Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Đừng quá lành mạnh

Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu,
Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của đứa trẻ trước
việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã thức tỉnh của
vị Phật?
Có tương đồng và cũng có dị biệt. Về bản chất đứa
trẻ là vị Phật, nhưng phật tính của nó, hồn nhiên của nó,
là tự nhiên, không do kiếm được. Hồn nhiên của nó là
một loại dốt nát, không phải là nhận thức rõ. Hồn nhiên
của nó là vô ý thức - nó không biết về điều đó, nó không
để tâm tới điều đó, nó không để ý gì đến điều đó. Điều đó
có đấy mà nó quên lãng. Nó đang làm mất điều đó. Nó
phải làm mất điều đó. Cõi trời sẽ mất đi chẳng chóng thì
chầy; nó đang trên đường tiến tới điều đó. Mọi đứa trẻ
đều phải đi qua tất cả các loại hư hỏng, không thuần
khiết - thế giới này.
Hồn nhiên của trẻ con là hồn nhiên của Adam trước
khi bị đầy ra khỏi vườn Địa đàng, trước khi nếm trái tri
thức, bởi vì Adam đã trở nên có ý thức. Cũng như con
vật vậy. Nhìn vào mắt con vật mà xem - con bò, con chó
- và có thuần khiết, cùng thuần khiết đó tồn tại trong mắt
của vị Phật, nhưng với sự khác biệt.
Và khác biệt là bao la nữa: vị Phật đã về tới nhà; con
vật chưa rời khỏi nhà. Đứa trẻ vẫn còn trong vườn Địa
đàng, vẫn còn trong cõi trời. Nó sẽ phải làm mất điều đó
- bởi vì để được thì người ta phải mất. Phật đã về tới
nhà... toàn bộ vòng tròn. Ông ấy đã đi xa, ông ấy đã mất,
ông ấy đã đi lạc lối, ông ấy đã dấn thân sâu vào trong
bóng tối và tội lỗi và khổ cùng địa ngục. Những kinh
nghiệm đó là một phần của chín chắn và trưởng thành.
Không có chúng thì bạn không có xương sống nào, bạn
là loài không xương sống. Không có chúng thì hồn nhiên
của bạn là rất mong manh; nó không thể đứng lại trước
gió, nó không thể chịu đựng nổi bão tố. Nó rất yếu ớt, nó
không thể tồn tại nổi. Nó phải trải qua thử lửa cuộc đời -
phạm phải cả nghìn lẻ một sai lầm, cả nghìn lẻ một lần
bản ngã, rồi bạn lại đứng dậy trên đôi chân mình. Tất cả
những kinh nghiệm đó dần dần làm bạn chín chắn lên,
làm bạn chín muồi; bạn trở thành người lớn.
Hồn nhiên của Phật là hồn nhiên của người đã chín
chắn, hoàn toàn chín muồi. Ngây thơ là vô ý thức bản
chất; phật tính là ý thức bản chất. Ngây thơ là ngoại vi
không mang ý tưởng nào về trung tâm. Phật cũng là một ngoại vi, nhưng bắt rễ tại trung tâm, định tâm. Ngây thơ
là vô danh không ý thức; phật tính là vô danh có ý thức.
Cả hai đều không tên tuổi, cả hai đều vô hình dạng...
nhưng trẻ con còn chưa biết đến hình dạng và khổ của
nó. Điều đó cũng giống như bạn chưa bao giờ ở tù cả,
cho nên bạn không biết tự do là gì. Thế thì bạn đã ở trong
tù trong nhiều năm trời, hay nhiều kiếp, và thế rồi một
hôm bạn được thả ra... bạn đi ra khỏi cánh cửa nhà tù
nhảy múa, cực lạc! Và bạn sẽ ngạc nhiên là mọi người
đều đã ở ngoài rồi, vẫn bước đi trên phố, tiến hành công
việc của mình, tới văn phòng, tới xưởng máy, thế mà
không tận hưởng tự do của mình chút nào - họ quên lãng,
họ không biết rằng họ đang tự do. Làm sao họ biết được?
Bởi vì họ chưa bao giờ trong tù cả nên họ không biết
điều tương phản; nền tảng bị mất.
Cứ dường như là bạn viết phấn trắng lên bức tường
trắng - không ai sẽ có thể đọc được nó. Chẳng cần phải
nói tới người khác - ngay chính bạn sẽ không thể nào đọc
được điều bạn viết ra.
Tôi đã từng nghe một chuyện tiếu lâm nổi tiếng về
Mulla Nasruddin. Trong làng, anh ta là người duy nhất
có thể viết được, cho nên mọi người hay đến anh ta nếu
họ muốn viết thư hay tài liệu nào đó, hay bất kì thứ gì.
Anh ta là người duy nhất có thể viết được. Một hôm một
người tới. Nasruddin đã viết một lá thư, bất kì cái gì mà
người kia đọc ra - và đấy là một bức thư dài - rồi người
kia nói, “Xin anh đọc lại bức thư vì tôi muốn chắc rằng
mọi điều đã được viết ra và tôi không quên điều gì cả,
còn anh thì cũng không làm lộn xộn mọi thứ lên.”
Mulla nói, “Này, điều ấy khó đấy. Tôi biết viết
nhưng tôi không biết đọc. Và hơn thế nữa, bức thư lại
không gửi cho tôi cho nên đọc nó là điều bất hợp pháp
nữa.”
Và người làng được thuyết phục, ý tưởng này hoàn
toàn đúng, và người làng này nói, “Anh nói phải đấy - nó
không gửi cho anh.”
Nếu bạn viết lên tường trắng thì thậm chí bản thân
bạn cũng không thể nào đọc được nó, nhưng nếu bạn viết
lên bảng đen thì nó thành lồ lộ và rõ ràng - bạn có thể
đọc được nó. Tương phản là cần thiết. Đứa trẻ không có
tương phản; nó là lớp tráng bạc không có đám mây đen.
Phật là lớp tráng bạc trong đám mây đen.
Ban ngày vẫn có sao trên trời đấy; chúng chẳng đi
đâu cả - chúng không thể đi nhanh thế, chúng không thể
nào biến mất. Chúng đã có đó, cả ngày chúng vẫn đấy,
nhưng trong đêm bạn có thể thấy được chúng vì có bóng
tối. Chúng bắt đầu xuất hiện; khi mặt trời lặn thì chúng
bắt đầu xuất hiện. Mặt trời càng xuống thấp hơn nữa
dưới đường chân trời thì sao lại càng nở rộ hơn. Chúng
vẫn ở đó cả ngày, nhưng bởi vì bóng tối mất đi nên khó
mà thấy được chúng.
Đứa trẻ có hồn nhiên nhưng không có nền tảng. Bạn
không thể thấy nó được, bạn không thể đọc được nó; nó
không hiện rõ lắm. Vị Phật đã sống cuộc sống của mình,
đã làm tất cả những gì cần thiết - cả tốt lẫn xấu - đã chạm
tới cực này và cực kia, đã từng là tội nhân và thánh nhân.
Nhớ lấy, vị Phật không chỉ là thánh nhân; ông ấy đã từng
là tội nhân và ông ấy đã từng là thánh nhân. Còn phật
tính vượt ra ngoài cả hai. Bây giờ ông ấy đã về nhà.
Đó là lí do tại sao Phật nói trong lời kinh hôm qua:
Na jhanam, na praptir na-apraptih - ‘Không có đau khổ,
không nguồn gốc, không chấm dứt, không con đường. 

Không cảm nhận, không tri thức, không thành đạt, và
không không thành đạt.” Khi Phật trở nên thức tỉnh
người ta đã hỏi ông ấy, “Thầy đã đạt tới cái gì?” Và ông
ấy cười to, và ông ấy nói, “Ta chẳng đạt tới cái gì cả - ta
chỉ phát hiện ra cái vẫn đã có đấy. Ta chỉ đơn giản đi về
nhà. Ta đã tuyên bố rằng cái đó bao giờ cũng là của ta và
cùng với ta. Cho nên không có thành đạt nào hết cả, ta
chỉ đơn giản nhận ra nó." Đấy không phải là khám phá,
đấy là phát hiện lại. Và khi bạn trở thành vị Phật thì bạn
sẽ thấy ra vấn đề - chẳng thu được cái gì hết cả qua việc
thành Phật. Bỗng nhiên bạn thấy rằng đây là bản tính của
bạn. Nhưng để nhận ra bản tính này thì bạn phải đi lạc
lối, bạn phải đi sâu vào trong hỗn loạn của thế giới. Bạn
phải đi vào trong tất cả các nơi chốn và không gian lầy
bùn để thấy cái trong sạch tột cùng của bạn, thuần khiết
tột cùng của bạn.
Hôm nọ tôi đã nói với các bạn về bẩy cánh cửa - về
cách thức bản ngã được hình thành, về cách thức ảo
tưởng bản ngả được làm mạnh thêm. Sẽ có ích để đi sâu
thêm vào vài điều về nó.
Bẩy cánh cửa của bản ngã không phải được rõ ràng
lắm và không tách bạch hẳn lẫn nhau; chúng chờm lên
nhau. Và rất hiếm khi tìm được một người đã đạt tới bản
ngã mình từ tất cả bẩy cánh cửa này. Nếu một người đã
đạt tới bản ngã từ tất cả bẩy cánh cửa này, người ấy trở
thành một bản ngã hoàn hảo. Và chỉ bản ngã hoàn hảo
mới có khả năng tan biến đi, không phải là bản ngã bất
toàn. Khi quả chín, nó rụng xuống; khi quả chưa chín nó
vẫn còn đeo bám. Nếu bạn vẫn còn bám lấy bản ngã, nhớ
lấy, quả còn chưa chín đâu; do đó mới có níu bám. Nếu
quả chín, nó rụng xuống đất và biến mất. Đấy cũng là
trường hợp với bản ngã.
Bây giờ đây là nghịch lí: rằng chỉ bản ngã đã tiến hoá
thực sự mới có thể buông xuôi. Thông thường bạn nghĩ
rằng người bản ngã không thể buông xuôi được. Đấy
không phải là quan sát của tôi, và không phải là quan sát
của chư Phật trong nhiều thời đại. Chỉ người bản ngã
hoàn hảo thì mới có thể buông xuôi. Bởi vì chỉ người đó
mới biết đến khổ của bản ngã, chỉ người ấy mới có sức
mạnh để buông xuôi. Người ấy đã biết tất cả các khả
năng của bản ngã và đã đi vào trong thất vọng mênh
mông. Người đó đã đau khổ nhiều lắm, người đó đã biết
thế là đủ rồi, và người đó muốn có bất kì cái cớ nào để
buông xuôi theo nó. Cái cớ có thể là Thượng đế, cái cớ
có thể là một thầy, hay bất kì cớ gì, nhưng người đó
muốn buông xuôi theo nó. Gánh nặng đã quá lớn và
người đó đã phải mang đi quá lâu.
Những người còn chưa phát triển bản ngã của mình
cũng có thể buông xuôi, nhưng buông xuôi của họ sẽ
không hoàn hảo, nó sẽ không toàn bộ. Cái gì đó sâu bên
trong sẽ vẫn cứ níu bám, cái gì đó sâu bên trong sẽ vẫn
cứ hi vọng: “Có thể có cái gì đó trong bản thân nó. Tại
sao mình buông xuôi?”
Tại phương Đông, bản ngã vẫn còn chưa phát triển
lắm. Bởi vì giáo huấn về vô ngã nên việc hiểu sai đã nảy
sinh rằng nếu bản ngã cần phải bị buông xuôi, tại sao
phải phát triển nó, để làm gì? Một logic đơn giản: nếu
một ngày nào nó phải bị từ bỏ, thì bận tâm tới nó làm gì?
Thế thì sao phải mất nhiều công sức thế để tạo ra nó?
Đằng nào nó cũng phải bị loại bỏ cơ mà! Cho nên
phương Đông không bận tâm nhiều lắm vào việc phát
triển bản ngã. Và tâm trí phương Đông thấy rất dễ dàng
cúi đầu xuống trước bất kì ai. Nó thấy điều đó rất dễ
dàng, nó bao giờ cũng sẵn sàng buông xuôi. Nhưng buông xuôi này về cơ bản là không thể được, bởi vì bạn
còn chưa có bản ngã để buông xuôi nó.
Bạn sẽ ngạc nhiên: tất cả chư Phật vĩ đại ở phương
Đông đều đã là kshatriya, từ đẳng cấp chiến binh - Phật,
Mahavira, Parshwanath, Neminath. Tất cả hai mươi bốn
tirthankara của đạo Jaina đều thuộc về đẳng cấp chiến
binh, và tất cả avatara của đạo Hindu đều thuộc về đẳng
cấp kshatriya - Ram, Krishna - ngoại trừ một người,
Parashuram, người này, dường như ngẫu nhiên, được
sinh ra trong một gia đình brahmin, bởi vì bạn không thể
nào tìm ra một chiến binh lớn hơn ông ấy. Phải có ngẫu
nhiên nào đó - toàn bộ cuộc đời ông là một cuộc chiến
tranh liên tục.
Điều cũng đáng ngạc nhiên khi bạn nhận ra rằng
không một brahmin nào đã từng được công bố là vị Phật,
một avatara, một tirthankara. Tại sao? Người brahmin
khiêm tốn; ngay từ ban đầu người đó đã được nuôi nấng
trong khiêm tốn, vì tính khiêm tốn. Vô ngã đã được dạy
cho người ấy ngay từ ban đầu, cho nên bản ngã không
chín muồi, và bản ngã chưa chín thì cứ bám mãi.
Tại phương Đông người ta có bản ngã rất, rất manh
mún, và họ nghĩ thế thì dễ buông xuôi. Họ bao giờ cũng
sẵn sàng buông xuôi với bất kì ai. Đánh rơi chiếc mũ và
đã sẵn sàng buông xuôi - nhưng buông xuôi của họ chẳng
bao giờ đi rất sâu, nó vẫn còn hời hợt.
Điều đối lập lại là trường hợp của phương Tây:
người tới từ phương Tây có bản ngã rất, rất mạnh và đã
phát triển. Bởi vì toàn bộ nền giáo dục phương Tây đều
nhằm tạo ra bản ngã tiến hoá, rất xác định, rất văn hoá,
phức tạp, cho nên họ nghĩ rất khó để buông xuôi. Họ
thậm chí chưa từng nghe thấy từ buông xuôi. Chính ý
tưởng này xem ra có vẻ xấu xí, đáng mất mặt. Nhưng
nghịch lí lại là ở chỗ khi người đàn ông hay đàn bà
phương Tây buông xuôi, thì việc buông xuôi đi thực sự
sâu sắc. Nó đi tới chính cốt lõi của bản thể người đó, bởi
vì bản ngã này rất tiến hoá. Bản ngã đã tiến hoá; đó là lí
do tại sao bạn nghĩ rất khó để buông xuôi. Nhưng nếu
việc buông xuôi xảy ra thì nó đi tới chính cốt lõi, nó là
tuyệt đối. Tại phương Đông mọi người nghĩ việc buông
xuôi rất dễ dàng, nhưng bản ngã lại chưa được tiến hoá
mấy cho nên nó chẳng bao giờ đi rất sâu.
Vị Phật là người đã đi vào trong kinh nghiệm của
cuộc sống, ngọn lửa cuộc sống, địa ngục cuộc sống, và
đã làm chín muồi bản ngã của mình tới khả năng tối
thượng, tới chính cái tối đa. Và trong khoảnh khắc đó
bản ngã rơi xuống và biến mất. Lần nữa bạn lại là đứa
trẻ; đấy là tái sinh, đấy là phục sinh. Trước hết bạn phải
bị treo lên chiếc thập tự bản ngã, bạn phải đau khổ trên
cây thập tự bản ngã, và bạn phải mang cây thập tự này
trên vai mình - và tới tận cùng. Bản ngã phải được học;
chỉ thế thì bạn mới có thể gạt bỏ nó. Và thế thì có vui vẻ
lớn. Khi bạn được tự do khỏi nhà tù, bạn có điệu vũ, có
lễ hội trong bản thể mình. Bạn không thể nào tin được tại
sao những người ra khỏi tù lại đờ đẫn, như chết và kéo lê
mình đến thế. Tại sao họ lại không nhảy múa? Tại sao họ
lại không lễ hội? Họ không thể làm thế: họ còn chưa biết
tới nỗi khổ của tù đầy.
Bẩy cánh cửa này cần phải được dùng trước khi bạn
có thể trở thành vị Phật. Bạn phải đi vào cõi giới tăm tối
nhất của cuộc sống, vào đêm tối của linh hồn, vào lại
bình minh khi buổi sáng mới lên, khi mặt trời mới lên, và
tất cả đều sáng. Nhưng hiếm khi xảy ra việc bạn có bản
ngã đã phát triển đầy đủ. 

Nếu bạn hiểu tôi, thế thì toàn bộ cấu trúc của giáo
dục sẽ là nghịch lí: trước hết họ nên dạy cho bạn về bản
ngã - đó nên là phần thứ nhất của giáo dục, một nửa của
nó; thế rồi họ nên dạy cho bạn về vô ngã, cách loại bỏ nó
- đó sẽ là nửa sau. Mọi người đi vào từ một cửa hay hai
cửa hay ba cửa, và bị mắc vào trong bản ngã phân đoạn
nào đó.
Điều thứ nhất, tôi nói, là bản thân thân thể. Trẻ con
bắt đầu học dần dần: phải mất gần mười lăm tháng để
cho đứa trẻ học rằng nó là tách biệt, rằng có cái gì đó bên
trong nó và cái gì đó bên ngoài. Nó học rằng nó có một
thân thể tách biệt với các thân thể khác. Nhưng vài người
vẫn còn níu bám lấy bản ngã rất, rất manh mún đó trong
suốt cả đời mình. Đấy là những người được biết tới như
người duy vật, người cộng sản, Mác xít. Những người tin
rằng thân thể là tất cả - rằng chẳng có gì nhiều hơn thân
thể bên trong bạn, rằng thân thể là toàn bộ sự tồn tại của
bạn, rằng không có tâm thức tách biệt khỏi thân thể, ở
trên thân thể, rằng tâm thức chỉ là hiện tượng hoá học
trong thân thể, rằng bạn không tách rời khỏi thân thể và
khi thân thể chết đi thì bạn cũng chết đi, và tất cả biến
mất... cát bụi trở về với cát bụi... không có điều thiêng
liêng nào trong bạn - họ qui con người về vật chất.
Đấy là những người vẫn còn níu bám vào cánh cửa
thứ nhất; lứa tuổi tâm trí của họ dường như mới chỉ mười
lăm tháng. Bản ngã nguyên thuỷ và rất, rất sơ cấp này
vẫn còn là duy vật. Những người này vẫn còn quanh
quẩn với hai điều: dục và thức ăn. Nhưng nhớ lấy, khi tôi
nói người duy vật, người cộng sản, người mác xít, tôi
không ngụ ý rằng điều này đã hoàn chỉnh danh sách. Một
ai đó có thể là người duy tâm và có thể vẫn níu bám lấy
cánh cửa thứ nhất...
Chẳng hạn, Mahatma Gandhi: nếu bạn đọc tiểu sử
ông ấy, ông ấy gọi tiểu sử mình là Kinh nghiệm của tôi
với chân lí. Nhưng nếu bạn đọc tiểu sử của ông ấy thì
bạn sẽ thấy cái tên này không đúng; ông ấy nên đặt tên
cho nó là Kinh nghiệm của tôi với thức ăn và dục. Chẳng
tìm thấy chân lí ở đâu cả. Ông ấy cứ liên tục lo nghĩ về
thức ăn: cái gì nên ăn, cái gì không nên ăn. Toàn bộ lo
nghĩ của ông ấy dường như là chỉ là về thức ăn, và rồi về
dục: làm sao trở thành vô dục - điều này diễn ra như một
chủ đề, đây là dòng chảy ngầm. Liên tục, ngày và đêm,
ông ấy nghĩ về thức ăn và dục - người ta phải được tự do.
Bây giờ ông ấy không phải là người duy vật - ông ấy tin
vào linh hồn, ông ấy tin vào Thượng đế. Trong thực tế,
bởi vì ông ấy tin vào Thượng đế nên ông ấy đang nghĩ
quá nhiều về thức ăn - bởi vì nếu ông ấy ăn cái gì đó sai
và phạm tội, thế thì ông ấy sẽ bị xa với Thượng đế. Ông
ấy nói về Thượng đế nhưng nghĩ về thức ăn.
Và điều đó không chỉ như thế với ông ấy đâu, nó
cũng là như thế với tất cả các tu sĩ Jaina nữa. Ông ấy chịu
nhiều ảnh hưởng từ các tu sĩ Jaina. Ông ấy được sinh ra ở
Gujarat. Gujarat về cơ bản là của đạo Jaina, Jaina giáo có
ảnh hưởng lớn nhất ở Gujarat. Ngay cả những người
Hindu ở Gujarat cũng giống người Jaina hơn là người
Hindu. Gandhi mang đến chín mươi phần trăm tính cách
của người Jaina - được sinh ra trong một gia đình Hindu,
nhưng tâm trí ông ấy được các tu sĩ Jaina giáo dưỡng. Họ
liên tục nghĩ về thức ăn.
Và thế rồi ý tưởng thứ hai nảy sinh, về dục - làm sao
loại bỏ được dục. Trong cả đời ông ấy, cho tới tận cùng,
ông ấy vẫn còn bận tâm về điều đó - làm sao loại bỏ dục.
Trong những năm cuối cuộc đời, ông ấy đã thực nghiệm
với còn gái ở truồng và ngủ với họ, chỉ để kiểm tra mình bởi vì ông ấy cảm thấy rằng cái chết đang tới gần, và ông
ấy phải kiểm tra bản thân mình để xem liệu có còn chút
nào thèm khát trong mình không.
Đất nước bùng cháy, mọi người bị giết: người Mô ha
mét giáo giết người Hindu, người Hindu giết người Mô
ha mét giáo - toàn bộ đất nước trong lửa cháy. Còn ông
ấy thì ở giữa điều đó, ở Novakali - nhưng mối bận tâm
của ông ấy là về dục. Ông ấy ngủ với con gái, con gái ở
truồng; ông ấy đang kiểm tra bản thân mình, kiểm tra
xem liệu brahmacharya, cái vô dục của ông ấy, đã hoàn
hảo hay chưa.
Nhưng tại sao phải có hoài nghi này? - bởi vì kìm
nén đã lâu. Trong toàn bộ cuộc sống ông ấy đã kìm nén.
Bây giờ, đến chính lúc cuối, ông ấy trở nên sợ - bởi vì
vào độ tuổi đó ông ấy vẫn còn mơ về dục. Cho nên ông
ấy rất hoài nghi: liệu ông ấy có thể đối diện với Thượng
đế của mình được không? Bây giờ ông ấy là người duy
tâm, nhưng tôi sẽ gọi ông ấy là người duy vật, và một
người duy vật rất nguyên thuỷ. Mối quan tâm của ông ấy
là thức ăn và dục.
Dù bạn ủng hộ hay chống đối điều đó cũng chẳng
thành vấn đề - mối quan tâm của bạn chỉ ra chỗ bản ngã
bạn đang bị mắc vào. Và tôi sẽ bao hàm cả người duy
tâm vào trong đó nữa: mối quan tâm cả đời của người đó
là làm sao thu được tiền bạc, tích trữ tiền bạc - bởi vì tiền
bạc có quyền lực trên vật chất. Bạn có thể mua bất kì thứ
vật chất nào bằng tiền. Bạn không thể mua được bất kì
thứ tâm linh nào, bạn không thể nào mua bất kì thứ gì mà
có giá trị thực sự; bạn chỉ có thể mua các đồ vật. Nếu bạn
muốn mua tình yêu; bạn không thể mua được; nhưng bạn
có thể mua được dục. Dục là phần vật chất của tình yêu.
Qua tiền bạc, bạn có thể mua được, sở hữu được vật chất.
Bây giờ bạn sẽ ngạc nhiên: tôi lại bao gồm cả hai loại
người cộng sản và người tư sản vào cùng một phân loại,
và họ là kẻ thù, giống như tôi bao gồm Charvaka và
Mahatma Gandhi vào cùng phạm trù, và họ là kẻ thù. Họ
là kẻ thù, nhưng mối quan tâm của họ là như nhau.
Người tư sản cố gắng tích trữ tiền bạc, người cộng sản
chống lại điều đó. Người ấy muốn rằng không ai được
phép tích trữ tiền bạc ngoại trừ nhà nước. Nhưng mối
quan tâm của người ấy cũng là về tiền bạc, người ấy
cũng vẫn cứ liên tục nghĩ về tiền bạc. Không phải ngẫu
nhiên mà Marx đã đặt tên Das Kapital cho cuốn sách vĩ
đại về chủ nghĩa cộng sản, ‘Tư bản luận’. Đó là Kinh
thánh của người cộng sản, nhưng cái tên lại là ‘Tư bản
luận’. Đó là mối quan tâm của họ: làm sao không cho
phép bất kì ai được tích trữ tiền bạc để cho nhà nước có
thể tích trữ, và làm sao để sở hữu nhà nước - cho nên,
trong thực tế, về cơ bản, tối thượng, bạn vẫn cứ tích trữ
tiền bạc.
Có lần tôi đã nghe nói rằng Mulla Nasruddin đã trở
thành người cộng sản. Tôi biết anh ta... Tôi có đôi chút
khó xử. Đây quả là phép mầu! Tôi biết tính sở hữu của
anh ta. Cho nên tôi hỏi anh ta, “Mulla, anh có biết chủ
nghĩa cộng sản nghĩa là gì không?”
Anh ta nói, “Tôi có biết.”
Tôi nói, “Anh có biết rằng nếu anh có hai chiếc xe ô
tô và ai đó không có xe, thì anh sẽ cho người ấy một cái
chứ?”
Anh ta nói, “Tôi hoàn hoàn sẵn lòng nhường chiếc xe
cho.”
Tôi nói, “Nếu anh có hai ngôi nhà và ai đó thì không
có nhà, anh sẽ cho một ngôi nhà chứ?” 


Anh ta nói, “Tôi hoàn toàn sẵn sàng, ngay bây giờ.”
Và tôi nói, “Nếu anh có hai con lừa anh sẽ cho đi một
con cho ai đó khác mà không có lừa chứ?”
Anh ta nói, “Điều ấy tôi không đồng ý. Tôi không thể
cho được, tôi không thể làm được điều đó!”
Nhưng tôi nói, “Sao vậy? - vì đấy là cùng logic, cùng
hệ quả.”
Anh ta nói, “Không nó không cùng đâu - tôi có hai
con lừa, tôi không có hai chiếc xe.”
Tâm trí người cộng sản về cơ bản cũng là tâm trí nhà
tư bản, tâm trí nhà tư bản về cơ bản cũng là tâm trí người
cộng sản. Họ là đối tác trong cùng trò chơi - tên của trò
chơi là ‘tư bản luận’, Das Kapital.
Nhiều người, hàng triệu người, chỉ mới tiến hoá bản
ngã nguyên thuỷ này, rất sơ cấp. Nếu bạn có bản ngã này
thì rất khó buông xuôi; nó còn rất chưa chín muồi.
Cánh cửa thứ hai tôi gọi là tự đồng nhất.
Trẻ con bắt đầu làm lớn lên cái ý tưởng về nó là ai.
Khi nhìn vào trong gương, nó thấy cùng khuôn mặt. Mọi
sáng, tỉnh dậy từ giường, nó chạy vào buồng tắm, nhìn
gương, và nó nói, “Đây là tôi. Giấc ngủ không làm quấy
rối điều gì cả.” Nó bắt đầu có ý tưởng về cái ta liên tục.
Nhưng người ta trở nên quá dính dáng đến cánh cửa
này, bị móc vào cánh cửa này, chính là những cái gọi là
người duy tâm, người nghĩ rằng họ sắp lên cõi trời,
moksha, nhưng nghĩ rằng họ sẽ ở đó. Khi bạn nghĩ về cõi
trời, bạn chắc chắn nghĩ về bản thân mình rằng bạn ở đó,
bạn sẽ ở đó nữa. Có thể thân thể không có đó, nhưng sự
tiếp tục bên trong của bạn sẽ vẫn còn. Điều đó là ngớ
ngẩn! Giải thoát đó, giải thoát tối hậu đó chỉ xảy ra khi
cái ta đã tan biến và tất cả mọi đồng nhất đã tan biến.
Bạn trở thành trống rỗng...
Do đó, này Sariputra, trong cái không thì không có
hình dạng, hay: hình dạng là trống rỗng và trống rỗng là
hình dạng.
Không có tri thức bởi vì không có người biết; thậm
chí không có vigyan, không ý thức, bởi vì không có gì để
mà ý thức tới và không có ai để mà ý thức về nó. Tất cả
biến mất.
Ý tưởng rằng trẻ con có cái ta liên tục được những
người duy tâm đeo đuổi. Họ cứ đi tìm mãi: từ đâu mà
linh hồn đi vào trong thân thể, từ đâu mà linh hồn đi ra
khỏi thân thể, linh hồn mang hình dạng gì, mảnh kim loại
và môi giới, những thứ đại loại như vậy - tất cả đều là rác
rưởi và vô nghĩa. Cái ta không có hình dạng. Nó là cái
không thuần khiết, nó là bầu trời bao la không mây trong
đó. Nó là im lặng vô ý nghĩ, không bị hàm chứa, không
bị chứa bởi bất kì vật gì.
Ý tưởng đó về linh hồn trường cửu, ý tưởng về cái ta,
vẫn liên tục chơi trò chơi trong tâm trí. Ngay cả nếu thân
thể chết, bạn vẫn muốn chắc chắn rằng, “Tôi vẫn còn.”
Nhiều người hay tới Phật... bởi vì đất nước này đã
từng bị chi phối bởi cái loại bản ngã thứ hai này: mọi
người tin vào linh hồn trường cửu, linh hồn vĩnh viễn,
atman - họ cứ tới với Phật mãi và nói, “Khi tôi chết, liệu
cái gì đó sẽ còn lại hay không?” Còn Phật sẽ cười to và
ông ấy sẽ nói, “Ngay bây giờ đã chẳng có gì, cho nên tại
sao phải lo về cái chết? Chưa bao giờ có cái gì từ chính
lúc ban đầu.” Và điều này không thể nào quan niệm nổi
cho tâm trí Ấn Độ. Tâm trí Ấn Độ hầu hết bị mắc vào với kiểu bản ngã thứ hai. Đó là lí do tại sao Phật giáo không
thể nào tồn tại ở Ấn Độ được. Trong năm trăm năm, Phật
giáo đã biến mất. Nó bắt rễ tốt hơn ở Trung quốc, bởi vì
Lão Tử. Lão Tử đã thực sự tạo ra cánh đồng mầu mỡ cho
Phật giáo ở đó. Khí hậu đã sẵn sàng - dường như ai đó đã
chuẩn bị mảnh đất; chỉ cần hạt mầm. Và khi hạt mầm đạt
tới Trung quốc, nó trưởng thành cây to. Nhưng từ Ấn Độ
nó đã biến mất. Lão Tử không có ý tưởng nào về cái ta
trường cửu cả, còn tại Trung quốc mọi người cũng chẳng
bận tâm nhiều lắm.
Có ba nền văn hoá trên thế giới: một nền văn hoá,
được gọi là duy vật - rất thịnh hành ở phương Tây; nền
văn hoá khác, được gọi là duy tâm - rất thịnh hành ở Ấn
Độ; còn Trung quốc thì có loại văn hoá thứ ba, không
duy vật mà cũng chẳng duy tâm. Đó là Đạo giáo: sống
theo khoảnh khắc và không bận tâm tới tương lai, bởi vì
bận tâm tới cõi trời và địa ngục, tiên cảnh và moksha thì
về cơ bản vẫn cứ là tiếp tục bận tâm về chính mình. Nó
rất ích kỉ, nó rất định tâm vào cái ta. Theo Lão Tử, theo
Phật nữa, và cũng theo tôi nữa, người cố gắng đạt tới
thiên đường là người rất, rất định tâm vào cái ta, rất ích
kỉ. Và người ấy không biết một điều về bản thể bên trong
riêng của mình - không có cái ta.
Cánh cửa thứ ba là lòng tự trọng: trẻ con học làm
mọi thứ và tận hưởng việc làm đó. Một vài người bị mắc
vào đây - họ trở thành các nhà kĩ thuật, họ trở thành các
diễn viên, nghệ sĩ, họ trở thành chính khách, họ trở thành
các ông bầu. Chủ đề cơ bản là người làm; họ muốn
chứng tỏ cho thế giới rằng họ có thể làm điều gì đó. Nếu
thế giới cho phép họ sáng tạo nào đó, thì tốt. Nếu nó
không cho phép họ sáng tạo, họ trở thành phá hoại.
Bạn có biết rằng Adolf Hitler đã muốn vào trường
nghệ thuật không? Ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, đó là ý
tưởng của ông ta. Bởi vì ông ta bị từ chối, bởi vì ông ta
không phải là hoạ sĩ, bởi vì ông ta không thể nào qua
được kì thi vào trường nghệ thuật - việc loại bỏ đó rất
khó cho ông ta chấp thuận - tính sáng tạo của ông ta biến
thành xấu. Ông ta trở thành huỷ diệt. Nhưng về cơ bản
ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, ông ta muốn làm điều gì
đó. Bởi vì ông ta bị coi là không có khả năng làm việc
đó, nên trả thù lại, ông ta bắt đầu thành huỷ diệt.
Kẻ tội phạm và chính khách không phải là rất xa
nhau đâu, họ là anh em họ. Nếu kẻ tội phạm được trao
cho cơ hội đúng, người đó sẽ trở thành chính khách, và
nếu chính khách không gặp được cơ hội đúng để có tiếng
nói, thì người đó sẽ thành kẻ tội phạm. Chúng là các
trường hợp gần giống nhau. Vào bất kì khoảnh khắc nào,
chính khách cũng có thể trở thành tội phạm và tội phạm
có thể trở thành chính khách. Và điều này đã xảy ra trong
suốt nhiều thời đại, nhưng chúng ta còn chưa có sáng
suốt để nhìn vào trong mọi việc.
Cánh cửa thứ tư là tự mở rộng. Từ ‘của tôi’ là mấu
chốt ở đó. Người ta phải mở rộng bản thân mình bằng
việc tích luỹ tiền bạc, bằng việc tích luỹ quyền lực, bằng
việc cứ ngày một trở thành lớn nữa, lớn nữa và lớn nữa:
người yêu nước nói, “Đây là đất nước tôi, và đây là đất
nước lớn nhất trên thế giới.” Bạn có thể hỏi người yêu
nước Ấn Độ: người đó cứ tung hô khắp mọi xó xỉnh rằng
đây là punya bhumi - đây là mảnh đất của đức hạnh,
mảnh đất thuần khiết nhất trên thế giới.
Có lần cái gọi là thánh nhân tới tôi, một tu sĩ Hindu,
và ông ấy nói, “Ông không tin rằng đây là đất nước duy
nhất có biết bao nhiêu vị Phật đã được sinh ra, biết bao nhiêu avatara, bao nhiêu tirthankara - Rama, Krishna và
những người khác sao. Tại sao? - bởi vì đây là mảnh đất
đức hạnh nhất.”
Tôi bảo ông ấy, “Sự kiện là ngược lại: nếu trong nhà
hàng xóm ông thấy rằng bác sĩ cứ đến hàng ngày - lúc thì
là một vaidya, bác sĩ trị liệu, lúc thì hakim, nhà châm
cứu, rồi người dùng thiên nhiên liệu pháp, rồi thế này thế
khác - thì ông hiểu điều này là gì?”
Ông ấy nói, “Thật đơn giản! Nhà đấy ốm yếu.”
Đấy là trường hợp cho Ấn Độ: cần tới biết bao nhiêu
là vị Phật - đất nước này dường như hoàn toàn ốm yếu và
bệnh hoạn. Biết bao nhiều thầy chữa, biết bao nhiêu bác
sĩ. Phật đã nói, “Bất kì khi nào có đen tối trên thế giới,
bất kì khi nào có tội lỗi trên thế giới, và bất kì khi nào
luật vũ trụ bị phá rối, ta sẽ quay trở lại.” Cho nên tại sao
ông ấy đã tới vào lúc đó? Nó phải có cùng một lí do. Và
tại sao lại bao nhiêu lần ở Ấn Độ?
Nhưng nhà yêu nước cao ngạo, hung hăng, bản ngã.
Ông ta cứ tuyên bố, “Đất nước tôi là đặc biệt, tôn giáo tôi
là đặc biệt, nhà thờ tôi là đặc biệt, sách của tôi là đặc
biệt, thầy tôi là đặc biệt” - và mọi thứ đều là không. Đây
chỉ là lời rêu rao của bản ngã.
Vài người bị mắc vào với cái ‘của tôi’ này - người
giáo điều, nhà yêu nước, người Hindu, người Ki tô giáo,
người Mô ha mét giáo.
Cánh cửa thứ năm là tự hình dung. Trẻ con bắt đầu
nhìn vào mọi thứ, kinh nghiệm. Khi bố mẹ cảm thấy
thoải mái với đứa trẻ, nó nghĩ, “Mình tốt đây.” Khi họ
khen ngợi nó, nó cảm thấy, “Mình tốt đây.” Khi họ nhìn
nó giận dữ, họ quát tháo nó và họ nói, “Cấm làm thế!” nó
cảm thấy, “Cái gì sai trong mình rồi.” Nó chùn lại.
Một cháu nhỏ ngày đầu tiên tới trường được thầy hỏi
“Tên con là gì?”
Nó nói, “Johnny Đừng.”
Thầy giáo phân vân. Thầy nói, “Johnny Đừng à?
Chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó!”
Nó nói, “Bất ki khi nào, bất kì cái gì con làm, đây
đều là tên con - mẹ con hét lên, ‘Johnny đừng!’ Bố con
quát lên, ‘Johnny đừng!’ Cho nên con nghĩ đây là tên
con. ‘Đừng’ bao giờ cũng có đó. Điều con làm chẳng liên
quan.”
Cửa thứ năm là cánh cửa từ đó đạo đức đi vào: bạn
trở thành nhà đạo đức; bạn bắt đầu cảm thấy rất tốt,
‘thánh thiện hơn ngươi.’ Hay, trong thất vọng, trong
kháng cự, trong vật lộn, bạn trở thành người vô đạo đức
và bạn bắt đầu tranh đấu với toàn bộ thế giới, để chứng
minh cho toàn thế giới.
Fritz Perls, người sáng lập phái Trị liệu Động thái, đã
viết về một trong những kinh nghiệm của mình mà đã
chứng tỏ điều rất nền tảng cho nỗ lực cả đời của ông ấy.
Ông ấy là nhà thực hành phân tâm ở châu Phi. Việc thực
hành rất có kết quả bởi vì ông ấy là nhà phân tâm duy
nhất ở đó. Ông ấy có một chiếc xe to, một nhà gỗ một
tầng to cùng với vườn, một bể bơi - và mọi thứ mà một
tâm trí tầm thường muốn có, những đồ xa xỉ phẩm hạng
trung. Và thế rồi ông ấy tới Vienna để tham dự hội nghị
các nhà phân tâm thế giới. Tất nhiên, ông ấy là người
thành công ở châu Phi, cho nên ông ấy đã nghĩ rằng
Freud sẽ đón ông ấy, sẽ có đón chào lớn. Và Freud là cha
già cho các nhà phân tâm, cho nên ông ấy muốn được
Freud khen ngợi. Ông ấy đã viết một bài báo và đã làm
việc nhiều tháng về nó, bởi vì ông ấy muốn Freud biết ông ấy là ai. Ông ấy đọc bài báo; không có đáp ứng.
Freud rất lạnh nhạt, các nhà phân tâm khác cũng rất lạnh
nhạt. Bài báo của ông ấy gần như chẳng được chú ý tới,
không được bình luận tới. Ông ấy cảm thấy rất choáng
váng, chán nản, nhưng ông ấy vẫn hi vọng rằng ông ấy sẽ
tới gặp Freud, và thế rồi điều gì đó có thể xảy ra. Và ông
ấy tới gặp Freud. Ông ấy mới tới bậc thềm, vẫn còn chưa
đi qua cửa, còn Freud đứng đó. Và ông ấy nói với Freud,
chỉ để gây ấn tượng lên ông ta, “Tôi đã tới đây từ hàng
nghìn dặm đường.” Và thay vì đón chào ông ấy, Freud lại
nói, “Thế khi nào ông về?” Điều này làm tổn thương ông
ấy lắm: “Thế này mà là đón chào à? - ‘Thế khi nào ông
về?’” Và đó là toàn bộ cuộc phỏng vấn - kết thúc! Ông
ấy quay đi, lẩm bẩm liên tục, giống như một câu mật chú
trong đầu: “Ta sẽ cho ông biết tay, ta sẽ cho ông biết tay,
ta sẽ cho ông biết tay!” Và ông ấy đã cố gắng chứng tỏ
cho Freud: ông ấy tạo ra một phong trào lớn chống lại
phân tâm học - động thái.
Đây là phản ứng trẻ con. Hoặc là trẻ con được chấp
nhận - thế thì nó cảm thấy thoải mái, thế thì nó sẵn sàng
làm bất kì cái gì mà bố mẹ muốn; hoặc là nếu nó cứ bị
thất vọng mãi, thế thì nó bắt đầu nghĩ dưới dạng, “Không
còn khả năng nào cho mình nhận được tình yêu của họ,
nhưng mình vẫn cần sự chú ý của họ. Nếu mình không
thể nào nhận được sự chú ý qua cách đúng, thì mình sẽ
làm cho họ phải chú ý qua cách sai. Bây giờ mình sẽ hút
thuốc, mình sẽ thủ dâm, mình sẽ làm hại mình và người
khác, và mình sẽ làm đủ mọi thứ mà họ nói ‘Đừng làm,’
nhưng mình sẽ làm cho họ phải bận tâm về mình. Mình
sẽ cho họ biết tay.”
Đây là cánh cửa thứ năm, tự hình dung. Tội nhân và
thánh nhân đều bị mắc tại đây. Cõi trời và địa ngục đều
là những ý tưởng của những người bị mắc tại đây. Hàng
triệu người bị mắc lại. Họ liên tục sợ địa ngục và liên tục
tham lam về cõi trời. Họ muốn được Thượng đế khen
ngợi, và họ muốn Thượng đế nói với họ, “Con tốt đấy,
con ta. Ta sung sướng vì con.” Họ cứ hi sinh các kiếp
sống chỉ để được khen ngợi bởi hoang tưởng nào đó ở
đâu đó bên ngoài sự sống và cái chết. Họ cứ làm cả nghìn
lẻ một kiểu hành hạ chính mình chỉ để cho Thượng đế có
thể nói, “Được, con đã hi sinh bản thân mình cho ta.”
Cứ dường như là Thượng đế là kẻ tự bạo và bạo ác,
hay cái gì đó giống thế. Người ta tự hành hạ mình với ý
tưởng rằng họ sẽ làm cho Thượng đế sung sướng. Bạn
ngụ ý gì bởi điều này? Bạn nhịn ăn và bạn nghĩ Thượng
đế sẽ sung sướng với bạn sao? Bạn bỏ đói mình và bạn
nghĩ Thượng đế sẽ rất sung sướng với bạn sao? Ngài có
bạo ác không? Ngài có thích hành hạ người khác không?
Và đó là thánh gì, cái gọi là thánh, đã từng làm: tự hành
hạ mình và nhìn lên trời. Chẳng chóng thì chầy Thượng
đế sẽ nói, “Được đấy, con làm tốt lắm. Bây giờ lại đây và
tận hưởng lạc thú cõi trời. Lại đây! Rượu tuôn thành suối
ở đây, đường làm bằng vàng, và lâu đài làm bằng kim
cương. Và phụ nữ ở đây chẳng bao giờ già, họ cứ còn
mười sáu tuổi mãi. Lại đây! Con làm thế đủ rồi, con đã
được thưởng, bây giờ con có thể tận hưởng!” Toàn bộ ý
tưởng nằm sau hi sinh là thế này. Đây là ý tưởng ngu
xuẩn, bởi vì tất cả ý tưởng bản ngã đều là ngu xuẩn.
Cánh cửa thứ sáu là cái ta như lí trí. Nó tới qua giáo
dục, kinh nghiệm, đọc, học, nghe: bạn bắt đầu tích luỹ ý
tưởng, thế rồi bạn bắt đầu tạo ra hệ thống từ các ý tưởng,
các tổng thể nhất quán, các triết lí. Đây là nơi các triết
gia, các khoa học gia, các tư tưởng gia, các trí thức gia,
những người theo chủ nghĩa duy lí đều bị mắc vào. 

Nhưng điều này trở thành ngày một phức tạp hơn: so với
cánh cửa thứ nhất, cánh cửa thứ sáu là rất tinh vi.
Cánh cửa thứ bẩy là cố gắng thích đáng: nghệ sĩ, nhà
huyền môn, người không tưởng, kẻ mộng mơ - họ bị mắc
ở đó. Họ bao giờ cũng cố gắng tạo ra một nơi không
tưởng trên thế giới này. Từ nơi không tưởng là rất hay:
nó có nghĩa là cái chưa bao giờ tới. Nó bao giờ cũng
đang tới nhưng chẳng bao giờ tới thật; nó bao giờ cũng
có đó nhưng chưa bao giờ ở đây cả. Nhưng có những kẻ
ngắm trăng cứ nhìn ra xa xôi, xa xa, và họ bao giờ cũng
di chuyển trong tưởng tượng. Các nhà thơ lớn, những
người hư cấu - toàn bộ bản ngã họ đều bị thu hút vào
trong việc trở thành. Ai đó muốn trở thành Thượng đế;
người ấy là nhà huyền học.
Nhớ lấy, ‘trở thành’ là từ mấu chốt cho cánh cửa thứ
bẩy, và cánh cửa thứ bẩy là cánh cửa cuối cùng của bản
ngã. Bản ngã chín muồi nhất thì tới đây. Đó là lí do tại
sao bạn sẽ cảm thấy, bạn sẽ thấy một nhà thơ - người ấy
có thể chẳng có gì, người ấy có thể là kẻ ăn xin, nhưng
trong đôi mắt người ấy, trên mũi người ấy, bạn sẽ thấy
bản ngã lớn. Nhà huyền môn có thể đã từ bỏ toàn bộ thế
giới và có thể ngồi trong hang động Himalaya, trong cốc
núi Himalaya. Bạn tới đó và nhìn vào ông ấy: ông ấy có
thể ngồi đó mình trần - nhưng đấy là bản ngã tinh vi thế,
bản ngã tinh tế thế. Ông ấy có thể chạm chân bạn, nhưng
ông ấy đang hô lên, “Trông đây tôi khiêm tốn làm sao!”
Có bẩy cánh cửa. Khi bản ngã hoàn hảo, tất cả bẩy
cánh cửa này đã được đi qua; thế thì bản ngã chín muồi
đó có thể bị loại bỏ theo ý riêng của nó. Đứa trẻ đứng
trước bẩy bản ngã này, còn Phật đứng sau bẩy bản ngã
này. Đó là vòng tròn đầy đủ.
Bạn hỏi tôi: “Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của
đứa trẻ trước việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã
thức tỉnh của vị Phật?”
Đây là khác biệt: Phật đã đi vào trong tất cả bẩy bản
ngã này - đã thấy chúng, nhìn vào chúng, đã thấy rằng
chúng đều là ảo tưởng, và đã trở về nhà, đã trở lại thành
đứa trẻ lần nữa. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói,
“Chừng nào ông chưa trở thành giống như trẻ nhỏ, ông sẽ
không đi vào vương quốc Thượng đế của ta.”
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về Zorba người Hi
lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích cuốn sách đó
lắm. Liệu Zorba không y hệt là cách thức mà Thầy
muốn chúng tôi trở thành chứ? Ít nhất đó cũng là cách
tôi hiểu được giáo huấn của Thầy.
Tôi đã là Zorba người Hi lạp trong nhiều kiếp. Tôi
không cần đọc cuốn sách đó; đó là cuốn tự truyện của tôi.
Và đó là điều tôi muốn bạn trở thành.
Coi cuộc sống là vui vẻ đi, coi cuộc sống là dễ dàng
đi, coi cuộc sống là thảnh thơi đi, đừng tạo ra những vấn
đề không cần thiết. Chín mươi chín phần trăm những vấn
đề của bạn là do bạn tạo ra bởi vì bạn coi cuộc sống là
nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh là căn nguyên gốc rễ của
mọi vấn đề. Vui vẻ, và bạn sẽ không bỏ lỡ điều gì - bởi vì
cuộc sống là Thượng đế. Quên về Thượng đế đi; chỉ sống
động, sống một cách phong phú. Sống từng khoảnh khắc dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng. Sống nó một
cách mạnh mẽ; để cho ngọn đuốc của bạn bùng cháy từ
cả hai đầu. Cho dù nó chỉ còn một khoảnh khắc, thì thế
cũng đủ. Một khoảnh khắc của tính toàn bộ mạnh mẽ là
đủ để cho bạn hương vị của Thượng đế. Bạn có thể sống
theo cách hờ hững, theo cách tư sản, theo cách hạng
trung. Bạn có thể cứ tiếp tục sống, kéo lê mình trong
hàng triệu năm - bạn sẽ chỉ thu thập bụi bặm trên đường
chứ chẳng được cái gì khác. Một khoảnh khắc sáng tỏ,
toàn bộ, tự phát, và bạn sẽ bùng cháy như ngọn lửa. Chỉ
một khoảnh khắc là đủ! Một khoảnh khắc sẽ làm cho bạn
thành vĩnh hằng; bạn sẽ đi từ khoảnh khắc đó vào vĩnh
hằng. Đó là toàn bộ thông điệp của tôi cho các sannyasin:
sống theo cách mà bạn không cần phải ăn năn bao giờ.
Một người bạn đã gửi tới cho tôi một đoạn cắt báo.
Một bà già, tám mươi nhăm tuổi, được một nhà báo
hỏi rằng nếu bà được sống lại lần nữa, thì bà sẽ sống như
thế nào?
Bà già nói - có sáng suốt lớn trong đó, nhớ lấy điều
đó - “Nếu như tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi dám
phạm nhiều sai lầm hơn trong lần tiếp. Tôi sẽ thảnh thơi,
tôi sẽ linh hoạt. Tôi sẽ ngờ nghệch hơn là tôi đã ngờ
nghệch trong cuộc đời này. Tôi sẽ coi ít thứ nghiêm
chỉnh hơn. Tôi sẽ lấy nhiều cơ may hơn. Tôi sẽ thực hiện
nhiều chuyến đi hơn. Tôi sẽ trèo lên nhiều núi hơn và bơi
trên nhiều sông hơn. Tôi sẽ ăn nhiều kem hơn và ít đậu
hơn. Có lẽ tôi sẽ gặp nhiều rắc rối hơn, nhưng tôi sẽ có ít
điều tưởng tượng hơn.
“Anh xem đấy, tôi là một trong những người đã sống
có xét đoán và lành mạnh giờ nọ sang giờ kia, ngày nọ
tiếp ngày kia. Ôi, tôi đã có những khoảnh khắc của mình,
và nếu như tôi phải làm lại điều đó thì tôi sẽ có chúng
nhiều hơn. Trong thực tế, tôi sẽ cố gắng chẳng có gì khác
- chỉ các khoảnh khắc, cái nọ tiếp cái kia, thay vì sống
bao nhiêu năm phía trước cho từng ngày. Tôi đã là một
trong những người chưa bao giờ đi bất kì đâu mà không
có cặp nhiệt độ, chai nước nóng, áo mưa và ô. Nếu tôi
phải làm lại điều đó lần nữa thì tôi sẽ du hành nhẹ nhàng
hơn trước.
“Nếu tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi sẽ bắt đầu
đi chân không sớm hơn trong dòng suối và ở lại muộn
hơn trong dòng thác. Tôi sẽ đi nhảy nhiều hơn. Tôi sẽ
cưỡi nhiều vòng quay ngựa gỗ hơn. Tôi sẽ hái nhiều hoa
cúc hơn.”
Và đó là viễn kiến của tôi về sannyasin nữa. Sống
khoảnh khắc này toàn bộ nhất có thể được đi. Đừng quá
lành mạnh, bởi vì quá lành mạnh sẽ dẫn tới không lành
mạnh. Để cho chút ít điên khùng tồn tại trong bạn. Điều
đó sẽ thêm hương vị cho cuộc sống, làm ra nước cam lồ
cuộc sống. Để một chút ít phi lí bao giờ cũng có đó. Điều
đó làm cho bạn có khả năng chơi đùa, vui vẻ; điều đó
giúp cho bạn thảnh thơi. Người lành mạnh hoàn toàn bị
treo trên đầu, người ấy không thể xuống được từ đó.
Người ấy sống trên gác. Sống khắp mọi chỗ đi, đây là
ngôi nhà của bạn! Trên gác, tốt, dưới đất, hoàn toàn tốt -
và tầng hầm cũng đẹp nữa. Sống ở khắp mọi chỗ, đây là
ngôi nhà của bạn. Và đừng đợi tới lần sau, tôi sẽ bảo với
bà già này như thế, vì lần sau chẳng bao giờ tới cả.
Không phải là bạn sẽ không được sinh ra nữa; bạn sẽ
được sinh ra nữa, nhưng thế thì bạn sẽ quên mất. Thế thì
bạn sẽ bắt đầu lại từ ABC. Bà già này đã từng ở đây
trước kia. Bà ấy phải đã từng ở đây hàng triệu lần trước kia. Và tôi có thể nói với bạn rằng mỗi lần, gần đến độ
tuổi tám mươi nhăm, bà ấy lại quyết định theo cùng cách:
“Lần sau tôi sẽ làm điều ấy khác đi.” Nhưng lần sau bạn
không nhớ - đấy là vấn đề. Bạn mất tất cả kí ức về kiếp
sống quá khứ. Thế thì bạn lại bắt đầu từ ABC và cùng
điều như thế lại xảy ra.
Cho nên tôi sẽ không nói bạn phải đợi tới lần sau.
Nắm ngay lấy khoảnh khắc này đi! Đây là thời gian duy
nhất đang có đó, không có thời gian khác. Cho dù là bạn
đã tám mươi nhăm thì bạn vẫn có thể bắt đầu sống. Và
cái gì có đó để mà mất khi bạn đã tám mươi nhăm? Nếu
bạn đi chân trần trên bãi cát trong dòng suối, nếu bạn
lượm lặt hoa cúc - ngay cả nếu bạn có chết trong lúc đó,
thì cũng chẳng có gì sai cả. Chết khi đi chân trần trên bãi
cái là cách chết đúng đắn. Chết khi lượm lặt hoa cúc là
cách chết đúng đắn. Dù bạn tám mươi nhăm tuổi hay
mười lăm tuổi cũng chẳng thành vấn đề. Giữ lấy khoảnh
khắc này. Là một Zorba.
Bạn hỏi: “Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về
Zorba người Hi lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích
cuốn sách đó lắm.”
Chỉ yêu nó thì cũng chẳng có ích. Là nó đi! Đôi khi
việc xảy ra là bạn yêu cái đối lập với cái bạn đang là.
Bạn thích thú cái đối lập của cái bạn đang là - bởi vì nó
làm thoát ra phóng túng trong bạn. Nó cho bạn viễn kiến
về cách bạn sẽ thích là như vậy: đó là sức quyến rũ của
một Zorba.
Nhưng yêu cuốn sách thì sẽ không có ích. Đó là điều
mọi người vẫn thường làm suốt nhiều thời đại. Mọi
người yêu Kinh thánh, và không trở thành Jesus, và họ
yêu Tâm Kinh - họ lặp lại nó, họ tụng nó hàng ngày.
Hàng triệu người ở phương Đông tụng Tâm Kinh năm
lần một ngày - ở Trung quốc, ở Nhật bản, ở Triều tiên, ở
Việt Nam - họ cứ lặp lại nó. Nó là một bài kinh nhỏ; nó
có thể được lặp lại trong vài phút. Họ yêu nó, nhưng họ
không trở thành nó!
Là một Zorba đi. Nhớ điều đó: yêu sách không ích gì
đâu, chỉ sống mới có ích.
“Tôi thích cuốn sách đó lắm. Liệu Zorba không y hệt
là cách thức mà Thầy muốn chúng trở thành chứ?”
Không y hệt, bởi vì tôi không thích nhiều Zorba trên
thế giới. Không y hệt, bởi vì điều đó sẽ xấu xí và đơn
điệu và đáng chán. Bạn hãy là Zorba theo cách riêng của
mình - không y hệt.
Đừng bao giờ cố gắng bắt chước bất kì ai, đừng bao
giờ là kẻ bắt chước; đó là tự tử. Thế thì bạn sẽ chẳng bao
giờ có thể tận hưởng được. Bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn
là bản sao, bạn sẽ chẳng bao giờ là nguyên bản. Và tất cả
những điều đó xảy ra trong cuộc sống - chân lí, cái đẹp,
cái thiện, giải thoát, thiền, tình yêu - xảy ra cho cái
nguyên bản, không bao giờ xảy ra cho bản sao. Nhận biết
đi - không y hệt; đó là nguy hiểm. Nếu bạn đơn giản theo
Zorba và bắt đầu làm những điều như ông ấy làm thì bạn
sẽ gặp rắc rối. Đó là cách mà mọi người vẫn làm nó.
Nhìn những người Ki tô giáo mà xem, nhìn những
người Hindu mà xem: họ đang cố gắng là y hệt. Không ai
có thể là Phật lần nữa! Thượng đế không cho phép bất kì
lặp lại nào! Thượng đế không cho phép người bản sao,
ông ấy yêu người bản chính. Ông ấy yêu Phật. Ông ấy
yêu đến mức điều đó chấm dứt. Bây giờ không cần Phật
nữa. Đấy sẽ không còn là chuyện tình chút nào nữa. Điều
đó sẽ giống như cùng cuốn phim bạn đã xem trước đây, điều đó sẽ giống như đọc cùng cuốn sách bạn đã đọc
nhiều lần trước đây. Thượng đế không trì trệ và ngờ
nghệch, ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì ai lặp lại bất
kì ai khác: Christ chỉ có một, Phật chỉ có một - và do vậy
bạn cũng chỉ có một! Và bạn là đơn lẻ, không có ai khác
giống bạn. Chỉ có bạn là bạn thôi. Điều này tôi gọi là sự
tôn kính với cuộc sống. Điều này thực sự là tự trọng.
Học từ Zorba đi, học điều bí mật, nhưng đừng bao
giờ cố gắng bắt chước. Học theo hoàn cảnh, cách đánh
giá, đi vào nó, đồng cảm với nó, tham dự với Zorba, và
thế rồi đi theo cách riêng của bạn. Thế thì là chính bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Xin Thầy nói về đâu là điểm chung giữa cầu nguyện
và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa chúng?
Câu hỏi này là của Mark Nevejan...
Tái bút. Thầy không biết tôi bởi vì tôi chưa từng gặp
Thầy chỗ riêng tư. Arup biết tôi chút ít.
Arup không biết cô ấy, làm sao cô ấy biết bạn? - dù
chỉ một chút ít! Bạn chưa từng gặp tôi, điều đó đúng.
Nhưng tôi biết bạn, bởi vì tôi biết bản thân mình. Cái
ngày tôi nhận ra chính mình thì tôi cũng biết về mọi
người - bởi vì đấy là cùng cái không nở hoa theo nhiều
cách khác nhau.
Tôi biết bạn, Mark. Bạn có thể không biết tôi. Làm
sao bạn biết tôi được? - bạn không biết tới chính mình.
Nhưng tôi biết bạn. Tôi có thể không biết hình dạng bạn,
nhưng tôi biết bạn... và bạn không là hình dạng.
Do đó, này Sariputra...
Hình dạng là trống rỗng, trống rỗng là hình
dạng.
Tôi biết chân lí trong bạn; tôi có thể không biết cá
tính quanh bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể giúp bạn -
bởi vì tôi biết bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể đưa bạn
vượt ra ngoài - bởi vì tôi biết bạn. Nếu tôi không biết bạn
thì tôi không thể nào đưa bạn vượt ra ngoài được.
Và bạn hỏi: “Xin Thầy nói về đâu là điểm chung
giữa cầu nguyện và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa
chúng?” Tôi vừa định nói về điều đó hôm qua, nhưng có
nhiều câu hỏi quá và tôi chưa thể trả lời bạn được.
Mark đã viết câu hỏi khác ngày hôm nay:
Mùa hè của Tâm thức và Tự do kính yêu,
Hôm nọ tôi đã hỏi Thầy một câu hỏi về đâu là điểm
chung và điểm khác trong cầu nguyện và thiền. Đồng
thời, tôi đã đọc trong sách của Thầy, Tôi là lối cổng,
và tôi đã tìm ra câu trả lời. Xin cảm ơn Thầy về lời
đáp.
Bầu trời mây Hà lan tên là Mark Nevejan.
Bạn sẽ không còn mang tên Mark Nevejan lâu nữa!
Tôi nghĩ sẽ là hôm nay, bởi vì tôi không đợi cho tới mai.
Tôi sẽ tìm cho bạn một cái tên hay. Nó sẽ không là mây;
nó sẽ không là bầu trời mây Hà lan. nó sẽ là bầu trời Ấn
Độ không mây. 

Sẽ còn xảy ra nhiều lần là bạn hỏi một câu hỏi, rồi
nếu bạn tìm kiếm nó, bạn sẽ tìm thấy. Kiên nhẫn là cần
thiết, bởi vì khi tôi trả lời câu hỏi của người khác, chúng
cũng là câu hỏi của bạn nữa. Chỉ cần kiên nhẫn là đủ.
Khi tôi trả lời một câu hỏi, tôi trả lời nhiều câu hỏi -
những câu hỏi đã hỏi và những câu hỏi chưa hỏi, và
những câu hỏi sẽ hỏi trong tương lai, và những câu hỏi sẽ
không bao giờ được hỏi.
Tốt, Mark, là bạn đã chờ đợi đến một ngày mà không
giận dữ. Vài người rất giận dữ. Họ viết những bức thư
giận dữ cho tôi: “Tôi đã hỏi bao nhiêu câu hỏi và thầy
chẳng trả lời gì cho tôi cả.” Họ không nghe lời tôi, họ chỉ
tìm kiếm cho câu hỏi của họ. Đó là bản ngã của họ, câu
hỏi không quan trọng - “Câu hỏi của tôi phải được trả
lời.” Và bất kì khi nào tôi thấy rằng ai đó đã hỏi một câu
hỏi mà trong đó cái ‘của tôi’ là quan trọng hơn, thì tôi
chẳng bao giờ trả lời cả.
Mukta đang ngồi đây. Cô ấy cứ viết đi viết lại những
câu hỏi và câu hỏi: “Osho, tại sao thầy chẳng bao giờ trả
lời câu hỏi của tôi?” Cái ngày cô ấy vứt bỏ cái ‘của tôi’
của cô ấy, cô ấy sẽ bắt đầu tìm ra câu trả lời.
Tôi đang trả lời, liên tục! Nhưng khi bạn quá gắn bó
với câu hỏi của bạn, và bạn đơn giản chờ đợi khi nào câu
hỏi của bạn được trả lời, thì bạn sẽ lỡ tất cả những câu
hỏi vẫn đang tràn xuống bạn. Nhiều lần xảy ra là khi tôi
trả lời một câu hỏi thì bản thân người hỏi câu hỏi đó
không thể nhận được nó nhưng những người khác lại
nhận được nó dễ dàng, bởi vì họ không lo nghĩ, đấy
không phải là câu hỏi của họ, cho nên họ ngồi im lặng.
Họ không bị kích động về nó, họ không căng thẳng về
nó, nó chẳng có gì cá nhân cả. Họ có thể thảnh thơi và
tận hưởng câu trả lời. Khi đấy là câu hỏi của bạn thì bạn
căng thẳng và bạn sợ hãi. Và tôi chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ
hội - nếu tôi có thể đánh bạn, thì tôi đánh!
Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu,
Tôi đã nghe Thầy nó đi nói lại rằng chúng ta nên vẫn
còn trong thế giới này, trong bãi chợ. Vậy mà phần
lớn mọi người tôi gặp ở đây đều lập kế hoạch sống với
Thầy ở Gujarat, chỉ trở về phương Tây để thu thập
cho đủ tiền làm điều đó. Một cộng đồng lớn đang
được lập kế hoạch. Xin Thầy bình luận.
Thầy nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc sống
với một thầy đang sống, nhưng sau khi mối nối đã
được thiết lập Thầy bao giờ cũng cùng với chúng tôi.
Tại sao mọi người đều muốn sống trong cộng đồng
của Thầy thay vì ở trên thế giới? Điều đó chắc chắn là
tuyệt diệu, nhưng thế bãi chợ thì sao?
Nó đang trở thành bãi chợ lớn nhất mà bạn đã từng
thấy đấy. Đừng lo nghĩ về điều đó! Nó sắp sửa thành
chính thế giới này rồi - mạnh mẽ hơn, tất nhiên, mà bạn
có thể tìm thấy nó ở mọi nơi; tất nhiên hỗn loạn hơn. Và
không ai lập kế hoạch cho nó cả, nhớ lấy, nó đang tới từ
cái không. Do đó, này Sariputra...! 


Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu,
Cơ hội nào có đó cho xã hội lí tưởng của Thầy trong
khi đương đầu với các chính khách và tu sĩ và những
món lời đầu tư tư bản?
Trước hết, tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí
tưởng nào. Với vấn đề đó, tôi thậm chí không quan tâm
tới bất kì cá nhân nào. Lí tưởng thế giới là một từ bẩn
thỉu đối với tôi. Tôi không có lí tưởng nào. Lí tưởng dẫn
bạn tới điên khùng. Chính lí tưởng đã làm cho toàn bộ
trái đất này thành nhà thương điên lớn.
Lí tưởng có nghĩa là bạn không phải là cái bạn đáng
phải là. Nó tạo ra căng thẳng, lo âu, đau khổ. Nó chia rẽ
bạn, nó làm cho bạn thành tinh thần phân liệt, và lí tưởng
là tương lai còn bạn thì ở đây. Và làm sao bạn có thể
sống được chừng nào bạn chưa là điều lí tưởng? Trước
hết phải là lí tưởng, thế rồi bắt đầu sống - và điều đó
chẳng bao giờ xảy ra cả. Điều đó không thể nào xảy ra
trong chính bản chất của mọi vật. Lí tưởng là điều không
thể; đó là lí do tại sao chúng là lí tưởng. Chúng hướng
bạn tới điên khùng và làm bạn mất trí. Và việc kết án nảy
sinh, bởi vì bạn bao giờ cũng không đạt tới lí tưởng. Mặc
cảm được tạo ra. Trong thực tế, đó là điều các tu sĩ và
chính khách vẫn đang làm - họ muốn tạo ra mặc cảm
trong bạn. Để tạo ra mặc cảm, họ dùng lí tưởng; đó là cơ
chế đơn giản nhất. Trước hết đưa ra lí tưởng, thế rồi mặc
cảm tới một cách tự động.
Nếu tôi nói với bạn rằng hai mắt không đủ, bạn cần
ba mắt; mở con mắt thứ ba của bạn ra! Đọc Lobsang
Rampa - mở con mắt thứ ba ra! Và bây giờ bạn cố gắng
vất vả, cách này cách khác, và bạn trồng cây chuối, bạn
đọc mật chú - mà con mắt thứ ba vẫn không mở. Bây giờ
bạn bắt đầu thấy mặc cảm - cái gì đó đang bị lỡ... bạn
không phải là người đúng. Bạn trở nên thất vọng. Bạn cọ
sát con mắt thứ ba thật mạnh, mà nó vẫn chẳng chịu mở
ra cho.
Nhận biết về tất cả những điều vô nghĩa này. Hai con
mắt là đẹp đẽ. Và nếu bạn chỉ có một con mắt, điều đó
cũng hoàn hảo... Bởi vì Jesus nói, “Khi hai con mắt trở
thành một, thế thì toàn bộ thân thể tràn đầy ánh sáng.”
Nhưng tôi không nói rằng bạn phải cố gắng làm một mắt
thành hai. Chấp nhận bản thân mình như bạn đang thế đi.
Thượng đế đã làm cho bạn hoàn chỉnh, ngài không bỏ
điều gì bất toàn trong bạn đâu. Và nếu bạn cảm thấy bất
toàn có đó, thì đó là một phần của hoàn hảo. Bạn là bất
toàn hoàn hảo. Thượng đế biết rõ hơn: rằng chỉ trong bất
toàn mới có trưởng thành, chỉ trong bất toàn mới có
luồng chảy, chỉ trong bất toàn điều gì đó mới có thể. Nếu
bạn đã hoàn hảo bạn sẽ chết như một tảng đá. Thế thì sẽ
chẳng cái gì xảy ra cả, thế thì chẳng cái gì có thể xảy ra.
Nếu bạn hiểu tôi, tôi muốn nói với bạn: Thượng đế bao
giờ cũng bất toàn hoàn hảo; nếu không thì ngài đã chết từ
lâu rồi. Ngài sẽ không đợi được cho Friedrich Nietzsche
phải tuyên bố rằng Thượng đế chết.
Thượng đế này sẽ làm gì nếu ngài đã hoàn hảo? Thế
thì ngài chẳng thể làm được gì nữa, thế thì ngài không
thể nào có bất kì tự do nào để làm cả. Ngài không thể
trưởng thành được; chẳng có chỗ nào để đi cả. Ngài đơn
giản sẽ bị mắc kẹt ở đó. Ngài thậm chí không thể tự tử
nổi, bởi vì khi bạn hoàn hảo thì bạn không làm những
điều như thế.
Chấp nhận bản thân mình như bạn hiện thế đi. 

Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào,
không chút nào. Tôi không quan tâm thậm chí tới cá
nhân lí tưởng. Tôi không quan tâm đến chủ nghĩa lí
tưởng chút nào!
Và với tôi thì xã hội không tồn tại, chỉ có các cá
nhân. Xã hội chỉ là cấu trúc chức năng, tiện dụng. Bạn
không thể tình cờ bắt gặp xã hội. Bạn đã bao giờ tình cờ
bắt gặp xã hội chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp nhân
loại chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp Hindu giáo,
Mô ha mét giáo chưa? Không, bạn bao giờ cũng bắt gặp
cá nhân, cá nhân cụ thể, vững chắc.
Nhưng mọi người vẫn nghĩ cách cải thiện xã hội,
cách tạo ra xã hội lí tưởng. Và những người này đã
chứng tỏ là tai hoạ. Họ là mối hoạ lớn nhất. Bởi vì xã hội
lí tưởng của họ mà họ đã phá huỷ sự kính trọng của mọi
người với chính mình, và họ đã tạo ra mặc cảm trong mọi
người. Mọi người đều mặc cảm, chẳng ai dường như
hạnh phúc theo cách người ấy đang thế. Và bạn có thể
tạo ra mặc cảm cho mọi thứ - và một khi mặc cảm được
tạo ra, bạn trở thành có quyền năng. Người tạo ra mặc
cảm trong bạn lại trở thành quyền năng trên bạn - nhớ
chiến lược này - bởi vì chỉ thế thì người đó mới cứu bạn
khỏi mặc cảm. Thế thì bạn phải đi theo người đó. Các tu
sĩ trước hết tạo ra mặc cảm, rồi bạn phải tới nhà thờ. Thế
thì bạn phải tới thú tội, “Con đã phạm phải tội lỗi này,”
và người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Trước hết nhân danh Thượng đế người đó tạo ra mặc
cảm, rồi người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Nghe câu chuyện sau.
Calvin bị mẹ bắt quả tang phạm phải tội lỗi nghiêm
trọng, và lập tức được gửi tới chỗ thú tội.
“Thưa cha,” Calvin nói, “Con đã đánh bạc với chính
mình.”
“Tại sao con làm điều đó?” tu sĩ thực sự giận dữ và
quát lên.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc năm lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Một tuần sau mẹ Calvim lại bắt được nó, và lần nữa
nó bị đưa tới phòng thú tội.
“Thưa cha, con đã đánh bạc với chình mình.”
“Sao con làm thế?”
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc mười lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Tuần sau, Calvin lại phạm tội, “Quay lại nhà thú tội,”
mẹ nó nói. “Và mang cái bánh sô cô la này cho cha xứ.”
Trong khi chờ đợi một hàng dài, Calvin ăn hết cái
bánh. Trong phòng thú tội nó nói, “Thưa cha, Mẹ con sai
đem cho cha một cái bánh sô cô la, nhưng con đã ăn nó
trong khi đợi rồi.”
“Sao con làm thế?” tu sĩ hỏi.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi.”
“Thế sao con không đánh bạc với chính mình?”
Tu sĩ không quan tâm tới điều bạn làm; ông ta có mối
quan tâm bất di bất dịch - cái bánh sô cô la của mình. Và
thế thì bạn có thể tới địa ngục! Thế thì bạn có thể làm bất
kì cái gì bạn muốn, nhưng bánh sô cô la đâu? 

Họ tạo ra mặc cảm, rồi họ lại tha thứ bạn nhân danh
Thượng đế. Họ làm cho bạn thành tội nhân rồi họ nói,
“Bây giờ đến với Christ đi, ông ấy là vị cứu tinh.”
Chẳng có ai ở đó mà cứu bạn cả, bởi vì ngay chỗ đầu
tiên bạn có phạm vào tội lỗi gì đâu. Bạn không cần phải
được cứu rỗi.
Đây là thông điệp của Phật: Bạn đã có đó rồi! Bạn đã
được cứu vớt rồi! vị cứu tinh không cần tới, bạn không
phạm tội. Không có đau khổ, Sariputra, không có nguồn
gốc của đau khổ, không có chấm dứt về nó, và không có
con đường cho nó. Nó là không được đạt tới, nó là không
không đạt tới. Nó đã có đấy, nó là chính bản tính của
bạn.
Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào.
Vứt ước mơ đó đi; nó đã tạo ra những cơn ác mộng lớn
trên thế giới. Nhớ lấy, chẳng cái gì có thể xảy ra bây giờ
về chính trị cả. Chính trị là chết. Bạn có bầu cho bất kì
cái gì, phe tả hay phe hữu, làm việc đó nhưng đừng ảo
tưởng. Cần phải từ bỏ ý tưởng rằng bất kì hệ thống nào
cũng có thể là vị cứu tinh. Không hệ thống nào có thể là
cứu tinh cả - chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa Gandhi. Không xã hội nào có thể cứu bạn được, và
không xã hội nào có thể là xã hội lí tưởng. Và không có
cứu tinh - Christ, Krishna hay Rama. Bạn chỉ phải vứt bỏ
cái vô nghĩa mà bạn vẫn mang trong mình về mặc cảm
và về việc bạn là tội nhân.
Để toàn bộ năng lượng vào trong nhảy múa, lễ hội.
Và thế thì bạn là lí tưởng, tại đây và bây giờ - không phải
là bạn phải trở thành lí tưởng.
Ý thức hệ, như nó vậy, làm mất chân lí của nó. Trong
thực tế nó chưa bao giờ có đó ngay chỗ đầu tiên. Và sức
mạnh thuyết phục cũng qua đi. Vài tâm trí trịnh trọng
không còn tin vào việc người ta có thể đặt ra bản kế
hoạch tổng thể, và qua cỗ máy xã hội mà đem lại một nơi
không tưởng mới về hài hoà xã hội. Chúng ta đang sống
trong thời đại tự do hoàn toàn. Chúng ta đã tới độ tuổi.
Loài người không còn ngây thơ nữa, nó đã chín chắn
hơn. Chúng ta đang sống trong thời kì đậm sắc Socrates,
bởi vì mọi người đang hỏi tất cả những câu hỏi quan
trọng về cuộc sống. Đừng bắt đầu khao khát và thèm
muốn lí tưởng, ý tưởng, hoàn hảo tương lai nào đó. Vứt
tất cả các lí tưởng và sống ở đây và bây giờ.
Công xã của tôi không định là xã hội lí tưởng. Công
xã của tôi định là công xã ở đây và bây giờ.
Đủ cho hôm nay.


Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu,
Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của đứa trẻ trước
việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã thức tỉnh của
vị Phật?
Có tương đồng và cũng có dị biệt. Về bản chất đứa
trẻ là vị Phật, nhưng phật tính của nó, hồn nhiên của nó,
là tự nhiên, không do kiếm được. Hồn nhiên của nó là
một loại dốt nát, không phải là nhận thức rõ. Hồn nhiên
của nó là vô ý thức - nó không biết về điều đó, nó không
để tâm tới điều đó, nó không để ý gì đến điều đó. Điều đó
có đấy mà nó quên lãng. Nó đang làm mất điều đó. Nó
phải làm mất điều đó. Cõi trời sẽ mất đi chẳng chóng thì
chầy; nó đang trên đường tiến tới điều đó. Mọi đứa trẻ
đều phải đi qua tất cả các loại hư hỏng, không thuần
khiết - thế giới này.
Hồn nhiên của trẻ con là hồn nhiên của Adam trước
khi bị đầy ra khỏi vườn Địa đàng, trước khi nếm trái tri
thức, bởi vì Adam đã trở nên có ý thức. Cũng như con
vật vậy. Nhìn vào mắt con vật mà xem - con bò, con chó
- và có thuần khiết, cùng thuần khiết đó tồn tại trong mắt
của vị Phật, nhưng với sự khác biệt.
Và khác biệt là bao la nữa: vị Phật đã về tới nhà; con
vật chưa rời khỏi nhà. Đứa trẻ vẫn còn trong vườn Địa
đàng, vẫn còn trong cõi trời. Nó sẽ phải làm mất điều đó
- bởi vì để được thì người ta phải mất. Phật đã về tới
nhà... toàn bộ vòng tròn. Ông ấy đã đi xa, ông ấy đã mất,
ông ấy đã đi lạc lối, ông ấy đã dấn thân sâu vào trong
bóng tối và tội lỗi và khổ cùng địa ngục. Những kinh
nghiệm đó là một phần của chín chắn và trưởng thành.
Không có chúng thì bạn không có xương sống nào, bạn
là loài không xương sống. Không có chúng thì hồn nhiên
của bạn là rất mong manh; nó không thể đứng lại trước
gió, nó không thể chịu đựng nổi bão tố. Nó rất yếu ớt, nó
không thể tồn tại nổi. Nó phải trải qua thử lửa cuộc đời -
phạm phải cả nghìn lẻ một sai lầm, cả nghìn lẻ một lần
bản ngã, rồi bạn lại đứng dậy trên đôi chân mình. Tất cả
những kinh nghiệm đó dần dần làm bạn chín chắn lên,
làm bạn chín muồi; bạn trở thành người lớn.
Hồn nhiên của Phật là hồn nhiên của người đã chín
chắn, hoàn toàn chín muồi. Ngây thơ là vô ý thức bản
chất; phật tính là ý thức bản chất. Ngây thơ là ngoại vi
không mang ý tưởng nào về trung tâm. Phật cũng là một ngoại vi, nhưng bắt rễ tại trung tâm, định tâm. Ngây thơ
là vô danh không ý thức; phật tính là vô danh có ý thức.
Cả hai đều không tên tuổi, cả hai đều vô hình dạng...
nhưng trẻ con còn chưa biết đến hình dạng và khổ của
nó. Điều đó cũng giống như bạn chưa bao giờ ở tù cả,
cho nên bạn không biết tự do là gì. Thế thì bạn đã ở trong
tù trong nhiều năm trời, hay nhiều kiếp, và thế rồi một
hôm bạn được thả ra... bạn đi ra khỏi cánh cửa nhà tù
nhảy múa, cực lạc! Và bạn sẽ ngạc nhiên là mọi người
đều đã ở ngoài rồi, vẫn bước đi trên phố, tiến hành công
việc của mình, tới văn phòng, tới xưởng máy, thế mà
không tận hưởng tự do của mình chút nào - họ quên lãng,
họ không biết rằng họ đang tự do. Làm sao họ biết được?
Bởi vì họ chưa bao giờ trong tù cả nên họ không biết
điều tương phản; nền tảng bị mất.
Cứ dường như là bạn viết phấn trắng lên bức tường
trắng - không ai sẽ có thể đọc được nó. Chẳng cần phải
nói tới người khác - ngay chính bạn sẽ không thể nào đọc
được điều bạn viết ra.
Tôi đã từng nghe một chuyện tiếu lâm nổi tiếng về
Mulla Nasruddin. Trong làng, anh ta là người duy nhất
có thể viết được, cho nên mọi người hay đến anh ta nếu
họ muốn viết thư hay tài liệu nào đó, hay bất kì thứ gì.
Anh ta là người duy nhất có thể viết được. Một hôm một
người tới. Nasruddin đã viết một lá thư, bất kì cái gì mà
người kia đọc ra - và đấy là một bức thư dài - rồi người
kia nói, “Xin anh đọc lại bức thư vì tôi muốn chắc rằng
mọi điều đã được viết ra và tôi không quên điều gì cả,
còn anh thì cũng không làm lộn xộn mọi thứ lên.”
Mulla nói, “Này, điều ấy khó đấy. Tôi biết viết
nhưng tôi không biết đọc. Và hơn thế nữa, bức thư lại
không gửi cho tôi cho nên đọc nó là điều bất hợp pháp
nữa.”
Và người làng được thuyết phục, ý tưởng này hoàn
toàn đúng, và người làng này nói, “Anh nói phải đấy - nó
không gửi cho anh.”
Nếu bạn viết lên tường trắng thì thậm chí bản thân
bạn cũng không thể nào đọc được nó, nhưng nếu bạn viết
lên bảng đen thì nó thành lồ lộ và rõ ràng - bạn có thể
đọc được nó. Tương phản là cần thiết. Đứa trẻ không có
tương phản; nó là lớp tráng bạc không có đám mây đen.
Phật là lớp tráng bạc trong đám mây đen.
Ban ngày vẫn có sao trên trời đấy; chúng chẳng đi
đâu cả - chúng không thể đi nhanh thế, chúng không thể
nào biến mất. Chúng đã có đó, cả ngày chúng vẫn đấy,
nhưng trong đêm bạn có thể thấy được chúng vì có bóng
tối. Chúng bắt đầu xuất hiện; khi mặt trời lặn thì chúng
bắt đầu xuất hiện. Mặt trời càng xuống thấp hơn nữa
dưới đường chân trời thì sao lại càng nở rộ hơn. Chúng
vẫn ở đó cả ngày, nhưng bởi vì bóng tối mất đi nên khó
mà thấy được chúng.
Đứa trẻ có hồn nhiên nhưng không có nền tảng. Bạn
không thể thấy nó được, bạn không thể đọc được nó; nó
không hiện rõ lắm. Vị Phật đã sống cuộc sống của mình,
đã làm tất cả những gì cần thiết - cả tốt lẫn xấu - đã chạm
tới cực này và cực kia, đã từng là tội nhân và thánh nhân.
Nhớ lấy, vị Phật không chỉ là thánh nhân; ông ấy đã từng
là tội nhân và ông ấy đã từng là thánh nhân. Còn phật
tính vượt ra ngoài cả hai. Bây giờ ông ấy đã về nhà.
Đó là lí do tại sao Phật nói trong lời kinh hôm qua:
Na jhanam, na praptir na-apraptih - ‘Không có đau khổ,
không nguồn gốc, không chấm dứt, không con đường. 

Không cảm nhận, không tri thức, không thành đạt, và
không không thành đạt.” Khi Phật trở nên thức tỉnh
người ta đã hỏi ông ấy, “Thầy đã đạt tới cái gì?” Và ông
ấy cười to, và ông ấy nói, “Ta chẳng đạt tới cái gì cả - ta
chỉ phát hiện ra cái vẫn đã có đấy. Ta chỉ đơn giản đi về
nhà. Ta đã tuyên bố rằng cái đó bao giờ cũng là của ta và
cùng với ta. Cho nên không có thành đạt nào hết cả, ta
chỉ đơn giản nhận ra nó." Đấy không phải là khám phá,
đấy là phát hiện lại. Và khi bạn trở thành vị Phật thì bạn
sẽ thấy ra vấn đề - chẳng thu được cái gì hết cả qua việc
thành Phật. Bỗng nhiên bạn thấy rằng đây là bản tính của
bạn. Nhưng để nhận ra bản tính này thì bạn phải đi lạc
lối, bạn phải đi sâu vào trong hỗn loạn của thế giới. Bạn
phải đi vào trong tất cả các nơi chốn và không gian lầy
bùn để thấy cái trong sạch tột cùng của bạn, thuần khiết
tột cùng của bạn.
Hôm nọ tôi đã nói với các bạn về bẩy cánh cửa - về
cách thức bản ngã được hình thành, về cách thức ảo
tưởng bản ngả được làm mạnh thêm. Sẽ có ích để đi sâu
thêm vào vài điều về nó.
Bẩy cánh cửa của bản ngã không phải được rõ ràng
lắm và không tách bạch hẳn lẫn nhau; chúng chờm lên
nhau. Và rất hiếm khi tìm được một người đã đạt tới bản
ngã mình từ tất cả bẩy cánh cửa này. Nếu một người đã
đạt tới bản ngã từ tất cả bẩy cánh cửa này, người ấy trở
thành một bản ngã hoàn hảo. Và chỉ bản ngã hoàn hảo
mới có khả năng tan biến đi, không phải là bản ngã bất
toàn. Khi quả chín, nó rụng xuống; khi quả chưa chín nó
vẫn còn đeo bám. Nếu bạn vẫn còn bám lấy bản ngã, nhớ
lấy, quả còn chưa chín đâu; do đó mới có níu bám. Nếu
quả chín, nó rụng xuống đất và biến mất. Đấy cũng là
trường hợp với bản ngã.
Bây giờ đây là nghịch lí: rằng chỉ bản ngã đã tiến hoá
thực sự mới có thể buông xuôi. Thông thường bạn nghĩ
rằng người bản ngã không thể buông xuôi được. Đấy
không phải là quan sát của tôi, và không phải là quan sát
của chư Phật trong nhiều thời đại. Chỉ người bản ngã
hoàn hảo thì mới có thể buông xuôi. Bởi vì chỉ người đó
mới biết đến khổ của bản ngã, chỉ người ấy mới có sức
mạnh để buông xuôi. Người ấy đã biết tất cả các khả
năng của bản ngã và đã đi vào trong thất vọng mênh
mông. Người đó đã đau khổ nhiều lắm, người đó đã biết
thế là đủ rồi, và người đó muốn có bất kì cái cớ nào để
buông xuôi theo nó. Cái cớ có thể là Thượng đế, cái cớ
có thể là một thầy, hay bất kì cớ gì, nhưng người đó
muốn buông xuôi theo nó. Gánh nặng đã quá lớn và
người đó đã phải mang đi quá lâu.
Những người còn chưa phát triển bản ngã của mình
cũng có thể buông xuôi, nhưng buông xuôi của họ sẽ
không hoàn hảo, nó sẽ không toàn bộ. Cái gì đó sâu bên
trong sẽ vẫn cứ níu bám, cái gì đó sâu bên trong sẽ vẫn
cứ hi vọng: “Có thể có cái gì đó trong bản thân nó. Tại
sao mình buông xuôi?”
Tại phương Đông, bản ngã vẫn còn chưa phát triển
lắm. Bởi vì giáo huấn về vô ngã nên việc hiểu sai đã nảy
sinh rằng nếu bản ngã cần phải bị buông xuôi, tại sao
phải phát triển nó, để làm gì? Một logic đơn giản: nếu
một ngày nào nó phải bị từ bỏ, thì bận tâm tới nó làm gì?
Thế thì sao phải mất nhiều công sức thế để tạo ra nó?
Đằng nào nó cũng phải bị loại bỏ cơ mà! Cho nên
phương Đông không bận tâm nhiều lắm vào việc phát
triển bản ngã. Và tâm trí phương Đông thấy rất dễ dàng
cúi đầu xuống trước bất kì ai. Nó thấy điều đó rất dễ
dàng, nó bao giờ cũng sẵn sàng buông xuôi. Nhưng buông xuôi này về cơ bản là không thể được, bởi vì bạn
còn chưa có bản ngã để buông xuôi nó.
Bạn sẽ ngạc nhiên: tất cả chư Phật vĩ đại ở phương
Đông đều đã là kshatriya, từ đẳng cấp chiến binh - Phật,
Mahavira, Parshwanath, Neminath. Tất cả hai mươi bốn
tirthankara của đạo Jaina đều thuộc về đẳng cấp chiến
binh, và tất cả avatara của đạo Hindu đều thuộc về đẳng
cấp kshatriya - Ram, Krishna - ngoại trừ một người,
Parashuram, người này, dường như ngẫu nhiên, được
sinh ra trong một gia đình brahmin, bởi vì bạn không thể
nào tìm ra một chiến binh lớn hơn ông ấy. Phải có ngẫu
nhiên nào đó - toàn bộ cuộc đời ông là một cuộc chiến
tranh liên tục.
Điều cũng đáng ngạc nhiên khi bạn nhận ra rằng
không một brahmin nào đã từng được công bố là vị Phật,
một avatara, một tirthankara. Tại sao? Người brahmin
khiêm tốn; ngay từ ban đầu người đó đã được nuôi nấng
trong khiêm tốn, vì tính khiêm tốn. Vô ngã đã được dạy
cho người ấy ngay từ ban đầu, cho nên bản ngã không
chín muồi, và bản ngã chưa chín thì cứ bám mãi.
Tại phương Đông người ta có bản ngã rất, rất manh
mún, và họ nghĩ thế thì dễ buông xuôi. Họ bao giờ cũng
sẵn sàng buông xuôi với bất kì ai. Đánh rơi chiếc mũ và
đã sẵn sàng buông xuôi - nhưng buông xuôi của họ chẳng
bao giờ đi rất sâu, nó vẫn còn hời hợt.
Điều đối lập lại là trường hợp của phương Tây:
người tới từ phương Tây có bản ngã rất, rất mạnh và đã
phát triển. Bởi vì toàn bộ nền giáo dục phương Tây đều
nhằm tạo ra bản ngã tiến hoá, rất xác định, rất văn hoá,
phức tạp, cho nên họ nghĩ rất khó để buông xuôi. Họ
thậm chí chưa từng nghe thấy từ buông xuôi. Chính ý
tưởng này xem ra có vẻ xấu xí, đáng mất mặt. Nhưng
nghịch lí lại là ở chỗ khi người đàn ông hay đàn bà
phương Tây buông xuôi, thì việc buông xuôi đi thực sự
sâu sắc. Nó đi tới chính cốt lõi của bản thể người đó, bởi
vì bản ngã này rất tiến hoá. Bản ngã đã tiến hoá; đó là lí
do tại sao bạn nghĩ rất khó để buông xuôi. Nhưng nếu
việc buông xuôi xảy ra thì nó đi tới chính cốt lõi, nó là
tuyệt đối. Tại phương Đông mọi người nghĩ việc buông
xuôi rất dễ dàng, nhưng bản ngã lại chưa được tiến hoá
mấy cho nên nó chẳng bao giờ đi rất sâu.
Vị Phật là người đã đi vào trong kinh nghiệm của
cuộc sống, ngọn lửa cuộc sống, địa ngục cuộc sống, và
đã làm chín muồi bản ngã của mình tới khả năng tối
thượng, tới chính cái tối đa. Và trong khoảnh khắc đó
bản ngã rơi xuống và biến mất. Lần nữa bạn lại là đứa
trẻ; đấy là tái sinh, đấy là phục sinh. Trước hết bạn phải
bị treo lên chiếc thập tự bản ngã, bạn phải đau khổ trên
cây thập tự bản ngã, và bạn phải mang cây thập tự này
trên vai mình - và tới tận cùng. Bản ngã phải được học;
chỉ thế thì bạn mới có thể gạt bỏ nó. Và thế thì có vui vẻ
lớn. Khi bạn được tự do khỏi nhà tù, bạn có điệu vũ, có
lễ hội trong bản thể mình. Bạn không thể nào tin được tại
sao những người ra khỏi tù lại đờ đẫn, như chết và kéo lê
mình đến thế. Tại sao họ lại không nhảy múa? Tại sao họ
lại không lễ hội? Họ không thể làm thế: họ còn chưa biết
tới nỗi khổ của tù đầy.
Bẩy cánh cửa này cần phải được dùng trước khi bạn
có thể trở thành vị Phật. Bạn phải đi vào cõi giới tăm tối
nhất của cuộc sống, vào đêm tối của linh hồn, vào lại
bình minh khi buổi sáng mới lên, khi mặt trời mới lên, và
tất cả đều sáng. Nhưng hiếm khi xảy ra việc bạn có bản
ngã đã phát triển đầy đủ. 

Nếu bạn hiểu tôi, thế thì toàn bộ cấu trúc của giáo
dục sẽ là nghịch lí: trước hết họ nên dạy cho bạn về bản
ngã - đó nên là phần thứ nhất của giáo dục, một nửa của
nó; thế rồi họ nên dạy cho bạn về vô ngã, cách loại bỏ nó
- đó sẽ là nửa sau. Mọi người đi vào từ một cửa hay hai
cửa hay ba cửa, và bị mắc vào trong bản ngã phân đoạn
nào đó.
Điều thứ nhất, tôi nói, là bản thân thân thể. Trẻ con
bắt đầu học dần dần: phải mất gần mười lăm tháng để
cho đứa trẻ học rằng nó là tách biệt, rằng có cái gì đó bên
trong nó và cái gì đó bên ngoài. Nó học rằng nó có một
thân thể tách biệt với các thân thể khác. Nhưng vài người
vẫn còn níu bám lấy bản ngã rất, rất manh mún đó trong
suốt cả đời mình. Đấy là những người được biết tới như
người duy vật, người cộng sản, Mác xít. Những người tin
rằng thân thể là tất cả - rằng chẳng có gì nhiều hơn thân
thể bên trong bạn, rằng thân thể là toàn bộ sự tồn tại của
bạn, rằng không có tâm thức tách biệt khỏi thân thể, ở
trên thân thể, rằng tâm thức chỉ là hiện tượng hoá học
trong thân thể, rằng bạn không tách rời khỏi thân thể và
khi thân thể chết đi thì bạn cũng chết đi, và tất cả biến
mất... cát bụi trở về với cát bụi... không có điều thiêng
liêng nào trong bạn - họ qui con người về vật chất.
Đấy là những người vẫn còn níu bám vào cánh cửa
thứ nhất; lứa tuổi tâm trí của họ dường như mới chỉ mười
lăm tháng. Bản ngã nguyên thuỷ và rất, rất sơ cấp này
vẫn còn là duy vật. Những người này vẫn còn quanh
quẩn với hai điều: dục và thức ăn. Nhưng nhớ lấy, khi tôi
nói người duy vật, người cộng sản, người mác xít, tôi
không ngụ ý rằng điều này đã hoàn chỉnh danh sách. Một
ai đó có thể là người duy tâm và có thể vẫn níu bám lấy
cánh cửa thứ nhất...
Chẳng hạn, Mahatma Gandhi: nếu bạn đọc tiểu sử
ông ấy, ông ấy gọi tiểu sử mình là Kinh nghiệm của tôi
với chân lí. Nhưng nếu bạn đọc tiểu sử của ông ấy thì
bạn sẽ thấy cái tên này không đúng; ông ấy nên đặt tên
cho nó là Kinh nghiệm của tôi với thức ăn và dục. Chẳng
tìm thấy chân lí ở đâu cả. Ông ấy cứ liên tục lo nghĩ về
thức ăn: cái gì nên ăn, cái gì không nên ăn. Toàn bộ lo
nghĩ của ông ấy dường như là chỉ là về thức ăn, và rồi về
dục: làm sao trở thành vô dục - điều này diễn ra như một
chủ đề, đây là dòng chảy ngầm. Liên tục, ngày và đêm,
ông ấy nghĩ về thức ăn và dục - người ta phải được tự do.
Bây giờ ông ấy không phải là người duy vật - ông ấy tin
vào linh hồn, ông ấy tin vào Thượng đế. Trong thực tế,
bởi vì ông ấy tin vào Thượng đế nên ông ấy đang nghĩ
quá nhiều về thức ăn - bởi vì nếu ông ấy ăn cái gì đó sai
và phạm tội, thế thì ông ấy sẽ bị xa với Thượng đế. Ông
ấy nói về Thượng đế nhưng nghĩ về thức ăn.
Và điều đó không chỉ như thế với ông ấy đâu, nó
cũng là như thế với tất cả các tu sĩ Jaina nữa. Ông ấy chịu
nhiều ảnh hưởng từ các tu sĩ Jaina. Ông ấy được sinh ra ở
Gujarat. Gujarat về cơ bản là của đạo Jaina, Jaina giáo có
ảnh hưởng lớn nhất ở Gujarat. Ngay cả những người
Hindu ở Gujarat cũng giống người Jaina hơn là người
Hindu. Gandhi mang đến chín mươi phần trăm tính cách
của người Jaina - được sinh ra trong một gia đình Hindu,
nhưng tâm trí ông ấy được các tu sĩ Jaina giáo dưỡng. Họ
liên tục nghĩ về thức ăn.
Và thế rồi ý tưởng thứ hai nảy sinh, về dục - làm sao
loại bỏ được dục. Trong cả đời ông ấy, cho tới tận cùng,
ông ấy vẫn còn bận tâm về điều đó - làm sao loại bỏ dục.
Trong những năm cuối cuộc đời, ông ấy đã thực nghiệm
với còn gái ở truồng và ngủ với họ, chỉ để kiểm tra mình bởi vì ông ấy cảm thấy rằng cái chết đang tới gần, và ông
ấy phải kiểm tra bản thân mình để xem liệu có còn chút
nào thèm khát trong mình không.
Đất nước bùng cháy, mọi người bị giết: người Mô ha
mét giáo giết người Hindu, người Hindu giết người Mô
ha mét giáo - toàn bộ đất nước trong lửa cháy. Còn ông
ấy thì ở giữa điều đó, ở Novakali - nhưng mối bận tâm
của ông ấy là về dục. Ông ấy ngủ với con gái, con gái ở
truồng; ông ấy đang kiểm tra bản thân mình, kiểm tra
xem liệu brahmacharya, cái vô dục của ông ấy, đã hoàn
hảo hay chưa.
Nhưng tại sao phải có hoài nghi này? - bởi vì kìm
nén đã lâu. Trong toàn bộ cuộc sống ông ấy đã kìm nén.
Bây giờ, đến chính lúc cuối, ông ấy trở nên sợ - bởi vì
vào độ tuổi đó ông ấy vẫn còn mơ về dục. Cho nên ông
ấy rất hoài nghi: liệu ông ấy có thể đối diện với Thượng
đế của mình được không? Bây giờ ông ấy là người duy
tâm, nhưng tôi sẽ gọi ông ấy là người duy vật, và một
người duy vật rất nguyên thuỷ. Mối quan tâm của ông ấy
là thức ăn và dục.
Dù bạn ủng hộ hay chống đối điều đó cũng chẳng
thành vấn đề - mối quan tâm của bạn chỉ ra chỗ bản ngã
bạn đang bị mắc vào. Và tôi sẽ bao hàm cả người duy
tâm vào trong đó nữa: mối quan tâm cả đời của người đó
là làm sao thu được tiền bạc, tích trữ tiền bạc - bởi vì tiền
bạc có quyền lực trên vật chất. Bạn có thể mua bất kì thứ
vật chất nào bằng tiền. Bạn không thể mua được bất kì
thứ tâm linh nào, bạn không thể nào mua bất kì thứ gì mà
có giá trị thực sự; bạn chỉ có thể mua các đồ vật. Nếu bạn
muốn mua tình yêu; bạn không thể mua được; nhưng bạn
có thể mua được dục. Dục là phần vật chất của tình yêu.
Qua tiền bạc, bạn có thể mua được, sở hữu được vật chất.
Bây giờ bạn sẽ ngạc nhiên: tôi lại bao gồm cả hai loại
người cộng sản và người tư sản vào cùng một phân loại,
và họ là kẻ thù, giống như tôi bao gồm Charvaka và
Mahatma Gandhi vào cùng phạm trù, và họ là kẻ thù. Họ
là kẻ thù, nhưng mối quan tâm của họ là như nhau.
Người tư sản cố gắng tích trữ tiền bạc, người cộng sản
chống lại điều đó. Người ấy muốn rằng không ai được
phép tích trữ tiền bạc ngoại trừ nhà nước. Nhưng mối
quan tâm của người ấy cũng là về tiền bạc, người ấy
cũng vẫn cứ liên tục nghĩ về tiền bạc. Không phải ngẫu
nhiên mà Marx đã đặt tên Das Kapital cho cuốn sách vĩ
đại về chủ nghĩa cộng sản, ‘Tư bản luận’. Đó là Kinh
thánh của người cộng sản, nhưng cái tên lại là ‘Tư bản
luận’. Đó là mối quan tâm của họ: làm sao không cho
phép bất kì ai được tích trữ tiền bạc để cho nhà nước có
thể tích trữ, và làm sao để sở hữu nhà nước - cho nên,
trong thực tế, về cơ bản, tối thượng, bạn vẫn cứ tích trữ
tiền bạc.
Có lần tôi đã nghe nói rằng Mulla Nasruddin đã trở
thành người cộng sản. Tôi biết anh ta... Tôi có đôi chút
khó xử. Đây quả là phép mầu! Tôi biết tính sở hữu của
anh ta. Cho nên tôi hỏi anh ta, “Mulla, anh có biết chủ
nghĩa cộng sản nghĩa là gì không?”
Anh ta nói, “Tôi có biết.”
Tôi nói, “Anh có biết rằng nếu anh có hai chiếc xe ô
tô và ai đó không có xe, thì anh sẽ cho người ấy một cái
chứ?”
Anh ta nói, “Tôi hoàn hoàn sẵn lòng nhường chiếc xe
cho.”
Tôi nói, “Nếu anh có hai ngôi nhà và ai đó thì không
có nhà, anh sẽ cho một ngôi nhà chứ?” 


Anh ta nói, “Tôi hoàn toàn sẵn sàng, ngay bây giờ.”
Và tôi nói, “Nếu anh có hai con lừa anh sẽ cho đi một
con cho ai đó khác mà không có lừa chứ?”
Anh ta nói, “Điều ấy tôi không đồng ý. Tôi không thể
cho được, tôi không thể làm được điều đó!”
Nhưng tôi nói, “Sao vậy? - vì đấy là cùng logic, cùng
hệ quả.”
Anh ta nói, “Không nó không cùng đâu - tôi có hai
con lừa, tôi không có hai chiếc xe.”
Tâm trí người cộng sản về cơ bản cũng là tâm trí nhà
tư bản, tâm trí nhà tư bản về cơ bản cũng là tâm trí người
cộng sản. Họ là đối tác trong cùng trò chơi - tên của trò
chơi là ‘tư bản luận’, Das Kapital.
Nhiều người, hàng triệu người, chỉ mới tiến hoá bản
ngã nguyên thuỷ này, rất sơ cấp. Nếu bạn có bản ngã này
thì rất khó buông xuôi; nó còn rất chưa chín muồi.
Cánh cửa thứ hai tôi gọi là tự đồng nhất.
Trẻ con bắt đầu làm lớn lên cái ý tưởng về nó là ai.
Khi nhìn vào trong gương, nó thấy cùng khuôn mặt. Mọi
sáng, tỉnh dậy từ giường, nó chạy vào buồng tắm, nhìn
gương, và nó nói, “Đây là tôi. Giấc ngủ không làm quấy
rối điều gì cả.” Nó bắt đầu có ý tưởng về cái ta liên tục.
Nhưng người ta trở nên quá dính dáng đến cánh cửa
này, bị móc vào cánh cửa này, chính là những cái gọi là
người duy tâm, người nghĩ rằng họ sắp lên cõi trời,
moksha, nhưng nghĩ rằng họ sẽ ở đó. Khi bạn nghĩ về cõi
trời, bạn chắc chắn nghĩ về bản thân mình rằng bạn ở đó,
bạn sẽ ở đó nữa. Có thể thân thể không có đó, nhưng sự
tiếp tục bên trong của bạn sẽ vẫn còn. Điều đó là ngớ
ngẩn! Giải thoát đó, giải thoát tối hậu đó chỉ xảy ra khi
cái ta đã tan biến và tất cả mọi đồng nhất đã tan biến.
Bạn trở thành trống rỗng...
Do đó, này Sariputra, trong cái không thì không có
hình dạng, hay: hình dạng là trống rỗng và trống rỗng là
hình dạng.
Không có tri thức bởi vì không có người biết; thậm
chí không có vigyan, không ý thức, bởi vì không có gì để
mà ý thức tới và không có ai để mà ý thức về nó. Tất cả
biến mất.
Ý tưởng rằng trẻ con có cái ta liên tục được những
người duy tâm đeo đuổi. Họ cứ đi tìm mãi: từ đâu mà
linh hồn đi vào trong thân thể, từ đâu mà linh hồn đi ra
khỏi thân thể, linh hồn mang hình dạng gì, mảnh kim loại
và môi giới, những thứ đại loại như vậy - tất cả đều là rác
rưởi và vô nghĩa. Cái ta không có hình dạng. Nó là cái
không thuần khiết, nó là bầu trời bao la không mây trong
đó. Nó là im lặng vô ý nghĩ, không bị hàm chứa, không
bị chứa bởi bất kì vật gì.
Ý tưởng đó về linh hồn trường cửu, ý tưởng về cái ta,
vẫn liên tục chơi trò chơi trong tâm trí. Ngay cả nếu thân
thể chết, bạn vẫn muốn chắc chắn rằng, “Tôi vẫn còn.”
Nhiều người hay tới Phật... bởi vì đất nước này đã
từng bị chi phối bởi cái loại bản ngã thứ hai này: mọi
người tin vào linh hồn trường cửu, linh hồn vĩnh viễn,
atman - họ cứ tới với Phật mãi và nói, “Khi tôi chết, liệu
cái gì đó sẽ còn lại hay không?” Còn Phật sẽ cười to và
ông ấy sẽ nói, “Ngay bây giờ đã chẳng có gì, cho nên tại
sao phải lo về cái chết? Chưa bao giờ có cái gì từ chính
lúc ban đầu.” Và điều này không thể nào quan niệm nổi
cho tâm trí Ấn Độ. Tâm trí Ấn Độ hầu hết bị mắc vào với kiểu bản ngã thứ hai. Đó là lí do tại sao Phật giáo không
thể nào tồn tại ở Ấn Độ được. Trong năm trăm năm, Phật
giáo đã biến mất. Nó bắt rễ tốt hơn ở Trung quốc, bởi vì
Lão Tử. Lão Tử đã thực sự tạo ra cánh đồng mầu mỡ cho
Phật giáo ở đó. Khí hậu đã sẵn sàng - dường như ai đó đã
chuẩn bị mảnh đất; chỉ cần hạt mầm. Và khi hạt mầm đạt
tới Trung quốc, nó trưởng thành cây to. Nhưng từ Ấn Độ
nó đã biến mất. Lão Tử không có ý tưởng nào về cái ta
trường cửu cả, còn tại Trung quốc mọi người cũng chẳng
bận tâm nhiều lắm.
Có ba nền văn hoá trên thế giới: một nền văn hoá,
được gọi là duy vật - rất thịnh hành ở phương Tây; nền
văn hoá khác, được gọi là duy tâm - rất thịnh hành ở Ấn
Độ; còn Trung quốc thì có loại văn hoá thứ ba, không
duy vật mà cũng chẳng duy tâm. Đó là Đạo giáo: sống
theo khoảnh khắc và không bận tâm tới tương lai, bởi vì
bận tâm tới cõi trời và địa ngục, tiên cảnh và moksha thì
về cơ bản vẫn cứ là tiếp tục bận tâm về chính mình. Nó
rất ích kỉ, nó rất định tâm vào cái ta. Theo Lão Tử, theo
Phật nữa, và cũng theo tôi nữa, người cố gắng đạt tới
thiên đường là người rất, rất định tâm vào cái ta, rất ích
kỉ. Và người ấy không biết một điều về bản thể bên trong
riêng của mình - không có cái ta.
Cánh cửa thứ ba là lòng tự trọng: trẻ con học làm
mọi thứ và tận hưởng việc làm đó. Một vài người bị mắc
vào đây - họ trở thành các nhà kĩ thuật, họ trở thành các
diễn viên, nghệ sĩ, họ trở thành chính khách, họ trở thành
các ông bầu. Chủ đề cơ bản là người làm; họ muốn
chứng tỏ cho thế giới rằng họ có thể làm điều gì đó. Nếu
thế giới cho phép họ sáng tạo nào đó, thì tốt. Nếu nó
không cho phép họ sáng tạo, họ trở thành phá hoại.
Bạn có biết rằng Adolf Hitler đã muốn vào trường
nghệ thuật không? Ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, đó là ý
tưởng của ông ta. Bởi vì ông ta bị từ chối, bởi vì ông ta
không phải là hoạ sĩ, bởi vì ông ta không thể nào qua
được kì thi vào trường nghệ thuật - việc loại bỏ đó rất
khó cho ông ta chấp thuận - tính sáng tạo của ông ta biến
thành xấu. Ông ta trở thành huỷ diệt. Nhưng về cơ bản
ông ta muốn trở thành hoạ sĩ, ông ta muốn làm điều gì
đó. Bởi vì ông ta bị coi là không có khả năng làm việc
đó, nên trả thù lại, ông ta bắt đầu thành huỷ diệt.
Kẻ tội phạm và chính khách không phải là rất xa
nhau đâu, họ là anh em họ. Nếu kẻ tội phạm được trao
cho cơ hội đúng, người đó sẽ trở thành chính khách, và
nếu chính khách không gặp được cơ hội đúng để có tiếng
nói, thì người đó sẽ thành kẻ tội phạm. Chúng là các
trường hợp gần giống nhau. Vào bất kì khoảnh khắc nào,
chính khách cũng có thể trở thành tội phạm và tội phạm
có thể trở thành chính khách. Và điều này đã xảy ra trong
suốt nhiều thời đại, nhưng chúng ta còn chưa có sáng
suốt để nhìn vào trong mọi việc.
Cánh cửa thứ tư là tự mở rộng. Từ ‘của tôi’ là mấu
chốt ở đó. Người ta phải mở rộng bản thân mình bằng
việc tích luỹ tiền bạc, bằng việc tích luỹ quyền lực, bằng
việc cứ ngày một trở thành lớn nữa, lớn nữa và lớn nữa:
người yêu nước nói, “Đây là đất nước tôi, và đây là đất
nước lớn nhất trên thế giới.” Bạn có thể hỏi người yêu
nước Ấn Độ: người đó cứ tung hô khắp mọi xó xỉnh rằng
đây là punya bhumi - đây là mảnh đất của đức hạnh,
mảnh đất thuần khiết nhất trên thế giới.
Có lần cái gọi là thánh nhân tới tôi, một tu sĩ Hindu,
và ông ấy nói, “Ông không tin rằng đây là đất nước duy
nhất có biết bao nhiêu vị Phật đã được sinh ra, biết bao nhiêu avatara, bao nhiêu tirthankara - Rama, Krishna và
những người khác sao. Tại sao? - bởi vì đây là mảnh đất
đức hạnh nhất.”
Tôi bảo ông ấy, “Sự kiện là ngược lại: nếu trong nhà
hàng xóm ông thấy rằng bác sĩ cứ đến hàng ngày - lúc thì
là một vaidya, bác sĩ trị liệu, lúc thì hakim, nhà châm
cứu, rồi người dùng thiên nhiên liệu pháp, rồi thế này thế
khác - thì ông hiểu điều này là gì?”
Ông ấy nói, “Thật đơn giản! Nhà đấy ốm yếu.”
Đấy là trường hợp cho Ấn Độ: cần tới biết bao nhiêu
là vị Phật - đất nước này dường như hoàn toàn ốm yếu và
bệnh hoạn. Biết bao nhiều thầy chữa, biết bao nhiêu bác
sĩ. Phật đã nói, “Bất kì khi nào có đen tối trên thế giới,
bất kì khi nào có tội lỗi trên thế giới, và bất kì khi nào
luật vũ trụ bị phá rối, ta sẽ quay trở lại.” Cho nên tại sao
ông ấy đã tới vào lúc đó? Nó phải có cùng một lí do. Và
tại sao lại bao nhiêu lần ở Ấn Độ?
Nhưng nhà yêu nước cao ngạo, hung hăng, bản ngã.
Ông ta cứ tuyên bố, “Đất nước tôi là đặc biệt, tôn giáo tôi
là đặc biệt, nhà thờ tôi là đặc biệt, sách của tôi là đặc
biệt, thầy tôi là đặc biệt” - và mọi thứ đều là không. Đây
chỉ là lời rêu rao của bản ngã.
Vài người bị mắc vào với cái ‘của tôi’ này - người
giáo điều, nhà yêu nước, người Hindu, người Ki tô giáo,
người Mô ha mét giáo.
Cánh cửa thứ năm là tự hình dung. Trẻ con bắt đầu
nhìn vào mọi thứ, kinh nghiệm. Khi bố mẹ cảm thấy
thoải mái với đứa trẻ, nó nghĩ, “Mình tốt đây.” Khi họ
khen ngợi nó, nó cảm thấy, “Mình tốt đây.” Khi họ nhìn
nó giận dữ, họ quát tháo nó và họ nói, “Cấm làm thế!” nó
cảm thấy, “Cái gì sai trong mình rồi.” Nó chùn lại.
Một cháu nhỏ ngày đầu tiên tới trường được thầy hỏi
“Tên con là gì?”
Nó nói, “Johnny Đừng.”
Thầy giáo phân vân. Thầy nói, “Johnny Đừng à?
Chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó!”
Nó nói, “Bất ki khi nào, bất kì cái gì con làm, đây
đều là tên con - mẹ con hét lên, ‘Johnny đừng!’ Bố con
quát lên, ‘Johnny đừng!’ Cho nên con nghĩ đây là tên
con. ‘Đừng’ bao giờ cũng có đó. Điều con làm chẳng liên
quan.”
Cửa thứ năm là cánh cửa từ đó đạo đức đi vào: bạn
trở thành nhà đạo đức; bạn bắt đầu cảm thấy rất tốt,
‘thánh thiện hơn ngươi.’ Hay, trong thất vọng, trong
kháng cự, trong vật lộn, bạn trở thành người vô đạo đức
và bạn bắt đầu tranh đấu với toàn bộ thế giới, để chứng
minh cho toàn thế giới.
Fritz Perls, người sáng lập phái Trị liệu Động thái, đã
viết về một trong những kinh nghiệm của mình mà đã
chứng tỏ điều rất nền tảng cho nỗ lực cả đời của ông ấy.
Ông ấy là nhà thực hành phân tâm ở châu Phi. Việc thực
hành rất có kết quả bởi vì ông ấy là nhà phân tâm duy
nhất ở đó. Ông ấy có một chiếc xe to, một nhà gỗ một
tầng to cùng với vườn, một bể bơi - và mọi thứ mà một
tâm trí tầm thường muốn có, những đồ xa xỉ phẩm hạng
trung. Và thế rồi ông ấy tới Vienna để tham dự hội nghị
các nhà phân tâm thế giới. Tất nhiên, ông ấy là người
thành công ở châu Phi, cho nên ông ấy đã nghĩ rằng
Freud sẽ đón ông ấy, sẽ có đón chào lớn. Và Freud là cha
già cho các nhà phân tâm, cho nên ông ấy muốn được
Freud khen ngợi. Ông ấy đã viết một bài báo và đã làm
việc nhiều tháng về nó, bởi vì ông ấy muốn Freud biết ông ấy là ai. Ông ấy đọc bài báo; không có đáp ứng.
Freud rất lạnh nhạt, các nhà phân tâm khác cũng rất lạnh
nhạt. Bài báo của ông ấy gần như chẳng được chú ý tới,
không được bình luận tới. Ông ấy cảm thấy rất choáng
váng, chán nản, nhưng ông ấy vẫn hi vọng rằng ông ấy sẽ
tới gặp Freud, và thế rồi điều gì đó có thể xảy ra. Và ông
ấy tới gặp Freud. Ông ấy mới tới bậc thềm, vẫn còn chưa
đi qua cửa, còn Freud đứng đó. Và ông ấy nói với Freud,
chỉ để gây ấn tượng lên ông ta, “Tôi đã tới đây từ hàng
nghìn dặm đường.” Và thay vì đón chào ông ấy, Freud lại
nói, “Thế khi nào ông về?” Điều này làm tổn thương ông
ấy lắm: “Thế này mà là đón chào à? - ‘Thế khi nào ông
về?’” Và đó là toàn bộ cuộc phỏng vấn - kết thúc! Ông
ấy quay đi, lẩm bẩm liên tục, giống như một câu mật chú
trong đầu: “Ta sẽ cho ông biết tay, ta sẽ cho ông biết tay,
ta sẽ cho ông biết tay!” Và ông ấy đã cố gắng chứng tỏ
cho Freud: ông ấy tạo ra một phong trào lớn chống lại
phân tâm học - động thái.
Đây là phản ứng trẻ con. Hoặc là trẻ con được chấp
nhận - thế thì nó cảm thấy thoải mái, thế thì nó sẵn sàng
làm bất kì cái gì mà bố mẹ muốn; hoặc là nếu nó cứ bị
thất vọng mãi, thế thì nó bắt đầu nghĩ dưới dạng, “Không
còn khả năng nào cho mình nhận được tình yêu của họ,
nhưng mình vẫn cần sự chú ý của họ. Nếu mình không
thể nào nhận được sự chú ý qua cách đúng, thì mình sẽ
làm cho họ phải chú ý qua cách sai. Bây giờ mình sẽ hút
thuốc, mình sẽ thủ dâm, mình sẽ làm hại mình và người
khác, và mình sẽ làm đủ mọi thứ mà họ nói ‘Đừng làm,’
nhưng mình sẽ làm cho họ phải bận tâm về mình. Mình
sẽ cho họ biết tay.”
Đây là cánh cửa thứ năm, tự hình dung. Tội nhân và
thánh nhân đều bị mắc tại đây. Cõi trời và địa ngục đều
là những ý tưởng của những người bị mắc tại đây. Hàng
triệu người bị mắc lại. Họ liên tục sợ địa ngục và liên tục
tham lam về cõi trời. Họ muốn được Thượng đế khen
ngợi, và họ muốn Thượng đế nói với họ, “Con tốt đấy,
con ta. Ta sung sướng vì con.” Họ cứ hi sinh các kiếp
sống chỉ để được khen ngợi bởi hoang tưởng nào đó ở
đâu đó bên ngoài sự sống và cái chết. Họ cứ làm cả nghìn
lẻ một kiểu hành hạ chính mình chỉ để cho Thượng đế có
thể nói, “Được, con đã hi sinh bản thân mình cho ta.”
Cứ dường như là Thượng đế là kẻ tự bạo và bạo ác,
hay cái gì đó giống thế. Người ta tự hành hạ mình với ý
tưởng rằng họ sẽ làm cho Thượng đế sung sướng. Bạn
ngụ ý gì bởi điều này? Bạn nhịn ăn và bạn nghĩ Thượng
đế sẽ sung sướng với bạn sao? Bạn bỏ đói mình và bạn
nghĩ Thượng đế sẽ rất sung sướng với bạn sao? Ngài có
bạo ác không? Ngài có thích hành hạ người khác không?
Và đó là thánh gì, cái gọi là thánh, đã từng làm: tự hành
hạ mình và nhìn lên trời. Chẳng chóng thì chầy Thượng
đế sẽ nói, “Được đấy, con làm tốt lắm. Bây giờ lại đây và
tận hưởng lạc thú cõi trời. Lại đây! Rượu tuôn thành suối
ở đây, đường làm bằng vàng, và lâu đài làm bằng kim
cương. Và phụ nữ ở đây chẳng bao giờ già, họ cứ còn
mười sáu tuổi mãi. Lại đây! Con làm thế đủ rồi, con đã
được thưởng, bây giờ con có thể tận hưởng!” Toàn bộ ý
tưởng nằm sau hi sinh là thế này. Đây là ý tưởng ngu
xuẩn, bởi vì tất cả ý tưởng bản ngã đều là ngu xuẩn.
Cánh cửa thứ sáu là cái ta như lí trí. Nó tới qua giáo
dục, kinh nghiệm, đọc, học, nghe: bạn bắt đầu tích luỹ ý
tưởng, thế rồi bạn bắt đầu tạo ra hệ thống từ các ý tưởng,
các tổng thể nhất quán, các triết lí. Đây là nơi các triết
gia, các khoa học gia, các tư tưởng gia, các trí thức gia,
những người theo chủ nghĩa duy lí đều bị mắc vào. 

Nhưng điều này trở thành ngày một phức tạp hơn: so với
cánh cửa thứ nhất, cánh cửa thứ sáu là rất tinh vi.
Cánh cửa thứ bẩy là cố gắng thích đáng: nghệ sĩ, nhà
huyền môn, người không tưởng, kẻ mộng mơ - họ bị mắc
ở đó. Họ bao giờ cũng cố gắng tạo ra một nơi không
tưởng trên thế giới này. Từ nơi không tưởng là rất hay:
nó có nghĩa là cái chưa bao giờ tới. Nó bao giờ cũng
đang tới nhưng chẳng bao giờ tới thật; nó bao giờ cũng
có đó nhưng chưa bao giờ ở đây cả. Nhưng có những kẻ
ngắm trăng cứ nhìn ra xa xôi, xa xa, và họ bao giờ cũng
di chuyển trong tưởng tượng. Các nhà thơ lớn, những
người hư cấu - toàn bộ bản ngã họ đều bị thu hút vào
trong việc trở thành. Ai đó muốn trở thành Thượng đế;
người ấy là nhà huyền học.
Nhớ lấy, ‘trở thành’ là từ mấu chốt cho cánh cửa thứ
bẩy, và cánh cửa thứ bẩy là cánh cửa cuối cùng của bản
ngã. Bản ngã chín muồi nhất thì tới đây. Đó là lí do tại
sao bạn sẽ cảm thấy, bạn sẽ thấy một nhà thơ - người ấy
có thể chẳng có gì, người ấy có thể là kẻ ăn xin, nhưng
trong đôi mắt người ấy, trên mũi người ấy, bạn sẽ thấy
bản ngã lớn. Nhà huyền môn có thể đã từ bỏ toàn bộ thế
giới và có thể ngồi trong hang động Himalaya, trong cốc
núi Himalaya. Bạn tới đó và nhìn vào ông ấy: ông ấy có
thể ngồi đó mình trần - nhưng đấy là bản ngã tinh vi thế,
bản ngã tinh tế thế. Ông ấy có thể chạm chân bạn, nhưng
ông ấy đang hô lên, “Trông đây tôi khiêm tốn làm sao!”
Có bẩy cánh cửa. Khi bản ngã hoàn hảo, tất cả bẩy
cánh cửa này đã được đi qua; thế thì bản ngã chín muồi
đó có thể bị loại bỏ theo ý riêng của nó. Đứa trẻ đứng
trước bẩy bản ngã này, còn Phật đứng sau bẩy bản ngã
này. Đó là vòng tròn đầy đủ.
Bạn hỏi tôi: “Đâu là khác biệt giữa trống rỗng của
đứa trẻ trước việc hình thành bản ngã và ngây thơ đã
thức tỉnh của vị Phật?”
Đây là khác biệt: Phật đã đi vào trong tất cả bẩy bản
ngã này - đã thấy chúng, nhìn vào chúng, đã thấy rằng
chúng đều là ảo tưởng, và đã trở về nhà, đã trở lại thành
đứa trẻ lần nữa. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói,
“Chừng nào ông chưa trở thành giống như trẻ nhỏ, ông sẽ
không đi vào vương quốc Thượng đế của ta.”
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về Zorba người Hi
lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích cuốn sách đó
lắm. Liệu Zorba không y hệt là cách thức mà Thầy
muốn chúng tôi trở thành chứ? Ít nhất đó cũng là cách
tôi hiểu được giáo huấn của Thầy.
Tôi đã là Zorba người Hi lạp trong nhiều kiếp. Tôi
không cần đọc cuốn sách đó; đó là cuốn tự truyện của tôi.
Và đó là điều tôi muốn bạn trở thành.
Coi cuộc sống là vui vẻ đi, coi cuộc sống là dễ dàng
đi, coi cuộc sống là thảnh thơi đi, đừng tạo ra những vấn
đề không cần thiết. Chín mươi chín phần trăm những vấn
đề của bạn là do bạn tạo ra bởi vì bạn coi cuộc sống là
nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh là căn nguyên gốc rễ của
mọi vấn đề. Vui vẻ, và bạn sẽ không bỏ lỡ điều gì - bởi vì
cuộc sống là Thượng đế. Quên về Thượng đế đi; chỉ sống
động, sống một cách phong phú. Sống từng khoảnh khắc dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng. Sống nó một
cách mạnh mẽ; để cho ngọn đuốc của bạn bùng cháy từ
cả hai đầu. Cho dù nó chỉ còn một khoảnh khắc, thì thế
cũng đủ. Một khoảnh khắc của tính toàn bộ mạnh mẽ là
đủ để cho bạn hương vị của Thượng đế. Bạn có thể sống
theo cách hờ hững, theo cách tư sản, theo cách hạng
trung. Bạn có thể cứ tiếp tục sống, kéo lê mình trong
hàng triệu năm - bạn sẽ chỉ thu thập bụi bặm trên đường
chứ chẳng được cái gì khác. Một khoảnh khắc sáng tỏ,
toàn bộ, tự phát, và bạn sẽ bùng cháy như ngọn lửa. Chỉ
một khoảnh khắc là đủ! Một khoảnh khắc sẽ làm cho bạn
thành vĩnh hằng; bạn sẽ đi từ khoảnh khắc đó vào vĩnh
hằng. Đó là toàn bộ thông điệp của tôi cho các sannyasin:
sống theo cách mà bạn không cần phải ăn năn bao giờ.
Một người bạn đã gửi tới cho tôi một đoạn cắt báo.
Một bà già, tám mươi nhăm tuổi, được một nhà báo
hỏi rằng nếu bà được sống lại lần nữa, thì bà sẽ sống như
thế nào?
Bà già nói - có sáng suốt lớn trong đó, nhớ lấy điều
đó - “Nếu như tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi dám
phạm nhiều sai lầm hơn trong lần tiếp. Tôi sẽ thảnh thơi,
tôi sẽ linh hoạt. Tôi sẽ ngờ nghệch hơn là tôi đã ngờ
nghệch trong cuộc đời này. Tôi sẽ coi ít thứ nghiêm
chỉnh hơn. Tôi sẽ lấy nhiều cơ may hơn. Tôi sẽ thực hiện
nhiều chuyến đi hơn. Tôi sẽ trèo lên nhiều núi hơn và bơi
trên nhiều sông hơn. Tôi sẽ ăn nhiều kem hơn và ít đậu
hơn. Có lẽ tôi sẽ gặp nhiều rắc rối hơn, nhưng tôi sẽ có ít
điều tưởng tượng hơn.
“Anh xem đấy, tôi là một trong những người đã sống
có xét đoán và lành mạnh giờ nọ sang giờ kia, ngày nọ
tiếp ngày kia. Ôi, tôi đã có những khoảnh khắc của mình,
và nếu như tôi phải làm lại điều đó thì tôi sẽ có chúng
nhiều hơn. Trong thực tế, tôi sẽ cố gắng chẳng có gì khác
- chỉ các khoảnh khắc, cái nọ tiếp cái kia, thay vì sống
bao nhiêu năm phía trước cho từng ngày. Tôi đã là một
trong những người chưa bao giờ đi bất kì đâu mà không
có cặp nhiệt độ, chai nước nóng, áo mưa và ô. Nếu tôi
phải làm lại điều đó lần nữa thì tôi sẽ du hành nhẹ nhàng
hơn trước.
“Nếu tôi được sống lại cuộc đời đã qua, tôi sẽ bắt đầu
đi chân không sớm hơn trong dòng suối và ở lại muộn
hơn trong dòng thác. Tôi sẽ đi nhảy nhiều hơn. Tôi sẽ
cưỡi nhiều vòng quay ngựa gỗ hơn. Tôi sẽ hái nhiều hoa
cúc hơn.”
Và đó là viễn kiến của tôi về sannyasin nữa. Sống
khoảnh khắc này toàn bộ nhất có thể được đi. Đừng quá
lành mạnh, bởi vì quá lành mạnh sẽ dẫn tới không lành
mạnh. Để cho chút ít điên khùng tồn tại trong bạn. Điều
đó sẽ thêm hương vị cho cuộc sống, làm ra nước cam lồ
cuộc sống. Để một chút ít phi lí bao giờ cũng có đó. Điều
đó làm cho bạn có khả năng chơi đùa, vui vẻ; điều đó
giúp cho bạn thảnh thơi. Người lành mạnh hoàn toàn bị
treo trên đầu, người ấy không thể xuống được từ đó.
Người ấy sống trên gác. Sống khắp mọi chỗ đi, đây là
ngôi nhà của bạn! Trên gác, tốt, dưới đất, hoàn toàn tốt -
và tầng hầm cũng đẹp nữa. Sống ở khắp mọi chỗ, đây là
ngôi nhà của bạn. Và đừng đợi tới lần sau, tôi sẽ bảo với
bà già này như thế, vì lần sau chẳng bao giờ tới cả.
Không phải là bạn sẽ không được sinh ra nữa; bạn sẽ
được sinh ra nữa, nhưng thế thì bạn sẽ quên mất. Thế thì
bạn sẽ bắt đầu lại từ ABC. Bà già này đã từng ở đây
trước kia. Bà ấy phải đã từng ở đây hàng triệu lần trước kia. Và tôi có thể nói với bạn rằng mỗi lần, gần đến độ
tuổi tám mươi nhăm, bà ấy lại quyết định theo cùng cách:
“Lần sau tôi sẽ làm điều ấy khác đi.” Nhưng lần sau bạn
không nhớ - đấy là vấn đề. Bạn mất tất cả kí ức về kiếp
sống quá khứ. Thế thì bạn lại bắt đầu từ ABC và cùng
điều như thế lại xảy ra.
Cho nên tôi sẽ không nói bạn phải đợi tới lần sau.
Nắm ngay lấy khoảnh khắc này đi! Đây là thời gian duy
nhất đang có đó, không có thời gian khác. Cho dù là bạn
đã tám mươi nhăm thì bạn vẫn có thể bắt đầu sống. Và
cái gì có đó để mà mất khi bạn đã tám mươi nhăm? Nếu
bạn đi chân trần trên bãi cát trong dòng suối, nếu bạn
lượm lặt hoa cúc - ngay cả nếu bạn có chết trong lúc đó,
thì cũng chẳng có gì sai cả. Chết khi đi chân trần trên bãi
cái là cách chết đúng đắn. Chết khi lượm lặt hoa cúc là
cách chết đúng đắn. Dù bạn tám mươi nhăm tuổi hay
mười lăm tuổi cũng chẳng thành vấn đề. Giữ lấy khoảnh
khắc này. Là một Zorba.
Bạn hỏi: “Tôi tò mò. Thầy đã đọc cuốn sách về
Zorba người Hi lạp của Kazantzakis chưa? Tôi thích
cuốn sách đó lắm.”
Chỉ yêu nó thì cũng chẳng có ích. Là nó đi! Đôi khi
việc xảy ra là bạn yêu cái đối lập với cái bạn đang là.
Bạn thích thú cái đối lập của cái bạn đang là - bởi vì nó
làm thoát ra phóng túng trong bạn. Nó cho bạn viễn kiến
về cách bạn sẽ thích là như vậy: đó là sức quyến rũ của
một Zorba.
Nhưng yêu cuốn sách thì sẽ không có ích. Đó là điều
mọi người vẫn thường làm suốt nhiều thời đại. Mọi
người yêu Kinh thánh, và không trở thành Jesus, và họ
yêu Tâm Kinh - họ lặp lại nó, họ tụng nó hàng ngày.
Hàng triệu người ở phương Đông tụng Tâm Kinh năm
lần một ngày - ở Trung quốc, ở Nhật bản, ở Triều tiên, ở
Việt Nam - họ cứ lặp lại nó. Nó là một bài kinh nhỏ; nó
có thể được lặp lại trong vài phút. Họ yêu nó, nhưng họ
không trở thành nó!
Là một Zorba đi. Nhớ điều đó: yêu sách không ích gì
đâu, chỉ sống mới có ích.
“Tôi thích cuốn sách đó lắm. Liệu Zorba không y hệt
là cách thức mà Thầy muốn chúng trở thành chứ?”
Không y hệt, bởi vì tôi không thích nhiều Zorba trên
thế giới. Không y hệt, bởi vì điều đó sẽ xấu xí và đơn
điệu và đáng chán. Bạn hãy là Zorba theo cách riêng của
mình - không y hệt.
Đừng bao giờ cố gắng bắt chước bất kì ai, đừng bao
giờ là kẻ bắt chước; đó là tự tử. Thế thì bạn sẽ chẳng bao
giờ có thể tận hưởng được. Bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn
là bản sao, bạn sẽ chẳng bao giờ là nguyên bản. Và tất cả
những điều đó xảy ra trong cuộc sống - chân lí, cái đẹp,
cái thiện, giải thoát, thiền, tình yêu - xảy ra cho cái
nguyên bản, không bao giờ xảy ra cho bản sao. Nhận biết
đi - không y hệt; đó là nguy hiểm. Nếu bạn đơn giản theo
Zorba và bắt đầu làm những điều như ông ấy làm thì bạn
sẽ gặp rắc rối. Đó là cách mà mọi người vẫn làm nó.
Nhìn những người Ki tô giáo mà xem, nhìn những
người Hindu mà xem: họ đang cố gắng là y hệt. Không ai
có thể là Phật lần nữa! Thượng đế không cho phép bất kì
lặp lại nào! Thượng đế không cho phép người bản sao,
ông ấy yêu người bản chính. Ông ấy yêu Phật. Ông ấy
yêu đến mức điều đó chấm dứt. Bây giờ không cần Phật
nữa. Đấy sẽ không còn là chuyện tình chút nào nữa. Điều
đó sẽ giống như cùng cuốn phim bạn đã xem trước đây, điều đó sẽ giống như đọc cùng cuốn sách bạn đã đọc
nhiều lần trước đây. Thượng đế không trì trệ và ngờ
nghệch, ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì ai lặp lại bất
kì ai khác: Christ chỉ có một, Phật chỉ có một - và do vậy
bạn cũng chỉ có một! Và bạn là đơn lẻ, không có ai khác
giống bạn. Chỉ có bạn là bạn thôi. Điều này tôi gọi là sự
tôn kính với cuộc sống. Điều này thực sự là tự trọng.
Học từ Zorba đi, học điều bí mật, nhưng đừng bao
giờ cố gắng bắt chước. Học theo hoàn cảnh, cách đánh
giá, đi vào nó, đồng cảm với nó, tham dự với Zorba, và
thế rồi đi theo cách riêng của bạn. Thế thì là chính bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Xin Thầy nói về đâu là điểm chung giữa cầu nguyện
và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa chúng?
Câu hỏi này là của Mark Nevejan...
Tái bút. Thầy không biết tôi bởi vì tôi chưa từng gặp
Thầy chỗ riêng tư. Arup biết tôi chút ít.
Arup không biết cô ấy, làm sao cô ấy biết bạn? - dù
chỉ một chút ít! Bạn chưa từng gặp tôi, điều đó đúng.
Nhưng tôi biết bạn, bởi vì tôi biết bản thân mình. Cái
ngày tôi nhận ra chính mình thì tôi cũng biết về mọi
người - bởi vì đấy là cùng cái không nở hoa theo nhiều
cách khác nhau.
Tôi biết bạn, Mark. Bạn có thể không biết tôi. Làm
sao bạn biết tôi được? - bạn không biết tới chính mình.
Nhưng tôi biết bạn. Tôi có thể không biết hình dạng bạn,
nhưng tôi biết bạn... và bạn không là hình dạng.
Do đó, này Sariputra...
Hình dạng là trống rỗng, trống rỗng là hình
dạng.
Tôi biết chân lí trong bạn; tôi có thể không biết cá
tính quanh bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể giúp bạn -
bởi vì tôi biết bạn. Đó là lí do tại sao tôi có thể đưa bạn
vượt ra ngoài - bởi vì tôi biết bạn. Nếu tôi không biết bạn
thì tôi không thể nào đưa bạn vượt ra ngoài được.
Và bạn hỏi: “Xin Thầy nói về đâu là điểm chung
giữa cầu nguyện và thiền, và cũng nói về khác biệt giữa
chúng?” Tôi vừa định nói về điều đó hôm qua, nhưng có
nhiều câu hỏi quá và tôi chưa thể trả lời bạn được.
Mark đã viết câu hỏi khác ngày hôm nay:
Mùa hè của Tâm thức và Tự do kính yêu,
Hôm nọ tôi đã hỏi Thầy một câu hỏi về đâu là điểm
chung và điểm khác trong cầu nguyện và thiền. Đồng
thời, tôi đã đọc trong sách của Thầy, Tôi là lối cổng,
và tôi đã tìm ra câu trả lời. Xin cảm ơn Thầy về lời
đáp.
Bầu trời mây Hà lan tên là Mark Nevejan.
Bạn sẽ không còn mang tên Mark Nevejan lâu nữa!
Tôi nghĩ sẽ là hôm nay, bởi vì tôi không đợi cho tới mai.
Tôi sẽ tìm cho bạn một cái tên hay. Nó sẽ không là mây;
nó sẽ không là bầu trời mây Hà lan. nó sẽ là bầu trời Ấn
Độ không mây. 

Sẽ còn xảy ra nhiều lần là bạn hỏi một câu hỏi, rồi
nếu bạn tìm kiếm nó, bạn sẽ tìm thấy. Kiên nhẫn là cần
thiết, bởi vì khi tôi trả lời câu hỏi của người khác, chúng
cũng là câu hỏi của bạn nữa. Chỉ cần kiên nhẫn là đủ.
Khi tôi trả lời một câu hỏi, tôi trả lời nhiều câu hỏi -
những câu hỏi đã hỏi và những câu hỏi chưa hỏi, và
những câu hỏi sẽ hỏi trong tương lai, và những câu hỏi sẽ
không bao giờ được hỏi.
Tốt, Mark, là bạn đã chờ đợi đến một ngày mà không
giận dữ. Vài người rất giận dữ. Họ viết những bức thư
giận dữ cho tôi: “Tôi đã hỏi bao nhiêu câu hỏi và thầy
chẳng trả lời gì cho tôi cả.” Họ không nghe lời tôi, họ chỉ
tìm kiếm cho câu hỏi của họ. Đó là bản ngã của họ, câu
hỏi không quan trọng - “Câu hỏi của tôi phải được trả
lời.” Và bất kì khi nào tôi thấy rằng ai đó đã hỏi một câu
hỏi mà trong đó cái ‘của tôi’ là quan trọng hơn, thì tôi
chẳng bao giờ trả lời cả.
Mukta đang ngồi đây. Cô ấy cứ viết đi viết lại những
câu hỏi và câu hỏi: “Osho, tại sao thầy chẳng bao giờ trả
lời câu hỏi của tôi?” Cái ngày cô ấy vứt bỏ cái ‘của tôi’
của cô ấy, cô ấy sẽ bắt đầu tìm ra câu trả lời.
Tôi đang trả lời, liên tục! Nhưng khi bạn quá gắn bó
với câu hỏi của bạn, và bạn đơn giản chờ đợi khi nào câu
hỏi của bạn được trả lời, thì bạn sẽ lỡ tất cả những câu
hỏi vẫn đang tràn xuống bạn. Nhiều lần xảy ra là khi tôi
trả lời một câu hỏi thì bản thân người hỏi câu hỏi đó
không thể nhận được nó nhưng những người khác lại
nhận được nó dễ dàng, bởi vì họ không lo nghĩ, đấy
không phải là câu hỏi của họ, cho nên họ ngồi im lặng.
Họ không bị kích động về nó, họ không căng thẳng về
nó, nó chẳng có gì cá nhân cả. Họ có thể thảnh thơi và
tận hưởng câu trả lời. Khi đấy là câu hỏi của bạn thì bạn
căng thẳng và bạn sợ hãi. Và tôi chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ
hội - nếu tôi có thể đánh bạn, thì tôi đánh!
Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu,
Tôi đã nghe Thầy nó đi nói lại rằng chúng ta nên vẫn
còn trong thế giới này, trong bãi chợ. Vậy mà phần
lớn mọi người tôi gặp ở đây đều lập kế hoạch sống với
Thầy ở Gujarat, chỉ trở về phương Tây để thu thập
cho đủ tiền làm điều đó. Một cộng đồng lớn đang
được lập kế hoạch. Xin Thầy bình luận.
Thầy nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc sống
với một thầy đang sống, nhưng sau khi mối nối đã
được thiết lập Thầy bao giờ cũng cùng với chúng tôi.
Tại sao mọi người đều muốn sống trong cộng đồng
của Thầy thay vì ở trên thế giới? Điều đó chắc chắn là
tuyệt diệu, nhưng thế bãi chợ thì sao?
Nó đang trở thành bãi chợ lớn nhất mà bạn đã từng
thấy đấy. Đừng lo nghĩ về điều đó! Nó sắp sửa thành
chính thế giới này rồi - mạnh mẽ hơn, tất nhiên, mà bạn
có thể tìm thấy nó ở mọi nơi; tất nhiên hỗn loạn hơn. Và
không ai lập kế hoạch cho nó cả, nhớ lấy, nó đang tới từ
cái không. Do đó, này Sariputra...! 


Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu,
Cơ hội nào có đó cho xã hội lí tưởng của Thầy trong
khi đương đầu với các chính khách và tu sĩ và những
món lời đầu tư tư bản?
Trước hết, tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí
tưởng nào. Với vấn đề đó, tôi thậm chí không quan tâm
tới bất kì cá nhân nào. Lí tưởng thế giới là một từ bẩn
thỉu đối với tôi. Tôi không có lí tưởng nào. Lí tưởng dẫn
bạn tới điên khùng. Chính lí tưởng đã làm cho toàn bộ
trái đất này thành nhà thương điên lớn.
Lí tưởng có nghĩa là bạn không phải là cái bạn đáng
phải là. Nó tạo ra căng thẳng, lo âu, đau khổ. Nó chia rẽ
bạn, nó làm cho bạn thành tinh thần phân liệt, và lí tưởng
là tương lai còn bạn thì ở đây. Và làm sao bạn có thể
sống được chừng nào bạn chưa là điều lí tưởng? Trước
hết phải là lí tưởng, thế rồi bắt đầu sống - và điều đó
chẳng bao giờ xảy ra cả. Điều đó không thể nào xảy ra
trong chính bản chất của mọi vật. Lí tưởng là điều không
thể; đó là lí do tại sao chúng là lí tưởng. Chúng hướng
bạn tới điên khùng và làm bạn mất trí. Và việc kết án nảy
sinh, bởi vì bạn bao giờ cũng không đạt tới lí tưởng. Mặc
cảm được tạo ra. Trong thực tế, đó là điều các tu sĩ và
chính khách vẫn đang làm - họ muốn tạo ra mặc cảm
trong bạn. Để tạo ra mặc cảm, họ dùng lí tưởng; đó là cơ
chế đơn giản nhất. Trước hết đưa ra lí tưởng, thế rồi mặc
cảm tới một cách tự động.
Nếu tôi nói với bạn rằng hai mắt không đủ, bạn cần
ba mắt; mở con mắt thứ ba của bạn ra! Đọc Lobsang
Rampa - mở con mắt thứ ba ra! Và bây giờ bạn cố gắng
vất vả, cách này cách khác, và bạn trồng cây chuối, bạn
đọc mật chú - mà con mắt thứ ba vẫn không mở. Bây giờ
bạn bắt đầu thấy mặc cảm - cái gì đó đang bị lỡ... bạn
không phải là người đúng. Bạn trở nên thất vọng. Bạn cọ
sát con mắt thứ ba thật mạnh, mà nó vẫn chẳng chịu mở
ra cho.
Nhận biết về tất cả những điều vô nghĩa này. Hai con
mắt là đẹp đẽ. Và nếu bạn chỉ có một con mắt, điều đó
cũng hoàn hảo... Bởi vì Jesus nói, “Khi hai con mắt trở
thành một, thế thì toàn bộ thân thể tràn đầy ánh sáng.”
Nhưng tôi không nói rằng bạn phải cố gắng làm một mắt
thành hai. Chấp nhận bản thân mình như bạn đang thế đi.
Thượng đế đã làm cho bạn hoàn chỉnh, ngài không bỏ
điều gì bất toàn trong bạn đâu. Và nếu bạn cảm thấy bất
toàn có đó, thì đó là một phần của hoàn hảo. Bạn là bất
toàn hoàn hảo. Thượng đế biết rõ hơn: rằng chỉ trong bất
toàn mới có trưởng thành, chỉ trong bất toàn mới có
luồng chảy, chỉ trong bất toàn điều gì đó mới có thể. Nếu
bạn đã hoàn hảo bạn sẽ chết như một tảng đá. Thế thì sẽ
chẳng cái gì xảy ra cả, thế thì chẳng cái gì có thể xảy ra.
Nếu bạn hiểu tôi, tôi muốn nói với bạn: Thượng đế bao
giờ cũng bất toàn hoàn hảo; nếu không thì ngài đã chết từ
lâu rồi. Ngài sẽ không đợi được cho Friedrich Nietzsche
phải tuyên bố rằng Thượng đế chết.
Thượng đế này sẽ làm gì nếu ngài đã hoàn hảo? Thế
thì ngài chẳng thể làm được gì nữa, thế thì ngài không
thể nào có bất kì tự do nào để làm cả. Ngài không thể
trưởng thành được; chẳng có chỗ nào để đi cả. Ngài đơn
giản sẽ bị mắc kẹt ở đó. Ngài thậm chí không thể tự tử
nổi, bởi vì khi bạn hoàn hảo thì bạn không làm những
điều như thế.
Chấp nhận bản thân mình như bạn hiện thế đi. 

Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào,
không chút nào. Tôi không quan tâm thậm chí tới cá
nhân lí tưởng. Tôi không quan tâm đến chủ nghĩa lí
tưởng chút nào!
Và với tôi thì xã hội không tồn tại, chỉ có các cá
nhân. Xã hội chỉ là cấu trúc chức năng, tiện dụng. Bạn
không thể tình cờ bắt gặp xã hội. Bạn đã bao giờ tình cờ
bắt gặp xã hội chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp nhân
loại chưa? Bạn đã bao giờ tình cờ bắt gặp Hindu giáo,
Mô ha mét giáo chưa? Không, bạn bao giờ cũng bắt gặp
cá nhân, cá nhân cụ thể, vững chắc.
Nhưng mọi người vẫn nghĩ cách cải thiện xã hội,
cách tạo ra xã hội lí tưởng. Và những người này đã
chứng tỏ là tai hoạ. Họ là mối hoạ lớn nhất. Bởi vì xã hội
lí tưởng của họ mà họ đã phá huỷ sự kính trọng của mọi
người với chính mình, và họ đã tạo ra mặc cảm trong mọi
người. Mọi người đều mặc cảm, chẳng ai dường như
hạnh phúc theo cách người ấy đang thế. Và bạn có thể
tạo ra mặc cảm cho mọi thứ - và một khi mặc cảm được
tạo ra, bạn trở thành có quyền năng. Người tạo ra mặc
cảm trong bạn lại trở thành quyền năng trên bạn - nhớ
chiến lược này - bởi vì chỉ thế thì người đó mới cứu bạn
khỏi mặc cảm. Thế thì bạn phải đi theo người đó. Các tu
sĩ trước hết tạo ra mặc cảm, rồi bạn phải tới nhà thờ. Thế
thì bạn phải tới thú tội, “Con đã phạm phải tội lỗi này,”
và người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Trước hết nhân danh Thượng đế người đó tạo ra mặc
cảm, rồi người đó tha thứ cho bạn nhân danh Thượng đế.
Nghe câu chuyện sau.
Calvin bị mẹ bắt quả tang phạm phải tội lỗi nghiêm
trọng, và lập tức được gửi tới chỗ thú tội.
“Thưa cha,” Calvin nói, “Con đã đánh bạc với chính
mình.”
“Tại sao con làm điều đó?” tu sĩ thực sự giận dữ và
quát lên.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc năm lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Một tuần sau mẹ Calvim lại bắt được nó, và lần nữa
nó bị đưa tới phòng thú tội.
“Thưa cha, con đã đánh bạc với chình mình.”
“Sao con làm thế?”
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi,” Calvin nói.
“Phạt, đọc mười lần ‘Thưa Cha’ và năm lần ‘Chào
Mary’.”
Tuần sau, Calvin lại phạm tội, “Quay lại nhà thú tội,”
mẹ nó nói. “Và mang cái bánh sô cô la này cho cha xứ.”
Trong khi chờ đợi một hàng dài, Calvin ăn hết cái
bánh. Trong phòng thú tội nó nói, “Thưa cha, Mẹ con sai
đem cho cha một cái bánh sô cô la, nhưng con đã ăn nó
trong khi đợi rồi.”
“Sao con làm thế?” tu sĩ hỏi.
“Con chẳng có gì hơn để mà chơi.”
“Thế sao con không đánh bạc với chính mình?”
Tu sĩ không quan tâm tới điều bạn làm; ông ta có mối
quan tâm bất di bất dịch - cái bánh sô cô la của mình. Và
thế thì bạn có thể tới địa ngục! Thế thì bạn có thể làm bất
kì cái gì bạn muốn, nhưng bánh sô cô la đâu? 

Họ tạo ra mặc cảm, rồi họ lại tha thứ bạn nhân danh
Thượng đế. Họ làm cho bạn thành tội nhân rồi họ nói,
“Bây giờ đến với Christ đi, ông ấy là vị cứu tinh.”
Chẳng có ai ở đó mà cứu bạn cả, bởi vì ngay chỗ đầu
tiên bạn có phạm vào tội lỗi gì đâu. Bạn không cần phải
được cứu rỗi.
Đây là thông điệp của Phật: Bạn đã có đó rồi! Bạn đã
được cứu vớt rồi! vị cứu tinh không cần tới, bạn không
phạm tội. Không có đau khổ, Sariputra, không có nguồn
gốc của đau khổ, không có chấm dứt về nó, và không có
con đường cho nó. Nó là không được đạt tới, nó là không
không đạt tới. Nó đã có đấy, nó là chính bản tính của
bạn.
Tôi không quan tâm tới bất kì xã hội lí tưởng nào.
Vứt ước mơ đó đi; nó đã tạo ra những cơn ác mộng lớn
trên thế giới. Nhớ lấy, chẳng cái gì có thể xảy ra bây giờ
về chính trị cả. Chính trị là chết. Bạn có bầu cho bất kì
cái gì, phe tả hay phe hữu, làm việc đó nhưng đừng ảo
tưởng. Cần phải từ bỏ ý tưởng rằng bất kì hệ thống nào
cũng có thể là vị cứu tinh. Không hệ thống nào có thể là
cứu tinh cả - chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa Gandhi. Không xã hội nào có thể cứu bạn được, và
không xã hội nào có thể là xã hội lí tưởng. Và không có
cứu tinh - Christ, Krishna hay Rama. Bạn chỉ phải vứt bỏ
cái vô nghĩa mà bạn vẫn mang trong mình về mặc cảm
và về việc bạn là tội nhân.
Để toàn bộ năng lượng vào trong nhảy múa, lễ hội.
Và thế thì bạn là lí tưởng, tại đây và bây giờ - không phải
là bạn phải trở thành lí tưởng.
Ý thức hệ, như nó vậy, làm mất chân lí của nó. Trong
thực tế nó chưa bao giờ có đó ngay chỗ đầu tiên. Và sức
mạnh thuyết phục cũng qua đi. Vài tâm trí trịnh trọng
không còn tin vào việc người ta có thể đặt ra bản kế
hoạch tổng thể, và qua cỗ máy xã hội mà đem lại một nơi
không tưởng mới về hài hoà xã hội. Chúng ta đang sống
trong thời đại tự do hoàn toàn. Chúng ta đã tới độ tuổi.
Loài người không còn ngây thơ nữa, nó đã chín chắn
hơn. Chúng ta đang sống trong thời kì đậm sắc Socrates,
bởi vì mọi người đang hỏi tất cả những câu hỏi quan
trọng về cuộc sống. Đừng bắt đầu khao khát và thèm
muốn lí tưởng, ý tưởng, hoàn hảo tương lai nào đó. Vứt
tất cả các lí tưởng và sống ở đây và bây giờ.
Công xã của tôi không định là xã hội lí tưởng. Công
xã của tôi định là công xã ở đây và bây giờ.
Đủ cho hôm nay.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến