? Đó là cách thức của
những người keo kiệt - tiết kiệm chút ít từ điều chúng ta
có, mà bản thân nó quá nghèo nàn. Cách tiếp cận keo
kiệt này chẳng ích lợi gì. Thay vì tiết kiệm chút ít năng
lượng tại đây và chút ít tại kia, chúng ta nên đánh thức
nhiều năng lượng đang ngủ - cái tràn đầy, cái vô hạn.
Tại sao tiết kiệm năng lượng? Đánh thức nó ngày
một nhiều hơn đi. Nếu bạn phải dùng nhiều năng lượng
hơn, rút nó từ bản thân kho dự trữ, cái vô giới hạn. Bạn
có nhiều đến mức bạn không thể dùng được tất cả nó
cho dù bạn muốn dùng; cho nên sao bận tâm tới việc
tiết kiệm nó?
Bây giờ một người sợ rằng nếu người đó yêu vợ
mình thì người đó không thể yêu được Thượng đế; bởi
vì người đó nghĩ rằng chút ít năng lượng mà người đó
có sẽ bị dùng hết trong việc yêu vợ mình. Cho nên
người đó quyết định tiết kiệm nó bằng việc chạy xa vợ
mình. Nhưng để tiết kiệm năng lượng người đó sẽ phải
tranh đấu với bản thân mình, điều này làm tốn năng
lượng của người đó. Bên cạnh đó, bạn có thể đạt tới
Thượng đế bằng chút ít năng lượng mà bạn dùng để yêu
vợ mình được không? Nó hiếm tới mức nó thực sự
không thể đưa bạn ngay cả tới với vợ bạn, cứ gạt riêng
mình Thượng đế ra. Nó không bao giờ có thể đưa bạn
tới Thượng đế được.
Tôi muốn nói rằng điều đó là cực kì điên khùng về
phần bạn - nghĩ tới việc xây cây cầu giữa bạn và cái vô
hạn bằng khối lượng năng lượng nhỏ mọn chẳng đủ để
bắc cầu cho bạn tới với người yêu của mình. Bạn cũng
nhận biết về tính không thích hợp hoàn toàn của nó
ngay cả trong các quan hệ nhỏ mọn của mình. Thời gian
qua đi và nó làm phai dần bạn, ngay cả trong nỗ lực của
bạn để đạt tới trái tim người yêu của mình.
Cho nên vấn đề không phải là tiết kiệm năng lượng;
vấn đề là đánh thức năng lượng lớn đang nằm ngủ bên
trong bạn. Và năng lượng này là vô hạn không tính nổi,
nó đơn giản không bao giờ cạn kiệt. Và một khi nó bắt
đầu thức tỉnh, nó càng thức tỉnh thì càng có khả năng
thức tỉnh nó thêm nữa; nó cứ mở ra mãi. Một khi đã
được bắt đầu, dòng suối năng lượng này bao la và vô
tận đến mức bạn không bao giờ vét cạn được nó. Nói
cách khác, không bao giờ có một khoảnh khắc trong đời
bạn mà bạn có thể nói rằng bây giờ không còn gì nữa để
được đánh thức.
Khả năng của việc đánh thức là vô hạn; bạn có thể
rút ra khối lượng năng lượng bất kì từ kho dự trữ vô hạn
này. Và bạn càng rút từ nó ra nhiều thì bạn càng trở nên
mạnh mẽ hơn để đánh thức ngày một nhiều hơn năng
lượng lớn lao này. Và khi bạn đã có dư thừa về năng
lượng bên trong này trong quyền sử dụng của mình, chỉ
thế thì bạn mới có thể dùng nó trong cuộc truy tìm cái
không biết. Và cũng chỉ thế thì bạn mới có thể mạo
hiểm bước đi trên con đường không biết và chưa hề
được vẽ bản đồ. Các bạn có hiểu điều tôi đang nói
không?
Có một loại giàu có khác trong thế giới bên ngoài
nữa. Một người đã tích luỹ của cải dư thừa và bây giờ
người đó nghĩ tới việc làm một chuyến đi lên mặt trăng.
Đi lên mặt trăng là vô nghĩa; chẳng có gì để thu được cả. Nhưng chẳng có gì sai về điều đó; bởi vì chẳng có gì
để mất cả. Người đó có nhiều đến mức người đó có thể
dễ dàng đảm đương được việc đó.
Chừng nào bạn không có thừa thãi của cải - bạn chỉ
có đủ cho việc sử dụng hàng ngày của mình hay thậm
chí còn thiếu - bạn sẽ giữ cái nhìn nghiêm ngặt vào việc
chi tiêu của mình; bạn sẽ nghĩ hai lần trước khi tiêu
ngay cả một đồng xu. Và do đó bạn sẽ không bao giờ
bước ra khỏi thế giới đã biết. Đi vào trong điều không
biết bạn cần năng lượng thừa thãi, dư thừa năng lượng.
Và kundalini sẽ rót đầy bạn bằng sự thừa thãi đó. Thế
thì bạn có nhiều tới mức vấn đề nảy sinh là làm sao
dùng được nó và dùng ở đâu.
Và nhớ lấy, khi bạn có năng lượng thừa thãi, bạn
bỗng nhiên thấy rằng tất cả các kênh năng lượng cũ đều
hoàn toàn bị tắc nghẹt; vì chúng bây giờ không có khả
năng nhận nhiều thế, chúng không được dự định cho
điều đó. Cũng giống như đại dương đã rơi vào trong
một dòng sông nhỏ, quét sạch dòng sông này khỏi sự
tồn tại ngay tức khắc. Dòng sông sẽ không bao giờ biết
chỗ nó đã bị biến mất và biến mất như thế nào. Các
kênh cũ của giận dữ của bạn, của dục của bạn và phần
còn lại của nó bỗng nhiên sẽ bị tắc nghẹt và biến mất.
Cái ngày trận lụt năng lượng sẽ dâng lên, nó sẽ nghiền
nát và phá huỷ tất cả những cầu tàu và bến bờ cũ của
nó. Bạn bỗng nhiên sẽ thấy rằng cái gì đó hoàn toàn mới
và khác biệt đã đi vào sự hiện hữu. Và bạn sẽ tự hỏi
điều gì đã xảy ra cho tất cả những việc tiết kiệm nhỏ bé
của mình và sự keo kiệt của mình và việc sống bủn xỉn
của mình. Những nỗ lực yếu ớt của bạn - như thực hành
vô dục và kìm nén giận dữ và làm cái này cái nọ - sẽ
biến mất vào trong thinh không, bởi vì các kênh và
dòng sông cũ đã biến mất và toàn thể đại dương đã xuất
hiện trong khung cảnh từ bây giờ ở đây.
Và khi bạn không còn cách nào khác để dùng năng
lượng mênh mông này, bạn bỗng nhiên thấy rằng năng
lượng này đã lập ra cuộc hành trình hoàn toàn khác. Bởi
vì cuộc hành trình này phải tiếp diễn không ngừng mãi;
nó không bao giờ có thể đi tới chỗ dừng được. Năng
lượng sẽ cứ chuyển động; nó không thể dừng được.
Cuộc hành hương này kéo dãi vĩnh viễn.
Vấn đề chỉ là đánh thức năng lượng này một lần
thôi. Thế rồi những cách sống cũ của bạn trở thành vô
nghĩa, và nhiều điều không biết và những cánh cửa
không quen thuộc, vẫn đóng im ỉm qua nhiều thời đại,
bắt đầu nhường đường cho năng lượng đang xô tới này.
Và bắt đầu có việc bạn kinh nghiệm ngoại cảm. Và
ngay khi những cánh cửa ngoại cảm mở ra bạn bắt đầu
nhận biết về phần vô thân thể của thân thể, điều có thể
được gọi là linh hồn hay tâm linh.
Cho nên kundalini là việc chuẩn bị của thân thể để
đi vào vô thân thể, linh hồn. Chính theo nghĩa này mà
tôi đã nói như vậy ở Nargol.
Người hỏi: khi nói về việc đi lên và đi xuống của
năng lượng kundalini, thầy nói rằng việc đi lên của
nó ở trước việc đi xuống. Liệu việc đi xuống của nó
có hệt như việc đi xuống hay hội nhập vào kunda
hay nó là cái gì đó khác? Xin thầy giải thích hiện
tượng đi lên và đi xuống. Thực tế, việc hội nhập vào kunda không phải là đi
xuống không phải là đi lên; nó không thuộc vào loại nào
cả. Vấn đề không phải là lên và xuống; đấy chỉ là vấn
đề biến mất, vấn đề dừng hiện hữu. Khi một giọt nước
rơi vào trong đại dương, nó không lên hay xuống, nó
chỉ biến mất vào trong đại dương. Tất nhiên, khi giọt
nước khô đi trong nhiệt mặt trời, nó chắc chắn bay lên
trời dưới dạng hơi nước. Và khi nó tiếp xúc với khí
lạnh, hơi nước biến thành mây; nó xuống đất dưới dạng
mưa. Nhưng cuộc hành trình của nó tới biển thì không
lên không xuống; nó đơn giản hội nhập, biến mất, chết
đi trong đại dương.
Cho nên câu hỏi về lên và xuống nảy sinh theo một
nghĩa rất khác biệt. Chính theo nghĩa này mà nhiều lần
năng lượng chúng ta dâng lên phải được đưa trở về
kunda, về bể. Chúng ta dâng năng lượng lên và đồng
thời chúng ta trả nó về cội nguồn, lặp đi lặp lại. Và cần
phải làm như vậy bởi nhiều nguyên nhân. Một nguyên
nhân lớn là ở chỗ thường khối lượng năng lượng được
đánh thức lại nhiều hơn điều chúng ta có thể chịu đựng
được, và do vậy nó phải được gửi trả lại cội nguồn của
nó; bằng không thì nó có thể tỏ ra nguy hiểm.
Năng lượng nào đó, nếu nó nhiều hơn điều chúng ta
có thể nhận... Khả năng của chúng ta mang được một
thứ nào đó là có giới hạn; ngay cả khả năng của chúng
ta để mang hạnh phúc cũng bị giới hạn. Cả khả năng
của chúng ta chịu đau đớn và quyền lực cũng bị giới
hạn. Và nếu cú sốc của hạnh phúc hay đau đớn hay
quyền lực xô tới mà nhiều hơn khả năng chúng ta có thể
nhận, thế thì các cơ quan thần kinh của chúng ta có thể
bị đánh thủng. Và điều này sẽ rất có hại. Đó là lí do tại
sao nhiều lần năng lượng quá nhiều đã phải trả lại về
cội nguồn của chúng. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào các
kĩ thuật. Điều đó không nhất thiết trong trường hợp kĩ
thuật mà tôi đang nói tới. Có những kĩ thuật đánh thức
năng lượng ngay lập tức và bất thần; chúng được gọi là
các kĩ thuật của đốn ngộ. Và bao giờ cũng có nguy hiểm
cố hữu trong việc thực hành những kĩ thuật như vậy, bởi
vì việc năng lượng xô tới có thể thành quá nhiều đến
mức bạn không chịu nổi; bạn có thể không được chuẩn
bị cho điều đó. Điện thế của nó có thể cao tới mức ngọn
đèn của bạn có thể bị tắt ngóm, hay cầu chì của bạn có
thể đứt, hay quạt của bạn có thể bị cháy, hay xe của bạn
có thể bốc cháy. Nhưng kĩ thuật mà tôi cho các bạn ở
đây không bị nguy hiểm này; ban đầu nó tạo ra tiềm
năng trong bạn và thế rồi đánh thức năng lượng của bạn.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Nếu một chiếc
đập lớn bục ra, nó sẽ gây ra rất nhiều hư hỏng. Nhưng
nước của cũng cái đập ấy có thể được chuyển kênh theo
cách có điều tiết và tuân theo nhu cầu của người dùng.
Một biến cố duy nhất xảy ra trong cuộc đời của
Krishnamurti. Trong thời vị thành niên của mình, ông
ấy đã bị một số người đặc biệt thuộc vào thông thiên
học buộc phải trải qua toàn bộ kỉ luật kundalini. Một số
thực nghiệm đã được thực hiện trên ông ấy, nhưng ông
ấy bây giờ không còn kí ức rõ ràng về chúng. Ông ấy
không nhận biết về điều ông ấy đã phải trải qua. Ông ấy
chỉ trở nên nhận biết khi đại dương của chứng ngộ đã đi
vào kênh chính là ông ấy. Đó là lí do tại sao ông ấy
không có tri thức về pha chuẩn bị cho cuộc sống tâm
linh của mình.
Và do vậy ông ấy không chấp nhận rằng bất kì việc
chuẩn bị nào cũng là cần thiết cho chứng ngộ. Nhưng sự
kiện là ở chỗ ông ấy đã được chuẩn bị cho điều này theo
cách lớn lao, điều chưa bao giờ xảy ra trên trái đất này trước ông ấy. Thực tế cũng có một số người đã làm
công việc chuẩn bị, nhưng họ đã tự mình làm nó. Tại
đây lần đầu tiên những người khác đã làm việc này cho
Krishnamurti. Họ thực sự đã làm việc trên ông ấy.

Người hỏi: Người khác có thể thực sự làm điều đó
được không?

Một cách tuyệt đối, những người khác có thể làm
được điều đó, bởi vì theo nghĩa sâu sắc nhất thì người
khác không phải là người khác. Những người với chúng
ta có vẻ như là người khác thì lại không phải vậy. Cho
nên người khác đã làm những chuẩn bị này, và họ đã
làm như vậy vì một nguyên nhân vĩ đại, để hiện thực
hoá một biến cố lớn lao. Nhưng biến cố này đã không
thể được hiện thực hoá; thực nghiệm này bị tịt.
Biến cố mà các nhà thông thiên học đã chuẩn bị là
việc đến, việc đi vào của một linh hồn vĩ đại, vì điều đó
mà Krishnamurti đã được chọn lựa làm phương tiện.
Krishnamurti chỉ bị sử dụng như phương tiện, và ông ấy
đã được chuẩn bị cho ý định này. Với ý định này các
kênh tâm linh đã được đào bới ra và năng lượng đã
được đánh thức qua trung gian của Krishnamurti.
Nhưng điều này chỉ mới là phần sơ bộ của công việc.
Chừng nào còn có liên quan tới Krishnamurti, ông ấy
không phải là mục đích của dự án, ông ấy chỉ được
dùng như phương tiện. Đó là vấn đề tạo ra chỗ trong
ông ấy để một linh hồn khác nào đó tới và thường trú.
Nhưng điều đó không thể thành công được; nó đã thất
bại.
Dự án này thất bại bởi vì khi sự việc tới,
Krishnamurti đã từ chối là phương tiện; ông ấy đã từ
chối đóng vai trò trung gian cho ai đó khác. Người ta sợ
rằng ông ấy sẽ làm như vậy. Nỗi sợ như vậy bao giờ
cũng có đó, và đó là lí do tại sao những thực nghiệm
như vậy chưa bao giờ được thực hiện trong quá khứ.
Nỗi sợ này là thực; bởi vì khi một người đi tới trạng thái
mà người đó có thể là chỗ chấm dứt cho bản thân mình,
thì sao người đó phải đồng ý là phương tiện cho ai đó
khác? Krishnamurti đã từ chối vào giờ cuối cùng.
Điều đó cũng giống như thế này: tôi đưa bạn chiếc
chìa khoá ngôi nhà tôi để cho bạn có thể chuẩn bị nó
cho một người khách được dự định tới đây vào ngày
mai. Nhưng sau khi tôi trao tay cho bạn chiếc chìa khoá
và rời khỏi nhà, bạn trở thành người chủ. Bạn rất có thể
từ chối đón người khách vào ngôi nhà này với lời tự
biện bạch rằng bạn là chủ của nó, chiếc chìa khoá đang
ở cùng bạn. Chiếc chìa khoá này được ai đó khác làm
ra, và ai đó khác đã xây dựng ngôi nhà này nữa. Và mặc
dầu bạn có chìa khoá, bạn vẫn không có tri thức về cách
làm khoá hay cách ngôi nhà đã được xây dựng. Nhưng
vì bạn sở hữu chiếc khoá và bạn biết cách mở ngôi nhà,
nên vấn đề chấm dứt ở đó.
Điều như vậy đã xảy ra. Một số người có thể được
chuẩn bị, và một số người khác tới đã được chuẩn bị từ
các kiếp trước của họ. Nhưng đây không phải là vấn đề
bình thường. Thông thường, mọi người đều phải tự
chuẩn bị cho chính mình. Và điều duy nhất đúng là việc
chuẩn bị phải tới trước và việc xảy ra chứng ngộ tới sau
đó. Nhiều nước hơn phải chảy vào trong kênh chỉ khi
khả năng tiếp nhận của nó tăng lên.


Phải hết sức chăm chú rằng năng lượng này được
đánh thức chỉ theo tỉ lệ với khả năng tiếp nhận của bạn,
không bao giờ nhiều hơn thế. Có những kĩ thuật đưa tới
việc xả ra năng lượng quá mức. Đó là cách nhiều người
đã bị phát điên và tẩu hoả nhập ma. Và chính bởi vì
những thực hành như vậy mà mọi người trở nên rất sợ
tôn giáo.
Cho nên chúng ta có thể có hai cách đánh thức năng
lượng và không có mấy khó khăn về nó.
Tôi định kể cho các bạn một kinh nghiệm gần đây
của Mĩ - từ việc quản lí nguồn cấp điện của họ - làm sao
nhiều lúc các kế hoạch của chúng ta cứ bị thất bại. Tình
huống như vậy có thể nảy sinh ngay cả trong phạm vi
nội bộ cuộc sống chúng ta. Ở Mĩ họ có 80 cơ quan được
tổ chức ra để phân phối điện sao cho nếu điện dư thừa ở
thị trấn đặc biệt nào đó - nếu vào đêm đặc biệt nào đó
thị trấn này dùng ít điện hơn hạn ngạch đã được phân bổ
- thì lượng điện thừa này được tự động truyền sang thị
trấn khác nơi đang cần. Điều đó ngụ ý rằng ngay cả một
lượng năng lượng điện nhỏ cũng không được phép còn
đó không được dùng tới tại bất kì chỗ nào; nó ngay lập
tức được truyền sang chỗ khác cần dùng nó.
Chẳng hạn, một nhà máy làm việc mãi tới tối hôm
qua đã đóng cửa ngày hôm nay do chuyện bất ổn lao
động, và nó sẽ không dùng năng lượng đã được cấp cho
nó. Rồi có thị trấn khác nơi một nhà máy có thể đang
nằm chơi nhàn rỗi vì thiếu năng lượng. Cho nên họ đã
tổ chức nó theo cách điện bên trong vùng này thường
được chuyển tiếp từ chỗ này sang chỗ khác, để cho
không có dư thừa ở chỗ này và khan hiếm ở chỗ khác.
Nhưng việc đã xảy ra như vậy vài năm trước đây -
và nó đã xảy ra vì hệ thống tự động truyền năng lượng
này - rằng trong mười tới mười hai giờ nước Mĩ chìm
ngập trong bóng tối, và một loại hỗn loạn chế ngự khắp
nơi. Khi điều đó xảy ra, đã có hỏng nguồn điện ở thị
trấn nào đó và kết quả là chân không đã được tạo ra ở
đó. Bây giờ toàn thể năng lượng quá mức trong mạng
của vùng đó tự động xô trở lại vùng đó - với lực mạnh
tới mức tất cả mọi cầu chì trong thị trấn đó đều bị nổ
tung và hậu quả là toàn thể hệ thống được liên nối lẫn
nhau của vùng đó bị gián đoạn và mất tổ chức. Toàn thể
tổ chức cung cấp điện sụp đổ, và bỗng nhiên trong hai
mươi bốn giờ nước Mĩ trở về trạng thái đã tồn tại hai
nghìn năm trước đây. Có việc tắt đèn khắp mọi nơi, và
tất cả cuộc sống xã hội đi tới chỗ dừng lại.
Chỉ từ đó họ mới nhận ra lần đầu tiên rằng tất cả
mọi nỗ lực của họ nhằm vào tính hiệu quả và tạo dòng
chảy đều có thể bật lại vào họ và chứng tỏ là thảm hoạ.
Việc này đáng không bao giờ xảy ra nếu từng thị trấn có
hệ thống tách bạch riêng của mình về nguồn cấp điện.
Việc này có thể không bao giờ xảy ra ở Ấn Độ, rằng
điện của toàn quốc bị mất ngay một lúc. Nó chỉ có thể
xảy ra ở Mĩ, nơi ngay cả nguồn cấp điện cũng được tổ
chức một cách toàn thể và tập trung và nơi mà mạch
điện chảy tràn đầy mọi lúc. Cho nên bao giờ cũng có
nguy hiểm.
Có một hệ thống như mạch điện bên trong con
người nữa. Và nếu dòng điện ở bên trong bạn chảy về
bạn với số lượng lớn hơn mức bạn có thể tiếp nhận, sẽ
có thể nguy hiểm. Và có những kĩ thuật mà với chúng
bạn có thể làm tăng luồng điện bên trong của mình.
Chẳng hạn, bạn đang ngồi với năm mươi người khác
trong phòng này. Với sự giúp đỡ của kĩ thuật nào đó
bạn có thể, nếu bạn muốn, làm cho năng lượng của tất
cả năm mươi người này chảy về bạn - một người. Trong biến cố đó tất cả năm mươi người này, bị rút cạn năng
lượng của họ, sẽ trở thành vô ý thức, trong khi bạn sẽ
trở thành cây cột trụ năng lượng, bạn sẽ bùng nổ bởi
năng lượng. Nhưng điều này có thể tỏ ra là nguy hiểm
cho bạn nữa. Có thể là năng lượng được xả ra thành quá
nhiều bạn không kham nổi. Và điều trái ngược lại cũng
có thể xảy ra. Qua cùng con đường, dòng năng lượng
của bạn có thể được hướng chảy sang người khác, rút
dần toàn thể năng lượng của bạn. Tất cả những thực
nghiệm như vậy đều đã được tiến hành trong quá khứ.
Cho nên có những phương pháp mà với chúng
người ta có thể trả lại năng lượng dư thừa về cội nguồn
trong trường hợp quá nhiều năng lượng chảy về các
trung tâm cao hơn vào một lúc, trong trường hợp có
thừa năng lượng. Nhưng điều này không nhất thiết có
trong trường hợp các kĩ thuật tôi đang trao cho các bạn
ở đây. Điều này hoàn toàn không cần thiết, bởi vì năng
lượng sẽ được xả ra trong trường hợp này chỉ tỉ lệ với
khả năng nhận nó của bạn. Chúng ta sẽ tạo ra không
gian trước hết và thế rồi thả năng lượng lấp đầy không
gian này. Cho nên các bạn sẽ không bao giờ cần trả lại
bất kì năng lượng thặng dư nào. Tình huống như vậy sẽ
không phát sinh ra. Tất nhiên, một ngày nào đó chính
bản thân bạn sẽ trở về cội nguồn; nhưng đấy là vấn đề
khác. Khi biết mọi điều bạn sẽ lấy cú nhảy và hội nhập
với kunda. Nhưng điều đó là việc hoàn toàn khác.
Những từ này, lên và xuống, đã được dùng với
nghĩa khác nữa. Nghĩa mà trong đó Shri Aurobindo
dùng chúng rất khác.
Chúng ta có thể nghĩ tới năng lượng thiêng liêng
theo hai cách: hoặc chúng ta nghĩ về nó như cái gì đó
nằm trên chúng ta, trên đỉnh, trên trời, hay như cái gì đó
nằm dưới, tại đáy, trong chiều sâu vực thẳm. Chúng ta
nghĩ dưới dạng điểm cao nhất hay điểm thấp nhất.
Nhưng chừng nào có liên quan tới cấp độ vũ trụ, thì
thuật ngữ trên và dưới, đỉnh và đáy, là vô nghĩa; chúng
không có liên quan về bất kì cái gì. Chúng chỉ là các
khái niệm tư duy của chúng ta; chúng chỉ đại diện cho
cách nghĩ của chúng ta. Chúng ta lấy trần căn phòng
này là trên chúng ta, nhưng nó không phải vậy. Nếu
chúng ta khoan đất ngay tại chỗ này bằng máy khoan và
cứ khoan tới, một ngày nào đó nó sẽ kết thúc ở Mĩ. Và
nếu ai đó quan sát từ đó thì người đó sẽ thấy cái trần
này ở dưới chúng ta - dưới đầu chúng ta, không ở trên
chúng. Chúng ta sẽ xuất hiện với người đó như một bầy
người đang làm shirshasana - đứng trên đầu mình.
Nhưng cái trần này vẫn còn như cũ. Điều đó tuỳ thuộc
vào cách thức và từ đâu chúng ta thấy nó.
Cùng cách này các khái niệm của chúng ta về đông
và tây đều là giả. Đông là gì và Tây là gì? Nếu bạn cứ đi
mãi về phương đông thì bạn sẽ tới phương tây. Và nếu
bạn cứ đi mãi theo phương tây bạn sẽ tới phương đông.
Tại sao gọi nó là phương tây nếu bước đi theo hướng
này bạn tới phương đông? Điều đó là vô nghĩa. Mọi
khái niệm như vậy đều tương đối, và do vậy nó là
không thực. Nó chỉ là một giả thiết tiện dụng, một khái
niệm tưởng tượng; nó có ích và vậy mà giả. Bạn có thể
nói phương đông ở đâu và nó bắt đầu từ đâu không? Nó
bắt đầu ở Calcutta, Rangoon hay Tokyo? Phương tây
bắt đầu và kết thúc ở đâu? Chúng thực sự bắt đầu bây
giờ ở đây và kết thúc bây giờ ở đây. Chúng chỉ là các
khái niệm tiện dụng, qua đó chúng ta phân chia trái đất
ra theo thuận tiện của mình.
Theo cùng cách này trên và dưới, đỉnh và đáy, là
các khái niệm tiện dụng. Trong khi đông và tây là các khái niệm chiều ngang, trên và dưới là các khái niệm
chiều đứng. Dù sao chúng cũng chỉ là những khái niệm.
Thực tế chẳng có gì như ở trên và ở dưới cả; bởi vì vũ
trụ không có mái và không có sàn. Nó bao la và vô giới
hạn thế. Cho nên mọi việc nói về ở trên và ở dưới, lên
và xuống, đều vô nghĩa.
Nhưng khái niệm tiện dụng này về trên và dưới đã
xâm lấn vào tư duy tôn giáo của chúng ta nữa. Cho nên
một số người kinh nghiệm Thượng đế là cái gì đó tới từ
trên cao; và thế rồi đó là trường hợp của năng lượng
giáng xuống họ. Một số người kinh nghiệm Thượng đế
như cái gì đó nảy sinh từ bên dưới, từ mái nhà; trong
trường hợp đó năng lượng dâng lên với họ, nhưng thực
tế phân chia này không có nghĩa. Nơi chúng ta đặt
Thượng đế - trên hay dưới - là vấn đề khuynh hướng và
thích hợp. Nhưng nếu chúng ta phải chọn lựa trong thu
xếp dịch chuyển này, tôi ưa thích khái niệm về lên hơn
khái niệm về xuống.
Khái niệm về đi lên của năng lượng sẽ ích lợi cho
bạn hơn so với khái niệm đi xuống, và có lí do cho điều
đó. Bởi vì nếu bạn lấy khái niệm đi lên, bạn sẽ phải
nâng năng lượng lên, bạn sẽ phải làm việc vì nó. Và
trong trường hợp bạn chọn khái niệm kia, việc đi xuống
của năng lượng, bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có gì ngoài lời
cầu nguyện, bạn sẽ không làm gì ngoài cầu nguyện. Nếu
đấy là vấn đề của năng lượng đi xuống, thì bạn chỉ có
thể khoanh tay và cầu nguyện.
Do đó, hai loại tôn giáo đã tiến hoá trên toàn thế
giới - một loại dựa trên thiền còn loại kia dựa trên lời
cầu nguyện. Các tôn giáo giao phó cho lời cầu nguyện
là những tôn giáo kinh nghiệm Thượng đế ở trên, trên
bầu trời. Ngài ở trên bầu trời trong sáng còn chúng ta
không thể làm được việc đem ngài xuống chỗ chúng ta.
Nếu chúng ta muốn tìm thấy ngài, chúng ta sẽ phải dâng
lên ngày một cao hơn. Và nếu chúng ta cố gắng làm như
vậy, bản thân chúng ta có thể trở thành Thượng đế.
Nhưng chúng ta không thể đi lên được; chúng phải vẫn
ở nơi chúng ta đang ở. Và do vậy tất cả những gì chúng
ta có thể làm được là gọi ngài trong lời cầu nguyện:
"Hỡi Thượng đế, xin ngài giáng xuống chúng con!
Xuống với chúng con đi."
Mặt khác, có những tôn giáo tin rằng chúng ta phải
dâng cái gì đó lên từ bên trong chúng ta, rằng có cái gì
đó đang ngủ ở gốc rễ chúng ta, và nó có thể được nâng
lên chỉ nếu chúng ta làm điều gì đó theo hướng này.
Những tôn giáo đó quay lưng lại với cầu nguyện và
chọn lấy thiền. Chúng trở thành tôn giáo của thiền. Cho
nên khái niệm về trên và dưới đã tạo ra tất cả khác biệt
giữa cầu nguyện và thiền. Tôn giáo của cầu nguyện tin
vào Thượng đế ở cao bên trên còn tôn giáo của thiền
nghĩ rằng ngài cư trú ở gốc rễ, từ nơi đó ngài phải được
nâng lên.
Và nhớ rằng dần dần, tôn giáo của lời cầu nguyện
đã làm mất dần nền tảng và chết đi. Không có tương lai
cho chúng; chúng không có tương lai về bất kì cái gì.
Còn tôn giáo của thiền phát triển hàng ngày về tiềm
năng, và họ có tương lai vô cùng trước họ.
Tôi muốn các bạn hiểu rằng con đường của cuộc
hành trình của chúng ta đi lên từ phía dưới, từ đây.
Khái niệm này có một số nghĩa khác nữa. Tuy nhiên
khái niệm này là tương đối. Do đó, không thành vấn đề
gì với tôi nếu các bạn tin vào Thượng đế ở trên trời kia.
Tôi sẽ không gặp khó khăn nào về điều đó. Nhưng tôi
biết rằng các bạn chắc chắn sẽ đối diện với khó khăn trong việc thực hiện điều đó. Tôi đã nói một chút trước
đây rằng nếu chúng ta cứ đi về phương đông mãi thì
chúng ta chung cuộc sẽ tới phương tây; nhưng điều này
không có nghĩa là chúng ta phải đi về phương đông nếu
chúng ta phải đi về phương tây; chúng ta chỉ nên đi về
phương tây. Mặc dầu khái niệm đông tây là vô nghĩa,
vậy mà chúng ta bắt đầu đi về phương tây nếu chúng ta
phải đi về phương tây. Điều này cũng đúng; rằng nếu
chúng ta cứ đi về phương đông mãi chúng ta chung
cuộc sẽ tới phương tây. Nhưng thế thì cuộc hành trình
sẽ quá dài không cần thiết. Bạn có hiểu điều tôi muốn
nói không?
Sẽ có nhiều khác biệt giữa người sùng kính và thiền
nhân. Thượng đế của người sùng kính ở mãi trên trời,
và do vậy người đó sẽ cầu nguyện và chờ đợi với tay
khoanh lại. Còn Thượng đế của thiền nhân thì ẩn kín
bên dưới trong gốc rễ của người đó và do vậy người đó
sẽ chuẩn bị sẵn sàng hành động và nỗ lực để đánh thức
ngài.
Có những cách diễn giải khác chúng ta cần nhớ
trong đầu. Khi chúng ta tin Thượng đế ở dưới thấp, tại
gốc rễ, sự hiện diện của ngài được cảm thấy ở mọi nơi,
ngay cả trong điều chúng ta gọi là bản năng và xúc động
cơ sở hơn của mình. Thế thì không có gì trong tâm trí
chúng ta còn lại là cơ sở và thấp cả, bởi vì nếu bản thân
Thượng đế sống ở vùng thấp, ngài hiện diện ngay cả
trong điều chúng ta gọi là vùng thấp nhất của cuộc sống
chúng ta. Và ngài có thể được đánh thức ngay cả ở đó.
Nếu dục là vùng đó, thì Thượng đế sẽ ở đấy nữa, và
ngài có thể được đánh thức và được đạt tới từ cả đầu đó
nữa. Nói cách khác, không thể có chỗ nào mà không tìm
được ngài. Ngài sẽ được tìm thấy ngay cả ở chỗ thấp
nhất của địa ngục, nếu như có chỗ đó.
Nhưng nếu chúng ta tin rằng Thượng đế ở đâu đó
trên tầng trời, thì việc kết án bắt đầu ngay lập tức; thế
thì bất kì cái gì đứng bên dưới đều bị kết án, bởi vì
Thượng đế không có ở đó. Và thế thì một cách vô ý
thức cảm giác về tự ti nắm bắt lấy người tin tưởng. Và
hậu quả của nó - hậu quả tâm lí của việc tự kết án và
mặc cảm - đơn giản là thảm hoạ.
Và nếu bạn muốn đứng trên đôi chân vững chắc và
mạnh mẽ, điều cần thiết là năng lượng phải tới từ bên
dưới, vì điều đó sẽ thêm phần làm mạnh cho đôi chân
bạn. Nếu năng lượng tới từ bên trên, nó sẽ chỉ chạm tới
đầu bạn. Nhưng vấn đề là ở chỗ năng lượng, để có hiệu
quả, phải đạt tới chính gốc rễ.
Và năng lượng tới từ bên trên bao giờ cũng dường
như xa lạ và ngoại lai. Đó là lí do mà những người đạt
tới qua lời cầu nguyện không bao giờ tin rằng Thượng
đế và chúng ta là một. Người Hồi giáo bao giờ cũng
kiên quyết phản đối bất kì ai nói rằng mình là Thượng
đế. Họ nghĩ rằng Thượng đế và con người không thể là
một và như nhau được, bởi vì Thượng đế ở tít trên trời
còn con người lại ở đây trên đất này, ở dưới đáy. Do đó
họ chặt đầu Mansoor và giết chết Sarmad. Với họ không
có báng bổ nào lớn hơn điều này, rằng bất kì ai cũng nói
rằng mình là Thượng đế. Bởi vì trong khi Thượng đế là
cao nhất, con người cùng lắm cũng chỉ như loài sâu bọ
bò trên đất. Làm sao con người thấp bé có thể đồng nhất
mình với điều cao nhất được?
Lí do cho niềm tin này là ở chỗ chúng ta coi
Thượng đế là ở tít cao còn bản thân chúng ta là những
sinh linh thấp bé, chúng ta nhất định là hai thực thể tách
biệt. Bởi chính lí do này mà người Sufis chưa bao giờ
chấp nhận được đạo Hồi - tôn giáo của những người Hồi giáo - bởi vì người Sufis công bố rằng họ và
Thượng đế là một.
Chúng ta có thể là một với Thượng đế chỉ nếu
Thượng đế đi từ chỗ thấp, bởi vì chúng ta ở chỗ thấp.
Chỉ nếu Thượng đế tới từ đất và không từ trời thì ngài
mới là có thể và chúng ta hợp nhất vào trong một sự
hiện hữu.
Ngay khi chúng ta đưa Thượng đế lên ngai vàng
trên trời, cuộc sống trần tục của chúng ta bị kết án; nó
trở thành tội lỗi. Và thế thì được sinh vào trong thế giới
này được xem như kết quả của tội lỗi của chúng ta. Còn
khi chúng ta đặt Thượng đế tại gốc rễ, cuộc sống trên
đất này trở thành phúc lạc, phúc lành. Thế thì nó chấm
dứt việc là kết quả của tội lỗi của chúng ta và biến thành
món quà của Thượng đế và từ bi của ngài. Và thế rồi sự
hiện diện của ánh sáng của ngài sẽ được cảm thấy ngay
cả ở chỗ tối nhất của mọi vật. Và thế rồi, Thượng đế sẽ
hiện diện trong bản thể bên trong nhất của ngay cả
người tồi tệ nhất, ngay cả người độc ác nhất.
Do đó tôi ưa thích là các bạn tin Thượng đế là lực đi
lên; mặc dầu thực tế không có khác biệt giữa hai khái
niệm này về lực đi lên và đi xuống. Không có khác biệt
về bất kì điều gì đối với người biết. Người đó sẽ nói
rằng cả hai ý tưởng này đều vô dụng. Nhưng nếu chúng
ta không biết và muốn đi trên cuộc hành trình tâm linh,
tốt hơn cả là chúng ta chọn con đường làm cho cuộc
hành trình được dễ dàng hơn. Cho nên tôi muốn người
tìm kiếm hiểu rằng năng lượng sẽ nảy sinh từ đáy và cứ
theo cuộc hành trình đi lên.
Do đó, những người chọn cuộc hành trình đi lên đều
chấp nhận lửa như biểu tượng của Thượng đế, bởi vì lửa
bao giờ cũng bốc lên. Lửa trong ngọn đèn, ngọn lửa của
nó, thường xuyên đi lên, bốc lên. Đó là lí do tại sao ở
chỗ thầm kín sâu nhất của tâm trí mình chúng ta đã chấp
nhận lửa như biểu tượng của Thượng đế - bởi một lẽ
đơn giản là bất luận điều bạn làm, lửa bao giờ cũng lên
thẳng, và khi nó lên thẳng chẳng mấy chốc nó biến mất
vào trong hư không. Ngọn lửa của đám lửa thấy được
trong một chốc và thế rồi tự nó mất đi trong thinh
không. Tương tự người tìm kiếm sẽ dâng lên, sẽ thấy
được trong một chốc và thế rồi người đó sẽ mất đi bản
thân mình trong cái không thấy được.
Do đó tôi nhấn mạnh vào việc đi lên của năng lượng
và không nhấn mạnh vào việc đi xuống của nó.
Người hỏi: Thầy nói tại trại Nargol rằng chúng ta
phải làm kiệt quệ thân thể qua việc thở mãnh liệt và
sâu và thường xuyên hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" để cho
chúng ta đi vào thiền sâu. Nhưng làm sao làm kiệt
quệ và nảy sinh việc thiếu năng lượng dẫn tới thiền
thực sự cần năng lượng dư thừa?
"Làm kiệt quệ" không có nghĩa là sẽ thiếu năng
lượng nào. Khi tôi nói các bạn phải làm cho bản thân
mình kiệt quệ, điều tôi ngụ ý bởi từ "bản thân mình" là
gì? Tại đây "bản thân mình" nghĩa là các giác quan của
bạn mà qua đó năng lượng của bạn chảy vào quá trình
đều đặn mọi ngày. Với "bản thân mình" tôi ngụ ý thân
thể bạn; tôi ngụ ý bạn như bạn ngay bây giờ. Tôi không
nói về bạn thực sự là gì; tại khoảnh khắc này tôi quan
tâm tới bạn là gì.
Cho nên khi các bạn tự làm kiệt quệ mình, hai điều
xảy ra cùng nhau. Khi các bạn làm kiệt quệ mình, tất cả các thực hành giác quan của bạn làm kiệt quệ thân-tâm
bạn, các cơ quan cảm giác của bạn, mặt khác nó cứ nện
búa vào kundalini của bạn. Cho nên từ một đầu các bạn
bị kiệt quệ và từ đầu bên kia năng lượng ngủ của các
bạn bắt đầu thức dậy.
Cả hai quá trình này là đồng thời. Một mặt các bạn
bị mệt đi và mặt khác năng lượng của bạn được đánh
thức dậy. Đồng thời, các bạn không ở vào vị trí dùng
năng lượng của mình thêm nữa. Mắt bạn mệt tới mức
chúng không thể nhìn được; tâm trí các bạn mệt tới mức
nó không thể nghĩ được, cho dù nó muốn nghĩ. Chân
bạn từ chối chuyển động, chúng hoàn toàn suy kiệt.
Trong tình huống này, nếu các bạn muốn di chuyển,
các bạn sẽ phải di chuyển không có chân, còn nếu các
bạn muốn nhìn, các bạn sẽ phải nhìn không có mắt, bởi
vì chúng đã kiệt quệ rồi. Cho nên khi các cơ quan của
bạn bị làm việc quá mức, nó từ chối làm việc. Nhưng
đồng thời năng lượng nào đó đã được đánh thức và nó
muốn làm điều gì đó một cách cấp thiết. Bây giờ năng
lượng này lập tức sẽ gõ vào những cánh cửa không bị
mệt của bạn, và sẵn sàng nhận lấy nó và làm việc với
nó. Những lối mở này bao giờ cũng sẵn sàng nhưng đã
bị phủ nhận mọi cơ hội để làm việc. Bạn mạnh đến mức
bạn có thể dùng tất cả năng lượng của mình. Bây giờ
bạn mệt mỏi, và năng lượng mới và tươi mát có đấy cho
hành động. Nhưng các cơ quan cũ của bạn như mắt và
tai sẽ từ chối nhận nó. Cho nên khi tai và mắt của bạn từ
chối, năng lượng mới đó sẽ làm gì?
Trong tình huống này các bạn sẽ bắt đầu nhìn từ
chiều nào đó rất khác, đó sẽ là một phần mới của bản
thể bạn. Trung tâm nhìn tâm linh của bạn sẽ bắt đầu làm
việc, và bạn sẽ thấy những điều mà bạn chưa bao giờ
thấy trước đây. Và các bạn sẽ thấy từ một không gian
mà các bạn chưa bao giờ quen thuộc trong quá khứ.
Không gian đó chưa bao giờ được cho cơ hội để vận
hành; bây giờ có cơ hội cho nó, lần đầu tiên.
Chính bởi lí do này mà tôi đã nhấn mạnh vào việc
làm cho bạn kiệt sức. Một mặt, thân thể bạn phải bị làm
cho thật mệt, tâm trí bạn phải bị làm cho thật mệt, tất cả
mọi điều bạn có là bị mệt lử, để cho điều bạn thực sự là
và điều bạn không nhận biết đó có thể trở nên tích cực.
Khi năng lượng tươi mát được khuấy động lên, nó đòi
hỏi làm việc, và bản thể bạn sẽ phải cung cấp nó cho
công việc. Thực tế năng lượng này sẽ tự nó tìm ra công
việc. Cho nên trong biến cố về tai bạn bị kiệt quệ, năng
lượng được đánh thức mới sẽ nghe thấy cái được gọi là
naad, hay âm thanh bên trong. Trong biến cố mắt bạn bị
mệt mỏi, năng lượng mới sẽ thấy ánh sáng, ánh sáng
bên trong. Để nghe âm thanh bên trong và thấy ánh sáng
bên trong, tai và mắt vật lí của bạn không được cần tới.
Nó sẽ ngửi thấy mùi hương ở bên ngoài tầm với của
mũi thường của bạn. Vậy, các giác quan rất tinh tế, điều
bạn gọi là siêu giác quan, sẽ trở thành sống động và
hoạt động.
Mỗi một trong các giác quan của chúng ta đều được
nối với một siêu giác quan tương ứng. Có tai nghe ra
bên ngoài và có tai khác nghe bên trong bạn. Nhưng tai
bên trong chẳng bao giờ được cho cơ hội nào để vận
hành cả. Bởi vì tai bên ngoài của bạn bị làm việc quá
sức và nó từ chối làm việc thêm nữa, mà năng lượng
mới tụ tập gần tai đang trơ ì của bạn, nó sẽ phải làm gì?
Nó sẽ kích hoạt tai kia của bạn, tai bên trong, chưa bao
giờ được dùng trong quá khứ. Cho nên bạn sẽ nghe thấy
và nhìn thấy những điều mà nếu bạn nói cho bạn bè
mình về chúng thì họ sẽ nói, "Anh mất trí rồi. Điều đó là không thể được. Anh đang bị ảo tưởng; anh đang mơ
đấy."
Nhưng bạn sẽ nghe thấy âm thanh đó còn rõ hơn
bạn nghe nhạc của veena của mình, đàn luýt của mình.
Đàn luýt bên trong sẽ được nghe thấy rõ ràng và to tới
mức bạn không bao giờ có thể nghĩ rằng nó có thể
không thực, giả tạo. Bạn sẽ nói rằng nếu đây mà là giả,
thì đàn veena bên ngoài hoàn toàn là giả.
Để cho những cánh cửa mới tới sự tồn tại của bạn
mở ra, điều cần thiết là ban đầu phải làm mệt mỏi các
giác quan của bạn. Một khi những cánh cửa đó được mở
ra, sẽ không có vấn đề gì. Thế thì bạn có thể so sánh, và
nói rằng nếu bạn phải nhìn, thì nhìn vào bên trong còn
tốt hơn nhiều, nhiều phúc lạc thế. Cái bên ngoài là vô
nghĩa nếu so với cái bên trong. Nhưng ngay bây giờ bạn
không có cách nào để so sánh cả, bạn không có chọn lựa
nào về bất kì cái gì. Nếu bạn muốn nhìn, chỉ có mỗi
cảnh bên ngoài để nhìn. Một khi mắt bên trong của bạn
bắt đầu thấy, bạn có chọn lựa rõ ràng; bạn có thể chọn
giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Và thế thì bạn bao
giờ cũng sẽ chọn cái bên trong bất kì khi nào bạn cảm
thấy thích nhìn. Và bạn sẽ không bỏ lỡ nó; cái bên ngoài
sẽ trở thành vô nghĩa.
Có một câu chuyện trong cuộc sống của Rabiya.
Một buổi chiều tà mặt trời đang lặn và bà ấy đang
ngồi bên trong lều của mình. Một thầy tu khổ hạnh fakir
có tên là Hassan tới thăm bà ấy. Đó là lúc mặt trời lặn
và buổi chiều tà đơn giản đang làm cho người ta say
mê. Thế là Hassan gọi bà ấy, "Rabiya ơi, bà đang làm gì
đó bên trong lều? Chiều tà đẹp thế, và mặt trời lặn huy
hoàng tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Buổi chiều rực
rỡ như thế có thể không thấy được lần nữa đâu. Bà ra
khỏi lều và ngắm nó đi."
Trả lời lại, Rabiya nói, "Ôi ông khờ ơi, ông còn tiếp
tục ngắm mặt trời bên ngoài được bao lâu nữa? Tôi bảo
ông quay vào trong đi, bởi vì ở đây tôi đang ngắm
người tạo ra mặt trời. Và tôi đang chứng kiến những
mặt trời như vậy ở đây vẫn còn chưa được tạo ra và sẽ
được tạo ra trong tương lai chưa thấy được. Cho nên tốt
hơn cả là ông đi vào đi."
Nhưng Hassan không thể đoán được điều Rabiya
muốn bảo ông ấy. Người đàn bà này thực sự hiếm hoi.
Rabiya là một trong số rất ít phụ nữ có ý nghĩa trong
toàn bộ lịch sử loài người. Nhưng Hassan không hiểu
được bà ấy; ông ấy cứ khẩn khoản mãi rằng Rabiya nên
bước ra khỏi lều và ngắm nhìn mặt trời lặn mà bà ấy
đang bỏ lỡ. Còn Rabiya cảnh báo ông ấy mãi đừng bị
lạc trong quyến rũ của mặt trời bên ngoài và do vậy bỏ
lỡ cái đẹp thực sự của cái bên trong.
Đối thoại này giữa Rabiya và Hassan xảy ra ở hai
bình diện khác nhau đồng thời. Hai loại giác quan khác
nhau cùng tham gia vào trong đó. Nếu bạn không nhận
biết về các giác quan bên trong, thế thì thế giới bên
ngoài là mọi thứ cho bạn.
Và đó cũng chính là ý nghĩa mà tôi nói rằng sẽ là tốt
nếu các giác quan bên ngoài bị kiệt quệ.
Người hỏi: vậy trong việc thiền này, việc làm kiệt
quệ không có nghĩa là thiếu năng lượng.


Không một chút nào. Nó có nghĩa là đánh thức năng
lượng - năng lượng đang ngủ bên trong từng người các
bạn. Và toàn bộ công việc được ngụ ý để đánh thức nó.
Đúng là các giác quan bị mệt mỏi; nhưng các giác quan
nào không chứa năng lượng, chúng đơn thuần là những
cánh cửa để năng lượng đi qua đó. Và bạn không là
cánh cửa; bạn là cái gì đó khác. Bạn đơn thuần đi qua
những cánh cửa này. Và chính những cánh cửa này bị
mệt mỏi và yêu cầu bạn không đi qua chúng nữa, bởi vì
chúng bị làm việc quá sức và cạn kiệt rồi. Mắt bạn từ
chối bị sử dụng. Và các giác quan khác cũng nói như
vậy.

Cho nên khởi đầu quá trình làm mệt mỏi các giác
quan này là rất có ích.
Người hỏi: nếu đó là trường hợp của việc đánh thức
năng lượng, thế thì việc thiền này nên đem tới tươi
mát thay vì mệt mỏi. Nhưng thông thường nó đem
chỉ mỗi mệt mỏi. Tại sao vậy?
Nó sẽ chỉ như vậy vào lúc bắt đầu. Nhưng dần dần
bạn sẽ cảm thấy tươi mát và sảng khoái. Tươi mát và
sảng khoái này tới mức bạn chẳng bao giờ biết trước
đây. Nhưng lúc ban đầu, để cho chắc, bạn sẽ cảm thấy
mệt. Nó là vậy bởi vì bạn đã đồng nhất mình với những
giác quan này. Bạn nghĩ chúng là chính bản thân mình.
Cho nên khi các giác quan này mệt, bạn nói rằng bạn
mệt. Sự đồng nhất này với các giác quan phải ra đi.
Chẳng hạn, bạn đang cưỡi ngựa và con ngựa bị mệt.
Bây giờ nếu bạn bị đồng nhất với ngựa thì bạn sẽ nói
rằng bạn mệt, bạn mệt chết đi. Chúng ta thấy mệt với tất
cả những gì chúng ta đồng nhất với. Nếu bạn đồng nhất
bản thân mình với ngựa, bạn sẽ mệt khi ngựa mệt. Cái
ngày bạn biết rằng bạn không là ngựa, tươi mát sẽ tới
thăm bạn theo cách rất khác. Và thế thì bạn sẽ biết rằng
đó chính là các giác quan mệt chứ không phải là bạn.
Ngược lại, khi các giác quan mệt và từ chối làm
việc, nhiều năng lượng, cái đã từng bị phung phí một
cách vô ích trước đây, nay được tiết kiệm và gìn giữ
trong kho năng lượng bên trong bạn. Thế thì bạn sẽ biết
cái được gọi là bảo tồn năng lượng, và nó sẽ ngày càng
biến thành kho tàng vô giá của bạn. Và vì năng lượng
này không đi ra, nên nó thấm vào mọi thớ thịt, mọi lỗ
chân lông của con người bạn. Năng lượng này là bạn, và
khi bạn hiểu nó thì bạn sẽ biết khác biệt.
Cho nên dần dần, sau thiền, bạn sẽ kinh nghiệm
tươi mát vô cùng. Nói rằng bạn sẽ cảm thấy tươi mát
cũng là sai, thay vì thế bạn sẽ trở thành bản thân sự tươi
mát. Không phải là bạn sẽ cảm thấy tươi mát, bạn sẽ là
tươi mát này. Nhưng điều này sẽ xảy ra chỉ khi đồng
nhất của bạn thay đổi. Ngay bây giờ bạn đang cưỡi
ngựa, và cả cuộc đời mình bạn đã đồng nhất mình với
ngựa. Sẽ phải mất thời gian để biết rằng bạn không là
ngựa mà là người cưỡi. Và sẽ dễ hiểu hơn cho bạn nếu
ngựa kiệt sức tới mức phải bỏ nó đi. Thế thì bạn sẽ phải
bước bộ, và bước bộ trên đôi chân riêng của bạn. Và khi
bạn bước đi, bạn sẽ biết rằng bạn là tách rời với ngựa.
Nhưng cưỡi trên lưng ngựa một thời gian lâu bạn đã
quên mất rằng bạn có thể bước bộ. Cho nên cũng tốt là
con ngựa bị kiệt sức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog