Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Chết với chân giá trị

Chết tự nhiên là gì? Đây là câu hỏi có ý nghĩa, và có nhiều điều ngụ ý có thể có trong đó. Điều đơn giản nhất và hiển nhiên nhất là ở chỗ con người chết đi chẳng có nguyên nhân gì: người đó đơn giản trở nên già đi, già hơn, và việc thay đổi từ tuổi già sang cái chết không qua bất kỳ bệnh tật nào. Cái chết đơn giản là tuổi già tối tượng – mọi thứ trong thân thể bạn, trong não bạn, đều ngừng hoạt động. Đây sẽ là ý nghĩa thông thường và hiển nhiên của cái chết tự nhiên.

Nhưng với tôi cái chết tự nhiên có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều: người ta phải sống cuộc sống tự nhiên để đạt tới cái chết tự nhiên. Cái chết tự nhiên là đỉnh điểm của cuộc sống đã được sống một cách tự nhiên, không bất kỳ cấm đoán nào, không bất kỳ kìm nén nào – hệt như cách con vật sống, chim chóc sống, cây cối sống, không bất kỳ sự chín chắn nào… một cuộc sống buông bỏ, cho phép tự nhiên tuôn chảy qua bạn không có bất kỳ cản trở nào từ phía bạn, dường như bạn vắng mặt và cuộc sống đang di chuyển theo cách riêng của nó. Thay vì bạn sống cuộc sống, cuộc sống sống bạn, bạn là phụ; thế thì đỉnh điểm sẽ là cái chết tự nhiên. Theo định nghĩa của tôi chỉ người đã thức tỉnh mới có thể chết một cách tự nhiên; ngoài ra tất cả mọi cái chết đều phi tự nhiên bởi vì tất cả các cuộc sống là phi tự nhiên.

Làm sao bạn có thể đi tới cái chết tự nhiên, khi sống cuộc sống phi tự nhiên? Cái chết sẽ phản ánh tột đỉnh tối thượng, cao trào của toàn bộ cuộc sống bạn. Dưới dạng cô đọng, nó là tất cả những điều bạn đã sống qua. Cho nên chỉ rất ít người trên thế giới mới chết một cách tự nhiên bởi vì chỉ rất ít người đã sống một cách tự nhiên. Việc huấn luyện của chúng ta không cho phép chúng ta được tự nhiên. Việc huấn luyện của chúng ta, ngay từ ban đầu, dạy chúng ta rằng chúng ta phải là cái gì đó còn hơn tự nhiên, rằng chỉ là tự nhiên mới là con vật; chúng ta phải là siêu tự nhiên. Và điều đó dường như rất logic. Tất cả các tôn giáo đều đã từng thuyết giảng điều này – rằng con người có nghĩa là vượt lên trên tự nhiên – và họ đã thuyết phục nhân loại trong hàng thế kỷ để vượt lên trên tự nhiên. Không ai đã thành công trong việc vượt lên trên tự nhiên cả. Tất cả mọi điều họ thành công là phá hủy cái tự nhiên của họ, cái đẹp tự phát, cái hồn nhiên của họ. Con người không cần siêu việt lên trên tự nhiên. Tôi nói với các bạn, con người phải hoàn toàn tự nhiên – điều không con vật nào làm được. Đó là sự khác biệt.

Tôn giáo đã tinh ranh, dối trá và lừa bịp mọi người. Họ đã tạo ra sự phân biệt rằng con vật là tự nhiên còn bạn phải siêu nhiên. Không con vật nào có thể nhịn ăn; bạn không thể thuyết phục bất kỳ con vật nào rằng nhịn ăn và cái gì đó thiêng liêng. Con vật chỉ biết rằng có đói, và không có sự khác biệt gì giữa nhịn ăn và đói cả. Bạn không thể thuyết phục bất kỳ con vật nào đi ngược với tự nhiên.

Điều này tạo ra một cơ hội cho cái gọi là những người tôn giáo, bởi vì con người có khả năng ít nhất là đấu tranh chống lại tự nhiên. Người đó sẽ không bao giờ thắng lợi cả, nhưng người đó có thể tranh đấu. Và trong tranh đấu người đó sẽ không phá hủy tự nhiên; người đó sẽ phá hủy chỉ bản thân mình. Đó là cách con người đã phá hủy bản thân mình – tất cả mọi niềm vui của mình, tất cả mọi tình yêu của mình, tất cả mọi sự vĩ đại của mình – và đã không trở thành một cái gì đó cao hơn con vật, mà là một cái gì đó thấp hơn, trong mọi cách có thể. Có lẽ các bạn chưa bao giờ nghĩ về nó: không con vật hoang dã nào lại đồng dục. Chính cái ý tưởng này, và toàn bộ thế giới con vật sẽ phá lên cười. Điều đó đơn giản là xuẩn ngốc! Nhưng trong vườn thú, nơi con cái không có sẵn, con vật biến thành đồng dục do sự cần thiết cực điểm.

Nhưng con người đã biến thế giới này thành vườn bách thú: hàng triệu và hàng triệu người đồng dục, đồng dục nữ, người thú dâm, và đủ thứ tầm thường – đủ mọi loại đồi bại. Va ai chịu trách nhiệm? Người dạy bạn vượt ra ngoài tự nhiên,đạt tới điều thiêng liêng siêu nhiên…

Bất kỳ khi nào bạn ép buộc điều gì đó, thì kết quả không định đem lại sự cải thiện. Trong nhiều lĩnh vực, bởi các tôn giáo khác nhau, điều đó đã được thử để làm cho con người là một cái gì đó trên tự nhiên. Kết quả đã là thất bại, không ngoại lệ nào cả. Ban được sinh ra như một sinh linh tự nhiên. Bạn không thể nào vượt lên trên bản thân mình. Đấy cũng hệt như là tự nâng mình lên khỏi mặt đất bằng việc kéo chân mình lên. Bạn có thể nhẩy lên một chút, nhưng sớm hay muộn bạn rơi trở lại mặt đất, và bạn có thể bị gãy xương. Bạn không thể bay được. 

Và đó là điều đã được làm. Mọi người đã cố gắng nâng mình lên trên tự nhiên, điều có nghĩa là trên bản thân mình. Họ không tách khỏi tự nhiên, nhưng ý tưởng này phù hợp với bản ngã họ: bạn không phải là con vật nên bạn phải ở trên tự nhiên; bạn không thể hành xử giống con vật. Mọi người thậm chí đã thử làm con vật không hành xử như con vật; họ đã thử làm cho chúng đi lên cao hơn tự nhiên một chút. 


Vào thời Victoria tại England chó được mặc quần áo khi người ta đưa chúng đi dạo. Chó có cái áo choàng để ngăn cản chúng khỏi tự nhiên, để ngăn cản chúng khỏi ở truồng và trần trụi – điều vốn thích hợp cho con vật. Những loại người này đang cố gắng nâng con chó của mình lên cao hơn con vật chút ít.

Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng trong thời Victoria ở England, thâm chí đến chân ghế cũng được bao bọc – bởi vì một lý do đơn giản rằng chúng đã được gọi là chân, và chân cần được che đậy. Bertrand Russell, người sống gần một thế kỷ - một cuộc sống dài – nhớ lại thời thơ ấu của mình là việc thấy chân của phụ nữ cũng đủ làm kích động dục. Trang phục được làm thời đó theo cách chúng che phủ hết cả bàn chân; bạn không thể thấy được bàn chân.

Người ta đã tin, cho dù 100 năm trước đây, rằng phụ nữ của gia đình hoàng gia không có hai chân. Hoàng gia bằng cách nào đó khác với thứ dân, người thường, và không ai thấy – và cũng chẳng có khả năng nào để thấy – liệu chân của họ có tách biệt lẫn nhau không. Nhưng bản ngã… những người hoàng gia này đã không làm điều đó rõ ràng: “Điều này là vô nghĩa, chúng tôi là con người như các bạn vậy.” Bản ngã ngăn cản họ. Nếu mọi người sùng bái họ, thế thì sao phải bận tâm? – hãy vẫn cứ là hoàng gia. Đó là một trong những lý do tại sao gia đình hoàng gia lại không cho phép bất kỳ ai, người thường, được lấy người trong hoàng gia, bởi vì người đó có thể phơi bầy toàn bộ vấn đề: “Những người này cũng chỉ là con người như mọi người khác; chẳng có gì hoàng gia về họ cả.” Nhưng trong nhiều thế kỷ họ vẫn duy trì cái ý tưởng này.

Tôi cũng muốn bạn khác với con vật, nhưng không theo nghĩa rằng bạn có thể đi cao hơn tự nhiên – không. Bạn có thể đi sâu hơn tự nhiên, bạn có thể tự nhiên hơn con vật. Chúng không được tự do, chúng đang trong cơn mê sâu; chúng không thể nào làm được bất kỳ điều gì khác hơn điều tổ tiên chúng đã làm từ hàng nghìn năm.

Bạn có thể tự nhiên hơn bất kỳ con vật nào. Bạn có thể đi vào các chiều sâu không đáy của tự nhiên, và bạn có thể đi lên các đỉnh rất cao của tự nhiên, nhưng bạn sẽ không vượt ra ngoài theo bất kỳ cách nào. Bạn sẽ trở thành tự nhiên hơn, bạn sẽ trở thành tự nhiên nhiều chiều hơn. Với tôi con người tôn giáo không phải là người ở trên tự nhiên, mà là người hoàn toàn tự nhiên, tràn đầy tự nhiên, người đã thám hiểm tự nhiên theo đủ mọi chiều của nó, người đã không bỏ lại cái gì không được thám hiểm.


Con vật là tù nhân; chúng có một vùng giới hạn của sự hiện hữu. Con người có khả năng, thông minh, tự do để thám hiểm. Và nếu bạn đã thám hiểm tự nhiên một cách toàn bộ, bạn đã về tới nhà – tự nhiên là nhà bạn. Và thế thì cái chết là niềm vui, là lễ hội. Thế thì bạn chết không phàn nàn gì; bạn chết với sự biết ơn sâu sắc, bởi vì cuộc sống đã cho bạn nhiều thế, còn cái chết đơn giản là chiều cao tối thượng cảu tất cả những điều bạn đã sống.

Cũng giống như trước khi ngọn lửa của cây nến tắt đi nó bùng lên cháy sáng nhất. Con người tự nhiên, trứ khi người đó chết, sống sáng rực trong khoảnh khắc; người đó là tất cả ánh sáng, tất cả chân lý. Với tôi điều này là cái chết tự nhiên. Nhưng nó phải được giành lấy, nó không được tráo cho bạn. cơ hội này được trao cho bạn, nhưng bạn phải thám hiểm, bạn phải giành lấy nó, bạn phải xứng đáng.

Thậm chí để thấy cái chết của một người đích thực, chỉ cần ở gần người đó trong khi người đó chết, bạn sẽ bỗng nhiên được tràn đầy với niềm vui kỳ lạ. Nước mắt bạn sẽ phải bởi buồn bã, buồn rầu; chúng sẽ là bởi lòng biết ơn và phúc lạc – bởi vì khi một người chết một cách tự nhiên, việc sống của người đó tràn đầy, người đó trải rộng bản thể mình vào trong toàn thể tự nhiên. Những người hiện diện và ở gần người đó đều được tắm… một sự tươi mát bất thần, một làn gió thoảng, một hương thơm mới và cái gì đó xấu, rằng cái chết không phải là cái gì đó phải sợ, rằng cái chết là cái gì đó phải giành lấy, phải được xứng đáng.

Tôi dạy bạn nghệ thuật của cuộc sống. Nhưng nó cũng có thể được gọi là nghệ thuật của cái chết nữa. Chúng cả hai đều như nhau.

Trong tâm trí phương Tây, ốm bệnh, bệnh tật, đau đớn và cái chết tất cả được nhóm lại – được gói lại thành một gói. Từ đó vấn đề nảy sinh.

Cái chết là đẹp; ốm bệnh thì không, đau đớn thì không, bệnh tật cũng không đẹp. Cái chết không phải là lưỡi gươm cắt đứt cuộc sống bạn, nó giống như bông hoa vậy – bông hoa tối thượng – cái nở ra vào khoảnh khắc chót. Nó là đỉnh cao. Cái chết là bông hoa trên cây của cuộc sống. Nó không phải là việc chấm dứt cuộc sống mà là cao trào. Nó là niềm vui cực thích tối thượng. Chẳng có gì sai trong cái chết cả; nó là đẹp – nhưng người ta cần biết cách sống và cách chết. Có nghệ thuật sống và có nghệ thuật chết; và nghệ thuật thứ hai còn giá trị nhiều hơn nghệ thuật thứ nhất. Nhưng nghệ thuật thứ hai có thể được biêt tới chỉ khi bạn đã biết nghệ thuật thứ nhất. Chỉ những người biết cách sống đúng mới biết cách chết đúng. Và thế thì cái chết là cánh cửa tới điều thiêng liêng.

Cho nên, điều đầu tiên: xin hãy giữ cái chết tách rời ra. Nghề y chỉ nghĩ đến ốm yếu, bệnh tật và đau khổ. Họ không cần tranh đấu chống lại cái chết. Điều đó đang tạo ra rắc rối trong tâm trí phương Tây, trong các bệnh viện phương Tây, trong y học phương Tây. Mọi người đang tranh đấu chống lại cái chết. Mọi người gần như sống dật dờ trong bệnh viện, chỉ sống dựa vào thuốc. Họ bị buộc phải sống một cách không cần thiết khi họ đáng sẽ chết một cách tự nhiên. Qua việc hỗ trợ của thuốc cái chết của họ bị trì hoãn. Họ không còn công dụng gì, cuộc sống không còn công dụng gì cho họ, trò chơi đã hết, họ đã chấm dứt. Bây giờ giữ cho họ sống chỉ làm cho họ đau khổ thêm. Đôi khi họ có thể trong cơn mê, và một người có thể trong cơn mê hàng tháng hay nhiều năm. Nhưng bởi vì có sự đối nghịch với cái chết nên điều đó đã trở thành vấn đề lớn trong tâm trí phương Tây: phải làm gì khi một người đang trong cơn mê và sẽ không bao giờ khôi phục lại, nhưng có thể giữ cho sống nhiều năm? Người đó sẽ là cái xác, chỉ là cái xác thở, có thế thôi. Người đó đơn giản sống dật dờ, sẽ không có cuộc sống. Vấn đề là gì? Tại sao không cho phép người đó chết? Có nỗi sợ về cái chết. Cái chết là kẻ thù – làm sao lại đầu hàng kẻ thù, cái chết?

Cho nên có tranh luận sôi nổi trong tâm trí ý học phương Tây. Phải làm gì? Người có có nên được phép chết không? Người ta có nên được phép quyết định liệu mình muốn chết? Gia đình có nên được phép quyết định liệu họ muốn người đó chết hay không? – bởi vì đôi khi người này có thể vô ý thức và không thể quyết định được. Nhưng có quyền giúp ai đó chết đi không? Nỗi sợ lớn nảy sinh trong tâm trí phương Tây. Chết đi sao? Điều đó có nghĩa là bạn đang giết người! Toàn bộ khoa học tồn tại để giúp cho người đó sống. Bây giờ điều này là ngu xuẩn! Cuộc sống trong bản thân nó không có giá trị trừ phi có niềm vui trừ khi có điệu vũ, trừ phi có cái gì đó sáng tạo, trừ phi có tình yêu – cuộc sống trong bản thân nó là vô nghĩa. Chỉ sống là vô nghĩa. Một điểm sẽ tới khi người ta đã sống, một điểm tới khi chết là tự nhiên, khi chết đi là đẹp. Hệt như khi bạn đã làm xong việc cả ngày, một điểm tới khi bạn rơi vào giấc ngủ; cái chết là mọt loại giấc ngủ  - giấc ngủ sâu hơn. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa trong một thân thể mới hơn với máy móc mới hơn, với những tiện nghi mới, với những cơ hội mới, thách thức mới. Thân thể này già rồi và người ta phải bỏ lại nó; nó chỉ là chỗ trú ngụ…

Tại phương Đông chúng ta có cái nhìn khác: cái chết không phải là thù mà là bạn. Cái chết cho bạn sự nghỉ ngơi. Bạn đã trở nên mệt mỏi, bạn đã sống cuộc sống của mình, bạn đã biết tất cả mọi niềm vui có thể được biết đến trong cuộc sống, bạn đã đốt cháy toàn bộ cây nến của mình. Bây giờ hãy đi vào trong bóng tối, hãy nghỉ ngơi một chốc và thế rồi bạn có thể được sinh ra lần nữa. Cái chết sẽ làm sống lại bạn lần nữa theo một cách tươi tắn hơn.

Cho nên điều đầu tiên: Cái chết không phải là kẻ thù.

Điều thứ hai: Cái chết là kinh nghiệm lớn nhất trong cuộc sống nếu bạn có thể chết một cách có ý thức. Và bạn có thể chết một cách có ý thức chỉ nếu bạn không sợ nó. Nếu bạn chống lại nó bạn trở nên rất hãi hùng, rất sợ sệt. Khi bạn sợ đến mức mà bạn không thể nào dung thứ được cái sợ đó, có một cơ chế tự nhiên trong thân thể, tiết ra thuốc mê vào trong thân thể và bạn trở nên vô ý thức. Có một điểm mà bên ngoài nó khả năng chịu đựng sẽ không thể có được; bạn trở thành vô ý thức. Cho nên hàng triệu người chết đi một cách vô ý thức và bở lỡ một khoảnh khắc vĩ đại, vĩ đại nhất trong tất cả các khoảnh khắc. Đó là samadhi, đó là satori, đó là thiền xảy ra cho bạn. Đó là món quà tự nhiên.

Nếu bạn có thể tỉnh táo và bạn có thể thấy rằng bạn không phải là thân thể… Bạn sẽ phải thấy, bởi vì thân thể sẽ biến mất. Chẳng mấy chốc bạn sẽ có khả năng thấy rằng bạn không phải là thân thể, bạn tách biệt. Thế thì bạn sẽ thấy bạn đang tách khỏi tâm trí nữa; thế thì tâm trí sẽ biến mất. Và thế thì bạn sẽ chỉ là ngọn lửa của nhận biết, và đó là phúc lành lớn nhất có đó. Cho nên đừng nghĩ về cái chết như ốm yếu, bệnh tật và đau khổ của con người.

Tự do chọn lựa cái chết của bạn nên được chấp nhận như quyền tập ấn của mọi con người. Một giới hạn có thể được đặt ra cho nó, chẳng hạn, 75 tuổi. Sau độ tuổi 75 bệnh viện nên sẵn sàng giúp cho bất kỳ ai muốn gạt bỏ thân thể mình. Mọi bệnh viện nên có một nơi dành cho người sắp chết, và những người đã chọn cái chết nên được trao cho sự quan tâm và giúp đỡ đặt biệt. Cái chết của họ sẽ đẹp. 


Mọi bệnh biện nên có một giáo viên về thiền.

Người sắp chết nên được cho một tháng và sẽ được cho phép… nếu người đó đổi ý kiến người đó có thể quay lại, bởi vì không ai ép buộc người đó. Những người hay xúc động, người muốn tự tử không thể vẫn còn xúc động trong 1 tháng – xúc động có thể là tạm thời. Phần lớn những người tự tử, nếu họ chờ đợi một thời gian lâu hơn, họ sẽ không tự tử chút nào. Đấy là từ giận dữ, ghen tỵ, từ thù hận hay cái gì đó mà họ quên mất giá trị của cuộc sống.

Toàn bộ vấn đề là ở chỗ các chính khách coi việc chấp nhận chết tự nguyện, có nghĩa là tự tử, không là tội ác. Không, điều đó không có nghĩa là như thế. Tự tử vẫn là một tội ác.

Chết tự nguyện sẽ là việc cho phép của ban y tế. Việc ở lại 1 tháng trong bệnh viện – mọi loại giúp đỡ có thể được trao cho người này để trở nên bình thản và yên tĩnh… tất cả bạn bè tới gặp gặp người đó, vợ người đó, con người đó, bởi vì người đó đang đi trên một cuộc hành trình dài. Không có vấn đề ngăn cản người đó – người đó đã sống lâu, và người đó không muốn tiếp tục sống nữa, công việc của người đó đã sống lâu, và người đó không muốn tiếp tục sống nữa, công việc của người đó đã kết thúc.

Và người đó nên được dạy thiền trong 1 tháng này, để cho người đó có thể thiền trong khi cái chết tới. Và với cái chết, sự giúp đỡ của thuốc nên được trao cho để cho nó tới như giấc ngủ - dần dần, song song với thiền, giấc ngủ trở thành sâu hơn. Chúng ta có thể thay đổi cái chết của hàng nghìn người thành chứng ngộ. Và không có nỗi sợ tự tử, bởi vì người đó không định tự tử; nếu ai đó cố tự tử người đó vẫn sẽ phạm tội ác. Người đó đang yêu cầu việc cho phép. Với việc cho phép của ban y tế… và người đó có thời gian một tháng trong đó người đó có thể thay đổi ý kiến của mình vào bất kỳ lúc nào. Vào ngày cuối cùng người đó có thể nói: “Tôi không muốn chết” – thế thì người đó có thể về nhà. Không có vấn đề trong đó: đấy là quyết định của người đó.

Ngay bây giờ có một tình huống rất kỳ lạ trong nhiều nước. Mọi người cố gắng tự tử: nếu họ thành công, thì tốt; nếu họ không thành công, thế thì tòa án phạt họ tội chết. Kỳ lạ thế! – bản thân họ đã làm điều đó. Họ đã bị vướng giữa chừng. Bây giờ trong hai năm việc xử án sẽ diễn ra; chánh án và luật sư sẽ tranh luận, và thế này thế nọ, và cuối cùng người này phải bị treo cổ, lần nữa. Người đó đã làm điều đó ngay chỗ đầu tiên, tự mình! Tại sao lại tất cả những điều vô nghĩa này?

Chết tự nguyện đang trở thành ngày càng cần hơn, bởi vì với tiến bộ y học mọi người đang sống lâu hơn. Các nhà khoa học vẫn chưa bắt gặp bộ xương nào từ 5000 năm trước đây của một người quá 40 tuổi khi người đó chết. 5000 năm trước người ta sống lâu nhất không quá 40 tuổi, và trong 10 đứa con sinh ra thì 9 đứa chết đi trong vòng 2 năm – chỉ 1 đứa sống sót – cho nên cuộc sống có giá trị mênh mông.

Hyppocrates đã đưa ra lời thề với nghề y rằng bạn phải giúp đỡ cuộc sống trong mọi trường hợp. Ông ấy không nhận biết – ông ấy không phải là nhà tiên tri – ông ấy đã không có sáng suốt để thấy rằng một ngày có thể tới khi trong 10 đứa trẻ, cả 10 đều sống sót. Bây giờ điều đó đang xảy ra. Một mặt, 9 đứa nữa sống sót; và mặt khác, y học giúp cho mọi người sống lâu hơn – 90 tuổi, 100 tuổi không phải là hiếm. Trong các nước đã phát triển rất dễ tìm ra người 90 tuổi hay 100 tuổi.

Tại Liên Xô có người đã đạt tới 150 tuổi, và có vài nghìn người đã đạt tới 180 tuổi – và họ vẫn còn làm việc. Nhưng bây giờ cuộc sống đã trở thành nhàm chán. 180 năm, hãy nghĩ về điều đó, làm cùng một thứ - thậm chí đến xương cũng sẽ đau – và vậy mà họ vẫn không có khả năng chết. Cái chết vẫn dường như là xa xôi – họ vẫn làm việc và mạnh khỏe.

Tại Mỹ có hàng nghìn người trong các bệnh viện chỉ nằm trong giường với đủ mọi loại dụng cụ được nối vào họ. Nhiều người đang dùng máy thở nhân tạo. Phỏng có ích gì nếu bản thân người đó không thể thở được? Bạn trông đợi người đó làm gì? Và tại sao bạn lại làm cho cả quốc gia nặng gánh bởi con người này khi có nhiều người đang chết trên phố, chết đói?

Ba mươi triệu người ở Mỹ ở ngoài phố không nơi trú ẩn, không thức ăn, không quần áo, và hàng nghìn người đang chiếm các giường bệnh viện, bác sỹ, y tá – công việc cua họ, lao động của họ, họ, thuốc men. Mọi người đều biết họ sẽ chết sớm hay muộn, nhưng chừng nào mà bạn vẫn có thể thì bạn vẫn phải giữ họ sống. Họ muốn chết. Họ hét lên là họ muốn chết, nhưng bác sỹ chẳng thể giúp cho điều đó. Những người này chắc chắn là cần một quyền nào đó; họ đang bị buộc phải sống, và theo mọi cách thức bắt buộc là không dân chủ.

Cho nên tôi muốn điều đó là điều rất hợp lý. Hãy làm điều đó 75 năm hay 80 năm, thế thì cuộc sống được sống đủ. Trẻ con lớn lên… khi bạn 80, con bạn sẽ 50, 55; họ đang già đi. Bây giờ không có nhu cầu cho bạn để phải bận tâm và lo nghĩ. Bạn nghỉ ngơi; bây giờ bạn đơn giản là gánh nặng, bạn không biết làm cái gì.

Và đó là lý do tại sao người già lại cáu bẳn thế - bởi vì họ không có việc gì, họ không có bất kỳ sự kính trọng nào, họ không có bất kỳ chân giá trị nào. Không ai bận tâm về họ, không ai để ý đến họ. Họ sẵn sàng đánh nhau, giận dữ và hét lên. Đây đơn giản là nỗi thất vọng của họ biểu lộ ra; điều thực là họ muốn chết. Nhưng họ thậm chí không thể nói ra được điều đó. Điều đó là trái giáo lý, điều đó là phi tôn giáo – chính cái ý tưởng về chết.

Họ nên được trao cho tự do, nhưng không chỉ chết; họ nên được trao cho tự do của việc huấn luyện 1 tháng về cách chết. Trong việc huấn luyện đó, thiền nên là phần cơ bản; chăm sóc vật lý nên là một phần cơ bản. Họ nên chết một cách lành mạnh, toàn thể, im lặng, bình an – dần dần trượt sâu vào trong giấc ngủ. Và nếu thiền được nối liền với ngủ thì họ có thể chết được chứng ngộ. Họ có thể biết rằng chỉ thân thể là bị bỏ lại đằng sau,còn họ là một phần của vĩnh hằng.

Cái chết của họ sẽ tốt hơn cái chết thông thường, bởi vì trong cái chết thông thường bạn không có cơ hội trở nên được chứng ngộ. Trong thực tế ngày càng nhiều người sẽ ưa thích chết trong bệnh viện, trong các viện đặc biệt dành cho việc chết nơi mọi thu xếp được tiến hành. Bạn có thể rời bỏ cuộc sống theo cách cực lạc, vui sướng, với sự cám ơn và lòng biết ơn lớn lao.

Tôi hoàn toàn ủng hộ cho việc chết tự nguyện với những điều kiện này.




Chết tự nhiên là gì? Đây là câu hỏi có ý nghĩa, và có nhiều điều ngụ ý có thể có trong đó. Điều đơn giản nhất và hiển nhiên nhất là ở chỗ con người chết đi chẳng có nguyên nhân gì: người đó đơn giản trở nên già đi, già hơn, và việc thay đổi từ tuổi già sang cái chết không qua bất kỳ bệnh tật nào. Cái chết đơn giản là tuổi già tối tượng – mọi thứ trong thân thể bạn, trong não bạn, đều ngừng hoạt động. Đây sẽ là ý nghĩa thông thường và hiển nhiên của cái chết tự nhiên.

Nhưng với tôi cái chết tự nhiên có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều: người ta phải sống cuộc sống tự nhiên để đạt tới cái chết tự nhiên. Cái chết tự nhiên là đỉnh điểm của cuộc sống đã được sống một cách tự nhiên, không bất kỳ cấm đoán nào, không bất kỳ kìm nén nào – hệt như cách con vật sống, chim chóc sống, cây cối sống, không bất kỳ sự chín chắn nào… một cuộc sống buông bỏ, cho phép tự nhiên tuôn chảy qua bạn không có bất kỳ cản trở nào từ phía bạn, dường như bạn vắng mặt và cuộc sống đang di chuyển theo cách riêng của nó. Thay vì bạn sống cuộc sống, cuộc sống sống bạn, bạn là phụ; thế thì đỉnh điểm sẽ là cái chết tự nhiên. Theo định nghĩa của tôi chỉ người đã thức tỉnh mới có thể chết một cách tự nhiên; ngoài ra tất cả mọi cái chết đều phi tự nhiên bởi vì tất cả các cuộc sống là phi tự nhiên.

Làm sao bạn có thể đi tới cái chết tự nhiên, khi sống cuộc sống phi tự nhiên? Cái chết sẽ phản ánh tột đỉnh tối thượng, cao trào của toàn bộ cuộc sống bạn. Dưới dạng cô đọng, nó là tất cả những điều bạn đã sống qua. Cho nên chỉ rất ít người trên thế giới mới chết một cách tự nhiên bởi vì chỉ rất ít người đã sống một cách tự nhiên. Việc huấn luyện của chúng ta không cho phép chúng ta được tự nhiên. Việc huấn luyện của chúng ta, ngay từ ban đầu, dạy chúng ta rằng chúng ta phải là cái gì đó còn hơn tự nhiên, rằng chỉ là tự nhiên mới là con vật; chúng ta phải là siêu tự nhiên. Và điều đó dường như rất logic. Tất cả các tôn giáo đều đã từng thuyết giảng điều này – rằng con người có nghĩa là vượt lên trên tự nhiên – và họ đã thuyết phục nhân loại trong hàng thế kỷ để vượt lên trên tự nhiên. Không ai đã thành công trong việc vượt lên trên tự nhiên cả. Tất cả mọi điều họ thành công là phá hủy cái tự nhiên của họ, cái đẹp tự phát, cái hồn nhiên của họ. Con người không cần siêu việt lên trên tự nhiên. Tôi nói với các bạn, con người phải hoàn toàn tự nhiên – điều không con vật nào làm được. Đó là sự khác biệt.

Tôn giáo đã tinh ranh, dối trá và lừa bịp mọi người. Họ đã tạo ra sự phân biệt rằng con vật là tự nhiên còn bạn phải siêu nhiên. Không con vật nào có thể nhịn ăn; bạn không thể thuyết phục bất kỳ con vật nào rằng nhịn ăn và cái gì đó thiêng liêng. Con vật chỉ biết rằng có đói, và không có sự khác biệt gì giữa nhịn ăn và đói cả. Bạn không thể thuyết phục bất kỳ con vật nào đi ngược với tự nhiên.

Điều này tạo ra một cơ hội cho cái gọi là những người tôn giáo, bởi vì con người có khả năng ít nhất là đấu tranh chống lại tự nhiên. Người đó sẽ không bao giờ thắng lợi cả, nhưng người đó có thể tranh đấu. Và trong tranh đấu người đó sẽ không phá hủy tự nhiên; người đó sẽ phá hủy chỉ bản thân mình. Đó là cách con người đã phá hủy bản thân mình – tất cả mọi niềm vui của mình, tất cả mọi tình yêu của mình, tất cả mọi sự vĩ đại của mình – và đã không trở thành một cái gì đó cao hơn con vật, mà là một cái gì đó thấp hơn, trong mọi cách có thể. Có lẽ các bạn chưa bao giờ nghĩ về nó: không con vật hoang dã nào lại đồng dục. Chính cái ý tưởng này, và toàn bộ thế giới con vật sẽ phá lên cười. Điều đó đơn giản là xuẩn ngốc! Nhưng trong vườn thú, nơi con cái không có sẵn, con vật biến thành đồng dục do sự cần thiết cực điểm.

Nhưng con người đã biến thế giới này thành vườn bách thú: hàng triệu và hàng triệu người đồng dục, đồng dục nữ, người thú dâm, và đủ thứ tầm thường – đủ mọi loại đồi bại. Va ai chịu trách nhiệm? Người dạy bạn vượt ra ngoài tự nhiên,đạt tới điều thiêng liêng siêu nhiên…

Bất kỳ khi nào bạn ép buộc điều gì đó, thì kết quả không định đem lại sự cải thiện. Trong nhiều lĩnh vực, bởi các tôn giáo khác nhau, điều đó đã được thử để làm cho con người là một cái gì đó trên tự nhiên. Kết quả đã là thất bại, không ngoại lệ nào cả. Ban được sinh ra như một sinh linh tự nhiên. Bạn không thể nào vượt lên trên bản thân mình. Đấy cũng hệt như là tự nâng mình lên khỏi mặt đất bằng việc kéo chân mình lên. Bạn có thể nhẩy lên một chút, nhưng sớm hay muộn bạn rơi trở lại mặt đất, và bạn có thể bị gãy xương. Bạn không thể bay được. 

Và đó là điều đã được làm. Mọi người đã cố gắng nâng mình lên trên tự nhiên, điều có nghĩa là trên bản thân mình. Họ không tách khỏi tự nhiên, nhưng ý tưởng này phù hợp với bản ngã họ: bạn không phải là con vật nên bạn phải ở trên tự nhiên; bạn không thể hành xử giống con vật. Mọi người thậm chí đã thử làm con vật không hành xử như con vật; họ đã thử làm cho chúng đi lên cao hơn tự nhiên một chút. 


Vào thời Victoria tại England chó được mặc quần áo khi người ta đưa chúng đi dạo. Chó có cái áo choàng để ngăn cản chúng khỏi tự nhiên, để ngăn cản chúng khỏi ở truồng và trần trụi – điều vốn thích hợp cho con vật. Những loại người này đang cố gắng nâng con chó của mình lên cao hơn con vật chút ít.

Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng trong thời Victoria ở England, thâm chí đến chân ghế cũng được bao bọc – bởi vì một lý do đơn giản rằng chúng đã được gọi là chân, và chân cần được che đậy. Bertrand Russell, người sống gần một thế kỷ - một cuộc sống dài – nhớ lại thời thơ ấu của mình là việc thấy chân của phụ nữ cũng đủ làm kích động dục. Trang phục được làm thời đó theo cách chúng che phủ hết cả bàn chân; bạn không thể thấy được bàn chân.

Người ta đã tin, cho dù 100 năm trước đây, rằng phụ nữ của gia đình hoàng gia không có hai chân. Hoàng gia bằng cách nào đó khác với thứ dân, người thường, và không ai thấy – và cũng chẳng có khả năng nào để thấy – liệu chân của họ có tách biệt lẫn nhau không. Nhưng bản ngã… những người hoàng gia này đã không làm điều đó rõ ràng: “Điều này là vô nghĩa, chúng tôi là con người như các bạn vậy.” Bản ngã ngăn cản họ. Nếu mọi người sùng bái họ, thế thì sao phải bận tâm? – hãy vẫn cứ là hoàng gia. Đó là một trong những lý do tại sao gia đình hoàng gia lại không cho phép bất kỳ ai, người thường, được lấy người trong hoàng gia, bởi vì người đó có thể phơi bầy toàn bộ vấn đề: “Những người này cũng chỉ là con người như mọi người khác; chẳng có gì hoàng gia về họ cả.” Nhưng trong nhiều thế kỷ họ vẫn duy trì cái ý tưởng này.

Tôi cũng muốn bạn khác với con vật, nhưng không theo nghĩa rằng bạn có thể đi cao hơn tự nhiên – không. Bạn có thể đi sâu hơn tự nhiên, bạn có thể tự nhiên hơn con vật. Chúng không được tự do, chúng đang trong cơn mê sâu; chúng không thể nào làm được bất kỳ điều gì khác hơn điều tổ tiên chúng đã làm từ hàng nghìn năm.

Bạn có thể tự nhiên hơn bất kỳ con vật nào. Bạn có thể đi vào các chiều sâu không đáy của tự nhiên, và bạn có thể đi lên các đỉnh rất cao của tự nhiên, nhưng bạn sẽ không vượt ra ngoài theo bất kỳ cách nào. Bạn sẽ trở thành tự nhiên hơn, bạn sẽ trở thành tự nhiên nhiều chiều hơn. Với tôi con người tôn giáo không phải là người ở trên tự nhiên, mà là người hoàn toàn tự nhiên, tràn đầy tự nhiên, người đã thám hiểm tự nhiên theo đủ mọi chiều của nó, người đã không bỏ lại cái gì không được thám hiểm.


Con vật là tù nhân; chúng có một vùng giới hạn của sự hiện hữu. Con người có khả năng, thông minh, tự do để thám hiểm. Và nếu bạn đã thám hiểm tự nhiên một cách toàn bộ, bạn đã về tới nhà – tự nhiên là nhà bạn. Và thế thì cái chết là niềm vui, là lễ hội. Thế thì bạn chết không phàn nàn gì; bạn chết với sự biết ơn sâu sắc, bởi vì cuộc sống đã cho bạn nhiều thế, còn cái chết đơn giản là chiều cao tối thượng cảu tất cả những điều bạn đã sống.

Cũng giống như trước khi ngọn lửa của cây nến tắt đi nó bùng lên cháy sáng nhất. Con người tự nhiên, trứ khi người đó chết, sống sáng rực trong khoảnh khắc; người đó là tất cả ánh sáng, tất cả chân lý. Với tôi điều này là cái chết tự nhiên. Nhưng nó phải được giành lấy, nó không được tráo cho bạn. cơ hội này được trao cho bạn, nhưng bạn phải thám hiểm, bạn phải giành lấy nó, bạn phải xứng đáng.

Thậm chí để thấy cái chết của một người đích thực, chỉ cần ở gần người đó trong khi người đó chết, bạn sẽ bỗng nhiên được tràn đầy với niềm vui kỳ lạ. Nước mắt bạn sẽ phải bởi buồn bã, buồn rầu; chúng sẽ là bởi lòng biết ơn và phúc lạc – bởi vì khi một người chết một cách tự nhiên, việc sống của người đó tràn đầy, người đó trải rộng bản thể mình vào trong toàn thể tự nhiên. Những người hiện diện và ở gần người đó đều được tắm… một sự tươi mát bất thần, một làn gió thoảng, một hương thơm mới và cái gì đó xấu, rằng cái chết không phải là cái gì đó phải sợ, rằng cái chết là cái gì đó phải giành lấy, phải được xứng đáng.

Tôi dạy bạn nghệ thuật của cuộc sống. Nhưng nó cũng có thể được gọi là nghệ thuật của cái chết nữa. Chúng cả hai đều như nhau.

Trong tâm trí phương Tây, ốm bệnh, bệnh tật, đau đớn và cái chết tất cả được nhóm lại – được gói lại thành một gói. Từ đó vấn đề nảy sinh.

Cái chết là đẹp; ốm bệnh thì không, đau đớn thì không, bệnh tật cũng không đẹp. Cái chết không phải là lưỡi gươm cắt đứt cuộc sống bạn, nó giống như bông hoa vậy – bông hoa tối thượng – cái nở ra vào khoảnh khắc chót. Nó là đỉnh cao. Cái chết là bông hoa trên cây của cuộc sống. Nó không phải là việc chấm dứt cuộc sống mà là cao trào. Nó là niềm vui cực thích tối thượng. Chẳng có gì sai trong cái chết cả; nó là đẹp – nhưng người ta cần biết cách sống và cách chết. Có nghệ thuật sống và có nghệ thuật chết; và nghệ thuật thứ hai còn giá trị nhiều hơn nghệ thuật thứ nhất. Nhưng nghệ thuật thứ hai có thể được biêt tới chỉ khi bạn đã biết nghệ thuật thứ nhất. Chỉ những người biết cách sống đúng mới biết cách chết đúng. Và thế thì cái chết là cánh cửa tới điều thiêng liêng.

Cho nên, điều đầu tiên: xin hãy giữ cái chết tách rời ra. Nghề y chỉ nghĩ đến ốm yếu, bệnh tật và đau khổ. Họ không cần tranh đấu chống lại cái chết. Điều đó đang tạo ra rắc rối trong tâm trí phương Tây, trong các bệnh viện phương Tây, trong y học phương Tây. Mọi người đang tranh đấu chống lại cái chết. Mọi người gần như sống dật dờ trong bệnh viện, chỉ sống dựa vào thuốc. Họ bị buộc phải sống một cách không cần thiết khi họ đáng sẽ chết một cách tự nhiên. Qua việc hỗ trợ của thuốc cái chết của họ bị trì hoãn. Họ không còn công dụng gì, cuộc sống không còn công dụng gì cho họ, trò chơi đã hết, họ đã chấm dứt. Bây giờ giữ cho họ sống chỉ làm cho họ đau khổ thêm. Đôi khi họ có thể trong cơn mê, và một người có thể trong cơn mê hàng tháng hay nhiều năm. Nhưng bởi vì có sự đối nghịch với cái chết nên điều đó đã trở thành vấn đề lớn trong tâm trí phương Tây: phải làm gì khi một người đang trong cơn mê và sẽ không bao giờ khôi phục lại, nhưng có thể giữ cho sống nhiều năm? Người đó sẽ là cái xác, chỉ là cái xác thở, có thế thôi. Người đó đơn giản sống dật dờ, sẽ không có cuộc sống. Vấn đề là gì? Tại sao không cho phép người đó chết? Có nỗi sợ về cái chết. Cái chết là kẻ thù – làm sao lại đầu hàng kẻ thù, cái chết?

Cho nên có tranh luận sôi nổi trong tâm trí ý học phương Tây. Phải làm gì? Người có có nên được phép chết không? Người ta có nên được phép quyết định liệu mình muốn chết? Gia đình có nên được phép quyết định liệu họ muốn người đó chết hay không? – bởi vì đôi khi người này có thể vô ý thức và không thể quyết định được. Nhưng có quyền giúp ai đó chết đi không? Nỗi sợ lớn nảy sinh trong tâm trí phương Tây. Chết đi sao? Điều đó có nghĩa là bạn đang giết người! Toàn bộ khoa học tồn tại để giúp cho người đó sống. Bây giờ điều này là ngu xuẩn! Cuộc sống trong bản thân nó không có giá trị trừ phi có niềm vui trừ khi có điệu vũ, trừ phi có cái gì đó sáng tạo, trừ phi có tình yêu – cuộc sống trong bản thân nó là vô nghĩa. Chỉ sống là vô nghĩa. Một điểm sẽ tới khi người ta đã sống, một điểm tới khi chết là tự nhiên, khi chết đi là đẹp. Hệt như khi bạn đã làm xong việc cả ngày, một điểm tới khi bạn rơi vào giấc ngủ; cái chết là mọt loại giấc ngủ  - giấc ngủ sâu hơn. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa trong một thân thể mới hơn với máy móc mới hơn, với những tiện nghi mới, với những cơ hội mới, thách thức mới. Thân thể này già rồi và người ta phải bỏ lại nó; nó chỉ là chỗ trú ngụ…

Tại phương Đông chúng ta có cái nhìn khác: cái chết không phải là thù mà là bạn. Cái chết cho bạn sự nghỉ ngơi. Bạn đã trở nên mệt mỏi, bạn đã sống cuộc sống của mình, bạn đã biết tất cả mọi niềm vui có thể được biết đến trong cuộc sống, bạn đã đốt cháy toàn bộ cây nến của mình. Bây giờ hãy đi vào trong bóng tối, hãy nghỉ ngơi một chốc và thế rồi bạn có thể được sinh ra lần nữa. Cái chết sẽ làm sống lại bạn lần nữa theo một cách tươi tắn hơn.

Cho nên điều đầu tiên: Cái chết không phải là kẻ thù.

Điều thứ hai: Cái chết là kinh nghiệm lớn nhất trong cuộc sống nếu bạn có thể chết một cách có ý thức. Và bạn có thể chết một cách có ý thức chỉ nếu bạn không sợ nó. Nếu bạn chống lại nó bạn trở nên rất hãi hùng, rất sợ sệt. Khi bạn sợ đến mức mà bạn không thể nào dung thứ được cái sợ đó, có một cơ chế tự nhiên trong thân thể, tiết ra thuốc mê vào trong thân thể và bạn trở nên vô ý thức. Có một điểm mà bên ngoài nó khả năng chịu đựng sẽ không thể có được; bạn trở thành vô ý thức. Cho nên hàng triệu người chết đi một cách vô ý thức và bở lỡ một khoảnh khắc vĩ đại, vĩ đại nhất trong tất cả các khoảnh khắc. Đó là samadhi, đó là satori, đó là thiền xảy ra cho bạn. Đó là món quà tự nhiên.

Nếu bạn có thể tỉnh táo và bạn có thể thấy rằng bạn không phải là thân thể… Bạn sẽ phải thấy, bởi vì thân thể sẽ biến mất. Chẳng mấy chốc bạn sẽ có khả năng thấy rằng bạn không phải là thân thể, bạn tách biệt. Thế thì bạn sẽ thấy bạn đang tách khỏi tâm trí nữa; thế thì tâm trí sẽ biến mất. Và thế thì bạn sẽ chỉ là ngọn lửa của nhận biết, và đó là phúc lành lớn nhất có đó. Cho nên đừng nghĩ về cái chết như ốm yếu, bệnh tật và đau khổ của con người.

Tự do chọn lựa cái chết của bạn nên được chấp nhận như quyền tập ấn của mọi con người. Một giới hạn có thể được đặt ra cho nó, chẳng hạn, 75 tuổi. Sau độ tuổi 75 bệnh viện nên sẵn sàng giúp cho bất kỳ ai muốn gạt bỏ thân thể mình. Mọi bệnh viện nên có một nơi dành cho người sắp chết, và những người đã chọn cái chết nên được trao cho sự quan tâm và giúp đỡ đặt biệt. Cái chết của họ sẽ đẹp. 


Mọi bệnh biện nên có một giáo viên về thiền.

Người sắp chết nên được cho một tháng và sẽ được cho phép… nếu người đó đổi ý kiến người đó có thể quay lại, bởi vì không ai ép buộc người đó. Những người hay xúc động, người muốn tự tử không thể vẫn còn xúc động trong 1 tháng – xúc động có thể là tạm thời. Phần lớn những người tự tử, nếu họ chờ đợi một thời gian lâu hơn, họ sẽ không tự tử chút nào. Đấy là từ giận dữ, ghen tỵ, từ thù hận hay cái gì đó mà họ quên mất giá trị của cuộc sống.

Toàn bộ vấn đề là ở chỗ các chính khách coi việc chấp nhận chết tự nguyện, có nghĩa là tự tử, không là tội ác. Không, điều đó không có nghĩa là như thế. Tự tử vẫn là một tội ác.

Chết tự nguyện sẽ là việc cho phép của ban y tế. Việc ở lại 1 tháng trong bệnh viện – mọi loại giúp đỡ có thể được trao cho người này để trở nên bình thản và yên tĩnh… tất cả bạn bè tới gặp gặp người đó, vợ người đó, con người đó, bởi vì người đó đang đi trên một cuộc hành trình dài. Không có vấn đề ngăn cản người đó – người đó đã sống lâu, và người đó không muốn tiếp tục sống nữa, công việc của người đó đã sống lâu, và người đó không muốn tiếp tục sống nữa, công việc của người đó đã kết thúc.

Và người đó nên được dạy thiền trong 1 tháng này, để cho người đó có thể thiền trong khi cái chết tới. Và với cái chết, sự giúp đỡ của thuốc nên được trao cho để cho nó tới như giấc ngủ - dần dần, song song với thiền, giấc ngủ trở thành sâu hơn. Chúng ta có thể thay đổi cái chết của hàng nghìn người thành chứng ngộ. Và không có nỗi sợ tự tử, bởi vì người đó không định tự tử; nếu ai đó cố tự tử người đó vẫn sẽ phạm tội ác. Người đó đang yêu cầu việc cho phép. Với việc cho phép của ban y tế… và người đó có thời gian một tháng trong đó người đó có thể thay đổi ý kiến của mình vào bất kỳ lúc nào. Vào ngày cuối cùng người đó có thể nói: “Tôi không muốn chết” – thế thì người đó có thể về nhà. Không có vấn đề trong đó: đấy là quyết định của người đó.

Ngay bây giờ có một tình huống rất kỳ lạ trong nhiều nước. Mọi người cố gắng tự tử: nếu họ thành công, thì tốt; nếu họ không thành công, thế thì tòa án phạt họ tội chết. Kỳ lạ thế! – bản thân họ đã làm điều đó. Họ đã bị vướng giữa chừng. Bây giờ trong hai năm việc xử án sẽ diễn ra; chánh án và luật sư sẽ tranh luận, và thế này thế nọ, và cuối cùng người này phải bị treo cổ, lần nữa. Người đó đã làm điều đó ngay chỗ đầu tiên, tự mình! Tại sao lại tất cả những điều vô nghĩa này?

Chết tự nguyện đang trở thành ngày càng cần hơn, bởi vì với tiến bộ y học mọi người đang sống lâu hơn. Các nhà khoa học vẫn chưa bắt gặp bộ xương nào từ 5000 năm trước đây của một người quá 40 tuổi khi người đó chết. 5000 năm trước người ta sống lâu nhất không quá 40 tuổi, và trong 10 đứa con sinh ra thì 9 đứa chết đi trong vòng 2 năm – chỉ 1 đứa sống sót – cho nên cuộc sống có giá trị mênh mông.

Hyppocrates đã đưa ra lời thề với nghề y rằng bạn phải giúp đỡ cuộc sống trong mọi trường hợp. Ông ấy không nhận biết – ông ấy không phải là nhà tiên tri – ông ấy đã không có sáng suốt để thấy rằng một ngày có thể tới khi trong 10 đứa trẻ, cả 10 đều sống sót. Bây giờ điều đó đang xảy ra. Một mặt, 9 đứa nữa sống sót; và mặt khác, y học giúp cho mọi người sống lâu hơn – 90 tuổi, 100 tuổi không phải là hiếm. Trong các nước đã phát triển rất dễ tìm ra người 90 tuổi hay 100 tuổi.

Tại Liên Xô có người đã đạt tới 150 tuổi, và có vài nghìn người đã đạt tới 180 tuổi – và họ vẫn còn làm việc. Nhưng bây giờ cuộc sống đã trở thành nhàm chán. 180 năm, hãy nghĩ về điều đó, làm cùng một thứ - thậm chí đến xương cũng sẽ đau – và vậy mà họ vẫn không có khả năng chết. Cái chết vẫn dường như là xa xôi – họ vẫn làm việc và mạnh khỏe.

Tại Mỹ có hàng nghìn người trong các bệnh viện chỉ nằm trong giường với đủ mọi loại dụng cụ được nối vào họ. Nhiều người đang dùng máy thở nhân tạo. Phỏng có ích gì nếu bản thân người đó không thể thở được? Bạn trông đợi người đó làm gì? Và tại sao bạn lại làm cho cả quốc gia nặng gánh bởi con người này khi có nhiều người đang chết trên phố, chết đói?

Ba mươi triệu người ở Mỹ ở ngoài phố không nơi trú ẩn, không thức ăn, không quần áo, và hàng nghìn người đang chiếm các giường bệnh viện, bác sỹ, y tá – công việc cua họ, lao động của họ, họ, thuốc men. Mọi người đều biết họ sẽ chết sớm hay muộn, nhưng chừng nào mà bạn vẫn có thể thì bạn vẫn phải giữ họ sống. Họ muốn chết. Họ hét lên là họ muốn chết, nhưng bác sỹ chẳng thể giúp cho điều đó. Những người này chắc chắn là cần một quyền nào đó; họ đang bị buộc phải sống, và theo mọi cách thức bắt buộc là không dân chủ.

Cho nên tôi muốn điều đó là điều rất hợp lý. Hãy làm điều đó 75 năm hay 80 năm, thế thì cuộc sống được sống đủ. Trẻ con lớn lên… khi bạn 80, con bạn sẽ 50, 55; họ đang già đi. Bây giờ không có nhu cầu cho bạn để phải bận tâm và lo nghĩ. Bạn nghỉ ngơi; bây giờ bạn đơn giản là gánh nặng, bạn không biết làm cái gì.

Và đó là lý do tại sao người già lại cáu bẳn thế - bởi vì họ không có việc gì, họ không có bất kỳ sự kính trọng nào, họ không có bất kỳ chân giá trị nào. Không ai bận tâm về họ, không ai để ý đến họ. Họ sẵn sàng đánh nhau, giận dữ và hét lên. Đây đơn giản là nỗi thất vọng của họ biểu lộ ra; điều thực là họ muốn chết. Nhưng họ thậm chí không thể nói ra được điều đó. Điều đó là trái giáo lý, điều đó là phi tôn giáo – chính cái ý tưởng về chết.

Họ nên được trao cho tự do, nhưng không chỉ chết; họ nên được trao cho tự do của việc huấn luyện 1 tháng về cách chết. Trong việc huấn luyện đó, thiền nên là phần cơ bản; chăm sóc vật lý nên là một phần cơ bản. Họ nên chết một cách lành mạnh, toàn thể, im lặng, bình an – dần dần trượt sâu vào trong giấc ngủ. Và nếu thiền được nối liền với ngủ thì họ có thể chết được chứng ngộ. Họ có thể biết rằng chỉ thân thể là bị bỏ lại đằng sau,còn họ là một phần của vĩnh hằng.

Cái chết của họ sẽ tốt hơn cái chết thông thường, bởi vì trong cái chết thông thường bạn không có cơ hội trở nên được chứng ngộ. Trong thực tế ngày càng nhiều người sẽ ưa thích chết trong bệnh viện, trong các viện đặc biệt dành cho việc chết nơi mọi thu xếp được tiến hành. Bạn có thể rời bỏ cuộc sống theo cách cực lạc, vui sướng, với sự cám ơn và lòng biết ơn lớn lao.

Tôi hoàn toàn ủng hộ cho việc chết tự nguyện với những điều kiện này.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog