Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012

Trở thành tấm gương

Người thấy toàn bộ thế giới ,các đối tượng hữu tình và vô tình Ở bên trong mình,và cũng thấy bản thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình, bởi điều này,không còn căm ghét ai nữa.

Không thích hay căm ghét người khác là cơ sở của những
phức tạp sâu xa của loài người. Có thể nói rằng chất độc căm
ghét trở nên biểu hiện trong mọi phô bầy độc địa của anh ta. Từ
căm ghét có nghĩa là ham muốn phá huỷ người khác. Yêu có
nghĩa là sẵn lòng hi sinh bản thân mình cho người khác, nếu cần.
Căm ghét có nghĩa là sẵn lòng phá huỷ người khác vì bản thân
mình ngay cả khi điều đó là không cần thiết. Theo cách tất cả
chúng ta sống có dư thừa căm ghét và không có âm nhạc của tình
yêu.

Cảm giác chúng ta gọi là tình yêu, thực ra, chỉ là một dạng
của căm ghét. Trong làm tình chúng ta làm cho người kia trở
thành phương tiện của chúng ta để có hạnh phúc; và ngay khi
người ta làm cho người kia thành phương tiện, căm ghét bắt đầu.
Trong khi làm tình chúng ta sống chỉ vì cái ta riêng của mình.
Chúng ta muốn phục vụ cho mục đích ích kỉ của riêng mình. Đôi
khi chúng ta dường như làm điều gì đó cho người khác, nhưng
đấy đơn giản bởi vì chúng ta định để nhận được cái gì đó được
đền đáp từ người ấy mà thôi. Chúng ta làm điều gì đó cho người
khác chỉ khi chúng ta có hi vọng nào đó về việc nhận được cái gì
đó từ người ấy - chúng ta ham muốn kết quả; bằng không chúng
ta không làm gì. Đó là lí do tại sao tình yêu của chúng ta có thể
biến thành căm ghét vào bất kì khoảnh khắc nào. Điều ấy vẫn
thường xảy ra: tình yêu được biểu lộ cho ai đó vài phút trước đây
có thể biến thành sự khinh thị người ấy ngay sau đó. Nếu một cản
trở nhỏ bất ngờ nảy ra len vào con đường thoả mãn ham muốn
của ta, tình yêu của chúng ta sẽ biến thành căm ghét. Tình yêu có
thể biến thành căm ghét và khinh thị chỉ là căm ghét bị che giấu.
Chỉ có căm ghét bên trong, và bao bọc bên ngoài là cái vẻ của
tình yêu.

Ishavasya trình bầy ở đây một lời kinh rất quan trọng làm
cho tình yêu thành có thể; bằng không không thể có. Không có hiểu biết và hành
động theo lời kinh này, không có khả năng nào
cho hoa của tình yêu mở ra. Lời kinh này nói rằng căm ghét sẽ
tới chỗ cuối chỉ khi chấm dứt khi một người bắt đầu thấy bản
thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình, và bắt đầu
thấy mọi đối tượng hữu tình và vô tình - toàn thể sự tồn tại - bên
trong bản thân mình. Nhớ lấy, Ishavasya không nói rằng thế thì
tình yêu sẽ được sinh ra mà nói, “Thế thì căm ghét sẽ đi tới chấm
dứt.”

Có một lí do được cân nhắc rất kĩ lưỡng để nói như vậy.
Không có vật cản nào trên con đường của tình yêu ngoại trừ sự
hiện diện của căm ghét. Nếu không có căm ghét, tình yêu nở rộ
theo cách của nó - tự phát, tự nhiên. Không cái gì khác cần được
thực hiện cho nó nở rộ. Điều đó giống như vứt bỏ tảng đá chẹn
dòng suối nhỏ: một khi được bỏ ra, dòng suối tuôn chảy theo
cách riêng của nó. Theo cùng cách đó hòn đá của căm ghét đè
nặng lên chúng ta. Bởi hòn đá căm ghét này chúng ta không có
khả năng thấy được khuôn mặt mình được phản xạ trong tấm
gương của mọi đối tượng hữu tình và vô tình; chúng ta không trở
thành tấm gương phản chiếu tất cả những đối tượng trong chúng
ta.
Cả hai hiện tượng này xảy ra đồng thời: người có thể thấy
bản thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình - mọi con
vật, toàn thể sự tồn tại - không tránh khỏi sẽ có khả năng thấy
được tất cả trong bản thân người đó. Người mà từ người đó toàn
thể thế giới trở thành tấm gương, bản thân người đó trở thành tấm
gương cho toàn thể thế giới. Chúng xảy ra đồng thời. Chúng là
hai mặt của một và chỉ một sự xuất hiện. Upanishad nói rằng khi
điều này xảy ra, căm ghét biến mất.

Thế thì cái gì được sinh ra? Upanishad đã không nói rằng thế
thì tình yêu sẽ được sinh ra, vì tình yêu là vĩnh hằng, nó là bản
tính của chúng ta. Nó không được sinh ra, nó không chết đi.
Chẳng hạn, khi mùa mưa tới và bầu trời bị bao phủ bởi mây, mặt
trời bị che khuất. Bây giờ, chúng ta có thể nói rằng mặt trời sẽ
được sinh ra khi mây biến mất không? Không, chúng ta chỉ có
thể nói rằng mặt trời, cái bao giờ cũng có đấy, sẽ thành thấy
được. Khi mây tới mặt trời không bị phá huỷ, nó chỉ bị che khuất.
Nó không còn thấy được nữa, bị che khuất sau mây. Mây sẽ biến
mất và mặt trời sẽ lại chiếu sáng. Mây được sinh ra và mây chết
đi, nhưng mặt trời thì bao giờ cũng có đó.
Tình yêu là bản tính của cuộc sống, cho nên nó không sinh
không chết. Mây căm ghét được sinh ra và chết đi. Tình yêu bị
che phủ khi những đám mây này được sinh ra; nó tự lộ ra khi
mây biến mất, khi mây không còn nữa. Nhưng tình yêu là vĩnh
hằng, cho nên Upanishad không nói về việc sinh ra của tình yêu,
nó chỉ nói ngần này: căm ghét chết và biến mất.

Nhưng bằng cách nào? Lời kinh này không dễ dàng như nó
có vẻ thế. Nhiều lần việc xảy ra là mọi thứ trông có vẻ khó là
không khó vậy, và tương tự, những việc có vẻ như dễ dàng là
không dễ dàng. Phần lớn các trường hợp, có một chiều sâu lớn và
điều phức tạp bị ẩn giấu bên trong các vấn đề dễ dàng. Lời kinh
này dường như là trực tiếp và dễ dàng. Toàn thể phát biểu này
được hoàn tất chỉ trong hai dòng. Nó nói, người thấy bản thân
mình trong mọi đối tượng - hữu tình hay vô tình - và bắt đầu thấy
mọi đối tượng trong bản thân mình, sẽ có căm ghét của mình bị
phá huỷ. Nhưng để làm cho tất cả mọi thứ đều thành tấm gương
của người đó, hay để thành tấm gương cho tất cả, là thuật giả kim
và nghệ thuật vĩ đại nhất. Không có nghệ thuật nào vĩ đại hơn
nữa.

Tôi đã từng nghe: Một người Trung quốc có lần tới triều
đình của hoàng đế Iran và nói, “Tôi tới từ Trung quốc, và tôi là một nghệ sĩ rất
vĩ đại. Tôi có thể làm ra những bức tranh mà ngài
chưa từng bao giờ thấy trước đó.”
Nhà vua nói, “Thế thì làm chúng ở đây đi. Nhưng nhớ lấy, ở
triều đình của ta không thiếu hoạ sĩ đâu và ta đã từng thấy những
bức tranh rất tuyệt diệu.”

Người hoạ sĩ Trung quốc nói, “Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi
thách thức.”
Hoạ sĩ giỏi nhất của triều đình được chọn ra để đua tài. Rồi
nhà vua cảnh báo trước cho hoạ sĩ này, “Dùng mọi tài năng của
ngươi, làm cho tốt nhất vào. Bây giờ đây là vấn đề danh dự
vương quốc. Coi chừng rằng ngươi phải không bị thua người
ngoại quốc này.”

Họ được sáu tháng để hoàn thành công trình của mình.
Người hoạ sĩ Iran bắt đầu công việc của mình một cách rất trang
trọng. Với sự giúp đỡ của mười cho tới hai mươi công nhân, ông
ta đã vẽ lên toàn bộ bức tường với những bức tranh tuyệt đẹp.
Tin tức về bức tranh của ông ta lan tới những vùng xa xôi, và mọi
người từ xa đổ đến để xem công trình của ông ta. Nhưng một
điều kì diệu lớn hơn việc này đã xảy ra. Người nghệ sĩ Trung
quốc nói, “Tôi không cần dụng cụ hay chất liệu nào cho công
việc của mình, cũng không cần sơn vẽ nào cả. Tôi chỉ đòi một
điều kiện thôi - đó là bức màn che phủ bức tường của tôi không
được bỏ ra chừng nào bức tranh còn chưa xong.”

Mỗi sáng ông ta chui vào sau tấm màn, và trở ra lúc tối, kiệt
sức, với những giọt mồ hôi trên trán. Nhưng một vấn đề phức
tạp, bí ẩn và kì lạ lớn là ở chỗ ông ta không mang bút vẽ hay sơn
theo mình khi ông ấy biến mất đằng sau tấm màn. Mà cũng
không thấy có dấu vết gì về mầu sắc lẫn vết sơn trên quần áo ông
ta, và ông ta không cầm chổi vẽ nào trong tay. Hoàng đế bắt đầu
tự hỏi liệu ông ta có quái dị không. Làm sao có thể có bất kì đua
tài nào trong hoàn cảnh như thế? Nhưng cần phải đợi cho đủ sáu
tháng để đáp ứng điều kiện.

Với sự bồn chồn lớn lao mọi người đều chờ đợi cho sáu
tháng trôi qua. Tin tức về các bức tranh của hoạ sĩ Iran ngày một
lan xa và rộng, và cùng với tin này, lời bàn tán cũng lan truyền về
đối thủ đua tài kì dị của ông ta, người đã đi vào cuộc đua tài mà
không có sơn vẽ gì. Bạn không thể hình dung được mọi người
nóng lòng chờ đợi sáu tháng trôi qua như thế nào.

Sau sáu tháng hoàng đế tới xem các bức tranh. Ông ta say
mê xem các bức tranh do hoạ sĩ Iran vẽ. Ông đã từng xem nhiều
bức tranh trong đời mình, nhưng ông ta chưa từng bao giờ thấy
những bức tranh với tài năng không thể khen hết lời này được.
Thế rồi ông ta yêu cầu người hoạ sĩ Trung quốc trình bầy tác
phẩm của mình. Ông này cởi bỏ bức màn che phủ bức tường của
mình. Khi nhìn vào đó nhà vua rất phân vân. Nó là cùng bức
tranh của hoạ sĩ Iran. Người hoạ sĩ Trung quốc đã tạo ra cùng
bức tranh như của hoạ sĩ Iran, nhưng với một nét phụ thêm: nó
không được vẽ trên tường, nhưng nó nổi lên từ sâu hơn một mét
hai phía trong bức tường. Nhà vua hỏi, “Người đã làm điều này
như thế nào? Đây là trò ảo thuật gì vậy?”

Người hoạ sĩ thưa, “Tôi không làm trò ảo thuật nào cả.
Nhưng tôi là chuyên gia trong việc làm gương, cho nên ta đã biến
bức tường thành một tấm gương chỉ bằng việc mài cọ nó liên tục
trong sáu tháng. Bức tranh ngài đang nhìn vào chính là bức tranh
của người hoạ sĩ Iran trên bức tường đối diện. Ta đơn giản chỉ
biến tường thành tấm gương.”
Ông ta đã thắng trong cuộc đua tài, bởi vì lung linh trong
gương bức tranh của người hoạ sĩ Iran trở nên sâu thêm vô hạn
hơn là bản gốc. Bức tranh của hoạ sĩ Iran có độ sâu lớn khi được
nhìn qua tấm gương. Nó trở thành bức tranh ba chiều. Bức tranh
của hoạ sĩ Iran chỉ hai chiều; nó không có chiều sâu. Bức tranh của người hoạ sĩ
Trung quốc có được chiều sâu ba chiều. Hoàng
đế hỏi ông ta, “Tại sao ngươi không nói cho chúng ta ngay từ đầu
rằng ngươi chỉ biết cách làm gương thôi?”
Người hoạ sĩ Trung quốc đáp, “Tôi không phải là hoạ sĩ, tôi
là thánh nhân, sư.”
Nhà vua nói, “Điều này càng trở nên đáng quan tâm hơn,
Trước tiên ngươi đã không nói cho chúng ta rằng ngươi làm
gương, còn bây giờ ngươi bảo chúng ta rằng ngươi là thánh
nhân. Tại sao thánh nhân làm gương?”

Người hoạ sĩ Trung quốc đáp, “Tôi đã chỉ làm gương từ khi
tôi làm cho bản thân mình thành tấm gương và thấy thế giới
trong đó. Như tôi biến bức tường này thành tấm gương rõ bằng
việc liên tục mài cọ và lau sạch nó, cho nên tôi đã biến bản thân
tôi thành tấm gương, thuần khiết như pha lê, bằng cách giữ việc
quán xét mình thường xuyên. Và một hình ảnh đẹp thế của thế
giới này như tôi đã thấy ở bên trong không bao giờ được thấy ở
bên ngoài. Cái ngày mà tôi thấy và nhận ra thế giới bên trong tôi,
tôi trở thành giống như tấm gương. Mọi đối tượng hữu tình và vô
tình của thế giới đã thầm nhuần bên trong tôi.”
Chúng ta sẽ có khả năng thấy được Thượng đế vào ngày trái
tim chúng ta trở thành giống như tấm gương. Thế thì tất cả thế
giới đi vào trong chúng ta, và toàn thể thế giới trở thành tấm
gương cho chúng ta nữa. Thế thì chúng ta có khả năng thấy bản
thân mình vào mọi khoảnh khắc, ở mọi nơi. Nhưng toàn bộ thế
giới không thể biến thành tấm gương được; chỉ cái ta của riêng
chúng ta là có thể được biến thành tấm gương thôi. Đó là lí do tại
sao người tìm kiếm chân lí bắt đầu bằng việc làm ra tấm gương
của bản thân mình.

Để biết tới thuật giả kim và nghệ thuật làm bản thân mình
thành tấm gương, ba điểm cần phải được hiểu. Thứ nhất, có lẽ là
không đúng mà nói về việc làm ra tấm gương của cái ta, vì chúng
ta tất cả đều đã là những tấm gương rồi, nhưng bị bụi bặm che
phủ. Công việc của chúng ta là lau sạch và chùi kĩ tấm gương đó
và làm cho nó sáng bóng và rõ nét. Tấm gương không phải là tấm
gương nếu bụi được phép lắng đọng lên nó; thế thì nó không
phản xạ được gì cả. Năng lực phản xạ của nó bị phá huỷ khi nó bị
bụi che phủ. Chúng ta là những tấm gương như thế - bụi đã tích
tụ lên chúng ta. Cũng hệt như bụi bám vào gương khi đi qua phố
xá tấp nập, bụi cũng bám vào khi chúng ta trải qua vô lượng kiếp
sống. Nó được tích tụ từ nhiều, rất nhiều cách thức, từ ham muốn
của chúng ta, từ vô lượng hành động của chúng ta, và từ việc
thường xuyên trở thành người làm của chúng ta. Không ai biết
đống bụi đã tích tụ lớn đến đâu - bụi của hành động, của việc trở
thành người làm ra các hành động, của bản ngã, của ý nghĩ, của
ham muốn và cảm xúc. Cho nên có một tầng bụi bặm rất sâu trên
chúng ta.

Vấn đề quan trọng là loại bỏ nó đi. Nếu nó được quét sạch,
chúng ta lại là tấm gương. Và mọi thứ giống như tấm gương đối
với người mà bản thân người đó là tấm gương. Tại sao? - vì bất
kì cái gì chúng ta đang là đều được chúng ta nhìn thấy về mọi
phía. Để hiểu điều này, nhớ lời kinh quan trọng này trong trí:
“Chúng ta chỉ thấy cái chúng ta đang là, chúng ta chưa bao giờ
thấy bất kì cái gì khác ngoài cái này.” Bất kì cái gì được chúng ta
thấy bao giờ cũng là phóng chiếu của chúng ta. Bao giờ chúng ta
cũng là cái đó. Đấy là khuôn mặt duy nhất của chúng ta mà
chúng ta thấy. Nếu không điều gì tốt được chúng ta thấy trong
thế giới bên ngoài, thế thì đấy là bởi vì hạt mầm của cái nhìn như
vậy là ở bên trong chúng ta. Nếu cái xấu xí được thấy trong thế
giới bên ngoài, chúng ta nên biết rằng cái xấu đó đã bắt rễ vững
chắc bên trong chúng ta. Nếu chúng ta thấy bất tín ở mọi nơi bên ngoài, chúng ta
nên biết rằng bất tín là ở bên trong ta. Máy chiếu
ở bên trong, chỉ màn ảnh là ở bên ngoài, và chúng ta cứ liên tục
phóng chiếu lên nó. Chúng ta cứ mở rộng bất kì cái gì bên trong
ta lên màn hình đó.

Nếu Thượng đế không được thấy trong thế giới bên ngoài
điều đó đơn giản nghĩa là chúng ta không kinh nghiệm điều
thiêng liêng bên trong chúng ta. Người nhận ra Thượng đế ở bên
trong bắt đầu thấy Thượng đế thường xuyên trong mọi sự vật.
Thế thì không có cách khác. Thế thì người ấy sẽ thấy Thượng đế
ngay cả trong tảng đá. Nhưng chỉ vào khoảnh khắc đó tảng đá
mới được thấy trong Thượng đế. Với tôi không có nghĩa nào
khác cho từ người duy vật ngoài nghĩa này: người duy vật là
người có trái tim tâm linh đã biến thành đá. Người có trái tim bên
trong giống như đá thấy đá ở mọi nơi. Với tôi, người duy linh là
người có trái tim tâm linh không giống như đá mà rộn ràng, sống
động, rung động.

Nhà khoa học sẽ nói rằng không cái gì tâm linh trong cái đập
rộn ràng của trái tim chúng ta. Nó là một loại hệ thống, không gì
nhiều hơn. Nhà khoa học sẽ nói rằng bất kì trái tim nào chúng ta
nói tới đều có thể được thấy bằng cách giải phẫu nó; và cái mà ta
sẽ thấy chỉ là cái bơm đẩy máu tuần hoàn, bằng việc ép không
khí, trong toàn bộ thân thể. Không có gì nhiều hơn điều đó. Và
nếu đây là cách thức nhà khoa học nhìn trái tim của riêng mình
và ngọn nguồn của cuộc sống, thế thì người đó có thể không có
kinh nghiệm gì về cuộc sống cả, và không có ý thức gì về thế
giới bên ngoài. Nếu trái tim đối với con người chỉ có nghĩa là cái
máy để đẩy máu đi vòng bên trong, thế thì người đó sẽ chỉ thấy
sự mở rộng máy móc trong thế giới bên ngoài: thế thì toàn thể hệ
thống là hoàn chỉnh. Thế giới đơn thuần là một thứ máy móc.
Thế giới bên ngoài chỉ là đá.

Không, còn có những cách khác để đi vào bên trong. Nếu
cách thức của khoa học là cách thức duy nhất để đi vào bên trong
điều đó sẽ có nghĩa là khó khăn lớn. Thế thì nhà khoa học sẽ
thắng. Nhưng ông ta không thể thắng được, thất bại của ông ta là
chắc chắn. Có thể sẽ có chậm trễ nào đó trong việc tìm ra những
cách thức để đi vào bên trong, vì có nhiều khả năng. Chẳng hạn,
ai đó muốn học chơi đàn veena. Bây giờ, có thể tìm ra đàn veena
là gì bởi việc đập vỡ nó mở ra và nhìn vào trong nó. Người ta có
thể dứt tất cả những sợi dây của nó, đập vỡ nó thành từng mảnh,
xem xét từng mẩu, và cuối cùng tuyên bố, “Không có nhạc nhã gì
trong đó cả. Ai nói đây là nhạc cụ? Ở đây, nó đang ở trước tôi đã
được tách thành từng mẩu, và không có nhạc nhã gì trong nó cả.”
Nếu đây là cách duy nhất để biết đàn veena là gì thế thì nhạc
sĩ đã thua rồi. Nhưng còn có cách khác để tìm ra đàn veena là gì.
Chắc chắn đấy là cách khó khăn; phá nó ra thì dễ, nhưng để biết
nó thực sự là gì, là rất gian nan. Chỉ bằng cách chơi nó người ta
có thể biết được cái đang được giấu kín trong tim của đàn veena.
Nó tinh tế đến mức khó mà hiểu thấu, chắc chắn vậy, và nếu bạn
điếc bạn sẽ không hiểu thấu nó được chút nào. Nếu bạn chỉ có
hiệu quả về mặt trí tuệ, nhưng khiếm khuyết về nhạy cảm, khiếm
khuyết về tình cảm, thế thì bạn sẽ không hiểu cho dù bạn nghe
nó. Khi người ta nghe nhạc, người ta chỉ nghe thấy âm thanh -
dồi dào âm thanh. Nhưng âm nhạc mang nghĩa cái gì đó còn
nhiều hơn là chỉ việc nghe. Trong khi nghe nó, cái gì đó khác
được thêm vào. Chúng ta phải dồn cả trái tim mình vào nó; thế và
chỉ có thế thì âm thanh biến thành âm nhạc. Ngoài ra chỉ có âm
thanh lẫn lộn, chỉ có tiếng ồn mà thôi.

Nếu chỉ có một cách duy nhất để biết trái tim - cách của nhà
giải phẫu tiến hành mổ nó ra trên bàn mổ - điều đó sẽ không tốt;
nhưng cũng có nhiều cách khác nữa. Người tâm linh biết điều đó,
thánh nhân biết điều đó. Người đó đã đi tới việc biết nó bởi việc
chơi theo trái tim, không phải bởi việc tháo nó rời ra từng phần.
Người đó đã biết nó bởi việc tạo ra âm nhạc từ trái tim. Cho nên
người đó hỏi, “Bạn đang nói tới trái tim bên trong nào vậy? Bạn
cũng điên khùng và gàn dở như người đập vỡ bóng điện, lấy từng
mảnh thuỷ tinh vỡ về nhà và nói, ‘Đây là ánh sáng.’” Đúng là
ánh sáng đã được tạo ra qua nó, nhưng mảnh thuỷ tinh mà bạn
đem về nhà không là và đã không là ánh sáng. Điều ánh sáng đó
tan biến khi bóng đèn bị đập vỡ là sự kiện. Cho nên lập luận
logic đằng sau sự kiện này dường như đúng - rằng khi bóng đèn
bị đập vỡ ánh sáng đi mất, cho nên bóng đèn là ánh sáng; bằng
không ánh sáng phải không mất đi khi bóng đèn bị đập vỡ.
Những mẩu vụn ta đem về nhà đã tạo nên ánh sáng toàn bộ. Điều
này là đúng, rằng khi bóng đèn bị đập vỡ ánh sáng biến mất; nó
không bị mất đi hay bị phá huỷ, nó đơn giản biến mất, trở thành
không thấy được. Cái môi giới làm cho nó thấy được đã bị đập
vỡ.

Nếu chúng ta phá huỷ trái tim, môi giới cho tâm linh biểu
hiện bị phá vỡ. Bóng đèn bị đập vỡ. Thế thì trái tim tâm linh
không thể chiếu sáng ra, cũng hệt như ánh sáng không thể chiếu
sáng ra từ việc đập vỡ bóng đèn. Tâm linh do vậy bị che giấu.
Trái tim chỉ giúp cho tâm linh biểu hiện. Nhưng có rất ít người
trong số chúng ta đã biết tới trái tim tâm linh. Chúng ta chỉ biết
tới trái tim vật lí, qua đó mà máu được tuần hoàn và cuộc sống
được động viên. Chúng ta chỉ biết cách bố trí máy móc này, cho
nên chúng ta thấy nó được khuếch đại trong thế giới bên ngoài
nữa.

Cái ngày chúng ta đi tới biết về tâm thức tối cao bên trong
mình, thế thì thế giới bên ngoài cũng sẽ xuất hiện với chúng ta
như sự mở rộng của tâm thức tối thượng. Cái toàn thể sẽ là tấm
gương cho chúng ta khi chúng ta trở thành tấm gương bên trong.
Nếu chúng ta đứng gần một tảng đá, thế thì chúng ta sẽ có khả
năng thấy bản thân mình ngay cả trong tảng đá đó. Thế thì chúng
ta sẽ không nhìn vào tảng đá đó với cái cứng rắn mà chúng ta
đang nhìn vào con người bây giờ. Thế thì chúng ta sẽ chạm vào
hòn đá cứ như là chúng ta đang chạm vào người yêu, bởi vì thế
thì tảng đá không còn là tảng đá nữa, nó là Thượng đế. Thế thì
chúng ta sẽ bước đi trên mặt đất với chăm chú, nhạy cảm và nhận
biết lớn, vì cũng có sự sống ẩn trong đó, cũng có sự mở rộng của
sự tồn tại, và ở đó cuộc sống cũng đang đập rộn ràng; cũng có ai
đó đang nhảy múa. Sự tồn tại đang nhảy múa theo những chiều
hướng khác nhau, trong những hình dạng khác nhau, và trong
những cách thức khác nhau. Chúng ta không chỉ là người chủ của
cuộc sống. Các hình thái của nó là vô tận, và chúng ta là một
trong chúng. Hình thái của chúng ta là một cách thức rất nhỏ bé.
Và vậy mà chúng ta không có tri thức nào về con đường vào
trong của mình.

Làm sao chúng ta có thể trở thành tấm gương được? Để trở
thành tấm gương chúng ta sẽ phải chùi sạch bụi bặm đã lắng
đọng lên mình. Chúng ta không chỉ phải loại bỏ nó mà chúng ta
còn phải dừng việc thu thập bụi mới. Nếu chúng ta cứ chùi bụi tại
đầu phía này và đồng thời chúng ta tiếp tục cách sống thu thập
nó, thế thì không có khả năng nào trở thành tấm gương được.
Chúng ta phải tấn công trên hai mặt. Bụi bặm cũ, bụi đã tích luỹ,
sẽ phải được loại bỏ và đồng thời chúng ta phải dừng việc thu
thập bụi . Bụi cũ được tích luỹ dưới dạng kí ức còn bụi mới được
thu thập qua ham muốn. Bụi cũ được tích trữ trong kí ức còn bụi
mới đến qua ham muốn.

Cả hai nỗ lực này đều phải được tiến hành đồng thời. Chúng
ta sẽ phải giải phóng bản thân mình khỏi kí ức và khỏi ham
muốn. Chúng ta phải nói với các ham muốn của mình rằng chúng
ta không muốn có bất kì cái gì bây giờ, bây giờ không còn hành
trình thêm nữa, và chúng ta phải bảo kí ức của mình rằng điều đã
xảy ra trong quá khứ bây giờ chỉ là giấc mơ mà thôi. Không cần
phải cứ mang tải trọng này một cách vô dụng. Nhưng tất cả
chúng ta đều đang mang tải trọng kí ức của mình. Chúng ta không quên cái gì cả;
ngược lại, chúng ta nuôi dưỡng kí ức cũ và
ôm giữ chúng. Chúng ta thu thập đồ phế thải này và cõng nó trên
vai. Từ lúc sinh tới lúc chết chúng ta thu thập đồ phế thải của
mình. Cho nên chúng ta phải bỏ qua kí ức. Chúng ta phải nói,
“Điều đã xảy ra đã xảy ra rồi, bây giờ mình không phải là cái ta
cũ nữa.” Chúng ta phải tự mình tách hẳn khỏi ngày hôm qua.
Chúng ta phải giải phóng bản thân mình khỏi quá khứ và khỏi cả
tương lai nữa. Khi chúng ta được tự do khỏi hai điều này, thế thì
tâm trí chúng ta sẽ trở thành tấm gương.

Với tôi, sannyasin là người nói, “Tôi tách mình khỏi quá
khứ. Bây giờ tôi không phải là cái tôi đã là ngày hôm qua - tôi
chấm dứt đồng nhất đó.” Đó là lí do tại sao cái tên được thay đổi.
Việc đổi tên là tượng trưng. Nó có nghĩa: “Tôi sẽ không là cái tôi
cũ mà đã được gắn với cái tên cũ. Bây giờ tôi giải phóng mình
khỏi cái đó. Bây giờ tôi chôn vùi những kỉ niệm cũ đó, cái đống
cũ lộn xộn toàn những thứ quá khứ đó, cùng với cái tên cũ của
tôi. Bây giờ tôi là một người mới và bắt đầu cuộc hành trình của
mình từ đầu.” Trong quyết tâm kiên định trở thành con người
mới từ hôm nay, từ nay, từ bây giờ, tính chất sannyas thật được
tìm thấy.

Nhớ điều này: tự do khỏi quá khứ là điều có thể được; nhưng
nếu chúng ta vẫn tiếp tục thói quen cũ của mình thế thì quá khứ
của chúng ta sẽ vẫn còn là quá khứ của chúng ta. Hiệu quả của
việc đổi tên kéo dài được bao lâu? Nó sẽ không còn lại mới cho
dù chỉ một khoảnh khắc. Sau khi cắt đứt với quá khứ, nếu chúng
ta tiếp tục những thói quen cũ, thế thì chúng ta sẽ thu thập những
kỉ niệm cũ quanh cái tên mới, và cùng gánh nặng cũ sẽ có đấy, và
tấm gương sẽ vẫn cứ còn bị che giấu.
Cho nên sannyas là giải pháp hai mặt. Cắt đứt khỏi quá khứ -
tức là, “Tôi bây giờ không là cái tôi đã là ngày hôm qua; tôi phá
vỡ sự liên tục. Tôi là nhận biết. Bây giờ tôi là con người mới. Cái
tên cũ không còn là tên của tôi. Ông ấy không phải là bố tôi, đấy
không phải là gia đình tôi. Không, cái quá khứ đó không có liên
quan gì tới tôi. Tôi được tái sinh từ hôm nay.”

Một người tên là Nicodamus có lần tới gặp Jesus và hỏi,
“Tôi phải làm gì để đạt tới cực lạc mà ông đang nói tới?”
Jesus nói, “Ông sẽ phải được sinh ra lần nữa.”
Người này hỏi, “Làm sao điều ấy có thể được? Ông đang nói
gì vậy? Làm sao điều ấy là có thể được? Tôi đã được sinh ra rồi,
tôi đã từng là đứa trẻ. Bây giờ làm sao tôi có thể được sinh ra
nữa?”
Jesus nói, “Ông đã không hiểu tôi. Ông chưa bao giờ sinh ra,
cho nên tôi bảo ông, ông sẽ phải được sinh ra lần nữa. Ông sẽ
phải được sinh ra là một người mới. Ông sẽ phải được sinh ra tự
do với cái đống lộn xộn quá khứ những kỉ niệm và mối quan hệ
của ông.”

Trong nước ta, chúng ta quen gọi một người như vậy là được
sinh ra hai lần. Được sinh ra hai lần không có nghĩa là người ta
phải trải qua nghi lễ điểm đạo của người brahmin trong việc đặt
sợi dây thiêng liêng. Nó có nghĩa là một người có lần sinh thứ hai
đã xảy ra. Không ai có thể được sinh ra hai lần trước khi trở
thành sannyasin. Không ai có thể được sinh ra hai lần chỉ bởi
việc đặt sợi dây thiêng liêng. Không ai có thể được sinh ra hai lần
bởi việc được sinh ra trong một gia đình brahmin. Từ dwija có
nghĩa là một người đã lấy lần sinh thứ hai. Lần sinh thứ nhất do
cha mẹ trao cho và lần thứ hai là kết quả của sự cố gắng của
riêng của người ta.
Nó là quá trình kép. “Tôi đang cắt đứt bản thân mình với quá
khứ và cả với hình mẫu sống cũ mà qua đó tôi đã trở nên ngày
càng gắn bó hơn với quá khứ. Bây giờ tôi được sinh ra mới mẻ
hàng ngày. Bây giờ sẽ không có bụi bặm đọng vào tấm gương của tôi. Bây giờ cái
tên này sẽ vẫn còn tươi tắn mãi mãi. Bây giờ
sẽ không có kí ức gắn với nó. Bây giờ tôi sẽ không bao giờ nói
tôi đã làm điều này và tôi đã không làm điều kia. Bây giờ tôi sẽ
không bao giờ tuyên bố rằng tôi là người làm. Bây giờ tôi sẽ
không bao giờ nói rằng toà nhà là của tôi, hay của cải là của tôi,
hay tài sản là của tôi.”

Nhớ điều này: sannyasin không phải là người bỏ gia đình
mình và bắt đầu nói, “Đạo tràng là của tôi.” Sannyasin là người
đã chấm dứt việc dùng từ ‘của tôi’. Người ấy sống ở đâu không
thành vấn đề nữa. Người ấy có thể ngồi đấy cai quản cửa hàng,
miễn là cửa hàng không trở thành ‘của tôi’. Thế thì toàn thể vấn
đề chấm dứt. Nhưng chúng ta có thói quen rời bỏ cửa hàng, bỏ
nó, và thế rồi tái xác nhận thói quen cũ của chúng ta bằng việc đi
vào đạo tràng và bắt đầu nói về đạo tràng của tôi. Thế thì đâu có
khác biệt gì dù cho chúng ta sống ở nhà hay sống trong đạo tràng.
Thế thì đổi tên là vô dụng. Việc ấy vô dụng như việc voi tắm
trong sông hay ao, rồi đi ra và tung bụi đất lên thân nó. Việc tắm
không phục vụ cho mục đích nào. Toàn bộ lao động bị phí hoài.
Lời kinh này của Upanishad đang yêu cầu chúng ta là tấm
gương. Tâm trí đúng là tấm gương. Người có thể nói, “Tôi không
có quá khứ không tương lai, tôi đang sống tại đây và bây giờ;
chính khoảnh khắc này là tất cả,” người ấy trở thành một tấm
gương ngay lập tức.

Làm sao có thể có bất kì căm ghét nào trong trái tim phản
ánh mọi đối tượng hữu tình và vô tình trong tấm gương riêng của
nó? Và làm sao có thể có bất kì cảm giác căm ghét nào khi phản
xạ riêng của người ấy được thấy trong mọi đối tượng hữu tình và
vô tình? Cảm giác căm ghét mất đi; khói của nó tan biến. Đám
mây khói biến mất, và cái trở nên thấy được là mặt trời, mặt trời
của tình yêu. Nhớ lấy, chừng nào vẫn còn có căm ghét trong tim
bạn, tình yêu bạn làm ra và cứ làm ra chỉ có thể là một dạng của
căm ghét. Khi căm ghét tan biến tại chính gốc rễ của nó - tức là,
khi nó biến mất hoàn toàn và chung cuộc - cái được sinh ra là
tình yêu.

Chỉ sannyasin mới có thể làm ra tình yêu. Chính là từ cái ta -
linh hồn - dòng suối tình yêu đó chảy ra. Không cái gì ngoài căm
ghét sẽ chảy ra từ thân thể và tâm trí. Chỉ căm ghét sẽ chảy ra từ
những ý tưởng ích kỉ - ý tưởng về của tôi và của bạn. Người tìm
kiếm phải hiểu đúng nghệ thuật tự mình trở thành tấm gương.
Ngay khi người ấy có thể, người ấy phải học để làm khoảnh khắc
hiện tại thành sự tồn tại của người đó, và bắt đầu sống từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc. Người ấy phải tách hẳn bản thân mình
với quá khứ cũng như tương lai. Người ấy phải tìm ra tự do khỏi
kí ức và ham muốn. Thế thì bụi bặm tích luỹ sẽ phai đi và sẽ
không có khả năng nào cho bụi mới lắng đọng .
Người thấy toàn bộ thế giới ,các đối tượng hữu tình và vô tình Ở bên trong mình,và cũng thấy bản thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình, bởi điều này,không còn căm ghét ai nữa.

Không thích hay căm ghét người khác là cơ sở của những
phức tạp sâu xa của loài người. Có thể nói rằng chất độc căm
ghét trở nên biểu hiện trong mọi phô bầy độc địa của anh ta. Từ
căm ghét có nghĩa là ham muốn phá huỷ người khác. Yêu có
nghĩa là sẵn lòng hi sinh bản thân mình cho người khác, nếu cần.
Căm ghét có nghĩa là sẵn lòng phá huỷ người khác vì bản thân
mình ngay cả khi điều đó là không cần thiết. Theo cách tất cả
chúng ta sống có dư thừa căm ghét và không có âm nhạc của tình
yêu.

Cảm giác chúng ta gọi là tình yêu, thực ra, chỉ là một dạng
của căm ghét. Trong làm tình chúng ta làm cho người kia trở
thành phương tiện của chúng ta để có hạnh phúc; và ngay khi
người ta làm cho người kia thành phương tiện, căm ghét bắt đầu.
Trong khi làm tình chúng ta sống chỉ vì cái ta riêng của mình.
Chúng ta muốn phục vụ cho mục đích ích kỉ của riêng mình. Đôi
khi chúng ta dường như làm điều gì đó cho người khác, nhưng
đấy đơn giản bởi vì chúng ta định để nhận được cái gì đó được
đền đáp từ người ấy mà thôi. Chúng ta làm điều gì đó cho người
khác chỉ khi chúng ta có hi vọng nào đó về việc nhận được cái gì
đó từ người ấy - chúng ta ham muốn kết quả; bằng không chúng
ta không làm gì. Đó là lí do tại sao tình yêu của chúng ta có thể
biến thành căm ghét vào bất kì khoảnh khắc nào. Điều ấy vẫn
thường xảy ra: tình yêu được biểu lộ cho ai đó vài phút trước đây
có thể biến thành sự khinh thị người ấy ngay sau đó. Nếu một cản
trở nhỏ bất ngờ nảy ra len vào con đường thoả mãn ham muốn
của ta, tình yêu của chúng ta sẽ biến thành căm ghét. Tình yêu có
thể biến thành căm ghét và khinh thị chỉ là căm ghét bị che giấu.
Chỉ có căm ghét bên trong, và bao bọc bên ngoài là cái vẻ của
tình yêu.

Ishavasya trình bầy ở đây một lời kinh rất quan trọng làm
cho tình yêu thành có thể; bằng không không thể có. Không có hiểu biết và hành
động theo lời kinh này, không có khả năng nào
cho hoa của tình yêu mở ra. Lời kinh này nói rằng căm ghét sẽ
tới chỗ cuối chỉ khi chấm dứt khi một người bắt đầu thấy bản
thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình, và bắt đầu
thấy mọi đối tượng hữu tình và vô tình - toàn thể sự tồn tại - bên
trong bản thân mình. Nhớ lấy, Ishavasya không nói rằng thế thì
tình yêu sẽ được sinh ra mà nói, “Thế thì căm ghét sẽ đi tới chấm
dứt.”

Có một lí do được cân nhắc rất kĩ lưỡng để nói như vậy.
Không có vật cản nào trên con đường của tình yêu ngoại trừ sự
hiện diện của căm ghét. Nếu không có căm ghét, tình yêu nở rộ
theo cách của nó - tự phát, tự nhiên. Không cái gì khác cần được
thực hiện cho nó nở rộ. Điều đó giống như vứt bỏ tảng đá chẹn
dòng suối nhỏ: một khi được bỏ ra, dòng suối tuôn chảy theo
cách riêng của nó. Theo cùng cách đó hòn đá của căm ghét đè
nặng lên chúng ta. Bởi hòn đá căm ghét này chúng ta không có
khả năng thấy được khuôn mặt mình được phản xạ trong tấm
gương của mọi đối tượng hữu tình và vô tình; chúng ta không trở
thành tấm gương phản chiếu tất cả những đối tượng trong chúng
ta.
Cả hai hiện tượng này xảy ra đồng thời: người có thể thấy
bản thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình - mọi con
vật, toàn thể sự tồn tại - không tránh khỏi sẽ có khả năng thấy
được tất cả trong bản thân người đó. Người mà từ người đó toàn
thể thế giới trở thành tấm gương, bản thân người đó trở thành tấm
gương cho toàn thể thế giới. Chúng xảy ra đồng thời. Chúng là
hai mặt của một và chỉ một sự xuất hiện. Upanishad nói rằng khi
điều này xảy ra, căm ghét biến mất.

Thế thì cái gì được sinh ra? Upanishad đã không nói rằng thế
thì tình yêu sẽ được sinh ra, vì tình yêu là vĩnh hằng, nó là bản
tính của chúng ta. Nó không được sinh ra, nó không chết đi.
Chẳng hạn, khi mùa mưa tới và bầu trời bị bao phủ bởi mây, mặt
trời bị che khuất. Bây giờ, chúng ta có thể nói rằng mặt trời sẽ
được sinh ra khi mây biến mất không? Không, chúng ta chỉ có
thể nói rằng mặt trời, cái bao giờ cũng có đấy, sẽ thành thấy
được. Khi mây tới mặt trời không bị phá huỷ, nó chỉ bị che khuất.
Nó không còn thấy được nữa, bị che khuất sau mây. Mây sẽ biến
mất và mặt trời sẽ lại chiếu sáng. Mây được sinh ra và mây chết
đi, nhưng mặt trời thì bao giờ cũng có đó.
Tình yêu là bản tính của cuộc sống, cho nên nó không sinh
không chết. Mây căm ghét được sinh ra và chết đi. Tình yêu bị
che phủ khi những đám mây này được sinh ra; nó tự lộ ra khi
mây biến mất, khi mây không còn nữa. Nhưng tình yêu là vĩnh
hằng, cho nên Upanishad không nói về việc sinh ra của tình yêu,
nó chỉ nói ngần này: căm ghét chết và biến mất.

Nhưng bằng cách nào? Lời kinh này không dễ dàng như nó
có vẻ thế. Nhiều lần việc xảy ra là mọi thứ trông có vẻ khó là
không khó vậy, và tương tự, những việc có vẻ như dễ dàng là
không dễ dàng. Phần lớn các trường hợp, có một chiều sâu lớn và
điều phức tạp bị ẩn giấu bên trong các vấn đề dễ dàng. Lời kinh
này dường như là trực tiếp và dễ dàng. Toàn thể phát biểu này
được hoàn tất chỉ trong hai dòng. Nó nói, người thấy bản thân
mình trong mọi đối tượng - hữu tình hay vô tình - và bắt đầu thấy
mọi đối tượng trong bản thân mình, sẽ có căm ghét của mình bị
phá huỷ. Nhưng để làm cho tất cả mọi thứ đều thành tấm gương
của người đó, hay để thành tấm gương cho tất cả, là thuật giả kim
và nghệ thuật vĩ đại nhất. Không có nghệ thuật nào vĩ đại hơn
nữa.

Tôi đã từng nghe: Một người Trung quốc có lần tới triều
đình của hoàng đế Iran và nói, “Tôi tới từ Trung quốc, và tôi là một nghệ sĩ rất
vĩ đại. Tôi có thể làm ra những bức tranh mà ngài
chưa từng bao giờ thấy trước đó.”
Nhà vua nói, “Thế thì làm chúng ở đây đi. Nhưng nhớ lấy, ở
triều đình của ta không thiếu hoạ sĩ đâu và ta đã từng thấy những
bức tranh rất tuyệt diệu.”

Người hoạ sĩ Trung quốc nói, “Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi
thách thức.”
Hoạ sĩ giỏi nhất của triều đình được chọn ra để đua tài. Rồi
nhà vua cảnh báo trước cho hoạ sĩ này, “Dùng mọi tài năng của
ngươi, làm cho tốt nhất vào. Bây giờ đây là vấn đề danh dự
vương quốc. Coi chừng rằng ngươi phải không bị thua người
ngoại quốc này.”

Họ được sáu tháng để hoàn thành công trình của mình.
Người hoạ sĩ Iran bắt đầu công việc của mình một cách rất trang
trọng. Với sự giúp đỡ của mười cho tới hai mươi công nhân, ông
ta đã vẽ lên toàn bộ bức tường với những bức tranh tuyệt đẹp.
Tin tức về bức tranh của ông ta lan tới những vùng xa xôi, và mọi
người từ xa đổ đến để xem công trình của ông ta. Nhưng một
điều kì diệu lớn hơn việc này đã xảy ra. Người nghệ sĩ Trung
quốc nói, “Tôi không cần dụng cụ hay chất liệu nào cho công
việc của mình, cũng không cần sơn vẽ nào cả. Tôi chỉ đòi một
điều kiện thôi - đó là bức màn che phủ bức tường của tôi không
được bỏ ra chừng nào bức tranh còn chưa xong.”

Mỗi sáng ông ta chui vào sau tấm màn, và trở ra lúc tối, kiệt
sức, với những giọt mồ hôi trên trán. Nhưng một vấn đề phức
tạp, bí ẩn và kì lạ lớn là ở chỗ ông ta không mang bút vẽ hay sơn
theo mình khi ông ấy biến mất đằng sau tấm màn. Mà cũng
không thấy có dấu vết gì về mầu sắc lẫn vết sơn trên quần áo ông
ta, và ông ta không cầm chổi vẽ nào trong tay. Hoàng đế bắt đầu
tự hỏi liệu ông ta có quái dị không. Làm sao có thể có bất kì đua
tài nào trong hoàn cảnh như thế? Nhưng cần phải đợi cho đủ sáu
tháng để đáp ứng điều kiện.

Với sự bồn chồn lớn lao mọi người đều chờ đợi cho sáu
tháng trôi qua. Tin tức về các bức tranh của hoạ sĩ Iran ngày một
lan xa và rộng, và cùng với tin này, lời bàn tán cũng lan truyền về
đối thủ đua tài kì dị của ông ta, người đã đi vào cuộc đua tài mà
không có sơn vẽ gì. Bạn không thể hình dung được mọi người
nóng lòng chờ đợi sáu tháng trôi qua như thế nào.

Sau sáu tháng hoàng đế tới xem các bức tranh. Ông ta say
mê xem các bức tranh do hoạ sĩ Iran vẽ. Ông đã từng xem nhiều
bức tranh trong đời mình, nhưng ông ta chưa từng bao giờ thấy
những bức tranh với tài năng không thể khen hết lời này được.
Thế rồi ông ta yêu cầu người hoạ sĩ Trung quốc trình bầy tác
phẩm của mình. Ông này cởi bỏ bức màn che phủ bức tường của
mình. Khi nhìn vào đó nhà vua rất phân vân. Nó là cùng bức
tranh của hoạ sĩ Iran. Người hoạ sĩ Trung quốc đã tạo ra cùng
bức tranh như của hoạ sĩ Iran, nhưng với một nét phụ thêm: nó
không được vẽ trên tường, nhưng nó nổi lên từ sâu hơn một mét
hai phía trong bức tường. Nhà vua hỏi, “Người đã làm điều này
như thế nào? Đây là trò ảo thuật gì vậy?”

Người hoạ sĩ thưa, “Tôi không làm trò ảo thuật nào cả.
Nhưng tôi là chuyên gia trong việc làm gương, cho nên ta đã biến
bức tường thành một tấm gương chỉ bằng việc mài cọ nó liên tục
trong sáu tháng. Bức tranh ngài đang nhìn vào chính là bức tranh
của người hoạ sĩ Iran trên bức tường đối diện. Ta đơn giản chỉ
biến tường thành tấm gương.”
Ông ta đã thắng trong cuộc đua tài, bởi vì lung linh trong
gương bức tranh của người hoạ sĩ Iran trở nên sâu thêm vô hạn
hơn là bản gốc. Bức tranh của hoạ sĩ Iran có độ sâu lớn khi được
nhìn qua tấm gương. Nó trở thành bức tranh ba chiều. Bức tranh
của hoạ sĩ Iran chỉ hai chiều; nó không có chiều sâu. Bức tranh của người hoạ sĩ
Trung quốc có được chiều sâu ba chiều. Hoàng
đế hỏi ông ta, “Tại sao ngươi không nói cho chúng ta ngay từ đầu
rằng ngươi chỉ biết cách làm gương thôi?”
Người hoạ sĩ Trung quốc đáp, “Tôi không phải là hoạ sĩ, tôi
là thánh nhân, sư.”
Nhà vua nói, “Điều này càng trở nên đáng quan tâm hơn,
Trước tiên ngươi đã không nói cho chúng ta rằng ngươi làm
gương, còn bây giờ ngươi bảo chúng ta rằng ngươi là thánh
nhân. Tại sao thánh nhân làm gương?”

Người hoạ sĩ Trung quốc đáp, “Tôi đã chỉ làm gương từ khi
tôi làm cho bản thân mình thành tấm gương và thấy thế giới
trong đó. Như tôi biến bức tường này thành tấm gương rõ bằng
việc liên tục mài cọ và lau sạch nó, cho nên tôi đã biến bản thân
tôi thành tấm gương, thuần khiết như pha lê, bằng cách giữ việc
quán xét mình thường xuyên. Và một hình ảnh đẹp thế của thế
giới này như tôi đã thấy ở bên trong không bao giờ được thấy ở
bên ngoài. Cái ngày mà tôi thấy và nhận ra thế giới bên trong tôi,
tôi trở thành giống như tấm gương. Mọi đối tượng hữu tình và vô
tình của thế giới đã thầm nhuần bên trong tôi.”
Chúng ta sẽ có khả năng thấy được Thượng đế vào ngày trái
tim chúng ta trở thành giống như tấm gương. Thế thì tất cả thế
giới đi vào trong chúng ta, và toàn thể thế giới trở thành tấm
gương cho chúng ta nữa. Thế thì chúng ta có khả năng thấy bản
thân mình vào mọi khoảnh khắc, ở mọi nơi. Nhưng toàn bộ thế
giới không thể biến thành tấm gương được; chỉ cái ta của riêng
chúng ta là có thể được biến thành tấm gương thôi. Đó là lí do tại
sao người tìm kiếm chân lí bắt đầu bằng việc làm ra tấm gương
của bản thân mình.

Để biết tới thuật giả kim và nghệ thuật làm bản thân mình
thành tấm gương, ba điểm cần phải được hiểu. Thứ nhất, có lẽ là
không đúng mà nói về việc làm ra tấm gương của cái ta, vì chúng
ta tất cả đều đã là những tấm gương rồi, nhưng bị bụi bặm che
phủ. Công việc của chúng ta là lau sạch và chùi kĩ tấm gương đó
và làm cho nó sáng bóng và rõ nét. Tấm gương không phải là tấm
gương nếu bụi được phép lắng đọng lên nó; thế thì nó không
phản xạ được gì cả. Năng lực phản xạ của nó bị phá huỷ khi nó bị
bụi che phủ. Chúng ta là những tấm gương như thế - bụi đã tích
tụ lên chúng ta. Cũng hệt như bụi bám vào gương khi đi qua phố
xá tấp nập, bụi cũng bám vào khi chúng ta trải qua vô lượng kiếp
sống. Nó được tích tụ từ nhiều, rất nhiều cách thức, từ ham muốn
của chúng ta, từ vô lượng hành động của chúng ta, và từ việc
thường xuyên trở thành người làm của chúng ta. Không ai biết
đống bụi đã tích tụ lớn đến đâu - bụi của hành động, của việc trở
thành người làm ra các hành động, của bản ngã, của ý nghĩ, của
ham muốn và cảm xúc. Cho nên có một tầng bụi bặm rất sâu trên
chúng ta.

Vấn đề quan trọng là loại bỏ nó đi. Nếu nó được quét sạch,
chúng ta lại là tấm gương. Và mọi thứ giống như tấm gương đối
với người mà bản thân người đó là tấm gương. Tại sao? - vì bất
kì cái gì chúng ta đang là đều được chúng ta nhìn thấy về mọi
phía. Để hiểu điều này, nhớ lời kinh quan trọng này trong trí:
“Chúng ta chỉ thấy cái chúng ta đang là, chúng ta chưa bao giờ
thấy bất kì cái gì khác ngoài cái này.” Bất kì cái gì được chúng ta
thấy bao giờ cũng là phóng chiếu của chúng ta. Bao giờ chúng ta
cũng là cái đó. Đấy là khuôn mặt duy nhất của chúng ta mà
chúng ta thấy. Nếu không điều gì tốt được chúng ta thấy trong
thế giới bên ngoài, thế thì đấy là bởi vì hạt mầm của cái nhìn như
vậy là ở bên trong chúng ta. Nếu cái xấu xí được thấy trong thế
giới bên ngoài, chúng ta nên biết rằng cái xấu đó đã bắt rễ vững
chắc bên trong chúng ta. Nếu chúng ta thấy bất tín ở mọi nơi bên ngoài, chúng ta
nên biết rằng bất tín là ở bên trong ta. Máy chiếu
ở bên trong, chỉ màn ảnh là ở bên ngoài, và chúng ta cứ liên tục
phóng chiếu lên nó. Chúng ta cứ mở rộng bất kì cái gì bên trong
ta lên màn hình đó.

Nếu Thượng đế không được thấy trong thế giới bên ngoài
điều đó đơn giản nghĩa là chúng ta không kinh nghiệm điều
thiêng liêng bên trong chúng ta. Người nhận ra Thượng đế ở bên
trong bắt đầu thấy Thượng đế thường xuyên trong mọi sự vật.
Thế thì không có cách khác. Thế thì người ấy sẽ thấy Thượng đế
ngay cả trong tảng đá. Nhưng chỉ vào khoảnh khắc đó tảng đá
mới được thấy trong Thượng đế. Với tôi không có nghĩa nào
khác cho từ người duy vật ngoài nghĩa này: người duy vật là
người có trái tim tâm linh đã biến thành đá. Người có trái tim bên
trong giống như đá thấy đá ở mọi nơi. Với tôi, người duy linh là
người có trái tim tâm linh không giống như đá mà rộn ràng, sống
động, rung động.

Nhà khoa học sẽ nói rằng không cái gì tâm linh trong cái đập
rộn ràng của trái tim chúng ta. Nó là một loại hệ thống, không gì
nhiều hơn. Nhà khoa học sẽ nói rằng bất kì trái tim nào chúng ta
nói tới đều có thể được thấy bằng cách giải phẫu nó; và cái mà ta
sẽ thấy chỉ là cái bơm đẩy máu tuần hoàn, bằng việc ép không
khí, trong toàn bộ thân thể. Không có gì nhiều hơn điều đó. Và
nếu đây là cách thức nhà khoa học nhìn trái tim của riêng mình
và ngọn nguồn của cuộc sống, thế thì người đó có thể không có
kinh nghiệm gì về cuộc sống cả, và không có ý thức gì về thế
giới bên ngoài. Nếu trái tim đối với con người chỉ có nghĩa là cái
máy để đẩy máu đi vòng bên trong, thế thì người đó sẽ chỉ thấy
sự mở rộng máy móc trong thế giới bên ngoài: thế thì toàn thể hệ
thống là hoàn chỉnh. Thế giới đơn thuần là một thứ máy móc.
Thế giới bên ngoài chỉ là đá.

Không, còn có những cách khác để đi vào bên trong. Nếu
cách thức của khoa học là cách thức duy nhất để đi vào bên trong
điều đó sẽ có nghĩa là khó khăn lớn. Thế thì nhà khoa học sẽ
thắng. Nhưng ông ta không thể thắng được, thất bại của ông ta là
chắc chắn. Có thể sẽ có chậm trễ nào đó trong việc tìm ra những
cách thức để đi vào bên trong, vì có nhiều khả năng. Chẳng hạn,
ai đó muốn học chơi đàn veena. Bây giờ, có thể tìm ra đàn veena
là gì bởi việc đập vỡ nó mở ra và nhìn vào trong nó. Người ta có
thể dứt tất cả những sợi dây của nó, đập vỡ nó thành từng mảnh,
xem xét từng mẩu, và cuối cùng tuyên bố, “Không có nhạc nhã gì
trong đó cả. Ai nói đây là nhạc cụ? Ở đây, nó đang ở trước tôi đã
được tách thành từng mẩu, và không có nhạc nhã gì trong nó cả.”
Nếu đây là cách duy nhất để biết đàn veena là gì thế thì nhạc
sĩ đã thua rồi. Nhưng còn có cách khác để tìm ra đàn veena là gì.
Chắc chắn đấy là cách khó khăn; phá nó ra thì dễ, nhưng để biết
nó thực sự là gì, là rất gian nan. Chỉ bằng cách chơi nó người ta
có thể biết được cái đang được giấu kín trong tim của đàn veena.
Nó tinh tế đến mức khó mà hiểu thấu, chắc chắn vậy, và nếu bạn
điếc bạn sẽ không hiểu thấu nó được chút nào. Nếu bạn chỉ có
hiệu quả về mặt trí tuệ, nhưng khiếm khuyết về nhạy cảm, khiếm
khuyết về tình cảm, thế thì bạn sẽ không hiểu cho dù bạn nghe
nó. Khi người ta nghe nhạc, người ta chỉ nghe thấy âm thanh -
dồi dào âm thanh. Nhưng âm nhạc mang nghĩa cái gì đó còn
nhiều hơn là chỉ việc nghe. Trong khi nghe nó, cái gì đó khác
được thêm vào. Chúng ta phải dồn cả trái tim mình vào nó; thế và
chỉ có thế thì âm thanh biến thành âm nhạc. Ngoài ra chỉ có âm
thanh lẫn lộn, chỉ có tiếng ồn mà thôi.

Nếu chỉ có một cách duy nhất để biết trái tim - cách của nhà
giải phẫu tiến hành mổ nó ra trên bàn mổ - điều đó sẽ không tốt;
nhưng cũng có nhiều cách khác nữa. Người tâm linh biết điều đó,
thánh nhân biết điều đó. Người đó đã đi tới việc biết nó bởi việc
chơi theo trái tim, không phải bởi việc tháo nó rời ra từng phần.
Người đó đã biết nó bởi việc tạo ra âm nhạc từ trái tim. Cho nên
người đó hỏi, “Bạn đang nói tới trái tim bên trong nào vậy? Bạn
cũng điên khùng và gàn dở như người đập vỡ bóng điện, lấy từng
mảnh thuỷ tinh vỡ về nhà và nói, ‘Đây là ánh sáng.’” Đúng là
ánh sáng đã được tạo ra qua nó, nhưng mảnh thuỷ tinh mà bạn
đem về nhà không là và đã không là ánh sáng. Điều ánh sáng đó
tan biến khi bóng đèn bị đập vỡ là sự kiện. Cho nên lập luận
logic đằng sau sự kiện này dường như đúng - rằng khi bóng đèn
bị đập vỡ ánh sáng đi mất, cho nên bóng đèn là ánh sáng; bằng
không ánh sáng phải không mất đi khi bóng đèn bị đập vỡ.
Những mẩu vụn ta đem về nhà đã tạo nên ánh sáng toàn bộ. Điều
này là đúng, rằng khi bóng đèn bị đập vỡ ánh sáng biến mất; nó
không bị mất đi hay bị phá huỷ, nó đơn giản biến mất, trở thành
không thấy được. Cái môi giới làm cho nó thấy được đã bị đập
vỡ.

Nếu chúng ta phá huỷ trái tim, môi giới cho tâm linh biểu
hiện bị phá vỡ. Bóng đèn bị đập vỡ. Thế thì trái tim tâm linh
không thể chiếu sáng ra, cũng hệt như ánh sáng không thể chiếu
sáng ra từ việc đập vỡ bóng đèn. Tâm linh do vậy bị che giấu.
Trái tim chỉ giúp cho tâm linh biểu hiện. Nhưng có rất ít người
trong số chúng ta đã biết tới trái tim tâm linh. Chúng ta chỉ biết
tới trái tim vật lí, qua đó mà máu được tuần hoàn và cuộc sống
được động viên. Chúng ta chỉ biết cách bố trí máy móc này, cho
nên chúng ta thấy nó được khuếch đại trong thế giới bên ngoài
nữa.

Cái ngày chúng ta đi tới biết về tâm thức tối cao bên trong
mình, thế thì thế giới bên ngoài cũng sẽ xuất hiện với chúng ta
như sự mở rộng của tâm thức tối thượng. Cái toàn thể sẽ là tấm
gương cho chúng ta khi chúng ta trở thành tấm gương bên trong.
Nếu chúng ta đứng gần một tảng đá, thế thì chúng ta sẽ có khả
năng thấy bản thân mình ngay cả trong tảng đá đó. Thế thì chúng
ta sẽ không nhìn vào tảng đá đó với cái cứng rắn mà chúng ta
đang nhìn vào con người bây giờ. Thế thì chúng ta sẽ chạm vào
hòn đá cứ như là chúng ta đang chạm vào người yêu, bởi vì thế
thì tảng đá không còn là tảng đá nữa, nó là Thượng đế. Thế thì
chúng ta sẽ bước đi trên mặt đất với chăm chú, nhạy cảm và nhận
biết lớn, vì cũng có sự sống ẩn trong đó, cũng có sự mở rộng của
sự tồn tại, và ở đó cuộc sống cũng đang đập rộn ràng; cũng có ai
đó đang nhảy múa. Sự tồn tại đang nhảy múa theo những chiều
hướng khác nhau, trong những hình dạng khác nhau, và trong
những cách thức khác nhau. Chúng ta không chỉ là người chủ của
cuộc sống. Các hình thái của nó là vô tận, và chúng ta là một
trong chúng. Hình thái của chúng ta là một cách thức rất nhỏ bé.
Và vậy mà chúng ta không có tri thức nào về con đường vào
trong của mình.

Làm sao chúng ta có thể trở thành tấm gương được? Để trở
thành tấm gương chúng ta sẽ phải chùi sạch bụi bặm đã lắng
đọng lên mình. Chúng ta không chỉ phải loại bỏ nó mà chúng ta
còn phải dừng việc thu thập bụi mới. Nếu chúng ta cứ chùi bụi tại
đầu phía này và đồng thời chúng ta tiếp tục cách sống thu thập
nó, thế thì không có khả năng nào trở thành tấm gương được.
Chúng ta phải tấn công trên hai mặt. Bụi bặm cũ, bụi đã tích luỹ,
sẽ phải được loại bỏ và đồng thời chúng ta phải dừng việc thu
thập bụi . Bụi cũ được tích luỹ dưới dạng kí ức còn bụi mới được
thu thập qua ham muốn. Bụi cũ được tích trữ trong kí ức còn bụi
mới đến qua ham muốn.

Cả hai nỗ lực này đều phải được tiến hành đồng thời. Chúng
ta sẽ phải giải phóng bản thân mình khỏi kí ức và khỏi ham
muốn. Chúng ta phải nói với các ham muốn của mình rằng chúng
ta không muốn có bất kì cái gì bây giờ, bây giờ không còn hành
trình thêm nữa, và chúng ta phải bảo kí ức của mình rằng điều đã
xảy ra trong quá khứ bây giờ chỉ là giấc mơ mà thôi. Không cần
phải cứ mang tải trọng này một cách vô dụng. Nhưng tất cả
chúng ta đều đang mang tải trọng kí ức của mình. Chúng ta không quên cái gì cả;
ngược lại, chúng ta nuôi dưỡng kí ức cũ và
ôm giữ chúng. Chúng ta thu thập đồ phế thải này và cõng nó trên
vai. Từ lúc sinh tới lúc chết chúng ta thu thập đồ phế thải của
mình. Cho nên chúng ta phải bỏ qua kí ức. Chúng ta phải nói,
“Điều đã xảy ra đã xảy ra rồi, bây giờ mình không phải là cái ta
cũ nữa.” Chúng ta phải tự mình tách hẳn khỏi ngày hôm qua.
Chúng ta phải giải phóng bản thân mình khỏi quá khứ và khỏi cả
tương lai nữa. Khi chúng ta được tự do khỏi hai điều này, thế thì
tâm trí chúng ta sẽ trở thành tấm gương.

Với tôi, sannyasin là người nói, “Tôi tách mình khỏi quá
khứ. Bây giờ tôi không phải là cái tôi đã là ngày hôm qua - tôi
chấm dứt đồng nhất đó.” Đó là lí do tại sao cái tên được thay đổi.
Việc đổi tên là tượng trưng. Nó có nghĩa: “Tôi sẽ không là cái tôi
cũ mà đã được gắn với cái tên cũ. Bây giờ tôi giải phóng mình
khỏi cái đó. Bây giờ tôi chôn vùi những kỉ niệm cũ đó, cái đống
cũ lộn xộn toàn những thứ quá khứ đó, cùng với cái tên cũ của
tôi. Bây giờ tôi là một người mới và bắt đầu cuộc hành trình của
mình từ đầu.” Trong quyết tâm kiên định trở thành con người
mới từ hôm nay, từ nay, từ bây giờ, tính chất sannyas thật được
tìm thấy.

Nhớ điều này: tự do khỏi quá khứ là điều có thể được; nhưng
nếu chúng ta vẫn tiếp tục thói quen cũ của mình thế thì quá khứ
của chúng ta sẽ vẫn còn là quá khứ của chúng ta. Hiệu quả của
việc đổi tên kéo dài được bao lâu? Nó sẽ không còn lại mới cho
dù chỉ một khoảnh khắc. Sau khi cắt đứt với quá khứ, nếu chúng
ta tiếp tục những thói quen cũ, thế thì chúng ta sẽ thu thập những
kỉ niệm cũ quanh cái tên mới, và cùng gánh nặng cũ sẽ có đấy, và
tấm gương sẽ vẫn cứ còn bị che giấu.
Cho nên sannyas là giải pháp hai mặt. Cắt đứt khỏi quá khứ -
tức là, “Tôi bây giờ không là cái tôi đã là ngày hôm qua; tôi phá
vỡ sự liên tục. Tôi là nhận biết. Bây giờ tôi là con người mới. Cái
tên cũ không còn là tên của tôi. Ông ấy không phải là bố tôi, đấy
không phải là gia đình tôi. Không, cái quá khứ đó không có liên
quan gì tới tôi. Tôi được tái sinh từ hôm nay.”

Một người tên là Nicodamus có lần tới gặp Jesus và hỏi,
“Tôi phải làm gì để đạt tới cực lạc mà ông đang nói tới?”
Jesus nói, “Ông sẽ phải được sinh ra lần nữa.”
Người này hỏi, “Làm sao điều ấy có thể được? Ông đang nói
gì vậy? Làm sao điều ấy là có thể được? Tôi đã được sinh ra rồi,
tôi đã từng là đứa trẻ. Bây giờ làm sao tôi có thể được sinh ra
nữa?”
Jesus nói, “Ông đã không hiểu tôi. Ông chưa bao giờ sinh ra,
cho nên tôi bảo ông, ông sẽ phải được sinh ra lần nữa. Ông sẽ
phải được sinh ra là một người mới. Ông sẽ phải được sinh ra tự
do với cái đống lộn xộn quá khứ những kỉ niệm và mối quan hệ
của ông.”

Trong nước ta, chúng ta quen gọi một người như vậy là được
sinh ra hai lần. Được sinh ra hai lần không có nghĩa là người ta
phải trải qua nghi lễ điểm đạo của người brahmin trong việc đặt
sợi dây thiêng liêng. Nó có nghĩa là một người có lần sinh thứ hai
đã xảy ra. Không ai có thể được sinh ra hai lần trước khi trở
thành sannyasin. Không ai có thể được sinh ra hai lần chỉ bởi
việc đặt sợi dây thiêng liêng. Không ai có thể được sinh ra hai lần
bởi việc được sinh ra trong một gia đình brahmin. Từ dwija có
nghĩa là một người đã lấy lần sinh thứ hai. Lần sinh thứ nhất do
cha mẹ trao cho và lần thứ hai là kết quả của sự cố gắng của
riêng của người ta.
Nó là quá trình kép. “Tôi đang cắt đứt bản thân mình với quá
khứ và cả với hình mẫu sống cũ mà qua đó tôi đã trở nên ngày
càng gắn bó hơn với quá khứ. Bây giờ tôi được sinh ra mới mẻ
hàng ngày. Bây giờ sẽ không có bụi bặm đọng vào tấm gương của tôi. Bây giờ cái
tên này sẽ vẫn còn tươi tắn mãi mãi. Bây giờ
sẽ không có kí ức gắn với nó. Bây giờ tôi sẽ không bao giờ nói
tôi đã làm điều này và tôi đã không làm điều kia. Bây giờ tôi sẽ
không bao giờ tuyên bố rằng tôi là người làm. Bây giờ tôi sẽ
không bao giờ nói rằng toà nhà là của tôi, hay của cải là của tôi,
hay tài sản là của tôi.”

Nhớ điều này: sannyasin không phải là người bỏ gia đình
mình và bắt đầu nói, “Đạo tràng là của tôi.” Sannyasin là người
đã chấm dứt việc dùng từ ‘của tôi’. Người ấy sống ở đâu không
thành vấn đề nữa. Người ấy có thể ngồi đấy cai quản cửa hàng,
miễn là cửa hàng không trở thành ‘của tôi’. Thế thì toàn thể vấn
đề chấm dứt. Nhưng chúng ta có thói quen rời bỏ cửa hàng, bỏ
nó, và thế rồi tái xác nhận thói quen cũ của chúng ta bằng việc đi
vào đạo tràng và bắt đầu nói về đạo tràng của tôi. Thế thì đâu có
khác biệt gì dù cho chúng ta sống ở nhà hay sống trong đạo tràng.
Thế thì đổi tên là vô dụng. Việc ấy vô dụng như việc voi tắm
trong sông hay ao, rồi đi ra và tung bụi đất lên thân nó. Việc tắm
không phục vụ cho mục đích nào. Toàn bộ lao động bị phí hoài.
Lời kinh này của Upanishad đang yêu cầu chúng ta là tấm
gương. Tâm trí đúng là tấm gương. Người có thể nói, “Tôi không
có quá khứ không tương lai, tôi đang sống tại đây và bây giờ;
chính khoảnh khắc này là tất cả,” người ấy trở thành một tấm
gương ngay lập tức.

Làm sao có thể có bất kì căm ghét nào trong trái tim phản
ánh mọi đối tượng hữu tình và vô tình trong tấm gương riêng của
nó? Và làm sao có thể có bất kì cảm giác căm ghét nào khi phản
xạ riêng của người ấy được thấy trong mọi đối tượng hữu tình và
vô tình? Cảm giác căm ghét mất đi; khói của nó tan biến. Đám
mây khói biến mất, và cái trở nên thấy được là mặt trời, mặt trời
của tình yêu. Nhớ lấy, chừng nào vẫn còn có căm ghét trong tim
bạn, tình yêu bạn làm ra và cứ làm ra chỉ có thể là một dạng của
căm ghét. Khi căm ghét tan biến tại chính gốc rễ của nó - tức là,
khi nó biến mất hoàn toàn và chung cuộc - cái được sinh ra là
tình yêu.

Chỉ sannyasin mới có thể làm ra tình yêu. Chính là từ cái ta -
linh hồn - dòng suối tình yêu đó chảy ra. Không cái gì ngoài căm
ghét sẽ chảy ra từ thân thể và tâm trí. Chỉ căm ghét sẽ chảy ra từ
những ý tưởng ích kỉ - ý tưởng về của tôi và của bạn. Người tìm
kiếm phải hiểu đúng nghệ thuật tự mình trở thành tấm gương.
Ngay khi người ấy có thể, người ấy phải học để làm khoảnh khắc
hiện tại thành sự tồn tại của người đó, và bắt đầu sống từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc. Người ấy phải tách hẳn bản thân mình
với quá khứ cũng như tương lai. Người ấy phải tìm ra tự do khỏi
kí ức và ham muốn. Thế thì bụi bặm tích luỹ sẽ phai đi và sẽ
không có khả năng nào cho bụi mới lắng đọng .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến