Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

Buông xuôi là hiểu biết

Câu hỏi thứ nhất
Osho kính yêu,
Đôi khi trong lúc chỉ có ngồi, câu hỏi lại tới trong tâm
trí: Chân lí là gì? Nhưng vào lúc tôi tới đây thì tôi
hiểu rằng tôi không có khả năng hỏi. Nhưng tôi có thể
hỏi điều gì xảy ra trong những khoảnh khắc đó khi câu
hỏi này nảy sinh mạnh mẽ đến mức giá mà Thầy ở gần
thì tôi sẽ hỏi ngay điều đó. Hay nếu Thầy không đáp
lại, thì tôi sẽ túm râu hay cổ áo Thầy mà hỏi, “Chân lí
là gì, thưa Osho?”

Đấy là câu hỏi quan trọng nhất có thể nảy sinh trong
tâm trí của bất kì ai, nhưng không có câu trả lời cho nó.
Câu hỏi quan trọng nhất, câu hỏi tối thượng, không thể
có bất kì câu trả lời nào; đó là lí do tại sao nó là tối
thượng.

Khi Pontius Pilate hỏi Jesus, “Chân lí là gì?” thì
Jesus im lặng. Không chỉ có thế, câu chuyện nói rằng khi
Pontius Pilate hỏi câu hỏi, “Chân lí là gì?” ông ấy cũng
chẳng đợi nghe câu trả lời nữa. Ông ấy rời khỏi phòng và
bỏ đi. Điều này rất kì lạ. Pontius Pilate cũng nghĩ rằng
không thể có câu trả lời cho nó, cho nên ông ấy đã không
chờ đợi câu trả lời. Jesus vẫn còn im lặng bởi vì ông ấy
cũng biết điều ấy không thể nào trả lời nổi.
Nhưng hai hiểu biết này là không giống nhau, bởi vì
hai người này là đối diện nhau qua đường kính. Pontius
Pilate nghĩ rằng điều đó không thể nào trả lời nổi bởi vì
không có chân lí; làm sao bạn có thể trả lời được nó? Đó
là tâm trí logic, tâm trí Roman. Jesus im lặng không phải
bởi vì không có chân lí, mà bởi vì chân lí quá bao la, nó
không thể nào định nghĩa được. Chân lí khổng lồ thế,
mênh mông thế, nó không thể nào chứa đựng nổi trong
một từ, nó không thể nào thu lại trong ngôn ngữ. Nó có
đấy. Người ta có thể là nó, nhưng người ta không thể nào
nói về nó.

Bởi hai lí do mà họ hành xử gần như theo cùng cách:
Pontius đã không đợi để nghe câu trả lời, ông ta đã biết
rằng không có chân lí. Jesus vẫn còn im lặng bởi vì ông
ấy biết chân lí, và biết rằng nó không thể nào nói ra được.
Chidvilas đã hỏi câu hỏi này. Câu hỏi này hoàn toàn
có ý nghĩa. Không có câu hỏi nào cao hơn nó, bởi vì
không có tôn giáo nào cao hơn chân lí. Nó phải được
hiểu; câu hỏi này phải được phân tích. Với việc phân tích
câu hỏi, cố gắng hiểu bản thân câu hỏi, bạn có thể có cái
nhìn sáng suốt vào chân lí là gì. Tôi sẽ không trả lời nó,tôi không thể trả lời nó được; không ai có thể trả lời điều đó được. Nhưng chúng ta có thể đi sâu vào bên trong câu
hỏi này. Khi đi sâu vào bên trong câu hỏi này, câu hỏi
này sẽ bắt đầu biến mất. Khi câu hỏi đã biến mất, bạn sẽ
tìm thấy câu trả lời có đó tại chính cốt lõi trái tim bạn -
bạn là chân lí, cho nên làm sao bạn có thể lỡ nó được?
Có thể bạn đã quên mất về nó, có thể bạn đã đánh mất
dấu vết của nó, có thể bạn đã quên mất cách đi vào trong
bản thể riêng của mình, vào trong chân lí riêng của mình.
Chân lí không phải là giả thuyết, chân lí không phải
là học thuyết. Chân lí chẳng phải là Hindu giáo, cũng
không Ki tô giáo, chẳng Mô ha mét giáo. Chân lí chẳng
phải của tôi cũng không của bạn. Chân lí chẳng thuộc
vào ai, nhưng mọi người đều thuộc vào chân lí. Chân lí
có nghĩa là cái đang đấy: đó là đích xác ý nghĩa của từ
này. Nó tới từ gốc latinh, verus. Verus có nghĩa là: cái
đang đấy. Trong tiếng Anh có vài từ là biến thể của gốc
latinh verus này: was, were - chúng có nguồn gốc từ
verus. Trong tiếng Đức, war - cũng đến từ verus. Verus
có nghĩa là cái có đấy, không được diễn giải. Một khi
việc diễn giải tới, thế thì cái bạn biết là thực tại, không
phải là chân lí. Đó là khác biệt giữa chân lí và thực tại.
Thực tại là chân lí được diễn giải.
Cho nên khoảnh khắc bạn trả lời câu hỏi, “Chân lí là
gì?” thì nó trở thành thực tại; nó không còn là chân lí
nữa. Diễn giải đã đi vào trong nó, tâm trí đã tô mầu cho
nó. Và thực tại cũng nhiều như tâm trí vậy; có đa thực
tại. Chân lí là một bởi vì chân lí chỉ được biết tới khi tâm
trí không có đó. Chính tâm trí giữ bạn tách rời khỏi tôi,
tách rời khỏi người khác, tách rời khỏi sự tồn tại. Nếu
bạn nhìn qua tâm trí, thế thì tâm trí sẽ cho bạn một bức
tranh về chân lí. Đấy sẽ chỉ là một bức tranh, một bức
ảnh của cái đang đấy. Và tất nhiên, bức ảnh phụ thuộc
vào máy ảnh, vào phim được dùng, vào hoá chất, vào
cách rửa ảnh, vào cách in ảnh, vào người đã làm việc đó.
Cả ngàn lẻ một thứ đi vào; nó trở thành thực tại.
Từ thực tại cũng hay nếu được hiểu. Nó bắt nguồn từ
gốc, res; nó có nghĩa là một vật hay nhiều vật. Chân lí
không phải là đồ vật. Một khi được diễn giải, một khi
tâm trí đã chộp lấy nó, định nghĩa nó, đánh dấu nó, thì nó
trở thành đồ vật.

Khi bạn phải lòng một người phụ nữ thì có chân lí
nào đó - nếu bạn đã yêu hoàn toàn không nhận biết, nếu
bạn không ‘làm’ nó theo bất kì cách nào, nếu bạn không
hành động, không điều khiển, nếu bạn thậm chí không
nghĩ về nó. Bỗng nhiên bạn thấy một người phụ nữ, bạn
nhìn vào mắt cô ấy, cô ấy nhìn vào mắt bạn, và một cái
gì đó nhoáng lên. Bạn không phải là người làm ra điều
đó, bạn đơn giản bị nó sở hữu, bạn đơn giản rơi vào trong
nó. Nó chẳng dính dáng gì tới bạn. Bản ngã bạn không
tham dự vào, ít nhất cũng không ngay chính lúc đầu, khi
tình yêu còn trinh bạch. Trong khoảnh khắc đó có chân
lí, nhưng không có diễn giải. Đó là lí do tại sao tình yêu
vẫn còn không định nghĩa nổi.

Chẳng mấy chốc tâm trí tới, bắt đầu quản lí mọi việc,
chiếm hữu lấy bạn. Bạn bắt đầu nghĩ về cô gái như bạn
gái của mình, bạn bắt đầu nghĩ về cách cưới, bạn bắt đầu
nghĩ về người phụ nữ như vợ bạn. Bây giờ những điều
này; nào bạn gái, nào vợ - đấy là các sự vật. Chân lí
không còn nữa, nó đã thoái lui lại. Bây giờ sự vật thành
quan trọng hơn. Cái định nghĩa được thì an toàn hơn, cái
không định nghĩa được thì bất an. Bạn đã bắt đầu giết
chết, đầu độc chân lí. Chẳng chóng thì chầy sẽ có một mất rồi, niềm vui đã biến mất, tuần trăng mật đã qua.
Tuần trăng mật trôi qua vào đúng khoảnh khắc mà
chân lí trở thành thực tại, khi tình yêu trở thành quan hệ.
Không may là tuần trăng mật rất ngắn ngủi - tôi không
nói về tuần trăng mật bạn vẫn nghĩ. Tuần trăng mật này
rất chóng vánh. Có thể trong một khoảnh khắc nó có đó,
nhưng cái thuần khiết của nó, cái thuần khiết như pha lê
của nó, điều thiêng liêng của nó, tính chất phía bên kia
của nó - nó là từ cái vĩnh hằng, nó không phải của thời
gian. Nó không phải là một phần của thế giới trần tục
này, nó giống như một tia sáng chiếu vào một lỗ đen. Nó
tới từ cái siêu việt. Hoàn toàn thích hợp để gọi tình yêu là
Thượng đế, bởi vì tình yêu là chân lí. Cái gần chân lí
nhất mà bạn thường đi tới trong cuộc sống thường ngày
là tình yêu.

Chidvilas hỏi: “Chân lí là gì?”
Việc hỏi phải biến mất; chỉ thế thì bạn mới biết.
Nếu bạn hỏi, “Chân lí là gì?” thì bạn đang hỏi gì
vậy? Nếu tôi nói A là chân lí, B là chân lí, C là chân lí,
đó có phải là câu trả lời không? Nếu tôi nói A là chân lí,
thế thì chắc chắn A không thể là chân lí: nó là cái gì đó
khác mà tôi đang dùng như một điều đồng nghĩa với chân
lí. Nếu nó là hoàn toàn đồng nghĩa, thế thì nó sẽ là sự lặp
lại không cần thiết. Thế thì tôi có thể nói, “Chân lí là
chân lí,” nhưng điều đó là xuẩn ngốc, vô nghĩa. Chẳng
giải quyết được gì cả. Nếu nó đích xác là một, nếu A là
chân lí, thế thì nó sẽ có nghĩa chân lí là chân lí. Nếu A là
khác, là không đúng chân lí, thế thì tôi đang bóp méo.
Thế thì việc nói A là chân lí sẽ chỉ là xấp xỉ. Và nhớ lấy,
không thể có bất kì xấp xỉ nào được. Hoặc là chân lí hoặc
là không. Cho nên tôi không thể nói A là chân lí.
Thậm chí tôi không thể nói, “Thượng đế là chân lí,”
bởi vì Thượng đế là chân lí thế thì đấy lại là lặp lại không
cần thiết - “Chân lí là chân lí.” Thế thì tôi chẳng nói điều
gì cả. Nếu Thượng đế là khác chân lí, thế thì tôi đang nói
điều gì đó, nhưng thế thì tôi đang nói một điều gì đó sai.
Thế thì Thượng đế là khác, thế thì làm sao ngài có thể là
chân lí được? Nếu tôi nói điều đó là xấp xỉ, về mặt ngôn
ngữ thì có vẻ được, nhưng điều đó không đúng. ‘Xấp xỉ’
có nghĩa là dối trá nào đó có đấy, điều gì đó sai sót có
đấy. Nếu không, tại sao lại không phải là chân lí một
trăm phần trăm? Nếu nó là chín mươi chín phần trăm
chân lí thì một cái gì đó còn đó mà không đúng. Và chân
lí và phi chân lí không thể cùng tồn tại với nhau, cũng hệt
như bóng tối và ánh sáng không thể cùng tồn tại với nhau
- bởi vì bóng tối không là gì khác ngoài sự thiếu vắng. Sự
thiếu vắng và sự hiện diện không thể cùng tồn tại với
nhau, chân lí và phi chân lí không thể cùng tồn tại. Phi
chân lí không là gì khác hơn việc thiếu vắng chân lí.
Cho nên không câu trả lời là điều có thể, do đó Jesus
vẫn còn im lặng. Nhưng nếu bạn nhìn vào điều đó với
thông cảm sâu sắc, nếu bạn nhìn vào im lặng của Jesus,
bạn sẽ có câu trả lời. Im lặng là câu trả lời. Jesus đang
nói, “Im lặng đi, như ta đang im lặng, và ông sẽ biết” -
không nói điều đó bằng lời. Đấy là một cử chỉ, nó rất, rất
giống thiền. Trong khoảnh khắc Jesus vẫn còn im lặng,
ông ấy tới rất gần với cách tiếp cận của thiền, cách tiếp
cận của Phật giáo. Ông ấy là vị phật trong khoảnh khắc
đó. Phật chưa bao giờ trả lời những câu hỏi này. Ông ấy
có mười một câu hỏi được liệt kê ra: bất kì chỗ nào ông
ấy cũng phái đệ tử đi tới và tuyên bố với mọi người, “Đừng bao giờ hỏi mười một câu hỏi này với Phật.” - câu hỏi nền tảng, câu hỏi thực sự có nghĩa. Bạn có thể hỏi bất
kì cái gì khác, và Phật bao giờ cũng sẵn sàng trả lời.
Nhưng đừng hỏi câu hỏi nền tảng, bởi vì cái nền tảng chỉ
có thể được kinh nghiệm. Và chân lí là nền tảng cơ bản
nhất; chính bản chất của sự tồn tại là chân lí.

Đi vào trong câu hỏi này đi. Câu hỏi này là có ý
nghĩa, nó đang nảy sinh trong tim bạn: “Chân lí là gì?” -
một ham muốn để biết cái đang đấy, đang nảy sinh. Bạn
đừng gạt nó sang bên, đi vào trong nó. Chidvilas, bất kì
khi nào điều ấy lại xảy ra, nhắm mắt lại, đi vào trong câu
hỏi này. Để cho câu hỏi trở thành rất, rất hội tụ lại -
“Chân lí... là... gì?” Bạn để cho việc tập trung lớn nảy
sinh ra. Quên hết mọi thứ, dường như toàn bộ cuộc sống
của bạn phụ thuộc vào câu hỏi đơn giản này, “Chân lí là
gì?” Bạn để nó trở thành vấn đề sống và chết. Và bạn
đừng cố gắng trả lời nó, bởi vì bạn không biết câu trả lời.
Câu trả lời có thể tới - tâm trí bao giờ cũng cố gắng
đưa ra câu trả lời - nhưng thấy sự kiện rằng bạn không
biết, rằng tại sao bạn lại hỏi. Cho nên làm sao tâm trí bạn
có thể đưa ra cho bạn câu trả lời được? Tâm trí không
biết, cho nên bảo tâm trí, “Im đi.” Nếu bạn biết, thế thì
không cần có câu hỏi đó. Bạn không biết, do đó mới có
câu hỏi.
Cho nên bạn đừng bị lừa phỉnh bởi đồ chơi của tâm
trí. Nó cung cấp đồ chơi: nó nói, “Đây, điều này được
viết trong Kinh thánh. Đây, điều này được viết trong
Upanishads. Đây là câu trả lời. Nhìn đây, điều này được
Lão Tử viết, đây là câu trả lời.” Tâm trí có thể ném tất cả
các loại kinh sách vào bạn: tâm trí có thể trích dẫn, tâm
trí có thể cung cấp từ kí ức. Bạn đã nghe nhiều điều, bạn
đã đọc nhiều điều; tâm trí mang tất cả những kí ức này.
Nó có thể lặp lại theo một cách máy móc. Nhưng nhìn
vào hiện tượng này: rằng tâm trí không biết, và tất cả
những cái tâm trí lặp lại đều là đồ vay mượn cả. Mà đồ
vay mượn thì chẳng ích gì.

Sự việc xảy ra tại đường giao xe lửa. Cổng đã bị
khoá lại, một con tầu sắp đi qua, và một người đang ngồi
trong xe ô tô, đợi cho tầu đi qua, vừa đọc sách. Một kẻ
say rượu đang ngồi bên cạnh cổng lại gần, gõ vào cửa sổ
của chiếc xe có điều hoà nhiệt độ. Người này mở cửa sổ
ra và nói, “Tôi có thể giúp gì được cho ông? Ông cần
giúp đỡ gì chăng?”
Và kẻ vô công rồi nghề nói, “Có đấy, trong hai ngày
nay tôi chưa được ăn gì hết cả. Ông có thể cho tôi hai
đồng ru pi không? Như thế sẽ đủ cho tôi, chỉ cần hai
đồng thôi.”
Người này cười to và nói, “Đừng bao giờ vay và
đừng bao giờ mượn tiền cả,” và giơ cuốn sách lên cho kẻ
vô công rồi nghề và nói, “Shakespeare - Shakespeare nói
thế đấy. Nhìn đây này.”
Kẻ vô công rồi nghề lôi trong túi mình ra một cuốn
sách bìa giấy rất bẩn thỉu và nói với người này, “Ông là
đồ mọt sách - D. H. Lawrence.”

Nhận biết về tâm trí đi. Tâm trí cứ liên tục trích dẫn,
tâm trí biết tất cả mà lại không biết tí gì. Tâm trí là kẻ giả
vờ. Nhìn vào hiện tượng này: điều này tôi gọi là sáng
suốt. Đấy không phải là vấn đề suy nghĩ. Nếu bạn nghĩ
về nó, đấy lại là tâm trí. Bạn phải nhìn thấu suốt. Bạn phải nhìn sâu vào trong chính hiện tượng này, vận hành
của tâm trí, cách thức tâm trí vận hành. Nó vay mượn từ
đâu đó, nó cứ vay mượn và tích luỹ. Nó là kẻ tích trữ,
tích trữ tri thức. Tâm trí trở thành rất hiểu biết, và thế thì
bất kì khi nào bạn hỏi một câu hỏi thực sự quan trọng,
tâm trí sẽ cho một câu trả lời rất không quan trọng về nó
- vô ích, giả tạo, rác rưởi.
Một người đem một con vẹt về từ tiệm vẹt. Ông chủ
tiệm cam đoan với người này con vẹt sẽ học nói chào
trong vòng nửa giờ thôi. Trở về nhà ông ta để cả giờ ‘xin
chào’ cho con vẹt, nhưng chẳng thấy lời nào từ vẹt cả.
Khi ông ta quay đi trong nỗi thất vọng sâu sắc thì con vẹt
nói, “Đám đánh nhau.”
Vẹt thì vẫn là vẹt thôi. Nó phải đã nghe câu này trong
tiệm vẹt. Còn người này thì cứ lặp lại mãi, “Xin chào, xin
chào, xin chào,” còn con chim thì nghe, và đợi cho anh ta
dừng lại. Thế thì nó mới có thể nói, “Đám đánh nhau!”
Bạn cứ hỏi tâm trí, “Chân lí là gì, chân lí là gì, chân
lí là gì?” Và khoảnh khắc bạn dừng lại, tâm trí sẽ lập tức
nói, “Đám đánh nhau” hay cái gì đó. Tâm trí sẽ cho bạn
câu trả lời. Nhận biết về tâm trí đi.

Tâm trí là quỉ, không có quỉ nào khác. Và đó là tâm
trí của bạn. Sáng suốt này cần phải được phát triển - hay
nhìn thấu suốt. Chặt tâm trí ra làm đôi bằng lưỡi kiếm sắc
bén. Lưỡi kiếm đó là nhận biết. Chém tâm trí ra làm đôi
và đi vào qua nó, đi ra ngoài nó! Và nếu bạn có thể đi ra
ngoài tâm trí, xuyên qua tâm trí, và một khoảnh khắc vô
trí nảy sinh trong bạn, thì có câu trả lời - không phải là
câu trả lời miệng, không phải là kinh sách được trích dẫn,
không phải là lời đánh dấu chú thích, mà đích thực là của
bạn, chứng nghiệm. Chân lí là kinh nghiệm về sự tồn tại.
Câu hỏi là có ý nghĩa mênh mông, nhưng bạn sẽ phải
rất tôn kính hướng về câu hỏi đó. Đừng vội vã tìm bất kì
câu trả lời nào, nếu không thì rác rưởi sẽ giết chết câu trả
lời. Đừng cho phép tâm trí giết chết câu hỏi. Và cách để
cho tâm trí giết chết câu hỏi là cung cấp câu trả lời, chưa
sống qua, chưa kinh nghiệm tới.
Bạn là chân lí! Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong
im lặng hoàn toàn, khi không một ý nghĩ nào chuyển
động, khi tâm trí không có gì để nói, khi không một gợn
sóng nổi lên trong tâm thức bạn. Khi không một gợn
sóng trong tâm thức bạn, tâm thức bạn vẫn còn không bị
quấy rối. Khi có một gợn sóng, có khuấy đảo.
Đi ra hồ. Khi đứng trên bờ, nhìn xuống bóng phản xạ
của mình. Nếu có sóng, gợn sóng trên hồ, và gió thổi,
bóng của bạn bị xao động. Bạn không thể nào hình dung
ra được cái gì là cái gì - đâu là mũi bạn và đâu là mắt bạn
- bạn chỉ có thể đoán. Nhưng khi hồ tĩnh lặng và gió
không thổi và không có một gợn sóng trên hồ, bỗng
nhiên bạn có đấy. Trong hoàn hảo tuyệt đối, sự phản xạ
có đấy. Hồ trở thành tấm gương.

Bất kì khi nào có một ý nghĩ chuyển qua tâm thức
bạn, nó đều bóp méo. Và có nhiều ý nghĩ lắm, hàng
nghìn ý nghĩ, liên tục xô tới, và bao giờ cũng là giờ cao
điểm.. Hai mươi bốn giờ một ngày đấy đều là giờ cao
điểm, và lưu thông cứ tiếp diễn mãi, và mỗi ý nghĩ lại
được gắn với hàng nghìn ý nghĩ khác. Chúng tất cả đều
nắm tay nhau và nối với nhau, gắn lẫn nhau và toàn bộ
đám đông ấy xô đẩy quanh bạn. Làm sao bạn biết được
chân lí là gì? Thoát ra khỏi đám đông này đi đã.
Đó chính là thiền là gì, thiền chính là tất cả những gì:
một tâm thức không tâm trí, một tâm thức không ý nghĩ, một tâm thức không có bất kì vẩn vơ nào - tâm thức
không vẩn vơ. Thế thì nó có đó trong tất cả vẻ đẹp đẽ và
phúc lành của nó. Thế thì chân lí có đó - gọi nó Thượng
đế, gọi nó là niết bàn, hay bất kì cái gì bạn thích gọi cho
nó. Nó có đó, và nó có đó như một kinh nghiệm. Bạn ở
trong nó và nó ở trong bạn.
Dùng câu hỏi này đi. Làm cho nó thấm nhuần hơn.
Làm cho nó thấm nhuần thế; đặt mọi thứ vào tình thế
nguy hiểm để cho tâm trí không thể đánh lừa bạn bởi
những câu trả lời hời hợt của nó. Một khi tâm trí biến
mất. Một khi tâm trí không còn chơi trò mẹo của nó nữa,
bạn sẽ biết chân lí là gì. Bạn sẽ biết nó trong im lặng.
Bạn sẽ biết nó trong nhận biết không suy nghĩ.


Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Buông xuôi của tôi là có định hướng. Tôi buông xuôi
để được tự do, cho nên nó không thực là buông xuôi
chút nào. Tôi đang quan sát nó, nhưng vấn đề là: đấy
bao giờ cũng là cái ‘tôi’ người đang quan sát. Do đó
mọi việc hiểu của quan sát đó chỉ làm mạnh thêm bản
ngã. Tôi cảm thấy bị bản ngã mình lừa.


Bạn vẫn chưa hiểu buông xuôi nghĩa là gì.
Điều đầu tiên cần phải nhớ về buông xuôi là: bạn
không thể làm được điều đó, đấy không phải là việc làm.
Bạn có thể ngăn cản nó không cho xảy ra, nhưng bạn
không thể điều khiển cho nó xảy ra được. Sức mạnh của
bạn về buông xuôi chỉ là phủ định; bạn có thể ngăn cản
nó, nhưng bạn không thể đem nó lại.
Buông xuôi không phải là cái gì đó mà bạn có thể
làm. Nếu bạn làm điều đó, đấy lại không phải là buông
xuôi, bởi vì người làm có đó. Buông xuôi là việc hiểu
biết vĩ đại rằng, “Tôi không có.” Buông xuôi là cái nhìn
sáng suốt rằng bản ngã không tồn tại, rằng, “Tôi không
tách biệt.” Buông xuôi không phải là hành động mà là
hiểu biết.

Tại chỗ đầu tiên bạn là sai lầm, tách biệt là sai lầm.
Không một khoảnh khắc nào bạn có thể tồn tại mà tách
biệt khỏi vũ trụ. Cây không thể tồn tại nếu bị bật rễ khỏi
đất. Cây không thể tồn tại nếu mặt trời biến mất ngày
mai. Cây không thể tồn tại nếu không có nước tới rễ của
nó. Cây không thể tồn tại nếu nó không được thở. Cây
bắt rễ vào tất cả năm yếu tố - điều phật tử gọi là
skandhas, uẩn, năm nhóm mà chúng ta nói tới hôm nọ.
Avalokita... khi Phật đi tới viễn kiến siêu việt, khi ông ấy
trải qua tất cả các giai đoạn này, khi ông ấy trải qua tất cả
các bậc thang của chiếc thang và đi tới bậc thứ bẩy - từ
đó ông ấy nhìn xuống, nhìn lại - ông ấy đã thấy gì? Ông
ấy đã thấy chỉ có năm hợp phần và chẳng có gì bản chất
trong chúng cả; chỉ là cái trống rỗng, shunyata.
Cây không thể tồn tại nếu năm yếu tố này không
thường xuyên được rót năng lượng vào nó. Cây chỉ là tổ
hợp của năm yếu tố này. Nếu cây bắt đầu nghĩ, “Ta đây,”
thế thì sẽ có khổ cho cây đó. Cây này sẽ tạo ra địa ngục
cho chính mình. Nhưng cây không đần độn đến thế,
chúng không mang bất kì tâm trí nào. Chúng có đó, và
nếu ngày mai chúng biến mất, thì chúng đơn giản biến đi.
Chúng không níu bám; không có ai để níu bám cả. Cây
thường xuyên buông xuôi cho sự tồn tại. Bởi việc buông xuôi điều đó có nghĩa là nó không bao giờ tách rời, nó không đi tới ý tưởng ngu đần về bản ngã. Và chim chóc
cũng thế, núi non cũng thế, các vì sao cũng thế. Chỉ duy
nhất con người đã chuyển cơ hội vĩ đại là tâm thức của
mình thành tự ý thức. Con người có tâm thức. Nếu tâm
thức trưởng thành, nó có thể đem bạn tới phúc lạc lớn
nhất có thể có. Nhưng nếu điều gì đó đi sai và tâm thức
trở thành xấu, trở thành tự ý thức, thế thì nó tạo ra địa
ngục, thế thì nó tạo ra khổ. Cả hai khả năng bao giờ cũng
để mở; vấn đề dành cho bạn chọn lựa.
Điều thứ nhất cần phải hiểu về bản ngã là ở chỗ nó
không tồn tại. Không ai tồn tại trong tách biệt cả. Bạn là
một với sự tồn tại cũng như tôi, như Phật, như Jesus. Tôi
biết điều đó, bạn không biết điều đó; khác biệt chỉ là ở
nhận biết. Khác biệt là không tồn tại, không tồn tại chút
nào! Cho nên bạn phải nhìn vào ý tưởng ngu đần này về
tách biệt. Bây giờ nếu bạn bắt đầu cố gắng buông xuôi,
bạn vẫn còn đeo mang cái ý tưởng về về tách biệt. Bây
giờ bạn đang nghĩ, “Ta sẽ buông xuôi, bây giờ ta đang
sắp buông xuôi” - nhưng bạn nghĩ bạn có đấy.

Khi nhìn vào trong chính ý tưởng tách biệt này, một
ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng bạn không tách biệt, vậy
làm sao bạn có thể buông xuôi được? Không có ai để
buông xuôi cả! Việc buông xuôi không có đó, không có
chút nào - chưa bao giờ thấy ở bất kì đâu cả. Nếu bạn đi
vào trong bản thân mình, bạn sẽ không tìm thấy người
buông xuôi ở đâu cả. Trong khoảnh khắc đó lại là việc
buông xuôi. Khi người buông xuôi không tìm thấy đâu,
thì trong khoảnh khắc đó là việc buông xuôi. Bạn không
thể làm ra điều đó. Nếu bạn làm điều đó, đấy là việc giả.
Từ cái giả chỉ có cái giả sinh ra. Bạn là giả, cho nên bất
kì cái gì bạn làm cũng đều sẽ giả, giả hơn. Và cái giả này
dẫn tới cái giả khác, và cứ thế mà tiếp diễn. Và cái giả
nền tảng là bản ngã, cái ý tưởng, “Ta là tách biệt.”
Bạn hỏi: “Buông xuôi của tôi là hướng đích.”
Bản ngã bao giờ cũng hướng đích. Nó bao giờ cũng
tham lam, nó bao giờ cũng chộp lấy. Nó bao giờ cũng
tìm kiếm thêm nữa, thêm nữa và thêm nữa; nó sống trong
cái thêm nữa. Nếu bạn có tiền, nó muốn có nhiều tiền
hơn; nếu bạn có nhà, nó muốn ngôi nhà to hơn; nếu bạn
có một người phụ nữ, nó muốn có người phụ nữ đẹp,
nhưng bao giờ cũng muốn nhiều hơn. Bản ngã thường
xuyên đói. Nó sống trong tương lai và trong quá khứ.
Trong quá khứ nó sống như một kẻ tích trữ - “Ta có cái
này và cái này và cái này.” Nó thoả mãn lắm khi: “Ta
được cái gì đó” - quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Nó cho
điều đó là một loại thực tại. Nó đưa ra khái niệm rằng,
“Khi ta có những thứ này, thì ta phải có đấy.” Và nó sống
trong tương lai với cái ý tưởng nhiều nữa. Nó sống như
kí ức và như ham muốn.

Mục đích là gì? Một ham muốn: “Ta phải đạt tới đó,
ta phải là cái đấy, ta phải đạt tới.” Bản ngã không, không
thể sống trong hiện tại, bởi vì hiện tại là thực còn bản ngã
là giả - chúng chưa bao giờ gặp nhau. Quá khứ là giả, nó
không còn nữa. Có thời nó có đấy, nhưng khi nó là hiện
tại thì bản ngã không có đó. Một khi nó đã biến mất,
không còn tồn tại nữa, bản ngã bắt đầu chộp lấy nó, tích
luỹ nó. Nó vồ lấy và tích luỹ những thứ chết. Bản ngã là
nấm mồ; nó thu thập các xác chết, những bộ xương chết.
Hay, nó sống trong tương lai. Lần nữa, tương lai lại
chưa có - nó là tưởng tượng, hư cấu, mơ mộng. Bản ngã
có thể sống với những cái đó nữa, rất dễ dàng; những cái
giả đi với nhau một cách hoàn hảo, trôi chảy lắm. Bạn cứ đem bất kì cái gì tồn tại lại và bản ngã biến mất. Do đó mới có nhấn mạnh ở trong hiện tại, ở đây và bây giờ.

Ngay khoảnh khắc này... Nếu bạn thông minh thì chẳng
cần phải nghĩ về điều tôi đang nói; bạn có thể đơn giản
thấy vào trong nó ngay chính khoảnh khắc này! Bản ngã
ở đâu? Có im lặng, và không có quá khứ, và không có
tương lai, chỉ khoảnh khắc này... và con chó này sủa.
Khoảnh khắc này, và bạn không có đấy. Bạn để khoảnh
khắc này có đấy, còn bạn thì không có đấy. Và có im
lặng mênh mông, có im lặng sâu lắng, bên trong và bên
ngoài. Và thế thì không cần phải buông xuôi bởi vì bạn
biết bạn không có đó. Việc biết rằng bạn không có đó
chính là buông xuôi.
Vấn đề không phải là buông xuôi cho tôi, vấn đề
không phải là buông xuôi cho Thượng đế. Vấn đề không
phải là buông xuôi chút nào. Buông xuôi là sáng suốt,
hiểu biết rằng, “Tôi không có đó.” Thấy ra, “Tôi không
có đó, tôi là cái không, cái trống rỗng,” thì buông xuôi
trưởng thành. Đoá hoa buông xuôi trưởng thành trên cây
của trống rỗng. Nó không thể nào là hướng đích được.
Bản ngã là hướng đích. Bản ngã khao khát về tương
lai. Nó có thể khao khát thậm chí cả kiếp sống khác, nó
khao khát cõi trời, nó khao khát niết bàn. Nó khao khát
cái gì cũng chẳng thành vấn đề - việc khao khát chính là
cái đang đấy, việc ham muốn chính là cái đang đấy, việc
phóng chiếu vào trong tương lai chính là cái đang đấy.
Nhìn nó đi! Nhìn vào trong nó đi! Tôi không nói nghĩ
về nó. Nếu bạn nghĩ về nó thì bạn lỡ. Nghĩ lại có nghĩa là
quá khứ và tương lai. Có cái nhìn vào nó - avalokita! -
nhìn vào trong nó. Từ tiếng Anh cho nhìn có cùng gốc
như avalokita. Nhìn vào trong nó, và làm điều ấy ngay
bây giờ. Bạn đừng tự nhủ, ‘Được, mình sẽ về nhà và thực
hiện điều đó.” Bản ngã đi vào, mục đích đã tới, tương lai
đã đi vào. Bất kì khi nào thời gian đi vào, bạn lại rơi vào
trong giả tưởng về tách biệt đó.
Ở đây, chính khoảnh khắc này. Và thế thì bạn bỗng
nhiên thấy mình có đấy, mà bạn chẳng đi đâu cả, mà bạn
chẳng tới bất kì đâu cả. Bạn bao giờ cũng ở đây. Ở đây là
thời gian duy nhất, không gian duy nhất. Bây giờ là sự
tồn tại duy nhất. Trong cái bây giờ đó, có buông xuôi.
“Buông xuôi của tôi là hướng đích,” bạn nói, “Tôi
buông xuôi để được tự do.”

Nhưng bạn là tự do! Bạn chưa bao giờ không tự do
cả. Bạn là tự do, nhưng lần nữa lại có cùng vấn đề: bạn
muốn được tự do, nhưng bạn không hiểu rằng bạn có thể
tự do chỉ khi bạn tự do khỏi chính mình - không có tự do
nào khác. Khi bạn nghĩ về tự do, bạn nghĩ dường như bạn
sẽ có đó và tự do. Bạn không có đó; sẽ có tự do. Tự do có
nghĩa là tự do khỏi cái ta, không phải là tự do của cái ta.
Khoảnh khắc nhà tù biến mất thì tù nhân cũng biến mất,
bởi vì tù nhân chính là nhà tù! Khoảnh khắc bạn thoát
khỏi nhà tù, bạn cũng không có đó. Có bầu trời thuần
khiết, không gian thuần khiết. Không gian thuần khiết đó
được gọi là niết bàn, moksha, giải thoát.
Cố hiểu thay vì cố đạt tới.
“Tôi đang buông xuôi để được tự do.”
Thế thì bạn đang dùng buông xuôi như phương tiện,
và buông xuôi là mục đích, là bản thân cái đích. Khi tôi
nói buông xuôi là mục đích, tôi không nói rằng buông
xuôi phải được đạt tới ở đâu đó trong tương lai. Tôi đang
nói rằng buông xuôi không phải là phương tiện, tự nó là
mục đích. Không phải là việc buông xuôi đem lại tự do,
buông xuôi là tự do! Chúng là đồng nghĩa, chúng có nghĩa một thứ. Bạn đang nhìn vào cùng thứ từ hai góc
khác nhau.

“Cho nên nó không phải là việc buông xuôi chút
nào.”
Điều ấy không là thực mà cũng chẳng không thực.
Điều ấy không phải là buông xuôi chút nào. Nó thậm chí
cũng chẳng phải là không thực.
“Tôi đang quan sát nó, nhưng vấn đề là: đấy bao giờ
cũng là cái ‘tôi’ người đang quan sát. Do đó mọi việc
hiểu của cái quan sát đó chỉ làm mạnh thêm bản ngã. Tôi
cảm thấy bị bản ngã mình lừa.”
Ai là cái ‘tôi’ này mà bạn đang nói tới, người cảm
thấy bị lừa bởi bản ngã? Nó lại chính là bản thân bản ngã
vậy. Bản ngã là cái mà nó có thể phân chia mình thành
nhiều đoạn, nhiều phần, và thế rồi trò chơi bắt đầu. Bạn
là kẻ đi săn và bạn là con mồi. Cũng giống như con chó
cố gắng cắn đuôi mình, và cứ nhảy vòng tròn. Và bạn
nhìn và bạn thấy cái ngớ ngẩn của nó - nhưng bạn thấy
cái ngớ ngẩn, con chó thì không thể thấy được. Nó càng
tìm đuôi thì lại càng khó cắn đuôi, nó lại càng trở nên
điên dại, nó lại càng nhảy nhiều hơn. Cái nhảy càng
nhanh và mạnh hơn thì đuôi cũng nhảy càng nhanh và
mạnh hơn. Và con chó không thể nào nhận ra điều gì
đang xảy ra: nó là kẻ vồ bắt vĩ đại thế về mọi thứ, thế mà
cái đuôi tầm thường này, mà nó lại không thể nào vồ bắt
được sao?

Đây chính là điều đang xảy ra cho bạn. Đấy là cái
‘tôi’ đang cố gắng vồ bắt, và người đó đồng thời là kẻ vồ
bắt lẫn cái bị vồ. Thấy cái kì cục của nó đi, và chính
trong cái nhìn thấy đó bạn sẽ được tự do với nó.
Chẳng có gì phải làm cả - không việc gì, tôi nói, bởi
vì bạn đã là cái bạn muốn trở thành. Các bạn là chư phật,
các bạn chưa bao giờ là cái gì khác. Thấy là đủ.
Và khi bạn nói rằng, “Tôi đang quan sát,” lần nữa
đấy lại là cái ‘tôi’. Quan sát, cái ‘tôi’ sẽ lại được tạo ra,
bởi vì quan sát là hành động, có nỗ lực trong đó. Bạn
đang quan sát - thế thì ai quan sát? Thảnh thơi đi. Trong
thảnh thơi - khi không có gì cần phải quan sát và không
có ai là người quan sát, khi bạn không bị phân chia thành
nhị nguyên - có nảy sinh một phẩm chất khác của chứng
kiến. Đấy không phải là quan sát, đấy chỉ là nhận biết thụ
động; thụ động, tôi nói - nhớ lấy. Chẳng có gì năng nổ
trong đó. Quan sát là rất năng nổ: nỗ lực cần có, bạn phải
căng thẳng. Nhưng đừng căng thẳng, cứ thảnh thơi. Chỉ ở
đó. Trong tâm thức đó khi bạn đơn giản ở đó, ngồi không
làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.
Đó là toàn bộ cách tiếp cận phật giáo: rằng bất kì cái
gì mà bạn làm cũng sẽ tạo ra và nâng cao người làm -
quan sát cũng vậy, suy nghĩ cũng vậy, buông xuôi cũng
vậy. Bất kì cái gì bạn làm cũng đều sẽ tạo ra bẫy. Chẳng
cần cái gì phải được làm về phần bạn cả. Chỉ cần có
đấy... và để mọi thứ xảy ra. Đừng cố gắng điều khiển,
đừng cố gắng thao tác. Để cho cơn gió thoảng qua, để
cho tia sáng mặt trời tới, để cho cuộc sống nhảy múa, và
để cho cái chết tới và để cho nó nhảy múa trong bạn nữa.
Đây là ý nghĩa của tôi cho tính chất sannyas: đấy
không phải là cái gì đó mà bạn làm, mà là khi bạn buông
bỏ tất cả việc làm và bạn thấy cái ngớ ngẩn của việc làm.
Bạn là ai để mà làm? Bạn chỉ là một con sóng trong đại
dương này. Hôm nay bạn có đấy, ngày khác bạn sẽ biến
mất; đại dương vẫn tiếp tục. Tại sao bạn phải lo nghĩ thế?
Bạn tới, bạn biến mất. Trong khi đó, với cái khoảng nhỏ bé này, bạn trở nên lo nghĩ và căng thẳng đến thế, và bạn mang tất cả những gánh nặng này trên đôi vai mình, rồi
bạn mang những tảng đá trên trái tim mình - chẳng bởi lí do gì hết cả.
Bạn tự do ngay chính khoảnh khắc này!

Tôi tuyên bố bạn đã chứng ngộ ngay chính khoảnh
khắc này. Nhưng bạn không tin cậy vào tôi. Bạn nói,
“Phải đấy, Osho, nhưng nói cho chúng tôi cách trở thành
chứng ngộ.”
Việc trở thành đó, việc đạt tới đó, ham muốn đó, cứ
tiếp tục nhảy trên mọi vật mà bạn có thể thấy. Đôi khi nó
là tiền bạc, đôi khi nó là Thượng đế. Đôi khi nó là quyền
lực, đôi khi nó là thiền - nhưng bất kì đối tượng nào, và
bạn bắt đầu vồ lấy nó. Không vồ bắt là cách sống cuộc
sống thực, cuộc sống đúng đắn, không vồ bắt, không sở
hữu.

Để cho mọi việc xảy ra, để cho cuộc sống là việc xảy
ra, và có niềm vui, có vui vẻ - bởi vì thế thì không có thất
vọng bao giờ, bởi vì ngay chỗ đầu tiên bạn chưa bao giờ
trông đợi vào bất kì cái gì. Bất kì cái gì tới cũng đều tốt,
đều được hoan nghênh. Không có thất bại, không có
thành công. Trò chơi thất bại và thành công đã bị loại bỏ.
Mặt trời tới vào buổi sáng và đánh thức bạn, còn mặt
trăng tới vào buổi tối và ca lên bài hát ru con và bạn đi
ngủ. Cơn đói tới và bạn ăn, và cứ thế mãi. Đó là điều các
thiền sư vẫn ngụ ý khi họ nói: Khi đói, ăn, khi buồn ngủ,
ngủ và chẳng có gì khác phải làm cả.
Mà tôi cũng không dậy bạn bất hoạt. Không nói đừng
đi và đừng làm, tôi không nói đừng kiếm cơm, tôi không
nói từ bỏ thế giới và phụ thuộc vào người khác và trở
thành kẻ bóc lột; không, không phải chút nào. Nhưng
đừng là người làm. Thế đấy, khi bạn đói, bạn phải ăn,
còn khi bạn phải ăn thì bạn phải ăn cơm - nhưng không
có ai làm việc đó. Chính bản thân cơn đói đang làm việc;
không có người nào khác làm việc đó. Chính bản thân
cơn khát đang đưa bạn hướng tới giếng hay hướng tới
sông. Chính bản thân cơn khát di chuyển; không có ai là
cơn khát. Bỏ danh từ và đại từ trong cuộc sống của bạn
và để động từ sống.

Phật nói: Chân lí là ở chỗ khi ông thấy một vũ công,
thì không có vũ công mà chỉ có điệu vũ. Khi ông thấy
sông, thì không có sông mà chỉ có việc sông chảy. Khi
chúng ta thấy cây, thì không có cây mà chỉ có việc thành
cây. Khi bạn thấy nụ cười, thì không có ai đang mỉm
cười, chỉ có nụ cười, cái cười. Khi bạn thấy tình yêu, thì
không có ai là người yêu mà chỉ có việc yêu. Cuộc sống
là quá trình.

Nhưng chúng ta đã quen nghĩ dưới dạng danh từ tĩnh
tại. Điều đó tạo ra rắc rối. Và chẳng có gì tĩnh tại cả - tất
cả đều là một luồng và tuôn chảy. Tuôn chảy với điều
này, tuôn chảy với dòng sông này, và đừng bao giờ là
người làm. Thậm chí khi bạn đang làm, cũng đừng là
người làm. Có việc làm nhưng không có người làm. Một
khi sáng suốt này lắng đọng vào trong bạn, chẳng có gì
khác cả.
Chứng ngộ không phải là cái gì giống như mục đích
phải đạt tới. Nó chính là cuộc sống bình thường này,
cuộc sống đơn giản này đang bao quanh bạn. Nhưng khi
bạn không tranh đấu, cuộc sống bình thường này trở
thành đẹp đẽ phi thường. Thế thì cây cối còn xanh hơn,
thế thì chim chóc cất tiếng hót còn nhiều cung bậc hơn, thế thì mọi thứ đang xảy ra xung quanh đều là quí giá...
thế thì đá cuội thông thường cũng là kim cương.
Chấp nhận cuộc sống đơn giản này, thông thường
này. Chỉ cần bỏ là người làm. Và khi tôi nói bỏ người
làm, bạn cũng đừng trở thành người bỏ! Cứ nhìn vào
trong thực tại này về nó, nó biến mất.

Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Liệu có khác biệt gì giữa ‘shunyavada’ của Nagarjuna
và ‘avyakritopadesh’, giáo huấn không nói ra và
không xác định nổi của Phật không?


Không có khác biệt chút nào. Nếu khác biệt dường
như có đó, đấy chỉ là bởi vì cách phát biểu. Nagarjuna* là
một triết gia vĩ đại, một trong những người vĩ đại nhất
thế giới. Chỉ vài người trên thế giới, rất ít người, mới có
phẩm chất xuyên thấu mà Nagarjuna có. Cho nên, cách
nói của ông ấy là rất triết học, logic, tuyệt đối logic. Phật
là nhà huyền môn, không phải triết gia. Cách nói của ông
ấy thì mang nhiều tính thơ ca hơn là triết lí. Cách tiếp cận
là khác, nhưng Nagarjuna nói đích xác hệt những điều
như Phật nói. Cách phát biểu của họ chắc chắn là khác
nhau, nhưng điều họ đang nói phải được hiểu.
Bạn hỏi - câu hỏi này là từ Omanath Bharti - “Liệu
có khác biệt gì giữa shunyavada...” Shunyavada có nghĩa
là lí thuyết, triết học về cái không. Trong tiếng Anh
không có từ nào có thể tương đương, xấp xỉ tương
đương, với shunya. Shunya có nghĩa là cái trống rỗng;
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Long Thọ bồ tát
nhưng không phải là cái trống rỗng tiêu cực, mà rất tích
cực. Nó có nghĩa là cái không, nhưng nó không đơn giản
nghĩa là cái không; nó có nghĩa là tính chất về cái không.
Shunya có nghĩa là hư vô, hư vô về mọi thứ. Nhưng bản
thân cái hư vô có đấy, với sự hiện diện hoàn toàn, cho
nên nó không chỉ là hư vô. Nó cũng tựa như bầu trời
trống rỗng, chính là không gian thuần khiết, nhưng nó có
đấy. Mọi thứ tới trong nó và đi, mà nó thì còn lại.
Shunya cũng tựa như bầu trời - sự hiện diện thuần
khiết. Bạn không thể động chạm tới nó mặc dầu bạn sống
trong nó. Bạn không thể thấy nó mặc dầu bạn chẳng bao
giờ có thể hiện hữu mà không có nó. Bạn tồn tại trong
nó; hệt như cá tồn tại trong đại dương, bạn tồn tại trong
không gian, trong shunya. Shunyavada có nghĩa là mọi
thứ nảy sinh ra từ cái không có gì.
Mới vài phút trước đây tôi đã nói cho các bạn về
khác biệt giữa chân lí và thực tại. Thực tại có nghĩa là thế
giới của các vật, còn chân lí có nghĩa là thế giới của cái
không có gì, cái không - shunya. Tất cả mọi vật đều nảy
sinh từ cái không và tan biến trở lại vào trong cái không.
Trong Upanishad có câu chuyện:
Svetaketu trở về nhà từ nhà thầy, trở về với bố mẹ
mình. Anh ta đã học tất cả. Bố anh ta, Uddalaka, một
triết gia lớn, nhìn vào anh ta và nói, “Svetaketu, con đi ra
ngoài và đem quả của cây ở đằng kia lại đây.”
Anh ta đi ra ngoài, đem lại quả cây. Và người bố nói,
“Đập nó ra. Con thấy gì trong nó?” Có nhiều hạt mầm
trong nó. Rồi người bố lại nói, “Lấy một hạt và đập nó
ra. Con thấy gì trong nó?”
Anh chàng ta nói, “Chẳng có gì ạ.” 

Thế là người bố nói, “Mọi thứ đều nảy sinh ra từ cái
không này. Cái cây lớn này, lớn đến mức một nghìn
chiếc xe bò kéo có thể ẩn dưới tán lá của nó, đã nảy sinh
ra chỉ từ một hạt mầm. Và con đập hạt mầm ra và con
chẳng thấy gì ở đó cả. Đây là điều bí ẩn của cuộc sống -
mọi thứ đều nảy sinh từ cái không. Và rồi một ngày nào
đó cái cây biến mất, và con cũng chẳng biết ở đâu; con
không thể tìm thấy nó ở bất kì đâu.”
Con người cũng vậy: chúng ta nảy sinh từ cái không,
và chúng ta là cái không, và chúng ta biến mất vào trong
cái không. Đây là shunyavada.
Và avyakritopadesh của Phật, giáo huấn không nói ra
và không định nghĩa nổi là gì? Nó cũng cùng là điều đó.
Ông ấy chưa bao giờ làm cho nó thành rõ ràng về mặt
triết học như Nagarjuna đã làm. Đó là lí do tại sao ông ấy
chưa bao giờ nói về nó. Đó là lí do tại sao ông ấy lại nói
nó là không thể nào xác định nổi; điều đó không thể nào
được đem tới mức độ của ngôn ngữ. Ông ấy giữ im lặng
về nó.

Bạn có biết Bài thuyết giảng Hoa không? Một hôm
ông ấy tới với hoa sen trong tay và ngồi im lặng, chẳng
nói điều gì. Và mười nghìn đệ tử có đó, mười nghìn khất
sĩ bhikkhus có đó, và họ cứ đợi ông ấy nói điều gì đó, còn
ông ấy thì cứ nhìn vào hoa sen. Có im lặng lớn lao, và
thế rồi có bất an lớn nữa. Mọi người bắt đầu bồn chồn -
“Ông ấy đang làm gì thế nhỉ? Ông ấy chưa bao giờ làm
như thế trước đây.”
Thế rồi một đệ tử, Mahakashyapa*, mỉm cười.
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Mahacadiếp
Phật gọi Mahakashyapa lại, trao cho ông ấy hoa sen,
và nói với toàn thể hội chúng, “Điều có thể nói ta đã nói
cho các ông, còn điều không thể nói ra được thì ta trao
cho Mahakashyapa.”
Đây là avyakritopadesh, đây là thông điệp không xác
định nổi. Đây là ngọn nguồn của thiền phật giáo, việc
truyền trao. Cái gì đó đã được Phật truyền cho
Mahakashyapa, điều gì đó là cái không; trên bình diện
thấy được thì là cái không - không lời, không kinh sách,
không lí thuyết - nhưng cái gì đó đã được truyền trao. Cái
gì vậy?

Các thiền sư đã từng thiền về điều này suốt hai nghìn
năm trăm năm: “Cái gì vậy? Cái gì đã được truyền trao?
Cái gì đích xác đã được trao?” Trong thực tế, chẳng có gì
đã được trao từ Phật sang Mahakashyapa; Mahakashyapa
chắc chắn đã hiểu điều gì đó. Ông ấy đã hiểu im lặng,
ông ấy đã hiểu im lặng xuyên thấu. Ông ấy đã hiểu
khoảnh khắc sáng tỏ đó, khoảnh khắc vô suy nghĩ hoàn
toàn đó. Ông ấy trở thành một, trong khoảnh khắc đó, với
Phật. Đó là buông xuôi là gì. Không phải là ông ấy làm
điều đó: Phật vẫn im lặng và ông ấy cũng im lặng, và
những cái im lặng đó gặp nhau, và hai cái im lặng đó tan
biến vào lẫn nhau. Và hai cái im lặng đó không thể vẫn
còn tách biệt được, nhớ lấy, bởi vì cái im lặng không có
biên giới, cái im lặng là vô biên, cái im lặng đơn giản là
cởi mở, cởi mở từ mọi phía. Trong hội chúng vĩ đại mười
nghìn sư có hai người im lặng vào ngày đó - Phật và
Mahakashyapa. Những người khác vẫn còn ở ngoài.
Mahakashyapa và Phật gặp nhau: đó là là lí do tại sao
ông ấy mỉm cười - bởi vì đó là buổi thuyết giảng lớn nhất
mà Phật đã giảng. Không nói lấy một lời mà ông ấy đã nói tất cả, tất cả những cái có thể nói - và tất cả những cái không thể nói nữa.

Mahakashyapa đã hiểu và cười to. Trong cái cười đó
Mahakashyapa biến mất hoàn toàn, trở thành vị phật.
Ngọn lửa từ chiếc đèn của Phật đã nhảy sang
Mahakashyapa. Điều đó được gọi là ‘việc truyền trao bên
ngoài kinh sách’ - Buổi thuyết giảng Hoa. Đó là điều duy
nhất trong lịch sử tâm thức con người. Đó là điều được
gọi là avyakritopadesh: lời không nói, lời không thốt ra.
Im lặng trở thành bản chất thế, rắn chắc thế; im lặng
trở thành thực thế, tồn tại đến thế; im lặng trở thành rõ
ràng đến thế trong khoảnh khắc đó. Phật là cái không,
Mahakashyapa cũng hiểu cái không nghĩa là gì, hoàn
toàn trống rỗng nghĩa là gì.

Không có khác biệt giữa shunyavada của Nagarjuna
và thông điệp không nói ra của Phật. Nagarjuna là một
trong những đệ tử vĩ đại nhất của Phật, và là một trong
những người hiểu biết sắc sảo nhất. Chỉ rất ít người - có
thời là Socrates, Shankara - có thể sánh được với
Nagarjuna. Ông ấy rất, rất thông minh. Điều tột bực mà
người hiểu biết có thể làm là tự tử; điều vĩ đại nhất, đỉnh
cao vĩ đại nhất mà có thể tới cho người hiểu biết là vượt
ra ngoài chính mình - đó là điều Nagarjuna đã làm. Ông
ấy đã vượt qua tất cả các lĩnh vực của hiểu biết, và vượt
ra ngoài.
Các nhà thực chứng logic nói rằng cái không đơn
thuần là trừu tượng. Trong những thể nghiệm khác nhau
của những câu phủ định - chẳng hạn: cái này không ngọt,
tôi không khoẻ, tôi không ở đó, anh ấy không thích tôi
vân vân và vân vân - thì phủ định không có bản chất của
riêng nó. Đây là điều các nhà thực chứng logic nói. Phật
không đồng ý, Nagarjuna không đồng ý. Martin
Heidegger, một trong những người hiểu biết sâu sắc nhất
của thời hiện đại, cũng không đồng ý.

Heidegger nói có một kinh nghiệm thực tại về cái
không. Đấy không phải chỉ là cái gì đó do ngôn ngữ tạo
ra; có một kinh nghiệm thực tại về cái không. Nó nhất
định không tách rời với sự hiện hữu. Kinh nghiệm xác
nhận cho điều này là kinh nghiệm về khiếp hãi.
Kierkegaard, triết gia Đan mạch, cũng hỏi, “Cái không
tạo ra hiệu quả gì?” và trả lời, “Nó gây ra khiếp hãi.”
Cái không là một kinh nghiệm thực tại. Hoặc bạn có
thể kinh nghiệm nó trong thiền sâu, hoặc khi cái chết tới.
Chết và thiền là hai khả năng kinh nghiệm nó. Thế đấy,
đôi khi bạn có thể kinh nghiệm nó cả trong tình yêu nữa.
Nếu bạn tan biến trong ai đó trong tình yêu sâu sắc thì
bạn có thể kinh nghiệm một loại cái không. Đó là lí do
tại sao người ta sợ tình yêu - họ chỉ đi sâu thế, rồi hoảng
sợ nổi lên, thế là họ sợ. Đó là lí do tại sao rất ít người vẫn
còn cực thích - bởi vì cực thích cho bạn kinh nghiệm về
cái không. Bạn biến mất, bạn tan ra trong cái gì đó và
bạn không biết nó là gì. Bạn đi vào trong cái không xác
định nổi, avyakrit. Bạn vượt ra ngoài xã hội. Bạn đi vào
trong một đơn vị nào đó nơi tách biệt là không hợp lệ,
nơi bản ngã không tồn tại. Và điều đó gây ra sợ, bởi vì nó
giống như chết.

Cho nên nó là kinh nghiệm, hoặc trong tình yêu, cái
mà mọi người đã học để tránh né - cho nên biết bao nhiêu
người cứ khao khát mãi tình yêu, và cứ phá huỷ tất cả các
khả năng cho nó bởi vì sợ cái không - hay, trong thiền
sâu khi ý nghĩ dừng lại. Bạn đơn giản thấy chẳng có gì
bên trong cả, nhưng cái không đó có sự hiện diện; nó
không đơn giản là việc thiếu vắng ý nghĩ, nó là sự hiện diện của cái gì đó chưa biết, bí ẩn, một cái gì đó rất lớn lao. Hay, bạn có thể kinh nghiệm nó trong cái chết, nếu
bạn tỉnh táo. Mọi người thường chết trong vô ý thức. Nếu
bạn chết có ý thức... Và bạn có thể chết có ý thức chỉ khi
bạn chấp nhận hiện tượng chết, và bởi điều đó mà người
ta phải học trong toàn bộ cuộc sống, để chuẩn bị. Người
ta phải yêu để sẵn sàng chết, và người ta phải thiền để
sẵn sàng chết. Chỉ người đã yêu và thiền mới có thể chết
có ý thức. Và một khi bạn chết có ý thức thế thì chẳng
cần cho bạn phải quay lại nữa, bởi vì bạn đã học bài học
cuộc sống. Thế thì bạn tan biến trong cái toàn thể; đó là
niết bàn.

Những nhà thực chứng logic nhìn rất logic, nhưng họ
bỏ lỡ điều gì đó - bởi vì thực tại thì còn nhiều hơn là
logic. Trong kinh nghiệm thông thường chúng ta chỉ đi
tới điều họ nói: cái ghế này ở đây, nó sẽ bị bỏ đi, thế thì
bạn sẽ nói không có ghế ở đó. Điều đó đơn giản chỉ ra
việc thiếu vắng - cái ghế đã bị bỏ đi. Đây là những thí dụ
thông thường về cái không: có thời đã có một ngôi nhà
và thế rồi nó đã bị triệt phá, nó không còn ở đấy nữa. Nó
chỉ là sự thiếu vắng.

Nhưng có cái không nằm sâu ở bên trong bản thể
bạn, tại chính cốt lõi. Tại chính cốt lõi cuộc sống, cái
chết tồn tại. Cái chết là trung tâm của cơn xoáy lốc.
Trong tình yêu bạn tới gần điều đó, trong thiền bạn tới
gần điều đó, trong cái chết vật lí bạn cũng tới gần điều
đó. Nó chính là việc đem lại cuộc sống, nó chính là việc
nâng cao cuộc sống. Người không thể ngủ sâu sẽ trở nên
ốm yếu, bởi vì chỉ trong giấc ngủ sâu, khi người đó chết
đi trong độ sâu nhất của mình, người đó mới thu lại cuộc
sống, năng lượng, sức sống. Buổi sáng người đó lại tươi
tắn và đầy say mê, thích thú - sống động, lại sôi nổi.
Học chết đi! Đó là nghệ thuật lớn lao nhất cần phải
học, kĩ năng lớn lao nhất có đó.
Quan điểm của Heidegger tới rất gần với quan điểm
của Phật, và ngôn ngữ của ông ấy rất hiện đại, đó là lí do
tại sao tôi trích dẫn ông ấy. Ông ấy nói: “Mọi sinh linh,
chừng nào đấy vẫn còn là một sinh linh, đều được tạo
nên từ cái không.” Có cả song hành với học thuyết Ki tô
giáo nữa - rất lôi thôi, bởi vì các nhà thượng đế học Ki tô
giáo không thể đảm đương được điều đó, nó là quá
nhiều. Học thuyết đó là creatio ex nihilo: sự sáng tạo là
từ cái không.

Nếu bạn hỏi nhà vật lí hiện đại, ông ta sẽ đồng ý với
Phật: bạn càng đi sâu hơn vào vật chất, mọi vật bắt đầu
biến mất. Một khoảnh khắc tới, khi nguyên tử bị phân
chia - vật hoàn toàn biến mất. Thế thì có các điện tử,
nhưng chúng không còn là vật nữa, chúng là cái không
vật. Rất khó để hiểu. Nhưng vật lí, vật lí hiện đại, đã tới
rất gần với siêu hình - bởi vì nó tới ngày một gần hơn với
thực tại hàng ngày. Nó đang tiến qua vật chất, nhưng đi
tới cái không. Bạn biết vật chất không tồn tại nữa trong
vật lí hiện đại. Vật chất chỉ là ảo tưởng: nó chỉ xuất hiện,
nó không có đó. Tính rắn chắc của nó, cái chất liệu của
nó, là ảo tưởng; chẳng có gì là bản chất cả, tất cả đều là
luồng và năng lượng. Vật chất không là gì ngoài năng
lượng. Và khi bạn đi sâu hơn vào trong năng lượng, thì
năng lượng cũng không phải là vật, nó là cái không-vật.
Cái chết là điểm mà tại đó tri thức thành giả tạm, và
chúng ta trở thành cởi mở với bản thể - cái đã từng là
kinh nghiệm của phật tử qua nhiều thời đại. Phật hay
phái các đệ tử của mình, khi có một ai đó chết, đến xem
thân thể đang cháy trên dàn hoả thiêu: “Thiền ở đó đi,
thiền về cái không của cuộc sống.” Cái chết là điểm mà tại đó tri thức thành giả tạm, và khi tri thức thành giả tạm thì tâm trí cũng giả nốt. Và khi tâm trí là giả thì có khả năng chân lí thấm vào bạn.

Nhưng mọi người không biết. Khi ai đó chết đi bạn
không biết phải làm gì, bạn rất bối rối. Khi ai đó chết đi,
đấy là khoảnh khắc lớn lao để thiền.
Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng mỗi thành phố đều cần
một Trung tâm chết. Khi ai đó hấp hối và cái chết của
người đó là sắp xảy ra đến nơi, người đó nên được
chuyển vào Trung tâm chết. Nó nên là một ngôi đền nhỏ
nơi những người có thể đi sâu vào thiền nên ngồi quanh
người đó, giúp người đó chết, và nên thực hành trong bản
thể người đó khi người đó tan biến trong cái không. Khi
ai đó biến mất trong cái không, năng lượng lớn được
thoát ra. Năng lượng đã có đó, bao quanh người ấy, đang
thoát ra. Nếu bạn ở trong không gian im lặng quanh
người đó, bạn sẽ tiếp tục cuộc hành trình lớn. Không
trạng thái phiêu diêu nào có thể đưa bạn tới được chỗ đó.
Người này tự nhiên để thoát ra năng lượng lớn; nếu bạn
có thể hấp thu năng lượng đó, bạn cũng sẽ có một loại
chết cùng với người đó. Và bạn sẽ thấy điều tối thượng -
ngọn nguồn và cái đích, cái bắt đầu và cái kết thúc.
“Con người là sinh linh mà qua đó cái không đi vào
trong thế giới,” Jean-Paul Sartre nói. Tâm thức không
phải là vật này hay vật kia, nó không phải là bất kì vật
nào cả; nhưng có chắc nó là bản thân nó không?
“Không,” Sartre nói, “chính xác vấn đề là không. Tâm
thức chưa bao giờ đồng nhất với chính mình. Do vậy, khi
tôi phản xạ bản thân mình, thì cái ta được phản xạ là
khác cái ta phản xạ. Khi tôi cố gắng phát biểu tôi là gì,
tôi thất bại, bởi vì trong khi tôi đang nói, cái tôi đang nói
trượt vào trong quá khứ và trở thành cái tôi đã là. Tôi là
quá khứ của mình và tương lai của mình, vậy mà tôi lại
không có. Tôi đã từng là người này, và tôi sẽ là người
khác. Nhưng trong hiện tại, có cái không.”

Nếu ai đó hỏi bạn, “Bạn là ai?” thì bạn sẽ định nói gì
nào? Hoặc bạn có thể trả lời từ quá khứ, mà không còn
nữa, hoặc bạn có thể trả lời từ tương lai, cái mà bạn còn
chưa có. Nhưng ngay khoảnh khắc này bạn là ai? Không
ai cả, cái không. Cái không này là chính cốt lõi, tâm điểm
- tâm điểm của bản thể bạn.
Cái chết không phải là chiếc rìu đốn ngã cây cuộc
sống, nó là quả trưởng thành trên cây đó. Cái chết chính
là chất liệu tạo nên bạn. Cái không là chính bản thể của
bạn. Việc đạt tới cái không này hoặc là qua tình yêu hoặc
là qua thiền, và người ta cứ có thoáng nhìn về nó. Đây là
điều Nagarjuna ngụ ý bởi shunya. Đây là điều Phật
truyền trao cái ngày hôm ấy khi ông ấy tiến hành Buổi
thuyết giảng Hoa. Đây là điều Mahakashyapa đã hiểu khi
ông ấy cười to. Ông ấy thấy cái không, và thuần khiết
của nó, hồn nhiên của nó, hồn nhiên nguyên thuỷ của nó,
toả sáng của nó, bất tử của nó - bởi vì cái không không
thể chết được. Mọi thứ đều chết; cái không là bất tử, vĩnh
hằng.

Nếu bạn bị đồng nhất với bất kì cái gì, bạn sẽ phải
chịu đựng cái chết. Nhưng nếu bạn biết rằng bạn là cái
chết, làm sao bạn có thể phải chịu đựng cái chết? Thế thì
chẳng cái gì có thể phá huỷ được bạn; cái không là không
thể huỷ diệt nổi.
Một chuyện ngụ ngôn của phật giáo kể rằng Diêm
vương hỏi một linh hồn mới tới liệu trong khi sống người
đó có gặp ba người đưa tin của cõi trời không. Và khi
người đó trả lời, “Không, tâu Diêm vương, tôi không gặp,” thì ông ấy lại hỏi liệu người đó có gặp một ông già còng lưng vì tuổi tác, hay một người nghèo khó ốm yếu
không bè bạn, hay một người chết không?

Phật tử gọi ba loại người này là ‘ba người đưa tin của
Thượng đế’: tuổi già, bệnh tật, cái chết - ba người đưa tin
của Thượng đế. Tại sao? - bởi vì chỉ qua những kinh
nghiệm này trong cuộc sống mà bạn mới trở nên nhận
biết về cái chết. Và nếu bạn trở nên nhận biết về cái chết
và bạn bắt đầu học cách đi vào trong nó, cách thức đón
chào nó, cách thức tiếp nhận nó, bạn được thoát khỏi
cảnh nô lệ, thoát khỏi bánh xe sống và chết.
Heidegger nói, và Soren Kierkegaard cũng nói thế,
rằng cái không tạo ra khiếp sợ. Đấy mới chỉ là một nửa
câu chuyện. Bởi vì hai người này chỉ là các triết gia, đó
là lí do tại sao điều ấy lại tạo ra khiếp sợ.
Nếu bạn hỏi Phật, Mahakashyapa, Nagarjuna, nếu
bạn hỏi tôi, thì cái chết được nhìn với chỉ một phần sẽ tạo
ra khiếp sợ; được nhìn một cách tuyệt đối, toàn bộ, thì nó
giải phóng bạn khỏi mọi khiếp sợ, khỏi mọi đau khổ,
khỏi mọi lo âu, nó giải phóng bạn khỏi luân hồi
samsara... bởi vì nếu bạn nhìn một phần thôi, nó tạo ra
sợ hãi rằng bạn đang sắp chết, rằng bạn sẽ trở thành cái
không, rằng chẳng mấy chốc bạn sẽ biến mất. Và tự
nhiên bạn cảm thấy bồn chồn, run rẩy, mất gốc. Nếu bạn
nhìn vào cái chết một cách toàn bộ, thế thì bạn biết bạn
là cái chết, bạn được tạo nên từ nó. Cho nên chẳng có gì
sắp biến mất cả, chẳng có gì sắp còn lại cả. Chỉ cái không
là có đấy.

Phật giáo không phải là tôn giáo yếm thế như nhiều
người đã từng coi là vậy. Phật giáo là cách thức gạt bỏ cả
lạc quan và bi quan, gạt bỏ nhị nguyên.
Bắt đầu thiền về chết đi. Và bất kì khi nào bạn cảm
thấy cái chết tới gần, đi vào trong nó qua cánh cửa tình
yêu, qua cánh cửa thiền, qua cánh cửa của người đang
chết. Và nếu một ngày nào đó bạn sắp chết - và ngày ấy
đang tới qua từng ngày một - đón nhận nó trong vui vẻ,
phúc lành. Và nếu bạn có thể đón nhận cái chết trong vui
vẻ và phúc lành, bạn sẽ đạt tới đỉnh lớn lao nhất, bởi vì
cái chết là đỉnh cao của cuộc sống. Ẩn giấu trong nó là
cực thích lớn nhất, bởi vì ẩn giấu trong nó là tự do lớn
nhất.

Cái chết đang làm tình với Thượng đế, hay Thượng
đế đang làm tình với bạn. Cái chết là cực thích toàn bộ,
vũ trụ. Cho nên vứt tất cả những ý tưởng rằng bạn đang
mang cái chết đi - chúng là nguy hiểm. Chúng làm cho
bạn đối kháng với kinh nghiệm lớn lao nhất mà bạn cần
phải có. Nếu bạn để lỡ cái chết, bạn sẽ được sinh ra nữa.
Chừng nào mà bạn còn chưa học được cách chết, bạn sẽ
còn tiếp tục được sinh ra nữa và nữa và nữa. Đây là bánh
xe, luân hồi samsara, thế gian. Một khi bạn đã biết đến
cực thích lớn nhất, thế thì không cần nữa; bạn biến mất,
và bạn vẫn còn trong cực thích đó mãi mãi. Bạn không
còn giống bạn, bạn không còn như một thực thể, bạn
không còn được xác định, được đồng nhất với bất kì cái
gì. Bạn vẫn còn như một tổng thể, không phải như bộ
phận.
Đây là shunyavada của Nagarjuna, và đây cũng là
thông điệp không nói ra, lời không nói ra của Phật.
Chúng cả hai là một. 



Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu, tôi sợ làm sannyasin, mặc dầu tôi bị
hấp dẫn ghê lắm. Tôi sợ bởi vì chồng. Tôi nghĩ anh ấy
sẽ có thể không hiểu điều đó.


Bạn không kính trọng mấy với chồng mình. Bạn có
cho là anh ấy ngu đần hay cái gì đó như thế không? Tại
sao anh ấy không thể nào hiểu được điều đó? Nếu anh ấy
yêu bạn, anh ấy sẽ hiểu điều đó. Tình yêu là hiểu biết.
Nếu anh ấy không yêu bạn, thế thì dù bạn có làm
sannyasin hay không, anh ấy cũng chẳng định hiểu bạn.
Điều thứ hai: nếu anh ấy không hiểu tính chất
sannyas của bạn, đấy là vấn đề của anh ấy. Bạn có cuộc
sống của bạn. Chớ bao giờ thoả hiệp, nếu không bạn sẽ
bị lỡ nhiều lắm đấy. Đừng bao giờ thoả hiệp! Nếu bạn
cảm thấy thích trở thành sannyasin, trở thành sannyasin
đi. Nhận lấy mạo hiểm đi. Nếu anh ấy yêu bạn thì không
có vấn đề gì, anh ấy sẽ hiểu - bởi vì tình yêu đem lại tự
do. Nếu anh ấy không yêu bạn thế thì sẽ có khó khăn cho
anh ấy, bởi vì anh ấy sẽ cảm thấy bạn đang thoát ra khỏi
sở hữu của anh ấy. Nhưng cúi mình trước khả năng như
thế là tự tử. Đó là vấn đề của anh ấy. Bạn phải sống cuộc
sống của bạn, anh ấy phải sống cuộc sống của anh ấy.
Không ai nên cố gắng áp đặt điều gì lên người khác.
Nhưng cảm giác của tôi là ở chỗ bạn chắc phải cũng
đang áp đặt mọi thứ lên anh ấy, đó là lí do tại sao bạn sợ.
Nếu bạn không áp đặt điều gì lên anh ấy, bạn có thể độc
lập. Nhưng đây là thu xếp đôi bên: mọi người là nô lệ lẫn
cho nhau, và bất kì khi nào bạn làm nô lệ của ai đó, thì
nhớ lấy, bạn đang làm cho ai đó thành thầy của bạn nữa.
Đấy là thu xếp lẫn nhau. Bạn phải cố gắng thao túng
chồng mình, bạn phải cố gắng áp đặt mọi thứ lên anh ấy,
bạn phải làm cho anh ấy thành què quặt. Bây giờ bạn
muốn được độc lập, anh ấy sẽ khẳng định sự độc lập của
mình nữa. Thế thì anh ấy sẽ thích đi theo đường riêng
của mình, và điều đó bạn không thể chịu được. Đó là sợ
hãi thật.

Nhưng nếu bạn không làm điều gì đó mà bạn thích,
cái điều bạn muốn làm, cái điều bạn muốn có, bạn sẽ
chẳng bao giờ có thể tha thứ cho anh ấy. Và bạn sẽ trả
thù, và bạn sẽ giận dữ, và bạn sẽ cuồng nộ - bởi vì bạn sẽ
thường xuyên nghĩ bạn muốn trở thành sannyasin, và chỉ
tại mỗi con người này... Và bạn sẽ cảm thấy bị nhốt vào
cũi, bị cầm tù. Không ai thích bị cầm tù cả. Thế thì người
ta ghét người là nguyên nhân cho cầm tù của mình, thế
thì người ta cố gắng trả thù theo nhiều cách tinh vi. Điều
đó sẽ phá huỷ hôn nhân của bạn.
Đừng bao giờ tạo ra tình huống như thế mà trong đó
bạn không thể nào tha thứ được cho người khác. Chỉ hai
người độc lập mới có thể tha thứ được cho nhau. Các nô
lệ không thể tha thứ được. Và ai mà biết được, điều đó có
thể giúp đỡ cho anh ấy nữa, theo cách nào đó.
Tôi đã đọc một chuyện tiếu lâm hôm nọ:
Hai nhà thám hiểm gặp nhau trong vùng hoang dã
Amazon. Việc trao đổi sau đây xảy ra.
Nhà thám hiểm thứ nhất: “Tôi đã đến đây bởi vì thôi
thúc đi lang thang trong máu mình. Nền văn minh làm tôi
ốm yếu. Tôi thích thấy tự nhiên dưới dạng nguyên sơ của
nó. Tôi thích đặt dấu chân mình lên những nơi mà con người còn chưa từng tới trước đây. Anh thì sao? Tại sao
anh tới đây?”

Nhà thám hiểm thứ hai: “Vợ tôi đã trở thành
sannyasin của Osho, và cô ấy đang luyện Thiền Động
vào buổi sáng và Kundalini vào buổi tối - đó là lí do tại
sao!”

Nhưng tốt! Nếu chồng bạn đi tới Amazon và trở
thành nhà thám hiểm, điều này đang cho anh ta cơ hội tốt
để làm điều gì đó.
Câu hỏi thứ nhất
Osho kính yêu,
Đôi khi trong lúc chỉ có ngồi, câu hỏi lại tới trong tâm
trí: Chân lí là gì? Nhưng vào lúc tôi tới đây thì tôi
hiểu rằng tôi không có khả năng hỏi. Nhưng tôi có thể
hỏi điều gì xảy ra trong những khoảnh khắc đó khi câu
hỏi này nảy sinh mạnh mẽ đến mức giá mà Thầy ở gần
thì tôi sẽ hỏi ngay điều đó. Hay nếu Thầy không đáp
lại, thì tôi sẽ túm râu hay cổ áo Thầy mà hỏi, “Chân lí
là gì, thưa Osho?”

Đấy là câu hỏi quan trọng nhất có thể nảy sinh trong
tâm trí của bất kì ai, nhưng không có câu trả lời cho nó.
Câu hỏi quan trọng nhất, câu hỏi tối thượng, không thể
có bất kì câu trả lời nào; đó là lí do tại sao nó là tối
thượng.

Khi Pontius Pilate hỏi Jesus, “Chân lí là gì?” thì
Jesus im lặng. Không chỉ có thế, câu chuyện nói rằng khi
Pontius Pilate hỏi câu hỏi, “Chân lí là gì?” ông ấy cũng
chẳng đợi nghe câu trả lời nữa. Ông ấy rời khỏi phòng và
bỏ đi. Điều này rất kì lạ. Pontius Pilate cũng nghĩ rằng
không thể có câu trả lời cho nó, cho nên ông ấy đã không
chờ đợi câu trả lời. Jesus vẫn còn im lặng bởi vì ông ấy
cũng biết điều ấy không thể nào trả lời nổi.
Nhưng hai hiểu biết này là không giống nhau, bởi vì
hai người này là đối diện nhau qua đường kính. Pontius
Pilate nghĩ rằng điều đó không thể nào trả lời nổi bởi vì
không có chân lí; làm sao bạn có thể trả lời được nó? Đó
là tâm trí logic, tâm trí Roman. Jesus im lặng không phải
bởi vì không có chân lí, mà bởi vì chân lí quá bao la, nó
không thể nào định nghĩa được. Chân lí khổng lồ thế,
mênh mông thế, nó không thể nào chứa đựng nổi trong
một từ, nó không thể nào thu lại trong ngôn ngữ. Nó có
đấy. Người ta có thể là nó, nhưng người ta không thể nào
nói về nó.

Bởi hai lí do mà họ hành xử gần như theo cùng cách:
Pontius đã không đợi để nghe câu trả lời, ông ta đã biết
rằng không có chân lí. Jesus vẫn còn im lặng bởi vì ông
ấy biết chân lí, và biết rằng nó không thể nào nói ra được.
Chidvilas đã hỏi câu hỏi này. Câu hỏi này hoàn toàn
có ý nghĩa. Không có câu hỏi nào cao hơn nó, bởi vì
không có tôn giáo nào cao hơn chân lí. Nó phải được
hiểu; câu hỏi này phải được phân tích. Với việc phân tích
câu hỏi, cố gắng hiểu bản thân câu hỏi, bạn có thể có cái
nhìn sáng suốt vào chân lí là gì. Tôi sẽ không trả lời nó,tôi không thể trả lời nó được; không ai có thể trả lời điều đó được. Nhưng chúng ta có thể đi sâu vào bên trong câu
hỏi này. Khi đi sâu vào bên trong câu hỏi này, câu hỏi
này sẽ bắt đầu biến mất. Khi câu hỏi đã biến mất, bạn sẽ
tìm thấy câu trả lời có đó tại chính cốt lõi trái tim bạn -
bạn là chân lí, cho nên làm sao bạn có thể lỡ nó được?
Có thể bạn đã quên mất về nó, có thể bạn đã đánh mất
dấu vết của nó, có thể bạn đã quên mất cách đi vào trong
bản thể riêng của mình, vào trong chân lí riêng của mình.
Chân lí không phải là giả thuyết, chân lí không phải
là học thuyết. Chân lí chẳng phải là Hindu giáo, cũng
không Ki tô giáo, chẳng Mô ha mét giáo. Chân lí chẳng
phải của tôi cũng không của bạn. Chân lí chẳng thuộc
vào ai, nhưng mọi người đều thuộc vào chân lí. Chân lí
có nghĩa là cái đang đấy: đó là đích xác ý nghĩa của từ
này. Nó tới từ gốc latinh, verus. Verus có nghĩa là: cái
đang đấy. Trong tiếng Anh có vài từ là biến thể của gốc
latinh verus này: was, were - chúng có nguồn gốc từ
verus. Trong tiếng Đức, war - cũng đến từ verus. Verus
có nghĩa là cái có đấy, không được diễn giải. Một khi
việc diễn giải tới, thế thì cái bạn biết là thực tại, không
phải là chân lí. Đó là khác biệt giữa chân lí và thực tại.
Thực tại là chân lí được diễn giải.
Cho nên khoảnh khắc bạn trả lời câu hỏi, “Chân lí là
gì?” thì nó trở thành thực tại; nó không còn là chân lí
nữa. Diễn giải đã đi vào trong nó, tâm trí đã tô mầu cho
nó. Và thực tại cũng nhiều như tâm trí vậy; có đa thực
tại. Chân lí là một bởi vì chân lí chỉ được biết tới khi tâm
trí không có đó. Chính tâm trí giữ bạn tách rời khỏi tôi,
tách rời khỏi người khác, tách rời khỏi sự tồn tại. Nếu
bạn nhìn qua tâm trí, thế thì tâm trí sẽ cho bạn một bức
tranh về chân lí. Đấy sẽ chỉ là một bức tranh, một bức
ảnh của cái đang đấy. Và tất nhiên, bức ảnh phụ thuộc
vào máy ảnh, vào phim được dùng, vào hoá chất, vào
cách rửa ảnh, vào cách in ảnh, vào người đã làm việc đó.
Cả ngàn lẻ một thứ đi vào; nó trở thành thực tại.
Từ thực tại cũng hay nếu được hiểu. Nó bắt nguồn từ
gốc, res; nó có nghĩa là một vật hay nhiều vật. Chân lí
không phải là đồ vật. Một khi được diễn giải, một khi
tâm trí đã chộp lấy nó, định nghĩa nó, đánh dấu nó, thì nó
trở thành đồ vật.

Khi bạn phải lòng một người phụ nữ thì có chân lí
nào đó - nếu bạn đã yêu hoàn toàn không nhận biết, nếu
bạn không ‘làm’ nó theo bất kì cách nào, nếu bạn không
hành động, không điều khiển, nếu bạn thậm chí không
nghĩ về nó. Bỗng nhiên bạn thấy một người phụ nữ, bạn
nhìn vào mắt cô ấy, cô ấy nhìn vào mắt bạn, và một cái
gì đó nhoáng lên. Bạn không phải là người làm ra điều
đó, bạn đơn giản bị nó sở hữu, bạn đơn giản rơi vào trong
nó. Nó chẳng dính dáng gì tới bạn. Bản ngã bạn không
tham dự vào, ít nhất cũng không ngay chính lúc đầu, khi
tình yêu còn trinh bạch. Trong khoảnh khắc đó có chân
lí, nhưng không có diễn giải. Đó là lí do tại sao tình yêu
vẫn còn không định nghĩa nổi.

Chẳng mấy chốc tâm trí tới, bắt đầu quản lí mọi việc,
chiếm hữu lấy bạn. Bạn bắt đầu nghĩ về cô gái như bạn
gái của mình, bạn bắt đầu nghĩ về cách cưới, bạn bắt đầu
nghĩ về người phụ nữ như vợ bạn. Bây giờ những điều
này; nào bạn gái, nào vợ - đấy là các sự vật. Chân lí
không còn nữa, nó đã thoái lui lại. Bây giờ sự vật thành
quan trọng hơn. Cái định nghĩa được thì an toàn hơn, cái
không định nghĩa được thì bất an. Bạn đã bắt đầu giết
chết, đầu độc chân lí. Chẳng chóng thì chầy sẽ có một mất rồi, niềm vui đã biến mất, tuần trăng mật đã qua.
Tuần trăng mật trôi qua vào đúng khoảnh khắc mà
chân lí trở thành thực tại, khi tình yêu trở thành quan hệ.
Không may là tuần trăng mật rất ngắn ngủi - tôi không
nói về tuần trăng mật bạn vẫn nghĩ. Tuần trăng mật này
rất chóng vánh. Có thể trong một khoảnh khắc nó có đó,
nhưng cái thuần khiết của nó, cái thuần khiết như pha lê
của nó, điều thiêng liêng của nó, tính chất phía bên kia
của nó - nó là từ cái vĩnh hằng, nó không phải của thời
gian. Nó không phải là một phần của thế giới trần tục
này, nó giống như một tia sáng chiếu vào một lỗ đen. Nó
tới từ cái siêu việt. Hoàn toàn thích hợp để gọi tình yêu là
Thượng đế, bởi vì tình yêu là chân lí. Cái gần chân lí
nhất mà bạn thường đi tới trong cuộc sống thường ngày
là tình yêu.

Chidvilas hỏi: “Chân lí là gì?”
Việc hỏi phải biến mất; chỉ thế thì bạn mới biết.
Nếu bạn hỏi, “Chân lí là gì?” thì bạn đang hỏi gì
vậy? Nếu tôi nói A là chân lí, B là chân lí, C là chân lí,
đó có phải là câu trả lời không? Nếu tôi nói A là chân lí,
thế thì chắc chắn A không thể là chân lí: nó là cái gì đó
khác mà tôi đang dùng như một điều đồng nghĩa với chân
lí. Nếu nó là hoàn toàn đồng nghĩa, thế thì nó sẽ là sự lặp
lại không cần thiết. Thế thì tôi có thể nói, “Chân lí là
chân lí,” nhưng điều đó là xuẩn ngốc, vô nghĩa. Chẳng
giải quyết được gì cả. Nếu nó đích xác là một, nếu A là
chân lí, thế thì nó sẽ có nghĩa chân lí là chân lí. Nếu A là
khác, là không đúng chân lí, thế thì tôi đang bóp méo.
Thế thì việc nói A là chân lí sẽ chỉ là xấp xỉ. Và nhớ lấy,
không thể có bất kì xấp xỉ nào được. Hoặc là chân lí hoặc
là không. Cho nên tôi không thể nói A là chân lí.
Thậm chí tôi không thể nói, “Thượng đế là chân lí,”
bởi vì Thượng đế là chân lí thế thì đấy lại là lặp lại không
cần thiết - “Chân lí là chân lí.” Thế thì tôi chẳng nói điều
gì cả. Nếu Thượng đế là khác chân lí, thế thì tôi đang nói
điều gì đó, nhưng thế thì tôi đang nói một điều gì đó sai.
Thế thì Thượng đế là khác, thế thì làm sao ngài có thể là
chân lí được? Nếu tôi nói điều đó là xấp xỉ, về mặt ngôn
ngữ thì có vẻ được, nhưng điều đó không đúng. ‘Xấp xỉ’
có nghĩa là dối trá nào đó có đấy, điều gì đó sai sót có
đấy. Nếu không, tại sao lại không phải là chân lí một
trăm phần trăm? Nếu nó là chín mươi chín phần trăm
chân lí thì một cái gì đó còn đó mà không đúng. Và chân
lí và phi chân lí không thể cùng tồn tại với nhau, cũng hệt
như bóng tối và ánh sáng không thể cùng tồn tại với nhau
- bởi vì bóng tối không là gì khác ngoài sự thiếu vắng. Sự
thiếu vắng và sự hiện diện không thể cùng tồn tại với
nhau, chân lí và phi chân lí không thể cùng tồn tại. Phi
chân lí không là gì khác hơn việc thiếu vắng chân lí.
Cho nên không câu trả lời là điều có thể, do đó Jesus
vẫn còn im lặng. Nhưng nếu bạn nhìn vào điều đó với
thông cảm sâu sắc, nếu bạn nhìn vào im lặng của Jesus,
bạn sẽ có câu trả lời. Im lặng là câu trả lời. Jesus đang
nói, “Im lặng đi, như ta đang im lặng, và ông sẽ biết” -
không nói điều đó bằng lời. Đấy là một cử chỉ, nó rất, rất
giống thiền. Trong khoảnh khắc Jesus vẫn còn im lặng,
ông ấy tới rất gần với cách tiếp cận của thiền, cách tiếp
cận của Phật giáo. Ông ấy là vị phật trong khoảnh khắc
đó. Phật chưa bao giờ trả lời những câu hỏi này. Ông ấy
có mười một câu hỏi được liệt kê ra: bất kì chỗ nào ông
ấy cũng phái đệ tử đi tới và tuyên bố với mọi người, “Đừng bao giờ hỏi mười một câu hỏi này với Phật.” - câu hỏi nền tảng, câu hỏi thực sự có nghĩa. Bạn có thể hỏi bất
kì cái gì khác, và Phật bao giờ cũng sẵn sàng trả lời.
Nhưng đừng hỏi câu hỏi nền tảng, bởi vì cái nền tảng chỉ
có thể được kinh nghiệm. Và chân lí là nền tảng cơ bản
nhất; chính bản chất của sự tồn tại là chân lí.

Đi vào trong câu hỏi này đi. Câu hỏi này là có ý
nghĩa, nó đang nảy sinh trong tim bạn: “Chân lí là gì?” -
một ham muốn để biết cái đang đấy, đang nảy sinh. Bạn
đừng gạt nó sang bên, đi vào trong nó. Chidvilas, bất kì
khi nào điều ấy lại xảy ra, nhắm mắt lại, đi vào trong câu
hỏi này. Để cho câu hỏi trở thành rất, rất hội tụ lại -
“Chân lí... là... gì?” Bạn để cho việc tập trung lớn nảy
sinh ra. Quên hết mọi thứ, dường như toàn bộ cuộc sống
của bạn phụ thuộc vào câu hỏi đơn giản này, “Chân lí là
gì?” Bạn để nó trở thành vấn đề sống và chết. Và bạn
đừng cố gắng trả lời nó, bởi vì bạn không biết câu trả lời.
Câu trả lời có thể tới - tâm trí bao giờ cũng cố gắng
đưa ra câu trả lời - nhưng thấy sự kiện rằng bạn không
biết, rằng tại sao bạn lại hỏi. Cho nên làm sao tâm trí bạn
có thể đưa ra cho bạn câu trả lời được? Tâm trí không
biết, cho nên bảo tâm trí, “Im đi.” Nếu bạn biết, thế thì
không cần có câu hỏi đó. Bạn không biết, do đó mới có
câu hỏi.
Cho nên bạn đừng bị lừa phỉnh bởi đồ chơi của tâm
trí. Nó cung cấp đồ chơi: nó nói, “Đây, điều này được
viết trong Kinh thánh. Đây, điều này được viết trong
Upanishads. Đây là câu trả lời. Nhìn đây, điều này được
Lão Tử viết, đây là câu trả lời.” Tâm trí có thể ném tất cả
các loại kinh sách vào bạn: tâm trí có thể trích dẫn, tâm
trí có thể cung cấp từ kí ức. Bạn đã nghe nhiều điều, bạn
đã đọc nhiều điều; tâm trí mang tất cả những kí ức này.
Nó có thể lặp lại theo một cách máy móc. Nhưng nhìn
vào hiện tượng này: rằng tâm trí không biết, và tất cả
những cái tâm trí lặp lại đều là đồ vay mượn cả. Mà đồ
vay mượn thì chẳng ích gì.

Sự việc xảy ra tại đường giao xe lửa. Cổng đã bị
khoá lại, một con tầu sắp đi qua, và một người đang ngồi
trong xe ô tô, đợi cho tầu đi qua, vừa đọc sách. Một kẻ
say rượu đang ngồi bên cạnh cổng lại gần, gõ vào cửa sổ
của chiếc xe có điều hoà nhiệt độ. Người này mở cửa sổ
ra và nói, “Tôi có thể giúp gì được cho ông? Ông cần
giúp đỡ gì chăng?”
Và kẻ vô công rồi nghề nói, “Có đấy, trong hai ngày
nay tôi chưa được ăn gì hết cả. Ông có thể cho tôi hai
đồng ru pi không? Như thế sẽ đủ cho tôi, chỉ cần hai
đồng thôi.”
Người này cười to và nói, “Đừng bao giờ vay và
đừng bao giờ mượn tiền cả,” và giơ cuốn sách lên cho kẻ
vô công rồi nghề và nói, “Shakespeare - Shakespeare nói
thế đấy. Nhìn đây này.”
Kẻ vô công rồi nghề lôi trong túi mình ra một cuốn
sách bìa giấy rất bẩn thỉu và nói với người này, “Ông là
đồ mọt sách - D. H. Lawrence.”

Nhận biết về tâm trí đi. Tâm trí cứ liên tục trích dẫn,
tâm trí biết tất cả mà lại không biết tí gì. Tâm trí là kẻ giả
vờ. Nhìn vào hiện tượng này: điều này tôi gọi là sáng
suốt. Đấy không phải là vấn đề suy nghĩ. Nếu bạn nghĩ
về nó, đấy lại là tâm trí. Bạn phải nhìn thấu suốt. Bạn phải nhìn sâu vào trong chính hiện tượng này, vận hành
của tâm trí, cách thức tâm trí vận hành. Nó vay mượn từ
đâu đó, nó cứ vay mượn và tích luỹ. Nó là kẻ tích trữ,
tích trữ tri thức. Tâm trí trở thành rất hiểu biết, và thế thì
bất kì khi nào bạn hỏi một câu hỏi thực sự quan trọng,
tâm trí sẽ cho một câu trả lời rất không quan trọng về nó
- vô ích, giả tạo, rác rưởi.
Một người đem một con vẹt về từ tiệm vẹt. Ông chủ
tiệm cam đoan với người này con vẹt sẽ học nói chào
trong vòng nửa giờ thôi. Trở về nhà ông ta để cả giờ ‘xin
chào’ cho con vẹt, nhưng chẳng thấy lời nào từ vẹt cả.
Khi ông ta quay đi trong nỗi thất vọng sâu sắc thì con vẹt
nói, “Đám đánh nhau.”
Vẹt thì vẫn là vẹt thôi. Nó phải đã nghe câu này trong
tiệm vẹt. Còn người này thì cứ lặp lại mãi, “Xin chào, xin
chào, xin chào,” còn con chim thì nghe, và đợi cho anh ta
dừng lại. Thế thì nó mới có thể nói, “Đám đánh nhau!”
Bạn cứ hỏi tâm trí, “Chân lí là gì, chân lí là gì, chân
lí là gì?” Và khoảnh khắc bạn dừng lại, tâm trí sẽ lập tức
nói, “Đám đánh nhau” hay cái gì đó. Tâm trí sẽ cho bạn
câu trả lời. Nhận biết về tâm trí đi.

Tâm trí là quỉ, không có quỉ nào khác. Và đó là tâm
trí của bạn. Sáng suốt này cần phải được phát triển - hay
nhìn thấu suốt. Chặt tâm trí ra làm đôi bằng lưỡi kiếm sắc
bén. Lưỡi kiếm đó là nhận biết. Chém tâm trí ra làm đôi
và đi vào qua nó, đi ra ngoài nó! Và nếu bạn có thể đi ra
ngoài tâm trí, xuyên qua tâm trí, và một khoảnh khắc vô
trí nảy sinh trong bạn, thì có câu trả lời - không phải là
câu trả lời miệng, không phải là kinh sách được trích dẫn,
không phải là lời đánh dấu chú thích, mà đích thực là của
bạn, chứng nghiệm. Chân lí là kinh nghiệm về sự tồn tại.
Câu hỏi là có ý nghĩa mênh mông, nhưng bạn sẽ phải
rất tôn kính hướng về câu hỏi đó. Đừng vội vã tìm bất kì
câu trả lời nào, nếu không thì rác rưởi sẽ giết chết câu trả
lời. Đừng cho phép tâm trí giết chết câu hỏi. Và cách để
cho tâm trí giết chết câu hỏi là cung cấp câu trả lời, chưa
sống qua, chưa kinh nghiệm tới.
Bạn là chân lí! Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong
im lặng hoàn toàn, khi không một ý nghĩ nào chuyển
động, khi tâm trí không có gì để nói, khi không một gợn
sóng nổi lên trong tâm thức bạn. Khi không một gợn
sóng trong tâm thức bạn, tâm thức bạn vẫn còn không bị
quấy rối. Khi có một gợn sóng, có khuấy đảo.
Đi ra hồ. Khi đứng trên bờ, nhìn xuống bóng phản xạ
của mình. Nếu có sóng, gợn sóng trên hồ, và gió thổi,
bóng của bạn bị xao động. Bạn không thể nào hình dung
ra được cái gì là cái gì - đâu là mũi bạn và đâu là mắt bạn
- bạn chỉ có thể đoán. Nhưng khi hồ tĩnh lặng và gió
không thổi và không có một gợn sóng trên hồ, bỗng
nhiên bạn có đấy. Trong hoàn hảo tuyệt đối, sự phản xạ
có đấy. Hồ trở thành tấm gương.

Bất kì khi nào có một ý nghĩ chuyển qua tâm thức
bạn, nó đều bóp méo. Và có nhiều ý nghĩ lắm, hàng
nghìn ý nghĩ, liên tục xô tới, và bao giờ cũng là giờ cao
điểm.. Hai mươi bốn giờ một ngày đấy đều là giờ cao
điểm, và lưu thông cứ tiếp diễn mãi, và mỗi ý nghĩ lại
được gắn với hàng nghìn ý nghĩ khác. Chúng tất cả đều
nắm tay nhau và nối với nhau, gắn lẫn nhau và toàn bộ
đám đông ấy xô đẩy quanh bạn. Làm sao bạn biết được
chân lí là gì? Thoát ra khỏi đám đông này đi đã.
Đó chính là thiền là gì, thiền chính là tất cả những gì:
một tâm thức không tâm trí, một tâm thức không ý nghĩ, một tâm thức không có bất kì vẩn vơ nào - tâm thức
không vẩn vơ. Thế thì nó có đó trong tất cả vẻ đẹp đẽ và
phúc lành của nó. Thế thì chân lí có đó - gọi nó Thượng
đế, gọi nó là niết bàn, hay bất kì cái gì bạn thích gọi cho
nó. Nó có đó, và nó có đó như một kinh nghiệm. Bạn ở
trong nó và nó ở trong bạn.
Dùng câu hỏi này đi. Làm cho nó thấm nhuần hơn.
Làm cho nó thấm nhuần thế; đặt mọi thứ vào tình thế
nguy hiểm để cho tâm trí không thể đánh lừa bạn bởi
những câu trả lời hời hợt của nó. Một khi tâm trí biến
mất. Một khi tâm trí không còn chơi trò mẹo của nó nữa,
bạn sẽ biết chân lí là gì. Bạn sẽ biết nó trong im lặng.
Bạn sẽ biết nó trong nhận biết không suy nghĩ.


Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Buông xuôi của tôi là có định hướng. Tôi buông xuôi
để được tự do, cho nên nó không thực là buông xuôi
chút nào. Tôi đang quan sát nó, nhưng vấn đề là: đấy
bao giờ cũng là cái ‘tôi’ người đang quan sát. Do đó
mọi việc hiểu của quan sát đó chỉ làm mạnh thêm bản
ngã. Tôi cảm thấy bị bản ngã mình lừa.


Bạn vẫn chưa hiểu buông xuôi nghĩa là gì.
Điều đầu tiên cần phải nhớ về buông xuôi là: bạn
không thể làm được điều đó, đấy không phải là việc làm.
Bạn có thể ngăn cản nó không cho xảy ra, nhưng bạn
không thể điều khiển cho nó xảy ra được. Sức mạnh của
bạn về buông xuôi chỉ là phủ định; bạn có thể ngăn cản
nó, nhưng bạn không thể đem nó lại.
Buông xuôi không phải là cái gì đó mà bạn có thể
làm. Nếu bạn làm điều đó, đấy lại không phải là buông
xuôi, bởi vì người làm có đó. Buông xuôi là việc hiểu
biết vĩ đại rằng, “Tôi không có.” Buông xuôi là cái nhìn
sáng suốt rằng bản ngã không tồn tại, rằng, “Tôi không
tách biệt.” Buông xuôi không phải là hành động mà là
hiểu biết.

Tại chỗ đầu tiên bạn là sai lầm, tách biệt là sai lầm.
Không một khoảnh khắc nào bạn có thể tồn tại mà tách
biệt khỏi vũ trụ. Cây không thể tồn tại nếu bị bật rễ khỏi
đất. Cây không thể tồn tại nếu mặt trời biến mất ngày
mai. Cây không thể tồn tại nếu không có nước tới rễ của
nó. Cây không thể tồn tại nếu nó không được thở. Cây
bắt rễ vào tất cả năm yếu tố - điều phật tử gọi là
skandhas, uẩn, năm nhóm mà chúng ta nói tới hôm nọ.
Avalokita... khi Phật đi tới viễn kiến siêu việt, khi ông ấy
trải qua tất cả các giai đoạn này, khi ông ấy trải qua tất cả
các bậc thang của chiếc thang và đi tới bậc thứ bẩy - từ
đó ông ấy nhìn xuống, nhìn lại - ông ấy đã thấy gì? Ông
ấy đã thấy chỉ có năm hợp phần và chẳng có gì bản chất
trong chúng cả; chỉ là cái trống rỗng, shunyata.
Cây không thể tồn tại nếu năm yếu tố này không
thường xuyên được rót năng lượng vào nó. Cây chỉ là tổ
hợp của năm yếu tố này. Nếu cây bắt đầu nghĩ, “Ta đây,”
thế thì sẽ có khổ cho cây đó. Cây này sẽ tạo ra địa ngục
cho chính mình. Nhưng cây không đần độn đến thế,
chúng không mang bất kì tâm trí nào. Chúng có đó, và
nếu ngày mai chúng biến mất, thì chúng đơn giản biến đi.
Chúng không níu bám; không có ai để níu bám cả. Cây
thường xuyên buông xuôi cho sự tồn tại. Bởi việc buông xuôi điều đó có nghĩa là nó không bao giờ tách rời, nó không đi tới ý tưởng ngu đần về bản ngã. Và chim chóc
cũng thế, núi non cũng thế, các vì sao cũng thế. Chỉ duy
nhất con người đã chuyển cơ hội vĩ đại là tâm thức của
mình thành tự ý thức. Con người có tâm thức. Nếu tâm
thức trưởng thành, nó có thể đem bạn tới phúc lạc lớn
nhất có thể có. Nhưng nếu điều gì đó đi sai và tâm thức
trở thành xấu, trở thành tự ý thức, thế thì nó tạo ra địa
ngục, thế thì nó tạo ra khổ. Cả hai khả năng bao giờ cũng
để mở; vấn đề dành cho bạn chọn lựa.
Điều thứ nhất cần phải hiểu về bản ngã là ở chỗ nó
không tồn tại. Không ai tồn tại trong tách biệt cả. Bạn là
một với sự tồn tại cũng như tôi, như Phật, như Jesus. Tôi
biết điều đó, bạn không biết điều đó; khác biệt chỉ là ở
nhận biết. Khác biệt là không tồn tại, không tồn tại chút
nào! Cho nên bạn phải nhìn vào ý tưởng ngu đần này về
tách biệt. Bây giờ nếu bạn bắt đầu cố gắng buông xuôi,
bạn vẫn còn đeo mang cái ý tưởng về về tách biệt. Bây
giờ bạn đang nghĩ, “Ta sẽ buông xuôi, bây giờ ta đang
sắp buông xuôi” - nhưng bạn nghĩ bạn có đấy.

Khi nhìn vào trong chính ý tưởng tách biệt này, một
ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng bạn không tách biệt, vậy
làm sao bạn có thể buông xuôi được? Không có ai để
buông xuôi cả! Việc buông xuôi không có đó, không có
chút nào - chưa bao giờ thấy ở bất kì đâu cả. Nếu bạn đi
vào trong bản thân mình, bạn sẽ không tìm thấy người
buông xuôi ở đâu cả. Trong khoảnh khắc đó lại là việc
buông xuôi. Khi người buông xuôi không tìm thấy đâu,
thì trong khoảnh khắc đó là việc buông xuôi. Bạn không
thể làm ra điều đó. Nếu bạn làm điều đó, đấy là việc giả.
Từ cái giả chỉ có cái giả sinh ra. Bạn là giả, cho nên bất
kì cái gì bạn làm cũng đều sẽ giả, giả hơn. Và cái giả này
dẫn tới cái giả khác, và cứ thế mà tiếp diễn. Và cái giả
nền tảng là bản ngã, cái ý tưởng, “Ta là tách biệt.”
Bạn hỏi: “Buông xuôi của tôi là hướng đích.”
Bản ngã bao giờ cũng hướng đích. Nó bao giờ cũng
tham lam, nó bao giờ cũng chộp lấy. Nó bao giờ cũng
tìm kiếm thêm nữa, thêm nữa và thêm nữa; nó sống trong
cái thêm nữa. Nếu bạn có tiền, nó muốn có nhiều tiền
hơn; nếu bạn có nhà, nó muốn ngôi nhà to hơn; nếu bạn
có một người phụ nữ, nó muốn có người phụ nữ đẹp,
nhưng bao giờ cũng muốn nhiều hơn. Bản ngã thường
xuyên đói. Nó sống trong tương lai và trong quá khứ.
Trong quá khứ nó sống như một kẻ tích trữ - “Ta có cái
này và cái này và cái này.” Nó thoả mãn lắm khi: “Ta
được cái gì đó” - quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Nó cho
điều đó là một loại thực tại. Nó đưa ra khái niệm rằng,
“Khi ta có những thứ này, thì ta phải có đấy.” Và nó sống
trong tương lai với cái ý tưởng nhiều nữa. Nó sống như
kí ức và như ham muốn.

Mục đích là gì? Một ham muốn: “Ta phải đạt tới đó,
ta phải là cái đấy, ta phải đạt tới.” Bản ngã không, không
thể sống trong hiện tại, bởi vì hiện tại là thực còn bản ngã
là giả - chúng chưa bao giờ gặp nhau. Quá khứ là giả, nó
không còn nữa. Có thời nó có đấy, nhưng khi nó là hiện
tại thì bản ngã không có đó. Một khi nó đã biến mất,
không còn tồn tại nữa, bản ngã bắt đầu chộp lấy nó, tích
luỹ nó. Nó vồ lấy và tích luỹ những thứ chết. Bản ngã là
nấm mồ; nó thu thập các xác chết, những bộ xương chết.
Hay, nó sống trong tương lai. Lần nữa, tương lai lại
chưa có - nó là tưởng tượng, hư cấu, mơ mộng. Bản ngã
có thể sống với những cái đó nữa, rất dễ dàng; những cái
giả đi với nhau một cách hoàn hảo, trôi chảy lắm. Bạn cứ đem bất kì cái gì tồn tại lại và bản ngã biến mất. Do đó mới có nhấn mạnh ở trong hiện tại, ở đây và bây giờ.

Ngay khoảnh khắc này... Nếu bạn thông minh thì chẳng
cần phải nghĩ về điều tôi đang nói; bạn có thể đơn giản
thấy vào trong nó ngay chính khoảnh khắc này! Bản ngã
ở đâu? Có im lặng, và không có quá khứ, và không có
tương lai, chỉ khoảnh khắc này... và con chó này sủa.
Khoảnh khắc này, và bạn không có đấy. Bạn để khoảnh
khắc này có đấy, còn bạn thì không có đấy. Và có im
lặng mênh mông, có im lặng sâu lắng, bên trong và bên
ngoài. Và thế thì không cần phải buông xuôi bởi vì bạn
biết bạn không có đó. Việc biết rằng bạn không có đó
chính là buông xuôi.
Vấn đề không phải là buông xuôi cho tôi, vấn đề
không phải là buông xuôi cho Thượng đế. Vấn đề không
phải là buông xuôi chút nào. Buông xuôi là sáng suốt,
hiểu biết rằng, “Tôi không có đó.” Thấy ra, “Tôi không
có đó, tôi là cái không, cái trống rỗng,” thì buông xuôi
trưởng thành. Đoá hoa buông xuôi trưởng thành trên cây
của trống rỗng. Nó không thể nào là hướng đích được.
Bản ngã là hướng đích. Bản ngã khao khát về tương
lai. Nó có thể khao khát thậm chí cả kiếp sống khác, nó
khao khát cõi trời, nó khao khát niết bàn. Nó khao khát
cái gì cũng chẳng thành vấn đề - việc khao khát chính là
cái đang đấy, việc ham muốn chính là cái đang đấy, việc
phóng chiếu vào trong tương lai chính là cái đang đấy.
Nhìn nó đi! Nhìn vào trong nó đi! Tôi không nói nghĩ
về nó. Nếu bạn nghĩ về nó thì bạn lỡ. Nghĩ lại có nghĩa là
quá khứ và tương lai. Có cái nhìn vào nó - avalokita! -
nhìn vào trong nó. Từ tiếng Anh cho nhìn có cùng gốc
như avalokita. Nhìn vào trong nó, và làm điều ấy ngay
bây giờ. Bạn đừng tự nhủ, ‘Được, mình sẽ về nhà và thực
hiện điều đó.” Bản ngã đi vào, mục đích đã tới, tương lai
đã đi vào. Bất kì khi nào thời gian đi vào, bạn lại rơi vào
trong giả tưởng về tách biệt đó.
Ở đây, chính khoảnh khắc này. Và thế thì bạn bỗng
nhiên thấy mình có đấy, mà bạn chẳng đi đâu cả, mà bạn
chẳng tới bất kì đâu cả. Bạn bao giờ cũng ở đây. Ở đây là
thời gian duy nhất, không gian duy nhất. Bây giờ là sự
tồn tại duy nhất. Trong cái bây giờ đó, có buông xuôi.
“Buông xuôi của tôi là hướng đích,” bạn nói, “Tôi
buông xuôi để được tự do.”

Nhưng bạn là tự do! Bạn chưa bao giờ không tự do
cả. Bạn là tự do, nhưng lần nữa lại có cùng vấn đề: bạn
muốn được tự do, nhưng bạn không hiểu rằng bạn có thể
tự do chỉ khi bạn tự do khỏi chính mình - không có tự do
nào khác. Khi bạn nghĩ về tự do, bạn nghĩ dường như bạn
sẽ có đó và tự do. Bạn không có đó; sẽ có tự do. Tự do có
nghĩa là tự do khỏi cái ta, không phải là tự do của cái ta.
Khoảnh khắc nhà tù biến mất thì tù nhân cũng biến mất,
bởi vì tù nhân chính là nhà tù! Khoảnh khắc bạn thoát
khỏi nhà tù, bạn cũng không có đó. Có bầu trời thuần
khiết, không gian thuần khiết. Không gian thuần khiết đó
được gọi là niết bàn, moksha, giải thoát.
Cố hiểu thay vì cố đạt tới.
“Tôi đang buông xuôi để được tự do.”
Thế thì bạn đang dùng buông xuôi như phương tiện,
và buông xuôi là mục đích, là bản thân cái đích. Khi tôi
nói buông xuôi là mục đích, tôi không nói rằng buông
xuôi phải được đạt tới ở đâu đó trong tương lai. Tôi đang
nói rằng buông xuôi không phải là phương tiện, tự nó là
mục đích. Không phải là việc buông xuôi đem lại tự do,
buông xuôi là tự do! Chúng là đồng nghĩa, chúng có nghĩa một thứ. Bạn đang nhìn vào cùng thứ từ hai góc
khác nhau.

“Cho nên nó không phải là việc buông xuôi chút
nào.”
Điều ấy không là thực mà cũng chẳng không thực.
Điều ấy không phải là buông xuôi chút nào. Nó thậm chí
cũng chẳng phải là không thực.
“Tôi đang quan sát nó, nhưng vấn đề là: đấy bao giờ
cũng là cái ‘tôi’ người đang quan sát. Do đó mọi việc
hiểu của cái quan sát đó chỉ làm mạnh thêm bản ngã. Tôi
cảm thấy bị bản ngã mình lừa.”
Ai là cái ‘tôi’ này mà bạn đang nói tới, người cảm
thấy bị lừa bởi bản ngã? Nó lại chính là bản thân bản ngã
vậy. Bản ngã là cái mà nó có thể phân chia mình thành
nhiều đoạn, nhiều phần, và thế rồi trò chơi bắt đầu. Bạn
là kẻ đi săn và bạn là con mồi. Cũng giống như con chó
cố gắng cắn đuôi mình, và cứ nhảy vòng tròn. Và bạn
nhìn và bạn thấy cái ngớ ngẩn của nó - nhưng bạn thấy
cái ngớ ngẩn, con chó thì không thể thấy được. Nó càng
tìm đuôi thì lại càng khó cắn đuôi, nó lại càng trở nên
điên dại, nó lại càng nhảy nhiều hơn. Cái nhảy càng
nhanh và mạnh hơn thì đuôi cũng nhảy càng nhanh và
mạnh hơn. Và con chó không thể nào nhận ra điều gì
đang xảy ra: nó là kẻ vồ bắt vĩ đại thế về mọi thứ, thế mà
cái đuôi tầm thường này, mà nó lại không thể nào vồ bắt
được sao?

Đây chính là điều đang xảy ra cho bạn. Đấy là cái
‘tôi’ đang cố gắng vồ bắt, và người đó đồng thời là kẻ vồ
bắt lẫn cái bị vồ. Thấy cái kì cục của nó đi, và chính
trong cái nhìn thấy đó bạn sẽ được tự do với nó.
Chẳng có gì phải làm cả - không việc gì, tôi nói, bởi
vì bạn đã là cái bạn muốn trở thành. Các bạn là chư phật,
các bạn chưa bao giờ là cái gì khác. Thấy là đủ.
Và khi bạn nói rằng, “Tôi đang quan sát,” lần nữa
đấy lại là cái ‘tôi’. Quan sát, cái ‘tôi’ sẽ lại được tạo ra,
bởi vì quan sát là hành động, có nỗ lực trong đó. Bạn
đang quan sát - thế thì ai quan sát? Thảnh thơi đi. Trong
thảnh thơi - khi không có gì cần phải quan sát và không
có ai là người quan sát, khi bạn không bị phân chia thành
nhị nguyên - có nảy sinh một phẩm chất khác của chứng
kiến. Đấy không phải là quan sát, đấy chỉ là nhận biết thụ
động; thụ động, tôi nói - nhớ lấy. Chẳng có gì năng nổ
trong đó. Quan sát là rất năng nổ: nỗ lực cần có, bạn phải
căng thẳng. Nhưng đừng căng thẳng, cứ thảnh thơi. Chỉ ở
đó. Trong tâm thức đó khi bạn đơn giản ở đó, ngồi không
làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.
Đó là toàn bộ cách tiếp cận phật giáo: rằng bất kì cái
gì mà bạn làm cũng sẽ tạo ra và nâng cao người làm -
quan sát cũng vậy, suy nghĩ cũng vậy, buông xuôi cũng
vậy. Bất kì cái gì bạn làm cũng đều sẽ tạo ra bẫy. Chẳng
cần cái gì phải được làm về phần bạn cả. Chỉ cần có
đấy... và để mọi thứ xảy ra. Đừng cố gắng điều khiển,
đừng cố gắng thao tác. Để cho cơn gió thoảng qua, để
cho tia sáng mặt trời tới, để cho cuộc sống nhảy múa, và
để cho cái chết tới và để cho nó nhảy múa trong bạn nữa.
Đây là ý nghĩa của tôi cho tính chất sannyas: đấy
không phải là cái gì đó mà bạn làm, mà là khi bạn buông
bỏ tất cả việc làm và bạn thấy cái ngớ ngẩn của việc làm.
Bạn là ai để mà làm? Bạn chỉ là một con sóng trong đại
dương này. Hôm nay bạn có đấy, ngày khác bạn sẽ biến
mất; đại dương vẫn tiếp tục. Tại sao bạn phải lo nghĩ thế?
Bạn tới, bạn biến mất. Trong khi đó, với cái khoảng nhỏ bé này, bạn trở nên lo nghĩ và căng thẳng đến thế, và bạn mang tất cả những gánh nặng này trên đôi vai mình, rồi
bạn mang những tảng đá trên trái tim mình - chẳng bởi lí do gì hết cả.
Bạn tự do ngay chính khoảnh khắc này!

Tôi tuyên bố bạn đã chứng ngộ ngay chính khoảnh
khắc này. Nhưng bạn không tin cậy vào tôi. Bạn nói,
“Phải đấy, Osho, nhưng nói cho chúng tôi cách trở thành
chứng ngộ.”
Việc trở thành đó, việc đạt tới đó, ham muốn đó, cứ
tiếp tục nhảy trên mọi vật mà bạn có thể thấy. Đôi khi nó
là tiền bạc, đôi khi nó là Thượng đế. Đôi khi nó là quyền
lực, đôi khi nó là thiền - nhưng bất kì đối tượng nào, và
bạn bắt đầu vồ lấy nó. Không vồ bắt là cách sống cuộc
sống thực, cuộc sống đúng đắn, không vồ bắt, không sở
hữu.

Để cho mọi việc xảy ra, để cho cuộc sống là việc xảy
ra, và có niềm vui, có vui vẻ - bởi vì thế thì không có thất
vọng bao giờ, bởi vì ngay chỗ đầu tiên bạn chưa bao giờ
trông đợi vào bất kì cái gì. Bất kì cái gì tới cũng đều tốt,
đều được hoan nghênh. Không có thất bại, không có
thành công. Trò chơi thất bại và thành công đã bị loại bỏ.
Mặt trời tới vào buổi sáng và đánh thức bạn, còn mặt
trăng tới vào buổi tối và ca lên bài hát ru con và bạn đi
ngủ. Cơn đói tới và bạn ăn, và cứ thế mãi. Đó là điều các
thiền sư vẫn ngụ ý khi họ nói: Khi đói, ăn, khi buồn ngủ,
ngủ và chẳng có gì khác phải làm cả.
Mà tôi cũng không dậy bạn bất hoạt. Không nói đừng
đi và đừng làm, tôi không nói đừng kiếm cơm, tôi không
nói từ bỏ thế giới và phụ thuộc vào người khác và trở
thành kẻ bóc lột; không, không phải chút nào. Nhưng
đừng là người làm. Thế đấy, khi bạn đói, bạn phải ăn,
còn khi bạn phải ăn thì bạn phải ăn cơm - nhưng không
có ai làm việc đó. Chính bản thân cơn đói đang làm việc;
không có người nào khác làm việc đó. Chính bản thân
cơn khát đang đưa bạn hướng tới giếng hay hướng tới
sông. Chính bản thân cơn khát di chuyển; không có ai là
cơn khát. Bỏ danh từ và đại từ trong cuộc sống của bạn
và để động từ sống.

Phật nói: Chân lí là ở chỗ khi ông thấy một vũ công,
thì không có vũ công mà chỉ có điệu vũ. Khi ông thấy
sông, thì không có sông mà chỉ có việc sông chảy. Khi
chúng ta thấy cây, thì không có cây mà chỉ có việc thành
cây. Khi bạn thấy nụ cười, thì không có ai đang mỉm
cười, chỉ có nụ cười, cái cười. Khi bạn thấy tình yêu, thì
không có ai là người yêu mà chỉ có việc yêu. Cuộc sống
là quá trình.

Nhưng chúng ta đã quen nghĩ dưới dạng danh từ tĩnh
tại. Điều đó tạo ra rắc rối. Và chẳng có gì tĩnh tại cả - tất
cả đều là một luồng và tuôn chảy. Tuôn chảy với điều
này, tuôn chảy với dòng sông này, và đừng bao giờ là
người làm. Thậm chí khi bạn đang làm, cũng đừng là
người làm. Có việc làm nhưng không có người làm. Một
khi sáng suốt này lắng đọng vào trong bạn, chẳng có gì
khác cả.
Chứng ngộ không phải là cái gì giống như mục đích
phải đạt tới. Nó chính là cuộc sống bình thường này,
cuộc sống đơn giản này đang bao quanh bạn. Nhưng khi
bạn không tranh đấu, cuộc sống bình thường này trở
thành đẹp đẽ phi thường. Thế thì cây cối còn xanh hơn,
thế thì chim chóc cất tiếng hót còn nhiều cung bậc hơn, thế thì mọi thứ đang xảy ra xung quanh đều là quí giá...
thế thì đá cuội thông thường cũng là kim cương.
Chấp nhận cuộc sống đơn giản này, thông thường
này. Chỉ cần bỏ là người làm. Và khi tôi nói bỏ người
làm, bạn cũng đừng trở thành người bỏ! Cứ nhìn vào
trong thực tại này về nó, nó biến mất.

Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Liệu có khác biệt gì giữa ‘shunyavada’ của Nagarjuna
và ‘avyakritopadesh’, giáo huấn không nói ra và
không xác định nổi của Phật không?


Không có khác biệt chút nào. Nếu khác biệt dường
như có đó, đấy chỉ là bởi vì cách phát biểu. Nagarjuna* là
một triết gia vĩ đại, một trong những người vĩ đại nhất
thế giới. Chỉ vài người trên thế giới, rất ít người, mới có
phẩm chất xuyên thấu mà Nagarjuna có. Cho nên, cách
nói của ông ấy là rất triết học, logic, tuyệt đối logic. Phật
là nhà huyền môn, không phải triết gia. Cách nói của ông
ấy thì mang nhiều tính thơ ca hơn là triết lí. Cách tiếp cận
là khác, nhưng Nagarjuna nói đích xác hệt những điều
như Phật nói. Cách phát biểu của họ chắc chắn là khác
nhau, nhưng điều họ đang nói phải được hiểu.
Bạn hỏi - câu hỏi này là từ Omanath Bharti - “Liệu
có khác biệt gì giữa shunyavada...” Shunyavada có nghĩa
là lí thuyết, triết học về cái không. Trong tiếng Anh
không có từ nào có thể tương đương, xấp xỉ tương
đương, với shunya. Shunya có nghĩa là cái trống rỗng;
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Long Thọ bồ tát
nhưng không phải là cái trống rỗng tiêu cực, mà rất tích
cực. Nó có nghĩa là cái không, nhưng nó không đơn giản
nghĩa là cái không; nó có nghĩa là tính chất về cái không.
Shunya có nghĩa là hư vô, hư vô về mọi thứ. Nhưng bản
thân cái hư vô có đấy, với sự hiện diện hoàn toàn, cho
nên nó không chỉ là hư vô. Nó cũng tựa như bầu trời
trống rỗng, chính là không gian thuần khiết, nhưng nó có
đấy. Mọi thứ tới trong nó và đi, mà nó thì còn lại.
Shunya cũng tựa như bầu trời - sự hiện diện thuần
khiết. Bạn không thể động chạm tới nó mặc dầu bạn sống
trong nó. Bạn không thể thấy nó mặc dầu bạn chẳng bao
giờ có thể hiện hữu mà không có nó. Bạn tồn tại trong
nó; hệt như cá tồn tại trong đại dương, bạn tồn tại trong
không gian, trong shunya. Shunyavada có nghĩa là mọi
thứ nảy sinh ra từ cái không có gì.
Mới vài phút trước đây tôi đã nói cho các bạn về
khác biệt giữa chân lí và thực tại. Thực tại có nghĩa là thế
giới của các vật, còn chân lí có nghĩa là thế giới của cái
không có gì, cái không - shunya. Tất cả mọi vật đều nảy
sinh từ cái không và tan biến trở lại vào trong cái không.
Trong Upanishad có câu chuyện:
Svetaketu trở về nhà từ nhà thầy, trở về với bố mẹ
mình. Anh ta đã học tất cả. Bố anh ta, Uddalaka, một
triết gia lớn, nhìn vào anh ta và nói, “Svetaketu, con đi ra
ngoài và đem quả của cây ở đằng kia lại đây.”
Anh ta đi ra ngoài, đem lại quả cây. Và người bố nói,
“Đập nó ra. Con thấy gì trong nó?” Có nhiều hạt mầm
trong nó. Rồi người bố lại nói, “Lấy một hạt và đập nó
ra. Con thấy gì trong nó?”
Anh chàng ta nói, “Chẳng có gì ạ.” 

Thế là người bố nói, “Mọi thứ đều nảy sinh ra từ cái
không này. Cái cây lớn này, lớn đến mức một nghìn
chiếc xe bò kéo có thể ẩn dưới tán lá của nó, đã nảy sinh
ra chỉ từ một hạt mầm. Và con đập hạt mầm ra và con
chẳng thấy gì ở đó cả. Đây là điều bí ẩn của cuộc sống -
mọi thứ đều nảy sinh từ cái không. Và rồi một ngày nào
đó cái cây biến mất, và con cũng chẳng biết ở đâu; con
không thể tìm thấy nó ở bất kì đâu.”
Con người cũng vậy: chúng ta nảy sinh từ cái không,
và chúng ta là cái không, và chúng ta biến mất vào trong
cái không. Đây là shunyavada.
Và avyakritopadesh của Phật, giáo huấn không nói ra
và không định nghĩa nổi là gì? Nó cũng cùng là điều đó.
Ông ấy chưa bao giờ làm cho nó thành rõ ràng về mặt
triết học như Nagarjuna đã làm. Đó là lí do tại sao ông ấy
chưa bao giờ nói về nó. Đó là lí do tại sao ông ấy lại nói
nó là không thể nào xác định nổi; điều đó không thể nào
được đem tới mức độ của ngôn ngữ. Ông ấy giữ im lặng
về nó.

Bạn có biết Bài thuyết giảng Hoa không? Một hôm
ông ấy tới với hoa sen trong tay và ngồi im lặng, chẳng
nói điều gì. Và mười nghìn đệ tử có đó, mười nghìn khất
sĩ bhikkhus có đó, và họ cứ đợi ông ấy nói điều gì đó, còn
ông ấy thì cứ nhìn vào hoa sen. Có im lặng lớn lao, và
thế rồi có bất an lớn nữa. Mọi người bắt đầu bồn chồn -
“Ông ấy đang làm gì thế nhỉ? Ông ấy chưa bao giờ làm
như thế trước đây.”
Thế rồi một đệ tử, Mahakashyapa*, mỉm cười.
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Mahacadiếp
Phật gọi Mahakashyapa lại, trao cho ông ấy hoa sen,
và nói với toàn thể hội chúng, “Điều có thể nói ta đã nói
cho các ông, còn điều không thể nói ra được thì ta trao
cho Mahakashyapa.”
Đây là avyakritopadesh, đây là thông điệp không xác
định nổi. Đây là ngọn nguồn của thiền phật giáo, việc
truyền trao. Cái gì đó đã được Phật truyền cho
Mahakashyapa, điều gì đó là cái không; trên bình diện
thấy được thì là cái không - không lời, không kinh sách,
không lí thuyết - nhưng cái gì đó đã được truyền trao. Cái
gì vậy?

Các thiền sư đã từng thiền về điều này suốt hai nghìn
năm trăm năm: “Cái gì vậy? Cái gì đã được truyền trao?
Cái gì đích xác đã được trao?” Trong thực tế, chẳng có gì
đã được trao từ Phật sang Mahakashyapa; Mahakashyapa
chắc chắn đã hiểu điều gì đó. Ông ấy đã hiểu im lặng,
ông ấy đã hiểu im lặng xuyên thấu. Ông ấy đã hiểu
khoảnh khắc sáng tỏ đó, khoảnh khắc vô suy nghĩ hoàn
toàn đó. Ông ấy trở thành một, trong khoảnh khắc đó, với
Phật. Đó là buông xuôi là gì. Không phải là ông ấy làm
điều đó: Phật vẫn im lặng và ông ấy cũng im lặng, và
những cái im lặng đó gặp nhau, và hai cái im lặng đó tan
biến vào lẫn nhau. Và hai cái im lặng đó không thể vẫn
còn tách biệt được, nhớ lấy, bởi vì cái im lặng không có
biên giới, cái im lặng là vô biên, cái im lặng đơn giản là
cởi mở, cởi mở từ mọi phía. Trong hội chúng vĩ đại mười
nghìn sư có hai người im lặng vào ngày đó - Phật và
Mahakashyapa. Những người khác vẫn còn ở ngoài.
Mahakashyapa và Phật gặp nhau: đó là là lí do tại sao
ông ấy mỉm cười - bởi vì đó là buổi thuyết giảng lớn nhất
mà Phật đã giảng. Không nói lấy một lời mà ông ấy đã nói tất cả, tất cả những cái có thể nói - và tất cả những cái không thể nói nữa.

Mahakashyapa đã hiểu và cười to. Trong cái cười đó
Mahakashyapa biến mất hoàn toàn, trở thành vị phật.
Ngọn lửa từ chiếc đèn của Phật đã nhảy sang
Mahakashyapa. Điều đó được gọi là ‘việc truyền trao bên
ngoài kinh sách’ - Buổi thuyết giảng Hoa. Đó là điều duy
nhất trong lịch sử tâm thức con người. Đó là điều được
gọi là avyakritopadesh: lời không nói, lời không thốt ra.
Im lặng trở thành bản chất thế, rắn chắc thế; im lặng
trở thành thực thế, tồn tại đến thế; im lặng trở thành rõ
ràng đến thế trong khoảnh khắc đó. Phật là cái không,
Mahakashyapa cũng hiểu cái không nghĩa là gì, hoàn
toàn trống rỗng nghĩa là gì.

Không có khác biệt giữa shunyavada của Nagarjuna
và thông điệp không nói ra của Phật. Nagarjuna là một
trong những đệ tử vĩ đại nhất của Phật, và là một trong
những người hiểu biết sắc sảo nhất. Chỉ rất ít người - có
thời là Socrates, Shankara - có thể sánh được với
Nagarjuna. Ông ấy rất, rất thông minh. Điều tột bực mà
người hiểu biết có thể làm là tự tử; điều vĩ đại nhất, đỉnh
cao vĩ đại nhất mà có thể tới cho người hiểu biết là vượt
ra ngoài chính mình - đó là điều Nagarjuna đã làm. Ông
ấy đã vượt qua tất cả các lĩnh vực của hiểu biết, và vượt
ra ngoài.
Các nhà thực chứng logic nói rằng cái không đơn
thuần là trừu tượng. Trong những thể nghiệm khác nhau
của những câu phủ định - chẳng hạn: cái này không ngọt,
tôi không khoẻ, tôi không ở đó, anh ấy không thích tôi
vân vân và vân vân - thì phủ định không có bản chất của
riêng nó. Đây là điều các nhà thực chứng logic nói. Phật
không đồng ý, Nagarjuna không đồng ý. Martin
Heidegger, một trong những người hiểu biết sâu sắc nhất
của thời hiện đại, cũng không đồng ý.

Heidegger nói có một kinh nghiệm thực tại về cái
không. Đấy không phải chỉ là cái gì đó do ngôn ngữ tạo
ra; có một kinh nghiệm thực tại về cái không. Nó nhất
định không tách rời với sự hiện hữu. Kinh nghiệm xác
nhận cho điều này là kinh nghiệm về khiếp hãi.
Kierkegaard, triết gia Đan mạch, cũng hỏi, “Cái không
tạo ra hiệu quả gì?” và trả lời, “Nó gây ra khiếp hãi.”
Cái không là một kinh nghiệm thực tại. Hoặc bạn có
thể kinh nghiệm nó trong thiền sâu, hoặc khi cái chết tới.
Chết và thiền là hai khả năng kinh nghiệm nó. Thế đấy,
đôi khi bạn có thể kinh nghiệm nó cả trong tình yêu nữa.
Nếu bạn tan biến trong ai đó trong tình yêu sâu sắc thì
bạn có thể kinh nghiệm một loại cái không. Đó là lí do
tại sao người ta sợ tình yêu - họ chỉ đi sâu thế, rồi hoảng
sợ nổi lên, thế là họ sợ. Đó là lí do tại sao rất ít người vẫn
còn cực thích - bởi vì cực thích cho bạn kinh nghiệm về
cái không. Bạn biến mất, bạn tan ra trong cái gì đó và
bạn không biết nó là gì. Bạn đi vào trong cái không xác
định nổi, avyakrit. Bạn vượt ra ngoài xã hội. Bạn đi vào
trong một đơn vị nào đó nơi tách biệt là không hợp lệ,
nơi bản ngã không tồn tại. Và điều đó gây ra sợ, bởi vì nó
giống như chết.

Cho nên nó là kinh nghiệm, hoặc trong tình yêu, cái
mà mọi người đã học để tránh né - cho nên biết bao nhiêu
người cứ khao khát mãi tình yêu, và cứ phá huỷ tất cả các
khả năng cho nó bởi vì sợ cái không - hay, trong thiền
sâu khi ý nghĩ dừng lại. Bạn đơn giản thấy chẳng có gì
bên trong cả, nhưng cái không đó có sự hiện diện; nó
không đơn giản là việc thiếu vắng ý nghĩ, nó là sự hiện diện của cái gì đó chưa biết, bí ẩn, một cái gì đó rất lớn lao. Hay, bạn có thể kinh nghiệm nó trong cái chết, nếu
bạn tỉnh táo. Mọi người thường chết trong vô ý thức. Nếu
bạn chết có ý thức... Và bạn có thể chết có ý thức chỉ khi
bạn chấp nhận hiện tượng chết, và bởi điều đó mà người
ta phải học trong toàn bộ cuộc sống, để chuẩn bị. Người
ta phải yêu để sẵn sàng chết, và người ta phải thiền để
sẵn sàng chết. Chỉ người đã yêu và thiền mới có thể chết
có ý thức. Và một khi bạn chết có ý thức thế thì chẳng
cần cho bạn phải quay lại nữa, bởi vì bạn đã học bài học
cuộc sống. Thế thì bạn tan biến trong cái toàn thể; đó là
niết bàn.

Những nhà thực chứng logic nhìn rất logic, nhưng họ
bỏ lỡ điều gì đó - bởi vì thực tại thì còn nhiều hơn là
logic. Trong kinh nghiệm thông thường chúng ta chỉ đi
tới điều họ nói: cái ghế này ở đây, nó sẽ bị bỏ đi, thế thì
bạn sẽ nói không có ghế ở đó. Điều đó đơn giản chỉ ra
việc thiếu vắng - cái ghế đã bị bỏ đi. Đây là những thí dụ
thông thường về cái không: có thời đã có một ngôi nhà
và thế rồi nó đã bị triệt phá, nó không còn ở đấy nữa. Nó
chỉ là sự thiếu vắng.

Nhưng có cái không nằm sâu ở bên trong bản thể
bạn, tại chính cốt lõi. Tại chính cốt lõi cuộc sống, cái
chết tồn tại. Cái chết là trung tâm của cơn xoáy lốc.
Trong tình yêu bạn tới gần điều đó, trong thiền bạn tới
gần điều đó, trong cái chết vật lí bạn cũng tới gần điều
đó. Nó chính là việc đem lại cuộc sống, nó chính là việc
nâng cao cuộc sống. Người không thể ngủ sâu sẽ trở nên
ốm yếu, bởi vì chỉ trong giấc ngủ sâu, khi người đó chết
đi trong độ sâu nhất của mình, người đó mới thu lại cuộc
sống, năng lượng, sức sống. Buổi sáng người đó lại tươi
tắn và đầy say mê, thích thú - sống động, lại sôi nổi.
Học chết đi! Đó là nghệ thuật lớn lao nhất cần phải
học, kĩ năng lớn lao nhất có đó.
Quan điểm của Heidegger tới rất gần với quan điểm
của Phật, và ngôn ngữ của ông ấy rất hiện đại, đó là lí do
tại sao tôi trích dẫn ông ấy. Ông ấy nói: “Mọi sinh linh,
chừng nào đấy vẫn còn là một sinh linh, đều được tạo
nên từ cái không.” Có cả song hành với học thuyết Ki tô
giáo nữa - rất lôi thôi, bởi vì các nhà thượng đế học Ki tô
giáo không thể đảm đương được điều đó, nó là quá
nhiều. Học thuyết đó là creatio ex nihilo: sự sáng tạo là
từ cái không.

Nếu bạn hỏi nhà vật lí hiện đại, ông ta sẽ đồng ý với
Phật: bạn càng đi sâu hơn vào vật chất, mọi vật bắt đầu
biến mất. Một khoảnh khắc tới, khi nguyên tử bị phân
chia - vật hoàn toàn biến mất. Thế thì có các điện tử,
nhưng chúng không còn là vật nữa, chúng là cái không
vật. Rất khó để hiểu. Nhưng vật lí, vật lí hiện đại, đã tới
rất gần với siêu hình - bởi vì nó tới ngày một gần hơn với
thực tại hàng ngày. Nó đang tiến qua vật chất, nhưng đi
tới cái không. Bạn biết vật chất không tồn tại nữa trong
vật lí hiện đại. Vật chất chỉ là ảo tưởng: nó chỉ xuất hiện,
nó không có đó. Tính rắn chắc của nó, cái chất liệu của
nó, là ảo tưởng; chẳng có gì là bản chất cả, tất cả đều là
luồng và năng lượng. Vật chất không là gì ngoài năng
lượng. Và khi bạn đi sâu hơn vào trong năng lượng, thì
năng lượng cũng không phải là vật, nó là cái không-vật.
Cái chết là điểm mà tại đó tri thức thành giả tạm, và
chúng ta trở thành cởi mở với bản thể - cái đã từng là
kinh nghiệm của phật tử qua nhiều thời đại. Phật hay
phái các đệ tử của mình, khi có một ai đó chết, đến xem
thân thể đang cháy trên dàn hoả thiêu: “Thiền ở đó đi,
thiền về cái không của cuộc sống.” Cái chết là điểm mà tại đó tri thức thành giả tạm, và khi tri thức thành giả tạm thì tâm trí cũng giả nốt. Và khi tâm trí là giả thì có khả năng chân lí thấm vào bạn.

Nhưng mọi người không biết. Khi ai đó chết đi bạn
không biết phải làm gì, bạn rất bối rối. Khi ai đó chết đi,
đấy là khoảnh khắc lớn lao để thiền.
Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng mỗi thành phố đều cần
một Trung tâm chết. Khi ai đó hấp hối và cái chết của
người đó là sắp xảy ra đến nơi, người đó nên được
chuyển vào Trung tâm chết. Nó nên là một ngôi đền nhỏ
nơi những người có thể đi sâu vào thiền nên ngồi quanh
người đó, giúp người đó chết, và nên thực hành trong bản
thể người đó khi người đó tan biến trong cái không. Khi
ai đó biến mất trong cái không, năng lượng lớn được
thoát ra. Năng lượng đã có đó, bao quanh người ấy, đang
thoát ra. Nếu bạn ở trong không gian im lặng quanh
người đó, bạn sẽ tiếp tục cuộc hành trình lớn. Không
trạng thái phiêu diêu nào có thể đưa bạn tới được chỗ đó.
Người này tự nhiên để thoát ra năng lượng lớn; nếu bạn
có thể hấp thu năng lượng đó, bạn cũng sẽ có một loại
chết cùng với người đó. Và bạn sẽ thấy điều tối thượng -
ngọn nguồn và cái đích, cái bắt đầu và cái kết thúc.
“Con người là sinh linh mà qua đó cái không đi vào
trong thế giới,” Jean-Paul Sartre nói. Tâm thức không
phải là vật này hay vật kia, nó không phải là bất kì vật
nào cả; nhưng có chắc nó là bản thân nó không?
“Không,” Sartre nói, “chính xác vấn đề là không. Tâm
thức chưa bao giờ đồng nhất với chính mình. Do vậy, khi
tôi phản xạ bản thân mình, thì cái ta được phản xạ là
khác cái ta phản xạ. Khi tôi cố gắng phát biểu tôi là gì,
tôi thất bại, bởi vì trong khi tôi đang nói, cái tôi đang nói
trượt vào trong quá khứ và trở thành cái tôi đã là. Tôi là
quá khứ của mình và tương lai của mình, vậy mà tôi lại
không có. Tôi đã từng là người này, và tôi sẽ là người
khác. Nhưng trong hiện tại, có cái không.”

Nếu ai đó hỏi bạn, “Bạn là ai?” thì bạn sẽ định nói gì
nào? Hoặc bạn có thể trả lời từ quá khứ, mà không còn
nữa, hoặc bạn có thể trả lời từ tương lai, cái mà bạn còn
chưa có. Nhưng ngay khoảnh khắc này bạn là ai? Không
ai cả, cái không. Cái không này là chính cốt lõi, tâm điểm
- tâm điểm của bản thể bạn.
Cái chết không phải là chiếc rìu đốn ngã cây cuộc
sống, nó là quả trưởng thành trên cây đó. Cái chết chính
là chất liệu tạo nên bạn. Cái không là chính bản thể của
bạn. Việc đạt tới cái không này hoặc là qua tình yêu hoặc
là qua thiền, và người ta cứ có thoáng nhìn về nó. Đây là
điều Nagarjuna ngụ ý bởi shunya. Đây là điều Phật
truyền trao cái ngày hôm ấy khi ông ấy tiến hành Buổi
thuyết giảng Hoa. Đây là điều Mahakashyapa đã hiểu khi
ông ấy cười to. Ông ấy thấy cái không, và thuần khiết
của nó, hồn nhiên của nó, hồn nhiên nguyên thuỷ của nó,
toả sáng của nó, bất tử của nó - bởi vì cái không không
thể chết được. Mọi thứ đều chết; cái không là bất tử, vĩnh
hằng.

Nếu bạn bị đồng nhất với bất kì cái gì, bạn sẽ phải
chịu đựng cái chết. Nhưng nếu bạn biết rằng bạn là cái
chết, làm sao bạn có thể phải chịu đựng cái chết? Thế thì
chẳng cái gì có thể phá huỷ được bạn; cái không là không
thể huỷ diệt nổi.
Một chuyện ngụ ngôn của phật giáo kể rằng Diêm
vương hỏi một linh hồn mới tới liệu trong khi sống người
đó có gặp ba người đưa tin của cõi trời không. Và khi
người đó trả lời, “Không, tâu Diêm vương, tôi không gặp,” thì ông ấy lại hỏi liệu người đó có gặp một ông già còng lưng vì tuổi tác, hay một người nghèo khó ốm yếu
không bè bạn, hay một người chết không?

Phật tử gọi ba loại người này là ‘ba người đưa tin của
Thượng đế’: tuổi già, bệnh tật, cái chết - ba người đưa tin
của Thượng đế. Tại sao? - bởi vì chỉ qua những kinh
nghiệm này trong cuộc sống mà bạn mới trở nên nhận
biết về cái chết. Và nếu bạn trở nên nhận biết về cái chết
và bạn bắt đầu học cách đi vào trong nó, cách thức đón
chào nó, cách thức tiếp nhận nó, bạn được thoát khỏi
cảnh nô lệ, thoát khỏi bánh xe sống và chết.
Heidegger nói, và Soren Kierkegaard cũng nói thế,
rằng cái không tạo ra khiếp sợ. Đấy mới chỉ là một nửa
câu chuyện. Bởi vì hai người này chỉ là các triết gia, đó
là lí do tại sao điều ấy lại tạo ra khiếp sợ.
Nếu bạn hỏi Phật, Mahakashyapa, Nagarjuna, nếu
bạn hỏi tôi, thì cái chết được nhìn với chỉ một phần sẽ tạo
ra khiếp sợ; được nhìn một cách tuyệt đối, toàn bộ, thì nó
giải phóng bạn khỏi mọi khiếp sợ, khỏi mọi đau khổ,
khỏi mọi lo âu, nó giải phóng bạn khỏi luân hồi
samsara... bởi vì nếu bạn nhìn một phần thôi, nó tạo ra
sợ hãi rằng bạn đang sắp chết, rằng bạn sẽ trở thành cái
không, rằng chẳng mấy chốc bạn sẽ biến mất. Và tự
nhiên bạn cảm thấy bồn chồn, run rẩy, mất gốc. Nếu bạn
nhìn vào cái chết một cách toàn bộ, thế thì bạn biết bạn
là cái chết, bạn được tạo nên từ nó. Cho nên chẳng có gì
sắp biến mất cả, chẳng có gì sắp còn lại cả. Chỉ cái không
là có đấy.

Phật giáo không phải là tôn giáo yếm thế như nhiều
người đã từng coi là vậy. Phật giáo là cách thức gạt bỏ cả
lạc quan và bi quan, gạt bỏ nhị nguyên.
Bắt đầu thiền về chết đi. Và bất kì khi nào bạn cảm
thấy cái chết tới gần, đi vào trong nó qua cánh cửa tình
yêu, qua cánh cửa thiền, qua cánh cửa của người đang
chết. Và nếu một ngày nào đó bạn sắp chết - và ngày ấy
đang tới qua từng ngày một - đón nhận nó trong vui vẻ,
phúc lành. Và nếu bạn có thể đón nhận cái chết trong vui
vẻ và phúc lành, bạn sẽ đạt tới đỉnh lớn lao nhất, bởi vì
cái chết là đỉnh cao của cuộc sống. Ẩn giấu trong nó là
cực thích lớn nhất, bởi vì ẩn giấu trong nó là tự do lớn
nhất.

Cái chết đang làm tình với Thượng đế, hay Thượng
đế đang làm tình với bạn. Cái chết là cực thích toàn bộ,
vũ trụ. Cho nên vứt tất cả những ý tưởng rằng bạn đang
mang cái chết đi - chúng là nguy hiểm. Chúng làm cho
bạn đối kháng với kinh nghiệm lớn lao nhất mà bạn cần
phải có. Nếu bạn để lỡ cái chết, bạn sẽ được sinh ra nữa.
Chừng nào mà bạn còn chưa học được cách chết, bạn sẽ
còn tiếp tục được sinh ra nữa và nữa và nữa. Đây là bánh
xe, luân hồi samsara, thế gian. Một khi bạn đã biết đến
cực thích lớn nhất, thế thì không cần nữa; bạn biến mất,
và bạn vẫn còn trong cực thích đó mãi mãi. Bạn không
còn giống bạn, bạn không còn như một thực thể, bạn
không còn được xác định, được đồng nhất với bất kì cái
gì. Bạn vẫn còn như một tổng thể, không phải như bộ
phận.
Đây là shunyavada của Nagarjuna, và đây cũng là
thông điệp không nói ra, lời không nói ra của Phật.
Chúng cả hai là một. 



Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu, tôi sợ làm sannyasin, mặc dầu tôi bị
hấp dẫn ghê lắm. Tôi sợ bởi vì chồng. Tôi nghĩ anh ấy
sẽ có thể không hiểu điều đó.


Bạn không kính trọng mấy với chồng mình. Bạn có
cho là anh ấy ngu đần hay cái gì đó như thế không? Tại
sao anh ấy không thể nào hiểu được điều đó? Nếu anh ấy
yêu bạn, anh ấy sẽ hiểu điều đó. Tình yêu là hiểu biết.
Nếu anh ấy không yêu bạn, thế thì dù bạn có làm
sannyasin hay không, anh ấy cũng chẳng định hiểu bạn.
Điều thứ hai: nếu anh ấy không hiểu tính chất
sannyas của bạn, đấy là vấn đề của anh ấy. Bạn có cuộc
sống của bạn. Chớ bao giờ thoả hiệp, nếu không bạn sẽ
bị lỡ nhiều lắm đấy. Đừng bao giờ thoả hiệp! Nếu bạn
cảm thấy thích trở thành sannyasin, trở thành sannyasin
đi. Nhận lấy mạo hiểm đi. Nếu anh ấy yêu bạn thì không
có vấn đề gì, anh ấy sẽ hiểu - bởi vì tình yêu đem lại tự
do. Nếu anh ấy không yêu bạn thế thì sẽ có khó khăn cho
anh ấy, bởi vì anh ấy sẽ cảm thấy bạn đang thoát ra khỏi
sở hữu của anh ấy. Nhưng cúi mình trước khả năng như
thế là tự tử. Đó là vấn đề của anh ấy. Bạn phải sống cuộc
sống của bạn, anh ấy phải sống cuộc sống của anh ấy.
Không ai nên cố gắng áp đặt điều gì lên người khác.
Nhưng cảm giác của tôi là ở chỗ bạn chắc phải cũng
đang áp đặt mọi thứ lên anh ấy, đó là lí do tại sao bạn sợ.
Nếu bạn không áp đặt điều gì lên anh ấy, bạn có thể độc
lập. Nhưng đây là thu xếp đôi bên: mọi người là nô lệ lẫn
cho nhau, và bất kì khi nào bạn làm nô lệ của ai đó, thì
nhớ lấy, bạn đang làm cho ai đó thành thầy của bạn nữa.
Đấy là thu xếp lẫn nhau. Bạn phải cố gắng thao túng
chồng mình, bạn phải cố gắng áp đặt mọi thứ lên anh ấy,
bạn phải làm cho anh ấy thành què quặt. Bây giờ bạn
muốn được độc lập, anh ấy sẽ khẳng định sự độc lập của
mình nữa. Thế thì anh ấy sẽ thích đi theo đường riêng
của mình, và điều đó bạn không thể chịu được. Đó là sợ
hãi thật.

Nhưng nếu bạn không làm điều gì đó mà bạn thích,
cái điều bạn muốn làm, cái điều bạn muốn có, bạn sẽ
chẳng bao giờ có thể tha thứ cho anh ấy. Và bạn sẽ trả
thù, và bạn sẽ giận dữ, và bạn sẽ cuồng nộ - bởi vì bạn sẽ
thường xuyên nghĩ bạn muốn trở thành sannyasin, và chỉ
tại mỗi con người này... Và bạn sẽ cảm thấy bị nhốt vào
cũi, bị cầm tù. Không ai thích bị cầm tù cả. Thế thì người
ta ghét người là nguyên nhân cho cầm tù của mình, thế
thì người ta cố gắng trả thù theo nhiều cách tinh vi. Điều
đó sẽ phá huỷ hôn nhân của bạn.
Đừng bao giờ tạo ra tình huống như thế mà trong đó
bạn không thể nào tha thứ được cho người khác. Chỉ hai
người độc lập mới có thể tha thứ được cho nhau. Các nô
lệ không thể tha thứ được. Và ai mà biết được, điều đó có
thể giúp đỡ cho anh ấy nữa, theo cách nào đó.
Tôi đã đọc một chuyện tiếu lâm hôm nọ:
Hai nhà thám hiểm gặp nhau trong vùng hoang dã
Amazon. Việc trao đổi sau đây xảy ra.
Nhà thám hiểm thứ nhất: “Tôi đã đến đây bởi vì thôi
thúc đi lang thang trong máu mình. Nền văn minh làm tôi
ốm yếu. Tôi thích thấy tự nhiên dưới dạng nguyên sơ của
nó. Tôi thích đặt dấu chân mình lên những nơi mà con người còn chưa từng tới trước đây. Anh thì sao? Tại sao
anh tới đây?”

Nhà thám hiểm thứ hai: “Vợ tôi đã trở thành
sannyasin của Osho, và cô ấy đang luyện Thiền Động
vào buổi sáng và Kundalini vào buổi tối - đó là lí do tại
sao!”

Nhưng tốt! Nếu chồng bạn đi tới Amazon và trở
thành nhà thám hiểm, điều này đang cho anh ta cơ hội tốt
để làm điều gì đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến