Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

Sự tồn tại là một

Cái đó là hoàn hảo và cái này cũng là hoàn hảo.
Vì chỉ cái hoàn hảo được sinh ra từ cái hoàn hảo; và khi cái hoàn hảo được lấy đi từ cái hoàn hảo,
chú ý, cái còn lại là hoàn hảo. Om. An bình, an bình, an bình

Đấy là luật vĩnh hằng của sự tồn tại, rằng cái kết thúc là
được tìm thấy ở cái bắt đầu. Kết thúc là nơi bắt đầu có. Theo luật
vĩnh hằng này, Ishavanya kết thúc ở lời kinh mà nó bắt đầu.
Không có cách nào khác ngoài điều này. Mọi cuộc hành trình đều
là vòng tròn - bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng.
Những người đã hiểu luật này - rằng bước đầu tiên cũng là
bước cuối cùng - được cứu khỏi rối loạn vô dụng và xung đột của
các xúc động của tâm trí; họ được cứu khỏi những lo nghĩ và lo
âu vô tích sự của cuộc sống. Chúng ta đạt tới chỗ mà chúng ta đã
bắt đầu. Trạm đầu tiên của cuộc hành trình của chúng ta cũng là
trạm cuối cùng. Do đó chúng ta có thể du hành ở giữa rất vui vẻ,
bởi vì không có cách khác. Chúng ta sẽ không bao giờ tới chỗ mà
chúng ta không có. Dù chúng ta có thể làm nỗ lực lớn đến đâu
cũng không thành vấn đề, chúng ta không thể đạt tới nơi chúng ta
không có.

Chúng ta hiểu điều đó theo cách này: chúng ta chỉ có thể là
cái mà chúng ta đã là. Không có phương án nào khác. Cái được
ẩn kín trong chúng ta sẽ được lộ ra, và cái được lộ ra sẽ lại được
giấu kín. Hạt mầm sẽ mọc thành cây, và cây sẽ lại trở thành hạt
mầm. Đây là luật vĩnh cửu của cuộc sống. Lo âu và lo nghĩ của
những người đã hiểu thấu luật này tiêu tan hoàn toàn. Những đau
đớn tinh thần gấp ba của họ trở thành êm ả và im lặng. Thế thì
không còn lại lí do gì cho hạnh phúc - không có nguyên nhân để
bất hạnh khi chúng ta du hành tới đích của mình, và không có
nguyên nhân để hạnh phúc bởi vì chúng ta không thu được cái gì
chút nào, cái không có cùng chúng ta từ lúc bắt đầu. Để nêu ra
một chỉ dẫn, một hướng dẫn, về luật vĩ đại này, Ishavanya kết
thúc với lời kinh mà nó bắt đầu.

Cuộc hành trình mà chúng ta đã tiến hành ở giữa hai đầu này
là những cánh cửa tách bạch khác nhau để làm cho chúng ta có
khả năng hiểu được lời kinh này, để đi tới lời kinh này. Mỗi lời kinh đều là một
hướng dẫn để khuấy động việc nhớ lại của chúng
ta về đại dương vĩ đại đó, và mỗi bến bờ và mỗi nơi thiêng liêng
là một lời mời, một lời gọi, để con thuyền ta giương buồm lên.
Nếu bạn giữ lời kinh này trong tâm trí, bạn có thể đã quan sát
rằng lời kinh này được ẩn kín sâu trong nghĩa của mọi lời kinh.
Đó là lí do tại sao nó đã được công bố ngay từ đầu và bây giờ
công bố vào lúc cuối. Tôi đã nói với bạn ý nghĩa của nó từ ngay
ngày đầu tiên. Hôm nay tôi sẽ giải thích ý nghĩa bên trong của nó
- cái bản chất của nó.
Bạn có thể hỏi, “Cái gì là khác biệt giữa nghĩa và điều bản
chất?” Nghĩa là dáng vẻ bên ngoài, dạng biểu hiện, một vật, trong
khi bản chất là thứ giấu kín. Nghĩa là thân thể bên ngoài, bản chất
là linh hồn bên trong. Nghĩa cũng có thể được hiểu bởi trí tuệ,
nhưng bản chất chỉ có thể được hiểu thấu bởi trái tim. Nói chung,
nghĩa được giải thích lúc bắt đầu và không phải là bản chất. Còn
bây giờ, tại giai đoạn này, chúng ta đã nhìn qua nhiều cánh cửa
vào trong ngôi đền mà với nó lời kinh này được ngụ ý. Không chỉ
chúng ta đã đi tới hiểu nó về mặt trí tuệ, mà chúng ta còn cố gắng
hiều thấu nghĩa của nó bằng việc cũng đi vào trong thiền.

Đây là điều xảy ra duy nhất. Nhiều lời bình luận đã được đưa
ra về Upanishad này, nhưng đây là cơ hội đầu tiên trên trái đất
này khi lời bình luận đã được đi kèm với thiền. Cho nên một tìm
kiếm sâu xa về nghĩa biểu hiện của nó và về nghĩa bên trong của
nó đã được tiến hành đồng thời. Những lời của Upanishad đã
được giải thích trước đây, nhưng đây là cơ hội lần đầu tiên mà
qua đó một nỗ lực tích cực đã được thực hiện để nhảy vào nghĩa
bên trong của nó - linh hồn của nó. Bất kì điều gì tôi đã nói cho
các bạn đều với mục đích làm thành bàn nhảy cho bạn: mục đích
là việc nhảy. Đây là lí do tại sao tôi đi vào trong thiền vào cuối
mỗi lời kinh, để cho bạn có thể kinh nghiệm ý nghĩa của nó bằng
việc lấy cái nhảy vào trong nó.

Cho nên bây giờ tôi có thể nói cho bạn ý nghĩa bên trong của
nó. Bạn còn chưa xem xét nghĩa của những lời này thật đủ;
nhưng bạn đã làm được điều gì đó khác - bạn đã đạt tới im lặng,
bình thản. Những người hiểu những lời này đều có khả năng biết
được nghĩa, nhưng chỉ những người biết im lặng là có khả năng
biết nghĩa bên trong của nó, bản chất của nó. Nếu bạn đã đạt tới
dù chỉ chút xíu hương vị của im lặng, bạn sẽ có khả năng hiểu
nghĩa bên trong mà tôi đang định đi vào.

Điều đầu tiên tôi sẽ bảo bạn về nghĩa bên trong của lời kinh
này là ở chỗ nó đã tuyên bố rằng cuộc sống là phi logic. Điều này
không được nói ở bất kì đâu trong bao nhiêu từ của kinh này, chỉ
có hướng dẫn về nó thôi. Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn điều không
được nói ra, điều chỉ được hướng dẫn tới. Wittgenstein đã viết
một cuốn sách, Tractacus, mà có lẽ là cuốn sách quan trọng nhất
của thế kỉ này. Trong đó ông ấy đã nói, “Cái không thể được nói
ra phải không được nói ra: nó phải được bỏ lại không nói.” Ông
ấy nói thêm, “Cái không thể được nói ra có thể được chỉ ra.”
Nghĩa của ông ấy là ở chỗ một hướng dẫn, một chỉ dẫn, có thể
được đưa ra cho cái không thể được nói ra. Cái không thể được
nói ra và cái không nên được nói ra là nghĩa bên trong của kinh
này. Điều tôi đang làm bây giờ chỉ là cho bạn một số chỉ dẫn
hướng về nó.

Chỉ dẫn thứ nhất: Cuộc sống là phi lí, cho nên những người
cố gắng tìm kiếm cuộc sống là gì sẽ lang thang quanh cái chết.
Những người như thế không bao giờ có thể phát hiện ra bí mật
của cuộc sống. Làm sao bạn có được chỉ dẫn về cái phi lí từ lời
kinh này? Nó nói, “Cái hoàn hảo được lấy ra từ cái hoàn hảo.”
Điều phi lí đầu tiên là trong câu hỏi, “Làm sao cái hoàn hảo có
thể nổi lên từ cái hoàn hảo?” Vì không có không gian phụ bên
ngoài cái hoàn hảo, cái hoàn hảo có thể đi đâu được?” Purna
nghĩa là tuyệt đối, bên ngoài cái đó không có cái gì khác nữa; nếu
có bất kì cái gì khác, thế thì hoàn hảo sẽ là không hoàn hảo ngần ấy. Chưa bao giờ
có bất kì cái gì bên ngoài cái hoàn hảo, thậm
chí không có cả không gian, cho nên làm sao cái gì có thể đi ra từ
cái hoàn hảo được? Và giả sử nó có đi ra, nó sẽ đi đâu? Không có
lối ra. Nhưng lời kinh này khẳng định rằng cái hoàn hảo được lấy
ra từ cái hoàn hảo.

Không chỉ điều này, nhưng nó thêm cái phi lí nữa: “Sau khi
cái hoàn hảo được lấy ra khỏi cái hoàn hảo, cái còn lại là hoàn
hảo.” Nếu bất kì ai nhìn vào câu này theo quan điểm logic người
đó sẽ tuyên bố đó là phát biểu của người điên. Và nếu ai đó xem
xét nó theo quan điểm toán học, nó sẽ được thấy là không đúng
toàn bộ. Người đó sẽ nghĩ nó được ai đó viết ra, mà người viết
mất trí. Đây sẽ là ý kiến của bất kì ai xem xét nó theo quan điểm
logic hay toán học. Nhưng những người xem xét và suy nghĩ theo
cách này sẽ phạm phải sai lầm mà một thời đã mắc trong vườn.
Một người làm vườn nào đó mời bạn mình tới thăm hoa
hồng đẹp đã ra hoa trong vườn mình. Người bạn là thợ kim hoàn,
và người đó đến đó với một hòn đá thử. Khi thấy hoa hồng người
đó nói với bạn mình, “Tớ không tin phát biểu của cậu đơn giản
bằng việc nhìn hoa hồng. Cậu không thể lừa tớ được, tớ không
phải là trẻ con. Tớ kiểm tra vàng, cho nên việc kiểm tra hoa hồng
chỉ là trò chơi trẻ con. Tớ sẽ kiểm tra chúng.”
Người làm vườn hỏi, “Cậu kiểm tra hoa hồng thế nào?”
Anh bạn trả lời, “Tớ đã mang hòn đá thử đi theo đây.”
Người làm vườn trở nên bồn chồn và nghĩ, “Mình thật sai
lầm thì đi mời thằng cha này!”
Nhưng vào lúc đó anh thợ kim hoàn đã ngắt một đoá hoa và
kiểm tra nó bằng cách cọ xát nó vào viên đá thử. Người đó ném
đoá hoa xuống đất và nói, “Hòn đá thử đã chứng tỏ rằng không
có cái gì trong hoa này cả; nó là giả.”

Hiền nhân của lời kinh này sẽ cảm thấy hệt như người làm
vườn phải đã cảm thấy nếu ai đó cố hiểu lời kinh này theo quan
điểm logic. Hoa không được thử bằng đá thử cho vàng, và nếu ai
đó cố làm như thế, hoa không có lỗi; nó đơn thuần chứng tỏ cái
ngu xuẩn của người này. Về tất cả những lời kinh của Ishavanya,
điều này đặc biệt có hương vị của tự nhận ra. Điều này không thể
được kiểm tra bằng hòn đá thử của logic, và điều được áp dụng
hoàn toàn trong lời kinh này là không nên được thử như thế. Lời
kinh đang bảo chúng ta rằng nó sắp sửa nói một điều gì đó phi lí,
vượt ra ngoài logic, điều không thể xảy ra và vậy mà vẫn xảy ra,
điều không nên xảy ra và vậy mà vẫn cứ xảy ra, điều không có cơ
sở nào cho việc xảy ra của nó, điều không có cách nào được
chứng minh - và vậy mà nó xảy ra, và vậy mà nó hiện hữu!
Cuộc sống là phi lí: phát biểu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa
là những người cố gắng tìm ra nghĩa, tìm ra bí mật của cuộc sống
theo quan điểm toán học, logic, công lí, qui ước, quy định và luật
lệ, sẽ vẫn tiếp tục tìm mà không biết gì về nó.
Người thợ kim hoàn đã kiểm tra hoa bằng hòn đá thử. Nếu
bạn lấy đoá hoa đó vào phòng thí nghiệm khoa học và nói, “Đây
là một đoá hoa rất đẹp,” thế thì nhà khoa học nữa sẽ mổ xẻ mọi
phần của nó và nói, “Cái đẹp ở đây đâu rồi?” Ông ấy sẽ trích rút
từng yếu tố một và để rải rác chúng ra. Mỗi hoá chất sẽ được
phân tách và rồi ông ấy sẽ hỏi, “Cái đẹp đâu rồi?” Nó có nhựa
hoa, khoáng chất, hoá chất và tất cả những thứ như thế, nhưng
không có cái đẹp trong đó ở đâu cả. Nếu cái đẹp không được tìm
thấy trong phòng thí nghiệm của nhà khoa học, đấy không phải là
lỗi của hoa; không phải lỗi của nhà khoa học, vì phòng thí
nghiệm của ông ấy không có đó để phát hiện ra cái đẹp. Chiều hướng mà trong đó cái
đẹp có thể được thăm dò và đo đạc là
hoàn toàn khác.

Cho nên những người nghĩ về cuộc sống theo quan điểm
toán học có thể không bao giờ đo được nó, bởi vì cuộc sống về
cơ bản là bí mật. Tất cả tri thức của chúng ta, dù nó có thể lớn
đến đâu, đều dựa trên dốt nát; nó đơn giản hướng dẫn vào cái vẫn
còn được biết tới. Và khi chúng ta đi đến biết ngày càng nhiều
hơn, chúng ta hiểu chiều sâu của cái dốt nát của chúng ta. Chúng
ta không có khả năng bầy tỏ cuộc sống, và nếu chúng ta cố gắng,
chúng ta trở thành ngày càng bị vướng víu.

Tất cả nỗ lực của chúng ta để làm lộ nó ra cũng giống như
những cố gắng trong câu chuyện của Aesop mà tôi đã nghe. Câu
chuyện kể về con rết đang bước đi trên đường. Một con thỏ thấy
nó và rất lấy làm phân vân. Con thỏ có lẽ đã được dạy trong một
trường phái logic. Phân vân của nó là thế này: chân nào trong
một trăm chân của con rết giơ lên trước nhất? Rồi chân nào là
chân thứ hai cất lên? Chân nào thứ ba? vân vân. Làm sao con rết
có thể nhớ được trật tự cho cả trăm chân của nó? Nó sẽ không
vấp ngã khi bước chứ? Điều này chắc chắn là phải bị lẫn lộn.
Con thỏ bảo con rết dừng lại và trả lời câu hỏi của nó. Nó
nói, “Tớ là sinh viên logic và tớ rất phân vân khi ngắm nhìn cậu.
Chúng tớ bước trên bốn chân cho nên dễ dàng nhớ trật tự giơ
từng chân lên khi bước. Nhưng làm sao cậu nhớ được trật tự giơ
cho cả trăm chân thế vậy?

Con rết đáp, “Từ trước tới nay tớ bước đi rất dễ dàng; tớ
chưa bao giờ thấy cần phải nhớ đến trật tự giơ chân, và từ trước
tới nay tớ cũng chưa bao giờ nghĩ đến cách thức đó. Nhưng bây
giờ khi cậu hỏi tớ, tớ sẽ nghĩ về nó và giải quyết vấn đề của cậu.”
Con thỏ ngồi đó nhìn. Con rết cố gắng đưa chân lên nhưng bị
loạng choạng và ngã kềnh. Nó bây giờ gặp khó khăn. Với sự
buồn bã từ trong tim nó nói với con thỏ, “Anh bạn ơi, logic của
cậu làm cho tớ gặp khó khăn lớn rồi. Xin cậu cứ giữ lấy cái logic
cho cậu đi, và đừng hỏi câu hỏi của cậu với bất kì con rết nào
khác mà ngẫu nhiên đi qua cậu trên đường. Chúng tớ sống thoải
mái và hạnh phúc. Chân tớ chưa bao giờ gây khó khăn cho chúng
tớ - chúng chưa bao giờ đặt ra những câu hỏi như thế và chưa bao
giờ tranh luận về nó. Chúng tớ chưa bao giờ nghĩ chân nào phải
nâng lên trước hết rồi chân nào thứ hai. Chúng tớ không biết.
Ngần này là chắc chắn: cho tới nay tớ vẫn có thể bước được. Chỉ
từ bây giờ, vì cậu mà tớ thấy mình gặp khó khăn!”

Thế tiến thoái lưỡng nan của con người là ở chỗ con người
luôn ở trong tình huống khó xử như tình huống của con rết. Con
người không cần con thỏ phải đặt ra câu hỏi; con người tự đặt
câu hỏi cho mình và tạo ra hoài nghi và làm mình lâm vào vướng
víu. Con người tự hỏi mình những câu hỏi và đưa ra câu trả lời
của riêng mình. Câu hỏi dứt khoát là sai, cho nên câu trả lời trở
nên càng không đúng và lạc lối hơn. Mỗi câu trả lời làm nảy sinh
thêm các câu hỏi mới. Câu hỏi và câu trả lời cứ thế nhân lên, một
đống lộn xộn lớn được tạo ra, và con người trở nên ngày càng
khó xử cho tới khi một khoảnh khắc tới, lúc con người phân vân
đến mức không còn biết cái gì là cái gì nữa. Tất cả chúng ta đều
trong trạng huống khó xử này.

Ai đó nói với Thánh Augustine, “Tôi thấy rất bối rối bởi một
câu hỏi, và nếu ông làm ơn trả lời câu hỏi đó cho tôi, điều đó sẽ
làm tâm trí tôi được thảnh thơi. Tôi nghe nói ông là người có
học.”

Thánh Augustine nói, “Anh có thể đã nghe nói về điều đó,
nhưng vì anh nói với ta cho nên ta gặp khó khăn.”
Người này nói, “Ông gặp khó khăn gì vậy? Khó khăn chỉ
dành cho những người dốt nát như tôi thôi chứ.”
Thế rồi Thánh Augustine giải thích, “Ta đang gặp khó khăn
vì lần đầu tiên ta nghe thấy nói rằng ta là người có học, bởi vì
bây giờ ta đang cố gắng tìm ra xem tri thức này là ở đâu trong ta
mà ta tìm không thấy nó. Trong sai lầm, trong dốt nát, ta đã tin
vào điều đó lúc ban đầu. Nhưng bây giờ thật khó để cho ta tin
như vậy. Nhưng thôi được, cho ta biết câu hỏi của anh. Anh đã
tới từ nơi rất xa, cho nên hỏi câu hỏi của anh đi. Cho dù ta không
có khả năng trả lời nó, ít nhất thì anh cũng được nhẹ bớt rằng câu
hỏi đó đã được hỏi. Trong trường hợp ta có khả năng trả lời câu
hỏi của anh, anh có cho rằng câu hỏi là được trả lời đúng bởi ai
đó đưa ra câu trả lời không? Nhưng hỏi câu hỏi của anh đi.”
Người này hỏi, “Thời gian là gì?”

Thánh Augustine nói, “Anh đã hỏi một câu hỏi mà ta sợ anh
có thể hỏi. Có một số câu hỏi nào đó mà chúng ta giả thiết chúng
ta biết câu trả lời, nhưng khi chúng được hỏi ra, chúng ta bị mất
hút vì câu trả lời. Ta dứt khoát biết thời gian là gì, nhưng khi anh
hỏi câu hỏi này ta gặp khó khăn.”
Chừng nào ai đó còn chưa hỏi bạn câu hỏi này, bạn vẫn biết
rất rõ thời gian là gì. Bạn đón tầu hoả đúng giờ, bạn đón xe buýt
đúng giờ, bạn tới văn phòng đúng giờ và trở về nhà đúng giờ.
Cho nên bạn biết rất rõ thời gian là gì. Nhưng ngay khi ai đó hỏi
bạn câu hỏi đó, bạn lại trong khó xử như con rết. Bạn biết ngày
tháng, bạn có đồng hồ, lịch đang treo tường, và vậy mà không ai
có khả năng đưa ra câu trả lời đúng cho câu hỏi đó. Và các câu
trả lời đã được đưa ra đều giống như việc dò dẫm trong bóng tối -
không cái gì được thiết lập .

Nếu ai đó hỏi bạn, “Linh hồn là gì?” bạn không thể trả lời
nổi, vì bạn vẫn không biết, cho dù nó đã cùng với bạn từ ngày
bạn được sinh ra. Không chỉ có điều đó, những người biết đều
nói nó đã có đó từ trước khi bạn được sinh ra. Không có khó
khăn về nó cả chừng nào chưa ai hỏi về nó.
Nếu ai đó hỏi, “Tình yêu là gì?” thế thì cùng khó khăn ấy
nảy sinh. Mọi người đều làm tình, và cho dù họ không làm tình,
họ hành động dường như họ làm. Có biết bao chuyện tình đấy!
Mọi câu chuyện đều là chuyện tình, và chúng là về tình yêu bởi
vì con người vẫn còn chưa có khả năng làm tình thực sự cho nên
người đó lừa dối tâm trí mình bằng việc viết ra chuyện về nó.
Mọi bài thơ đều là thơ tình, và người không có tình yêu trong
cuộc đời mình bắt đầu viết thơ tình. Viết thơ là rất dễ, làm tình là
rất gay go. Thơ có thể được soạn theo các dòng vần điệu, nhưng
tình yêu chỉ có thể được làm ra bằng việc xé bỏ mọi dòng. Thơ
có cách đo và qui tắc của riêng nó, tình yêu hoàn toàn không có
thước đo hay qui tắc. Thơ có thể được học và có thể được soạn.
Nhưng không có cách nào, không thủ đoạn nào để học hay làm
tình yêu. Chúng ta thường xuyên nói về tình yêu, và vậy mà nếu
ai đó hỏi chúng ta, “Tình yêu là gì?” thế là chúng ta gặp khó xử
liền.

G.E. Moore là một nhà tư tưởng vĩ đại, có lẽ là vĩ đại nhất
trong thế kỉ này. Theo suy nghĩ logic của mình, ông ấy đã gây ấn
tượng lớn nhất lên tâm trí con người trong năm mươi năm qua.
Ông ấy đã viết một cuốn sách gọi là Principa Ethica - nguyên lí
về đạo đức. Ông ấy đã rất đau đớn khi viết cuốn sách này, làm
việc cần cù chỉ trên một câu hỏi: Tốt là gì? Và ông ấy đã lao
động vất vả để chuẩn bị công trình bất hủ này mà tôi nghĩ rằng
không người nào khác trong lịch sử loài người có thể đã làm việc
vất vả đến thế về một cuốn sách. Nó đã được chuẩn bị sau nhiều
năm lao động vất vả trong đó từng từ đều được cân nhắc và viết
ra sau rất nhiều suy nghĩ. Nhà logic học của đại học Oxford này,
nhà tư tưởng vĩ đại nhất này, trong kết luận cuối cùng của mình
đã nói rằng tốt là không thể định nghĩa nổi. Đến cuối cùng, ông ấy nói rằng việc
định nghĩa tốt cũng giống như định nghĩa mầu
vàng.

Nếu ai đó hỏi tôi, “Mầu vàng là gì?” tôi sẽ nói gì? Tôi chỉ có
thể nói, “Mầu vàng là mầu vàng.” Tôi có thể nói cái khác?
Nhưng đây có phải là định nghĩa không? Mọi người đều biết rằng
mầu vàng là mầu vàng. Bạn sẽ làm gì? Bạn có thể ngắt một đoá
hoa vàng và đưa nó ra, nói rằng, “Đây là mầu vàng - đây là đoá
hoa mầu vàng.” Nhưng Moore phản đối và nói, “Nó không phải
là mầu vàng.” Nó cũng giống như một bức tường sơn vàng. Bức
tường vàng không phải là mầu vàng. Có một mẩu vải vàng -
nhưng nó là mẩu vải nhuộm vàng, nó không phải là mầu vàng.
Một câu hỏi là, “Cái gì là tính vàng được thấy trong đoá hoa
vàng, bức tường vàng hay mẩu vải vàng?” Bây giờ bạn sẽ nói gì?
Bạn có thể nói, “Nó đây này, đừng lảm nhảm thêm nữa.” Moore
cũng nói điều này. Sau khi tiến hành công trình vất vả đến thế về
chủ đề này, ông ấy nói, “Nhiều nhất chúng ta có thể nói rằng đây
là tính vàng.” Chúng ta có thể cho chỉ dẫn, hướng dẫn mà thôi;
chúng ta không thể đưa ra định nghĩa của nó. Khi mà bạn không
thể định nghĩa được mầu vàng, bạn có dám định nghĩa Thượng
đế không? Nếu ai đó tới Moore và hỏi... nhưng cái ông Moore tội
nghiệp này bây giờ không còn nữa! Nếu ông ấy còn sống, tôi
nghĩ tôi tôi sẽ hỏi ông ấy - hay nếu tôi ngẫu nhiên gặp ông ấy
trong một kiếp khác tôi sẽ hỏi ông ấy, “Thượng đế có thể được
định nghĩa không khi ông thậm chí không có khả năng định nghĩa
được mầu vàng là gì không?”

Ngay cả các sự kiện vô ý nghĩa nhất của cuộc sống cũng
không thể được định nghĩa nổi; cho nên khi tôi nói cuộc sống là
phi lí, tôi ngụ ý nó là không thể định nghĩa được. Bạn có thể sống
cuộc sống, nhưng bạn không thể định nghĩa nó được, và nếu bạn
còn cố gắng định nghĩa nó, bạn sẽ phạm phải cùng sai lầm mà
hiền nhân của lời kinh này đã phạm phải. Ông ấy nói, “Cái hoàn
hảo đến từ cái hoàn hảo và phần còn lại là hoàn hảo.”
Đây là một loại thách đố, kiểu như công án mà thiền sư
Rinzai hay tạo ra. Những thầy này rất thích phát minh ra công án,
vì có thể trao hướng dẫn qua chúng. Khi ai đó tới họ để tìm kiếm
chân lí, họ sẽ nói, “Tìm cái đó về sau đi - ngay bây giờ ta có hơi
chút khó khăn, và anh có muốn giải quyết vấn đề cho ta trước hết
không.”

Người tìm kiếm sẽ hỏi, “Vấn đề của thầy là gì ạ?” Người đã
tới trong việc tìm kiếm chân lí quên mất rằng, “Bản thân mình đã
tới để tìm kiếm chân lí, làm sao mình có thể giải quyết vấn đề
của người khác được?”
Khi Rinzai nói, “Hỏi câu hỏi của anh sau, giải quyết vấn đề
của ta trước đi,” người này lập tức sẽ hỏi, “Vấn đề của thầy là gì
ạ?”

Người tới là một học trò cố gắng thành thầy giáo. Người đó
quên mất người đó đã tới để học. Người đó đáng phải nói, “Tôi
đã tới để học từ thầy. Làm sao tôi có thể giải quyết vấn đề của
thầy được? Bản thân tôi đang trong khó khăn.”
Nhưng Rinzai đã viết, “Ta đã giở thủ đoạn này với cả nghìn
người mà lần nào người ta cũng nói, “Vấn đề của thầy là gì? Xin
nói cho tôi.”

Rinzai đã tạo ra những vấn đề như thế mà không thể được
giải. Trong sự kiện thực tế các vấn đề là ở mức chúng không thể
được giải. Không vấn đề nào sẽ được giải quyết, bởi vì nó không
phải là nhân tạo. Nó mang tính tồn tại, nó có đó trong sự tồn tại.
Nếu nó là nhân tạo chúng ta có thể giải quyết được nó. Câu đố là
nhân tạo cho nên chúng ta có thể giải chúng. Sách số học của trẻ
con có câu hỏi bên trang này và câu trả lời bên trang kia. Không
thủ đoạn nào như thế là có thể có trong cuộc sống. Chúng ta
không thể lật trang cuộc sống để tìm câu trả lời cho một trong những vấn đề của
cuộc sống. Không bản sao của cuộc sống bất kì
ai có thể hữu dụng. Bạn sẽ bắt chước ai? Và bằng cách nào?
Tuyệt đối không có cách nào lật trang cuộc sống và tìm ra câu trả
lời cho vấn đề của bạn. Chỉ có vấn đề, không có câu trả lời nào
cả.

Rinzai giữ một vấn đề đặc biệt sẵn sàng. Ông ấy hay nói,
“Nghe đây, nếu anh giải quyết được vấn đề của ta, ta sẽ giải
quyết vấn đề của anh.” Người hỏi cảm thấy hài lòng là đã có một
người sẽ giải quyết vấn đề cho mình, với điều kiện là người đó
giải quyết vấn đề của người kia trước. Rinzai sẽ nói, “Khó khăn
của ta là ở chỗ ta để quả trứng ngỗng trong một cái bình. Một con
ngỗng con phá vỡ vỏ trứng chui ra và bắt đầu lớn lên. Ta vẫn
nuôi nó qua miệng bình. Bây giờ ta muốn lấy nó ra, nhưng nó đã
lớn nhiều đến mức cổ bình thành quá hẹp với nó; mà ta không
muốn đập vỡ bình vì nó rất giá trị. Bây giờ anh chỉ cho ta cách
giải quyết. Con ngỗng bị mắc vào trong bình, cổ bình quá hẹp nó
không chui ra được. Cho nên đừng nói, ‘Đem nó ra qua miệng
bình.’ Chúng ta đã thử điều đó rồi. Nếu nó vẫn còn ở đó lâu thêm
nữa nó chắc chết - và anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho điều đó!”
Khi nghe thấy điều này, phần lớn người hỏi đều trở nên rất
bồn chồn. Họ sẽ nói, “Điều này là không thể được. Thầy đang
định bảo chúng tôi cái gì?” Nhưng trong biến cố này một người
nói, “Tôi sẽ cố gắng, tôi đang nghĩ ra một lối thoát,” thế rồi
Rinzai sẽ nói, “Sang ngay phòng bên và thiền về nó. Đừng mất
nhiều thời gian, vì cuộc sống con ngỗng đang lâm nguy. Thiền
nhanh lên và sâu vào vì con ngỗng có thể chết vào bất kì lúc
nào.” Có một lối ra khác cho cái phòng bên đó, và khi Rinzai mở
cánh cửa sau nửa giờ, ông ấy bao giờ cũng thấy rằng người hỏi
đã chạy mất. Thế rồi Rinzai trở và bảo với bạn bè anh ta, “Cái
bình rỗng, con ngỗng ở ngoài!”

Chỉ một lần ông ấy nhận được đáp lại từ một người, nhưng
người đó không đến để hỏi điều gì từ Rinzai. Một sáng người đó
tới và ngồi gần Rinzai. Rinzai nói, “Anh muốn hỏi ta điều gì
không?”
Người này đáp, “Thầy muốn chỉ cho tôi điều gì chăng? Tôi
không muốn hỏi bất kì điều gì. Nếu ai đó háo hức phô bầy điều gì
đó, để cho người đó phô bầy điều đó!”

Rinzai sửng sốt bởi lời đáp và nghĩ, “Tay này thật nguy
hiểm. Nó hoặc sẽ giết chết con ngỗng hoặc đập vỡ cái bình!”
Nhưng bây giờ không có lối ra nào. Bởi vì điều này đã trở thành
một thực hành khá lâu, Rinzai không thể đừng mà không hỏi
người này về câu đố của mình. Ông ấy nói, “Không, ta không cái
gì để phô bầy cả. Thực ra, bản thân ta đang trong khó khăn.”
Người lạ yêu cầu Rinzai kể lại cho mình khó khăn của ông ấy.
Thế là Rinzai kể cho anh ta. Khi ông ấy vừa kết thúc, người này
đứng dậy, tóm cổ Rinzai. Rinzai phản đối, “Con ngỗng không ở
bên trong ta, nó ở trong cái lọ ấy.”
Nhưng người này nói, “Ta đang đem con ngỗng ra đây,” và
yêu cầu Rinzai nói, “Con ngỗng ở bên ngoài cái lọ!”
Rinzai nói, “Đúng, nó ở ngoài!”
Cuộc sống không phải là câu đố, và những người cố gắng
làm cho nó thành câu đố đều lâm vào khó khăn. Cuộc sống
không phải là vấn đề; những người làm nó thành vấn đề đều phải
tìm kiếm câu trả lời của nó, và mọi câu trả lời chỉ làm cho họ
phân vân nhiều hơn nữa. Cuộc sống là bí ẩn để mở - tuyệt đối để
mở trước mắt bạn và tất cả quanh chúng ta. Nó không bị che giấu
ở đâu cả, nó không bị khuất sau bất kì tấm rèm nào, và vậy mà nó
là một bí ẩn.

Có khác biệt giữa bí ẩn và câu đố. Câu đố có nghĩa là cái
không mở nhưng có thể được mở ra. Bí ẩn nghĩa là cái đã mở và
vẫn còn không mở; cái mà, qua việc mở ra, vẫn còn sâu lắng đến
mức mặc cho các cuộc hành trình vô số kiếp của bạn, bạn sẽ thấy
rằng bao giờ cũng có cái gì đó còn lại để được biết. “Cái toàn thể
đến từ cái toàn thể, và vậy mà cái toàn thể còn lại, và khi cái toàn
thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn còn nhiều như nó
trước đó.” Lời kinh này hướng dẫn vào sự kiện là người đồng ý
với nó có thể đi vào bí ẩn này. Và người không đồng ý với nó,
nói điều ấy là không thể được, sẽ vẫn còn bên ngoài cánh cửa.
Người đó không thể đi vào được. Cuộc sống là bí ẩn; nó nằm
ngoài logic và hợp lí.

Qui tắc của logic do trí tuệ con người lập ra. Chúng không
được viết ở đâu trong tự nhiên. Tự nhiên không hỗ trợ cho các
qui tắc logic. Chúng là nhân tạo và tạm thời, mặc dầu chúng ta
quên mất rằng chúng là thế. Mọi qui tắc của chúng ta đều giống
thế này, giống qui tắc của trò chơi. Chẳng hạn, trong trò chơi cờ
vua, có quân đầu ngựa và quân cờ thấp và vân vân. Có các qui
tắc qui định nước đi của chúng, và người chơi cờ chơi với sự
nghiêm chỉnh lớn. Sự kiện là, người ta dường như không nghiêm
chỉnh trong cuộc sống như họ nghiêm chỉnh khi chơi cờ. Nếu cãi
cọ nảy sinh giữa những người chơi, có khi họ còn đánh lẫn nhau,
kiếm lăm lăm trong tay. Quân cờ tất cả đều làm bằng gỗ, và vậy
mà người chơi quên mất và hành xử như trẻ con. Thực tế thì
không có quân đầu ngựa, quân cờ thấp, quân vua; toàn bộ trò
chơi chỉ là giả vờ.

Mọi qui tắc của logic trong cuộc sống đều giống như qui tắc
của cờ vua - chúng đều là giả. Không có qui tắc nào đã được
cuộc sống hay tự nhiên trao cho. Tất cả đều là việc chúng ta bắt
chúng ta phải theo. Các qui tắc của chúng ta giống như luật giao
thông. Ở Ấn Độ mọi người đi bên trái, ở Mĩ người ta đi bên phải.
Nếu bạn phá luật này hoặc ở Ấn Độ hoặc ở Mĩ, bạn sẽ bị đưa về
đồn cảnh sát. Mọi người rất kì lạ. Nhưng một điều là chắc chắn:
bạn phải lái xe hoặc bên trái hoặc bên phải, bằng không sẽ có hỗn
độn trên đường. Và trong khi lái xe ở bên trái, dần dần chúng ta
bắt đầu nghĩ rằng có một nguyên tắc nền tảng nào đó, tối thượng
nào đó trong nó. Không có cái gì thuộc loại đó. Nó đơn thuần chỉ
là sự thu xếp nhân tạo.

Mọi qui tắc logic của chúng ta đều là phương sách, cần cho
việc điều chỉnh cuộc sống chúng ta; nhưng dần dần chúng ta trở
nên bị mắc bẫy bởi chúng đến mức chúng ta cố gắng áp dụng
chúng cho toàn thể bí ẩn của cuộc sống. Chúng ta cố gắng đảm
bảo rằng cuộc sống của chúng ta tuân theo chúng. Một người trở
nên lập dị khi người đó làm cho cuộc sống của mình phải tuân
theo qui tắc của riêng mình. Đây là đặc trưng chính của người
điên. Tôi gọi một người là lành mạnh khi người đó cư xử với bản
thân mình theo điều bí ẩn của cuộc sống, và tôi gọi một người là
điên khi người đó cố gắng ép buộc các qui tắc của riêng mình lên
cuộc sống của mình. Đó là khi khó khăn đi vào cuộc sống người
đó; và chúng ta đã chất đầy các qui tắc quanh các kiếp sống của
mình.

Sẽ dễ dàng hiểu được lời kinh này nếu chúng ta hiểu một
hoặc hai qui tắc của logic. Một trong những qui tắc cơ bản của
logic là ở chỗ A là A và không thể là B. Như thế cũng được,
tuyệt đối đúng, nhưng không có cái gì trong cuộc sống mà sẽ
không đổi thành cái gì đó khác. Không có gì trong cuộc sống mà
sẽ không đổi thành cái đối lập của nó. Mọi thứ trong cuộc sống
đều là luồng, mọi thứ đều thay đổi. Đêm đổi thành ngày và ngày
đổi thành đêm. Tuổi thơ đổi sang tuổi thanh niên và tuổi thanh
niên đổi sang tuổi già. Sống đổi vào trong chết. Đôi khi chất độc
đổi thành nước cam lồ. Tất cả thuốc đều là chất độc, nhưng
chúng là nước cam lồ cho người ốm. Có tính luồng chảy trong
cuộc sống, nhưng có tính cứng nhắc trong các qui tắc bởi vì
chúng không sống.

Có biết bao nhiêu người ngồi trong phòng này. Giả sử tôi rời
đi, quay trở lại sau một giờ, và tôi trông đợi bạn vẫn cứ ngồi tại
cùng chỗ và trong cùng vị trí khi tôi rời đi; thế thì hoặc tôi là lập
dị hoặc bạn là lập dị. Nếu tôi thấy bạn vẫn là bạn như lúc tôi rời
đi, thế thì bạn hiện hữu! Chắc chắn phải có một thay đổi nào đó,
bằng không xác chết phải đang ngồi đó. Người sống chắc chắn
phải thay đổi vị trí và tư thế.
Một tình huống khó xử khá giống tình huống này đã có thời
xuất hiện trong một thị trấn nào đó. Một nhà logic - và cũng khó
mà nhớ được số những điều khó xử của nhà logic - đến một cửa
hiệu cắt tóc vào sáng sớm để cắt tóc. Ông ấy cắt tóc xong. Tiền
cắt tóc là năm mươi xu, và nhà logic đưa cho ông thợ cắt tóc một
đồng ru pi. Không có tiền trả lại, ông thợ cắt tóc bảo khách hôm
sau quay lại để lấy tiền thừa. “Làm sao mình có thể chắc chắn
được rằng cho tới mai gã này sẽ không đổi lời hứa hay đổi nghề
đây?” nhà logic nghĩ thầm.

Nói chung các nhà logic đều đòi hỏi bằng chứng. Ông ta biện
luận với bản thân mình, “Thế nhỡ gã này đổi nghề vào ngày mai
thì sao? Thế nhỡ gã đóng cửa hàng cắt tóc và mở cửa hàng kẹo
thì sao? Người ta sẽ cười mình nếu mình nói gã này đã cắt tóc
cho mình. Họ sẽ nói, ‘Nhưng ông ấy là người bán kẹo cơ mà!’
Cho nên ta phải nghĩ ra một thủ đoạn nào đó để cho gã không thể
lừa được mình.”

Ông ta nghĩ rất lâu, thế rồi ông ta thấy một con trâu đang
nằm đối diện với cửa hàng cắt tóc. Ông ta nghĩ, “Điều này thật
hoàn hảo! Rất khó để mà di chuyển được con trâu. Nó là con vật
bình thản và điềm tĩnh - giống hệt các qui tắc của logic. Nó nằm
kiên quyết trên đường, phớt lờ mọi qui tắc giao thông. Ông thợ
cắt tóc không bao giờ có thể thuyết phục được nó di chuyển. Làm
sao ông thợ cắt tóc có thể thuyết phục được nó khi mà ngay cả
nhà logic còn không làm được nữa là?”

Ông ta về nhà sau khi đã thiết lập chắc chắn rằng con trâu
vẫn nằm đối diện với cửa hàng cắt tóc này. Hôm sau ông ta trở
và thấy con trâu vẫn nằm đó. Nhìn sang phía đối diện, ông ta thấy
rằng mối phiền luỵ mà ông nghi ngờ đã diễn ra. Phía đối lập con
trâu là cửa hàng kẹo. Ông ta chạy vào, tóm cổ người bán kẹo và
nói, “Ta đã nghi ngờ điều này từ hôm qua rồi, cho nên ta đã nghĩ
ra một kế hoạch để làm thất bại cái mẹo vặt của mi. Thế này thì
quá lắm! Mi đã thay đổi cả nghề nghiệp của mình chỉ để giữ lấy
vài đồng xu!” Nhà logic tội nghiệp không biết rằng con trâu
không tuân theo qui tắc của logic. Nó không phải là con vật cố
định, đứng im; trong đêm nó đã di chuyển và nằm đối diện với
cửa hàng của người bán kẹo.

Các qui tắc của logic là phi cuộc sống. Cuộc sống là luồng
sống động, luồng chảy. Những người coi các qui tắc của logic là
có giá trị và cố gắng sống tương ứng theo chúng đều kết thúc với
việc giữ những thứ chết trong tay họ, nhưng những người thoát
khỏi mạng lưới logic và nhảy vào trong cuộc sống có khả năng
biết tới điều bí ẩn của cuộc sống. Đó là lí do tại sao lời kinh này
nói tới việc phá vỡ mọi mạng lưới logic. Tôi đang nói cho bạn về
điều hướng dẫn, điều chỉ dẫn bên trong lời kinh này, không phải
về câu chữ thực tại của nó. Tôi đã giải thích nghĩa của nó cho bạn
vào ngày đầu tiên. Đây là nghĩa bên trong của nó. Phá vỡ mọi qui
tắc của logic đi, bởi vì nếu bạn tuân theo chúng sẽ khó khăn cho
bạn đi vào cuộc sống.

Plato là một nhà logic rất vĩ đại sống ở Hi lạp hai nghìn năm
trăm năm trước. Ông ấy đáng được gọi là là cha đẻ của logic.
Ông ấy đã có một hàn lâm viện rất nổi tiếng tại đó ông ấy dạy
logic cho sinh viên. Một nhà huyền môn lang thang tên là
Diogenes có lần tới hàn lâm viện này. Ông ấy là một nhà huyền
môn tinh quái và vui đùa; có rất ít người giống ông ấy. Giống
như Mahavira, ông ấy thậm chí đã vứt bỏ quần áo của mình. Khi
ông ấy tới Plato đang dạy trong lớp, giải thích các nguyên lí của
logic. Plato được biết tới trong nước chúng ta như Afalatoon. Do
đó, nếu một ai đó làm phiền nhiễu mọi người với những biện
luận và qui tắc logic, người đó bị chế nhạo bởi cái tên Afalatoon.
Plato là một nhà logic lừng dang đến mức nếu ai đó bắt đầu tranh
luận một cách logic, cho dù trong một làng nhỏ, mọi người đều
sẽ nói, “Ông ta là một Afalatoon lớn,” cho dù người ta không biết
Afalatoon là ai.

Diogenes đã tới hàn lâm viện nơi Plato đang dạy học. Vào
khoảnh khắc đó một sinh viên đứng dậy và yêu cầu Plato định
nghĩa về con người. Plato nói, “Con người là một con vật hai
chân không có lông vũ.” Đứng sau người thầy, Diogenes lắng
nghe, và ông ấy cười to khi nghe thấy định nghĩa này. Plato nhìn
quanh, rồi hỏi ông ta, “Sao ông cười?”
Ông ấy đáp, “Tôi đang định đi tìm câu trả lời cho định nghĩa
này.” Ông ấy đi ra ngoài, bắt lấy một con gà, con gà trống, nhổ
hết lông. Ông ấy đem con gà trống vào lớp và nói, “Đây là định
nghĩa của ông về con người. Nó không có lông vũ, và có hai
chân.” Thế rồi ông ấy yêu cầu Plato đưa ra một định nghĩa khác,
“Và khi ông nêu ra định nghĩa, xin cho tôi biết, và tôi sẽ đem
cho ông câu trả lời khác!”

Tương truyền rằng Plato không bao giờ đưa ra định nghĩa
khác. Ông ta biết Diogenes là một tay chuyên gây rối. Bản thân
ông ta đã từng thấy cách thức ông này vặt lông con gà rồi đem nó
vào cho ông, và ông ta nghĩ, “Ai mà biết tay này sẽ làm cái gì
tiếp nữa đây?” Diogenes đến hàn lâm viện nhiều lần để tìm xem
liệu Plato có đưa ra định nghĩa nào khác không. Cuối cùng Plato
trở nên bồn chồn và nói, “Này ông bạn, xin lỗi ông, tôi đã phạm
phải sai lầm trong việc định nghĩa con người theo cách này. Ông
còn định quấy rối tôi bao lâu nữa?”
Diogenes đáp, “Tôi muốn nghe ông thú nhận về sai lầm của
ông. Tại sao nói về con người? Ngay cả một mẩu đá cũng không
thể được định nghĩa. Cuộc sống là không định nghĩa được, không
định nghĩa nào là có thể có cho bất kì cái gì. Tôi muốn ông thú
nhận sai lầm của ông. Bây giờ tôi sẽ đi. Tôi cũng phát chán về
cách định nghĩa của ông.”

Các qui tắc của logic là cố định, trong khi cuộc sống tuôn
chảy. Con sóng này đổi thành con sóng khác. Trong khi bạn đang
định nghĩa thứ này, cái gì đó khác đang xảy ra cho nó trong cùng
lúc. Trước khi bạn kết thúc coi một người là giận dữ, người đó đã
bắt đầu yêu cầu bạn tha thứ. Thế thì bạn sẽ làm gì? Sự kiện là ở
chỗ cơn giận dữ rất có thể đã biến mất trước khi bạn kết thúc việc
nói rằng người này đang giận dữ - cái gì kéo dài mãi trong cuộc
sống này? - cho nên định nghĩa của bạn sẽ không đúng.
Các định nghĩa bao giờ cũng là về quá khứ, trong khi cuộc
sống bao giờ cũng là hiện tại. Cuộc sống là thay đổi thường
xuyên, mọi thứ đều đang thay đổi từng khoảnh khắc, nhưng các
định nghĩa vẫn còn cố định, vẫn còn như đã thiết lập. Không có
trưởng thành, không có thay đổi trong chúng. Chúng giống như
ảnh chụp của chúng ta vậy. Giả sử ai đó chụp ảnh tôi; bây giờ nó
sẽ vẫn còn lại cố định và tĩnh tại, trong khi tôi đang trở nên già
hơn vào mọi khoảnh khắc. Cuộc sống giống như một người đang
sống; các định nghĩa là cứng nhắc và không sống. Lời kinh này
nói không có tính hợp lí, không có logic về cuộc sống. Cuộc sống
là bí ẩn.
Có một nhà huyền môn Ki tô giáo tên là Tertullian. Ai đó hỏi
ông ấy, “Tại sao ông tin vào Thượng đế? Cái gì là lí do cho niềm
tin của ông?”

Ông ấy nói, “Ông muốn biết lí do sao? Khi tôi nhìn vào cuộc
sống, tôi thấy rằng không có lí do nào cho bất kì cái gì. Thế rồi
tôi nghĩ, ‘Bây giờ chẳng hại gì trong việc tin vào Thượng đế. Khi
mà toàn thể cuộc sống bản thân nó là không có lí do gì, Thượng
đế cũng có thể được tin mà không có lí do gì.’ Và nếu ông không
tin vào Thượng đế vậy mà vẫn hỏi tôi câu hỏi ấy, tôi sẽ bảo ông,
tôi tin vào Thượng đế bởi vì ngài là ngớ ngẩn toàn bộ” - ông ấy
dùng từ ngớ ngẩn... tôi nghĩ nó là từ đúng - “bởi vì tôi đã xem xét
mọi qui tắc, đã phân tích chúng, và thấy chúng không đúng. Tôi
đã kiểm nghiệm mọi lập luận logic và thấy nó sai. Mọi định
nghĩa tôi đã kiểm thử đều bị chứng tỏ là sai. Bất kì điều gì tôi
xem xét đúng về mặt trí tuệ, tới cùng lại bị chứng tỏ là sai. Bây
giờ tôi đã bỏ sự trợ giúp của trí tuệ và lập luận và trở thành người
vô lập luận. Tôi tin vào Thượng đế.”
Đây là ý nghĩa đúng đắn của tin cậy.

Nó có nghĩa là nhảy vào trong cái không biết. Lời kinh này
giải thích tin cậy là gì. Lời kinh này là về tin cậy. Khi gạt sang
bên mọi qui tắc, mọi định nghĩa và mọi tính toán, việc nhảy vào
trong cái không đo được chính là nghĩa của tin cậy. Bỏ lập luận
để nhảy vào trong cái vô lập luận.
Bạn nên nhớ rằng các triết gia là những người cố gắng tìm
kiếm chân lí của cuộc sống với sự giúp đỡ của trí tuệ. Cho đến
giờ họ vẫn không có khả năng phát hiện ra được cái gì. Họ đã
viết hàng nghìn cuốn sách, nhưng sách của họ đơn thuần chỉ là
trò chơi chữ. Họ là người thành thạo trong diễn giải lời nói và họ
trải rộng tấm lưới lời nói của mình một cách ranh mãnh và rộng
đến mức khó mà tìm được lối ra. Nhưng họ không biết gì cả,
không biết chút nào. Những người biết tới chân lí của cuộc sống
là các nhà huyền môn và các hiền nhân. Đây là những người,
thay vì thực hành tung hứng lời, chìm vào trong sự tồn tại.
Tại sao chúng ta phải cố gắng học trong sách vở sông Hằng
là gì? Khi sông Hằng đang chảy, tại sao chúng ta không chìm
mình vào trong nó để biết nó là cái gì? Có thể người ta đã viết
trong sách vở, trong thư viện, sông Hằng là gì, nhưng chúng ta có
nên viện tới sách vở để biết nó là gì không? Tại sao chúng ta
không nên biết nó bằng cách thực tế đi vào nó? Có hai cách để
biết. Nếu tôi muốn biết về tình yêu, tôi có thể tới thư viện và đọc
sách về nó và học tất cả về nó. Cách khác là với tôi rơi một cách
cá nhân vào trong nó thật sâu sắc. Cách thứ nhất dứt khoát dễ
dàng hơn, cho nên người yếu đuối viện tới con đường đó; ngay
cả trẻ con cũng có thể đọc về nó. Nhưng thực sự biết yêu là trải
qua thử lửa lớn, qua ăn năn lớn, qua thử thách lớn bằng lửa.
Biết yêu và biết về yêu là hai điều khác nhau. Không có mối
liên hệ gì giữa chúng. Tương tự, biết chân lí và biết về nó là hai
điều khác nhau. Bất kì cái gì được biết về chân lí tất cả đều là tri
thức vay mượn, nó tất cả đều là cũ rích. Người muốn biết chân lí
sẽ phải nhảy ra khỏi trí tuệ của mình.

Một người bạn tới gặp tôi hai hôm trước đây. Người đó nói,
“Tôi nghi ngờ tất cả những gì tôi nghe thấy. Tôi nghi ngờ ngay
cả điều thầy nói, và con sẽ tiếp tục nghi ngờ điều thầy sẽ nói.
Nhưng tôi có vài câu hỏi, xin thầy trả lời chúng.”
Tôi bảo anh ta, “Bạn sẽ làm gì với câu trả lời bạn nhận được
từ tôi? Tại sao bạn muốn gây rắc rối vô dụng cho tôi khi bạn
không được chuẩn bị để di chuyển dù chỉ chút xíu từ lập trường
hoài nghi của bạn? Bạn nên sống trong hoài nghi của mình. Tại
sao bạn đã đến để hỏi tôi? Đừng hỏi bất kì ai nếu bạn quyết tâm
hoài nghi, bởi vì bất kì cái gì người đó nói đều sẽ là tri thức của
người đó, nó không thể là của bạn được, và bạn sẽ hoài nghi nó.
Sự tồn tại trải rộng mọi bề - hoa nở, chim chóc nhảy múa, mây dời trên trời, mặt
trời lên, cuộc sống rộn ràng bên trong bạn. Sự tồn tại có việc mở rộng vô tận! Nhảy vào trong nó đi, biết từ đó!

Hỏi người khác là vô tích sự - đằng nào bạn cũng sẽ hoài nghi.
Nhưng tôi muốn hỏi bạn một điều: Khi nào thì cái ngày đó tới,
cái ngày mà bạn hoài nghi về sự hoài nghi của bạn?”
Khi một người quyết tâm hoài nghi, người đó nên hoài nghi
bản thân sự hoài nghi; theo cách đó người đó có thể đạt tới cái gì
đó qua hoài nghi của mình. Từ trước tới giờ việc hoài nghi của
bạn đã đạt được cái gì? Nếu không, đấy là bởi vì bạn đã không
hoài nghi về bản thân hoài nghi. Bạn đã không hoài nghi một
cách toàn bộ. Nhớ trong tâm trí, tin cậy tới từ hai nguồn. Hoặc
không có hoài nghi nào hết cả và lấy cú nhảy, hoặc làm cho việc
hoài nghi của bạn thành sâu sắc đến độ bạn hoài nghi bản thân sự
hoài nghi. Vậy hoài nghi của bạn sẽ huỷ bỏ việc hoài nghi thêm
nữa và bạn sẽ thành trống rỗng hoài nghi, và thoát ra khỏi ảnh
hưởng của trí tuệ. Không phải là trí tuệ bạn tạo ra hoài nghi; trí
tuệ bạn là hoài nghi của bạn.

Sau khi hiểu lời kinh này, những người hồn nhiên và trung
thực không nên hoài nghi về nó; còn những người tinh tế và phức
tạp về bản chất thì nên hoài nghi nó một cách toàn bộ. Tin cậy sẽ
được sinh ra từ cả hai điều kiện này và bạn sẽ có khả năng thực
hiện cú nhảy.

Những người biết tin cậy là gì sẽ hiểu thấu ý nghĩa của lời
kinh này, và những người có tin cậy ở trong lập luận sẽ không có
khả năng hiểu thấu nghĩa của nó, bởi vì lập luận không có chỗ
trong nó. Logic sẽ không đồng ý với phát biểu rằng cái hoàn hảo
đi ra từ cái hoàn hảo, và cái còn lại cũng là hoàn hảo. Nhưng tin
cậy sẽ đồng ý với nó, bởi vì điều đó là rất hồn nhiên và trung
thực. Đó là tin cậy - niềm tin - trong sự tồn tại. Nó nói, “Không lẽ
mình không có niềm tin nào đó vào sự tồn tại này, cái đã cho
mình năng lực suy nghĩ, cái cho mình tình yêu, cái cho mình trái
tim sao? Không lẽ mình không thể trao một chút ít tin cậy bạn bè
cho sự tồn tại này, cái đã cho mình cuộc sống, nhận biết và tâm
thức sao? Nếu mình không thể làm được, đấy thực sự là vô ơn
lắm.” Lời kinh này đòi hỏi sự tin cậy và đức tin từ chúng ta. Nó
hướng dẫn rằng duy nhất tin cậy sẽ mở ra cánh cửa cuộc sống,
một mình tin cậy sẽ giúp bạn đạt tới đỉnh của cuộc sống. Đây là
nghĩa giấu kín của nó.

Cuối cùng bạn nên hiểu đầy đủ điều nó đang nói về cái toàn
thể, tại cuối cũng như tại đầu. Mọi thứ trong cuộc sống đều
dường như không hoàn hảo. Có thể Ishavasya nên nói về cái
không hoàn hảo, bởi vì thế thì nó sẽ nói về các sự kiện. Không cá
nhân nào dường như hoàn hảo, không tình yêu nào dường như
hoàn hảo; không quyền năng nào không hình dạng nào dường
như hoàn hảo. Mọi thứ trong cuộc sống đều không hoàn hảo. Thế
thì tại sao hiền nhân này của Ishavasya nghĩ về bắt đầu và kết
thúc trong thảo luận của ông ấy về cái toàn thể? Những người tin
vào chủ nghĩa hiện thực sẽ lên án điều này là phi hiện thực. Họ sẽ
chỉ trích nó như sự giả vờ đồng bóng của những tay mơ. Bất kì
cái gì toàn thể hay hoàn hảo trong thế giới này ở đâu? Điều lời
kinh này chỉ dẫn là sự kiện rằng bất kì chỗ nào cái không hoàn
hảo được bạn thấy, đấy là do cái không hoàn hảo của năng lực
của bạn để thấy, bởi vì bằng không, không có sự không hoàn hảo
ở bất kì đâu cả. Thực tại cái không hoàn hảo nằm ở cách nhìn của
chúng ta.

Hoàn cảnh của chúng ta giống như một người nhìn lên trời từ
cửa sổ nhà mình. Tất cả chúng ta đều làm điều đó. Một cách tự
nhiên người đó sẽ thấy bầu trời bị cắt theo hình cửa sổ. Đường
biên của cửa sổ cũng sẽ là đường biên của bầu trời. Liệu có phải
là sai lầm không nếu một người, chưa bao giờ thấy bầu trời rộng
mở từ bên ngoài toà nhà mình, nói rằng bầu trời là hình chữ nhật?
Không, không có sai lầm gì cả, bởi vì bầu trời bao giờ trông cũng như thế nếu
được nhìn từ cửa sổ. Sẽ khó khăn cho người như thế
để quan niệm rằng không có cái khung như thế trên bầu trời.
Cái khung này là cửa sổ của riêng bạn, không có khung nào
quanh bầu trời. Nó được bạn dựng lên. Bầu trời tuyệt đối không
có khung và không có dạng. Nhưng không ở đâu nó dường như
vô dạng cả, ngay cả khi chúng ta đi ra ngoài nhà. Cái khung trở
thành lớn hơn một chút, nó giả định có dạng trái đất. Bầu trời
dường như bao quanh toàn bộ quả đất, giống như mái vòm - vòm
của các ngôi đền cũng được xây dựng theo mô hình này. Ngay cả
giữa ngoài trời bạn vẫn đang đứng bên trong cửa sổ - trái đất là
cửa sổ - cho nên nó không tạo ra khác biệt gì. Tiến xa thêm nữa,
đi vòng quanh cả trái đất. Bạn sẽ thấy rằng bầu trời không chạm
vào đất ở đâu cả: không có đường chân trời, nó là giả như khung
cửa sổ bao quanh bầu trời vậy. Nhưng ngay cả khi bạn bay trong
một con tầu không gian bạn sẽ thấy bầu trời theo một quan điểm
đặc biệt, và điều đó sẽ dường như là biên giới của nó. Dù nó mở
rộng đến mức nào cũng không thành vấn đề, nó vẫn là biên giới
của nó.

Thế thì chúng ta có thể đi đâu nơi chúng ta sẽ có khả năng
thấy được cái vô dạng? Các hiền nhân của Upanishad nói, “Chỉ
có một chỗ, và đó là bên trong ông, nơi không có cửa sổ chút
nào.” Gạt sang bên việc dùng các giác quan bởi vì chúng tạo ra
các khung. Các giác quan của chúng ta là những cửa sổ. Nếu
chúng ta nhìn bất kì đâu với sự giúp đỡ của các cửa sổ này, hình
dạng sẽ được tạo ra. Nhắm mắt lại và đi vào bên trong; không có
mắt, không có tai, không có tay và chân, không có thân thể, và
chìm ngày càng sâu hơn vào bên trong nơi mọi thứ đều vô dạng.
Tại đó bạn sẽ kinh nghiệm cái toàn thể.

Sau khi đã kinh nghiệm cái toàn thể bên trong, hiền nhân này
đã khẳng định rằng nó là như vậy, và rằng người đã biết đến cái
toàn thể bao giờ cũng sẽ thấy cái toàn thể, dù người đó đi đâu
cũng không thành vấn đề, dù người đó có nhìn qua cửa sổ nào
cũng không thành vấn đề. Cho dù người đó nhìn lên bầu trời khi
đứng sau một khung cửa sổ rất nhỏ, người đó vẫn biết rõ rằng cái
khung đó là cái khung cửa sổ của mình và không phải là của bầu
trời. Bất kì ai đã có lần thấy cái toàn thể bên trong cũng đều sẽ
bắt đầu thấy nó ở mọi nơi. Người đó có thể bị bao bọc quanh
mình bởi bất kì cửa sổ nào, người đó có thể bị nhốt trong bao
nhiêu nhà tù, vậy mà người đó biết rằng các nhà tù đó bị áp đặt
bên ngoài; cái vô dạng vẫn ngồi tĩnh lặng bên trong.
Do đó hiền nhân này bắt đầu và kết thúc bài nói của mình
bằng cái toàn thể. Sẽ không có hài hoà, không đồng điệu giữa lời
kinh này và bản thân chúng ta nếu chúng ta đứng quay lưng lại
nó. Chúng ta và hiền nhân của Upanishad đang đứng quay lưng
nhau. Chúng ta nghe thấy lời của ông ấy, nhớ chúng vào kí ức,
lặp lại chúng mọi sáng; nhưng nếu chỉ lưng chúng ta chạm tới,
thế thì nghĩa mà chúng ta nhận được từ chúng trở thành vô dụng.
Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là ở chỗ cái toàn
thể này là chân lí duy nhất. Nó ở mọi phía; mọi thứ đều là cái
toàn thể. Không có vấn đề chút nào về cái không hoàn hảo. Làm
sao có thể có cái không hoàn hảo? Ai sẽ tạo ra nó? Một mình
Thượng đế hiện hữu; không có ai khác có thể làm ra cái không
hoàn hảo. Một mình Thượng đế hiện hữu, cho nên ai sẽ vẽ ra
biên giới? Biên giới bao giờ cũng được tạo nên bởi sự hiện diện
của cái khác. Nếu bạn nghĩ biên giới của nhà bạn được làm bằng
nhà bạn, thế thì bạn sai lầm. Nó được làm bằng nhà của hàng
xóm đấy. Nó không được làm bằng nhà của bạn theo ý riêng của
nó đâu, nó bao giờ cũng được làm bằng sự hiện diện của nhà
khác.

Thượng đế bao giờ cũng một mình, sự tồn tại bao giờ cũng là
một, luồng chảy của sự tồn tại bao giờ cũng là một. Không có cái
khác chút nào. Ai sẽ làm ra biên giới? Ai sẽ làm ra cái không hoàn hảo? Không,
điều đó là không thể được; sự tồn tại là vô giới hạn, sự tồn tại là tuyệt đối. Nhưng chúng ta sẽ chỉ biết nó khi
chúng ta có khả năng bắt được thoáng nhìn về nó ở bên trong.
Người đã nếm dù chỉ một giọt của đại dương bên trong là có
khả năng biết đến cái bí ẩn của đại dương vô biên. Cái toàn thể
đến từ cái toàn thể, và cũng bị hấp thu vào trong cái toàn thể; và
ở giữa cái không hoàn hảo đến, cái được tạo ra bởi khuôn khổ
của trí tuệ chúng ta, bởi giác quan chúng ta. Từ bỏ các khuôn khổ
này, đi chút ít ra ngoài chúng đi. Thế thì bạn sẽ được thiết lập
trong cái toàn thể, và người đã được thiết lập như vậy trong cái
toàn thể sẽ có khả năng hiểu được nghĩa ẩn kín của Ishavasya.
Bây giờ, ở chỗ cuối, chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của
chúng ta vào bên trong. Vì đây là ngày cuối cùng, tôi muốn nói
với các bạn hai hay ba điều. Thứ nhất, trong thực nghiệm sáu
ngày này tôi đã đưa các bạn tới điểm mà bây giờ tôi yêu cầu bạn
bổ sung thêm một việc nhỏ vào nó. Sẽ có bùng nổ lớn nếu điều
đó được thêm vào, cho nên được chuẩn bị về nó đi.

Khi bạn nhìn vào tôi, nhìn chăm chú cố định, đừng nháy mắt,
và đồng thời, với từng hơi thở ra làm ra âm thanh Hu, Hu! Âm
thanh này của Hu, Hu sẽ đập mạnh vào kundalini đang ngủ của
bạn. Người Sufi đã nghiên cứu sâu vào trong âm thanh Allah Hu!
Họ bắt đầu với âm Allah Hu, rồi dần dần từ Allah bị bỏ đi và chỉ
còn lại Hu. Hô âm Hu thật mạnh, và khi bạn làm như vậy, rốn
bạn sẽ co lại. Để cho Hu của bạn đập mạnh vào phía dưới rốn.
Điều này sẽ làm cho rốn bạn co lại hoàn toàn và đập vào
kundalini. Đấy là chỗ kundalini đang ở. Nó sẽ bị đập mạnh vào.
Chín mươi phần trăm trong chúng ta bây giờ đang trong điều
kiện khi âm Hu đập vào mạnh đến mức năng lượng bên trong sẽ
bắt đầu dâng lên giống như ngọn lửa. Khi nó dâng lên tôi sẽ đưa
ra một dấu hiệu bằng tay với bạn. Rồi hãy phát rồ lên! Khi tôi
nâng tay đưa lên bạn sẽ kinh nghiệm năng lượng bên trong dâng
lên - dâng lên như ngọn lửa. Bạn sẽ cảm thấy rằng tất cả sinh lực
của bạn đang dâng lên; bạn sẽ cảm thấy siêu việt. Thế rồi bắt đầu
hò hét to, nhảy, múa, với tất cả khả năng của bạn.
Cái đó là hoàn hảo và cái này cũng là hoàn hảo.
Vì chỉ cái hoàn hảo được sinh ra từ cái hoàn hảo; và khi cái hoàn hảo được lấy đi từ cái hoàn hảo,
chú ý, cái còn lại là hoàn hảo. Om. An bình, an bình, an bình

Đấy là luật vĩnh hằng của sự tồn tại, rằng cái kết thúc là
được tìm thấy ở cái bắt đầu. Kết thúc là nơi bắt đầu có. Theo luật
vĩnh hằng này, Ishavanya kết thúc ở lời kinh mà nó bắt đầu.
Không có cách nào khác ngoài điều này. Mọi cuộc hành trình đều
là vòng tròn - bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng.
Những người đã hiểu luật này - rằng bước đầu tiên cũng là
bước cuối cùng - được cứu khỏi rối loạn vô dụng và xung đột của
các xúc động của tâm trí; họ được cứu khỏi những lo nghĩ và lo
âu vô tích sự của cuộc sống. Chúng ta đạt tới chỗ mà chúng ta đã
bắt đầu. Trạm đầu tiên của cuộc hành trình của chúng ta cũng là
trạm cuối cùng. Do đó chúng ta có thể du hành ở giữa rất vui vẻ,
bởi vì không có cách khác. Chúng ta sẽ không bao giờ tới chỗ mà
chúng ta không có. Dù chúng ta có thể làm nỗ lực lớn đến đâu
cũng không thành vấn đề, chúng ta không thể đạt tới nơi chúng ta
không có.

Chúng ta hiểu điều đó theo cách này: chúng ta chỉ có thể là
cái mà chúng ta đã là. Không có phương án nào khác. Cái được
ẩn kín trong chúng ta sẽ được lộ ra, và cái được lộ ra sẽ lại được
giấu kín. Hạt mầm sẽ mọc thành cây, và cây sẽ lại trở thành hạt
mầm. Đây là luật vĩnh cửu của cuộc sống. Lo âu và lo nghĩ của
những người đã hiểu thấu luật này tiêu tan hoàn toàn. Những đau
đớn tinh thần gấp ba của họ trở thành êm ả và im lặng. Thế thì
không còn lại lí do gì cho hạnh phúc - không có nguyên nhân để
bất hạnh khi chúng ta du hành tới đích của mình, và không có
nguyên nhân để hạnh phúc bởi vì chúng ta không thu được cái gì
chút nào, cái không có cùng chúng ta từ lúc bắt đầu. Để nêu ra
một chỉ dẫn, một hướng dẫn, về luật vĩ đại này, Ishavanya kết
thúc với lời kinh mà nó bắt đầu.

Cuộc hành trình mà chúng ta đã tiến hành ở giữa hai đầu này
là những cánh cửa tách bạch khác nhau để làm cho chúng ta có
khả năng hiểu được lời kinh này, để đi tới lời kinh này. Mỗi lời kinh đều là một
hướng dẫn để khuấy động việc nhớ lại của chúng
ta về đại dương vĩ đại đó, và mỗi bến bờ và mỗi nơi thiêng liêng
là một lời mời, một lời gọi, để con thuyền ta giương buồm lên.
Nếu bạn giữ lời kinh này trong tâm trí, bạn có thể đã quan sát
rằng lời kinh này được ẩn kín sâu trong nghĩa của mọi lời kinh.
Đó là lí do tại sao nó đã được công bố ngay từ đầu và bây giờ
công bố vào lúc cuối. Tôi đã nói với bạn ý nghĩa của nó từ ngay
ngày đầu tiên. Hôm nay tôi sẽ giải thích ý nghĩa bên trong của nó
- cái bản chất của nó.
Bạn có thể hỏi, “Cái gì là khác biệt giữa nghĩa và điều bản
chất?” Nghĩa là dáng vẻ bên ngoài, dạng biểu hiện, một vật, trong
khi bản chất là thứ giấu kín. Nghĩa là thân thể bên ngoài, bản chất
là linh hồn bên trong. Nghĩa cũng có thể được hiểu bởi trí tuệ,
nhưng bản chất chỉ có thể được hiểu thấu bởi trái tim. Nói chung,
nghĩa được giải thích lúc bắt đầu và không phải là bản chất. Còn
bây giờ, tại giai đoạn này, chúng ta đã nhìn qua nhiều cánh cửa
vào trong ngôi đền mà với nó lời kinh này được ngụ ý. Không chỉ
chúng ta đã đi tới hiểu nó về mặt trí tuệ, mà chúng ta còn cố gắng
hiều thấu nghĩa của nó bằng việc cũng đi vào trong thiền.

Đây là điều xảy ra duy nhất. Nhiều lời bình luận đã được đưa
ra về Upanishad này, nhưng đây là cơ hội đầu tiên trên trái đất
này khi lời bình luận đã được đi kèm với thiền. Cho nên một tìm
kiếm sâu xa về nghĩa biểu hiện của nó và về nghĩa bên trong của
nó đã được tiến hành đồng thời. Những lời của Upanishad đã
được giải thích trước đây, nhưng đây là cơ hội lần đầu tiên mà
qua đó một nỗ lực tích cực đã được thực hiện để nhảy vào nghĩa
bên trong của nó - linh hồn của nó. Bất kì điều gì tôi đã nói cho
các bạn đều với mục đích làm thành bàn nhảy cho bạn: mục đích
là việc nhảy. Đây là lí do tại sao tôi đi vào trong thiền vào cuối
mỗi lời kinh, để cho bạn có thể kinh nghiệm ý nghĩa của nó bằng
việc lấy cái nhảy vào trong nó.

Cho nên bây giờ tôi có thể nói cho bạn ý nghĩa bên trong của
nó. Bạn còn chưa xem xét nghĩa của những lời này thật đủ;
nhưng bạn đã làm được điều gì đó khác - bạn đã đạt tới im lặng,
bình thản. Những người hiểu những lời này đều có khả năng biết
được nghĩa, nhưng chỉ những người biết im lặng là có khả năng
biết nghĩa bên trong của nó, bản chất của nó. Nếu bạn đã đạt tới
dù chỉ chút xíu hương vị của im lặng, bạn sẽ có khả năng hiểu
nghĩa bên trong mà tôi đang định đi vào.

Điều đầu tiên tôi sẽ bảo bạn về nghĩa bên trong của lời kinh
này là ở chỗ nó đã tuyên bố rằng cuộc sống là phi logic. Điều này
không được nói ở bất kì đâu trong bao nhiêu từ của kinh này, chỉ
có hướng dẫn về nó thôi. Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn điều không
được nói ra, điều chỉ được hướng dẫn tới. Wittgenstein đã viết
một cuốn sách, Tractacus, mà có lẽ là cuốn sách quan trọng nhất
của thế kỉ này. Trong đó ông ấy đã nói, “Cái không thể được nói
ra phải không được nói ra: nó phải được bỏ lại không nói.” Ông
ấy nói thêm, “Cái không thể được nói ra có thể được chỉ ra.”
Nghĩa của ông ấy là ở chỗ một hướng dẫn, một chỉ dẫn, có thể
được đưa ra cho cái không thể được nói ra. Cái không thể được
nói ra và cái không nên được nói ra là nghĩa bên trong của kinh
này. Điều tôi đang làm bây giờ chỉ là cho bạn một số chỉ dẫn
hướng về nó.

Chỉ dẫn thứ nhất: Cuộc sống là phi lí, cho nên những người
cố gắng tìm kiếm cuộc sống là gì sẽ lang thang quanh cái chết.
Những người như thế không bao giờ có thể phát hiện ra bí mật
của cuộc sống. Làm sao bạn có được chỉ dẫn về cái phi lí từ lời
kinh này? Nó nói, “Cái hoàn hảo được lấy ra từ cái hoàn hảo.”
Điều phi lí đầu tiên là trong câu hỏi, “Làm sao cái hoàn hảo có
thể nổi lên từ cái hoàn hảo?” Vì không có không gian phụ bên
ngoài cái hoàn hảo, cái hoàn hảo có thể đi đâu được?” Purna
nghĩa là tuyệt đối, bên ngoài cái đó không có cái gì khác nữa; nếu
có bất kì cái gì khác, thế thì hoàn hảo sẽ là không hoàn hảo ngần ấy. Chưa bao giờ
có bất kì cái gì bên ngoài cái hoàn hảo, thậm
chí không có cả không gian, cho nên làm sao cái gì có thể đi ra từ
cái hoàn hảo được? Và giả sử nó có đi ra, nó sẽ đi đâu? Không có
lối ra. Nhưng lời kinh này khẳng định rằng cái hoàn hảo được lấy
ra từ cái hoàn hảo.

Không chỉ điều này, nhưng nó thêm cái phi lí nữa: “Sau khi
cái hoàn hảo được lấy ra khỏi cái hoàn hảo, cái còn lại là hoàn
hảo.” Nếu bất kì ai nhìn vào câu này theo quan điểm logic người
đó sẽ tuyên bố đó là phát biểu của người điên. Và nếu ai đó xem
xét nó theo quan điểm toán học, nó sẽ được thấy là không đúng
toàn bộ. Người đó sẽ nghĩ nó được ai đó viết ra, mà người viết
mất trí. Đây sẽ là ý kiến của bất kì ai xem xét nó theo quan điểm
logic hay toán học. Nhưng những người xem xét và suy nghĩ theo
cách này sẽ phạm phải sai lầm mà một thời đã mắc trong vườn.
Một người làm vườn nào đó mời bạn mình tới thăm hoa
hồng đẹp đã ra hoa trong vườn mình. Người bạn là thợ kim hoàn,
và người đó đến đó với một hòn đá thử. Khi thấy hoa hồng người
đó nói với bạn mình, “Tớ không tin phát biểu của cậu đơn giản
bằng việc nhìn hoa hồng. Cậu không thể lừa tớ được, tớ không
phải là trẻ con. Tớ kiểm tra vàng, cho nên việc kiểm tra hoa hồng
chỉ là trò chơi trẻ con. Tớ sẽ kiểm tra chúng.”
Người làm vườn hỏi, “Cậu kiểm tra hoa hồng thế nào?”
Anh bạn trả lời, “Tớ đã mang hòn đá thử đi theo đây.”
Người làm vườn trở nên bồn chồn và nghĩ, “Mình thật sai
lầm thì đi mời thằng cha này!”
Nhưng vào lúc đó anh thợ kim hoàn đã ngắt một đoá hoa và
kiểm tra nó bằng cách cọ xát nó vào viên đá thử. Người đó ném
đoá hoa xuống đất và nói, “Hòn đá thử đã chứng tỏ rằng không
có cái gì trong hoa này cả; nó là giả.”

Hiền nhân của lời kinh này sẽ cảm thấy hệt như người làm
vườn phải đã cảm thấy nếu ai đó cố hiểu lời kinh này theo quan
điểm logic. Hoa không được thử bằng đá thử cho vàng, và nếu ai
đó cố làm như thế, hoa không có lỗi; nó đơn thuần chứng tỏ cái
ngu xuẩn của người này. Về tất cả những lời kinh của Ishavanya,
điều này đặc biệt có hương vị của tự nhận ra. Điều này không thể
được kiểm tra bằng hòn đá thử của logic, và điều được áp dụng
hoàn toàn trong lời kinh này là không nên được thử như thế. Lời
kinh đang bảo chúng ta rằng nó sắp sửa nói một điều gì đó phi lí,
vượt ra ngoài logic, điều không thể xảy ra và vậy mà vẫn xảy ra,
điều không nên xảy ra và vậy mà vẫn cứ xảy ra, điều không có cơ
sở nào cho việc xảy ra của nó, điều không có cách nào được
chứng minh - và vậy mà nó xảy ra, và vậy mà nó hiện hữu!
Cuộc sống là phi lí: phát biểu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa
là những người cố gắng tìm ra nghĩa, tìm ra bí mật của cuộc sống
theo quan điểm toán học, logic, công lí, qui ước, quy định và luật
lệ, sẽ vẫn tiếp tục tìm mà không biết gì về nó.
Người thợ kim hoàn đã kiểm tra hoa bằng hòn đá thử. Nếu
bạn lấy đoá hoa đó vào phòng thí nghiệm khoa học và nói, “Đây
là một đoá hoa rất đẹp,” thế thì nhà khoa học nữa sẽ mổ xẻ mọi
phần của nó và nói, “Cái đẹp ở đây đâu rồi?” Ông ấy sẽ trích rút
từng yếu tố một và để rải rác chúng ra. Mỗi hoá chất sẽ được
phân tách và rồi ông ấy sẽ hỏi, “Cái đẹp đâu rồi?” Nó có nhựa
hoa, khoáng chất, hoá chất và tất cả những thứ như thế, nhưng
không có cái đẹp trong đó ở đâu cả. Nếu cái đẹp không được tìm
thấy trong phòng thí nghiệm của nhà khoa học, đấy không phải là
lỗi của hoa; không phải lỗi của nhà khoa học, vì phòng thí
nghiệm của ông ấy không có đó để phát hiện ra cái đẹp. Chiều hướng mà trong đó cái
đẹp có thể được thăm dò và đo đạc là
hoàn toàn khác.

Cho nên những người nghĩ về cuộc sống theo quan điểm
toán học có thể không bao giờ đo được nó, bởi vì cuộc sống về
cơ bản là bí mật. Tất cả tri thức của chúng ta, dù nó có thể lớn
đến đâu, đều dựa trên dốt nát; nó đơn giản hướng dẫn vào cái vẫn
còn được biết tới. Và khi chúng ta đi đến biết ngày càng nhiều
hơn, chúng ta hiểu chiều sâu của cái dốt nát của chúng ta. Chúng
ta không có khả năng bầy tỏ cuộc sống, và nếu chúng ta cố gắng,
chúng ta trở thành ngày càng bị vướng víu.

Tất cả nỗ lực của chúng ta để làm lộ nó ra cũng giống như
những cố gắng trong câu chuyện của Aesop mà tôi đã nghe. Câu
chuyện kể về con rết đang bước đi trên đường. Một con thỏ thấy
nó và rất lấy làm phân vân. Con thỏ có lẽ đã được dạy trong một
trường phái logic. Phân vân của nó là thế này: chân nào trong
một trăm chân của con rết giơ lên trước nhất? Rồi chân nào là
chân thứ hai cất lên? Chân nào thứ ba? vân vân. Làm sao con rết
có thể nhớ được trật tự cho cả trăm chân của nó? Nó sẽ không
vấp ngã khi bước chứ? Điều này chắc chắn là phải bị lẫn lộn.
Con thỏ bảo con rết dừng lại và trả lời câu hỏi của nó. Nó
nói, “Tớ là sinh viên logic và tớ rất phân vân khi ngắm nhìn cậu.
Chúng tớ bước trên bốn chân cho nên dễ dàng nhớ trật tự giơ
từng chân lên khi bước. Nhưng làm sao cậu nhớ được trật tự giơ
cho cả trăm chân thế vậy?

Con rết đáp, “Từ trước tới nay tớ bước đi rất dễ dàng; tớ
chưa bao giờ thấy cần phải nhớ đến trật tự giơ chân, và từ trước
tới nay tớ cũng chưa bao giờ nghĩ đến cách thức đó. Nhưng bây
giờ khi cậu hỏi tớ, tớ sẽ nghĩ về nó và giải quyết vấn đề của cậu.”
Con thỏ ngồi đó nhìn. Con rết cố gắng đưa chân lên nhưng bị
loạng choạng và ngã kềnh. Nó bây giờ gặp khó khăn. Với sự
buồn bã từ trong tim nó nói với con thỏ, “Anh bạn ơi, logic của
cậu làm cho tớ gặp khó khăn lớn rồi. Xin cậu cứ giữ lấy cái logic
cho cậu đi, và đừng hỏi câu hỏi của cậu với bất kì con rết nào
khác mà ngẫu nhiên đi qua cậu trên đường. Chúng tớ sống thoải
mái và hạnh phúc. Chân tớ chưa bao giờ gây khó khăn cho chúng
tớ - chúng chưa bao giờ đặt ra những câu hỏi như thế và chưa bao
giờ tranh luận về nó. Chúng tớ chưa bao giờ nghĩ chân nào phải
nâng lên trước hết rồi chân nào thứ hai. Chúng tớ không biết.
Ngần này là chắc chắn: cho tới nay tớ vẫn có thể bước được. Chỉ
từ bây giờ, vì cậu mà tớ thấy mình gặp khó khăn!”

Thế tiến thoái lưỡng nan của con người là ở chỗ con người
luôn ở trong tình huống khó xử như tình huống của con rết. Con
người không cần con thỏ phải đặt ra câu hỏi; con người tự đặt
câu hỏi cho mình và tạo ra hoài nghi và làm mình lâm vào vướng
víu. Con người tự hỏi mình những câu hỏi và đưa ra câu trả lời
của riêng mình. Câu hỏi dứt khoát là sai, cho nên câu trả lời trở
nên càng không đúng và lạc lối hơn. Mỗi câu trả lời làm nảy sinh
thêm các câu hỏi mới. Câu hỏi và câu trả lời cứ thế nhân lên, một
đống lộn xộn lớn được tạo ra, và con người trở nên ngày càng
khó xử cho tới khi một khoảnh khắc tới, lúc con người phân vân
đến mức không còn biết cái gì là cái gì nữa. Tất cả chúng ta đều
trong trạng huống khó xử này.

Ai đó nói với Thánh Augustine, “Tôi thấy rất bối rối bởi một
câu hỏi, và nếu ông làm ơn trả lời câu hỏi đó cho tôi, điều đó sẽ
làm tâm trí tôi được thảnh thơi. Tôi nghe nói ông là người có
học.”

Thánh Augustine nói, “Anh có thể đã nghe nói về điều đó,
nhưng vì anh nói với ta cho nên ta gặp khó khăn.”
Người này nói, “Ông gặp khó khăn gì vậy? Khó khăn chỉ
dành cho những người dốt nát như tôi thôi chứ.”
Thế rồi Thánh Augustine giải thích, “Ta đang gặp khó khăn
vì lần đầu tiên ta nghe thấy nói rằng ta là người có học, bởi vì
bây giờ ta đang cố gắng tìm ra xem tri thức này là ở đâu trong ta
mà ta tìm không thấy nó. Trong sai lầm, trong dốt nát, ta đã tin
vào điều đó lúc ban đầu. Nhưng bây giờ thật khó để cho ta tin
như vậy. Nhưng thôi được, cho ta biết câu hỏi của anh. Anh đã
tới từ nơi rất xa, cho nên hỏi câu hỏi của anh đi. Cho dù ta không
có khả năng trả lời nó, ít nhất thì anh cũng được nhẹ bớt rằng câu
hỏi đó đã được hỏi. Trong trường hợp ta có khả năng trả lời câu
hỏi của anh, anh có cho rằng câu hỏi là được trả lời đúng bởi ai
đó đưa ra câu trả lời không? Nhưng hỏi câu hỏi của anh đi.”
Người này hỏi, “Thời gian là gì?”

Thánh Augustine nói, “Anh đã hỏi một câu hỏi mà ta sợ anh
có thể hỏi. Có một số câu hỏi nào đó mà chúng ta giả thiết chúng
ta biết câu trả lời, nhưng khi chúng được hỏi ra, chúng ta bị mất
hút vì câu trả lời. Ta dứt khoát biết thời gian là gì, nhưng khi anh
hỏi câu hỏi này ta gặp khó khăn.”
Chừng nào ai đó còn chưa hỏi bạn câu hỏi này, bạn vẫn biết
rất rõ thời gian là gì. Bạn đón tầu hoả đúng giờ, bạn đón xe buýt
đúng giờ, bạn tới văn phòng đúng giờ và trở về nhà đúng giờ.
Cho nên bạn biết rất rõ thời gian là gì. Nhưng ngay khi ai đó hỏi
bạn câu hỏi đó, bạn lại trong khó xử như con rết. Bạn biết ngày
tháng, bạn có đồng hồ, lịch đang treo tường, và vậy mà không ai
có khả năng đưa ra câu trả lời đúng cho câu hỏi đó. Và các câu
trả lời đã được đưa ra đều giống như việc dò dẫm trong bóng tối -
không cái gì được thiết lập .

Nếu ai đó hỏi bạn, “Linh hồn là gì?” bạn không thể trả lời
nổi, vì bạn vẫn không biết, cho dù nó đã cùng với bạn từ ngày
bạn được sinh ra. Không chỉ có điều đó, những người biết đều
nói nó đã có đó từ trước khi bạn được sinh ra. Không có khó
khăn về nó cả chừng nào chưa ai hỏi về nó.
Nếu ai đó hỏi, “Tình yêu là gì?” thế thì cùng khó khăn ấy
nảy sinh. Mọi người đều làm tình, và cho dù họ không làm tình,
họ hành động dường như họ làm. Có biết bao chuyện tình đấy!
Mọi câu chuyện đều là chuyện tình, và chúng là về tình yêu bởi
vì con người vẫn còn chưa có khả năng làm tình thực sự cho nên
người đó lừa dối tâm trí mình bằng việc viết ra chuyện về nó.
Mọi bài thơ đều là thơ tình, và người không có tình yêu trong
cuộc đời mình bắt đầu viết thơ tình. Viết thơ là rất dễ, làm tình là
rất gay go. Thơ có thể được soạn theo các dòng vần điệu, nhưng
tình yêu chỉ có thể được làm ra bằng việc xé bỏ mọi dòng. Thơ
có cách đo và qui tắc của riêng nó, tình yêu hoàn toàn không có
thước đo hay qui tắc. Thơ có thể được học và có thể được soạn.
Nhưng không có cách nào, không thủ đoạn nào để học hay làm
tình yêu. Chúng ta thường xuyên nói về tình yêu, và vậy mà nếu
ai đó hỏi chúng ta, “Tình yêu là gì?” thế là chúng ta gặp khó xử
liền.

G.E. Moore là một nhà tư tưởng vĩ đại, có lẽ là vĩ đại nhất
trong thế kỉ này. Theo suy nghĩ logic của mình, ông ấy đã gây ấn
tượng lớn nhất lên tâm trí con người trong năm mươi năm qua.
Ông ấy đã viết một cuốn sách gọi là Principa Ethica - nguyên lí
về đạo đức. Ông ấy đã rất đau đớn khi viết cuốn sách này, làm
việc cần cù chỉ trên một câu hỏi: Tốt là gì? Và ông ấy đã lao
động vất vả để chuẩn bị công trình bất hủ này mà tôi nghĩ rằng
không người nào khác trong lịch sử loài người có thể đã làm việc
vất vả đến thế về một cuốn sách. Nó đã được chuẩn bị sau nhiều
năm lao động vất vả trong đó từng từ đều được cân nhắc và viết
ra sau rất nhiều suy nghĩ. Nhà logic học của đại học Oxford này,
nhà tư tưởng vĩ đại nhất này, trong kết luận cuối cùng của mình
đã nói rằng tốt là không thể định nghĩa nổi. Đến cuối cùng, ông ấy nói rằng việc
định nghĩa tốt cũng giống như định nghĩa mầu
vàng.

Nếu ai đó hỏi tôi, “Mầu vàng là gì?” tôi sẽ nói gì? Tôi chỉ có
thể nói, “Mầu vàng là mầu vàng.” Tôi có thể nói cái khác?
Nhưng đây có phải là định nghĩa không? Mọi người đều biết rằng
mầu vàng là mầu vàng. Bạn sẽ làm gì? Bạn có thể ngắt một đoá
hoa vàng và đưa nó ra, nói rằng, “Đây là mầu vàng - đây là đoá
hoa mầu vàng.” Nhưng Moore phản đối và nói, “Nó không phải
là mầu vàng.” Nó cũng giống như một bức tường sơn vàng. Bức
tường vàng không phải là mầu vàng. Có một mẩu vải vàng -
nhưng nó là mẩu vải nhuộm vàng, nó không phải là mầu vàng.
Một câu hỏi là, “Cái gì là tính vàng được thấy trong đoá hoa
vàng, bức tường vàng hay mẩu vải vàng?” Bây giờ bạn sẽ nói gì?
Bạn có thể nói, “Nó đây này, đừng lảm nhảm thêm nữa.” Moore
cũng nói điều này. Sau khi tiến hành công trình vất vả đến thế về
chủ đề này, ông ấy nói, “Nhiều nhất chúng ta có thể nói rằng đây
là tính vàng.” Chúng ta có thể cho chỉ dẫn, hướng dẫn mà thôi;
chúng ta không thể đưa ra định nghĩa của nó. Khi mà bạn không
thể định nghĩa được mầu vàng, bạn có dám định nghĩa Thượng
đế không? Nếu ai đó tới Moore và hỏi... nhưng cái ông Moore tội
nghiệp này bây giờ không còn nữa! Nếu ông ấy còn sống, tôi
nghĩ tôi tôi sẽ hỏi ông ấy - hay nếu tôi ngẫu nhiên gặp ông ấy
trong một kiếp khác tôi sẽ hỏi ông ấy, “Thượng đế có thể được
định nghĩa không khi ông thậm chí không có khả năng định nghĩa
được mầu vàng là gì không?”

Ngay cả các sự kiện vô ý nghĩa nhất của cuộc sống cũng
không thể được định nghĩa nổi; cho nên khi tôi nói cuộc sống là
phi lí, tôi ngụ ý nó là không thể định nghĩa được. Bạn có thể sống
cuộc sống, nhưng bạn không thể định nghĩa nó được, và nếu bạn
còn cố gắng định nghĩa nó, bạn sẽ phạm phải cùng sai lầm mà
hiền nhân của lời kinh này đã phạm phải. Ông ấy nói, “Cái hoàn
hảo đến từ cái hoàn hảo và phần còn lại là hoàn hảo.”
Đây là một loại thách đố, kiểu như công án mà thiền sư
Rinzai hay tạo ra. Những thầy này rất thích phát minh ra công án,
vì có thể trao hướng dẫn qua chúng. Khi ai đó tới họ để tìm kiếm
chân lí, họ sẽ nói, “Tìm cái đó về sau đi - ngay bây giờ ta có hơi
chút khó khăn, và anh có muốn giải quyết vấn đề cho ta trước hết
không.”

Người tìm kiếm sẽ hỏi, “Vấn đề của thầy là gì ạ?” Người đã
tới trong việc tìm kiếm chân lí quên mất rằng, “Bản thân mình đã
tới để tìm kiếm chân lí, làm sao mình có thể giải quyết vấn đề
của người khác được?”
Khi Rinzai nói, “Hỏi câu hỏi của anh sau, giải quyết vấn đề
của ta trước đi,” người này lập tức sẽ hỏi, “Vấn đề của thầy là gì
ạ?”

Người tới là một học trò cố gắng thành thầy giáo. Người đó
quên mất người đó đã tới để học. Người đó đáng phải nói, “Tôi
đã tới để học từ thầy. Làm sao tôi có thể giải quyết vấn đề của
thầy được? Bản thân tôi đang trong khó khăn.”
Nhưng Rinzai đã viết, “Ta đã giở thủ đoạn này với cả nghìn
người mà lần nào người ta cũng nói, “Vấn đề của thầy là gì? Xin
nói cho tôi.”

Rinzai đã tạo ra những vấn đề như thế mà không thể được
giải. Trong sự kiện thực tế các vấn đề là ở mức chúng không thể
được giải. Không vấn đề nào sẽ được giải quyết, bởi vì nó không
phải là nhân tạo. Nó mang tính tồn tại, nó có đó trong sự tồn tại.
Nếu nó là nhân tạo chúng ta có thể giải quyết được nó. Câu đố là
nhân tạo cho nên chúng ta có thể giải chúng. Sách số học của trẻ
con có câu hỏi bên trang này và câu trả lời bên trang kia. Không
thủ đoạn nào như thế là có thể có trong cuộc sống. Chúng ta
không thể lật trang cuộc sống để tìm câu trả lời cho một trong những vấn đề của
cuộc sống. Không bản sao của cuộc sống bất kì
ai có thể hữu dụng. Bạn sẽ bắt chước ai? Và bằng cách nào?
Tuyệt đối không có cách nào lật trang cuộc sống và tìm ra câu trả
lời cho vấn đề của bạn. Chỉ có vấn đề, không có câu trả lời nào
cả.

Rinzai giữ một vấn đề đặc biệt sẵn sàng. Ông ấy hay nói,
“Nghe đây, nếu anh giải quyết được vấn đề của ta, ta sẽ giải
quyết vấn đề của anh.” Người hỏi cảm thấy hài lòng là đã có một
người sẽ giải quyết vấn đề cho mình, với điều kiện là người đó
giải quyết vấn đề của người kia trước. Rinzai sẽ nói, “Khó khăn
của ta là ở chỗ ta để quả trứng ngỗng trong một cái bình. Một con
ngỗng con phá vỡ vỏ trứng chui ra và bắt đầu lớn lên. Ta vẫn
nuôi nó qua miệng bình. Bây giờ ta muốn lấy nó ra, nhưng nó đã
lớn nhiều đến mức cổ bình thành quá hẹp với nó; mà ta không
muốn đập vỡ bình vì nó rất giá trị. Bây giờ anh chỉ cho ta cách
giải quyết. Con ngỗng bị mắc vào trong bình, cổ bình quá hẹp nó
không chui ra được. Cho nên đừng nói, ‘Đem nó ra qua miệng
bình.’ Chúng ta đã thử điều đó rồi. Nếu nó vẫn còn ở đó lâu thêm
nữa nó chắc chết - và anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho điều đó!”
Khi nghe thấy điều này, phần lớn người hỏi đều trở nên rất
bồn chồn. Họ sẽ nói, “Điều này là không thể được. Thầy đang
định bảo chúng tôi cái gì?” Nhưng trong biến cố này một người
nói, “Tôi sẽ cố gắng, tôi đang nghĩ ra một lối thoát,” thế rồi
Rinzai sẽ nói, “Sang ngay phòng bên và thiền về nó. Đừng mất
nhiều thời gian, vì cuộc sống con ngỗng đang lâm nguy. Thiền
nhanh lên và sâu vào vì con ngỗng có thể chết vào bất kì lúc
nào.” Có một lối ra khác cho cái phòng bên đó, và khi Rinzai mở
cánh cửa sau nửa giờ, ông ấy bao giờ cũng thấy rằng người hỏi
đã chạy mất. Thế rồi Rinzai trở và bảo với bạn bè anh ta, “Cái
bình rỗng, con ngỗng ở ngoài!”

Chỉ một lần ông ấy nhận được đáp lại từ một người, nhưng
người đó không đến để hỏi điều gì từ Rinzai. Một sáng người đó
tới và ngồi gần Rinzai. Rinzai nói, “Anh muốn hỏi ta điều gì
không?”
Người này đáp, “Thầy muốn chỉ cho tôi điều gì chăng? Tôi
không muốn hỏi bất kì điều gì. Nếu ai đó háo hức phô bầy điều gì
đó, để cho người đó phô bầy điều đó!”

Rinzai sửng sốt bởi lời đáp và nghĩ, “Tay này thật nguy
hiểm. Nó hoặc sẽ giết chết con ngỗng hoặc đập vỡ cái bình!”
Nhưng bây giờ không có lối ra nào. Bởi vì điều này đã trở thành
một thực hành khá lâu, Rinzai không thể đừng mà không hỏi
người này về câu đố của mình. Ông ấy nói, “Không, ta không cái
gì để phô bầy cả. Thực ra, bản thân ta đang trong khó khăn.”
Người lạ yêu cầu Rinzai kể lại cho mình khó khăn của ông ấy.
Thế là Rinzai kể cho anh ta. Khi ông ấy vừa kết thúc, người này
đứng dậy, tóm cổ Rinzai. Rinzai phản đối, “Con ngỗng không ở
bên trong ta, nó ở trong cái lọ ấy.”
Nhưng người này nói, “Ta đang đem con ngỗng ra đây,” và
yêu cầu Rinzai nói, “Con ngỗng ở bên ngoài cái lọ!”
Rinzai nói, “Đúng, nó ở ngoài!”
Cuộc sống không phải là câu đố, và những người cố gắng
làm cho nó thành câu đố đều lâm vào khó khăn. Cuộc sống
không phải là vấn đề; những người làm nó thành vấn đề đều phải
tìm kiếm câu trả lời của nó, và mọi câu trả lời chỉ làm cho họ
phân vân nhiều hơn nữa. Cuộc sống là bí ẩn để mở - tuyệt đối để
mở trước mắt bạn và tất cả quanh chúng ta. Nó không bị che giấu
ở đâu cả, nó không bị khuất sau bất kì tấm rèm nào, và vậy mà nó
là một bí ẩn.

Có khác biệt giữa bí ẩn và câu đố. Câu đố có nghĩa là cái
không mở nhưng có thể được mở ra. Bí ẩn nghĩa là cái đã mở và
vẫn còn không mở; cái mà, qua việc mở ra, vẫn còn sâu lắng đến
mức mặc cho các cuộc hành trình vô số kiếp của bạn, bạn sẽ thấy
rằng bao giờ cũng có cái gì đó còn lại để được biết. “Cái toàn thể
đến từ cái toàn thể, và vậy mà cái toàn thể còn lại, và khi cái toàn
thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn còn nhiều như nó
trước đó.” Lời kinh này hướng dẫn vào sự kiện là người đồng ý
với nó có thể đi vào bí ẩn này. Và người không đồng ý với nó,
nói điều ấy là không thể được, sẽ vẫn còn bên ngoài cánh cửa.
Người đó không thể đi vào được. Cuộc sống là bí ẩn; nó nằm
ngoài logic và hợp lí.

Qui tắc của logic do trí tuệ con người lập ra. Chúng không
được viết ở đâu trong tự nhiên. Tự nhiên không hỗ trợ cho các
qui tắc logic. Chúng là nhân tạo và tạm thời, mặc dầu chúng ta
quên mất rằng chúng là thế. Mọi qui tắc của chúng ta đều giống
thế này, giống qui tắc của trò chơi. Chẳng hạn, trong trò chơi cờ
vua, có quân đầu ngựa và quân cờ thấp và vân vân. Có các qui
tắc qui định nước đi của chúng, và người chơi cờ chơi với sự
nghiêm chỉnh lớn. Sự kiện là, người ta dường như không nghiêm
chỉnh trong cuộc sống như họ nghiêm chỉnh khi chơi cờ. Nếu cãi
cọ nảy sinh giữa những người chơi, có khi họ còn đánh lẫn nhau,
kiếm lăm lăm trong tay. Quân cờ tất cả đều làm bằng gỗ, và vậy
mà người chơi quên mất và hành xử như trẻ con. Thực tế thì
không có quân đầu ngựa, quân cờ thấp, quân vua; toàn bộ trò
chơi chỉ là giả vờ.

Mọi qui tắc của logic trong cuộc sống đều giống như qui tắc
của cờ vua - chúng đều là giả. Không có qui tắc nào đã được
cuộc sống hay tự nhiên trao cho. Tất cả đều là việc chúng ta bắt
chúng ta phải theo. Các qui tắc của chúng ta giống như luật giao
thông. Ở Ấn Độ mọi người đi bên trái, ở Mĩ người ta đi bên phải.
Nếu bạn phá luật này hoặc ở Ấn Độ hoặc ở Mĩ, bạn sẽ bị đưa về
đồn cảnh sát. Mọi người rất kì lạ. Nhưng một điều là chắc chắn:
bạn phải lái xe hoặc bên trái hoặc bên phải, bằng không sẽ có hỗn
độn trên đường. Và trong khi lái xe ở bên trái, dần dần chúng ta
bắt đầu nghĩ rằng có một nguyên tắc nền tảng nào đó, tối thượng
nào đó trong nó. Không có cái gì thuộc loại đó. Nó đơn thuần chỉ
là sự thu xếp nhân tạo.

Mọi qui tắc logic của chúng ta đều là phương sách, cần cho
việc điều chỉnh cuộc sống chúng ta; nhưng dần dần chúng ta trở
nên bị mắc bẫy bởi chúng đến mức chúng ta cố gắng áp dụng
chúng cho toàn thể bí ẩn của cuộc sống. Chúng ta cố gắng đảm
bảo rằng cuộc sống của chúng ta tuân theo chúng. Một người trở
nên lập dị khi người đó làm cho cuộc sống của mình phải tuân
theo qui tắc của riêng mình. Đây là đặc trưng chính của người
điên. Tôi gọi một người là lành mạnh khi người đó cư xử với bản
thân mình theo điều bí ẩn của cuộc sống, và tôi gọi một người là
điên khi người đó cố gắng ép buộc các qui tắc của riêng mình lên
cuộc sống của mình. Đó là khi khó khăn đi vào cuộc sống người
đó; và chúng ta đã chất đầy các qui tắc quanh các kiếp sống của
mình.

Sẽ dễ dàng hiểu được lời kinh này nếu chúng ta hiểu một
hoặc hai qui tắc của logic. Một trong những qui tắc cơ bản của
logic là ở chỗ A là A và không thể là B. Như thế cũng được,
tuyệt đối đúng, nhưng không có cái gì trong cuộc sống mà sẽ
không đổi thành cái gì đó khác. Không có gì trong cuộc sống mà
sẽ không đổi thành cái đối lập của nó. Mọi thứ trong cuộc sống
đều là luồng, mọi thứ đều thay đổi. Đêm đổi thành ngày và ngày
đổi thành đêm. Tuổi thơ đổi sang tuổi thanh niên và tuổi thanh
niên đổi sang tuổi già. Sống đổi vào trong chết. Đôi khi chất độc
đổi thành nước cam lồ. Tất cả thuốc đều là chất độc, nhưng
chúng là nước cam lồ cho người ốm. Có tính luồng chảy trong
cuộc sống, nhưng có tính cứng nhắc trong các qui tắc bởi vì
chúng không sống.

Có biết bao nhiêu người ngồi trong phòng này. Giả sử tôi rời
đi, quay trở lại sau một giờ, và tôi trông đợi bạn vẫn cứ ngồi tại
cùng chỗ và trong cùng vị trí khi tôi rời đi; thế thì hoặc tôi là lập
dị hoặc bạn là lập dị. Nếu tôi thấy bạn vẫn là bạn như lúc tôi rời
đi, thế thì bạn hiện hữu! Chắc chắn phải có một thay đổi nào đó,
bằng không xác chết phải đang ngồi đó. Người sống chắc chắn
phải thay đổi vị trí và tư thế.
Một tình huống khó xử khá giống tình huống này đã có thời
xuất hiện trong một thị trấn nào đó. Một nhà logic - và cũng khó
mà nhớ được số những điều khó xử của nhà logic - đến một cửa
hiệu cắt tóc vào sáng sớm để cắt tóc. Ông ấy cắt tóc xong. Tiền
cắt tóc là năm mươi xu, và nhà logic đưa cho ông thợ cắt tóc một
đồng ru pi. Không có tiền trả lại, ông thợ cắt tóc bảo khách hôm
sau quay lại để lấy tiền thừa. “Làm sao mình có thể chắc chắn
được rằng cho tới mai gã này sẽ không đổi lời hứa hay đổi nghề
đây?” nhà logic nghĩ thầm.

Nói chung các nhà logic đều đòi hỏi bằng chứng. Ông ta biện
luận với bản thân mình, “Thế nhỡ gã này đổi nghề vào ngày mai
thì sao? Thế nhỡ gã đóng cửa hàng cắt tóc và mở cửa hàng kẹo
thì sao? Người ta sẽ cười mình nếu mình nói gã này đã cắt tóc
cho mình. Họ sẽ nói, ‘Nhưng ông ấy là người bán kẹo cơ mà!’
Cho nên ta phải nghĩ ra một thủ đoạn nào đó để cho gã không thể
lừa được mình.”

Ông ta nghĩ rất lâu, thế rồi ông ta thấy một con trâu đang
nằm đối diện với cửa hàng cắt tóc. Ông ta nghĩ, “Điều này thật
hoàn hảo! Rất khó để mà di chuyển được con trâu. Nó là con vật
bình thản và điềm tĩnh - giống hệt các qui tắc của logic. Nó nằm
kiên quyết trên đường, phớt lờ mọi qui tắc giao thông. Ông thợ
cắt tóc không bao giờ có thể thuyết phục được nó di chuyển. Làm
sao ông thợ cắt tóc có thể thuyết phục được nó khi mà ngay cả
nhà logic còn không làm được nữa là?”

Ông ta về nhà sau khi đã thiết lập chắc chắn rằng con trâu
vẫn nằm đối diện với cửa hàng cắt tóc này. Hôm sau ông ta trở
và thấy con trâu vẫn nằm đó. Nhìn sang phía đối diện, ông ta thấy
rằng mối phiền luỵ mà ông nghi ngờ đã diễn ra. Phía đối lập con
trâu là cửa hàng kẹo. Ông ta chạy vào, tóm cổ người bán kẹo và
nói, “Ta đã nghi ngờ điều này từ hôm qua rồi, cho nên ta đã nghĩ
ra một kế hoạch để làm thất bại cái mẹo vặt của mi. Thế này thì
quá lắm! Mi đã thay đổi cả nghề nghiệp của mình chỉ để giữ lấy
vài đồng xu!” Nhà logic tội nghiệp không biết rằng con trâu
không tuân theo qui tắc của logic. Nó không phải là con vật cố
định, đứng im; trong đêm nó đã di chuyển và nằm đối diện với
cửa hàng của người bán kẹo.

Các qui tắc của logic là phi cuộc sống. Cuộc sống là luồng
sống động, luồng chảy. Những người coi các qui tắc của logic là
có giá trị và cố gắng sống tương ứng theo chúng đều kết thúc với
việc giữ những thứ chết trong tay họ, nhưng những người thoát
khỏi mạng lưới logic và nhảy vào trong cuộc sống có khả năng
biết tới điều bí ẩn của cuộc sống. Đó là lí do tại sao lời kinh này
nói tới việc phá vỡ mọi mạng lưới logic. Tôi đang nói cho bạn về
điều hướng dẫn, điều chỉ dẫn bên trong lời kinh này, không phải
về câu chữ thực tại của nó. Tôi đã giải thích nghĩa của nó cho bạn
vào ngày đầu tiên. Đây là nghĩa bên trong của nó. Phá vỡ mọi qui
tắc của logic đi, bởi vì nếu bạn tuân theo chúng sẽ khó khăn cho
bạn đi vào cuộc sống.

Plato là một nhà logic rất vĩ đại sống ở Hi lạp hai nghìn năm
trăm năm trước. Ông ấy đáng được gọi là là cha đẻ của logic.
Ông ấy đã có một hàn lâm viện rất nổi tiếng tại đó ông ấy dạy
logic cho sinh viên. Một nhà huyền môn lang thang tên là
Diogenes có lần tới hàn lâm viện này. Ông ấy là một nhà huyền
môn tinh quái và vui đùa; có rất ít người giống ông ấy. Giống
như Mahavira, ông ấy thậm chí đã vứt bỏ quần áo của mình. Khi
ông ấy tới Plato đang dạy trong lớp, giải thích các nguyên lí của
logic. Plato được biết tới trong nước chúng ta như Afalatoon. Do
đó, nếu một ai đó làm phiền nhiễu mọi người với những biện
luận và qui tắc logic, người đó bị chế nhạo bởi cái tên Afalatoon.
Plato là một nhà logic lừng dang đến mức nếu ai đó bắt đầu tranh
luận một cách logic, cho dù trong một làng nhỏ, mọi người đều
sẽ nói, “Ông ta là một Afalatoon lớn,” cho dù người ta không biết
Afalatoon là ai.

Diogenes đã tới hàn lâm viện nơi Plato đang dạy học. Vào
khoảnh khắc đó một sinh viên đứng dậy và yêu cầu Plato định
nghĩa về con người. Plato nói, “Con người là một con vật hai
chân không có lông vũ.” Đứng sau người thầy, Diogenes lắng
nghe, và ông ấy cười to khi nghe thấy định nghĩa này. Plato nhìn
quanh, rồi hỏi ông ta, “Sao ông cười?”
Ông ấy đáp, “Tôi đang định đi tìm câu trả lời cho định nghĩa
này.” Ông ấy đi ra ngoài, bắt lấy một con gà, con gà trống, nhổ
hết lông. Ông ấy đem con gà trống vào lớp và nói, “Đây là định
nghĩa của ông về con người. Nó không có lông vũ, và có hai
chân.” Thế rồi ông ấy yêu cầu Plato đưa ra một định nghĩa khác,
“Và khi ông nêu ra định nghĩa, xin cho tôi biết, và tôi sẽ đem
cho ông câu trả lời khác!”

Tương truyền rằng Plato không bao giờ đưa ra định nghĩa
khác. Ông ta biết Diogenes là một tay chuyên gây rối. Bản thân
ông ta đã từng thấy cách thức ông này vặt lông con gà rồi đem nó
vào cho ông, và ông ta nghĩ, “Ai mà biết tay này sẽ làm cái gì
tiếp nữa đây?” Diogenes đến hàn lâm viện nhiều lần để tìm xem
liệu Plato có đưa ra định nghĩa nào khác không. Cuối cùng Plato
trở nên bồn chồn và nói, “Này ông bạn, xin lỗi ông, tôi đã phạm
phải sai lầm trong việc định nghĩa con người theo cách này. Ông
còn định quấy rối tôi bao lâu nữa?”
Diogenes đáp, “Tôi muốn nghe ông thú nhận về sai lầm của
ông. Tại sao nói về con người? Ngay cả một mẩu đá cũng không
thể được định nghĩa. Cuộc sống là không định nghĩa được, không
định nghĩa nào là có thể có cho bất kì cái gì. Tôi muốn ông thú
nhận sai lầm của ông. Bây giờ tôi sẽ đi. Tôi cũng phát chán về
cách định nghĩa của ông.”

Các qui tắc của logic là cố định, trong khi cuộc sống tuôn
chảy. Con sóng này đổi thành con sóng khác. Trong khi bạn đang
định nghĩa thứ này, cái gì đó khác đang xảy ra cho nó trong cùng
lúc. Trước khi bạn kết thúc coi một người là giận dữ, người đó đã
bắt đầu yêu cầu bạn tha thứ. Thế thì bạn sẽ làm gì? Sự kiện là ở
chỗ cơn giận dữ rất có thể đã biến mất trước khi bạn kết thúc việc
nói rằng người này đang giận dữ - cái gì kéo dài mãi trong cuộc
sống này? - cho nên định nghĩa của bạn sẽ không đúng.
Các định nghĩa bao giờ cũng là về quá khứ, trong khi cuộc
sống bao giờ cũng là hiện tại. Cuộc sống là thay đổi thường
xuyên, mọi thứ đều đang thay đổi từng khoảnh khắc, nhưng các
định nghĩa vẫn còn cố định, vẫn còn như đã thiết lập. Không có
trưởng thành, không có thay đổi trong chúng. Chúng giống như
ảnh chụp của chúng ta vậy. Giả sử ai đó chụp ảnh tôi; bây giờ nó
sẽ vẫn còn lại cố định và tĩnh tại, trong khi tôi đang trở nên già
hơn vào mọi khoảnh khắc. Cuộc sống giống như một người đang
sống; các định nghĩa là cứng nhắc và không sống. Lời kinh này
nói không có tính hợp lí, không có logic về cuộc sống. Cuộc sống
là bí ẩn.
Có một nhà huyền môn Ki tô giáo tên là Tertullian. Ai đó hỏi
ông ấy, “Tại sao ông tin vào Thượng đế? Cái gì là lí do cho niềm
tin của ông?”

Ông ấy nói, “Ông muốn biết lí do sao? Khi tôi nhìn vào cuộc
sống, tôi thấy rằng không có lí do nào cho bất kì cái gì. Thế rồi
tôi nghĩ, ‘Bây giờ chẳng hại gì trong việc tin vào Thượng đế. Khi
mà toàn thể cuộc sống bản thân nó là không có lí do gì, Thượng
đế cũng có thể được tin mà không có lí do gì.’ Và nếu ông không
tin vào Thượng đế vậy mà vẫn hỏi tôi câu hỏi ấy, tôi sẽ bảo ông,
tôi tin vào Thượng đế bởi vì ngài là ngớ ngẩn toàn bộ” - ông ấy
dùng từ ngớ ngẩn... tôi nghĩ nó là từ đúng - “bởi vì tôi đã xem xét
mọi qui tắc, đã phân tích chúng, và thấy chúng không đúng. Tôi
đã kiểm nghiệm mọi lập luận logic và thấy nó sai. Mọi định
nghĩa tôi đã kiểm thử đều bị chứng tỏ là sai. Bất kì điều gì tôi
xem xét đúng về mặt trí tuệ, tới cùng lại bị chứng tỏ là sai. Bây
giờ tôi đã bỏ sự trợ giúp của trí tuệ và lập luận và trở thành người
vô lập luận. Tôi tin vào Thượng đế.”
Đây là ý nghĩa đúng đắn của tin cậy.

Nó có nghĩa là nhảy vào trong cái không biết. Lời kinh này
giải thích tin cậy là gì. Lời kinh này là về tin cậy. Khi gạt sang
bên mọi qui tắc, mọi định nghĩa và mọi tính toán, việc nhảy vào
trong cái không đo được chính là nghĩa của tin cậy. Bỏ lập luận
để nhảy vào trong cái vô lập luận.
Bạn nên nhớ rằng các triết gia là những người cố gắng tìm
kiếm chân lí của cuộc sống với sự giúp đỡ của trí tuệ. Cho đến
giờ họ vẫn không có khả năng phát hiện ra được cái gì. Họ đã
viết hàng nghìn cuốn sách, nhưng sách của họ đơn thuần chỉ là
trò chơi chữ. Họ là người thành thạo trong diễn giải lời nói và họ
trải rộng tấm lưới lời nói của mình một cách ranh mãnh và rộng
đến mức khó mà tìm được lối ra. Nhưng họ không biết gì cả,
không biết chút nào. Những người biết tới chân lí của cuộc sống
là các nhà huyền môn và các hiền nhân. Đây là những người,
thay vì thực hành tung hứng lời, chìm vào trong sự tồn tại.
Tại sao chúng ta phải cố gắng học trong sách vở sông Hằng
là gì? Khi sông Hằng đang chảy, tại sao chúng ta không chìm
mình vào trong nó để biết nó là cái gì? Có thể người ta đã viết
trong sách vở, trong thư viện, sông Hằng là gì, nhưng chúng ta có
nên viện tới sách vở để biết nó là gì không? Tại sao chúng ta
không nên biết nó bằng cách thực tế đi vào nó? Có hai cách để
biết. Nếu tôi muốn biết về tình yêu, tôi có thể tới thư viện và đọc
sách về nó và học tất cả về nó. Cách khác là với tôi rơi một cách
cá nhân vào trong nó thật sâu sắc. Cách thứ nhất dứt khoát dễ
dàng hơn, cho nên người yếu đuối viện tới con đường đó; ngay
cả trẻ con cũng có thể đọc về nó. Nhưng thực sự biết yêu là trải
qua thử lửa lớn, qua ăn năn lớn, qua thử thách lớn bằng lửa.
Biết yêu và biết về yêu là hai điều khác nhau. Không có mối
liên hệ gì giữa chúng. Tương tự, biết chân lí và biết về nó là hai
điều khác nhau. Bất kì cái gì được biết về chân lí tất cả đều là tri
thức vay mượn, nó tất cả đều là cũ rích. Người muốn biết chân lí
sẽ phải nhảy ra khỏi trí tuệ của mình.

Một người bạn tới gặp tôi hai hôm trước đây. Người đó nói,
“Tôi nghi ngờ tất cả những gì tôi nghe thấy. Tôi nghi ngờ ngay
cả điều thầy nói, và con sẽ tiếp tục nghi ngờ điều thầy sẽ nói.
Nhưng tôi có vài câu hỏi, xin thầy trả lời chúng.”
Tôi bảo anh ta, “Bạn sẽ làm gì với câu trả lời bạn nhận được
từ tôi? Tại sao bạn muốn gây rắc rối vô dụng cho tôi khi bạn
không được chuẩn bị để di chuyển dù chỉ chút xíu từ lập trường
hoài nghi của bạn? Bạn nên sống trong hoài nghi của mình. Tại
sao bạn đã đến để hỏi tôi? Đừng hỏi bất kì ai nếu bạn quyết tâm
hoài nghi, bởi vì bất kì cái gì người đó nói đều sẽ là tri thức của
người đó, nó không thể là của bạn được, và bạn sẽ hoài nghi nó.
Sự tồn tại trải rộng mọi bề - hoa nở, chim chóc nhảy múa, mây dời trên trời, mặt
trời lên, cuộc sống rộn ràng bên trong bạn. Sự tồn tại có việc mở rộng vô tận! Nhảy vào trong nó đi, biết từ đó!

Hỏi người khác là vô tích sự - đằng nào bạn cũng sẽ hoài nghi.
Nhưng tôi muốn hỏi bạn một điều: Khi nào thì cái ngày đó tới,
cái ngày mà bạn hoài nghi về sự hoài nghi của bạn?”
Khi một người quyết tâm hoài nghi, người đó nên hoài nghi
bản thân sự hoài nghi; theo cách đó người đó có thể đạt tới cái gì
đó qua hoài nghi của mình. Từ trước tới giờ việc hoài nghi của
bạn đã đạt được cái gì? Nếu không, đấy là bởi vì bạn đã không
hoài nghi về bản thân hoài nghi. Bạn đã không hoài nghi một
cách toàn bộ. Nhớ trong tâm trí, tin cậy tới từ hai nguồn. Hoặc
không có hoài nghi nào hết cả và lấy cú nhảy, hoặc làm cho việc
hoài nghi của bạn thành sâu sắc đến độ bạn hoài nghi bản thân sự
hoài nghi. Vậy hoài nghi của bạn sẽ huỷ bỏ việc hoài nghi thêm
nữa và bạn sẽ thành trống rỗng hoài nghi, và thoát ra khỏi ảnh
hưởng của trí tuệ. Không phải là trí tuệ bạn tạo ra hoài nghi; trí
tuệ bạn là hoài nghi của bạn.

Sau khi hiểu lời kinh này, những người hồn nhiên và trung
thực không nên hoài nghi về nó; còn những người tinh tế và phức
tạp về bản chất thì nên hoài nghi nó một cách toàn bộ. Tin cậy sẽ
được sinh ra từ cả hai điều kiện này và bạn sẽ có khả năng thực
hiện cú nhảy.

Những người biết tin cậy là gì sẽ hiểu thấu ý nghĩa của lời
kinh này, và những người có tin cậy ở trong lập luận sẽ không có
khả năng hiểu thấu nghĩa của nó, bởi vì lập luận không có chỗ
trong nó. Logic sẽ không đồng ý với phát biểu rằng cái hoàn hảo
đi ra từ cái hoàn hảo, và cái còn lại cũng là hoàn hảo. Nhưng tin
cậy sẽ đồng ý với nó, bởi vì điều đó là rất hồn nhiên và trung
thực. Đó là tin cậy - niềm tin - trong sự tồn tại. Nó nói, “Không lẽ
mình không có niềm tin nào đó vào sự tồn tại này, cái đã cho
mình năng lực suy nghĩ, cái cho mình tình yêu, cái cho mình trái
tim sao? Không lẽ mình không thể trao một chút ít tin cậy bạn bè
cho sự tồn tại này, cái đã cho mình cuộc sống, nhận biết và tâm
thức sao? Nếu mình không thể làm được, đấy thực sự là vô ơn
lắm.” Lời kinh này đòi hỏi sự tin cậy và đức tin từ chúng ta. Nó
hướng dẫn rằng duy nhất tin cậy sẽ mở ra cánh cửa cuộc sống,
một mình tin cậy sẽ giúp bạn đạt tới đỉnh của cuộc sống. Đây là
nghĩa giấu kín của nó.

Cuối cùng bạn nên hiểu đầy đủ điều nó đang nói về cái toàn
thể, tại cuối cũng như tại đầu. Mọi thứ trong cuộc sống đều
dường như không hoàn hảo. Có thể Ishavasya nên nói về cái
không hoàn hảo, bởi vì thế thì nó sẽ nói về các sự kiện. Không cá
nhân nào dường như hoàn hảo, không tình yêu nào dường như
hoàn hảo; không quyền năng nào không hình dạng nào dường
như hoàn hảo. Mọi thứ trong cuộc sống đều không hoàn hảo. Thế
thì tại sao hiền nhân này của Ishavasya nghĩ về bắt đầu và kết
thúc trong thảo luận của ông ấy về cái toàn thể? Những người tin
vào chủ nghĩa hiện thực sẽ lên án điều này là phi hiện thực. Họ sẽ
chỉ trích nó như sự giả vờ đồng bóng của những tay mơ. Bất kì
cái gì toàn thể hay hoàn hảo trong thế giới này ở đâu? Điều lời
kinh này chỉ dẫn là sự kiện rằng bất kì chỗ nào cái không hoàn
hảo được bạn thấy, đấy là do cái không hoàn hảo của năng lực
của bạn để thấy, bởi vì bằng không, không có sự không hoàn hảo
ở bất kì đâu cả. Thực tại cái không hoàn hảo nằm ở cách nhìn của
chúng ta.

Hoàn cảnh của chúng ta giống như một người nhìn lên trời từ
cửa sổ nhà mình. Tất cả chúng ta đều làm điều đó. Một cách tự
nhiên người đó sẽ thấy bầu trời bị cắt theo hình cửa sổ. Đường
biên của cửa sổ cũng sẽ là đường biên của bầu trời. Liệu có phải
là sai lầm không nếu một người, chưa bao giờ thấy bầu trời rộng
mở từ bên ngoài toà nhà mình, nói rằng bầu trời là hình chữ nhật?
Không, không có sai lầm gì cả, bởi vì bầu trời bao giờ trông cũng như thế nếu
được nhìn từ cửa sổ. Sẽ khó khăn cho người như thế
để quan niệm rằng không có cái khung như thế trên bầu trời.
Cái khung này là cửa sổ của riêng bạn, không có khung nào
quanh bầu trời. Nó được bạn dựng lên. Bầu trời tuyệt đối không
có khung và không có dạng. Nhưng không ở đâu nó dường như
vô dạng cả, ngay cả khi chúng ta đi ra ngoài nhà. Cái khung trở
thành lớn hơn một chút, nó giả định có dạng trái đất. Bầu trời
dường như bao quanh toàn bộ quả đất, giống như mái vòm - vòm
của các ngôi đền cũng được xây dựng theo mô hình này. Ngay cả
giữa ngoài trời bạn vẫn đang đứng bên trong cửa sổ - trái đất là
cửa sổ - cho nên nó không tạo ra khác biệt gì. Tiến xa thêm nữa,
đi vòng quanh cả trái đất. Bạn sẽ thấy rằng bầu trời không chạm
vào đất ở đâu cả: không có đường chân trời, nó là giả như khung
cửa sổ bao quanh bầu trời vậy. Nhưng ngay cả khi bạn bay trong
một con tầu không gian bạn sẽ thấy bầu trời theo một quan điểm
đặc biệt, và điều đó sẽ dường như là biên giới của nó. Dù nó mở
rộng đến mức nào cũng không thành vấn đề, nó vẫn là biên giới
của nó.

Thế thì chúng ta có thể đi đâu nơi chúng ta sẽ có khả năng
thấy được cái vô dạng? Các hiền nhân của Upanishad nói, “Chỉ
có một chỗ, và đó là bên trong ông, nơi không có cửa sổ chút
nào.” Gạt sang bên việc dùng các giác quan bởi vì chúng tạo ra
các khung. Các giác quan của chúng ta là những cửa sổ. Nếu
chúng ta nhìn bất kì đâu với sự giúp đỡ của các cửa sổ này, hình
dạng sẽ được tạo ra. Nhắm mắt lại và đi vào bên trong; không có
mắt, không có tai, không có tay và chân, không có thân thể, và
chìm ngày càng sâu hơn vào bên trong nơi mọi thứ đều vô dạng.
Tại đó bạn sẽ kinh nghiệm cái toàn thể.

Sau khi đã kinh nghiệm cái toàn thể bên trong, hiền nhân này
đã khẳng định rằng nó là như vậy, và rằng người đã biết đến cái
toàn thể bao giờ cũng sẽ thấy cái toàn thể, dù người đó đi đâu
cũng không thành vấn đề, dù người đó có nhìn qua cửa sổ nào
cũng không thành vấn đề. Cho dù người đó nhìn lên bầu trời khi
đứng sau một khung cửa sổ rất nhỏ, người đó vẫn biết rõ rằng cái
khung đó là cái khung cửa sổ của mình và không phải là của bầu
trời. Bất kì ai đã có lần thấy cái toàn thể bên trong cũng đều sẽ
bắt đầu thấy nó ở mọi nơi. Người đó có thể bị bao bọc quanh
mình bởi bất kì cửa sổ nào, người đó có thể bị nhốt trong bao
nhiêu nhà tù, vậy mà người đó biết rằng các nhà tù đó bị áp đặt
bên ngoài; cái vô dạng vẫn ngồi tĩnh lặng bên trong.
Do đó hiền nhân này bắt đầu và kết thúc bài nói của mình
bằng cái toàn thể. Sẽ không có hài hoà, không đồng điệu giữa lời
kinh này và bản thân chúng ta nếu chúng ta đứng quay lưng lại
nó. Chúng ta và hiền nhân của Upanishad đang đứng quay lưng
nhau. Chúng ta nghe thấy lời của ông ấy, nhớ chúng vào kí ức,
lặp lại chúng mọi sáng; nhưng nếu chỉ lưng chúng ta chạm tới,
thế thì nghĩa mà chúng ta nhận được từ chúng trở thành vô dụng.
Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là ở chỗ cái toàn
thể này là chân lí duy nhất. Nó ở mọi phía; mọi thứ đều là cái
toàn thể. Không có vấn đề chút nào về cái không hoàn hảo. Làm
sao có thể có cái không hoàn hảo? Ai sẽ tạo ra nó? Một mình
Thượng đế hiện hữu; không có ai khác có thể làm ra cái không
hoàn hảo. Một mình Thượng đế hiện hữu, cho nên ai sẽ vẽ ra
biên giới? Biên giới bao giờ cũng được tạo nên bởi sự hiện diện
của cái khác. Nếu bạn nghĩ biên giới của nhà bạn được làm bằng
nhà bạn, thế thì bạn sai lầm. Nó được làm bằng nhà của hàng
xóm đấy. Nó không được làm bằng nhà của bạn theo ý riêng của
nó đâu, nó bao giờ cũng được làm bằng sự hiện diện của nhà
khác.

Thượng đế bao giờ cũng một mình, sự tồn tại bao giờ cũng là
một, luồng chảy của sự tồn tại bao giờ cũng là một. Không có cái
khác chút nào. Ai sẽ làm ra biên giới? Ai sẽ làm ra cái không hoàn hảo? Không,
điều đó là không thể được; sự tồn tại là vô giới hạn, sự tồn tại là tuyệt đối. Nhưng chúng ta sẽ chỉ biết nó khi
chúng ta có khả năng bắt được thoáng nhìn về nó ở bên trong.
Người đã nếm dù chỉ một giọt của đại dương bên trong là có
khả năng biết đến cái bí ẩn của đại dương vô biên. Cái toàn thể
đến từ cái toàn thể, và cũng bị hấp thu vào trong cái toàn thể; và
ở giữa cái không hoàn hảo đến, cái được tạo ra bởi khuôn khổ
của trí tuệ chúng ta, bởi giác quan chúng ta. Từ bỏ các khuôn khổ
này, đi chút ít ra ngoài chúng đi. Thế thì bạn sẽ được thiết lập
trong cái toàn thể, và người đã được thiết lập như vậy trong cái
toàn thể sẽ có khả năng hiểu được nghĩa ẩn kín của Ishavasya.
Bây giờ, ở chỗ cuối, chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của
chúng ta vào bên trong. Vì đây là ngày cuối cùng, tôi muốn nói
với các bạn hai hay ba điều. Thứ nhất, trong thực nghiệm sáu
ngày này tôi đã đưa các bạn tới điểm mà bây giờ tôi yêu cầu bạn
bổ sung thêm một việc nhỏ vào nó. Sẽ có bùng nổ lớn nếu điều
đó được thêm vào, cho nên được chuẩn bị về nó đi.

Khi bạn nhìn vào tôi, nhìn chăm chú cố định, đừng nháy mắt,
và đồng thời, với từng hơi thở ra làm ra âm thanh Hu, Hu! Âm
thanh này của Hu, Hu sẽ đập mạnh vào kundalini đang ngủ của
bạn. Người Sufi đã nghiên cứu sâu vào trong âm thanh Allah Hu!
Họ bắt đầu với âm Allah Hu, rồi dần dần từ Allah bị bỏ đi và chỉ
còn lại Hu. Hô âm Hu thật mạnh, và khi bạn làm như vậy, rốn
bạn sẽ co lại. Để cho Hu của bạn đập mạnh vào phía dưới rốn.
Điều này sẽ làm cho rốn bạn co lại hoàn toàn và đập vào
kundalini. Đấy là chỗ kundalini đang ở. Nó sẽ bị đập mạnh vào.
Chín mươi phần trăm trong chúng ta bây giờ đang trong điều
kiện khi âm Hu đập vào mạnh đến mức năng lượng bên trong sẽ
bắt đầu dâng lên giống như ngọn lửa. Khi nó dâng lên tôi sẽ đưa
ra một dấu hiệu bằng tay với bạn. Rồi hãy phát rồ lên! Khi tôi
nâng tay đưa lên bạn sẽ kinh nghiệm năng lượng bên trong dâng
lên - dâng lên như ngọn lửa. Bạn sẽ cảm thấy rằng tất cả sinh lực
của bạn đang dâng lên; bạn sẽ cảm thấy siêu việt. Thế rồi bắt đầu
hò hét to, nhảy, múa, với tất cả khả năng của bạn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến