Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

Hạt mầm và cái cây

Người ta đã chỉ ra rằng kết quả thu được bởi việc tôn thờ Brahman biểu hiện là khác với kết quả thu được từ việc tôn thờ Brahman không biểu hiện.

Chúng tôi đã nghe điều này từ những người trí huệ
người biết và giải thích điều đó cho chúng tôi.
Upanishad nói về hai dạng của Brahman, yếu tố tối cao.
Hình dạng là hai, yếu tố là một. Nhưng sẽ tốt hơn là nói có hai
loại người biết, trong khi yếu tố là một. Một là hình dạng nguyên
thuỷ không biểu hiện của Brahman; dạng kia là dạng biểu hiện
của Brahman. Hạt mầm là nguyên nhân, cây là hành động, hiệu
quả. Mọi thứ bị che giấu trong hạt mầm, mọi thứ được biểu lộ
trong cây cối. Cho nên có một hạt mầm-Brahman, mà chúng ta
không thấy ở đâu cả. Cái thấy được là cây-Brahman, không phải
hạt mầm-Brahman. Cái đã trở thành biểu hiện là thấy được với
chúng ta, cái bị ẩn kín, không biểu hiện, là vô hình với chúng ta.
Việc tôn thờ có thể được thực hiện cho cả Brahman không biểu
hiện và biểu hiện, theo nhiều cách đa dạng. Kết quả của hai loại
tôn thờ này là hoàn toàn phân biệt nhau.

Tôn thờ thượng đế đã rất được hâm mộ khi người ta ca ngợi
Upanishad. Cần phải hiểu thấu rõ nghĩa của ‘thượng đế’. Trong
thượng đế có biểu hiện rõ ràng nhất về tác động của Thượng đế,
của Brahman không biểu hiện. Do vậy ngay cả hòn đá cũng là
một biểu hiện. Chúng ta gọi ai đó là thượng đế nếu trong người
đó cái không biểu hiện toả sáng, mặc dầu bản thân người đó là sự
biểu hiện. Chúng ta gọi những người như thế là hoá thân của
Thượng đế, hay tirthankara, hay con của Thượng đế; chẳng hạn,
Jesus, Mohammed, Mahavira, Krishna và Rama. Những cá nhân
như thế đang đứng trong khung cửa. Họ là sự biểu hiện và được
chúng ta thấy từ bên ngoài cánh cửa. Khuôn mặt của họ từ phía
trước là rõ ràng thấy được. Chúng rất giống khuôn mặt chúng ta,
và vậy mà chúng không giống khuôn mặt chúng ta. Tia lửa nào
đó của cái không biểu hiện, tia sáng le lói của hạt mầm-Brahman
được ẩn kín, cũng là trong họ. Từ mọi hoạt động trần gian của họ
trong cuộc sống, sự toả sáng nào đó của cái không biểu hiện sáng
lên và chỉ báo về điều thiêng liêng cho chúng ta. Tất cả những
linh hồn như vậy đều thiêng liêng. Nghĩa của từ điều thiêng liêng
là ở chỗ nó là cái thấy được và cũng toả ra cái không biểu hiện.
Upanishad xác nhận rằng việc tôn thờ, cầu nguyện và sùng
kính với các linh hồn thiêng liêng đem đến kết quả, bởi vì có cái
gì đó trong họ vượt ra ngoài cái thấy được. Với một người nhìn
chăm chú vào họ trong thiền sâu, dạng thấy được sẽ biến mất và
cái không biểu hiện sẽ còn lại. Xem như kết quả của việc này,
một khó khăn nảy sinh. Giả sử Rama đang đứng trước đệ tử của
mình; đệ tử này sẽ không thấy Rama như một người bởi vì ông
ấy trở thành một với cái không biểu biện nhiều đến mức hình hài
thấy được biến đi. Nét mặt Rama biến mất, và chỉ Brahman, điều
tối cao, còn lại. Cho nên khi một đệ tử của Rama lẩm nhẩm tên
ông ấy như một câu mật chú - Rama-japa - người đó không còn
bận tâm chút nào với người là con của vua Dasharath nữa. Thế
thì người đó đang suy tư chỉ về Brahman - hạt mầm.
Nhưng một người không phải là đệ tử của Rama không thấy
phần của Rama mà là không biểu hiện. Hạt mầm-Brahman đó là
không thấy được; chỉ có phần được coi như thân thể vật lí là thấy
được bởi người đó. Chỉ con trai của Dasharath, hoặc chồng của
Sita, hay kẻ thù của Ravana là thấy được. Người bạn của ai đó,
hay kẻ thù của ai đó - phần biểu hiện duy nhất là thấy được. Cho
nên khi một đệ tử thực nói về Rama và cái gọi là một đệ tử khác
cũng nói về Rama, họ đang nói về hai người khác nhau. Không
có nhịp nhàng hay hài hoà gì trong việc nói của họ. Không thể có
bất kì giao cảm nào giữa họ. Họ không hiểu lẫn nhau bởi vì họ
đang nói về hai phần tách biệt của cùng một cá nhân.

Lời kinh này của Upanishad nói rằng việc tôn thờ - ngồi gần
- dạng biểu hiện của Brahman nơi sự toả sáng nào đó của dạng
không biểu hiện cũng được thấy, đem lại kết quả riêng của nó.
Họ sẽ thích thú và hài lòng, hay tốt hơn là nên nói họ sẽ thấy như
trên trời. Họ sẽ rất phởn phơ, nhưng họ sẽ không chứng ngộ. Đó
là lí do tại sao chúng ta dùng ba từ cho quả: một từ là địa ngục, từ
nữa là cõi trời và từ thứ ba là chứng ngộ. Người ta có thể đi xa
như cõi trời bởi việc ngồi gần - tức là, tôn thờ - thượng đế. Người
ta có thể kinh nghiệm những vui thú và hạnh phúc tuyệt vời,
nhưng người ta không thể vươn tới chứng ngộ; người ta không
thể vươn tới phúc lạc.

Cái gì là khác biệt giữa hạnh phúc và phúc lạc? Dù hạnh
phúc sâu sắc và lớn lao đến đâu, nó chắc chắn sẽ trôi qua. Dù nó
kéo dài đến đâu không thành vấn đề, nó chắc chắn đi tới kết thúc.
Cho nên hiểu phân biệt này cho hoàn hảo. Chứng ngộ - phúc lạc -
bắt đầu, nhưng không có kết thúc. Cõi trời - hạnh phúc - bắt đầu,
và cũng kết thúc. Địa ngục không bắt đầu; nó chỉ có kết thúc. Để
tôi nhắc lại điều này sao cho nó có thể được hoàn toàn hiểu thấu.
Địa ngục không có bắt đầu - khổ không có bắt đầu. Có thể không
có hạnh phúc, nhưng nó có thể được bắt đầu.
Địa ngục không có bắt đầu nhưng nó có thể được kết thúc.
Cõi trời có bắt đầu và cũng có kết thúc. Nó sẽ bắt đầu và
cũng sẽ kết thúc.

Chứng ngộ chỉ có bắt đầu và không kết thúc. Một khi đã
được bắt đầu, nó là vô tận.

Bất kì khi nào ngọn lửa thiêng liêng xuất hiện dưới dạng
thấy được, Brahman biểu hiện, việc tôn thờ và cầu nguyện của nó
có thể đưa người ta lên cõi trời, tới hạnh phúc. Do đó những
người có ham muốn hạnh phúc đang chiếm hết trong việc tôn thờ
thượng đế. Những người khát khao chứng ngộ không bị cuốn hút
đến thế vào trong việc tôn thờ thượng đế; họ quay mặt khỏi
thượng đế. Họ không cầu nguyện hạnh phúc bởi vì hạnh phúc
không bao giờ xảy ra nơi chứng ngộ. Hạnh phúc, mặc dầu là
thích thú, bao giờ cũng sẽ là nô lệ, và những người khao khát
chứng ngộ ước ao đạt tới hình thái cao nhất của giải thoát. Họ
khao khát về phúc lạc cao nhất không có giới hạn, họ ham muốn
rằng nước cam lồ là vô hạn, họ mong ước đạt tới điểm mà là điểm không quay lại,
chỗ vượt ra ngoài không còn gì để tìm kiến
nữa.

Nhưng người khát khao điểm vượt ra ngoài này, nơi không
còn chỗ nào để đi nữa, sẽ phải đi tìm hạt mầm-Brahman. Họ sẽ
phải đi tìm Brahman không biểu hiện và không đi tìm Brahman
biểu hiện. Họ sẽ được chứng ngộ bởi sự sùng kính của họ; đạt tới
Brahman họ sẽ đạt tới giải thoát cao nhất.
Có những kết quả khác nhau phân biệt đối với hai loại tôn
thờ này, và cái đẹp vĩ đại của Upanishad là ở chỗ họ không bác
bỏ loại nào. Kết quả, quả, của cả hai loại được qui định rõ rệt. Họ
không bác bỏ loại nào nhưng họ nói những người muốn tôn thờ
thượng đế nên làm điều đó với hiểu biết rằng đó là cuộc hành
trình tới hạnh phúc, và không vượt ra ngoài điều đó.
Trong phần cuối của lời kinh này có tuyên bố rằng “Chúng
tôi có được những điều này từ những người đã biết.” Có một
điểm quan trọng cần nhớ trong trí tại đây. Tri thức là vô tận. Dù
bạn có thu thập tri thức nhiều đến đâu, nó bao giờ cũng không
đầy đủ. Vấn đề tựa thế này: từ một bến bờ này bạn xuống sâu
trong đại dương, nhưng cho dù bạn thăm dò được chiều sâu của
nó, bạn không bao giờ biết được toàn thể đại dương. Có thể là đại
dương đã biết bạn tường tận, nhưng bạn không thể biết được toàn
bộ đại dương. Cũng còn có các bến bờ khác nữa, và trên chúng
có vô số và vô tận lữ khách. Vô số người hành hương đã đi vào
trong đại dương từ vô số nơi, và cũng là một điều tốt nếu tri thức
của bạn và tri thức của họ được thu thập và trộn lẫn với nhau
trong một phạm vi lớn nhất có thể được.

Đó là lí do tại sao các hiền nhân của Upanishad bao giờ cũng
tuyên bố rằng điều họ nói họ đã thu thập từ những người đã biết.
Họ trộn lẫn tri thức của họ với kho tri thức vô giới hạn đó. Họ
nói, “Chúng tôi đã nghe được điều này từ những người biết. Tại
sao chúng tôi phải nói về tri thức bé nhỏ của mình? Chúng tôi
đóng góp tri thức nhỏ bé của mình vào trong kho tri thức bao la,
vô tận đã được vô số người thu thập .” Tại sao họ phải nói một
cách tách biệt về tri thức của họ? Họ sẽ cảm thấy ngượng khi nói
về nó. Họ thậm chí không tham chiếu tới nó. Họ nói điều này cứ
dường như bản thân họ chưa thu được nó. Trong một thái độ
khiêm tốn họ nói, “Chúng tôi đã nghe từ những người đã biết.”
Có vô số người, vô số hoá thân, và họ tới từ vô số bến bờ.
Tirtha có nghĩa là bến bờ. Cho nên, người Jaina gọi những người
như thế là tirthankara. Từ tirthankara có nghĩa là người làm việc
trên bờ, giúp thuỷ thủ quăng neo xuống biển. Nhưng bởi vì đại
dương là vô hạn, đường bờ biển là vô tận. Bởi vì đại dương là vô
tận, có vô số tirthankara. Chúng ta không biết tất cả về họ. Nếu
chúng ta nhìn lại quá khứ, chúng ta không biết gì về những hiền
nhân đã nở hoa trước thời Veda. Các tham chiếu chỉ nói tới các
hiền nhân thời Veda và hậu Veda.

Không phải là chân lí đã không được biết tới bởi những
người đã sống trước các hiền nhân Veda, bởi vì bản thân các hiền
nhân Veda thường nói, “Chúng tôi đã nghe được từ những người
biết.” Upanishad là kinh sách cổ đại nhất của chúng ta đã được
viết ra và được biên soạn bởi những người biết. Nhưng
Upanishad liên tục tuyên bố, “Chúng tôi đã nghe nó từ những
người đã biết.” Nội dung của tuyên bố này là ở chỗ chân lí bao
giờ cũng đã được biết tới kể từ thời còn chưa được ghi nhớ, và nó
đã được biết tới bởi biết bao nhiêu người, theo số lượng nhiều
thế, và trong vô hạn cách thức thay đổi đến mức mà “Tôi không
thể nói được về tri thức nhỏ bé của tôi! Tôi thêm điều gì đó vào
cái kho bao la này.” Cho nên người đó nói, “Tôi đang nói cái đã
được nói bởi những người đã biết nó.”

Có một điểm khác cần ghi nhớ trong vấn đề này - rằng
những người trí huệ cổ đại ấy, người biết ấy, chưa bao giờ háo
hức về cội nguồn. Họ không khát khao được là cội nguồn. Không ai nói, “Điều tôi
đang nói là chân lí nguyên thuỷ; tôi nói điều đó
lần đầu tiên, và chưa hề có ai đã nói điều đó trước tôi.” Có khác
biệt rất lớn trong thái độ ở thời hiện đại của chúng ta. Ngày nay
mọi người đều muốn tuyên bố rằng điều người đó nói chưa từng
được nói ra trước đây - rằng người đó là nguyên gốc.
Điều này có nghĩa là gì? Liệu nó có nghĩa là các hiền nhân
cổ đại không phải là nguyên gốc chăng? Con người ngày nay là
nguyên gốc chăng? Không, sự kiện là hoàn toàn đối lập. Những
người cổ đại đã không hoài nghi, đã chắc chắn đến mức họ không
cần phải công bố về sự chắc chắn của mình, trong khi ngày nay
mọi người hoài nghi về tính nguyên gốc, không thoải mái về nó
đến mức họ không thể đừng được việc phải tạo ra tuyên bố về nó.
Con người hiện đại bao giờ cũng sợ rằng ai đó có thể nói, “Anh
cho rằng anh đang nói điều gì đó mới mẻ sao? Điều anh đang nói
không có gì mới với mọi người.” Điều này đơn giản chỉ ra rằng
con người hiện đại không hiểu nghĩa thực của nguyên gốc.
Nghĩa thực của từ nguyên gốc không phải là cái gì mới mà là
‘từ ngọn nguồn’. Nguyên gốc không có nghĩa là chưa từng xảy
ra, từ này nghĩa là ‘từ ngọn nguồn’. Người biết đến gốc rễ là
nguyên gốc, và nhiều người đã biết nó, cho nên từ này không nói
tới bất kì cái gì mới. Nhưng ngày nay mọi người trên toàn thế
giới đều đang tìm kiếm cái gì đó mới. Mọi người đều khẳng định:
“Điều tôi đang nói là mới,” bởi vì có nỗi sợ là không cái gì đặc
biệt về cái biết của người đó nếu người khác đã biết tới nó. Sự
kiện đáng quan tâm là ở chỗ chỉ có một đặc tính đặc biệt trong
thế giới này. Liên hệ tới điều này tôi nhớ tới dòng truyền thừa từ
nhà huyền môn Jakob Boehme: “Điều duy nhất phi thường là
thành bình thường.”

Những hiền nhân này, thay vì công bố rằng họ biết, lại tuyên
bố rằng họ đã nghe thấy từ những người biết, là những người phi
thường. Họ phải là những người rất không thông thường bởi vì
họ sẵn lòng là bình thường đến thế. Thực ra, một người là người
bình thường nếu người đó ấp ủ dù chỉ một khái niệm rất nhỏ rằng
mình là bất thường. Mọi người bình thường đều có khái niệm
này. Ngay cả người bình thường nhất cũng tin rằng mình là phi
thường. Đây là niềm tin rất thông thường. Thế thì chúng ta có thể
gọi ai là phi thường? Chúng ta có thể gọi một người là phi
thường nếu người đó thậm chí không biết rằng mình là phi
thường. Người khiên tốn như thế là phi thường.

Phát biểu này của hiền nhân ấy chắc chắn là phi thường. Khi
người biết nhiều thế và biết điều đó sâu sắc thế, nói, “Chúng tôi
đã nghe nó...” thế thì người như thế phải đáng để ý - phải là phi
thường. Họ phải giống như các số không, giống như cái không.
Họ phải hoàn toàn khiêm tốn. Họ không đưa ra tuyên bố chút
nào, dù về chân lí hay con đường, và vẫn có sức nặng và bản chất
trong phát biểu của những người đưa ra lời công bố về cái không.
Đó là lí do tại sao họ thường lặp đi lặp lại rằng họ đã nghe được
từ những người đã biết.

Thái độ tâm trí này của việc xoá bỏ bản thân mình, của việc
phá huỷ bản thân người ta hoàn toàn, của việc chùi sạch sự hiện
diện của người ta, của việc làm cho bản thân người ta dường như
là không có, có liên quan tới ngọn nguồn gốc rễ sâu xa nhất của
cuộc sống - tới sự tồn tại thuần khiết. Nó vượt ra ngoài tâm trí, ra
ngoài sự tưởng tượng hay tình cảm. Nó là siêu việt.

Đủ cho hôm nay.
Chúng ta sẽ gặp lại vào buổi tối.

Bây giờ chúng ta đi về gốc rễ, chúng ta đi hướng tới sự siêu
việt... Tôi sẽ nói cho các bạn đôi điều mà tôi nhớ ngay bây giờ về
thiền.
Về chín mươi phần trăm trong số các bạn đang thiền tốt và
tiến bộ đến mức tôi thấy hài lòng mênh mông với các bạn. Nhưng
tôi cảm thấy tiếc cho mười phần trăm kia. Đừng cứ ru rú trong
hoàn cảnh bất hạnh của bạn; đừng là người trong nhóm mười
phần trăm đó. Đừng vứt đi những món quà có giá trị đó với giá rẻ
của bạn.

Một hướng dẫn nữa về thiền chiều. Một số trong các bạn
ngồi ở đây mà không đeo khăn bịt mắt. Bạn sẽ không được lợi
lộc chút nào đâu. Không ai nên ngồi đây mà không có khăn che
mắt. Điểm nữa cần phải nhớ là thế này: chăm nom về bản thân
bạn, đừng lo nghĩ về người khác. Những người không làm gì sẽ
bắt đầu lo nghĩ về người khác, bởi vì họ nhàn rỗi. Cho nên đừng
ngồi yên đó, cứ vui vẻ, nhảy múa và cười đi!
Hôm qua tôi rất là hạnh phúc - đã có nhẹ nhàng lớn lao, các
bạn rất giống trẻ con. Một ông già hét lên như đứa trẻ. Ông ấy đã
rất hồn nhiên. Ông ấy kêu lên, “Mẹ, Mẹ, Mẹ!” Nhẹ nhàng hệt
đứa trẻ. Đã có lễ hội lớn. Nó nên tiếp tục tăng tiến. Nó sẽ tiếp tục
tăng tiến khi thiền trở nên ngày một sâu hơn. Nếu một ông già trở
thành hệt như đứa trẻ, điều đó có nghĩa là ông ấy đã đạt tới thiền.
Ngần này là cho thiền chiều. Tôi hoàn toàn hạnh phúc với thiền
sáng - nó diễn tiến tốt.

Bây giờ tôi phải cho một hướng dẫn đối với thiền tối. Có hai
hay ba người bạn đang tổ chức phiên thiền này và họ là đủ.
Nhưng những người còn lại, người đã tới để đưa bản thân họ vào
việc tổ chức đã tạo ra nhiều lẫn lộn. Không một ai trong các bạn
nên tự bổ nhiệm ở đây. Các bạn ở đây để thiền, không phải để tổ
chức các thứ. Thực ra chính những người ngồi rảnh rỗi vơ việc
này vào cho bản thân họ. Họ nghĩ, “Chúng ta đi vào việc quản
lí.” Hai hay ba người đó được quyền làm việc quản lí này sẽ làm
công việc của họ - người còn lại không phải bận tâm về điều đó.
Tôi rất buồn về những người đang ngồi đằng sau bục khi họ
không thể thiền đúng được. Họ bị quấy nhiễu bởi những người
lăng xăng khác. Có khác biệt gì nếu ai đó ngã vào tôi? Điều đó
không tạo ra khác biệt gì! Và những người trong thiền đã không
mất ý thức của họ, họ hoàn toàn tỉnh táo. Họ không định ngã
xuống. Đừng bắt đầu nghĩ rằng ai đó có thể xô vào tôi hay tấn
công tôi. Tất cả họ đều đầy ý thức. Họ yêu tôi như người quản lí
yêu. Cho nên đừng lo nghĩ về tất cả điều này.

Họ bị khuấy động nhiều khi họ không thể thấy được tôi. Đó
là khi rắc rối bắt đầu, bởi vì việc thiền này hoàn toàn phụ thuộc
vào việc con người tôi được thấy. Cho nên ý tưởng của tôi cho
việc thiền tối nay là ở chỗ tất cả những người đang đứng nên ở
trong phòng, và những người thực hành thiền trong tư thế ngồi
nên ngồi đằng sau họ. Đây chỉ là cách bố trí cần thiết.

Một sự cố không mong muốn nữa đã xảy ra hôm qua. Nhiều
người bên ngoài bị buộc phải vào nơi họp này. Điều này tạo ra
rối loạn lớn. Việc hài hoà hoàn toàn mà có thể được tạo ra trong
cuộc họp như thế, không thể được tạo ra khi người ngoài vào.
Ngay cả nếu chỉ có một người sai trong phòng, người đó sẽ tạo ra
các loại rung động khác. Cho nên không người nào như vậy
được phép đi vào. Những người trong trại, người chỉ muốn nghe
và không muốn tham gia thiền nên lập tức đi ra khỏi phòng khi
bài nói kết thúc. Họ sẽ đóng góp rất lớn cho chúng ta bởi việc
làm như vậy. Họ không nên làm hại chúng ta.

Chúng tôi không muốn dù chỉ một người trong phòng mà
đơn thuần chỉ là người xem. Người đó tạo ra chướng ngại, lỗ
hổng. Khi biết bao nhiêu tâm thức đang tuôn chảy trong cùng
một kinh nghiệm, toàn thể bầu không khí trở nên được tích điện,
và thế thì, nếu một người không được tích điện như thế ở trong
nhóm này, người đó tạo ra gián đoạn trong bầu không khí. Một
phần nào đó bị người đó xé ra. Có thể không có việc rót năng lượng tâm linh qua
phần đó. Bởi điều này, những rung động mà
có thể thấm từ góc này sang góc khác sẽ không có khả năng làm
được như vậy. Đây là lí do tại sao hiện tại tôi không hạnh phúc
với phiên thiền đêm của chúng ta.

Việc thiền đêm nay là quan trọng nhất và có giá trị, và hai
phiên thiền khác được ngụ ý để chuẩn bị cho các bạn vào việc
thiền đêm nay. Khi các bạn đã được chuẩn bị sau hai phiên thiền
này có thể có bùng nổ trong phiên thiền đêm, nhưng một số
chướng ngại đang tới trong chương trình. Nó vẫn còn chưa được
hoàn tất. Một số người ngoài đã vào chỗ này ngày hôm kia và do
vậy việc thiền không thể được thực hiện đúng đắn. Có tốt hơn
trước đây chút ít. Chúng ta có thể đã đạt tới kết quả tốt ngày hôm
qua, nhưng một số người không được phép đã tới chỗ bục này và
bắt đầu học đòi làm quản lí. Các bạn phải không tới đây để quản
lí.

Và đừng lo nghĩ về tôi, lo nghĩ về bản thân bạn đi. Tôi mãn
nguyện ngay cả nếu tôi chết trong việc giúp đỡ ai đó, cho dù chỉ
một người, để thành công trong thiền.
Người ta đã chỉ ra rằng kết quả thu được bởi việc tôn thờ Brahman biểu hiện là khác với kết quả thu được từ việc tôn thờ Brahman không biểu hiện.

Chúng tôi đã nghe điều này từ những người trí huệ
người biết và giải thích điều đó cho chúng tôi.
Upanishad nói về hai dạng của Brahman, yếu tố tối cao.
Hình dạng là hai, yếu tố là một. Nhưng sẽ tốt hơn là nói có hai
loại người biết, trong khi yếu tố là một. Một là hình dạng nguyên
thuỷ không biểu hiện của Brahman; dạng kia là dạng biểu hiện
của Brahman. Hạt mầm là nguyên nhân, cây là hành động, hiệu
quả. Mọi thứ bị che giấu trong hạt mầm, mọi thứ được biểu lộ
trong cây cối. Cho nên có một hạt mầm-Brahman, mà chúng ta
không thấy ở đâu cả. Cái thấy được là cây-Brahman, không phải
hạt mầm-Brahman. Cái đã trở thành biểu hiện là thấy được với
chúng ta, cái bị ẩn kín, không biểu hiện, là vô hình với chúng ta.
Việc tôn thờ có thể được thực hiện cho cả Brahman không biểu
hiện và biểu hiện, theo nhiều cách đa dạng. Kết quả của hai loại
tôn thờ này là hoàn toàn phân biệt nhau.

Tôn thờ thượng đế đã rất được hâm mộ khi người ta ca ngợi
Upanishad. Cần phải hiểu thấu rõ nghĩa của ‘thượng đế’. Trong
thượng đế có biểu hiện rõ ràng nhất về tác động của Thượng đế,
của Brahman không biểu hiện. Do vậy ngay cả hòn đá cũng là
một biểu hiện. Chúng ta gọi ai đó là thượng đế nếu trong người
đó cái không biểu hiện toả sáng, mặc dầu bản thân người đó là sự
biểu hiện. Chúng ta gọi những người như thế là hoá thân của
Thượng đế, hay tirthankara, hay con của Thượng đế; chẳng hạn,
Jesus, Mohammed, Mahavira, Krishna và Rama. Những cá nhân
như thế đang đứng trong khung cửa. Họ là sự biểu hiện và được
chúng ta thấy từ bên ngoài cánh cửa. Khuôn mặt của họ từ phía
trước là rõ ràng thấy được. Chúng rất giống khuôn mặt chúng ta,
và vậy mà chúng không giống khuôn mặt chúng ta. Tia lửa nào
đó của cái không biểu hiện, tia sáng le lói của hạt mầm-Brahman
được ẩn kín, cũng là trong họ. Từ mọi hoạt động trần gian của họ
trong cuộc sống, sự toả sáng nào đó của cái không biểu hiện sáng
lên và chỉ báo về điều thiêng liêng cho chúng ta. Tất cả những
linh hồn như vậy đều thiêng liêng. Nghĩa của từ điều thiêng liêng
là ở chỗ nó là cái thấy được và cũng toả ra cái không biểu hiện.
Upanishad xác nhận rằng việc tôn thờ, cầu nguyện và sùng
kính với các linh hồn thiêng liêng đem đến kết quả, bởi vì có cái
gì đó trong họ vượt ra ngoài cái thấy được. Với một người nhìn
chăm chú vào họ trong thiền sâu, dạng thấy được sẽ biến mất và
cái không biểu hiện sẽ còn lại. Xem như kết quả của việc này,
một khó khăn nảy sinh. Giả sử Rama đang đứng trước đệ tử của
mình; đệ tử này sẽ không thấy Rama như một người bởi vì ông
ấy trở thành một với cái không biểu biện nhiều đến mức hình hài
thấy được biến đi. Nét mặt Rama biến mất, và chỉ Brahman, điều
tối cao, còn lại. Cho nên khi một đệ tử của Rama lẩm nhẩm tên
ông ấy như một câu mật chú - Rama-japa - người đó không còn
bận tâm chút nào với người là con của vua Dasharath nữa. Thế
thì người đó đang suy tư chỉ về Brahman - hạt mầm.
Nhưng một người không phải là đệ tử của Rama không thấy
phần của Rama mà là không biểu hiện. Hạt mầm-Brahman đó là
không thấy được; chỉ có phần được coi như thân thể vật lí là thấy
được bởi người đó. Chỉ con trai của Dasharath, hoặc chồng của
Sita, hay kẻ thù của Ravana là thấy được. Người bạn của ai đó,
hay kẻ thù của ai đó - phần biểu hiện duy nhất là thấy được. Cho
nên khi một đệ tử thực nói về Rama và cái gọi là một đệ tử khác
cũng nói về Rama, họ đang nói về hai người khác nhau. Không
có nhịp nhàng hay hài hoà gì trong việc nói của họ. Không thể có
bất kì giao cảm nào giữa họ. Họ không hiểu lẫn nhau bởi vì họ
đang nói về hai phần tách biệt của cùng một cá nhân.

Lời kinh này của Upanishad nói rằng việc tôn thờ - ngồi gần
- dạng biểu hiện của Brahman nơi sự toả sáng nào đó của dạng
không biểu hiện cũng được thấy, đem lại kết quả riêng của nó.
Họ sẽ thích thú và hài lòng, hay tốt hơn là nên nói họ sẽ thấy như
trên trời. Họ sẽ rất phởn phơ, nhưng họ sẽ không chứng ngộ. Đó
là lí do tại sao chúng ta dùng ba từ cho quả: một từ là địa ngục, từ
nữa là cõi trời và từ thứ ba là chứng ngộ. Người ta có thể đi xa
như cõi trời bởi việc ngồi gần - tức là, tôn thờ - thượng đế. Người
ta có thể kinh nghiệm những vui thú và hạnh phúc tuyệt vời,
nhưng người ta không thể vươn tới chứng ngộ; người ta không
thể vươn tới phúc lạc.

Cái gì là khác biệt giữa hạnh phúc và phúc lạc? Dù hạnh
phúc sâu sắc và lớn lao đến đâu, nó chắc chắn sẽ trôi qua. Dù nó
kéo dài đến đâu không thành vấn đề, nó chắc chắn đi tới kết thúc.
Cho nên hiểu phân biệt này cho hoàn hảo. Chứng ngộ - phúc lạc -
bắt đầu, nhưng không có kết thúc. Cõi trời - hạnh phúc - bắt đầu,
và cũng kết thúc. Địa ngục không bắt đầu; nó chỉ có kết thúc. Để
tôi nhắc lại điều này sao cho nó có thể được hoàn toàn hiểu thấu.
Địa ngục không có bắt đầu - khổ không có bắt đầu. Có thể không
có hạnh phúc, nhưng nó có thể được bắt đầu.
Địa ngục không có bắt đầu nhưng nó có thể được kết thúc.
Cõi trời có bắt đầu và cũng có kết thúc. Nó sẽ bắt đầu và
cũng sẽ kết thúc.

Chứng ngộ chỉ có bắt đầu và không kết thúc. Một khi đã
được bắt đầu, nó là vô tận.

Bất kì khi nào ngọn lửa thiêng liêng xuất hiện dưới dạng
thấy được, Brahman biểu hiện, việc tôn thờ và cầu nguyện của nó
có thể đưa người ta lên cõi trời, tới hạnh phúc. Do đó những
người có ham muốn hạnh phúc đang chiếm hết trong việc tôn thờ
thượng đế. Những người khát khao chứng ngộ không bị cuốn hút
đến thế vào trong việc tôn thờ thượng đế; họ quay mặt khỏi
thượng đế. Họ không cầu nguyện hạnh phúc bởi vì hạnh phúc
không bao giờ xảy ra nơi chứng ngộ. Hạnh phúc, mặc dầu là
thích thú, bao giờ cũng sẽ là nô lệ, và những người khao khát
chứng ngộ ước ao đạt tới hình thái cao nhất của giải thoát. Họ
khao khát về phúc lạc cao nhất không có giới hạn, họ ham muốn
rằng nước cam lồ là vô hạn, họ mong ước đạt tới điểm mà là điểm không quay lại,
chỗ vượt ra ngoài không còn gì để tìm kiến
nữa.

Nhưng người khát khao điểm vượt ra ngoài này, nơi không
còn chỗ nào để đi nữa, sẽ phải đi tìm hạt mầm-Brahman. Họ sẽ
phải đi tìm Brahman không biểu hiện và không đi tìm Brahman
biểu hiện. Họ sẽ được chứng ngộ bởi sự sùng kính của họ; đạt tới
Brahman họ sẽ đạt tới giải thoát cao nhất.
Có những kết quả khác nhau phân biệt đối với hai loại tôn
thờ này, và cái đẹp vĩ đại của Upanishad là ở chỗ họ không bác
bỏ loại nào. Kết quả, quả, của cả hai loại được qui định rõ rệt. Họ
không bác bỏ loại nào nhưng họ nói những người muốn tôn thờ
thượng đế nên làm điều đó với hiểu biết rằng đó là cuộc hành
trình tới hạnh phúc, và không vượt ra ngoài điều đó.
Trong phần cuối của lời kinh này có tuyên bố rằng “Chúng
tôi có được những điều này từ những người đã biết.” Có một
điểm quan trọng cần nhớ trong trí tại đây. Tri thức là vô tận. Dù
bạn có thu thập tri thức nhiều đến đâu, nó bao giờ cũng không
đầy đủ. Vấn đề tựa thế này: từ một bến bờ này bạn xuống sâu
trong đại dương, nhưng cho dù bạn thăm dò được chiều sâu của
nó, bạn không bao giờ biết được toàn thể đại dương. Có thể là đại
dương đã biết bạn tường tận, nhưng bạn không thể biết được toàn
bộ đại dương. Cũng còn có các bến bờ khác nữa, và trên chúng
có vô số và vô tận lữ khách. Vô số người hành hương đã đi vào
trong đại dương từ vô số nơi, và cũng là một điều tốt nếu tri thức
của bạn và tri thức của họ được thu thập và trộn lẫn với nhau
trong một phạm vi lớn nhất có thể được.

Đó là lí do tại sao các hiền nhân của Upanishad bao giờ cũng
tuyên bố rằng điều họ nói họ đã thu thập từ những người đã biết.
Họ trộn lẫn tri thức của họ với kho tri thức vô giới hạn đó. Họ
nói, “Chúng tôi đã nghe được điều này từ những người biết. Tại
sao chúng tôi phải nói về tri thức bé nhỏ của mình? Chúng tôi
đóng góp tri thức nhỏ bé của mình vào trong kho tri thức bao la,
vô tận đã được vô số người thu thập .” Tại sao họ phải nói một
cách tách biệt về tri thức của họ? Họ sẽ cảm thấy ngượng khi nói
về nó. Họ thậm chí không tham chiếu tới nó. Họ nói điều này cứ
dường như bản thân họ chưa thu được nó. Trong một thái độ
khiêm tốn họ nói, “Chúng tôi đã nghe từ những người đã biết.”
Có vô số người, vô số hoá thân, và họ tới từ vô số bến bờ.
Tirtha có nghĩa là bến bờ. Cho nên, người Jaina gọi những người
như thế là tirthankara. Từ tirthankara có nghĩa là người làm việc
trên bờ, giúp thuỷ thủ quăng neo xuống biển. Nhưng bởi vì đại
dương là vô hạn, đường bờ biển là vô tận. Bởi vì đại dương là vô
tận, có vô số tirthankara. Chúng ta không biết tất cả về họ. Nếu
chúng ta nhìn lại quá khứ, chúng ta không biết gì về những hiền
nhân đã nở hoa trước thời Veda. Các tham chiếu chỉ nói tới các
hiền nhân thời Veda và hậu Veda.

Không phải là chân lí đã không được biết tới bởi những
người đã sống trước các hiền nhân Veda, bởi vì bản thân các hiền
nhân Veda thường nói, “Chúng tôi đã nghe được từ những người
biết.” Upanishad là kinh sách cổ đại nhất của chúng ta đã được
viết ra và được biên soạn bởi những người biết. Nhưng
Upanishad liên tục tuyên bố, “Chúng tôi đã nghe nó từ những
người đã biết.” Nội dung của tuyên bố này là ở chỗ chân lí bao
giờ cũng đã được biết tới kể từ thời còn chưa được ghi nhớ, và nó
đã được biết tới bởi biết bao nhiêu người, theo số lượng nhiều
thế, và trong vô hạn cách thức thay đổi đến mức mà “Tôi không
thể nói được về tri thức nhỏ bé của tôi! Tôi thêm điều gì đó vào
cái kho bao la này.” Cho nên người đó nói, “Tôi đang nói cái đã
được nói bởi những người đã biết nó.”

Có một điểm khác cần ghi nhớ trong vấn đề này - rằng
những người trí huệ cổ đại ấy, người biết ấy, chưa bao giờ háo
hức về cội nguồn. Họ không khát khao được là cội nguồn. Không ai nói, “Điều tôi
đang nói là chân lí nguyên thuỷ; tôi nói điều đó
lần đầu tiên, và chưa hề có ai đã nói điều đó trước tôi.” Có khác
biệt rất lớn trong thái độ ở thời hiện đại của chúng ta. Ngày nay
mọi người đều muốn tuyên bố rằng điều người đó nói chưa từng
được nói ra trước đây - rằng người đó là nguyên gốc.
Điều này có nghĩa là gì? Liệu nó có nghĩa là các hiền nhân
cổ đại không phải là nguyên gốc chăng? Con người ngày nay là
nguyên gốc chăng? Không, sự kiện là hoàn toàn đối lập. Những
người cổ đại đã không hoài nghi, đã chắc chắn đến mức họ không
cần phải công bố về sự chắc chắn của mình, trong khi ngày nay
mọi người hoài nghi về tính nguyên gốc, không thoải mái về nó
đến mức họ không thể đừng được việc phải tạo ra tuyên bố về nó.
Con người hiện đại bao giờ cũng sợ rằng ai đó có thể nói, “Anh
cho rằng anh đang nói điều gì đó mới mẻ sao? Điều anh đang nói
không có gì mới với mọi người.” Điều này đơn giản chỉ ra rằng
con người hiện đại không hiểu nghĩa thực của nguyên gốc.
Nghĩa thực của từ nguyên gốc không phải là cái gì mới mà là
‘từ ngọn nguồn’. Nguyên gốc không có nghĩa là chưa từng xảy
ra, từ này nghĩa là ‘từ ngọn nguồn’. Người biết đến gốc rễ là
nguyên gốc, và nhiều người đã biết nó, cho nên từ này không nói
tới bất kì cái gì mới. Nhưng ngày nay mọi người trên toàn thế
giới đều đang tìm kiếm cái gì đó mới. Mọi người đều khẳng định:
“Điều tôi đang nói là mới,” bởi vì có nỗi sợ là không cái gì đặc
biệt về cái biết của người đó nếu người khác đã biết tới nó. Sự
kiện đáng quan tâm là ở chỗ chỉ có một đặc tính đặc biệt trong
thế giới này. Liên hệ tới điều này tôi nhớ tới dòng truyền thừa từ
nhà huyền môn Jakob Boehme: “Điều duy nhất phi thường là
thành bình thường.”

Những hiền nhân này, thay vì công bố rằng họ biết, lại tuyên
bố rằng họ đã nghe thấy từ những người biết, là những người phi
thường. Họ phải là những người rất không thông thường bởi vì
họ sẵn lòng là bình thường đến thế. Thực ra, một người là người
bình thường nếu người đó ấp ủ dù chỉ một khái niệm rất nhỏ rằng
mình là bất thường. Mọi người bình thường đều có khái niệm
này. Ngay cả người bình thường nhất cũng tin rằng mình là phi
thường. Đây là niềm tin rất thông thường. Thế thì chúng ta có thể
gọi ai là phi thường? Chúng ta có thể gọi một người là phi
thường nếu người đó thậm chí không biết rằng mình là phi
thường. Người khiên tốn như thế là phi thường.

Phát biểu này của hiền nhân ấy chắc chắn là phi thường. Khi
người biết nhiều thế và biết điều đó sâu sắc thế, nói, “Chúng tôi
đã nghe nó...” thế thì người như thế phải đáng để ý - phải là phi
thường. Họ phải giống như các số không, giống như cái không.
Họ phải hoàn toàn khiêm tốn. Họ không đưa ra tuyên bố chút
nào, dù về chân lí hay con đường, và vẫn có sức nặng và bản chất
trong phát biểu của những người đưa ra lời công bố về cái không.
Đó là lí do tại sao họ thường lặp đi lặp lại rằng họ đã nghe được
từ những người đã biết.

Thái độ tâm trí này của việc xoá bỏ bản thân mình, của việc
phá huỷ bản thân người ta hoàn toàn, của việc chùi sạch sự hiện
diện của người ta, của việc làm cho bản thân người ta dường như
là không có, có liên quan tới ngọn nguồn gốc rễ sâu xa nhất của
cuộc sống - tới sự tồn tại thuần khiết. Nó vượt ra ngoài tâm trí, ra
ngoài sự tưởng tượng hay tình cảm. Nó là siêu việt.

Đủ cho hôm nay.
Chúng ta sẽ gặp lại vào buổi tối.

Bây giờ chúng ta đi về gốc rễ, chúng ta đi hướng tới sự siêu
việt... Tôi sẽ nói cho các bạn đôi điều mà tôi nhớ ngay bây giờ về
thiền.
Về chín mươi phần trăm trong số các bạn đang thiền tốt và
tiến bộ đến mức tôi thấy hài lòng mênh mông với các bạn. Nhưng
tôi cảm thấy tiếc cho mười phần trăm kia. Đừng cứ ru rú trong
hoàn cảnh bất hạnh của bạn; đừng là người trong nhóm mười
phần trăm đó. Đừng vứt đi những món quà có giá trị đó với giá rẻ
của bạn.

Một hướng dẫn nữa về thiền chiều. Một số trong các bạn
ngồi ở đây mà không đeo khăn bịt mắt. Bạn sẽ không được lợi
lộc chút nào đâu. Không ai nên ngồi đây mà không có khăn che
mắt. Điểm nữa cần phải nhớ là thế này: chăm nom về bản thân
bạn, đừng lo nghĩ về người khác. Những người không làm gì sẽ
bắt đầu lo nghĩ về người khác, bởi vì họ nhàn rỗi. Cho nên đừng
ngồi yên đó, cứ vui vẻ, nhảy múa và cười đi!
Hôm qua tôi rất là hạnh phúc - đã có nhẹ nhàng lớn lao, các
bạn rất giống trẻ con. Một ông già hét lên như đứa trẻ. Ông ấy đã
rất hồn nhiên. Ông ấy kêu lên, “Mẹ, Mẹ, Mẹ!” Nhẹ nhàng hệt
đứa trẻ. Đã có lễ hội lớn. Nó nên tiếp tục tăng tiến. Nó sẽ tiếp tục
tăng tiến khi thiền trở nên ngày một sâu hơn. Nếu một ông già trở
thành hệt như đứa trẻ, điều đó có nghĩa là ông ấy đã đạt tới thiền.
Ngần này là cho thiền chiều. Tôi hoàn toàn hạnh phúc với thiền
sáng - nó diễn tiến tốt.

Bây giờ tôi phải cho một hướng dẫn đối với thiền tối. Có hai
hay ba người bạn đang tổ chức phiên thiền này và họ là đủ.
Nhưng những người còn lại, người đã tới để đưa bản thân họ vào
việc tổ chức đã tạo ra nhiều lẫn lộn. Không một ai trong các bạn
nên tự bổ nhiệm ở đây. Các bạn ở đây để thiền, không phải để tổ
chức các thứ. Thực ra chính những người ngồi rảnh rỗi vơ việc
này vào cho bản thân họ. Họ nghĩ, “Chúng ta đi vào việc quản
lí.” Hai hay ba người đó được quyền làm việc quản lí này sẽ làm
công việc của họ - người còn lại không phải bận tâm về điều đó.
Tôi rất buồn về những người đang ngồi đằng sau bục khi họ
không thể thiền đúng được. Họ bị quấy nhiễu bởi những người
lăng xăng khác. Có khác biệt gì nếu ai đó ngã vào tôi? Điều đó
không tạo ra khác biệt gì! Và những người trong thiền đã không
mất ý thức của họ, họ hoàn toàn tỉnh táo. Họ không định ngã
xuống. Đừng bắt đầu nghĩ rằng ai đó có thể xô vào tôi hay tấn
công tôi. Tất cả họ đều đầy ý thức. Họ yêu tôi như người quản lí
yêu. Cho nên đừng lo nghĩ về tất cả điều này.

Họ bị khuấy động nhiều khi họ không thể thấy được tôi. Đó
là khi rắc rối bắt đầu, bởi vì việc thiền này hoàn toàn phụ thuộc
vào việc con người tôi được thấy. Cho nên ý tưởng của tôi cho
việc thiền tối nay là ở chỗ tất cả những người đang đứng nên ở
trong phòng, và những người thực hành thiền trong tư thế ngồi
nên ngồi đằng sau họ. Đây chỉ là cách bố trí cần thiết.

Một sự cố không mong muốn nữa đã xảy ra hôm qua. Nhiều
người bên ngoài bị buộc phải vào nơi họp này. Điều này tạo ra
rối loạn lớn. Việc hài hoà hoàn toàn mà có thể được tạo ra trong
cuộc họp như thế, không thể được tạo ra khi người ngoài vào.
Ngay cả nếu chỉ có một người sai trong phòng, người đó sẽ tạo ra
các loại rung động khác. Cho nên không người nào như vậy
được phép đi vào. Những người trong trại, người chỉ muốn nghe
và không muốn tham gia thiền nên lập tức đi ra khỏi phòng khi
bài nói kết thúc. Họ sẽ đóng góp rất lớn cho chúng ta bởi việc
làm như vậy. Họ không nên làm hại chúng ta.

Chúng tôi không muốn dù chỉ một người trong phòng mà
đơn thuần chỉ là người xem. Người đó tạo ra chướng ngại, lỗ
hổng. Khi biết bao nhiêu tâm thức đang tuôn chảy trong cùng
một kinh nghiệm, toàn thể bầu không khí trở nên được tích điện,
và thế thì, nếu một người không được tích điện như thế ở trong
nhóm này, người đó tạo ra gián đoạn trong bầu không khí. Một
phần nào đó bị người đó xé ra. Có thể không có việc rót năng lượng tâm linh qua
phần đó. Bởi điều này, những rung động mà
có thể thấm từ góc này sang góc khác sẽ không có khả năng làm
được như vậy. Đây là lí do tại sao hiện tại tôi không hạnh phúc
với phiên thiền đêm của chúng ta.

Việc thiền đêm nay là quan trọng nhất và có giá trị, và hai
phiên thiền khác được ngụ ý để chuẩn bị cho các bạn vào việc
thiền đêm nay. Khi các bạn đã được chuẩn bị sau hai phiên thiền
này có thể có bùng nổ trong phiên thiền đêm, nhưng một số
chướng ngại đang tới trong chương trình. Nó vẫn còn chưa được
hoàn tất. Một số người ngoài đã vào chỗ này ngày hôm kia và do
vậy việc thiền không thể được thực hiện đúng đắn. Có tốt hơn
trước đây chút ít. Chúng ta có thể đã đạt tới kết quả tốt ngày hôm
qua, nhưng một số người không được phép đã tới chỗ bục này và
bắt đầu học đòi làm quản lí. Các bạn phải không tới đây để quản
lí.

Và đừng lo nghĩ về tôi, lo nghĩ về bản thân bạn đi. Tôi mãn
nguyện ngay cả nếu tôi chết trong việc giúp đỡ ai đó, cho dù chỉ
một người, để thành công trong thiền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến