Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

Cái nhảy tối thượng

Hỡi mặt trời, người nuôi dưỡng và người hỗ trợ cho thế giới,
Hỡi lữ khách đơn độc trên bầu trời, Hỡi Yama, hỡi mặt trời, hỡi mặt trời của Brahman,
Con xin cầu khẩn ngài rút lại các tia sáng. Con thấy hình ngài, tràn đầy ân huệ và hào hiệp.
Con là người đang ngồi trong vòng tròn của các mặt trời.

Chúng ta quen thuộc với một mặt trời chúng ta vẫn thấy trên
bầu trời, nhưng có vô số mặt trời như mặt trời của chúng ta. Khi
đêm tới bầu trời đầy sao. Mặc dầu chúng ta gọi chúng là sao
nhưng chúng tất cả đều là mặt trời, nhưng bởi vì ở quá xa chúng
trông nhỏ bé. Mặt trời của chúng ta không lớn lắm đâu. Trong vô
số mặt trời nó có kích cỡ trung bình. Có những mặt trời lớn hơn
nhiều trong vũ trụ. Một tính toán của các nhà khoa học ước lượng
rằng có quãng bốn mươi triệu mặt trời. Kinh nghiệm của các hiền
nhân là ở chỗ có vô số mặt trời, nhưng mặt trời được tham chiếu
tới trong lời kinh này là mặt trời tối cao mà từ đó mọi mặt trời
khác nhận ánh sáng. Tham chiếu này là tới mặt trời tối cao mà là
gốc rễ và là nguồn ánh sáng nguyên thuỷ - và từ đó toả ra tất cả
những tia sáng hoà trộn vào nhau trong vũ trụ. Toàn thể sự tồn tại
là việc biểu lộ của mặt trời này.

Nhớ lấy, cuộc sống, sự tồn tại, không tránh khỏi được móc
nối với các tia sáng của mặt trời này. Hiện tại các nhà khoa học
đang rất lo nghĩ bởi vì họ sợ rằng mặt trời của chúng ta sẽ lạnh
dần đi trong ba hay bốn triệu năm nữa. Nó đã phóng ra các tia
sáng của nó đủ lâu rồi và đang mất việc phát sáng của nó. Nó bây
giờ là một ngôi sao vàng vọt có các tia sáng đang giảm bớt mọi
ngày. Nhiều nhất, họ nói, nó sẽ toả sáng trong bốn triệu năm nữa,
và rồi một ngày nào đó nó sẽ hoàn toàn lạnh đi và cuộc sống trên
trái đất sẽ trở nên tắt ngấm, bởi vì toàn thể sự tồn tại phụ thuộc
vào các tia sáng của mặt trời. Toàn thể sự tồn tại - hoa nở, chim
hót, sự rộn ràng của cuộc sống con người - đều phụ thuộc vào tia
sáng mặt trời.

Trong lời kinh này đã mô tả về mặt trời vĩ đại mà với nó sự
tồn tại của mọi mặt trời khác đều được nối lại. Mặt trời vĩ đại này
không bao giờ có thể được đạt tới bởi cuộc hành trình và tìm
kiếm bên ngoài của chúng ta. Như tôi đã nói với các bạn sáng
nay, mặt trời của chúng ta là Brahman biểu hiện. Mặt trời vĩ đại được mô tả ở đây
là Brahman không biểu hiện. Nó là hạt mầm-
Brahman. Toàn thể sự tồn tại này là sự mở rộng của cội nguồn
không biểu hiện đó. Từ nó toàn thể vũ trụ này với các phẩm chất
và hình dạng đang mở rộng và được tạo ra.

Hiền nhân này cầu nguyện ở đây, “Hỡi mặt trời, xin rút về
mạng lưới các tia sáng của ngài.” Nhiều điều được hàm ý trong
việc thu về các tia sáng của mặt trời, bởi vì toàn thể sự mở rộng
của sự tồn tại được móc nối với chúng. Hiền nhân này nói ở đây,
“Con đã vượt qua cái chết, hỡi mặt trời; bây giờ xin ngài thu về
chính sự trải rộng của sự tồn tại của ngài.” Cũng hệt như tôi đã
bảo các bạn: “Tôi đã vượt qua bóng tối, bây giờ xin thu ánh sáng
nữa!” Trong lời kinh này, hiền nhân đó cầu nguyện mặt trời vĩ
đại đó rút về tất cả sự mở rộng của cuộc sống vào trong bản thân
nó. “Con đã siêu việt lên trên cái chết, bây giờ con ước ao siêu
việt lên trên sự sống nữa.”

Đây thực sự là khao khát siêu việt lên mọi nhị nguyên, bởi vì
chừng nào nhị nguyên còn dai dẳng cái khác bao giờ cũng hiện
diện, dù chúng ta đạt được bất kì cái gì. Dù chúng ta có thể tìm
thấy sống nhiều đến đâu, chết bao giờ cũng sẽ đi kèm nó. Đấy là
nhị nguyên, đấy là phía bên kia của cùng một đồng tiền. Không
thể giữ mặt này của đồng tiền và vứt đi mặt kia. Mọi điều chúng
ta có thể làm là giữ cho mặt này úp xuống và mặt kia lộ ra.
Nhưng mặt bị ẩn kín đấy vẫn đang đợi để lật lên, chỉ bởi vì nó có
đấy - nó không đi đâu mất .

Không ai có thể vứt mặt này và giữ mặt kia đồng thời, nhưng
qua cuộc đời mình con người hành xử ngốc nghếch dường như
điều này có thể được. Người đó cầu nguyện, “Xin Thượng đế
cứu con khỏi khổ và cho con hạnh phúc.” Chúng là hai mặt của
cùng một đồng tiền. Người đó muốn giữ lại hạnh phúc nhưng
không hiểu rõ rằng bất hạnh chắc chắn sẽ theo sau nó. Người đó
cầu nguyện được tôn kính và trọng vọng, không thấy rằng bất
kính có theo sau. Người đó cầu nguyện, “Con không muốn chết,
con muốn sống,” và trong cầu nguyện cho sống, người đó quên
mất rằng chết chắc chắn theo sau nó. Trong thế giới này khi một
người đòi hỏi cái này, người đó nhận được cái khác mà không
hỏi xin về nó.

Bạn phải sẵn lòng chấp nhận cả hai hoặc không cái nào. Bất
kì ai sẵn lòng chấp nhận cả hai đều trở nên tự do với cả hai; và
bất kì ai được chuẩn bị để bỏ cả hai cũng trở thành tự do với cả
hai. Sẵn sàng chấp nhận cả sống và chết là không nắm giữ ưa
thích sống và không ghét chết. Không nắm giữ ưa thích sống,
người ta được giải thoát. Sướng nào có đó trong sướng và khổ
nào có đó trong khổ đối với người đã chấp nhận cả sướng và
khổ? Cả hai phủ định lẫn nhau khi cả hai được sẵn lòng chấp
nhận và cái trống rỗng được tạo ra.
Người nói, “Tôi sẵn lòng từ bỏ cả hạnh phúc và bất hạnh,”
cũng vượt ra ngoài chúng. Nhưng tâm trí thuyết phục chúng ta bỏ
bất hạnh và giữ hạnh phúc. Có nhiều cách để phá vỡ hình mẫu
này của tâm trí: hoặc là được chuẩn bị để chấp nhận cả hai, hoặc
trở nên dửng dưng với cả hai. Tính phân cực của chúng, sự đối
lập lẫn nhau của chúng là đồng thời; chúng là các khía cạnh của
một và cùng một sự tồn tại. Cho nên hiền nhân này nói, “Xin rút
các tia sáng của ngài lại, hỡi mặt trời, để cho tất cả cuộc sống có
thể được kéo vào và co vào trong.”

Mọi thứ đi ra từ mặt trời vĩ đại này. Cho nên nếu chúng ta
hiểu đúng khát khao của hiền nhân này, nó là thế này: “Con khát
khao thấy cái mà từ đó mọi thứ đi ra, và cái mà mọi thứ bị kéo
vào. Con ham muốn thấy cái gốc rễ, cái nguyên thuỷ. Con khao
khát thấy cái mà từ đó toàn thể vũ trụ này được tạo ra và cái mà
vũ trụ này, trong triệt tiêu tối hậu của nó, bị hấp thu vào; cái mà
từ đó sự mở rộng mênh mông của sự tồn tại này trải ra và cái mà
việc huỷ diệt vĩ đại kéo tất cả nó lại.”

Chính bởi lí do này mà mặt trời cũng còn được coi là Yama -
thần chết. Nhớ điều này trong trí: Yama là thần của chết và mặt
trời là thần của sống. Nhưng nhớ lấy, chết đến từ cùng chỗ mà
sống tới. Chết không đến từ bất kì chỗ nào khác, bởi vì hai điều
này không thể bị tách rời. Không phải là sống tới từ chỗ này và
chết đến từ chỗ khác. Nếu mà như thế chúng ta sẽ giữ sống và bỏ
chết. Cho nên mặt trời cũng được gọi là Yama nữa. Từ yama là
hữu dụng theo các nghĩa khác nữa. Những người đặt tên cái chết
là Yama đều là những người xuất sắc. Từ yama có nghĩa là người
kiểm soát. Họ đã gọi cái chết là người kiểm soát sự sống. Nếu cái
chết không phải là để kiểm soát sự sống, thế thì sẽ có hỗn loạn và
lẫn lộn lớn. Cái chết tới và làm yên tĩnh mọi mối bất hoà. Chết là
nghỉ ngơi. Hệt như một người ngủ và nghỉ ban đêm sau lao động
ban ngày vất vả, cho nên chết cho chúng ta nghỉ ngơi.

Sẽ có hỗn độn lớn trong cuộc sống của bạn nếu bạn không
ngủ năm hay mười ngày. Bộ não bạn sẽ bị bối rối, khuấy động,
mất trật tự. Ngủ ban đêm cứu bạn khỏi đau khổ và khuấy động
này. Nó cho bạn trật tự và làm bạn tươi tỉnh vào buổi sáng. Khi
nhìn sâu hơn vào cái chết, người ta thấy rằng nó giống như việc
nghỉ ban đêm vào cuối cuộc đời lộn xộn và bất ổn - việc giải lao
từ cuộc sống lao động vất vả làm bạn tươi tắn cho việc bừng lên
một cuộc sống mới. Do đó thần chết được gọi là Yama. Thần
kiểm soát và đem trật tự cho cuộc sống. Nếu thần không có đó,
cuộc sống sẽ là điều thách đố và lẫn lộn. Chết không phải là kẻ
thù của sống. Yama tuyên bố chết là bạn của sống. Nếu chết
không có đó, cuộc sống của chúng ta sẽ điên khùng và hỗn độn.
Bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu bạn nhìn vào hiện tượng này từ
những cảnh quan khác, bởi vì ngụ ý lớn hơn của nó nhiều hoa nở
ra - nhiều hướng dẫn có giá trị. Nếu một người thấy thừa thãi
sướng và không có khổ chút nào, người đó sẽ phát điên. Phát
biểu này có vẻ kì lạ, khó hiểu thấu điều ấy. Nếu bạn có sướng
không trộn lẫn với khổ, thế thì sướng sẽ hướng bạn thành mất trí.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng có vài người trên cung trăng
trong các xã hội nghèo và khổ. Có nhiều người trên cung trăng
hơn trong các xã hội sung sướng và giầu có. Hiện tại, nước Mĩ có
số lượng người trên cung trăng lớn nhất trên trái đất. Điều gì đã
xảy ra?

Khổ là tác động giữ cân bằng, một bộ điều chỉnh. Chúng ta
cảm thấy gai nhọn trong hoa hồng như kẻ thù, nhưng chúng chỉ
là để bảo vệ hoa hồng, chúng là một loại bộ điều chỉnh. Cuộc
sống kiểm soát, điều chỉnh bản thân nó thông qua các cái đối lập;
qua các cái đối lập cân bằng được duy trì. Nếu bạn quan sát một
người đi trên dây, bạn có thể thấy sự kiện siêu hình trong thủ
thuật của anh ta. Chúng ta theo dõi, nhưng chúng ta không thấy.
Khi người đó đi trên dây, bạn sẽ thấy người đó giữ cân bằng bản
thân mình bằng một cây sào dài trong tay. Khi người đó đung
đưa cây sào về bên trái, đấy là để tránh ngã về bên phải, và khi
người đó có thể bị ngã về bên phải, người đó đung đưa cây sào
về bên trái. Do vậy người đó giữ cân bằng, ngăn mình khỏi bị
ngã bằng việc đung đưa sang phía đối diện. Đê duy trì cân bằng
người đó phải đung đưa sang phía đối diện.

Chết là nhân tố cân bằng của sống. Bất hạnh là nhân tố cân
bằng của hạnh phúc. Bóng tối là nhân tố cân bằng của ánh sáng.
Các đối tượng vật chất là nhân tố cân bằng của tâm thức. Đây là
điều làm cho những người đã gọi cái chết là Yama thành phi
thường. Chắc chắn là họ không có thù địch gì với chết. Họ biết
cái thực chất, chân lí của cái chết. Họ nói, “Chúng con biết rằng
ngài, cái chết, là người kiểm soát sống; nếu ngài không tồn tại sẽ
có hỗn loạn lớn.” Nghĩ một chút mà xem. Giả sử không ai chết
trong một ngôi nhà trong vài trăm năm; sẽ không cần đưa ai vào
nhà thương điên, bởi vì bản thân ngôi nhà ấy sẽ trở thành nhà
điên rồi. Một đằng người già qua đời và đằng kia trẻ con được
sinh ra; việc cân bằng giống như người đi trên dây đang tiếp diễn,
và sẽ tiếp tục vào mọi thời.

Do đó hiền nhân này nói, “Hỡi mặt trời vĩ đại, hỡi Yama,
ngài là người đem cho cuộc sống, ngài là người kiểm soát cân
bằng của sống và chết. Xin ngài rút lại mọi tia sáng của ngài. Xin
rút lại cuộc sống của ngài. Xin rút lại cả cái chết của ngài nữa.
Con muốn biết yếu tố nằm ngoài cả sống và chết, cái chưa bao
giờ sinh, chưa bao giờ chết. Con khao khát biết cội nguồn nguyên
thuỷ đó. Con khao khát biết khoảnh khắc đầu tiên đó khi không
có gì - khi đã có cái trống rỗng toàn bộ, từ cái không của nó mà
mọi thứ được tạo ra. Con khao khát biết khoảnh khắc tối thượng
khi mọi thứ sẽ lại bị hấp thu và cái không sẽ còn lại. Con khao
khát biết cái trống rỗng mà từ đó mọi thứ được sinh ra. Con khao
khát biết cái trống rỗng mà trong đó mọi thứ được hấp thu vào.
Con cầu nguyện ngài, xin rút tất cả sự thừa thãi tia sáng của
ngài.”

Chắc chắn đây không phải là lời cầu nguyện gửi tới bất kì
mặt trời nào được thấy bên ngoài. Đây là lời cầu nguyện được
đưa ra sau khi đạt tới chỗ đó bên trong, bên ngoài cái nằm ở đích
cuối cùng mà từ đó cần phải tiến hành cái nhảy vào vô thuỷ và vô
chung. Lời cầu nguyện này, “Hỡi mặt trời, xin rút lại mọi thứ
của ngài,” thuộc về khoảnh khắc này. Dũng cảm lớn lao, một sự
táo bạo cuối cùng được cần tới để làm ra lời cầu nguyện như thế,
bởi vì người ta có thể nghĩ, “Liệu mình có thể được cứu không, ở
nơi sống và chết bị co lại và mọi tia sáng của mặt trời vĩ đại đó
đã bị rút hết? Mình cũng sẽ bị diệt vong.”
Nhưng khát khao của hiền nhân là thế này: “Mình có thể
được cứu hay mình có thể bị diệt vong; điều này không còn là
vấn đề. Vấn đề chỉ là khao khát của mình để biết người bao giờ
cũng có đó. Mình khao khát biết người đang có đấy, ngay cả khi
mọi thứ đều bị mất đi và bị huỷ diệt. Mình cũng sẽ bị mất đi,
nhưng mình muốn biết cái không mất đi.”

Vô số người trong vô số thời đại đã đi tìm chân lí trong thế
giới này, nhưng không đâu trong thế giới này việc tìm kiếm như
thế đã được tiến hành như người ta đã làm qua mảnh đất bên
trong này. Không có thí dụ song song ở bất kì đâu trong thế giới
này về việc tìm kiếm tối hậu như thế và việc kiểm tra cuối cùng
như thế về lòng dũng cảm như một số nhà thám hiểm mảnh đất
bên trong này đã dám làm.
Ngay cả sau khi tiến hành việc điều tra lâu dài tôi đã không
có khả năng tìm ra những người sẵn lòng trở nên bị triệt tiêu
trong cuộc truy tìm chân lí của họ. Đã có nhiều người tìm kiếm
chân lí trên thế giới này nêu ra một điều kiện, “Bằng việc cứu
bản thân mình, tôi muốn biết chân lí.” Nhưng chừng nào “tôi’
còn được cứu, bạn sẽ chỉ biết thế giới này - luân hồi - vì ‘tôi’ là
một phần và một gói của thế giới. Nếu ai đó bảo những người tìm
kiếm như Aristotle, Hegel và Kant, “Ông sẽ có khả năng biết
chân lí nếu ông tìm bên trong bản thân ông,” những người như
thế sẽ đáp, “Mục đích gì có đó trong việc biết chân lí như thế?
Đâu là cái dụng của việc biết chân lí mà triệt tiêu chúng ta?” Tìm
kiếm của họ là với một điều kiện này: “Chúng tôi muốn cứu bản
thân chúng tôi và biết chân lí.”

Những người, khi đi tìm chân lí, cũng thăm dò bảo toàn bản
thân họ, không bao giờ biết chân lí; thay vì thế họ bịa đặt ra nó.
Họ chế tạo ra chân lí. Đó là lí do tại sao Hegel viết những cuốn
sách dài còn Kant đề nghị những lí thuyết và nguyên lí sâu sắc và
tinh vi về chân lí. Nhưng tuyệt đối không có giá trị gì, không
quan trọng gì, trong bài viết và các nguyên tắc đó của những
người không được chuẩn bị để tìm kiếm cái ta. Nếu bạn hỏi Kant
hay Hegel về ý kiến của họ đối với hiền nhân này của Upanishad,
họ sẽ nói, “Ông ta là người cung trăng. Giá trị nào có đó nếu ông
mất bản thân mình khi đạt tới chân lí?”

Nhưng hiểu biết của hiền nhân này là sâu lắng và sâu sắc.
Ông ấy nói, “‘Tôi’ là một phần và một mảnh của cái phi chân lí,
một phần của thế giới, của luân hồi. Nếu con ham muốn rằng sự
tồn tại trần tục này mất đi, rằng chân lí tới với con, và rằng cái
‘tôi’ của con ở bên trong vẫn còn không bị động chạm tới, thế thì
con đang cố gắng làm điều không thể được. Nếu sự tồn tại trần
tục này mà mất đi, nó phải đi mất hoàn toàn - từ bên trong cũng
như từ bên ngoài. Một mặt, các đối tượng bên ngoài phải biến
mất, và mặt khác, cái ‘tôi’ bên trong phải biến mất. Hình dạng
bên ngoài và hình dạng bên trong phải trôi mất, để lại cái trống
rỗng bên trong và bên ngoài. Do đó nếu chân lí được tìm thấy,
điều kiện không tránh khỏi cho việc đó là làm mất bản thân
người ta. Con cầu nguyện ngài, hỡi mặt trời vĩ đại, thiêu đốt mọi
thứ của ngài một cách vô điều kiện. Xin rút lai toàn thể sự mở
rộng của ngài. Trở về hạt mầm nguyên thuỷ của ngài. Trở về chỗ
không có gì, để cho con có thể có khả năng biết được cái mà từ
đó mọi thứ tiến triển!”

Đây là bước nhảy tối thượng. Khi một người thu được dũng
cảm cho bước nhảy này, người đó trở thành một với chân lí tối
cao. Không thể trở thành một với chân lí tối cao mà không làm
mất bản thân mình. Do đó các nhà triết học phương Tây, trong nỗ
lực của họ để tìm kiếm chân lí, đã không có khả năng vượt ra
ngoài chân lí vật chất, con người. Chân lí của họ là việc tìm kiếm
về con người; đấy không phải là về sự tồn tại, nó chỉ nói đến con
người. Việc tìm kiếm của hiền nhân phương Đông không phải về
chân lí con người, vật chất mà là về chân lí mang tính tồn tại.
Người đó nói, “Ông có bao giờ biết được về đại dương chỉ bằng
việc đứng trên bờ của nó không? Tôi sẽ biết nó bằng việc chìm
vào trong nó.” Nhưng ngay cả khi chìm vào trong nó chúng ta
cũng không hội nhập vào trong nó hoàn toàn - chúng ta và đại
dương vẫn còn tách biệt.

Cho nên hiền nhân này nói, “Vì đây là trường hợp, nên tôi sẽ
trở thành một hình nộm làm bằng muối để cho tôi có thể tan biến
vào trong nó. Tôi sẽ biết đại dương bằng cách hội nhập vào trong
nó - bởi việc là bản thân đại dương. Tôi sẽ là một với đại dương.
Tôi sẽ mặn như nó mặn. Tôi sẽ là nước như nó là nước. Tôi sẽ là
một con sóng trong những con sóng của nó. Tôi sẽ là chiều sâu
vô tận trong các chiều sâu vô tận của nó. Thế thì và chỉ thế thì tôi
sẽ có khả năng biết nó.”

Không thể biết được nó trước tất cả những điều này. Trước
điều này, chúng ta có thể có quen biết nào đó với nó nhưng
không phải là tri thức mang tính tồn tại. Đứng trên bờ, chúng ta
chỉ trở nên quen biết với đại dương. Để biết nó, chúng ta phải tan
biến vào trong nó.

Đủ cho hôm nay.
Bây giờ chúng ta tự chuẩn bị để tan biến.
Hỡi mặt trời, người nuôi dưỡng và người hỗ trợ cho thế giới,
Hỡi lữ khách đơn độc trên bầu trời, Hỡi Yama, hỡi mặt trời, hỡi mặt trời của Brahman,
Con xin cầu khẩn ngài rút lại các tia sáng. Con thấy hình ngài, tràn đầy ân huệ và hào hiệp.
Con là người đang ngồi trong vòng tròn của các mặt trời.

Chúng ta quen thuộc với một mặt trời chúng ta vẫn thấy trên
bầu trời, nhưng có vô số mặt trời như mặt trời của chúng ta. Khi
đêm tới bầu trời đầy sao. Mặc dầu chúng ta gọi chúng là sao
nhưng chúng tất cả đều là mặt trời, nhưng bởi vì ở quá xa chúng
trông nhỏ bé. Mặt trời của chúng ta không lớn lắm đâu. Trong vô
số mặt trời nó có kích cỡ trung bình. Có những mặt trời lớn hơn
nhiều trong vũ trụ. Một tính toán của các nhà khoa học ước lượng
rằng có quãng bốn mươi triệu mặt trời. Kinh nghiệm của các hiền
nhân là ở chỗ có vô số mặt trời, nhưng mặt trời được tham chiếu
tới trong lời kinh này là mặt trời tối cao mà từ đó mọi mặt trời
khác nhận ánh sáng. Tham chiếu này là tới mặt trời tối cao mà là
gốc rễ và là nguồn ánh sáng nguyên thuỷ - và từ đó toả ra tất cả
những tia sáng hoà trộn vào nhau trong vũ trụ. Toàn thể sự tồn tại
là việc biểu lộ của mặt trời này.

Nhớ lấy, cuộc sống, sự tồn tại, không tránh khỏi được móc
nối với các tia sáng của mặt trời này. Hiện tại các nhà khoa học
đang rất lo nghĩ bởi vì họ sợ rằng mặt trời của chúng ta sẽ lạnh
dần đi trong ba hay bốn triệu năm nữa. Nó đã phóng ra các tia
sáng của nó đủ lâu rồi và đang mất việc phát sáng của nó. Nó bây
giờ là một ngôi sao vàng vọt có các tia sáng đang giảm bớt mọi
ngày. Nhiều nhất, họ nói, nó sẽ toả sáng trong bốn triệu năm nữa,
và rồi một ngày nào đó nó sẽ hoàn toàn lạnh đi và cuộc sống trên
trái đất sẽ trở nên tắt ngấm, bởi vì toàn thể sự tồn tại phụ thuộc
vào các tia sáng của mặt trời. Toàn thể sự tồn tại - hoa nở, chim
hót, sự rộn ràng của cuộc sống con người - đều phụ thuộc vào tia
sáng mặt trời.

Trong lời kinh này đã mô tả về mặt trời vĩ đại mà với nó sự
tồn tại của mọi mặt trời khác đều được nối lại. Mặt trời vĩ đại này
không bao giờ có thể được đạt tới bởi cuộc hành trình và tìm
kiếm bên ngoài của chúng ta. Như tôi đã nói với các bạn sáng
nay, mặt trời của chúng ta là Brahman biểu hiện. Mặt trời vĩ đại được mô tả ở đây
là Brahman không biểu hiện. Nó là hạt mầm-
Brahman. Toàn thể sự tồn tại này là sự mở rộng của cội nguồn
không biểu hiện đó. Từ nó toàn thể vũ trụ này với các phẩm chất
và hình dạng đang mở rộng và được tạo ra.

Hiền nhân này cầu nguyện ở đây, “Hỡi mặt trời, xin rút về
mạng lưới các tia sáng của ngài.” Nhiều điều được hàm ý trong
việc thu về các tia sáng của mặt trời, bởi vì toàn thể sự mở rộng
của sự tồn tại được móc nối với chúng. Hiền nhân này nói ở đây,
“Con đã vượt qua cái chết, hỡi mặt trời; bây giờ xin ngài thu về
chính sự trải rộng của sự tồn tại của ngài.” Cũng hệt như tôi đã
bảo các bạn: “Tôi đã vượt qua bóng tối, bây giờ xin thu ánh sáng
nữa!” Trong lời kinh này, hiền nhân đó cầu nguyện mặt trời vĩ
đại đó rút về tất cả sự mở rộng của cuộc sống vào trong bản thân
nó. “Con đã siêu việt lên trên cái chết, bây giờ con ước ao siêu
việt lên trên sự sống nữa.”

Đây thực sự là khao khát siêu việt lên mọi nhị nguyên, bởi vì
chừng nào nhị nguyên còn dai dẳng cái khác bao giờ cũng hiện
diện, dù chúng ta đạt được bất kì cái gì. Dù chúng ta có thể tìm
thấy sống nhiều đến đâu, chết bao giờ cũng sẽ đi kèm nó. Đấy là
nhị nguyên, đấy là phía bên kia của cùng một đồng tiền. Không
thể giữ mặt này của đồng tiền và vứt đi mặt kia. Mọi điều chúng
ta có thể làm là giữ cho mặt này úp xuống và mặt kia lộ ra.
Nhưng mặt bị ẩn kín đấy vẫn đang đợi để lật lên, chỉ bởi vì nó có
đấy - nó không đi đâu mất .

Không ai có thể vứt mặt này và giữ mặt kia đồng thời, nhưng
qua cuộc đời mình con người hành xử ngốc nghếch dường như
điều này có thể được. Người đó cầu nguyện, “Xin Thượng đế
cứu con khỏi khổ và cho con hạnh phúc.” Chúng là hai mặt của
cùng một đồng tiền. Người đó muốn giữ lại hạnh phúc nhưng
không hiểu rõ rằng bất hạnh chắc chắn sẽ theo sau nó. Người đó
cầu nguyện được tôn kính và trọng vọng, không thấy rằng bất
kính có theo sau. Người đó cầu nguyện, “Con không muốn chết,
con muốn sống,” và trong cầu nguyện cho sống, người đó quên
mất rằng chết chắc chắn theo sau nó. Trong thế giới này khi một
người đòi hỏi cái này, người đó nhận được cái khác mà không
hỏi xin về nó.

Bạn phải sẵn lòng chấp nhận cả hai hoặc không cái nào. Bất
kì ai sẵn lòng chấp nhận cả hai đều trở nên tự do với cả hai; và
bất kì ai được chuẩn bị để bỏ cả hai cũng trở thành tự do với cả
hai. Sẵn sàng chấp nhận cả sống và chết là không nắm giữ ưa
thích sống và không ghét chết. Không nắm giữ ưa thích sống,
người ta được giải thoát. Sướng nào có đó trong sướng và khổ
nào có đó trong khổ đối với người đã chấp nhận cả sướng và
khổ? Cả hai phủ định lẫn nhau khi cả hai được sẵn lòng chấp
nhận và cái trống rỗng được tạo ra.
Người nói, “Tôi sẵn lòng từ bỏ cả hạnh phúc và bất hạnh,”
cũng vượt ra ngoài chúng. Nhưng tâm trí thuyết phục chúng ta bỏ
bất hạnh và giữ hạnh phúc. Có nhiều cách để phá vỡ hình mẫu
này của tâm trí: hoặc là được chuẩn bị để chấp nhận cả hai, hoặc
trở nên dửng dưng với cả hai. Tính phân cực của chúng, sự đối
lập lẫn nhau của chúng là đồng thời; chúng là các khía cạnh của
một và cùng một sự tồn tại. Cho nên hiền nhân này nói, “Xin rút
các tia sáng của ngài lại, hỡi mặt trời, để cho tất cả cuộc sống có
thể được kéo vào và co vào trong.”

Mọi thứ đi ra từ mặt trời vĩ đại này. Cho nên nếu chúng ta
hiểu đúng khát khao của hiền nhân này, nó là thế này: “Con khát
khao thấy cái mà từ đó mọi thứ đi ra, và cái mà mọi thứ bị kéo
vào. Con ham muốn thấy cái gốc rễ, cái nguyên thuỷ. Con khao
khát thấy cái mà từ đó toàn thể vũ trụ này được tạo ra và cái mà
vũ trụ này, trong triệt tiêu tối hậu của nó, bị hấp thu vào; cái mà
từ đó sự mở rộng mênh mông của sự tồn tại này trải ra và cái mà
việc huỷ diệt vĩ đại kéo tất cả nó lại.”

Chính bởi lí do này mà mặt trời cũng còn được coi là Yama -
thần chết. Nhớ điều này trong trí: Yama là thần của chết và mặt
trời là thần của sống. Nhưng nhớ lấy, chết đến từ cùng chỗ mà
sống tới. Chết không đến từ bất kì chỗ nào khác, bởi vì hai điều
này không thể bị tách rời. Không phải là sống tới từ chỗ này và
chết đến từ chỗ khác. Nếu mà như thế chúng ta sẽ giữ sống và bỏ
chết. Cho nên mặt trời cũng được gọi là Yama nữa. Từ yama là
hữu dụng theo các nghĩa khác nữa. Những người đặt tên cái chết
là Yama đều là những người xuất sắc. Từ yama có nghĩa là người
kiểm soát. Họ đã gọi cái chết là người kiểm soát sự sống. Nếu cái
chết không phải là để kiểm soát sự sống, thế thì sẽ có hỗn loạn và
lẫn lộn lớn. Cái chết tới và làm yên tĩnh mọi mối bất hoà. Chết là
nghỉ ngơi. Hệt như một người ngủ và nghỉ ban đêm sau lao động
ban ngày vất vả, cho nên chết cho chúng ta nghỉ ngơi.

Sẽ có hỗn độn lớn trong cuộc sống của bạn nếu bạn không
ngủ năm hay mười ngày. Bộ não bạn sẽ bị bối rối, khuấy động,
mất trật tự. Ngủ ban đêm cứu bạn khỏi đau khổ và khuấy động
này. Nó cho bạn trật tự và làm bạn tươi tỉnh vào buổi sáng. Khi
nhìn sâu hơn vào cái chết, người ta thấy rằng nó giống như việc
nghỉ ban đêm vào cuối cuộc đời lộn xộn và bất ổn - việc giải lao
từ cuộc sống lao động vất vả làm bạn tươi tắn cho việc bừng lên
một cuộc sống mới. Do đó thần chết được gọi là Yama. Thần
kiểm soát và đem trật tự cho cuộc sống. Nếu thần không có đó,
cuộc sống sẽ là điều thách đố và lẫn lộn. Chết không phải là kẻ
thù của sống. Yama tuyên bố chết là bạn của sống. Nếu chết
không có đó, cuộc sống của chúng ta sẽ điên khùng và hỗn độn.
Bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu bạn nhìn vào hiện tượng này từ
những cảnh quan khác, bởi vì ngụ ý lớn hơn của nó nhiều hoa nở
ra - nhiều hướng dẫn có giá trị. Nếu một người thấy thừa thãi
sướng và không có khổ chút nào, người đó sẽ phát điên. Phát
biểu này có vẻ kì lạ, khó hiểu thấu điều ấy. Nếu bạn có sướng
không trộn lẫn với khổ, thế thì sướng sẽ hướng bạn thành mất trí.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng có vài người trên cung trăng
trong các xã hội nghèo và khổ. Có nhiều người trên cung trăng
hơn trong các xã hội sung sướng và giầu có. Hiện tại, nước Mĩ có
số lượng người trên cung trăng lớn nhất trên trái đất. Điều gì đã
xảy ra?

Khổ là tác động giữ cân bằng, một bộ điều chỉnh. Chúng ta
cảm thấy gai nhọn trong hoa hồng như kẻ thù, nhưng chúng chỉ
là để bảo vệ hoa hồng, chúng là một loại bộ điều chỉnh. Cuộc
sống kiểm soát, điều chỉnh bản thân nó thông qua các cái đối lập;
qua các cái đối lập cân bằng được duy trì. Nếu bạn quan sát một
người đi trên dây, bạn có thể thấy sự kiện siêu hình trong thủ
thuật của anh ta. Chúng ta theo dõi, nhưng chúng ta không thấy.
Khi người đó đi trên dây, bạn sẽ thấy người đó giữ cân bằng bản
thân mình bằng một cây sào dài trong tay. Khi người đó đung
đưa cây sào về bên trái, đấy là để tránh ngã về bên phải, và khi
người đó có thể bị ngã về bên phải, người đó đung đưa cây sào
về bên trái. Do vậy người đó giữ cân bằng, ngăn mình khỏi bị
ngã bằng việc đung đưa sang phía đối diện. Đê duy trì cân bằng
người đó phải đung đưa sang phía đối diện.

Chết là nhân tố cân bằng của sống. Bất hạnh là nhân tố cân
bằng của hạnh phúc. Bóng tối là nhân tố cân bằng của ánh sáng.
Các đối tượng vật chất là nhân tố cân bằng của tâm thức. Đây là
điều làm cho những người đã gọi cái chết là Yama thành phi
thường. Chắc chắn là họ không có thù địch gì với chết. Họ biết
cái thực chất, chân lí của cái chết. Họ nói, “Chúng con biết rằng
ngài, cái chết, là người kiểm soát sống; nếu ngài không tồn tại sẽ
có hỗn loạn lớn.” Nghĩ một chút mà xem. Giả sử không ai chết
trong một ngôi nhà trong vài trăm năm; sẽ không cần đưa ai vào
nhà thương điên, bởi vì bản thân ngôi nhà ấy sẽ trở thành nhà
điên rồi. Một đằng người già qua đời và đằng kia trẻ con được
sinh ra; việc cân bằng giống như người đi trên dây đang tiếp diễn,
và sẽ tiếp tục vào mọi thời.

Do đó hiền nhân này nói, “Hỡi mặt trời vĩ đại, hỡi Yama,
ngài là người đem cho cuộc sống, ngài là người kiểm soát cân
bằng của sống và chết. Xin ngài rút lại mọi tia sáng của ngài. Xin
rút lại cuộc sống của ngài. Xin rút lại cả cái chết của ngài nữa.
Con muốn biết yếu tố nằm ngoài cả sống và chết, cái chưa bao
giờ sinh, chưa bao giờ chết. Con khao khát biết cội nguồn nguyên
thuỷ đó. Con khao khát biết khoảnh khắc đầu tiên đó khi không
có gì - khi đã có cái trống rỗng toàn bộ, từ cái không của nó mà
mọi thứ được tạo ra. Con khao khát biết khoảnh khắc tối thượng
khi mọi thứ sẽ lại bị hấp thu và cái không sẽ còn lại. Con khao
khát biết cái trống rỗng mà từ đó mọi thứ được sinh ra. Con khao
khát biết cái trống rỗng mà trong đó mọi thứ được hấp thu vào.
Con cầu nguyện ngài, xin rút tất cả sự thừa thãi tia sáng của
ngài.”

Chắc chắn đây không phải là lời cầu nguyện gửi tới bất kì
mặt trời nào được thấy bên ngoài. Đây là lời cầu nguyện được
đưa ra sau khi đạt tới chỗ đó bên trong, bên ngoài cái nằm ở đích
cuối cùng mà từ đó cần phải tiến hành cái nhảy vào vô thuỷ và vô
chung. Lời cầu nguyện này, “Hỡi mặt trời, xin rút lại mọi thứ
của ngài,” thuộc về khoảnh khắc này. Dũng cảm lớn lao, một sự
táo bạo cuối cùng được cần tới để làm ra lời cầu nguyện như thế,
bởi vì người ta có thể nghĩ, “Liệu mình có thể được cứu không, ở
nơi sống và chết bị co lại và mọi tia sáng của mặt trời vĩ đại đó
đã bị rút hết? Mình cũng sẽ bị diệt vong.”
Nhưng khát khao của hiền nhân là thế này: “Mình có thể
được cứu hay mình có thể bị diệt vong; điều này không còn là
vấn đề. Vấn đề chỉ là khao khát của mình để biết người bao giờ
cũng có đó. Mình khao khát biết người đang có đấy, ngay cả khi
mọi thứ đều bị mất đi và bị huỷ diệt. Mình cũng sẽ bị mất đi,
nhưng mình muốn biết cái không mất đi.”

Vô số người trong vô số thời đại đã đi tìm chân lí trong thế
giới này, nhưng không đâu trong thế giới này việc tìm kiếm như
thế đã được tiến hành như người ta đã làm qua mảnh đất bên
trong này. Không có thí dụ song song ở bất kì đâu trong thế giới
này về việc tìm kiếm tối hậu như thế và việc kiểm tra cuối cùng
như thế về lòng dũng cảm như một số nhà thám hiểm mảnh đất
bên trong này đã dám làm.
Ngay cả sau khi tiến hành việc điều tra lâu dài tôi đã không
có khả năng tìm ra những người sẵn lòng trở nên bị triệt tiêu
trong cuộc truy tìm chân lí của họ. Đã có nhiều người tìm kiếm
chân lí trên thế giới này nêu ra một điều kiện, “Bằng việc cứu
bản thân mình, tôi muốn biết chân lí.” Nhưng chừng nào “tôi’
còn được cứu, bạn sẽ chỉ biết thế giới này - luân hồi - vì ‘tôi’ là
một phần và một gói của thế giới. Nếu ai đó bảo những người tìm
kiếm như Aristotle, Hegel và Kant, “Ông sẽ có khả năng biết
chân lí nếu ông tìm bên trong bản thân ông,” những người như
thế sẽ đáp, “Mục đích gì có đó trong việc biết chân lí như thế?
Đâu là cái dụng của việc biết chân lí mà triệt tiêu chúng ta?” Tìm
kiếm của họ là với một điều kiện này: “Chúng tôi muốn cứu bản
thân chúng tôi và biết chân lí.”

Những người, khi đi tìm chân lí, cũng thăm dò bảo toàn bản
thân họ, không bao giờ biết chân lí; thay vì thế họ bịa đặt ra nó.
Họ chế tạo ra chân lí. Đó là lí do tại sao Hegel viết những cuốn
sách dài còn Kant đề nghị những lí thuyết và nguyên lí sâu sắc và
tinh vi về chân lí. Nhưng tuyệt đối không có giá trị gì, không
quan trọng gì, trong bài viết và các nguyên tắc đó của những
người không được chuẩn bị để tìm kiếm cái ta. Nếu bạn hỏi Kant
hay Hegel về ý kiến của họ đối với hiền nhân này của Upanishad,
họ sẽ nói, “Ông ta là người cung trăng. Giá trị nào có đó nếu ông
mất bản thân mình khi đạt tới chân lí?”

Nhưng hiểu biết của hiền nhân này là sâu lắng và sâu sắc.
Ông ấy nói, “‘Tôi’ là một phần và một mảnh của cái phi chân lí,
một phần của thế giới, của luân hồi. Nếu con ham muốn rằng sự
tồn tại trần tục này mất đi, rằng chân lí tới với con, và rằng cái
‘tôi’ của con ở bên trong vẫn còn không bị động chạm tới, thế thì
con đang cố gắng làm điều không thể được. Nếu sự tồn tại trần
tục này mà mất đi, nó phải đi mất hoàn toàn - từ bên trong cũng
như từ bên ngoài. Một mặt, các đối tượng bên ngoài phải biến
mất, và mặt khác, cái ‘tôi’ bên trong phải biến mất. Hình dạng
bên ngoài và hình dạng bên trong phải trôi mất, để lại cái trống
rỗng bên trong và bên ngoài. Do đó nếu chân lí được tìm thấy,
điều kiện không tránh khỏi cho việc đó là làm mất bản thân
người ta. Con cầu nguyện ngài, hỡi mặt trời vĩ đại, thiêu đốt mọi
thứ của ngài một cách vô điều kiện. Xin rút lai toàn thể sự mở
rộng của ngài. Trở về hạt mầm nguyên thuỷ của ngài. Trở về chỗ
không có gì, để cho con có thể có khả năng biết được cái mà từ
đó mọi thứ tiến triển!”

Đây là bước nhảy tối thượng. Khi một người thu được dũng
cảm cho bước nhảy này, người đó trở thành một với chân lí tối
cao. Không thể trở thành một với chân lí tối cao mà không làm
mất bản thân mình. Do đó các nhà triết học phương Tây, trong nỗ
lực của họ để tìm kiếm chân lí, đã không có khả năng vượt ra
ngoài chân lí vật chất, con người. Chân lí của họ là việc tìm kiếm
về con người; đấy không phải là về sự tồn tại, nó chỉ nói đến con
người. Việc tìm kiếm của hiền nhân phương Đông không phải về
chân lí con người, vật chất mà là về chân lí mang tính tồn tại.
Người đó nói, “Ông có bao giờ biết được về đại dương chỉ bằng
việc đứng trên bờ của nó không? Tôi sẽ biết nó bằng việc chìm
vào trong nó.” Nhưng ngay cả khi chìm vào trong nó chúng ta
cũng không hội nhập vào trong nó hoàn toàn - chúng ta và đại
dương vẫn còn tách biệt.

Cho nên hiền nhân này nói, “Vì đây là trường hợp, nên tôi sẽ
trở thành một hình nộm làm bằng muối để cho tôi có thể tan biến
vào trong nó. Tôi sẽ biết đại dương bằng cách hội nhập vào trong
nó - bởi việc là bản thân đại dương. Tôi sẽ là một với đại dương.
Tôi sẽ mặn như nó mặn. Tôi sẽ là nước như nó là nước. Tôi sẽ là
một con sóng trong những con sóng của nó. Tôi sẽ là chiều sâu
vô tận trong các chiều sâu vô tận của nó. Thế thì và chỉ thế thì tôi
sẽ có khả năng biết nó.”

Không thể biết được nó trước tất cả những điều này. Trước
điều này, chúng ta có thể có quen biết nào đó với nó nhưng
không phải là tri thức mang tính tồn tại. Đứng trên bờ, chúng ta
chỉ trở nên quen biết với đại dương. Để biết nó, chúng ta phải tan
biến vào trong nó.

Đủ cho hôm nay.
Bây giờ chúng ta tự chuẩn bị để tan biến.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến