Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

Vị phật bên trong

Tôi xin chào vị phật bên trong bạn. Bạn có thể không
nhận biết về điều đó, bạn có thể chưa từng mơ tới điều đó
- rằng bạn là vị phật, rằng không ai có thể là bất kì cái gì
khác, rằng phật tính là cái cốt lõi tinh tuý duy nhất của sự
hiện hữu của bạn, rằng điều đó không phải là một cái gì
đó xảy ra trong tương lai, rằng nó đã xảy ra rồi. Nó chính
là cội nguồn mà bạn tới từ đó; nó chính là cội nguồn và
cả mục đích nữa. Chính từ phật tính mà chúng ta đi, và
cũng chính phật tính đó mà chúng ta tới. Một từ này, phật
tính, hàm chứa tất cả - vòng tròn đầy đặn của cuộc sống,
từ alpha tới omega.

Nhưng bạn đang ngủ say, bạn không biết mình là ai.
Không phải là bạn phải trở thành vị phật, mà là bạn phải
nhận ra điều đó, mà là bạn phải quay về với cội nguồn
riêng của mình, mà là bạn phải nhìn vào bên trong mình.
Việc đương đầu với bản thân mình sẽ làm lộ ra phật tính
của bạn. Cái ngày mà người ta nhận ra chính mình, toàn
bộ sự tồn tại trở thành chứng ngộ. Không phải là một
người trở thành chứng ngộ - làm sao một người có thể trở
thành chứng ngộ được? Chính ý tưởng về một người là
một phần của tâm trí chưa chứng ngộ. Không phải là tôi
đã trở nên chứng ngộ; cái ‘tôi’ phải bị loại bỏ đi trước
khi người ta có thể trở nên chứng ngộ, cho nên làm sao
tôi trở thành chứng ngộ được? Điều đó là ngớ ngẩn. Cái
ngày tôi trở nên chứng ngộ thì toàn bộ sự tồn tại cũng trở
nên chứng ngộ. Từ khoảnh khắc đó tôi không còn thấy
bất kì cái gì khác hơn chư phật - trong nhiều hình dạng,
với nhiều tên, với cả ngàn lẻ một vấn đề, nhưng chư phật
vẫn tĩnh lặng.

Cho nên tôi xin chào vị phật bên trong bạn.
Tôi vui mừng vô biên rằng biết bao nhiêu vị phật đã
tụ hội ở đây. Chính sự kiện các bạn tới với tôi là bắt đầu
của thừa nhận. Tôn kính trong tim các bạn với tôi, tình
yêu trong tim các bạn với tôi, là tôn kính và tình yêu cho
phật tính của riêng các bạn. Tin cậy vào tôi không phải là
tin cậy vào cái gì đó ngoại lai với bạn, tin cậy vào tôi là
tin cậy vào cái ta. Bởi tin cậy vào tôi bạn sẽ học tin cậy
vào chính bạn. Bởi việc đến gần tôi, bạn sẽ tới gần chính
bản thân bạn. Chỉ cần phải đạt tới nhận ra. Kim cương có
đấy - bạn đã quên mất nó, hay bạn chưa bao giờ nhớ tới
nó từ ngay lúc bắt đầu.
Có một lời nói rất nổi tiếng của Emerson: “Con
người là Thượng đế trong suy tàn.” Tôi đồng ý mà tôi
cũng không đồng ý. Sáng suốt này có chân lí nào đó
trong nó - con người không phải như là con người đáng
phải thế. Sáng suốt có đó nhưng hơi lộn ngược lại một
chút. Con người không phải là Thượng đế trong suy tàn,
con người là Thượng đế đang hình thành; con người là vị
phật đang trong nụ. Cái nụ có đó, nó có thể nở hoa vào
bất kì khoảnh khắc nào: chỉ một chút ít nỗ lực nữa, chỉ
một chút ít giúp đỡ nữa... Và giúp đỡ không sắp gây ra
điều đó - điều đó đã có đấy rồi! Nỗ lực của bạn đang sắp
làm lộ nó ra cho bạn, giúp nó biểu hiện cái vẫn có đó,
giấu kín. Đấy là khám phá, nhưng chân lí thì đã có đấy
rồi. Chân lí là vĩnh hằng.
Lắng nghe những lời kinh này bởi vì đây là những lời
kinh quan trọng nhất trong kho tàng phật giáo vĩ đại. Do
đó chúng được gọi là Tâm Kinh; nó ở chính tâm điểm
của thông điệp của Phật.

Nhưng tôi muốn bắt đầu từ ngay chỗ bắt đầu. Từ
điểm này chỉ phật giáo mới trở thành có liên quan: để nó
đấy trong tim bạn rằng bạn là vị phật. Tôi biết điều đó có
vẻ như quá tự kiêu, nó có vẻ như quá giả thuyết; bạn
không thể nào tin cậy vào nó hoàn toàn được. Điều đó là
tự nhiên, tôi hiểu điều đó. Cứ để nó đấy, như hạt mầm.
Quanh sự kiện đó nhiều thứ sẽ bắt đầu xảy ra, và chỉ
quanh sự kiện đó mà bạn sẽ có thể hiểu những lời kinh
này. Chúng mạnh mẽ vô cùng - rất nhỏ, rất cô đọng,
giống như hạt mầm. Nhưng với mảnh đất này, với viễn
kiến này trong tâm trí, rằng bạn là vị phật, rằng bạn là vị
phật trong nụ, rằng bạn có khả năng tiềm tàng trở thành
cái một, rằng không có gì thiếu cả, tất cả đã sẵn sàng,
mọi thứ chỉ phải được đặt vào đúng trật tự, rằng một chút
ít nhận biết nữa là cần thiết, một chút ít ý thức nữa là cần
thiết... Kho báu có đó; bạn phải mang một ngọn đèn nhỏ
vào trong nhà mình. Một khi bóng tối biến mất, bạn sẽ
không còn là kẻ ăn xin nữa, bạn sẽ là vị phật; bạn sẽ là
hoàng đế, vua. Toàn bộ vương quốc này là của bạn và
bạn chỉ cần yêu cầu; bạn chỉ phải đòi lấy nó.
Nhưng bạn không đòi nó nếu bạn tin rằng bạn là kẻ
ăn xin. Bạn không thể đòi hỏi nó, bạn thậm chí không thể
nào mơ tới việc đòi nó nếu bạn vẫn nghĩ rằng mình là kẻ
ăn xin. Cái ý tưởng rằng bạn là kẻ ăn xin, rằng bạn dốt
nát, rằng bạn là tội nhân, đã được không biết bao nhiêu
nhà thuyết giáo thuyết giảng qua nhiều thời đại đến mức
nó đã trở thành thôi miên sâu sắc trong bạn. Thôi miên
này phải bị đập tan. Để đập vỡ nó tôi bắt đầu với: Tôi xin
chào vị phật bên trong bạn.

Với tôi, các bạn là chư phật. Tất cả mọi nỗ lực của
bạn để trở thành chứng ngộ đều lố bịch nếu bạn không
chấp nhận sự kiện cơ bản này. Điều này phải trở thành
hiểu biết ngầm, rằng bạn là điều đó! Đây là bắt đầu đúng
đắn, nếu không bạn sẽ đi lạc lối. Đây là bắt đầu đúng
đắn! Bắt đầu với viễn kiến này đi, và đừng lo nghĩ rằng
điều này có thể tạo ra một loại bản ngã nào đó - rằng “Ta
là phật.” Đừng lo nghĩ thế, bởi vì toàn bộ quá trình của
Tâm Kinh sẽ làm cho bạn rõ ràng rằng bản ngã là cái duy
nhất không tồn tại - cái duy nhất không tồn tại! Mọi thứ
khác đều là thật.

Có những thầy nói thế giới này là ảo tưởng và linh
hồn là tồn tại - cái ‘tôi’ mới đúng còn mọi cái khác đều là
ảo tưởng, ảo vọng maya. Phật nói chính điều ngược lại:
ông ấy nói duy nhất cái ‘tôi’ là không thật còn mọi thứ
khác đều là thật. Và tôi đồng ý với Phật nhiều hơn là với
các quan điểm khác. Sáng suốt của Phật là rất thấu đáo,
thấu đáo nhất. Không ai đã nhìn thấu đáo vào những cõi
giới đó, vào chiều sâu và chiều cao của thực tại.
Nhưng bắt đầu với ý tưởng này, với bầu không khí
này quanh bạn, với viễn kiến này. Để cho điều đó được
tuyên bố với từng tế bào thân thể bạn và từng ý nghĩ của
tâm trí bạn; để cho nó được tuyên bố cho từng ngõ
ngách, từng xó xỉnh của sự tồn tại của bạn, rằng “Ta là
phật!” Và đừng lo nghĩ về cái ‘tôi’... chúng ta sẽ chăm lo
tới nó.

Cái ‘tôi’ và phật tính không thể cùng tồn tại. Một khi
phật tính trở nên lộ ra thì cái ‘tôi’ biến mất, hệt như bóng
tối biến mất khi bạn đem ánh sáng vào.
Trước khi đi vào lời kinh này, cũng sẽ có ích nếu
hiểu thêm chút ít về khuôn khổ, chút ít cấu trúc.
Kinh sách phật giáo cổ đại nói về bẩy ngôi đền. Cũng
giống như người Sufi nói về bẩy thung lũng, và người
Hindu nói về bẩy luân xa, phật tử nói về bẩy ngôi đền.
Ngôi đền thứ nhất là thể chất, ngôi đền thứ hai là tâm
thần, ngôi đền thứ ba là tâm lí, ngôi đền thứ tư là tâm lítâm
linh, ngôi đền thứ năm là tâm linh, ngôi đền thứ sáu
là tâm linh siêu việt, và ngôi đền thứ bẩy là và ngôi đền
tối thượng - là siêu việt.

Lời kinh này thuộc vào ngôi đền thứ bẩy. Đây là lời
công bố của người đã đi vào ngôi đền thứ bẩy, cái siêu
việt, cái tuyệt đối. Đó là ý nghĩa của từ tiếng Phạn,
pragyaparamita - trí huệ của cõi bên kia, từ cõi bên kia,
trong cõi bên kia; trí huệ chỉ tới khi bạn đã siêu việt lên
trên tất cả các loại đồng nhất - thấp hơn hay cao hơn, thế
giới này hay thế giới kia; khi bạn đã siêu việt lên trên tất
cả các loại đồng nhất, khi bạn không còn bị đồng nhất
với tất cả, khi chỉ có một ngọn lửa thuần khiết của nhận
biết là còn lại mà không có khói quanh nó. Đó là lí do tại
sao phật tử tôn thờ cuốn sách nhỏ này, cuốn sách rất, rất
nhỏ này; và họ đã gọi nó là Tâm Kinh - chính tâm điểm
của tôn giáo, chính cốt lõi.

Ngôi đền thứ nhất, thể chất, có thể tương ứng theo
bản đồ của người Hindu với luân xa muladhar; ngôi đền
thứ hai, tâm thần, tương ứng với luân xa svadisthan; ngôi
đền thứ ba, tâm lí, với manipura; ngôi đền thứ tư, tâm lítâm
linh, với anahatta; thứ năm, tâm linh, với vishudha;
thứ sáu, tâm linh siêu việt, với agya; và thứ bẩy, cái siêu
việt, với sahasrar. ‘Sahasrar’ có nghĩa là hoa sen một
nghìn cánh. Đó là biểu tượng cho việc nở hoa tối thượng:
không còn gì bị che dấu nữa, tất cả đã trở nên được lộ ra,
biểu hiện. Hoa sen một nghìn cánh đã mở ra, toàn bộ bầu
trời tràn ngập hương thơm của nó, cái đẹp của nó, phúc
lành của nó.
Trong thế giới hiện đại một công trình lớn đã bắt đầu
trong việc tìm kiếm cốt lõi bên trong nhất của con người.
Cũng sẽ tốt để hiểu các nỗ lực hiện đại đưa chúng ta đi
bao xa.

Pavlov, B. F. Skinner và các nhà hành vi học khác,
cứ đi lòng vòng quanh thể chất, muladhar. Họ nghĩ con
người chỉ là thân thể. Họ dính líu quá nhiều vào ngôi đền
thứ nhất, họ dính líu quá nhiều với thể chất, họ quên mất
mọi thứ khác. những người này đang cố gắng giải thích
con người chỉ qua thể chất, vật chất. Thái độ này trở
thành cản trở bởi vì họ không mở. Khi mà ngay từ đầu
bạn đã từ chối rằng chẳng có gì khác hơn thân thể, thế thì
bạn chối bỏ chính việc khám phá. Điều này trở thành
định kiến. Người cộng sản, người Mác xít, người hành vi
chủ nghĩa, người vô thần - những người tin rằng con
người chỉ là thân thể - chính niềm tin của họ đóng chặt
các cánh cửa đi tới những thực tại cao hơn. Họ trở thành
mù quáng. Và thể chất có đó, thể chất là rõ ràng nhất; nó
không cần bằng chứng. Thân thể vật lí có đó, bạn không
cần phải chứng minh về nó. Vì nó không cần phải chứng
minh, nó trở thành thực tại duy nhất. Điều đó là vô nghĩa.
Thế thì con người mất đi mọi nhân phẩm. Nếu không có
gì để trưởng thành vào trong và đi lên, thì không thể nào
có bất kì nhân phẩm nào trong cuộc sống. Thế thì con
người trở thành một vật. Thế thì bạn không mở, thế thì
chẳng còn gì hơn sắp xảy ra cho bạn - bạn là thân thể:
bạn ăn, rồi bạn ỉa, rồi bạn lại ăn và bạn làm tình và sinh
ra trẻ con, và điều này sẽ cứ tiếp diễn mãi, rồi một ngày
bạn chết. Sự lặp lại máy móc của những điều trần tục,
tầm thường - làm sao có thể có bất kì ý nghĩa nào, bất kì
nghĩa nào, bất kì thơ ca nào? Làm sao có thể có bất kì
điệu vũ nào?
Skinner đã viết một cuốn sách, Vượt ra ngoài tự do
và nhân phẩm. Nó đáng phải gọi là ở dưới tự do và nhân
phẩm, không phải là vượt ra ngoài. Nó là ở dưới, nó là
quan điểm thấp nhất về con người, cái xấu nhất. Chẳng
có gì sai về thân thể cả, nhớ lấy. Tôi không chống lại
thân thể, nó là ngôi đền đẹp. Cái xấu xí đi vào khi bạn
nghĩ đây là tất cả.

Con người có thể được quan niệm như chiếc thang có
bẩy bậc, và bạn đồng nhất với bậc thứ nhất. Thế thì bạn
chẳng định đi đâu cả. Và chiếc thang thì vẫn đó, chiếc
thang vắt từ thế giới này sang thế giới khác; chiếc cầu nối
vật chất với Thượng đế. Bậc thứ nhất là hoàn toàn tốt nếu
nó được dùng trong mối quan hệ với toàn bộ chiếc thang.
Nếu nó vận hành như bước đầu tiên thì nó là đẹp cực kì:
người ta nên biết ơn thân thể. Nhưng nếu bạn bắt đầu tôn
thờ bậc thứ nhất và bạn quên mất sáu bậc còn lại, bạn
quên mất rằng toàn bộ chiếc thang tồn tại và bạn trở
thành khép kín, bị hạn chế vào bậc thứ nhất, thế thì nó
không còn là bậc thang chút nào nữa... bởi vì bậc thang
chỉ là bậc thang khi nó là một phần của chiếc thang. Nếu
nó không còn là bậc thang, bạn bị mắc kẹt với nó. Do đó,
những người duy vật bao giờ cũng bị mắc kẹt, họ bao giờ
cũng cảm thấy điều gì đó đang bị lỡ, họ không cảm thấy
họ đang đi đâu cả. Họ đi lòng vòng, theo vòng tròn, và
họ cứ đi đi lại lại mãi một điểm. Họ trở nên mệt mỏi và
chán chường. Họ bắt đầu suy nghĩ đến cách tự tử. Và
toàn bộ nỗ lực của họ trong cuộc sống là để tìm ra những
cảm giác nào đó, để cho cái gì đó mới có thể xảy ra.
Nhưng cái ‘mới’ nào có thể xảy ra được? Tất cả những
cái mà chúng ta cứ bận tâm tới chẳng là gì ngoài đồ chơi
để mà chơi thôi.

Nghĩ đến những lời này của Frank Sheed: “Linh hồn
con người đang kêu khóc về mục đích hay ý nghĩa. Còn
nhà khoa học nói, ‘Điện thoại đây này.’ Hay, ‘Trông đây!
Ti vi!’ - hệt như người ta đang cố dỗ đứa trẻ đang khóc
đòi mẹ bằng việc đưa ra miếng kẹo và nhăn mặt nhăn
mũi trước nó. Luồng phát minh liên miên đã phục vụ cực
kì tốt cho việc làm cho con người phải bận bịu, ngăn con
người không cho nhớ tới cái gây rắc rối cho mình.”
Tất cả những cái mà thế giới hiện đại đã cung cấp
cho bạn thì chẳng là gì ngoài kẹo đường, đồ chơi để chơi
- còn bạn thì đang kêu khóc đòi mẹ, bạn đang kêu khóc
đòi tình yêu, bạn đang kêu khóc đòi tâm thức, và bạn
đang kêu khóc về ý nghĩa nào đó trong cuộc sống. Và họ
nói, “Trông đây! Điện thoại này. Trông đây! Ti vi này.
Trông đây! Chúng tôi đã mang bao nhiêu thứ đẹp tới cho
bạn.” Còn bạn chơi quanh quẩn một chút ít; rồi bạn phát
ngán; bạn phát chán, và họ lại cứ tìm kiếm đồ chơi mới
cho bạn chơi.
Trạng thái vấn đề này thật buồn cười. Nó ngớ ngẩn
đến mức dường như không thể nào quan niệm nổi làm
sao chúng ta cứ sống mãi trong nó. Chúng ta bị mắc tại
bậc thang thứ nhất.
Nhớ rằng bạn đang trong thân thể, nhưng bạn không
phải là thân thể; để cho nhận thức đó liên tục ở trong bạn.
Bạn sống trong thân thể và thân thể là chỗ cư ngụ đẹp đẽ.

Nhớ lấy, vào mọi khoảnh khắc, tôi không hướng dẫn
rằng bạn nên trở thành kẻ chống đối thân thể, rằng bắt
đầu chối bỏ thân thể như cái gọi là những người duy tâm
đã làm trong nhiều thời đại. Người duy vật nghĩ rằng
thân thể là tất cả những cái có đấy, và có những người
còn đi sang cực đối lập, và họ bắt đầu nói rằng thân thể là
ảo tưởng; thân thể là không có! “Phá huỷ thân thể để cho
cái ảo tưởng đó bị phá huỷ, và bạn có thể trở thành cái
thực một cách thực sự.”

Cực đoan khác này là phản động. Người duy vật tạo
ra phản động của riêng mình với người duy tâm, nhưng
họ là đối tác trong cùng một công việc; họ không phải là
những người khác nhau nhiều lắm. Thân thể là đẹp đẽ,
thân thể là thực, thân thể cần phải được sống, thân thể
cần phải được yêu. Thân thể là món quà vĩ đại của
Thượng đế. Bạn đừng chống lại nó dù chỉ một khoảnh
khắc, và bạn cũng đừng nghĩ rằng bạn chỉ là nó dù chỉ
một khoảnh khắc. Bạn còn lớn hơn nhiều lắm. Dùng thân
thể như bàn nhảy đi.
Bậc thứ hai là: tâm thần, svadisthan. Phân tâm của
Freud vận hành ở đây. Nó đi cao hơn một chút so với
Skinner và Pavlov. Freud đi vào trong những bí ẩn của
tâm lí một chút ít nhiều hơn. Ông ấy không phải chỉ là
nhà hành vi chủ nghĩa, nhưng ông ấy chưa bao giờ vượt
ra ngoài các giấc mơ. Ông ấy cứ phân tích các giấc mơ.
Giấc mơ tồn tại như ảo tưởng trong bạn. Nó là điều
ngụ ý, nó là biểu tượng, nó mang thông điệp từ vô thức
được để lộ cho ý thức. Nhưng chẳng ích gì mà bị mắc
vào nó. Dùng giấc mơ, nhưng đừng trở thành giấc mơ.
Bạn không phải là giấc mơ.

Và cũng chẳng cần làm nhặng sị lên về nó, như
những người theo Freud vẫn cứ làm. Toàn bộ nỗ lực của
họ dường như là di chuyển vào trong chiều hướng của
thế giới mơ. Chú ý về nó, lấy quan điểm rất rất rõ ràng về
nó, hiểu thông điệp của nó, và thực sự không cần phải đi
đến bất kì ai khác để phân tích giấc mơ của bạn. Nếu bạn
không thể phân tích được giấc mơ của mình, chẳng ai
khác có thể làm được, bởi vì giấc mơ của bạn là giấc mơ
của bạn. Và giấc mơ của bạn mang tính cá nhân đến mức
chẳng ai khác có thể mơ theo cách bạn mơ. Không ai đã
từng mơ được theo cách bạn mơ, không ai sẽ mơ được
theo cách bạn mơ; không ai có thể giải thích nó cho bạn.
Việc diễn giải của người ấy sẽ là việc diễn giải của người
ấy. Duy nhất bạn mới có thể nhìn vào trong nó. Và trong
thực tế thì cũng chẳng cần phải phân tích giấc mơ: nhìn
vào giấc mơ trong tính toàn bộ của nó, với sáng tỏ, với
tỉnh táo, và bạn sẽ thấy thông điệp. Nó lớn làm sao!
Chẳng cần phải đi tới nhà phân tâm trong ba, bốn, năm,
bẩy năm.

Một người, người vẫn mơ vào mọi đêm và ban ngày
lại đến nhà phân tâm để được phân tích, dần dần sẽ trở
thành bị bao quanh bởi chất liệu mơ. Giống như loại
người thứ nhất trở thành quá bị ám ảnh với muladhara,
thể chất, thì loại người thứ hai trở nên quá bị ám ảnh với
dục... bởi vì loại người thứ hai - lĩnh vực của thực tại tâm
lí - là dục. Loại người thứ hai bắt đầu diễn giải mọi thứ
dưới dạng dục. Bất kì cái gì bạn làm, cứ đến với người
theo Freud và ông ta sẽ qui nó về dục. Không có gì cao
hơn tồn tại với ông ta. Ông ta sống trong bùn, ông ta
không tin vào hoa sen. Bạn đem hoa sen tới cho ông ta,
ông ta sẽ nhìn vào nó và qui nó về bùn. Ông ta sẽ nói,
“Cái này chẳng là gì cả, cái này chỉ là bùn bẩn thôi. Nó
chẳng mọc ra từ bùn bẩn đó sao? Nếu nó mọc ra từ bùn
bẩn thì nó phải là bùn bẩn vậy.” Đưa mọi thứ về nguyên
nhân của nó, và đó là cái thực.
Thế thì mọi bài thơ cũng đều bị qui về dục, mọi thứ
đẹp đẽ cũng đều bị qui về dục và truỵ lạc và kìm nén.
Michelangelo mà là nghệ sĩ vĩ đại sao? - thế thì nghệ
thuật của ông ấy phải bị qui về dâm dục nào đó. Và
những người theo Freud đi tới cả chuỗi dài những điều
ngớ ngẩn. Họ nói: Michelangelo hay Goethe hay Byron,
tất cả các công trình nghệ thuật vĩ đại, cái đem lại niềm
vui cho hàng triệu người, chẳng là gì khác ngoài dục bị
kìm nén - có thể Goethe đã là thủ dâm và bị ngăn cản.
Hàng triệu người bị ngăn cản khỏi thủ dâm, nhưng
họ không trở thành như Goethe. Đấy là điều ngớ ngẩn.
Nhưng Freud là thầy của thế giới nhà vệ sinh. Ông ấy
sống ở đó, đó là ngôi đền của ông ta. Nghệ thuật trở
thành bệnh hoạn, thi ca trở thành bệnh hoạn, mọi thứ đều
trở thành truỵ lạc. Nếu phân tích của người theo Freud
mà thành công thì sẽ không có Kalidas, không có
Shakespeare, không có Michelangelo, không có Mozart,
không có Wagner, bởi vì mọi người sẽ bình thường.
Những người này là bất thường. Những người này bị
bệnh tâm thần, theo Freud. Cái vĩ đại nhất bị đưa về cái
thấp kém nhất. Phật là ốm yếu, theo Freud, bởi vì bất kì
điều gì ông ấy nói, chúng cũng chẳng là gì ngoài dục bị
kìm nén.

Cách tiếp cận này đưa cái vĩ đại của con người về cái
xấu xí. Nhận biết về điều đó đi. Phật không ốm yếu;
trong thực tế, Freud ốm yếu. Im lặng của Phật, vui vẻ của
Phật, mở hội của Phật - đấy không phải là ốm yếu, đấy là
việc nở hoa hoàn toàn của trạng thái hạnh phúc.
Nhưng với Freud người bình thường là người chưa
bao giờ hát lên bài ca, người chưa từng nhảy múa, người
chưa từng mở hội, chưa từng cầu nguyện, chưa từng
thiền, chưa từng làm bất kì cái gì sáng tạo, bình thường
là: đến cơ quan, về nhà, ăn, uống, ngủ và chết; không để
lại đằng sau dấu vết gì của sáng tạo của mình; không để
lại dù chỉ một dấu hiệu ở bất kì đâu. Người bình thường
này dường như là rất tầm thường, đần độn và chết. Có
hoài nghi về Freud bởi vì bản thân ông ta không thể sáng
tạo - ông ta là một người không sáng tạo - ông ta lên án
bản thân tính sáng tạo là bệnh hoạn. Có mọi khả năng
ông ta là một người tầm thường. Chính cái tầm thường
của ông ta làm cho tất cả những người vĩ đại trên thế giới
cảm thấy chướng.

Tâm trí tầm thường cố gắng thu nhỏ tất cả những cái
vĩ đại. Tâm trí tầm thường không thể nào chấp nhận được
rằng có thể có bất kì người nào vĩ đại hơn mình. Điều đó
làm tổn thương. Đấy là báo thù của điều tầm thường -
toàn bộ việc phân tâm này và cách diễn giải của nó về
cuộc sống con người. Nhận biết về nó đi. Nó có tốt hơn
loại thứ nhất, đúng, tiến lên trước hơn loại thứ nhất một
chút, nhưng người ta còn phải đi tiếp, tiếp nữa, vượt ra
ngoài và ra ngoài.

Bậc thứ ba là tâm lí. Adler sống trong thế giới của
tâm lí, của ý chí quyền lực; ít nhất có một cái gì đó - rất
vị kỉ, nhưng ít nhất cũng có một cái gì đó; một chút ít cởi
mở hơn Freud. Nhưng vấn đề là, cũng giống như Freud
qui mọi thứ về dục, Adler cứ qui mọi thứ về phức cảm tự
ti. Người ta cố gắng trở thành vĩ đại bởi vì họ cảm thấy
thấp kém. Một người cố gắng trở thành chứng ngộ là
người cảm thấy thấp kém, và một người cố gắng trở
thành chứng ngộ là người đang trên cuộc hành trình
quyền lực. Điều này hoàn toàn sai lầm, bởi vì chúng ta đã
thấy những người đó - một Phật, một Christ, một Krishna
- người đã buông xuôi hoàn toàn đến mức hành trình của
họ không thể nào được gọi là hành trình quyền lực. Và
khi Phật nở hoa, ông ấy cũng chẳng có ý tưởng nào về sự
cao thượng, không một chút nào. Ông ấy cúi mình xuống
dưới toàn bộ sự tồn tại. Ông ấy chẳng có ý tưởng nào về
việc thần thánh hơn người, không một chút nào. Mọi thứ
đều là thần thánh, thậm chí một hạt bụi cũng là thiêng
liêng. Không, ông ấy không nghĩ mình cao thượng, và
ông ấy không cố gắng để trở thành cao thượng. Ông ấy
không cảm thấy thấp kém chút nào. Ông ấy được sinh ra
là vua; không có vấn đề về thấp kém. Ông ấy ở trên chóp
đỉnh ngay từ đầu, không có vấn đề về thấp kém. Ông ấy
là người giầu có nhất trong nước, người có quyền lực
nhất trong nước: không còn quyền lực nào cao hơn cần
phải đạt tới, không còn giầu có nào lớn hơn cần đạt tới.
Ông ấy là một trong những người đẹp nhất đã được sinh
ra trên trái đất này, ông ấy có một trong những phụ nữ
đẹp nhất là người yêu. Tất cả đều có sẵn cho ông ấy.
Nhưng Alder sẽ cứ đi tìm một cái thấp kém nào đó
bởi vì ông ta không thể nào tin được rằng một người lại
có thể có bất kì mục tiêu nào khác hơn bản ngã. Điều này
là tốt hơn... tốt hơn Freud, cao hơn chút ít. Bản ngã có
cao hơn dục chút ít; không cao hơn lắm, nhưng có cao
hơn chút ít.
Bậc thứ tư là tâm lí-tâm linh, anahatta, trung tâm trái
tim. Jung, Assagioli và những người khác thâm nhập vào
cõi này. Họ đi cao hơn Pavlov, Freud và Alder, họ mở ra
nhiều khả năng hơn. Họ chấp nhận thế giới của cái bất
hợp lí, vô ý thức: họ không giới hạn mình vào lẽ phải. Họ
là người hợp lí hơn - họ chấp nhận cả cái ‘không có lí’
nữa. Cái vô lí không bị chối bỏ mà được chấp nhận. Đây
là nơi tâm lí học hiện đại dừng lại - tại bậc thang thứ tư.
Và bậc thang thứ tư cũng mới là ở giữa của toàn bộ chiếc
thang: ba bậc bên này và ba bậc bên kia.

Tâm lí học hiện đại chưa phải là khoa học hoàn
chỉnh. Nó treo lơ lửng ở giữa. Nó rất dễ lung lay, không
chắc chắn về điều gì cả. Nó phần nhiều giả thuyết hơn là
thực nghiệm. Nó vẫn còn đang chật vật để tồn tại.
Bậc thứ năm là tâm linh: Mô ha mét giáo, Hin du
giáo, Ki tô giáo - các tôn giáo có tổ chức còn bị mắc kẹt
với bậc thứ năm.Họ không vượt ra ngoài tâm linh. Tất cả
các tôn giáo có tổ chức, nhà thờ, vẫn còn ở đó.
Bậc thứ sáu là tâm linh siêu việt - yoga và các
phương pháp khác. Trên khắp thế giới, suốt nhiều thời
đại, nhiều phương pháp đã được phát triển, những điều
không giống như tổ chức nhà thờ, không học thuyết mà
nhiều thực nghiệm hơn. Bạn phải làm điều gì đó với thân
thể và tâm trí mình; bạn phải tạo ra hài hoà nào đó bên
trong mình để cho bạn có thể cưỡi lên hài hoà đó, bạn có
thể cưỡi lên đám mây hài hoà đó và đi xa khỏi thực tại
bình thường của mình. Yoga có thể bao quát tất cả điều
đó; đó là bậc thứ sáu.

Và bậc thứ bẩy là siêu việt: Mật tông, Đạo, Thiền.
Quan điểm của Phật là ở bậc thứ bẩy - pragyaparamita.
Nó có nghĩa là trí huệ siêu việt lên, trí huệ tới với bạn chỉ
khi tất cả các thể đã được đi qua và bạn đã trở thành chỉ
một nhận biết thuần khiết, chỉ một nhân chứng, một chủ
thể thuần khiết.
Chừng nào con người còn chưa đạt tới siêu việt, con
người sẽ còn phải được cho đồ chơi, kẹo đường. Con
người sẽ phải được cung cấp với những ý nghĩa sai lầm.

Mới hôm nọ tôi đi ngang qua một tấm biển quảng
cáo xe hơi Mĩ. Nó nói - với một chiếc xe hơi đẹp - trên
đỉnh của chiếc xe nó nói: Cái gì đó để tin vào.
Con người chưa bao giờ tụt xuống thấp thế. Cái gì đó
để tin vào! Bạn tin vào chiếc xe ư? Đúng đấy, người ta
tin vào nhà mình, người ta tin vào xe hơi của mình,
người ta tin vào số dư ngân hàng của mình. Nếu bạn nhìn
quanh bạn sẽ ngạc nhiên - Thượng đế đã biến mất, nhưng
niềm tin thì không biến mất. Thượng đế không còn ở đó
nữa: bây giờ có xe Cadillac hay Lincoln! Thượng đế đã
biến mất nhưng con người đã tạo ra thượng đế mới -
Stalin, Mao. Thượng đế đã biến mất và con người đã tạo
ra các thần tượng mới - các ngôi sao điện ảnh.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tâm thức con người
mà con người đã tụt xuống thấp như thế. Và thậm chí nếu
đôi khi bạn nhớ tới Thượng đế, đấy cũng chỉ là một từ
trống rỗng. Có thể khi bạn đau ốm, có thể khi bạn thất
vọng, thế thì bạn dùng Thượng đế - dường như Thượng
đế là thuốc aspirin. Đó là điều cái gọi là các tôn giáo đã
làm cho các bạn tin tưởng: họ nói, “Hãy tưởng nhớ
Thượng đế ba lần một ngày và bạn sẽ không cảm thấy
đau gì!” Cho nên bất kì khi nào bạn bị đau, bạn nhớ tới
Thượng đế. Thượng đế không phải là thuốc aspirin,
Thượng đế không phải là thuốc giảm đau.

Một vài người nhớ tới Thượng đế theo thói quen,
một số người khác nhớ tới Thượng đế theo chuyên
nghiệp. Tu sĩ - ông ta nhớ tới Thượng đế theo nghề
chuyên nghiệp. Ông ta chẳng liên can gì tới Thượng đế
cả, ông ta được trả tiền cho điều đó. Ông ta đã trở thành
kẻ thiện nghệ. Một vài người nhớ theo thói quen, một vài
người theo chuyên nghiệp, nhưng dường như chẳng ai
nhớ tới Thượng đế trong tình yêu sâu sắc cả. Một vài
người cầu tới tên ngài khi họ khổ; chẳng ai nhớ tới ngài
khi họ đang sung sướng, mở hội. Và đó mới là khoảnh
khắc đúng để mà nhớ - bởi vì chỉ khi bạn vui vẻ, vui vẻ
vô biên, bạn mới gần Thượng đế. Khi bạn trong khổ, bạn
ở xa xôi, khi bạn trong khổ, bạn đóng kín. Khi bạn hạnh
phúc, bạn cởi mở, tuôn chảy; bạn có thể cầm tay Thượng
đế.

Cho nên hoặc bạn nhớ theo thói quen, bởi vì bạn đã
được dạy từ ngay thời trẻ thơ - nó đã trở thành một loại
thói quen, giống như hút thuốc. Nếu bạn hút thuốc, bạn
không thích nhiều lắm; nếu bạn không hút, bạn cảm thấy
bạn thiêu thiếu cái gì đó. Nếu bạn nhớ tới Thượng đế mỗi
sáng, mỗi chiều, chẳng đạt được cái gì cả, bởi vì việc nhớ
không phải là của trái tim - chỉ lời miệng, tâm trí, máy
móc. Nhưng nếu bạn không nhớ lấy, bạn bắt đầu cảm
thấy cái gì đó thiêu thiếu. Nó đã trở thành lễ nghi. Nhận
biết về việc làm Thượng đế thành lễ nghi, và nhận biết về
việc trở thành chuyên nghiệp về nó đi.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện rất nổi tiếng:
Câu chuyện về một nhà yoga vĩ đại, rất nổi tiếng,
người được nhà vua hứa rằng nếu ông ta có thể nằm
trong nấm mồ sâu và ở dưới đất trong một năm, nhà vua
sẽ cho ông ta con ngựa hay nhất của vương quốc xem
như phần thưởng. Nhà vua biết rằng nhà yoga này có trái
tim mềm yếu với ngựa, ông ta là người yêu ngựa vô
cùng.

Nhà yoga ưng thuận; ông ấy bị chôn sống trong một
năm. Nhưng trong năm đó vương quốc đã bị đánh bại và
chẳng còn ai nhớ tới việc đào nhà yoga lên.
Mười năm sau đó một ai đó mới nhớ ra: “Điều gì xảy
ra cho nhà yoga này nhỉ?” Nhà vua bảo vài người đi tìm
lại. Nhà yoga được đào lên; ông ta vẫn còn sống trong
cơn mê sâu. Câu mật chú đã được thoả thuận trước đây
được thì thào vào tai ông ta và ông ta ngồi dậy, và việc
đầu tiên ông ta nói là “Ngựa của tôi đâu?”
Sau mười năm vẫn còn im lặng dưới đất... nhưng tâm
trí chẳng thay đổi chút nào - “Ngựa của tôi đâu?” Con
người này có thực trong cơn mê, trong samadhi không?
Ông ấy có nghĩ về Thượng đế không? Ông ấy phải đã
nghĩ liên tục về ngựa. Nhưng ông ấy thành thạo, tài giỏi
chuyên nghiệp. Ông ấy phải đã học được kĩ thuật dừng
thở và cách đi vào một loại cái chết - nhưng đấy là kĩ
thuật.

Mười năm trong im lặng sâu sắc thế, và tâm trí chẳng
thay đổi một chút xíu! Đích xác hệt như mười năm này
chưa hề trôi qua. Nếu bạn nhớ tới Thượng đế một cách kĩ
thuật, nếu bạn nhớ tới Thượng đế một cách chuyên
nghiệp, nhớ theo thói quen, một cách máy móc, thế thì
chẳng cái gì sắp xảy ra cả. Tất cả đều có thể, nhưng tất cả
các khả năng đều đi qua trái tim. Do đó tên của bài kinh
này: Tâm Kinh.

Chừng nào bạn còn chưa làm điều gì đó với tình yêu
lớn, với tham dự lớn, với cam kết lớn, với chân thành,
với chân thực, với toàn bộ con người bạn, thì chẳng cái
gì sắp xảy ra cả.
Với một số người tôn giáo giống như chân giả: nó
chẳng có hơi ấm lẫn cuộc sống. Và mặc dầu nó giúp cho
họ loạng choạng bước đi, nó vẫn chẳng bao giờ trở thành
một phần của họ; nó phải được buộc lại hàng ngày.
Nhớ lấy, điều này đã xảy ra cho hàng triệu người trên
trái đất, điều này cũng có thể xảy ra cho bạn nữa. Đừng
tạo ra chân giả, để chân thật trưởng thành trong bạn. Chỉ
thế thì cuộc sống của bạn mới ấm áp, chỉ thế thì cuộc
sống của bạn mới có vui vẻ - không phải là nụ cười giả
tạo trên môi, không phải là hạnh phúc giả mà bạn vờ có,
không phải là mặt nạ, mà trong thực tế. Thường thì bạn
cứ mang những thứ này: ai đó mang nụ cười đẹp, ai đó
mang khuôn mặt từ bi, ai đó mang một nhân cách rất rất
đáng yêu - nhưng những điều này giống như quần áo bạn
mặc lên người mình. Sâu bên trong bạn vẫn còn như cũ.
Những lời kinh này có thể trở thành cuộc cách mạng.
Điều thứ nhất, cái bắt đầu, bao giờ cũng là câu hỏi,
“Tôi là ai?” Và người ta cứ phải hỏi mãi. Khi lần đầu tiên
bạn hỏi, “Tôi là ai?” thì muladhar sẽ trả lời, “Bạn là thân
thể! Câu hỏi vô nghĩa! Không cần phải hỏi, bạn đã biết
nó rồi.” Thế rồi bậc thứ hai sẽ nói, “Bạn là dục.” Rồi bậc
thứ ba sẽ nói, “Bạn là con đường quyền lực, là bản ngã” -
và cứ thế mãi.

Nhớ lấy, bạn phải dừng lại chỉ khi không câu trả lời
nào tới, không có chuyện trước điều đó. Nếu câu trả lời
nào đó vẫn còn tới, "Bạn là thế này, bạn là thế nọ," thế
thì biết rằng một trung tâm nào đó đang đưa ra cho bạn
câu trả lời. Khi tất cả sáu trung tâm đã được đi qua và tất
cả các câu trả lời của chúng đều bị cắt bỏ, bạn vẫn cứ
hỏi, “Tôi là ai?” và không có câu trả lời đến từ bất kì đâu,
đấy là im lặng hoàn toàn. Câu hỏi của bạn vang vọng
trong bản thân mình: “Tôi là ai?” và có im lặng, không
câu trả lời nào nảy sinh từ bất kì đâu, từ bất kì xó xỉnh
nào. Bạn hoàn toàn hiện diện, hoàn toàn im lặng, và thậm
chí không có đến một rung động. “Tôi là ai?” - và chỉ có
im lặng. Thế thì phép mầu xảy ra: bạn thậm chí không
thể nào hình thành được câu hỏi. Câu trả lời đã trở thành
ngớ ngẩn; thế thì cuối cùng câu hỏi cũng trở thành ngớ
ngẩn. Đầu tiên câu trả lời biến mất, thế rồi câu hỏi cũng
biến theo - vì chúng chỉ có thể sống cùng nhau. Chúng là
hai mặt của một đồng tiền - nếu mặt này ra đi, mặt kia
không thể còn lại được. Câu trả lời biến trước rồi câu hỏi
biến theo. Và với việc biến mất của câu hỏi và câu trả lời,
bạn nhận ra: đó là siêu việt. Bạn biết, vậy mà bạn không
thể nói; bạn biết, vậy mà bạn không thể nói rõ ràng về
nó. Bạn biết từ chính bản thể con người mình bạn là ai,
nhưng điều ấy không thể nào nói ra lời được. Nó là tri
thức cuộc sống; nó không phải là kinh sách, nó không
phải là vay mượn, nó không phải là từ người khác. Nó
nảy sinh trong bạn.

Và với việc nảy sinh này, bạn là vị phật. Và thế thì
bạn bắt đầu cười to vì bạn nhận ra rằng bạn đã là vị phật
từ ngay ban đầu; bạn chỉ chưa bao giờ nhìn sâu thế. Bạn
đã chạy lòng vòng loanh quanh bản thể mình, bạn chưa
bao giờ về nhà.
Triết gia, Arthur Schopenhauer, đang bước đi đơn
độc trên phố. Chìm đắm trong suy nghĩ, ngẫu nhiên ông
ấy đâm sầm vào một người đi bộ khác. Tức mình bởi cú
húc và cái hờ hững rõ ràng của triết gia, người đi bộ này
hét lên, "Này! Ông nghĩ ông là ai vậy?"
Vẫn đắm chìm trong suy nghĩ triết gia nói, “Tôi là ai
ư? Tôi muốn biết điều đó làm sao.”
Chẳng ai biết cả.
Biết điều này - rằng tôi không biết tôi là ai - cuộc
hành trình bắt đầu.

Lời kinh thứ nhất:

Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Đây là lời cầu khẩn. Tất cả kinh sách Ấn Độ đều bắt
đầu bằng lời cầu khẩn bởi lí do nào đó. Điều này không
phải như vậy ở các nước khác và trong các ngôn ngữ
khác; điều này không phải như vậy ở Hi lạp. Cách hiểu
của Ấn Độ là thế này: rằng chúng ta là cây tre hổng, duy
nhất cái vô hạn chảy qua chúng ta. Cái vô hạn phải được
cầu khẩn tới; chúng ta chỉ trở thành công cụ cho nó.
Chúng ta cầu khẩn nó, chúng ta gọi nó tới để chảy qua
chúng ta. Đó là lí do tại sao không người nào biết ai đã
viết ra Tâm Kinh này. Nó đã không được kí tên bởi vì
người viết ra nó đã không tin rằng mình là người viết ra
nó. Người ấy chỉ là công cụ. Người ấy chỉ giống như
người viết tốc kí; việc đọc là từ bên ngoài xa. Điều đó đã
được đọc cho người ấy, người ấy đã viết lại trung thành
điều đó, nhưng người ấy không phải là tác giả của nó -
nhiều nhất người ấy chỉ là người viết ra

Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Đây là lời cầu khẩn, một vài từ, nhưng mọi từ đều
rất, rất hàm chứa ý nghĩa.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ...
‘Sự hoàn hảo của trí huệ’ là việc dịch cho chữ
pragyaparamite. Pragya có nghĩa là trí huệ. Nhớ lấy, nó
không có nghĩa là tri thức. Tri thức là cái tới qua tâm trí,
tri thức là cái tới từ bên ngoài. Tri thức chưa bao giờ là
nguyên thuỷ cả! Nó không thể nào là nguyên thuỷ được,
bởi chính bản chất của nó; nó là đồ vay mượn. Trí huệ là
linh ảnh nguyên thuỷ của bạn: nó không tới từ bên ngoài,
nó trưởng thành trong bạn. Nó không giống đoá hoa nhựa
nhân tạo bạn ra chợ và mua về. Nó là hoa hồng thật mọc
trên cây, từ cây. Nó là bài ca của cây. Nó tới từ cốt lõi
bên trong nhất của cây; từ chiều sâu của cây mà nó mọc
ra. Ngày này nó còn chưa được diễn đạt, ngày khác nó
được diễn đạt ra; ngày này nó còn chưa biểu lộ, ngày
khác nó được biểu lộ ra.

Pragya có nghĩa là trí huệ, nhưng trong tiếng Anh,
ngay cả trí huệ cũng mang ý nghĩa khác. Trong tiếng
Anh, tri thức có nghĩa là không có kinh nghiệm: bạn tới
đại học, bạn thu thập tri thức. Trí huệ có nghĩa là bạn đi
vào cuộc sống và bạn thu thập kinh nghiệm. Cho nên một
thanh niên có thể có tri thức những không bao giờ có trí
huệ, bởi vì trí huệ cần thời gian. Một thanh niên có thể có
bằng cấp: người đó có thể là tiến sĩ khoa học hay văn
chương - điều đó chẳng khó khăn gì - nhưng chỉ người
già mới có thể có trí tuệ. Trí tuệ có nghĩa là tri thức được
thu thập qua kinh nghiệm riêng của người ta, nhưng nó
vẫn là từ bên ngoài.

Pragya không phải là tri thức mà cũng chẳng phải là
trí tuệ như người ta vẫn thường hiểu chúng. Nó là việc nở
hoa bên trong - không phải qua kinh nghiệm, không phải
qua người khác, không phải qua cuộc sống và đọ sức với
cuộc sống, không, nhưng chỉ bằng việc đi vào bên trong,
trong im lặng hoàn toàn, và cho phép cái vẫn ẩn kín ở đó
bùng nổ ra. Bạn đang mang trí huệ như hạt mầm bên
trong mình; nó chỉ cần mảnh đất tốt để có thể nẩy mầm.
Trí huệ bao giờ cũng là nguyên thuỷ. Nó bao giờ cũng là
của bạn, và duy nhất là của bạn.

Nhưng nhớ lấy, khi tôi nói ‘của bạn’, tôi không định
nói rằng có bất kì bản ngã nào dính líu vào trong nó. Nó
là của bạn theo nghĩa nó đến từ tự tính của bạn, nhưng nó
không công bố về bản ngã - bởi vì lần nữa bản ngã lại là
một phần của tâm trí, không phải của im lặng nội tâm của
bạn. Paramita có nghĩa là vượt ra ngoài, từ bên ngoài,
bên ngoài thời gian và không gian; khi bạn chuyển tới
trạng thái nơi thời gian biến mất, khi bạn chuyển tới nơi
nội tâm mà không gian biến mất, khi bạn không biết bạn
ở đâu và khi nào, khi nào cả hai tham chiếu này đã biến
mất. Thời gian là ở bên ngoài bạn, không gian cũng ở
bên ngoài bạn. Có một điểm giao bên trong bạn nơi thời
gian biến mất.

Một ai đó đã hỏi Jesus, “Xin kể cho chúng tôi đôi
điều về vương quốc của Thượng đế. Có gì đặc biệt ở
đó?” Tương truyền Jesus đã nói, “Thời gian không còn
nữa.” Có vĩnh hằng, khoảnh khắc vô thời gian. Đó là ra
ngoài - nơi vô không gian và khoảnh khắc vô thời gian.
Bạn không còn bị giới hạn nữa, cho nên bạn không thể
nói bạn ở đâu.
Bây giờ các bạn nhìn vào tôi: tôi không thể nói tôi
đang ở đây, bởi vì tôi đang ở kia nữa. Và tôi không thể
nói tôi đang ở Ấn Độ, bởi vì tôi đang ở Trung quốc nữa.
Và tôi cũng không thể nói rằng tôi đang ở hành tinh này,
bởi vì tôi không ở hành tinh này. Khi bản ngã biến mất
bạn đơn giản là một với cái toàn thể. Bạn ở mọi nơi và
không nơi nào. Bạn không tồn tại như một thực thể tách
biệt, bạn tan biến.

Nhìn xem! Vào buổi sáng, trên chiếc lá đẹp, có một
hạt sương lung linh trong ánh mặt trời, đẹp cực kì. Và thế
rồi nó bắt đầu tuột đi, và nó tuột vào trong đại dương. Nó
đã có đó trên chiếc lá: có thời gian và không gian, nó đã
có định nghĩa, tính cách của riêng nó. Bây giờ một khi nó
rơi vào trong đại dương, bạn không thể nào thấy nó ở đâu
nữa - không phải bởi vì nó đã trở nên không tồn tại,
không. Bây giờ nó ở mọi nơi; đó là lí do tại sao bạn
không thể nào tìm thấy nó ở bất kì đâu. Bạn không thể
định vị được nó bởi vì toàn bộ đại dương đã trở thành vị
trí của nó. Bây giờ nó không tồn tại tách biệt.
Khi bạn không tồn tại trong tách biệt với cái toàn thể,
thì nảy sinh pragyaparamita, trí huệ cái hoàn hảo, trí huệ
cái từ bên ngoài.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Lời cầu khẩn hay làm sao... Nó nói: Tôn kính của tôi
là với trí huệ, cái tới khi bạn vượt ra ngoài. Và nó là đáng
yêu, và nó là linh thiêng - linh thiêng bởi vì bạn đã trở
thành một với cái toàn thể; đáng yêu bởi vì bản ngã đã
tạo ra tất cả các loại xấu xí trong cuộc sống bạn không
còn nữa.

Satyam, shivam, sunderam: nó là đúng, nó là thiện,
nó là đẹp. Đây là ba phẩm chất.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ - chân lí...
Đó là điều chân lí là gì: hoàn hảo của trí huệ, cái
đáng yêu, cái đẹp đẽ, cái linh thiêng, cái thiện.
Tại sao nó được gọi là linh thiêng? - bởi vì chư phật
được sinh ra từ đó. Nó là bụng mẹ của chư phật. Bạn trở
thành vị phật vào khoảnh khắc bạn cùng chia sẻ hoàn hảo
này của trí huệ. Bạn trở thành vị phật khi giọt sương tan
biến trong đại dương, mất đi phân cách, không còn tranh
đấu chống lại cái toàn thể nữa, đã buông xuôi, cùng đi
với cái toàn thể, không còn chống lại nó nữa. Do đó nhấn
mạnh của tôi là đi cùng với tự nhiên; đừng bao giờ chống
lại nó. Đừng bao giờ cố gắng vượt qua nó, đừng bao giờ
cố gắng chinh phục nó, đừng bao giờ cố gắng đánh bại
nó. Nếu bạn cố gắng đánh bại nó, bạn mang định mệnh
thất bại rồi, bởi vì bộ phận không thể đánh bại cái toàn
thể - và đó là điều mà mọi người đều cố gắng làm. Do đó
có nhiều thất vọng đến thế, bởi vì mọi người đều dường
như đều bị thất bại. Mọi người đều cố gắng chinh phục
cái toàn thể, cố gắng đẩy lùi dòng sông. Một cách tự
nhiên, một ngày nào đó, bạn trở nên mệt mỏi, kiệt sức -
bạn có nguồn năng lượng rất hạn hẹp; dòng sông thì lại
mênh mông. Rồi một ngày nó sẽ đem bạn đi, nhưng bạn
chịu thua trong thất vọng.

Nếu bạn có thể chịu thua trong vui vẻ, điều đó trở
thành buông xuôi. Thế thì nó không còn là thất bại nữa,
nó là thắng lợi. Bạn thắng chỉ khi cùng với Thượng đế,
đừng bao giờ chống lại Thượng đế. Và nhớ lấy, Thượng
đế không định đánh bại bạn đâu. Thất bại của bạn là do
tự bạn sinh ra đấy thôi. Bạn bị thất bại bởi vì bạn tranh
đấu. Nếu bạn muốn bị thất bại, cứ tranh đấu đi; nếu bạn
muốn chiến thắng, buông xuôi đi. Đây là nghịch lí: rằng
những người đã sẵn sàng chịu thua trở thành người
thắng. Người thua là người thắng duy nhất trong trò chơi
này. Bạn cố để thắng và thất bại của bạn là tuyệt đối chắc
chắn - chỉ còn là vấn đề thời gian, vào lúc nào, nhưng nó
là chắc chắn, nó sắp xảy ra.
Nó là linh thiêng bởi vì bạn là một với cái toàn thể.
Bạn thổn thức với nó, bạn nhảy múa với nó, bạn hát với
nó. Bạn giống như chiếc lá trong gió: lá đơn giản nhảy
múa với gió, nó không có ý chí của riêng mình. Cái vô ý
chí này là cái tôi gọi là sannyas, cái mà lời kinh này này
gọi là linh thiêng.
Từ tiếng Phạn cho linh thiêng là bhagavati. Từ đó
thậm chí còn quan trọng để hiểu hơn là từ thiêng liêng,
bởi vì từ thiêng liêng mang nghĩa Ki tô giáo nào đó cho
nó. Bhagavati...
Bhagavati là dạng giống cái của bhagavan. Đầu tiên,
lời kinh này không dùng từ bhagavan, nó dùng bhagavati,
giống cái - bởi vì cội nguồn của tất cả là giống cái, không
phải giống đực. Nó là âm, không phải dương, nó là mẹ,
không phải bố.
Khái niệm Ki tô giáo về Thượng đế như người bố
không hay cho lắm. Nó không gì khác hơn là bản ngã
đàn ông. Bản ngã đàn ông không thể nào nghĩ rằng
Thượng đế lại có thể là ‘bà’; bản ngã đàn ông muốn
Thượng đế là ‘ông’. Và bạn thấy toàn bộ ba ngôi Ki tô
giáo: tất cả ba người đều là đàn ông, đàn bà không được
tính ở đây - Thượng đế là cha, Christ là con và Thánh
thần linh thiêng. Đấy là một câu lạc bộ toàn đàn ông. Và
nhớ cho kĩ rằng giống cái mới là nền tảng trong cuộc
sống hơn là đàn ông, bởi vì chỉ đàn bà mới có bụng mẹ,
chỉ đàn bà mới có thể cho sinh thành cuộc sống, cuộc
sống mới. Nó tới qua giống cái.

Tại sao nó tới qua giống cái? Điều đấy không phải là
ngẫu nhiên đâu. Nó tới qua giống cái bởi vì chỉ giống cái
mới có thể cho phép nó tới - bởi vì giống cái là tiếp nhận.
Giống đực là hung hăng; giống cái có thể tiếp nhận, hấp
thu, có thể trở thành lối đi qua.
Lời kinh này nói tới bhagavati, không phải bhagavan.
Nó có tầm quan trọng mênh mông. Trí huệ hoàn hảo mà
tất cả chư phật đều tới từ đó là yếu tố giống cái, người
mẹ. Bụng mẹ phải là người mẹ. Một khi bạn nghĩ về
Thượng đế như người bố, bạn dường như không hiểu bạn
đang làm gì. Bố là thể chế phi tự nhiên. Tính chất bố
không tồn tại trong tự nhiên. Tính chất bố chỉ tồn tại mới
vài nghìn năm nay; nó là thể chế con người. Mẹ tồn tại ở
mọi nơi, mẹ là tự nhiên.

Bố có thể đi vào trong thế giới này bởi vì quyền sở
hữu riêng tư. Bố là một phần của nền kinh tế, không phải
của tự nhiên. Và một khi quyền sở hữu riêng tư biến mất
- nếu nó biến mất - thì người bố cũng biến luôn. Người
mẹ bao giờ và bao giờ cũng sẽ còn lại. Chúng ta không
thể quan niệm được về một thế giới mà không có mẹ,
chúng ta có thể quan niệm về một thế giới không có bố
rất dễ dàng. Và chính ý tưởng này là hung hăng. Bạn
chưa từng quan sát sao? Chỉ người Đức mới gọi nước
mình là ‘đất cha’, mọi nước khác đều gọi là ‘đất mẹ’.
Đây là những người nguy hiểm. ‘Đất mẹ’ thì được. Bằng
việc gọi đất nước mình là ‘đất cha’ thì bạn đang bắt đầu
một điều gì đó nguy hiểm, bạn đang đặt một cái gì đó
nguy hiển dưới chân.. Chẳng chóng thì chầy hung hăng
sẽ tới, chiến tranh sẽ tới. Hạt mầm có đó.

Tất cả những tôn giáo đã nghĩ về Thượng đế như
người bố đều là tôn giáo hung hăng. Ki tô giáo là hung
hăng, đạo hồi cũng vậy. Và bạn biết rất rõ rằng Thượng
đế của người Do Thái là Thượng đế rất nóng giận và kiêu
ngạo. Và Thượng đế của người Do Thái tuyên bố: Nếu
ngươi không theo ta, tức là ngươi chống ta, và ta sẽ tiêu
diệt ngươi. Còn ta là một Thượng đế rất đố kị; chỉ được
tôn thờ ta! Những dân tộc đã nghĩ về Thượng đế như
người mẹ đều là dân tộc không bạo lực.
Phật tử chưa bao giờ tiến hành cuộc chiến tranh nhân
danh tôn giáo. Họ chưa bao giờ cố gắng cải đạo dù chỉ
một người bằng bất kì bạo lực nào, bởi bất kì bó buộc
thuộc bất kì loại nào. Người Mô ha mét giáo đã cố gắng
cải đạo mọi người bằng lưỡi gươm, chống lại ý chí của
họ, chống lại ý thức của họ, chống lại tâm thức của họ.

Người Ki tô giáo đã cố gắng thao túng mọi người để trở
thành người Ki tô giáo theo đủ mọi cách - đôi khi bằng
lưỡi gươm, đôi khi qua bánh mì, đôi khi qua cách thuyết
phục khác. Phật giáo là tôn giáo duy nhất đã không cải
đạo dù chỉ một người ngược lại ý thức của người đó.
Duy nhất phật giáo là tôn giáo không bạo lực, bởi vì khái
niệm về thực tại tối thượng là giống cái.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Và nhớ lấy, chân lí là đẹp đẽ. Chân lí là đẹp bởi vì
chân lí là phúc lành. Chân lí không thể nào xấu được, và
cái xấu xí không thể nào đúng được; cái xấu xí là ảo
tưởng.
Khi bạn thấy một người xấu, đừng bị lừa dối bởi cái
xấu của người đó; tìm sâu hơn một chút và bạn sẽ thấy
một người đẹp ẩn tại đó. Đừng bị lừa dối bởi cái xấu. Cái
xấu là trong diễn giải của bạn. Cuộc sống là đẹp đẽ, chân
lí là đẹp đẽ, sự tồn tại là đẹp đẽ - nó không biết đến cái
xấu.
Và nó là đáng yêu, nó là giống cái và nó là linh
thiêng. Nhưng nhớ lấy, điều được ngụ ý bởi ‘linh thiêng’
không phải là điều thường được nói tới - dường như nó là
một thế giới khác, dường như nó là thiêng liêng ngược
với cái trần tục và phỉ báng, không. Tất cả đều linh
thiêng. Không có cái gì có thể được gọi là trần tục hay
phỉ báng cả. Tất cả đều là thiêng liêng bởi vì tất cả đều
được tràn ngập với cái một.

Có chư Phật và phật! - phật-cây và phật-chó và phậtchim
và phật-đàn ông và phật-đàn bà - nhưng tất cả đều
là chư Phật. Tất cả đều đang tiếp diễn! Con người không
phải là Thượng đế trong điêu tàn, con người là Thượng
đế đang hình thành, đang tiếp diễn.
Lời kinh thứ hai:
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài.
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của
chúng
chúng là trống rỗng.

Avalokita - Quán thế âm - là tên của Phật. Theo từng
từ thì điều này nghĩa là một người trông từ phía trên -
avalokita - người nhìn từ phía trên, người đứng tại trung
tâm thứ bẩy, sahasrar, cái siêu việt, và nhìn từ đó. Một
cách tự nhiên, bất kì cái gì bạn thấy cũng đều bị tiêm
nhiễm bởi quan điểm của bạn, bị tiêm nhiễm bởi không
gian bạn đang ở.

Nếu một người sống tại bậc thang thứ nhất - thân thể
vật lí - nhìn vào bất kì cái gì, người ấy cũng đều nhìn từ
quan điểm đó. Một người sống tại bậc thể chất thì chỉ
nhìn vào thân thể bạn khi người ấy nhìn vào bạn, người
ấy không thể nào nhìn nhiều hơn thế, người ấy không thể
thấy nhiều hơn thế. Viễn kiến của bạn về mọi thứ phụ
thuộc vào chỗ bạn đang nhìn.

Một người đang bị khuấy đảo về dục, bị cuốn hút về
dục trong tưởng tượng, chỉ nhìn từ quan điểm đó. Người
đang đói cũng nhìn từ quan điểm đó. Theo dõi cái ta của
riêng mình mà xem. Bạn nhìn vào mọi thứ, và mỗi lần
bạn nhìn vào mọi thứ thì chúng lại dường như là khác
nhau bởi vì bạn là khác. Buổi sáng thế giới trông có đẹp
hơn chút ít so với buổi tối. Buổi sáng bạn tươi tắn, và
buổi sáng bạn đến từ chiều sâu giấc ngủ lớn, giấc ngủ
sâu, giấc ngủ không mơ. Bạn đã nếm trải cái gì đó của
siêu việt, mặc dầu là vô ý thức. Cho nên vào buổi sáng
mọi thứ trông có vẻ đẹp. Mọi người từ bi hơn, đáng yêu
hơn; người ta thuần khiết hơn trong buổi sáng, người ta
hồn nhiên hơn trong buổi sáng. Vào lúc chiều tối tới thì
cũng những người đó sẽ trở nên kém hơn, khôn lỏi hơn,
láu cá hơn, thao túng, xấu xí, bạo hành, lừa dối. Đấy vẫn
là cũng những con người ấy, nhưng trong buổi sáng họ
rất gần với cái siêu việt. Đến tối họ đã sống trong cõi trần
thế, trong trần gian, trong vật lí quá nhiều, và họ đã trở
nên tập trung ở đó.

Con người của hoàn hảo là người có thể di chuyển
qua tất cả bẩy luân xa này một cách dễ dàng - tức là con
người của tự do - người không cố định vào bất kì điểm
nào, người giống như đồng hồ mặt trời: bạn có thể điều
chỉnh nó theo bất kì viễn kiến nào. Đó là điều được gọi là
mukta, người thực sự tự do. Người ấy có thể di chuyển
theo mọi chiều vậy mà vẫn còn không bị chúng động
chạm tới. Thuần khiết của người ấy chẳng bao giờ mất,
thuần khiết của người ấy vẫn còn là của điều siêu việt.
Phật có thể tới và chạm vào thân thể bạn và chữa
lành thân thể bạn. Ông ấy có thể trở thành thân thể,
nhưng đó là tự do của ông ấy. Ông ấy có thể trở thành
tâm trí và ông ấy có thể nói với bạn và giải thích mọi
điều với bạn, nhưng ông ấy chưa bao giờ là tâm trí. Ông
ấy tới và đứng sau tâm trí, sử dụng nó, giống hệt bạn lái
ô tô - bạn chưa bao giờ trở thành ô tô cả. Ông ấy dùng tất
cả những bậc thang này, ông ấy là toàn bộ chiếc thang.
Nhưng quan điểm tối thượng của ông ấy vẫn còn là cái
siêu việt. Đó là bản tính của ông ấy.
‘Avalokita’ - Quán thế âm, có nghĩa là một người từ
cõi bên kia trông vào thế giới.
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài

Lời kinh nói trạng thái này của phía bên ngoài không
phải là thứ tĩnh tại. Nó là chuyển động, nó là quá trình,
giống dòng sông. Nó không phải là danh từ, nó là động
từ. Nó cứ lộ dần ra. Đó là lí do tại sao người Hindu gọi
nó là hoa sen một nghìn cánh: ‘một nghìn’ đơn giản có
nghĩa là vô hạn, nó là biểu tượng của vô hạn. Cánh hoa
họ chồng lên cánh hoa kia, cánh hoa nọ tiếp cánh hoa kia
cứ mở ra mãi, không chấm dứt. Cuộc hành trình bắt đầu
nhưng chưa bao giờ chấm dứt. Nó là cuộc hành hương
vĩnh viễn.

Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài
Ông ấy tuôn chảy như một dòng sông vào trong thế
giới của bên ngoài. Ông ấy được gọi là vị chúa tể linh
thiêng và là bồ tát. Một lần nữa từ tiếng Phạn này cần
phải được ghi nhớ. Từ tiếng Phạn là iswara, được dịch
thành ‘vị chúa tể linh thiêng’. ‘Iswara’ có nghĩa là một
người đã trở thành cực kì giầu có từ giầu có của riêng
mình, giầu có là từ bản tính riêng của người đó; không ai
có thể lấy chúng đi được, không ai có thể đánh cắp được
chúng, chúng không thể nào bị mất đi. Tất cả mọi giầu có
mà bạn có thể bị mất, có thể bị đánh cắp, thì sẽ bị mất -
một ngày nào đó cái chết sẽ tới và sẽ lấy mọi thứ đi. Khi
một ai đó đã đi tới viên kim cương bên trong đó, cái vốn
là bản thể của riêng người ta, thì cái chết không thể nào
lấy nó đi được. Cái chết chẳng liên can gì tới nó. Nó
không thể nào bị đánh cắp, nó không thể nào bị mất. Thế
thì người ta đã trở thành iswara, thế thì người ta đã trở
thành vị chúa tể linh thiêng. Thế thì người ta đã trở thành
bhagavan.

Từ bhagavan đơn giản có nghĩa là ‘người được ân
huệ’. Thế thì người ta đã trở thành một người được ân
huệ. Bây giờ ân huệ của người ấy vĩnh viễn là của người
ấy; nó không phụ thuộc vào cái gì cả, nó là độc lập. Nó
không do bất kì cái gì gây nên cho nên nó không thể nào
bị lấy đi. Nó là sẵn có, nó là bản tính bên trong của người
ta.

Và ông ấy được gọi là bồ tát. Bồ tát là một khái niệm
rất đẹp trong phật giáo. Bồ tát có nghĩa là một người đã
trở thành vị Phật nhưng vẫn lưu bản thân mình trong thế
giới của không gian và thời gian - để giúp đỡ người khác.
Bồ tát có nghĩa là ‘cái tinh tuý trong vị Phật’, sẵn sàng
rơi xuống và tan biến, sẵn sàng đi vào trong niết bàn.
Không còn gì phải giải quyết nữa, tất cả các vấn đề của
người ấy đã được giải quyết. Người ấy không cần phải ở
lại đây nữa, nhưng người ấy vẫn ở lại đây. Không còn gì
khác phải học ở đây nữa, nhưng người ấy vẫn ở lại. Và
người ấy lưu giữ mình dưới dạng thân thể, dưới dạng tâm
trí - người ấy lưu giữ toàn bộ chiếc thang. Người ấy đã
vượt sang cõi bên kia, nhưng người ấy vẫn lưu giữ toàn
bộ chiếc thang - để giúp đỡ, xuất phát từ lòng từ bi.
Chuyện kể rằng Phật đã tới cửa của điều tối thượng,
niết bàn. Cánh cửa đã mở, các thiên thần đang nhảy múa
và ca hát đón chào ông ấy - bởi vì hiếm khi xảy ra trong
hàng triệu năm mới có một người trở thành vị Phật.
Những cánh cửa đó đã mở ra, và ngày đó tự nhiên là
ngày lễ hội trọng đại. Tất cả các vị cổ phật đều tụ hội, và
có niềm vui lớn, hoa trút như mưa, âm nhạc rộn rã, mọi
thứ đều được trang hoàng lộng lẫy - đấy quả là một ngày
hội lớn.

Nhưng Phật không đi vào cổng. Và các vị cổ phật, tất
cả đều đứng khoanh tay, yêu cầu ông ấy, đòi hỏi ông ấy
đi vào: “Sao ông ấy lại đứng ngoài thế nhỉ?” Còn Phật
tương truyền đã nói, “Chừng nào mà tất cả mọi người
khác đang đến sau tôi còn chưa vào, tôi sẽ không vào
đâu. Tôi sẽ tự lưu mình ở bên ngoài, bởi vì một khi tôi
vào rồi thì tôi biến mất. Thế thì tôi sẽ không thể nào giúp
đỡ được những người này nữa. Tôi thấy hàng triệu người
đang loạng choạng mò mẫm trong bóng tối. Bản thân tôi
cũng đã từng mò mẫm theo cùng cách ấy trong hàng triệu
kiếp. Tôi muốn giúp họ một tay. Xin đóng cửa lại. Khi
mọi người đã tới hết thì tôi sẽ gõ cửa, thế thì các bạn có
thể đón tôi.”

Một câu chuyện thực hay... Điều này được gọi là
trạng thái bồ tát: người đã sẵn sàng tan biến nhưng vẫn
lưu lại - trong thân thể, trong tâm trí, trong thế giới, trong
thời gian và không gian - để giúp người khác.
Phật nói: Thiền là đủ để giải quyết vấn đề của ông,
nhưng vẫn còn thiếu cái gì trong đó - từ bi. Nếu từ bi
cũng có đó, thế thì ông có thể giúp cho người khác giải
quyết vấn đề của họ. Ông ấy nói: Thiền là vàng ròng; nó
có hoàn hảo của riêng nó. Nhưng nếu có từ bi thế thì
vàng còn có hương thơm nữa - thế thì đấy là hoàn hảo
cao hơn, thế thì có một loại hoàn hảo mới, vàng với hương thơm. Vàng là đủ cho chính nó - rất có giá trị -
nhưng với từ bi thì thiền có hương thơm.
Từ bi giữ vị phật vẫn còn là bồ tát, chỉ ngay trên
đường biên. Đúng đấy, trong vài ngày, vài năm, người ta
có thể lưu lại được, nhưng không lâu - bởi vì dần dần
mọi thứ bắt đầu tan biến theo cách của chúng. Khi bạn
không còn gắn bó với thân thể nữa, bạn trở nên chuyển
khỏi chỗ đó. Đôi khi bạn có thể tới, với nỗ lực. Bạn có
thể dùng thân thể, với nỗ lực, nhưng bạn không còn định
cư ở đó nữa. Khi bạn không còn trong tâm trí, đôi khi
bạn có thể dùng nó, nhưng nó không còn vận hành như
nó vẫn quen vận hành trước đây. Bạn không còn theo
đuôi nó. Khi bạn không dùng nó, nó nằm đấy: nó là cỗ
máy, nó bắt đầu tụ bụi.

Khi một người đã đạt tới bậc thứ bẩy thì, trong vài
ngày, trong vài năm, người ấy có thể dùng sáu bậc.
Người ấy có thể quay lại và dùng chúng, nhưng dần dần
chúng bắt đầu gẫy. Dần dần chúng bắt đầu chết. Bồ tát có
thể ở đây chỉ trong một kiếp, nhiều nhất đấy. Thế rồi
người đó phải biến mất, bởi vì cỗ máy biến mất.
Nhưng những người đã đạt tới đều phải cố gắng, hết
mức họ có thể cố được, để dùng thân-tâm để giúp những
người vẫn còn trong thân thể và tâm trí, để giúp những
người có thể hiểu chỉ ngôn ngữ của thân thể và tâm trí,
để giúp đỡ cho các đệ tử.

Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của
chúng chúng là trống rỗng.

Khi bạn nhìn từ điểm đó... Chẳng hạn, tôi vừa mới
bảo các bạn rằng tôi chào vị phật trong bạn. Đó là viễn
kiến từ cõi bên kia: rằng tôi thấy bạn là vị phật tiềm
năng. Và một viễn kiến khác chỉ là tôi thấy bạn như cái
vỏ rỗng.

Cái bạn nghĩ bạn đang là thì chẳng là gì ngoài cái vỏ
rỗng. Ai đó nghĩ mình là đàn ông; đó là một ý tưởng rỗng
tuếch. Tâm thức chẳng là nam chẳng là nữ. Ai đó nghĩ
mình có thân thể rất đẹp, người ấy đẹp đẽ, mạnh mẽ, thế
này thế nọ - đó là một ý tưởng rỗng tuếch, chỉ bản ngã
lừa bạn thôi. Ai đó nghĩ mình biết nhiều - điều đó cũng là
vô nghĩa. Cỗ máy của người đó đã tích luỹ kí ức và
người đó bị kí ức lừa dối. Đấy tất cả đều là những vật
rỗng không.
Cho nên khi thấy từ cái siêu việt, thì một mặt tôi thấy
bạn như chư phật đang còn trong nụ, mặt khác tôi thấy
bạn chỉ như cái vỏ rỗng.

Phật đã nói rằng con người bao gồm năm yếu tố, năm
uẩn skandhas, tất cả đều là trống rỗng. Và bởi việc tổ
hợp của năm yếu tố này, một sản phẩm phụ nảy sinh
được gọi là bản ngã, cái ta. Nó cũng hệt như một chiếc
đồng hồ vận hành: nó cứ tích tắc hoài. Bạn có thể lắng
nghe và tiếng tích tắc có đó; bạn có thể mở đồng hồ ra,
bạn có thể tháo rời tất cả các bộ phận để xem tiếng tích
tắc từ đâu tới. Tiếng tích tắc từ đâu tới? Bạn sẽ chẳng tìm
thấy ở đâu cả. Tiếng tích tắc là sản phẩm phụ. Nó chỉ là
việc tổ hợp của vài thứ. Vài thứ vận hành với nhau đã tạo
ra tiếng tích tắc.
 
Đó là cái ‘tôi’ của bạn - năm yếu tố vận hành cùng
nhau tạo ra tiếng tích tắc được gọi là ‘tôi’. Nhưng nó là
trống rỗng, nó chẳng có gì trong đó cả. Nếu bạn cứ đi tìm
cái gì bản chất trong đó thì bạn sẽ không thấy được.
Đây là một trong những trực giác, sáng suốt sâu sắc
nhất của Phật: rằng cuộc sống là trống rỗng, rằng cuộc
sống như chúng ta biết là trống rỗng. Và cuộc sống cũng
đầy tràn nữa, nhưng chúng ta không biết gì về điều đó cả.
Từ cái trống rỗng này bạn phải đi đến cái tràn đầy, nhưng
cái tràn đầy đó là không thể nào quan niệm nổi ngay bây
giờ - bởi vì cái tràn đầy đó từ trạng thái này sẽ chỉ trông
như cái trống rỗng. Từ trạng thái đó cái tràn đầy trông
như trống rỗng - vua trông như kẻ ăn xin; người của hiểu
biết, người có tri thức, trông như thằng đần, dốt nát.
Một câu chuyện nhỏ.
Một người linh thiêng chấp nhận một học trò và nói
với cậu ta, “Một việc tốt là bây giờ anh cố gắng viết ra tất
cả hiểu biết của mình về cuộc sống tôn giáo và về điều gì
đã đem anh tới nó.”

Cậu học trò ra đi và bắt đầu viết. Một năm sau cậu
quay lại với thầy và nói, “Con đã làm việc rất vất vả về
việc này, và mặc dầu nó còn lâu mới hoàn chỉnh được,
đây là những lí do chính cho cuộc chiến đấu của con.”
Thầy đọc công trình này, hàng nghìn từ, thế rồi nói
với cậu thanh niên, “Bài viết rất có lí và phát biểu rõ
ràng, nhưng nó vẫn còn dài. Cố gắng viết ngắn lại một
chút.” Cho nên chàng tập sự lại ra đi và sau năm năm anh
ta quay lại với một trăm trang giấy.
Thầy mỉm cười, và sau khi đã đọc nó ông ấy nói,
“Bây giờ anh đang tiếp cận đúng tới tâm điểm vấn đề.
Suy nghĩ của anh đã sáng tỏ và mạnh mẽ. Nhưng nó vẫn
còn hơi dài; cố gắng cô đọng nó lại, con ta.”
Anh chàng tập sự lại buồn bã ra đi, vì anh ta đã lao
động vất vả để đạt tới điều bản chất. Nhưng sau mười
năm anh ta quay lại, và cúi lạy trước thầy trao cho thầy
có vài trang giấy và nói, “Đây là cốt lõi niềm tin của con,
cốt lõi cuộc đời con, và con cầu xin ân huệ của thầy về
việc đã đưa con tới nó.”
Thầy đọc xong chậm rãi và từ tốn nói: “Đây mới
thực sự kì diệu,” ông nói, “đơn giản và đẹp đẽ, nhưng nó
vẫn còn chưa hoàn hảo. Con cố gắng đạt tới sự sáng tỏ
cuối cùng.”

Và khi thầy đã gần chết và chuẩn bị cho sự kết thúc
của mình, cậu học trò quay lại với thầy lần nữa, và quì
xuống trước thầy để nhận ân huệ, trao cho thầy chỉ một
tờ giấy mà trên đó chẳng viết gì cả.
Thế rồi thầy đặt tay lên đầu anh bạn và nói, “Bây
giờ... bây giờ con đã hiểu.”

Từ viễn kiến siêu việt đó, cái bạn có là cái trống
rỗng. Từ viễn kiến của bạn, từ viễn kiến dễ bị kích động
của bạn, cái tôi đang có là cái trống rỗng.
Phật trông trống rỗng - chỉ là cái trống rỗng thuần
khiết - đối với bạn. Bởi vì các ý tưởng của bạn, bởi vì níu
bám của bạn, bởi vì sở hữu của bạn về mọi thứ, Phật
trông trống rỗng. Phật là tràn đầy: bạn mới trống rỗng.
Và viễn kiến của ông ấy là tuyệt đối; viễn kiến của bạn là
rất tương đối.

Lời kinh nói:

Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài .Ông ấy nhìn xuống từ trên cao,ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của chúng,chúng là trống rỗng.

Cái trống rỗng là mấu chốt của Phật giáo - shunyata.
Chúng ta sẽ đi vào trong nó ngày càng nhiều khi chúng ta
đi vào những lĩnh vực sâu hơn của Tâm Kinh.
Thiền về những lời kinh này đi - thiền bằng tình yêu,
bằng thông cảm, không phải bằng logic và lập luận. Nếu
bạn đi tới những lời kinh này bằng logic và lập luận, bạn
sẽ giết chết linh hồn của chúng. Đừng mổ xẻ chúng. Cố
gắng hiểu chúng như chúng vẫn thế, và đừng đem tâm trí
bạn vào - tâm trí bạn sẽ là can nhiễu.

Nếu bạn có thể nhìn vào những lời kinh này không
qua tâm trí mình, thì sáng tỏ lớn sẽ xảy ra cho bạn.
Tôi xin chào vị phật bên trong bạn. Bạn có thể không
nhận biết về điều đó, bạn có thể chưa từng mơ tới điều đó
- rằng bạn là vị phật, rằng không ai có thể là bất kì cái gì
khác, rằng phật tính là cái cốt lõi tinh tuý duy nhất của sự
hiện hữu của bạn, rằng điều đó không phải là một cái gì
đó xảy ra trong tương lai, rằng nó đã xảy ra rồi. Nó chính
là cội nguồn mà bạn tới từ đó; nó chính là cội nguồn và
cả mục đích nữa. Chính từ phật tính mà chúng ta đi, và
cũng chính phật tính đó mà chúng ta tới. Một từ này, phật
tính, hàm chứa tất cả - vòng tròn đầy đặn của cuộc sống,
từ alpha tới omega.

Nhưng bạn đang ngủ say, bạn không biết mình là ai.
Không phải là bạn phải trở thành vị phật, mà là bạn phải
nhận ra điều đó, mà là bạn phải quay về với cội nguồn
riêng của mình, mà là bạn phải nhìn vào bên trong mình.
Việc đương đầu với bản thân mình sẽ làm lộ ra phật tính
của bạn. Cái ngày mà người ta nhận ra chính mình, toàn
bộ sự tồn tại trở thành chứng ngộ. Không phải là một
người trở thành chứng ngộ - làm sao một người có thể trở
thành chứng ngộ được? Chính ý tưởng về một người là
một phần của tâm trí chưa chứng ngộ. Không phải là tôi
đã trở nên chứng ngộ; cái ‘tôi’ phải bị loại bỏ đi trước
khi người ta có thể trở nên chứng ngộ, cho nên làm sao
tôi trở thành chứng ngộ được? Điều đó là ngớ ngẩn. Cái
ngày tôi trở nên chứng ngộ thì toàn bộ sự tồn tại cũng trở
nên chứng ngộ. Từ khoảnh khắc đó tôi không còn thấy
bất kì cái gì khác hơn chư phật - trong nhiều hình dạng,
với nhiều tên, với cả ngàn lẻ một vấn đề, nhưng chư phật
vẫn tĩnh lặng.

Cho nên tôi xin chào vị phật bên trong bạn.
Tôi vui mừng vô biên rằng biết bao nhiêu vị phật đã
tụ hội ở đây. Chính sự kiện các bạn tới với tôi là bắt đầu
của thừa nhận. Tôn kính trong tim các bạn với tôi, tình
yêu trong tim các bạn với tôi, là tôn kính và tình yêu cho
phật tính của riêng các bạn. Tin cậy vào tôi không phải là
tin cậy vào cái gì đó ngoại lai với bạn, tin cậy vào tôi là
tin cậy vào cái ta. Bởi tin cậy vào tôi bạn sẽ học tin cậy
vào chính bạn. Bởi việc đến gần tôi, bạn sẽ tới gần chính
bản thân bạn. Chỉ cần phải đạt tới nhận ra. Kim cương có
đấy - bạn đã quên mất nó, hay bạn chưa bao giờ nhớ tới
nó từ ngay lúc bắt đầu.
Có một lời nói rất nổi tiếng của Emerson: “Con
người là Thượng đế trong suy tàn.” Tôi đồng ý mà tôi
cũng không đồng ý. Sáng suốt này có chân lí nào đó
trong nó - con người không phải như là con người đáng
phải thế. Sáng suốt có đó nhưng hơi lộn ngược lại một
chút. Con người không phải là Thượng đế trong suy tàn,
con người là Thượng đế đang hình thành; con người là vị
phật đang trong nụ. Cái nụ có đó, nó có thể nở hoa vào
bất kì khoảnh khắc nào: chỉ một chút ít nỗ lực nữa, chỉ
một chút ít giúp đỡ nữa... Và giúp đỡ không sắp gây ra
điều đó - điều đó đã có đấy rồi! Nỗ lực của bạn đang sắp
làm lộ nó ra cho bạn, giúp nó biểu hiện cái vẫn có đó,
giấu kín. Đấy là khám phá, nhưng chân lí thì đã có đấy
rồi. Chân lí là vĩnh hằng.
Lắng nghe những lời kinh này bởi vì đây là những lời
kinh quan trọng nhất trong kho tàng phật giáo vĩ đại. Do
đó chúng được gọi là Tâm Kinh; nó ở chính tâm điểm
của thông điệp của Phật.

Nhưng tôi muốn bắt đầu từ ngay chỗ bắt đầu. Từ
điểm này chỉ phật giáo mới trở thành có liên quan: để nó
đấy trong tim bạn rằng bạn là vị phật. Tôi biết điều đó có
vẻ như quá tự kiêu, nó có vẻ như quá giả thuyết; bạn
không thể nào tin cậy vào nó hoàn toàn được. Điều đó là
tự nhiên, tôi hiểu điều đó. Cứ để nó đấy, như hạt mầm.
Quanh sự kiện đó nhiều thứ sẽ bắt đầu xảy ra, và chỉ
quanh sự kiện đó mà bạn sẽ có thể hiểu những lời kinh
này. Chúng mạnh mẽ vô cùng - rất nhỏ, rất cô đọng,
giống như hạt mầm. Nhưng với mảnh đất này, với viễn
kiến này trong tâm trí, rằng bạn là vị phật, rằng bạn là vị
phật trong nụ, rằng bạn có khả năng tiềm tàng trở thành
cái một, rằng không có gì thiếu cả, tất cả đã sẵn sàng,
mọi thứ chỉ phải được đặt vào đúng trật tự, rằng một chút
ít nhận biết nữa là cần thiết, một chút ít ý thức nữa là cần
thiết... Kho báu có đó; bạn phải mang một ngọn đèn nhỏ
vào trong nhà mình. Một khi bóng tối biến mất, bạn sẽ
không còn là kẻ ăn xin nữa, bạn sẽ là vị phật; bạn sẽ là
hoàng đế, vua. Toàn bộ vương quốc này là của bạn và
bạn chỉ cần yêu cầu; bạn chỉ phải đòi lấy nó.
Nhưng bạn không đòi nó nếu bạn tin rằng bạn là kẻ
ăn xin. Bạn không thể đòi hỏi nó, bạn thậm chí không thể
nào mơ tới việc đòi nó nếu bạn vẫn nghĩ rằng mình là kẻ
ăn xin. Cái ý tưởng rằng bạn là kẻ ăn xin, rằng bạn dốt
nát, rằng bạn là tội nhân, đã được không biết bao nhiêu
nhà thuyết giáo thuyết giảng qua nhiều thời đại đến mức
nó đã trở thành thôi miên sâu sắc trong bạn. Thôi miên
này phải bị đập tan. Để đập vỡ nó tôi bắt đầu với: Tôi xin
chào vị phật bên trong bạn.

Với tôi, các bạn là chư phật. Tất cả mọi nỗ lực của
bạn để trở thành chứng ngộ đều lố bịch nếu bạn không
chấp nhận sự kiện cơ bản này. Điều này phải trở thành
hiểu biết ngầm, rằng bạn là điều đó! Đây là bắt đầu đúng
đắn, nếu không bạn sẽ đi lạc lối. Đây là bắt đầu đúng
đắn! Bắt đầu với viễn kiến này đi, và đừng lo nghĩ rằng
điều này có thể tạo ra một loại bản ngã nào đó - rằng “Ta
là phật.” Đừng lo nghĩ thế, bởi vì toàn bộ quá trình của
Tâm Kinh sẽ làm cho bạn rõ ràng rằng bản ngã là cái duy
nhất không tồn tại - cái duy nhất không tồn tại! Mọi thứ
khác đều là thật.

Có những thầy nói thế giới này là ảo tưởng và linh
hồn là tồn tại - cái ‘tôi’ mới đúng còn mọi cái khác đều là
ảo tưởng, ảo vọng maya. Phật nói chính điều ngược lại:
ông ấy nói duy nhất cái ‘tôi’ là không thật còn mọi thứ
khác đều là thật. Và tôi đồng ý với Phật nhiều hơn là với
các quan điểm khác. Sáng suốt của Phật là rất thấu đáo,
thấu đáo nhất. Không ai đã nhìn thấu đáo vào những cõi
giới đó, vào chiều sâu và chiều cao của thực tại.
Nhưng bắt đầu với ý tưởng này, với bầu không khí
này quanh bạn, với viễn kiến này. Để cho điều đó được
tuyên bố với từng tế bào thân thể bạn và từng ý nghĩ của
tâm trí bạn; để cho nó được tuyên bố cho từng ngõ
ngách, từng xó xỉnh của sự tồn tại của bạn, rằng “Ta là
phật!” Và đừng lo nghĩ về cái ‘tôi’... chúng ta sẽ chăm lo
tới nó.

Cái ‘tôi’ và phật tính không thể cùng tồn tại. Một khi
phật tính trở nên lộ ra thì cái ‘tôi’ biến mất, hệt như bóng
tối biến mất khi bạn đem ánh sáng vào.
Trước khi đi vào lời kinh này, cũng sẽ có ích nếu
hiểu thêm chút ít về khuôn khổ, chút ít cấu trúc.
Kinh sách phật giáo cổ đại nói về bẩy ngôi đền. Cũng
giống như người Sufi nói về bẩy thung lũng, và người
Hindu nói về bẩy luân xa, phật tử nói về bẩy ngôi đền.
Ngôi đền thứ nhất là thể chất, ngôi đền thứ hai là tâm
thần, ngôi đền thứ ba là tâm lí, ngôi đền thứ tư là tâm lítâm
linh, ngôi đền thứ năm là tâm linh, ngôi đền thứ sáu
là tâm linh siêu việt, và ngôi đền thứ bẩy là và ngôi đền
tối thượng - là siêu việt.

Lời kinh này thuộc vào ngôi đền thứ bẩy. Đây là lời
công bố của người đã đi vào ngôi đền thứ bẩy, cái siêu
việt, cái tuyệt đối. Đó là ý nghĩa của từ tiếng Phạn,
pragyaparamita - trí huệ của cõi bên kia, từ cõi bên kia,
trong cõi bên kia; trí huệ chỉ tới khi bạn đã siêu việt lên
trên tất cả các loại đồng nhất - thấp hơn hay cao hơn, thế
giới này hay thế giới kia; khi bạn đã siêu việt lên trên tất
cả các loại đồng nhất, khi bạn không còn bị đồng nhất
với tất cả, khi chỉ có một ngọn lửa thuần khiết của nhận
biết là còn lại mà không có khói quanh nó. Đó là lí do tại
sao phật tử tôn thờ cuốn sách nhỏ này, cuốn sách rất, rất
nhỏ này; và họ đã gọi nó là Tâm Kinh - chính tâm điểm
của tôn giáo, chính cốt lõi.

Ngôi đền thứ nhất, thể chất, có thể tương ứng theo
bản đồ của người Hindu với luân xa muladhar; ngôi đền
thứ hai, tâm thần, tương ứng với luân xa svadisthan; ngôi
đền thứ ba, tâm lí, với manipura; ngôi đền thứ tư, tâm lítâm
linh, với anahatta; thứ năm, tâm linh, với vishudha;
thứ sáu, tâm linh siêu việt, với agya; và thứ bẩy, cái siêu
việt, với sahasrar. ‘Sahasrar’ có nghĩa là hoa sen một
nghìn cánh. Đó là biểu tượng cho việc nở hoa tối thượng:
không còn gì bị che dấu nữa, tất cả đã trở nên được lộ ra,
biểu hiện. Hoa sen một nghìn cánh đã mở ra, toàn bộ bầu
trời tràn ngập hương thơm của nó, cái đẹp của nó, phúc
lành của nó.
Trong thế giới hiện đại một công trình lớn đã bắt đầu
trong việc tìm kiếm cốt lõi bên trong nhất của con người.
Cũng sẽ tốt để hiểu các nỗ lực hiện đại đưa chúng ta đi
bao xa.

Pavlov, B. F. Skinner và các nhà hành vi học khác,
cứ đi lòng vòng quanh thể chất, muladhar. Họ nghĩ con
người chỉ là thân thể. Họ dính líu quá nhiều vào ngôi đền
thứ nhất, họ dính líu quá nhiều với thể chất, họ quên mất
mọi thứ khác. những người này đang cố gắng giải thích
con người chỉ qua thể chất, vật chất. Thái độ này trở
thành cản trở bởi vì họ không mở. Khi mà ngay từ đầu
bạn đã từ chối rằng chẳng có gì khác hơn thân thể, thế thì
bạn chối bỏ chính việc khám phá. Điều này trở thành
định kiến. Người cộng sản, người Mác xít, người hành vi
chủ nghĩa, người vô thần - những người tin rằng con
người chỉ là thân thể - chính niềm tin của họ đóng chặt
các cánh cửa đi tới những thực tại cao hơn. Họ trở thành
mù quáng. Và thể chất có đó, thể chất là rõ ràng nhất; nó
không cần bằng chứng. Thân thể vật lí có đó, bạn không
cần phải chứng minh về nó. Vì nó không cần phải chứng
minh, nó trở thành thực tại duy nhất. Điều đó là vô nghĩa.
Thế thì con người mất đi mọi nhân phẩm. Nếu không có
gì để trưởng thành vào trong và đi lên, thì không thể nào
có bất kì nhân phẩm nào trong cuộc sống. Thế thì con
người trở thành một vật. Thế thì bạn không mở, thế thì
chẳng còn gì hơn sắp xảy ra cho bạn - bạn là thân thể:
bạn ăn, rồi bạn ỉa, rồi bạn lại ăn và bạn làm tình và sinh
ra trẻ con, và điều này sẽ cứ tiếp diễn mãi, rồi một ngày
bạn chết. Sự lặp lại máy móc của những điều trần tục,
tầm thường - làm sao có thể có bất kì ý nghĩa nào, bất kì
nghĩa nào, bất kì thơ ca nào? Làm sao có thể có bất kì
điệu vũ nào?
Skinner đã viết một cuốn sách, Vượt ra ngoài tự do
và nhân phẩm. Nó đáng phải gọi là ở dưới tự do và nhân
phẩm, không phải là vượt ra ngoài. Nó là ở dưới, nó là
quan điểm thấp nhất về con người, cái xấu nhất. Chẳng
có gì sai về thân thể cả, nhớ lấy. Tôi không chống lại
thân thể, nó là ngôi đền đẹp. Cái xấu xí đi vào khi bạn
nghĩ đây là tất cả.

Con người có thể được quan niệm như chiếc thang có
bẩy bậc, và bạn đồng nhất với bậc thứ nhất. Thế thì bạn
chẳng định đi đâu cả. Và chiếc thang thì vẫn đó, chiếc
thang vắt từ thế giới này sang thế giới khác; chiếc cầu nối
vật chất với Thượng đế. Bậc thứ nhất là hoàn toàn tốt nếu
nó được dùng trong mối quan hệ với toàn bộ chiếc thang.
Nếu nó vận hành như bước đầu tiên thì nó là đẹp cực kì:
người ta nên biết ơn thân thể. Nhưng nếu bạn bắt đầu tôn
thờ bậc thứ nhất và bạn quên mất sáu bậc còn lại, bạn
quên mất rằng toàn bộ chiếc thang tồn tại và bạn trở
thành khép kín, bị hạn chế vào bậc thứ nhất, thế thì nó
không còn là bậc thang chút nào nữa... bởi vì bậc thang
chỉ là bậc thang khi nó là một phần của chiếc thang. Nếu
nó không còn là bậc thang, bạn bị mắc kẹt với nó. Do đó,
những người duy vật bao giờ cũng bị mắc kẹt, họ bao giờ
cũng cảm thấy điều gì đó đang bị lỡ, họ không cảm thấy
họ đang đi đâu cả. Họ đi lòng vòng, theo vòng tròn, và
họ cứ đi đi lại lại mãi một điểm. Họ trở nên mệt mỏi và
chán chường. Họ bắt đầu suy nghĩ đến cách tự tử. Và
toàn bộ nỗ lực của họ trong cuộc sống là để tìm ra những
cảm giác nào đó, để cho cái gì đó mới có thể xảy ra.
Nhưng cái ‘mới’ nào có thể xảy ra được? Tất cả những
cái mà chúng ta cứ bận tâm tới chẳng là gì ngoài đồ chơi
để mà chơi thôi.

Nghĩ đến những lời này của Frank Sheed: “Linh hồn
con người đang kêu khóc về mục đích hay ý nghĩa. Còn
nhà khoa học nói, ‘Điện thoại đây này.’ Hay, ‘Trông đây!
Ti vi!’ - hệt như người ta đang cố dỗ đứa trẻ đang khóc
đòi mẹ bằng việc đưa ra miếng kẹo và nhăn mặt nhăn
mũi trước nó. Luồng phát minh liên miên đã phục vụ cực
kì tốt cho việc làm cho con người phải bận bịu, ngăn con
người không cho nhớ tới cái gây rắc rối cho mình.”
Tất cả những cái mà thế giới hiện đại đã cung cấp
cho bạn thì chẳng là gì ngoài kẹo đường, đồ chơi để chơi
- còn bạn thì đang kêu khóc đòi mẹ, bạn đang kêu khóc
đòi tình yêu, bạn đang kêu khóc đòi tâm thức, và bạn
đang kêu khóc về ý nghĩa nào đó trong cuộc sống. Và họ
nói, “Trông đây! Điện thoại này. Trông đây! Ti vi này.
Trông đây! Chúng tôi đã mang bao nhiêu thứ đẹp tới cho
bạn.” Còn bạn chơi quanh quẩn một chút ít; rồi bạn phát
ngán; bạn phát chán, và họ lại cứ tìm kiếm đồ chơi mới
cho bạn chơi.
Trạng thái vấn đề này thật buồn cười. Nó ngớ ngẩn
đến mức dường như không thể nào quan niệm nổi làm
sao chúng ta cứ sống mãi trong nó. Chúng ta bị mắc tại
bậc thang thứ nhất.
Nhớ rằng bạn đang trong thân thể, nhưng bạn không
phải là thân thể; để cho nhận thức đó liên tục ở trong bạn.
Bạn sống trong thân thể và thân thể là chỗ cư ngụ đẹp đẽ.

Nhớ lấy, vào mọi khoảnh khắc, tôi không hướng dẫn
rằng bạn nên trở thành kẻ chống đối thân thể, rằng bắt
đầu chối bỏ thân thể như cái gọi là những người duy tâm
đã làm trong nhiều thời đại. Người duy vật nghĩ rằng
thân thể là tất cả những cái có đấy, và có những người
còn đi sang cực đối lập, và họ bắt đầu nói rằng thân thể là
ảo tưởng; thân thể là không có! “Phá huỷ thân thể để cho
cái ảo tưởng đó bị phá huỷ, và bạn có thể trở thành cái
thực một cách thực sự.”

Cực đoan khác này là phản động. Người duy vật tạo
ra phản động của riêng mình với người duy tâm, nhưng
họ là đối tác trong cùng một công việc; họ không phải là
những người khác nhau nhiều lắm. Thân thể là đẹp đẽ,
thân thể là thực, thân thể cần phải được sống, thân thể
cần phải được yêu. Thân thể là món quà vĩ đại của
Thượng đế. Bạn đừng chống lại nó dù chỉ một khoảnh
khắc, và bạn cũng đừng nghĩ rằng bạn chỉ là nó dù chỉ
một khoảnh khắc. Bạn còn lớn hơn nhiều lắm. Dùng thân
thể như bàn nhảy đi.
Bậc thứ hai là: tâm thần, svadisthan. Phân tâm của
Freud vận hành ở đây. Nó đi cao hơn một chút so với
Skinner và Pavlov. Freud đi vào trong những bí ẩn của
tâm lí một chút ít nhiều hơn. Ông ấy không phải chỉ là
nhà hành vi chủ nghĩa, nhưng ông ấy chưa bao giờ vượt
ra ngoài các giấc mơ. Ông ấy cứ phân tích các giấc mơ.
Giấc mơ tồn tại như ảo tưởng trong bạn. Nó là điều
ngụ ý, nó là biểu tượng, nó mang thông điệp từ vô thức
được để lộ cho ý thức. Nhưng chẳng ích gì mà bị mắc
vào nó. Dùng giấc mơ, nhưng đừng trở thành giấc mơ.
Bạn không phải là giấc mơ.

Và cũng chẳng cần làm nhặng sị lên về nó, như
những người theo Freud vẫn cứ làm. Toàn bộ nỗ lực của
họ dường như là di chuyển vào trong chiều hướng của
thế giới mơ. Chú ý về nó, lấy quan điểm rất rất rõ ràng về
nó, hiểu thông điệp của nó, và thực sự không cần phải đi
đến bất kì ai khác để phân tích giấc mơ của bạn. Nếu bạn
không thể phân tích được giấc mơ của mình, chẳng ai
khác có thể làm được, bởi vì giấc mơ của bạn là giấc mơ
của bạn. Và giấc mơ của bạn mang tính cá nhân đến mức
chẳng ai khác có thể mơ theo cách bạn mơ. Không ai đã
từng mơ được theo cách bạn mơ, không ai sẽ mơ được
theo cách bạn mơ; không ai có thể giải thích nó cho bạn.
Việc diễn giải của người ấy sẽ là việc diễn giải của người
ấy. Duy nhất bạn mới có thể nhìn vào trong nó. Và trong
thực tế thì cũng chẳng cần phải phân tích giấc mơ: nhìn
vào giấc mơ trong tính toàn bộ của nó, với sáng tỏ, với
tỉnh táo, và bạn sẽ thấy thông điệp. Nó lớn làm sao!
Chẳng cần phải đi tới nhà phân tâm trong ba, bốn, năm,
bẩy năm.

Một người, người vẫn mơ vào mọi đêm và ban ngày
lại đến nhà phân tâm để được phân tích, dần dần sẽ trở
thành bị bao quanh bởi chất liệu mơ. Giống như loại
người thứ nhất trở thành quá bị ám ảnh với muladhara,
thể chất, thì loại người thứ hai trở nên quá bị ám ảnh với
dục... bởi vì loại người thứ hai - lĩnh vực của thực tại tâm
lí - là dục. Loại người thứ hai bắt đầu diễn giải mọi thứ
dưới dạng dục. Bất kì cái gì bạn làm, cứ đến với người
theo Freud và ông ta sẽ qui nó về dục. Không có gì cao
hơn tồn tại với ông ta. Ông ta sống trong bùn, ông ta
không tin vào hoa sen. Bạn đem hoa sen tới cho ông ta,
ông ta sẽ nhìn vào nó và qui nó về bùn. Ông ta sẽ nói,
“Cái này chẳng là gì cả, cái này chỉ là bùn bẩn thôi. Nó
chẳng mọc ra từ bùn bẩn đó sao? Nếu nó mọc ra từ bùn
bẩn thì nó phải là bùn bẩn vậy.” Đưa mọi thứ về nguyên
nhân của nó, và đó là cái thực.
Thế thì mọi bài thơ cũng đều bị qui về dục, mọi thứ
đẹp đẽ cũng đều bị qui về dục và truỵ lạc và kìm nén.
Michelangelo mà là nghệ sĩ vĩ đại sao? - thế thì nghệ
thuật của ông ấy phải bị qui về dâm dục nào đó. Và
những người theo Freud đi tới cả chuỗi dài những điều
ngớ ngẩn. Họ nói: Michelangelo hay Goethe hay Byron,
tất cả các công trình nghệ thuật vĩ đại, cái đem lại niềm
vui cho hàng triệu người, chẳng là gì khác ngoài dục bị
kìm nén - có thể Goethe đã là thủ dâm và bị ngăn cản.
Hàng triệu người bị ngăn cản khỏi thủ dâm, nhưng
họ không trở thành như Goethe. Đấy là điều ngớ ngẩn.
Nhưng Freud là thầy của thế giới nhà vệ sinh. Ông ấy
sống ở đó, đó là ngôi đền của ông ta. Nghệ thuật trở
thành bệnh hoạn, thi ca trở thành bệnh hoạn, mọi thứ đều
trở thành truỵ lạc. Nếu phân tích của người theo Freud
mà thành công thì sẽ không có Kalidas, không có
Shakespeare, không có Michelangelo, không có Mozart,
không có Wagner, bởi vì mọi người sẽ bình thường.
Những người này là bất thường. Những người này bị
bệnh tâm thần, theo Freud. Cái vĩ đại nhất bị đưa về cái
thấp kém nhất. Phật là ốm yếu, theo Freud, bởi vì bất kì
điều gì ông ấy nói, chúng cũng chẳng là gì ngoài dục bị
kìm nén.

Cách tiếp cận này đưa cái vĩ đại của con người về cái
xấu xí. Nhận biết về điều đó đi. Phật không ốm yếu;
trong thực tế, Freud ốm yếu. Im lặng của Phật, vui vẻ của
Phật, mở hội của Phật - đấy không phải là ốm yếu, đấy là
việc nở hoa hoàn toàn của trạng thái hạnh phúc.
Nhưng với Freud người bình thường là người chưa
bao giờ hát lên bài ca, người chưa từng nhảy múa, người
chưa từng mở hội, chưa từng cầu nguyện, chưa từng
thiền, chưa từng làm bất kì cái gì sáng tạo, bình thường
là: đến cơ quan, về nhà, ăn, uống, ngủ và chết; không để
lại đằng sau dấu vết gì của sáng tạo của mình; không để
lại dù chỉ một dấu hiệu ở bất kì đâu. Người bình thường
này dường như là rất tầm thường, đần độn và chết. Có
hoài nghi về Freud bởi vì bản thân ông ta không thể sáng
tạo - ông ta là một người không sáng tạo - ông ta lên án
bản thân tính sáng tạo là bệnh hoạn. Có mọi khả năng
ông ta là một người tầm thường. Chính cái tầm thường
của ông ta làm cho tất cả những người vĩ đại trên thế giới
cảm thấy chướng.

Tâm trí tầm thường cố gắng thu nhỏ tất cả những cái
vĩ đại. Tâm trí tầm thường không thể nào chấp nhận được
rằng có thể có bất kì người nào vĩ đại hơn mình. Điều đó
làm tổn thương. Đấy là báo thù của điều tầm thường -
toàn bộ việc phân tâm này và cách diễn giải của nó về
cuộc sống con người. Nhận biết về nó đi. Nó có tốt hơn
loại thứ nhất, đúng, tiến lên trước hơn loại thứ nhất một
chút, nhưng người ta còn phải đi tiếp, tiếp nữa, vượt ra
ngoài và ra ngoài.

Bậc thứ ba là tâm lí. Adler sống trong thế giới của
tâm lí, của ý chí quyền lực; ít nhất có một cái gì đó - rất
vị kỉ, nhưng ít nhất cũng có một cái gì đó; một chút ít cởi
mở hơn Freud. Nhưng vấn đề là, cũng giống như Freud
qui mọi thứ về dục, Adler cứ qui mọi thứ về phức cảm tự
ti. Người ta cố gắng trở thành vĩ đại bởi vì họ cảm thấy
thấp kém. Một người cố gắng trở thành chứng ngộ là
người cảm thấy thấp kém, và một người cố gắng trở
thành chứng ngộ là người đang trên cuộc hành trình
quyền lực. Điều này hoàn toàn sai lầm, bởi vì chúng ta đã
thấy những người đó - một Phật, một Christ, một Krishna
- người đã buông xuôi hoàn toàn đến mức hành trình của
họ không thể nào được gọi là hành trình quyền lực. Và
khi Phật nở hoa, ông ấy cũng chẳng có ý tưởng nào về sự
cao thượng, không một chút nào. Ông ấy cúi mình xuống
dưới toàn bộ sự tồn tại. Ông ấy chẳng có ý tưởng nào về
việc thần thánh hơn người, không một chút nào. Mọi thứ
đều là thần thánh, thậm chí một hạt bụi cũng là thiêng
liêng. Không, ông ấy không nghĩ mình cao thượng, và
ông ấy không cố gắng để trở thành cao thượng. Ông ấy
không cảm thấy thấp kém chút nào. Ông ấy được sinh ra
là vua; không có vấn đề về thấp kém. Ông ấy ở trên chóp
đỉnh ngay từ đầu, không có vấn đề về thấp kém. Ông ấy
là người giầu có nhất trong nước, người có quyền lực
nhất trong nước: không còn quyền lực nào cao hơn cần
phải đạt tới, không còn giầu có nào lớn hơn cần đạt tới.
Ông ấy là một trong những người đẹp nhất đã được sinh
ra trên trái đất này, ông ấy có một trong những phụ nữ
đẹp nhất là người yêu. Tất cả đều có sẵn cho ông ấy.
Nhưng Alder sẽ cứ đi tìm một cái thấp kém nào đó
bởi vì ông ta không thể nào tin được rằng một người lại
có thể có bất kì mục tiêu nào khác hơn bản ngã. Điều này
là tốt hơn... tốt hơn Freud, cao hơn chút ít. Bản ngã có
cao hơn dục chút ít; không cao hơn lắm, nhưng có cao
hơn chút ít.
Bậc thứ tư là tâm lí-tâm linh, anahatta, trung tâm trái
tim. Jung, Assagioli và những người khác thâm nhập vào
cõi này. Họ đi cao hơn Pavlov, Freud và Alder, họ mở ra
nhiều khả năng hơn. Họ chấp nhận thế giới của cái bất
hợp lí, vô ý thức: họ không giới hạn mình vào lẽ phải. Họ
là người hợp lí hơn - họ chấp nhận cả cái ‘không có lí’
nữa. Cái vô lí không bị chối bỏ mà được chấp nhận. Đây
là nơi tâm lí học hiện đại dừng lại - tại bậc thang thứ tư.
Và bậc thang thứ tư cũng mới là ở giữa của toàn bộ chiếc
thang: ba bậc bên này và ba bậc bên kia.

Tâm lí học hiện đại chưa phải là khoa học hoàn
chỉnh. Nó treo lơ lửng ở giữa. Nó rất dễ lung lay, không
chắc chắn về điều gì cả. Nó phần nhiều giả thuyết hơn là
thực nghiệm. Nó vẫn còn đang chật vật để tồn tại.
Bậc thứ năm là tâm linh: Mô ha mét giáo, Hin du
giáo, Ki tô giáo - các tôn giáo có tổ chức còn bị mắc kẹt
với bậc thứ năm.Họ không vượt ra ngoài tâm linh. Tất cả
các tôn giáo có tổ chức, nhà thờ, vẫn còn ở đó.
Bậc thứ sáu là tâm linh siêu việt - yoga và các
phương pháp khác. Trên khắp thế giới, suốt nhiều thời
đại, nhiều phương pháp đã được phát triển, những điều
không giống như tổ chức nhà thờ, không học thuyết mà
nhiều thực nghiệm hơn. Bạn phải làm điều gì đó với thân
thể và tâm trí mình; bạn phải tạo ra hài hoà nào đó bên
trong mình để cho bạn có thể cưỡi lên hài hoà đó, bạn có
thể cưỡi lên đám mây hài hoà đó và đi xa khỏi thực tại
bình thường của mình. Yoga có thể bao quát tất cả điều
đó; đó là bậc thứ sáu.

Và bậc thứ bẩy là siêu việt: Mật tông, Đạo, Thiền.
Quan điểm của Phật là ở bậc thứ bẩy - pragyaparamita.
Nó có nghĩa là trí huệ siêu việt lên, trí huệ tới với bạn chỉ
khi tất cả các thể đã được đi qua và bạn đã trở thành chỉ
một nhận biết thuần khiết, chỉ một nhân chứng, một chủ
thể thuần khiết.
Chừng nào con người còn chưa đạt tới siêu việt, con
người sẽ còn phải được cho đồ chơi, kẹo đường. Con
người sẽ phải được cung cấp với những ý nghĩa sai lầm.

Mới hôm nọ tôi đi ngang qua một tấm biển quảng
cáo xe hơi Mĩ. Nó nói - với một chiếc xe hơi đẹp - trên
đỉnh của chiếc xe nó nói: Cái gì đó để tin vào.
Con người chưa bao giờ tụt xuống thấp thế. Cái gì đó
để tin vào! Bạn tin vào chiếc xe ư? Đúng đấy, người ta
tin vào nhà mình, người ta tin vào xe hơi của mình,
người ta tin vào số dư ngân hàng của mình. Nếu bạn nhìn
quanh bạn sẽ ngạc nhiên - Thượng đế đã biến mất, nhưng
niềm tin thì không biến mất. Thượng đế không còn ở đó
nữa: bây giờ có xe Cadillac hay Lincoln! Thượng đế đã
biến mất nhưng con người đã tạo ra thượng đế mới -
Stalin, Mao. Thượng đế đã biến mất và con người đã tạo
ra các thần tượng mới - các ngôi sao điện ảnh.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tâm thức con người
mà con người đã tụt xuống thấp như thế. Và thậm chí nếu
đôi khi bạn nhớ tới Thượng đế, đấy cũng chỉ là một từ
trống rỗng. Có thể khi bạn đau ốm, có thể khi bạn thất
vọng, thế thì bạn dùng Thượng đế - dường như Thượng
đế là thuốc aspirin. Đó là điều cái gọi là các tôn giáo đã
làm cho các bạn tin tưởng: họ nói, “Hãy tưởng nhớ
Thượng đế ba lần một ngày và bạn sẽ không cảm thấy
đau gì!” Cho nên bất kì khi nào bạn bị đau, bạn nhớ tới
Thượng đế. Thượng đế không phải là thuốc aspirin,
Thượng đế không phải là thuốc giảm đau.

Một vài người nhớ tới Thượng đế theo thói quen,
một số người khác nhớ tới Thượng đế theo chuyên
nghiệp. Tu sĩ - ông ta nhớ tới Thượng đế theo nghề
chuyên nghiệp. Ông ta chẳng liên can gì tới Thượng đế
cả, ông ta được trả tiền cho điều đó. Ông ta đã trở thành
kẻ thiện nghệ. Một vài người nhớ theo thói quen, một vài
người theo chuyên nghiệp, nhưng dường như chẳng ai
nhớ tới Thượng đế trong tình yêu sâu sắc cả. Một vài
người cầu tới tên ngài khi họ khổ; chẳng ai nhớ tới ngài
khi họ đang sung sướng, mở hội. Và đó mới là khoảnh
khắc đúng để mà nhớ - bởi vì chỉ khi bạn vui vẻ, vui vẻ
vô biên, bạn mới gần Thượng đế. Khi bạn trong khổ, bạn
ở xa xôi, khi bạn trong khổ, bạn đóng kín. Khi bạn hạnh
phúc, bạn cởi mở, tuôn chảy; bạn có thể cầm tay Thượng
đế.

Cho nên hoặc bạn nhớ theo thói quen, bởi vì bạn đã
được dạy từ ngay thời trẻ thơ - nó đã trở thành một loại
thói quen, giống như hút thuốc. Nếu bạn hút thuốc, bạn
không thích nhiều lắm; nếu bạn không hút, bạn cảm thấy
bạn thiêu thiếu cái gì đó. Nếu bạn nhớ tới Thượng đế mỗi
sáng, mỗi chiều, chẳng đạt được cái gì cả, bởi vì việc nhớ
không phải là của trái tim - chỉ lời miệng, tâm trí, máy
móc. Nhưng nếu bạn không nhớ lấy, bạn bắt đầu cảm
thấy cái gì đó thiêu thiếu. Nó đã trở thành lễ nghi. Nhận
biết về việc làm Thượng đế thành lễ nghi, và nhận biết về
việc trở thành chuyên nghiệp về nó đi.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện rất nổi tiếng:
Câu chuyện về một nhà yoga vĩ đại, rất nổi tiếng,
người được nhà vua hứa rằng nếu ông ta có thể nằm
trong nấm mồ sâu và ở dưới đất trong một năm, nhà vua
sẽ cho ông ta con ngựa hay nhất của vương quốc xem
như phần thưởng. Nhà vua biết rằng nhà yoga này có trái
tim mềm yếu với ngựa, ông ta là người yêu ngựa vô
cùng.

Nhà yoga ưng thuận; ông ấy bị chôn sống trong một
năm. Nhưng trong năm đó vương quốc đã bị đánh bại và
chẳng còn ai nhớ tới việc đào nhà yoga lên.
Mười năm sau đó một ai đó mới nhớ ra: “Điều gì xảy
ra cho nhà yoga này nhỉ?” Nhà vua bảo vài người đi tìm
lại. Nhà yoga được đào lên; ông ta vẫn còn sống trong
cơn mê sâu. Câu mật chú đã được thoả thuận trước đây
được thì thào vào tai ông ta và ông ta ngồi dậy, và việc
đầu tiên ông ta nói là “Ngựa của tôi đâu?”
Sau mười năm vẫn còn im lặng dưới đất... nhưng tâm
trí chẳng thay đổi chút nào - “Ngựa của tôi đâu?” Con
người này có thực trong cơn mê, trong samadhi không?
Ông ấy có nghĩ về Thượng đế không? Ông ấy phải đã
nghĩ liên tục về ngựa. Nhưng ông ấy thành thạo, tài giỏi
chuyên nghiệp. Ông ấy phải đã học được kĩ thuật dừng
thở và cách đi vào một loại cái chết - nhưng đấy là kĩ
thuật.

Mười năm trong im lặng sâu sắc thế, và tâm trí chẳng
thay đổi một chút xíu! Đích xác hệt như mười năm này
chưa hề trôi qua. Nếu bạn nhớ tới Thượng đế một cách kĩ
thuật, nếu bạn nhớ tới Thượng đế một cách chuyên
nghiệp, nhớ theo thói quen, một cách máy móc, thế thì
chẳng cái gì sắp xảy ra cả. Tất cả đều có thể, nhưng tất cả
các khả năng đều đi qua trái tim. Do đó tên của bài kinh
này: Tâm Kinh.

Chừng nào bạn còn chưa làm điều gì đó với tình yêu
lớn, với tham dự lớn, với cam kết lớn, với chân thành,
với chân thực, với toàn bộ con người bạn, thì chẳng cái
gì sắp xảy ra cả.
Với một số người tôn giáo giống như chân giả: nó
chẳng có hơi ấm lẫn cuộc sống. Và mặc dầu nó giúp cho
họ loạng choạng bước đi, nó vẫn chẳng bao giờ trở thành
một phần của họ; nó phải được buộc lại hàng ngày.
Nhớ lấy, điều này đã xảy ra cho hàng triệu người trên
trái đất, điều này cũng có thể xảy ra cho bạn nữa. Đừng
tạo ra chân giả, để chân thật trưởng thành trong bạn. Chỉ
thế thì cuộc sống của bạn mới ấm áp, chỉ thế thì cuộc
sống của bạn mới có vui vẻ - không phải là nụ cười giả
tạo trên môi, không phải là hạnh phúc giả mà bạn vờ có,
không phải là mặt nạ, mà trong thực tế. Thường thì bạn
cứ mang những thứ này: ai đó mang nụ cười đẹp, ai đó
mang khuôn mặt từ bi, ai đó mang một nhân cách rất rất
đáng yêu - nhưng những điều này giống như quần áo bạn
mặc lên người mình. Sâu bên trong bạn vẫn còn như cũ.
Những lời kinh này có thể trở thành cuộc cách mạng.
Điều thứ nhất, cái bắt đầu, bao giờ cũng là câu hỏi,
“Tôi là ai?” Và người ta cứ phải hỏi mãi. Khi lần đầu tiên
bạn hỏi, “Tôi là ai?” thì muladhar sẽ trả lời, “Bạn là thân
thể! Câu hỏi vô nghĩa! Không cần phải hỏi, bạn đã biết
nó rồi.” Thế rồi bậc thứ hai sẽ nói, “Bạn là dục.” Rồi bậc
thứ ba sẽ nói, “Bạn là con đường quyền lực, là bản ngã” -
và cứ thế mãi.

Nhớ lấy, bạn phải dừng lại chỉ khi không câu trả lời
nào tới, không có chuyện trước điều đó. Nếu câu trả lời
nào đó vẫn còn tới, "Bạn là thế này, bạn là thế nọ," thế
thì biết rằng một trung tâm nào đó đang đưa ra cho bạn
câu trả lời. Khi tất cả sáu trung tâm đã được đi qua và tất
cả các câu trả lời của chúng đều bị cắt bỏ, bạn vẫn cứ
hỏi, “Tôi là ai?” và không có câu trả lời đến từ bất kì đâu,
đấy là im lặng hoàn toàn. Câu hỏi của bạn vang vọng
trong bản thân mình: “Tôi là ai?” và có im lặng, không
câu trả lời nào nảy sinh từ bất kì đâu, từ bất kì xó xỉnh
nào. Bạn hoàn toàn hiện diện, hoàn toàn im lặng, và thậm
chí không có đến một rung động. “Tôi là ai?” - và chỉ có
im lặng. Thế thì phép mầu xảy ra: bạn thậm chí không
thể nào hình thành được câu hỏi. Câu trả lời đã trở thành
ngớ ngẩn; thế thì cuối cùng câu hỏi cũng trở thành ngớ
ngẩn. Đầu tiên câu trả lời biến mất, thế rồi câu hỏi cũng
biến theo - vì chúng chỉ có thể sống cùng nhau. Chúng là
hai mặt của một đồng tiền - nếu mặt này ra đi, mặt kia
không thể còn lại được. Câu trả lời biến trước rồi câu hỏi
biến theo. Và với việc biến mất của câu hỏi và câu trả lời,
bạn nhận ra: đó là siêu việt. Bạn biết, vậy mà bạn không
thể nói; bạn biết, vậy mà bạn không thể nói rõ ràng về
nó. Bạn biết từ chính bản thể con người mình bạn là ai,
nhưng điều ấy không thể nào nói ra lời được. Nó là tri
thức cuộc sống; nó không phải là kinh sách, nó không
phải là vay mượn, nó không phải là từ người khác. Nó
nảy sinh trong bạn.

Và với việc nảy sinh này, bạn là vị phật. Và thế thì
bạn bắt đầu cười to vì bạn nhận ra rằng bạn đã là vị phật
từ ngay ban đầu; bạn chỉ chưa bao giờ nhìn sâu thế. Bạn
đã chạy lòng vòng loanh quanh bản thể mình, bạn chưa
bao giờ về nhà.
Triết gia, Arthur Schopenhauer, đang bước đi đơn
độc trên phố. Chìm đắm trong suy nghĩ, ngẫu nhiên ông
ấy đâm sầm vào một người đi bộ khác. Tức mình bởi cú
húc và cái hờ hững rõ ràng của triết gia, người đi bộ này
hét lên, "Này! Ông nghĩ ông là ai vậy?"
Vẫn đắm chìm trong suy nghĩ triết gia nói, “Tôi là ai
ư? Tôi muốn biết điều đó làm sao.”
Chẳng ai biết cả.
Biết điều này - rằng tôi không biết tôi là ai - cuộc
hành trình bắt đầu.

Lời kinh thứ nhất:

Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Đây là lời cầu khẩn. Tất cả kinh sách Ấn Độ đều bắt
đầu bằng lời cầu khẩn bởi lí do nào đó. Điều này không
phải như vậy ở các nước khác và trong các ngôn ngữ
khác; điều này không phải như vậy ở Hi lạp. Cách hiểu
của Ấn Độ là thế này: rằng chúng ta là cây tre hổng, duy
nhất cái vô hạn chảy qua chúng ta. Cái vô hạn phải được
cầu khẩn tới; chúng ta chỉ trở thành công cụ cho nó.
Chúng ta cầu khẩn nó, chúng ta gọi nó tới để chảy qua
chúng ta. Đó là lí do tại sao không người nào biết ai đã
viết ra Tâm Kinh này. Nó đã không được kí tên bởi vì
người viết ra nó đã không tin rằng mình là người viết ra
nó. Người ấy chỉ là công cụ. Người ấy chỉ giống như
người viết tốc kí; việc đọc là từ bên ngoài xa. Điều đó đã
được đọc cho người ấy, người ấy đã viết lại trung thành
điều đó, nhưng người ấy không phải là tác giả của nó -
nhiều nhất người ấy chỉ là người viết ra

Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Đây là lời cầu khẩn, một vài từ, nhưng mọi từ đều
rất, rất hàm chứa ý nghĩa.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ...
‘Sự hoàn hảo của trí huệ’ là việc dịch cho chữ
pragyaparamite. Pragya có nghĩa là trí huệ. Nhớ lấy, nó
không có nghĩa là tri thức. Tri thức là cái tới qua tâm trí,
tri thức là cái tới từ bên ngoài. Tri thức chưa bao giờ là
nguyên thuỷ cả! Nó không thể nào là nguyên thuỷ được,
bởi chính bản chất của nó; nó là đồ vay mượn. Trí huệ là
linh ảnh nguyên thuỷ của bạn: nó không tới từ bên ngoài,
nó trưởng thành trong bạn. Nó không giống đoá hoa nhựa
nhân tạo bạn ra chợ và mua về. Nó là hoa hồng thật mọc
trên cây, từ cây. Nó là bài ca của cây. Nó tới từ cốt lõi
bên trong nhất của cây; từ chiều sâu của cây mà nó mọc
ra. Ngày này nó còn chưa được diễn đạt, ngày khác nó
được diễn đạt ra; ngày này nó còn chưa biểu lộ, ngày
khác nó được biểu lộ ra.

Pragya có nghĩa là trí huệ, nhưng trong tiếng Anh,
ngay cả trí huệ cũng mang ý nghĩa khác. Trong tiếng
Anh, tri thức có nghĩa là không có kinh nghiệm: bạn tới
đại học, bạn thu thập tri thức. Trí huệ có nghĩa là bạn đi
vào cuộc sống và bạn thu thập kinh nghiệm. Cho nên một
thanh niên có thể có tri thức những không bao giờ có trí
huệ, bởi vì trí huệ cần thời gian. Một thanh niên có thể có
bằng cấp: người đó có thể là tiến sĩ khoa học hay văn
chương - điều đó chẳng khó khăn gì - nhưng chỉ người
già mới có thể có trí tuệ. Trí tuệ có nghĩa là tri thức được
thu thập qua kinh nghiệm riêng của người ta, nhưng nó
vẫn là từ bên ngoài.

Pragya không phải là tri thức mà cũng chẳng phải là
trí tuệ như người ta vẫn thường hiểu chúng. Nó là việc nở
hoa bên trong - không phải qua kinh nghiệm, không phải
qua người khác, không phải qua cuộc sống và đọ sức với
cuộc sống, không, nhưng chỉ bằng việc đi vào bên trong,
trong im lặng hoàn toàn, và cho phép cái vẫn ẩn kín ở đó
bùng nổ ra. Bạn đang mang trí huệ như hạt mầm bên
trong mình; nó chỉ cần mảnh đất tốt để có thể nẩy mầm.
Trí huệ bao giờ cũng là nguyên thuỷ. Nó bao giờ cũng là
của bạn, và duy nhất là của bạn.

Nhưng nhớ lấy, khi tôi nói ‘của bạn’, tôi không định
nói rằng có bất kì bản ngã nào dính líu vào trong nó. Nó
là của bạn theo nghĩa nó đến từ tự tính của bạn, nhưng nó
không công bố về bản ngã - bởi vì lần nữa bản ngã lại là
một phần của tâm trí, không phải của im lặng nội tâm của
bạn. Paramita có nghĩa là vượt ra ngoài, từ bên ngoài,
bên ngoài thời gian và không gian; khi bạn chuyển tới
trạng thái nơi thời gian biến mất, khi bạn chuyển tới nơi
nội tâm mà không gian biến mất, khi bạn không biết bạn
ở đâu và khi nào, khi nào cả hai tham chiếu này đã biến
mất. Thời gian là ở bên ngoài bạn, không gian cũng ở
bên ngoài bạn. Có một điểm giao bên trong bạn nơi thời
gian biến mất.

Một ai đó đã hỏi Jesus, “Xin kể cho chúng tôi đôi
điều về vương quốc của Thượng đế. Có gì đặc biệt ở
đó?” Tương truyền Jesus đã nói, “Thời gian không còn
nữa.” Có vĩnh hằng, khoảnh khắc vô thời gian. Đó là ra
ngoài - nơi vô không gian và khoảnh khắc vô thời gian.
Bạn không còn bị giới hạn nữa, cho nên bạn không thể
nói bạn ở đâu.
Bây giờ các bạn nhìn vào tôi: tôi không thể nói tôi
đang ở đây, bởi vì tôi đang ở kia nữa. Và tôi không thể
nói tôi đang ở Ấn Độ, bởi vì tôi đang ở Trung quốc nữa.
Và tôi cũng không thể nói rằng tôi đang ở hành tinh này,
bởi vì tôi không ở hành tinh này. Khi bản ngã biến mất
bạn đơn giản là một với cái toàn thể. Bạn ở mọi nơi và
không nơi nào. Bạn không tồn tại như một thực thể tách
biệt, bạn tan biến.

Nhìn xem! Vào buổi sáng, trên chiếc lá đẹp, có một
hạt sương lung linh trong ánh mặt trời, đẹp cực kì. Và thế
rồi nó bắt đầu tuột đi, và nó tuột vào trong đại dương. Nó
đã có đó trên chiếc lá: có thời gian và không gian, nó đã
có định nghĩa, tính cách của riêng nó. Bây giờ một khi nó
rơi vào trong đại dương, bạn không thể nào thấy nó ở đâu
nữa - không phải bởi vì nó đã trở nên không tồn tại,
không. Bây giờ nó ở mọi nơi; đó là lí do tại sao bạn
không thể nào tìm thấy nó ở bất kì đâu. Bạn không thể
định vị được nó bởi vì toàn bộ đại dương đã trở thành vị
trí của nó. Bây giờ nó không tồn tại tách biệt.
Khi bạn không tồn tại trong tách biệt với cái toàn thể,
thì nảy sinh pragyaparamita, trí huệ cái hoàn hảo, trí huệ
cái từ bên ngoài.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Lời cầu khẩn hay làm sao... Nó nói: Tôn kính của tôi
là với trí huệ, cái tới khi bạn vượt ra ngoài. Và nó là đáng
yêu, và nó là linh thiêng - linh thiêng bởi vì bạn đã trở
thành một với cái toàn thể; đáng yêu bởi vì bản ngã đã
tạo ra tất cả các loại xấu xí trong cuộc sống bạn không
còn nữa.

Satyam, shivam, sunderam: nó là đúng, nó là thiện,
nó là đẹp. Đây là ba phẩm chất.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ - chân lí...
Đó là điều chân lí là gì: hoàn hảo của trí huệ, cái
đáng yêu, cái đẹp đẽ, cái linh thiêng, cái thiện.
Tại sao nó được gọi là linh thiêng? - bởi vì chư phật
được sinh ra từ đó. Nó là bụng mẹ của chư phật. Bạn trở
thành vị phật vào khoảnh khắc bạn cùng chia sẻ hoàn hảo
này của trí huệ. Bạn trở thành vị phật khi giọt sương tan
biến trong đại dương, mất đi phân cách, không còn tranh
đấu chống lại cái toàn thể nữa, đã buông xuôi, cùng đi
với cái toàn thể, không còn chống lại nó nữa. Do đó nhấn
mạnh của tôi là đi cùng với tự nhiên; đừng bao giờ chống
lại nó. Đừng bao giờ cố gắng vượt qua nó, đừng bao giờ
cố gắng chinh phục nó, đừng bao giờ cố gắng đánh bại
nó. Nếu bạn cố gắng đánh bại nó, bạn mang định mệnh
thất bại rồi, bởi vì bộ phận không thể đánh bại cái toàn
thể - và đó là điều mà mọi người đều cố gắng làm. Do đó
có nhiều thất vọng đến thế, bởi vì mọi người đều dường
như đều bị thất bại. Mọi người đều cố gắng chinh phục
cái toàn thể, cố gắng đẩy lùi dòng sông. Một cách tự
nhiên, một ngày nào đó, bạn trở nên mệt mỏi, kiệt sức -
bạn có nguồn năng lượng rất hạn hẹp; dòng sông thì lại
mênh mông. Rồi một ngày nó sẽ đem bạn đi, nhưng bạn
chịu thua trong thất vọng.

Nếu bạn có thể chịu thua trong vui vẻ, điều đó trở
thành buông xuôi. Thế thì nó không còn là thất bại nữa,
nó là thắng lợi. Bạn thắng chỉ khi cùng với Thượng đế,
đừng bao giờ chống lại Thượng đế. Và nhớ lấy, Thượng
đế không định đánh bại bạn đâu. Thất bại của bạn là do
tự bạn sinh ra đấy thôi. Bạn bị thất bại bởi vì bạn tranh
đấu. Nếu bạn muốn bị thất bại, cứ tranh đấu đi; nếu bạn
muốn chiến thắng, buông xuôi đi. Đây là nghịch lí: rằng
những người đã sẵn sàng chịu thua trở thành người
thắng. Người thua là người thắng duy nhất trong trò chơi
này. Bạn cố để thắng và thất bại của bạn là tuyệt đối chắc
chắn - chỉ còn là vấn đề thời gian, vào lúc nào, nhưng nó
là chắc chắn, nó sắp xảy ra.
Nó là linh thiêng bởi vì bạn là một với cái toàn thể.
Bạn thổn thức với nó, bạn nhảy múa với nó, bạn hát với
nó. Bạn giống như chiếc lá trong gió: lá đơn giản nhảy
múa với gió, nó không có ý chí của riêng mình. Cái vô ý
chí này là cái tôi gọi là sannyas, cái mà lời kinh này này
gọi là linh thiêng.
Từ tiếng Phạn cho linh thiêng là bhagavati. Từ đó
thậm chí còn quan trọng để hiểu hơn là từ thiêng liêng,
bởi vì từ thiêng liêng mang nghĩa Ki tô giáo nào đó cho
nó. Bhagavati...
Bhagavati là dạng giống cái của bhagavan. Đầu tiên,
lời kinh này không dùng từ bhagavan, nó dùng bhagavati,
giống cái - bởi vì cội nguồn của tất cả là giống cái, không
phải giống đực. Nó là âm, không phải dương, nó là mẹ,
không phải bố.
Khái niệm Ki tô giáo về Thượng đế như người bố
không hay cho lắm. Nó không gì khác hơn là bản ngã
đàn ông. Bản ngã đàn ông không thể nào nghĩ rằng
Thượng đế lại có thể là ‘bà’; bản ngã đàn ông muốn
Thượng đế là ‘ông’. Và bạn thấy toàn bộ ba ngôi Ki tô
giáo: tất cả ba người đều là đàn ông, đàn bà không được
tính ở đây - Thượng đế là cha, Christ là con và Thánh
thần linh thiêng. Đấy là một câu lạc bộ toàn đàn ông. Và
nhớ cho kĩ rằng giống cái mới là nền tảng trong cuộc
sống hơn là đàn ông, bởi vì chỉ đàn bà mới có bụng mẹ,
chỉ đàn bà mới có thể cho sinh thành cuộc sống, cuộc
sống mới. Nó tới qua giống cái.

Tại sao nó tới qua giống cái? Điều đấy không phải là
ngẫu nhiên đâu. Nó tới qua giống cái bởi vì chỉ giống cái
mới có thể cho phép nó tới - bởi vì giống cái là tiếp nhận.
Giống đực là hung hăng; giống cái có thể tiếp nhận, hấp
thu, có thể trở thành lối đi qua.
Lời kinh này nói tới bhagavati, không phải bhagavan.
Nó có tầm quan trọng mênh mông. Trí huệ hoàn hảo mà
tất cả chư phật đều tới từ đó là yếu tố giống cái, người
mẹ. Bụng mẹ phải là người mẹ. Một khi bạn nghĩ về
Thượng đế như người bố, bạn dường như không hiểu bạn
đang làm gì. Bố là thể chế phi tự nhiên. Tính chất bố
không tồn tại trong tự nhiên. Tính chất bố chỉ tồn tại mới
vài nghìn năm nay; nó là thể chế con người. Mẹ tồn tại ở
mọi nơi, mẹ là tự nhiên.

Bố có thể đi vào trong thế giới này bởi vì quyền sở
hữu riêng tư. Bố là một phần của nền kinh tế, không phải
của tự nhiên. Và một khi quyền sở hữu riêng tư biến mất
- nếu nó biến mất - thì người bố cũng biến luôn. Người
mẹ bao giờ và bao giờ cũng sẽ còn lại. Chúng ta không
thể quan niệm được về một thế giới mà không có mẹ,
chúng ta có thể quan niệm về một thế giới không có bố
rất dễ dàng. Và chính ý tưởng này là hung hăng. Bạn
chưa từng quan sát sao? Chỉ người Đức mới gọi nước
mình là ‘đất cha’, mọi nước khác đều gọi là ‘đất mẹ’.
Đây là những người nguy hiểm. ‘Đất mẹ’ thì được. Bằng
việc gọi đất nước mình là ‘đất cha’ thì bạn đang bắt đầu
một điều gì đó nguy hiểm, bạn đang đặt một cái gì đó
nguy hiển dưới chân.. Chẳng chóng thì chầy hung hăng
sẽ tới, chiến tranh sẽ tới. Hạt mầm có đó.

Tất cả những tôn giáo đã nghĩ về Thượng đế như
người bố đều là tôn giáo hung hăng. Ki tô giáo là hung
hăng, đạo hồi cũng vậy. Và bạn biết rất rõ rằng Thượng
đế của người Do Thái là Thượng đế rất nóng giận và kiêu
ngạo. Và Thượng đế của người Do Thái tuyên bố: Nếu
ngươi không theo ta, tức là ngươi chống ta, và ta sẽ tiêu
diệt ngươi. Còn ta là một Thượng đế rất đố kị; chỉ được
tôn thờ ta! Những dân tộc đã nghĩ về Thượng đế như
người mẹ đều là dân tộc không bạo lực.
Phật tử chưa bao giờ tiến hành cuộc chiến tranh nhân
danh tôn giáo. Họ chưa bao giờ cố gắng cải đạo dù chỉ
một người bằng bất kì bạo lực nào, bởi bất kì bó buộc
thuộc bất kì loại nào. Người Mô ha mét giáo đã cố gắng
cải đạo mọi người bằng lưỡi gươm, chống lại ý chí của
họ, chống lại ý thức của họ, chống lại tâm thức của họ.

Người Ki tô giáo đã cố gắng thao túng mọi người để trở
thành người Ki tô giáo theo đủ mọi cách - đôi khi bằng
lưỡi gươm, đôi khi qua bánh mì, đôi khi qua cách thuyết
phục khác. Phật giáo là tôn giáo duy nhất đã không cải
đạo dù chỉ một người ngược lại ý thức của người đó.
Duy nhất phật giáo là tôn giáo không bạo lực, bởi vì khái
niệm về thực tại tối thượng là giống cái.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Và nhớ lấy, chân lí là đẹp đẽ. Chân lí là đẹp bởi vì
chân lí là phúc lành. Chân lí không thể nào xấu được, và
cái xấu xí không thể nào đúng được; cái xấu xí là ảo
tưởng.
Khi bạn thấy một người xấu, đừng bị lừa dối bởi cái
xấu của người đó; tìm sâu hơn một chút và bạn sẽ thấy
một người đẹp ẩn tại đó. Đừng bị lừa dối bởi cái xấu. Cái
xấu là trong diễn giải của bạn. Cuộc sống là đẹp đẽ, chân
lí là đẹp đẽ, sự tồn tại là đẹp đẽ - nó không biết đến cái
xấu.
Và nó là đáng yêu, nó là giống cái và nó là linh
thiêng. Nhưng nhớ lấy, điều được ngụ ý bởi ‘linh thiêng’
không phải là điều thường được nói tới - dường như nó là
một thế giới khác, dường như nó là thiêng liêng ngược
với cái trần tục và phỉ báng, không. Tất cả đều linh
thiêng. Không có cái gì có thể được gọi là trần tục hay
phỉ báng cả. Tất cả đều là thiêng liêng bởi vì tất cả đều
được tràn ngập với cái một.

Có chư Phật và phật! - phật-cây và phật-chó và phậtchim
và phật-đàn ông và phật-đàn bà - nhưng tất cả đều
là chư Phật. Tất cả đều đang tiếp diễn! Con người không
phải là Thượng đế trong điêu tàn, con người là Thượng
đế đang hình thành, đang tiếp diễn.
Lời kinh thứ hai:
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài.
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của
chúng
chúng là trống rỗng.

Avalokita - Quán thế âm - là tên của Phật. Theo từng
từ thì điều này nghĩa là một người trông từ phía trên -
avalokita - người nhìn từ phía trên, người đứng tại trung
tâm thứ bẩy, sahasrar, cái siêu việt, và nhìn từ đó. Một
cách tự nhiên, bất kì cái gì bạn thấy cũng đều bị tiêm
nhiễm bởi quan điểm của bạn, bị tiêm nhiễm bởi không
gian bạn đang ở.

Nếu một người sống tại bậc thang thứ nhất - thân thể
vật lí - nhìn vào bất kì cái gì, người ấy cũng đều nhìn từ
quan điểm đó. Một người sống tại bậc thể chất thì chỉ
nhìn vào thân thể bạn khi người ấy nhìn vào bạn, người
ấy không thể nào nhìn nhiều hơn thế, người ấy không thể
thấy nhiều hơn thế. Viễn kiến của bạn về mọi thứ phụ
thuộc vào chỗ bạn đang nhìn.

Một người đang bị khuấy đảo về dục, bị cuốn hút về
dục trong tưởng tượng, chỉ nhìn từ quan điểm đó. Người
đang đói cũng nhìn từ quan điểm đó. Theo dõi cái ta của
riêng mình mà xem. Bạn nhìn vào mọi thứ, và mỗi lần
bạn nhìn vào mọi thứ thì chúng lại dường như là khác
nhau bởi vì bạn là khác. Buổi sáng thế giới trông có đẹp
hơn chút ít so với buổi tối. Buổi sáng bạn tươi tắn, và
buổi sáng bạn đến từ chiều sâu giấc ngủ lớn, giấc ngủ
sâu, giấc ngủ không mơ. Bạn đã nếm trải cái gì đó của
siêu việt, mặc dầu là vô ý thức. Cho nên vào buổi sáng
mọi thứ trông có vẻ đẹp. Mọi người từ bi hơn, đáng yêu
hơn; người ta thuần khiết hơn trong buổi sáng, người ta
hồn nhiên hơn trong buổi sáng. Vào lúc chiều tối tới thì
cũng những người đó sẽ trở nên kém hơn, khôn lỏi hơn,
láu cá hơn, thao túng, xấu xí, bạo hành, lừa dối. Đấy vẫn
là cũng những con người ấy, nhưng trong buổi sáng họ
rất gần với cái siêu việt. Đến tối họ đã sống trong cõi trần
thế, trong trần gian, trong vật lí quá nhiều, và họ đã trở
nên tập trung ở đó.

Con người của hoàn hảo là người có thể di chuyển
qua tất cả bẩy luân xa này một cách dễ dàng - tức là con
người của tự do - người không cố định vào bất kì điểm
nào, người giống như đồng hồ mặt trời: bạn có thể điều
chỉnh nó theo bất kì viễn kiến nào. Đó là điều được gọi là
mukta, người thực sự tự do. Người ấy có thể di chuyển
theo mọi chiều vậy mà vẫn còn không bị chúng động
chạm tới. Thuần khiết của người ấy chẳng bao giờ mất,
thuần khiết của người ấy vẫn còn là của điều siêu việt.
Phật có thể tới và chạm vào thân thể bạn và chữa
lành thân thể bạn. Ông ấy có thể trở thành thân thể,
nhưng đó là tự do của ông ấy. Ông ấy có thể trở thành
tâm trí và ông ấy có thể nói với bạn và giải thích mọi
điều với bạn, nhưng ông ấy chưa bao giờ là tâm trí. Ông
ấy tới và đứng sau tâm trí, sử dụng nó, giống hệt bạn lái
ô tô - bạn chưa bao giờ trở thành ô tô cả. Ông ấy dùng tất
cả những bậc thang này, ông ấy là toàn bộ chiếc thang.
Nhưng quan điểm tối thượng của ông ấy vẫn còn là cái
siêu việt. Đó là bản tính của ông ấy.
‘Avalokita’ - Quán thế âm, có nghĩa là một người từ
cõi bên kia trông vào thế giới.
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài

Lời kinh nói trạng thái này của phía bên ngoài không
phải là thứ tĩnh tại. Nó là chuyển động, nó là quá trình,
giống dòng sông. Nó không phải là danh từ, nó là động
từ. Nó cứ lộ dần ra. Đó là lí do tại sao người Hindu gọi
nó là hoa sen một nghìn cánh: ‘một nghìn’ đơn giản có
nghĩa là vô hạn, nó là biểu tượng của vô hạn. Cánh hoa
họ chồng lên cánh hoa kia, cánh hoa nọ tiếp cánh hoa kia
cứ mở ra mãi, không chấm dứt. Cuộc hành trình bắt đầu
nhưng chưa bao giờ chấm dứt. Nó là cuộc hành hương
vĩnh viễn.

Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài
Ông ấy tuôn chảy như một dòng sông vào trong thế
giới của bên ngoài. Ông ấy được gọi là vị chúa tể linh
thiêng và là bồ tát. Một lần nữa từ tiếng Phạn này cần
phải được ghi nhớ. Từ tiếng Phạn là iswara, được dịch
thành ‘vị chúa tể linh thiêng’. ‘Iswara’ có nghĩa là một
người đã trở thành cực kì giầu có từ giầu có của riêng
mình, giầu có là từ bản tính riêng của người đó; không ai
có thể lấy chúng đi được, không ai có thể đánh cắp được
chúng, chúng không thể nào bị mất đi. Tất cả mọi giầu có
mà bạn có thể bị mất, có thể bị đánh cắp, thì sẽ bị mất -
một ngày nào đó cái chết sẽ tới và sẽ lấy mọi thứ đi. Khi
một ai đó đã đi tới viên kim cương bên trong đó, cái vốn
là bản thể của riêng người ta, thì cái chết không thể nào
lấy nó đi được. Cái chết chẳng liên can gì tới nó. Nó
không thể nào bị đánh cắp, nó không thể nào bị mất. Thế
thì người ta đã trở thành iswara, thế thì người ta đã trở
thành vị chúa tể linh thiêng. Thế thì người ta đã trở thành
bhagavan.

Từ bhagavan đơn giản có nghĩa là ‘người được ân
huệ’. Thế thì người ta đã trở thành một người được ân
huệ. Bây giờ ân huệ của người ấy vĩnh viễn là của người
ấy; nó không phụ thuộc vào cái gì cả, nó là độc lập. Nó
không do bất kì cái gì gây nên cho nên nó không thể nào
bị lấy đi. Nó là sẵn có, nó là bản tính bên trong của người
ta.

Và ông ấy được gọi là bồ tát. Bồ tát là một khái niệm
rất đẹp trong phật giáo. Bồ tát có nghĩa là một người đã
trở thành vị Phật nhưng vẫn lưu bản thân mình trong thế
giới của không gian và thời gian - để giúp đỡ người khác.
Bồ tát có nghĩa là ‘cái tinh tuý trong vị Phật’, sẵn sàng
rơi xuống và tan biến, sẵn sàng đi vào trong niết bàn.
Không còn gì phải giải quyết nữa, tất cả các vấn đề của
người ấy đã được giải quyết. Người ấy không cần phải ở
lại đây nữa, nhưng người ấy vẫn ở lại đây. Không còn gì
khác phải học ở đây nữa, nhưng người ấy vẫn ở lại. Và
người ấy lưu giữ mình dưới dạng thân thể, dưới dạng tâm
trí - người ấy lưu giữ toàn bộ chiếc thang. Người ấy đã
vượt sang cõi bên kia, nhưng người ấy vẫn lưu giữ toàn
bộ chiếc thang - để giúp đỡ, xuất phát từ lòng từ bi.
Chuyện kể rằng Phật đã tới cửa của điều tối thượng,
niết bàn. Cánh cửa đã mở, các thiên thần đang nhảy múa
và ca hát đón chào ông ấy - bởi vì hiếm khi xảy ra trong
hàng triệu năm mới có một người trở thành vị Phật.
Những cánh cửa đó đã mở ra, và ngày đó tự nhiên là
ngày lễ hội trọng đại. Tất cả các vị cổ phật đều tụ hội, và
có niềm vui lớn, hoa trút như mưa, âm nhạc rộn rã, mọi
thứ đều được trang hoàng lộng lẫy - đấy quả là một ngày
hội lớn.

Nhưng Phật không đi vào cổng. Và các vị cổ phật, tất
cả đều đứng khoanh tay, yêu cầu ông ấy, đòi hỏi ông ấy
đi vào: “Sao ông ấy lại đứng ngoài thế nhỉ?” Còn Phật
tương truyền đã nói, “Chừng nào mà tất cả mọi người
khác đang đến sau tôi còn chưa vào, tôi sẽ không vào
đâu. Tôi sẽ tự lưu mình ở bên ngoài, bởi vì một khi tôi
vào rồi thì tôi biến mất. Thế thì tôi sẽ không thể nào giúp
đỡ được những người này nữa. Tôi thấy hàng triệu người
đang loạng choạng mò mẫm trong bóng tối. Bản thân tôi
cũng đã từng mò mẫm theo cùng cách ấy trong hàng triệu
kiếp. Tôi muốn giúp họ một tay. Xin đóng cửa lại. Khi
mọi người đã tới hết thì tôi sẽ gõ cửa, thế thì các bạn có
thể đón tôi.”

Một câu chuyện thực hay... Điều này được gọi là
trạng thái bồ tát: người đã sẵn sàng tan biến nhưng vẫn
lưu lại - trong thân thể, trong tâm trí, trong thế giới, trong
thời gian và không gian - để giúp người khác.
Phật nói: Thiền là đủ để giải quyết vấn đề của ông,
nhưng vẫn còn thiếu cái gì trong đó - từ bi. Nếu từ bi
cũng có đó, thế thì ông có thể giúp cho người khác giải
quyết vấn đề của họ. Ông ấy nói: Thiền là vàng ròng; nó
có hoàn hảo của riêng nó. Nhưng nếu có từ bi thế thì
vàng còn có hương thơm nữa - thế thì đấy là hoàn hảo
cao hơn, thế thì có một loại hoàn hảo mới, vàng với hương thơm. Vàng là đủ cho chính nó - rất có giá trị -
nhưng với từ bi thì thiền có hương thơm.
Từ bi giữ vị phật vẫn còn là bồ tát, chỉ ngay trên
đường biên. Đúng đấy, trong vài ngày, vài năm, người ta
có thể lưu lại được, nhưng không lâu - bởi vì dần dần
mọi thứ bắt đầu tan biến theo cách của chúng. Khi bạn
không còn gắn bó với thân thể nữa, bạn trở nên chuyển
khỏi chỗ đó. Đôi khi bạn có thể tới, với nỗ lực. Bạn có
thể dùng thân thể, với nỗ lực, nhưng bạn không còn định
cư ở đó nữa. Khi bạn không còn trong tâm trí, đôi khi
bạn có thể dùng nó, nhưng nó không còn vận hành như
nó vẫn quen vận hành trước đây. Bạn không còn theo
đuôi nó. Khi bạn không dùng nó, nó nằm đấy: nó là cỗ
máy, nó bắt đầu tụ bụi.

Khi một người đã đạt tới bậc thứ bẩy thì, trong vài
ngày, trong vài năm, người ấy có thể dùng sáu bậc.
Người ấy có thể quay lại và dùng chúng, nhưng dần dần
chúng bắt đầu gẫy. Dần dần chúng bắt đầu chết. Bồ tát có
thể ở đây chỉ trong một kiếp, nhiều nhất đấy. Thế rồi
người đó phải biến mất, bởi vì cỗ máy biến mất.
Nhưng những người đã đạt tới đều phải cố gắng, hết
mức họ có thể cố được, để dùng thân-tâm để giúp những
người vẫn còn trong thân thể và tâm trí, để giúp những
người có thể hiểu chỉ ngôn ngữ của thân thể và tâm trí,
để giúp đỡ cho các đệ tử.

Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của
chúng chúng là trống rỗng.

Khi bạn nhìn từ điểm đó... Chẳng hạn, tôi vừa mới
bảo các bạn rằng tôi chào vị phật trong bạn. Đó là viễn
kiến từ cõi bên kia: rằng tôi thấy bạn là vị phật tiềm
năng. Và một viễn kiến khác chỉ là tôi thấy bạn như cái
vỏ rỗng.

Cái bạn nghĩ bạn đang là thì chẳng là gì ngoài cái vỏ
rỗng. Ai đó nghĩ mình là đàn ông; đó là một ý tưởng rỗng
tuếch. Tâm thức chẳng là nam chẳng là nữ. Ai đó nghĩ
mình có thân thể rất đẹp, người ấy đẹp đẽ, mạnh mẽ, thế
này thế nọ - đó là một ý tưởng rỗng tuếch, chỉ bản ngã
lừa bạn thôi. Ai đó nghĩ mình biết nhiều - điều đó cũng là
vô nghĩa. Cỗ máy của người đó đã tích luỹ kí ức và
người đó bị kí ức lừa dối. Đấy tất cả đều là những vật
rỗng không.
Cho nên khi thấy từ cái siêu việt, thì một mặt tôi thấy
bạn như chư phật đang còn trong nụ, mặt khác tôi thấy
bạn chỉ như cái vỏ rỗng.

Phật đã nói rằng con người bao gồm năm yếu tố, năm
uẩn skandhas, tất cả đều là trống rỗng. Và bởi việc tổ
hợp của năm yếu tố này, một sản phẩm phụ nảy sinh
được gọi là bản ngã, cái ta. Nó cũng hệt như một chiếc
đồng hồ vận hành: nó cứ tích tắc hoài. Bạn có thể lắng
nghe và tiếng tích tắc có đó; bạn có thể mở đồng hồ ra,
bạn có thể tháo rời tất cả các bộ phận để xem tiếng tích
tắc từ đâu tới. Tiếng tích tắc từ đâu tới? Bạn sẽ chẳng tìm
thấy ở đâu cả. Tiếng tích tắc là sản phẩm phụ. Nó chỉ là
việc tổ hợp của vài thứ. Vài thứ vận hành với nhau đã tạo
ra tiếng tích tắc.
 
Đó là cái ‘tôi’ của bạn - năm yếu tố vận hành cùng
nhau tạo ra tiếng tích tắc được gọi là ‘tôi’. Nhưng nó là
trống rỗng, nó chẳng có gì trong đó cả. Nếu bạn cứ đi tìm
cái gì bản chất trong đó thì bạn sẽ không thấy được.
Đây là một trong những trực giác, sáng suốt sâu sắc
nhất của Phật: rằng cuộc sống là trống rỗng, rằng cuộc
sống như chúng ta biết là trống rỗng. Và cuộc sống cũng
đầy tràn nữa, nhưng chúng ta không biết gì về điều đó cả.
Từ cái trống rỗng này bạn phải đi đến cái tràn đầy, nhưng
cái tràn đầy đó là không thể nào quan niệm nổi ngay bây
giờ - bởi vì cái tràn đầy đó từ trạng thái này sẽ chỉ trông
như cái trống rỗng. Từ trạng thái đó cái tràn đầy trông
như trống rỗng - vua trông như kẻ ăn xin; người của hiểu
biết, người có tri thức, trông như thằng đần, dốt nát.
Một câu chuyện nhỏ.
Một người linh thiêng chấp nhận một học trò và nói
với cậu ta, “Một việc tốt là bây giờ anh cố gắng viết ra tất
cả hiểu biết của mình về cuộc sống tôn giáo và về điều gì
đã đem anh tới nó.”

Cậu học trò ra đi và bắt đầu viết. Một năm sau cậu
quay lại với thầy và nói, “Con đã làm việc rất vất vả về
việc này, và mặc dầu nó còn lâu mới hoàn chỉnh được,
đây là những lí do chính cho cuộc chiến đấu của con.”
Thầy đọc công trình này, hàng nghìn từ, thế rồi nói
với cậu thanh niên, “Bài viết rất có lí và phát biểu rõ
ràng, nhưng nó vẫn còn dài. Cố gắng viết ngắn lại một
chút.” Cho nên chàng tập sự lại ra đi và sau năm năm anh
ta quay lại với một trăm trang giấy.
Thầy mỉm cười, và sau khi đã đọc nó ông ấy nói,
“Bây giờ anh đang tiếp cận đúng tới tâm điểm vấn đề.
Suy nghĩ của anh đã sáng tỏ và mạnh mẽ. Nhưng nó vẫn
còn hơi dài; cố gắng cô đọng nó lại, con ta.”
Anh chàng tập sự lại buồn bã ra đi, vì anh ta đã lao
động vất vả để đạt tới điều bản chất. Nhưng sau mười
năm anh ta quay lại, và cúi lạy trước thầy trao cho thầy
có vài trang giấy và nói, “Đây là cốt lõi niềm tin của con,
cốt lõi cuộc đời con, và con cầu xin ân huệ của thầy về
việc đã đưa con tới nó.”
Thầy đọc xong chậm rãi và từ tốn nói: “Đây mới
thực sự kì diệu,” ông nói, “đơn giản và đẹp đẽ, nhưng nó
vẫn còn chưa hoàn hảo. Con cố gắng đạt tới sự sáng tỏ
cuối cùng.”

Và khi thầy đã gần chết và chuẩn bị cho sự kết thúc
của mình, cậu học trò quay lại với thầy lần nữa, và quì
xuống trước thầy để nhận ân huệ, trao cho thầy chỉ một
tờ giấy mà trên đó chẳng viết gì cả.
Thế rồi thầy đặt tay lên đầu anh bạn và nói, “Bây
giờ... bây giờ con đã hiểu.”

Từ viễn kiến siêu việt đó, cái bạn có là cái trống
rỗng. Từ viễn kiến của bạn, từ viễn kiến dễ bị kích động
của bạn, cái tôi đang có là cái trống rỗng.
Phật trông trống rỗng - chỉ là cái trống rỗng thuần
khiết - đối với bạn. Bởi vì các ý tưởng của bạn, bởi vì níu
bám của bạn, bởi vì sở hữu của bạn về mọi thứ, Phật
trông trống rỗng. Phật là tràn đầy: bạn mới trống rỗng.
Và viễn kiến của ông ấy là tuyệt đối; viễn kiến của bạn là
rất tương đối.

Lời kinh nói:

Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài .Ông ấy nhìn xuống từ trên cao,ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của chúng,chúng là trống rỗng.

Cái trống rỗng là mấu chốt của Phật giáo - shunyata.
Chúng ta sẽ đi vào trong nó ngày càng nhiều khi chúng ta
đi vào những lĩnh vực sâu hơn của Tâm Kinh.
Thiền về những lời kinh này đi - thiền bằng tình yêu,
bằng thông cảm, không phải bằng logic và lập luận. Nếu
bạn đi tới những lời kinh này bằng logic và lập luận, bạn
sẽ giết chết linh hồn của chúng. Đừng mổ xẻ chúng. Cố
gắng hiểu chúng như chúng vẫn thế, và đừng đem tâm trí
bạn vào - tâm trí bạn sẽ là can nhiễu.

Nếu bạn có thể nhìn vào những lời kinh này không
qua tâm trí mình, thì sáng tỏ lớn sẽ xảy ra cho bạn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến