Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2012

Cột mốc số không

Yếu tố tâm linh cao nhất đó,atman, có bản chất không đổi thay,và có chuyển động nhanh hơn tâm trí.Các giác quan không thể với tới nó,vì nó đứng trước tất cả chúng.
Trong sự tĩnh lặng của nó,nó vượt qua mọi thứ chuyển động.Chỉ trong sự hiện diện của nó mà khí sắc cai quản mọi hoạt động của mọi sinh linh.

Trong tĩnh lặng của mình, atman - yếu tố tâm linh cao nhất -
là cái nhanh nhất trong các cái nhanh. Nó vượt qua sự chuyển
động của các giác quan và của tâm trí bởi vì nó cao hơn cả hai.
Nó có đấy trước khi cả hai thứ này được tạo ra. Nó ở bên ngoài
cả hai.
Rất cần thiết và hữu dụng cho người tìm kiếm để hiểu lời
kinh này. Điều thứ nhất là ở chỗ chúng ta dốt nát về yếu tố tâm
linh cao nhất này; chúng ta không có bất kì tri thức nào về nó. Nó
là chúng ta, vậy mà chúng ta không biết gì về nó chút nào. Nó là
chiều sâu tối thượng của tâm thức chúng ta, từ nơi con người
chúng ta được sinh ra và phát triển.

Nếu bạn tưởng tượng bản thân mình như một cây, việc hiểu
biết sẽ được làm thành dễ dàng. Lá trên cây lan rộng trên bầu
trời; sau lá là cành nằm lẩn khuất, và tận cùng của cành là phần
chóp của cây. Cây cũng có rễ ăn phía dưới, ẩn trong đất sâu.
Không quá khó cho cây để tin rằng nó chỉ là lá, vì rễ là không
thấy được; chúng bị ẩn sâu trong đất. Cho nên có thể là cây sẽ
nghĩ, “Ta là một chùm lá,” quên mất rằng rễ cũng có đó. Nhưng
việc nó quên rễ không tạo ra khác biệt gì. Rễ vẫn cứ làm bổn
phận của chúng mặc cho việc quên lãng đó. Lá không thể sống
lâu được nếu không có rễ của chúng. Điều đáng quan tâm là để ý
rằng lá không thể sống nếu không có rễ, nhưng rễ có thể sống mà
không có lá. Cho dù nếu chúng ta có chặt cả cây đi, rễ vẫn cứ làm
công việc của chúng và một cây mới sẽ mọc ra và nở hoa. Nhưng
nếu chúng ta cắt hết rễ lá sẽ đơn giản héo đi, khô đi và chết.
Chúng không thể cho sinh thành ra lá được. Rễ ẩn sâu bên dưới
trong bóng tối là cuộc sống thực.

Nếu chúng ta xem người như cây, những điều chúng ta gọi là
ý nghĩ không gì khác hơn lá của cây - và chúng ta coi tổng toàn
bộ những ý nghĩ này là ‘tôi đây’. Rễ nằm ở chiều sâu là cái thực,
chúng là yếu tố tâm linh cao nhất. Nhưng cũng như rễ của cây bị che giấu dưới đất
sâu và trong bóng tối, yếu tố tâm linh cao nhất
của chúng ta, atman, bị che giấu ở chiều sâu nguyên thuỷ, trong
sự tồn tại. Từ đó chúng ta nhận được điều tinh tuý của cuộc sống,
từ đó bản thân cuộc sống tới. Từ đó tuôn chảy dòng suối năng
lượng-cuộc sống, chảy mãi lên tới lá của chúng ta. Nếu những rễ
này không có đó, lá của chúng ta không thể có được. Cho nên
vào ngày mà những cái rễ này quăn lại, lá của chúng ta héo đi,
cành của chúng ta sẽ khô , mọi người nói về chúng ta, “Người
này đã chết.”

Chừng nào mà những chiếc rễ này vẫn còn bú và uống nước
nguồn năng lượng cuộc sống, yếu tố tâm linh cao nhất này vẫn
còn tiếp tục mở rộng, và chúng ta cảm thấy mình đang sống. Suy
nghĩ của chúng ta cũng giống như lá của chúng ta, ham muốn của
chúng ta giống như cành của chúng ta, và bản ngã chúng ta được
sinh ra từ sự hợp nhất của lá và cành này. Đây là một phần rất
nhỏ của sự tồn tại của chúng ta. Phần quan trọng nhất của chúng
ta, cái tinh tuý cơ bản của chúng ta, bị dấu ngầm dưới đất; nó
được Upanishad gọi là atman, nghĩa là yếu tố tâm linh cao nhất.
Nó là cái mà chúng ta có thể quên mất, nhưng không có nó chúng
ta không thể sống được. Nó là cái mà không có nó chúng ta
không thể đạt được cái gì cả. Nhưng nó ở sâu dưới đất, ở độ sâu
của sự tồn tại đến mức chúng ta có thể quên mất nó. Yếu tố tâm
linh cao nhất ấy bị lãng quên; chúng ta mất cái nhìn về nó.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng cái mà không có nó
chúng ta vẫn có thể tồn tại không ở rất sâu, nó ở ngay trên bề mặt
thôi, thấy được, và có thể dễ dàng nắm giữ, cho nên khi chúng ta
cố gắng nắm giữ bản thân mình, chính do dồi dào suy nghĩ của
chúng ta mà chúng ta nghĩ là ‘tôi’. Chúng ta nghĩ rằng tâm trí là
‘tôi’. Nhưng tâm trí - yếu tố trí tuệ - chỉ là đám lá của chúng ta
thôi. Yếu tố tâm linh cao nhất là gốc rễ của chúng ta. Và nhớ
trong tâm trí, người có hiểu biết chưa đạt tới chính gốc rễ không
bao giờ có thể biết đến cái nguồn mà từ đó rễ hút nước. Rễ là
atman, còn người đạt tới gốc rễ của mình sẽ sớm sẽ phát hiện ra
đất cái nuôi dưỡng rễ.

Người đã đi tới hiểu ra yếu tố tâm linh cao nhất cũng sẽ có
khả năng biết đến yếu tố tối cao - Paramatman - Thượng đế.
Nhưng chúng ta sống ở lá và nghĩ rằng đám lá đó là ‘tôi’. Cho
nên khi một cái lá nhỏ héo đi và rụng xuống, chúng ta nghĩ là
chúng ta chết, chúng ta đã qua đời, chúng ta đã mất. Và khi tất cả
lá đều héo đi, chúng ta nghĩ bản thân cuộc sống đã tắt. Chúng ta
không biết cuộc sống là gì. Chúng ta sống trong niềm tin rằng cái
vỏ bên ngoài của cuộc sống là ‘tôi’.

Upanishad nói rằng một người sống trong cái vỏ ngoài này là
kẻ giết cái ta. Người biết cái ta là người đi sâu vào bên trong lớp
vỏ, đi xuống tận rễ, tới nơi sự tồn tại làm nên ngọn nguồn nguyên
thuỷ của nó; tại đó người đó phát hiện ra cội nguồn của cuộc
sống. Người biết điều này là người biết cái ta. Chỉ người biết
điều này mới tìm ra ánh sáng; người đó đạt tới sự sống. Người đó
đạt tới bản chất của sự sống.

Ba điều được nhắc tới về yếu tố tâm linh cao nhất này. Điều
thứ nhất là ở chỗ nó bao giờ cũng tĩnh lặng, trong khi tất cả
quanh nó một mạng lưới biến đổi vĩ đại đang tiếp diễn. Điều có
tầm quan trọng lớn là biết về bí mật của cái tĩnh lặng tại trung
tâm. Bất kì chỗ nào biến đổi xảy ra, trung tâm sẽ không tránh
khỏi tĩnh lặng, cũng như cái trục vẫn còn tĩnh tại khi bánh xe
chuyển động. Bánh xe có thể chuyển động được bởi vì cái trục
đứng yên. Bí mật của cái bánh xe chuyển động là ở cái tĩnh lặng
của trục xe. Nếu trục bắt đầu di chuyển, bánh xe sẽ không di
chuyển. Thế thì chiếc xe sẽ bị lật nhào và bị phá huỷ. Việc quay
của bánh xe phụ thuộc vào sự bất động của trục xe.
Trục xe đi được bao nhiêu dặm khi bánh xe quay được một
trăm dặm? Trục xe vẫn còn đứng yên tại chỗ của nó. Điều rất
đáng quan tâm là thấy rằng bánh xe chuyển động cần sự trợ giúp của trục xe bất
động. Bánh xe của thay đổi chuyển động trên cái
không thay đổi. Cho nên điều đầu tiên cần phải nhớ là ở chỗ mọi
thứ trong cuộc sống đều thay đổi; lá sẽ tới và đi chừng nào biến
đổi có đó. Chúng sẽ mọc ra trong mùa xuân này và sẽ rụng đi vào
mùa thu tới. Không cái gì còn tĩnh tại cho dù trong một giây.
Nhưng có một yếu tố không biết nào đó ở sâu, sâu đâu đó bên
trong, cai quản qua trung tâm của mọi vật và mang sự biến đổi
quanh cái tĩnh lặng của riêng nó.

Bạn đã bao giờ thấy cơn xoáy lốc mùa hè di chuyển rất
nhanh trong bầu khí quyển chưa? Nâng cả một đám mây bụi
cùng nó, cơn xoáy lốc xoay tròn lôi mọi thứ lên trời. Bạn sẽ rất
ngạc nhiên mà thấy những dấu vết bị nó bỏ lại trong cát bụi trên
mặt đất. Nó di chuyển mọi thứ đi nhanh làm sao! Nhiều lần nó
cuốn cả người lớn đi nữa. Bạn sẽ rất kinh ngạc nếu bạn quan sát
các dấu vết do nó tạo ra. Có một khoảng không cỡ như một cái
thùng nhỏ, giống như trục của bánh xe, ở trung tâm cơn xoáy lốc.
Không gian này vẫn còn tuyệt đối không bị động chạm. Cho dù
cơn xoáy lốc chuyển động mãnh liệt thế vẫn còn lại ở trung tâm
nó một vị trí mà không bị động chạm tới và không bị xáo trộn.
Một cái trục được tạo ra ở đấy, và toàn bộ cơn xoáy lốc xoay tròn
quanh cái trục vững chắc đó. Thực tế là không cái gì có thể xoay
tròn được nếu không có một trung tâm tĩnh lặng cho nó.
Cuộc sống chuyển động rất nhanh; ý nghĩ xoay tròn rất
nhanh, ham muốn lơ lửng quanh chúng ta theo sự kế tiếp nhanh
chóng, và đam mê cuộn xoáy với lực lớn. Cuộc sống là bánh xe
chuyển động thật nhanh. Upanishad nói có một yếu tố bất động ở
trung tâm của nó. Chúng ta phải tìm kiếm nó. Cơn xoáy lốc mạnh
mẽ như cuộc sống không thể tiếp diễn được nếu không có sự hỗ
trợ của yếu tố đó. Yếu tố vững chắc đó là atman. Nó bao giờ
cũng tĩnh lặng, nó là bất động. Nó chưa bao giờ đi đâu. Nó chưa
bao giờ thay đổi. Nhớ lấy rằng chúng ta chưa biết cuộc sống là gì
chừng nào chúng ta còn chưa gặp cái yếu tố không bị thay đổi và
không thể thay đổi đó. Hiện tại chúng ta chỉ biết tới những thay
đổi xuất hiện ở phạm vi bên ngoài; chúng ta chưa được giới thiệu
với yếu tố tâm linh cao nhất đó. Cho tới giờ chúng ta chỉ quen
thuộc với nan hoa của bánh xe; chúng ta còn chưa thấy cái trục
mà trên đó mọi thứ đều phụ thuộc vào.

Cụm từ ‘trong cái tĩnh lặng của nó’ có nghĩa gì? Dù chúng ta
cho nó bất kì cách diễn giải nào, có toàn bộ khả năng phạm sai
lầm. Phân lớn những người bình chú về Upanishad đều phạm
phải sai lầm này. Cụm từ này này không có nghĩa trì trệ; nó
không có nghĩa rằng nó giống như chiếc ao có nước không chảy
đi đâu. Khi chúng ta nói yếu tố tâm linh cao nhất này là tĩnh lặng,
điều đó không ngụ ý nó là trì trệ. Nó là một yếu tố hoàn hảo thế,
nó là đầy đủ về mọi phương diện đến mức không còn phạm vi
nào trong nó cho bất kì biến đổi nào. Nó chan chứa, lớn lao, vô tư
đến mức tuyệt đối không có tiềm năng nào cho bất kì thay đổi
khác xảy ra trong nó.

Cái đó thay đổi mà trong nó có sự không đầy đủ - nó còn
thiếu cái gì đó. Biến đổi xảy ra tại nơi có phạm vi nào đó cho
việc thích nghi thêm, nơi có tiềm năng nào đó, cơ hội nào đó, để
là cái gì đó khác. Đứa trẻ lớn lên là thanh niên, thanh niên lớn lên
là cụ già, bởi vì còn chỗ nào đó để chừa lại cho thay đổi; cho nên
thay đổi liên tục xảy ra. Lá mọc ra, hoa nở, chúng héo đi và rụng,
và lá mới, tươi lại tới nữa. Yếu tố tâm linh cao nhất là tĩnh lặng.
Điều này có nghĩa là nó là hoàn hảo, đầy đủ về mọi phương diện.
Làm sao bạn có thể thay đổi cái hoàn hảo được? Biến đổi
cho cái hoàn hảo sẽ xảy ra ở phần nào? Không còn chỗ nữa cho
biến đổi. Không còn phạm vi thêm cho thay đổi. ‘Trong cái tĩnh
lặng của nó’ nghĩa là nó được nở rộ hoàn toàn. Không còn chỗ
nào cho việc nở rộ thêm. Nhớ trong tâm trí nó không giống như
ao tù, nó giống như hoa sen đã nở trọn vẹn. Nó đã nở đến mức
không còn nụ nào nữa để nở. Cho nên ở đây cái tĩnh tại, cái tĩnh lặng, có nghĩa là
cái hoàn hảo. Cánh hoa sẽ nở ở đâu, cho dù
chúng muốn nở? - bởi vì yếu tố tâm linh cao nhất là hoàn hảo tới
mức tối đa, tới mức độ cao nhất có thể được. Nó hoàn hảo đến
mức bây giờ không còn chỗ nào cho cánh hoa mở thêm ra nữa,
cho dù chúng muốn làm như vậy. Ở đây, cái tĩnh lặng nghĩa là
tiềm năng toàn bộ đã trở thành thực tại. Bất kì cái gì được che
giấu trong hạt mầm đều được biểu hiện ra toàn bộ - không còn
cái gì vô hình bị bỏ sau nữa. Cho nên, tĩnh lặng ở đây không kéo
theo sức ì hay trì trệ; nó có nghĩa hoàn hảo toàn bộ. Cho nên
nghĩ về đoá hoa nở tròn trịa chứ không phải là cái ao, và thế thì
bạn sẽ hiểu nghĩa của nó.

Điểm tiếp mà lời kinh này của Ishavasya bảo chúng ta là ở
chỗ các giác quan không thể đạt tới atman được, ‘vì nó đứng
trước tất cả chúng.’ Khi bạn ở trước mắt tôi, tự nhiên tôi có thể
thấy được bạn. Nhưng tôi không thể thấy được bản thân tôi bằng
mắt mình vì tôi ở đằng sau đôi mắt. Tôi thấy bạn bởi vì bạn ở
trước mắt tôi. Tôi không thể thấy được bản thân mình bằng mắt
riêng của mình vì tôi ở đằng sau đôi mắt. Nếu tôi mất mắt, nếu
tôi bị mù, thế thì tôi sẽ không có khả năng thấy được bạn chút
nào; nhưng điều đó cũng không khác biệt gì cho năng lực của tôi
thấy bản thân mình. Nếu tôi mất thị giác, tôi sẽ không có khả
năng thấy được bằng mắt của mình. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy
được bản thân mình bằng mắt mình, cho nên mặc dầu trở nên bị
mù tôi sẽ vẫn có khả năng thấy bản thân mình. Về vấn đề này,
hai điểm cần được hiểu thấu cho đúng.

Các giác quan trở thành phương tiện để nhìn, để biết về
những đối tượng ở trước chúng. Chúng không trở thành phương
tiện để thấy những đối tượng ở sau chúng. Từ ‘ở sau’ tại đây
cũng có hai nghĩa. Nó không chỉ có nghĩa là ở sau - đằng sau
lưng - nó cũng còn có nghĩa đứng trước. Khi bào thai bám vào tử
cung để sinh ra đứa trẻ, sự sống tới trước rồi giác quan theo sau
nó. Điều đó hoàn toàn đúng bởi vì, nếu sự sống không tới trước,
ai sẽ tạo ra các cơ quan? Cho nên sự sống tới trước. Linh hồn đi
vào bụng mẹ trước; toàn thể linh hồn đi vào và rồi các giác quan
bắt đầu tiến hoá bộ phận nọ tiếp bộ phận kia khi thân thể bắt đầu
tiến hoá. Các giác quan phát triển chậm qua bẩy tháng trong bụng
mẹ, và chúng có được hình dạng hoàn chỉnh của chúng trong
chín tháng. Nhưng dẫu thế vẫn có cái gì đó không được hoàn
chỉnh. Chẳng hạn, cơ quan dục không phát triển đầy đủ. Nó còn
cần thêm mười bốn năm nữa để tới phát triển đầy đủ của nó,
ngay cả sau khi đã hình thành từ trong tử cung. Có một số phần
của bộ óc phát triển dần dần, và liên tục phát triển trong toàn bộ
cuộc sống. Ngay cả người chết cũng vẫn còn phát triển, ngay cả
thế. Nhưng sự sống tới trước, các giác quan theo sau, và các tính
năng khác xuất hiện sau.

Người chủ tới trước rồi người phục vụ được gọi tới sau đó.
Ai thường gọi tới người phục vụ? Ai sử dụng họ? Người chủ có
thể biết người phục vụ, nhưng ngược lại, người phục vụ không
thể biết được người chủ. Linh hồn có thể biết các giác quan,
nhưng các giác quan, về phần chúng, không thể biết được linh
hồn, vì nó đã tồn tại trước chúng, trước khi chúng thành hình, và
nó tồn tại ở chiều sâu mà các giác quan không thâm nhập tới.
Chúng ở trên bề mặt. Chúng cũng bao phủ cuộc sống. Cho nên
không ai có thể biết linh hồn bằng trợ giúp của giác quan, dù
chúng vận hành nhanh đến đâu cũng không thành vấn đề.
Tâm trí thì cũng là giác quan. Nó chạy nhanh làm sao! Cho
nên, có một phát biểu mâu thuẫn trong lời kinh này; cho dù tâm
trí có chạy nhanh thế, nó không có khả năng đạt tới linh hồn, cái
là tĩnh lặng. Tâm trí chạy nhanh như thế không đạt tới nó. Đây là
cuộc đua rất đáng để ý. Cuộc đua là rất thách đố: tâm trí đua
tranh này không thể đạt tới linh hồn bất động này! Nhưng đây là
điều vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Những thứ bất động chỉ
có thể có được bằng việc duy trì tĩnh lặng, không phải bằng việc
đuổi theo chúng.

Bạn đang bước trên đường... có hoa nở bên vệ đường. Chúng
là tĩnh lặng, bắt rễ tại chỗ. Bạn càng bước chậm, bạn càng thấy
chúng nhiều hơn và nếu bạn đứng tĩnh lặng bạn sẽ có khả năng
thấy tất cả mọi thứ ở đó để nhìn chúng. Nếu bạn đang trong xe
chạy nhanh qua chúng với tốc độ một trăm năm mươi ki lô mét
một giờ, bạn sẽ không thể có được lấy một thoáng nhìn về chúng,
và nếu bạn đang bay trong máy bay qua chúng bạn sẽ không biết
gì về chúng. Giả sử, nếu trong tương lai một phương tiện còn
nhanh hơn được phát minh ra, thế thì bạn sẽ không bao giờ biết
liệu hoa có đó hay không. Một chiếc máy bay bay với tốc độ
mười sáu nghìn ki lô mét một giờ sẽ bỏ lỡ hoa đang mọc bên
đường. Mặc dầu chúng vẫn đang đứng tĩnh lặng, bạn sẽ lỡ chúng
bởi vì tốc độ lớn của bạn.

Tâm trí chạy với tốc độ cực lớn. Cho tới nay chúng ta không
có máy bay hay phương tiện nào có thể sánh được với tốc độ của
tâm trí. Cứ thử dành ra một phương tiện như thế, hay một
phương tiện chạy nhanh hơn tâm trí, để cho tâm trí chúng ta bị bỏ
sau khi chúng ta theo cuộc đua mà xem! Sẽ có không thoải mái
lớn, và rất khó khăn; con người sẽ thấy bản thân mình trong rắc
rối lớn. Không, chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện có chiếc máy
bay bay nhanh hơn tâm trí chúng ta. Lúc mà máy bay tới được
mặt trăng tâm trí chúng ta đã hoàn thành cuộc hành trình của nó
tới sao Hoả rồi. Và khi máy bay tới sao Hoả thì tâm trí lúc đó đã
đi vào một hệ mặt trời khác. Tâm trí luôn chạy trước mọi máy
bay, dù tốc độ của máy bay có thể nhanh đến đâu.

Vậy mà tâm trí, với khả năng tốc độ nhanh thế, không bao
giờ có thể đạt tới được atman bất động. Cho nên điều mà
Upanishad nói là hoàn toàn đúng. Cái tuyệt đối tĩnh lặng không
thể được đạt tới được bằng việc chạy đuổi theo; nó chỉ có thể đạt
tới được bằng việc đứng tĩnh lặng. Nếu tâm trí trở thành yên tĩnh
toàn bộ - tuyệt đối tĩnh lặng - thế thì, và chỉ thế thì, nó sẽ có khả
năng biết cái là tĩnh lặng. Bạn cũng biết điều này - rằng khi tâm
trí tuyệt đối yên tĩnh, nó dừng hiện hữu. Nó chỉ có đấy chừng nào
nó đang chạy. Nói thực, chạy là cái tên khác của tâm trí. Nói tâm
trí đang chạy là việc thừa. Khi chúng ta nói tâm trí đang chạy,
chúng ta lỡ lời, cũng hệt như ta lỡ lời khi nói rằng tia sét đang loé
lên. Trong sự kiện thật, việc loé sáng đó là tia sét. Không cần
phải nêu ra hai phát biểu: “Tia sét đang loé lên.” Bạn đã bao giờ
thấy tia sét mà không loé sáng không? Thế thì sao bận tâm nói
như vậy? Chính việc dùng từ tạo nên khó khăn đó. Chúng ta tách
bạch tia sét với việc loé sáng khi ta diễn đạt hiện tượng đó bằng
lời. Thế rồi chúng ta nói, “Nhìn kìa, tia sét đang loé lên!” trong
khi việc loé sáng và tia sét thực sự là hai tên cho một hiện tượng.
Chúng ta cũng phạm phải cùng sai lầm khi chúng ta nói tâm
trí đang chạy. Thực ra, cái được gọi là tâm trí bao giờ cũng đang
chạy. Chạy là tâm trí! Thế thì một tâm trí tĩnh lặng không có
nghĩa, cũng như một tia sét không loé sáng không có nghĩa. Nếu
ai đó nói, “Tia sét không loé sáng lần này,” bạn sẽ nói ngay, “Thế
thì nó không có đó chút nào,” bởi vì phát biểu, “Tia sét không loé
sáng,” không có nghĩa. Khi nó loé sáng, nó có đấy. Nếu tâm trí
tĩnh lặng, nó dừng hiện hữu. Tâm trí tĩnh lặng trở thành vô trí.
Kabir gọi trạng thái này của vô trí là trạng thái của lặng lẽ.
Khi nó tĩnh lặng, nó dừng tồn tại. Tâm trí chỉ hiện diện khi nó
đang chạy. Đây là lí do tại sao bạn sẽ không bao giờ có khả năng
giữ cho nó tĩnh lặng được. Nếu bạn trở nên tĩnh lặng, bạn sẽ thấy
rằng tâm trí không có. Tâm trí không bao giờ có thể biết được
linh hồn, vì linh hồn không bao giờ có thể được biết tới qua việc
chạy, và tâm trí là từ khác cho việc chạy. Do đó atman chỉ được
biết tới vào ngày không có tâm trí. Chúng ta có thể biết toàn thể
thế giới qua tâm trí; chỉ yếu tố tâm linh cao nhất là vẫn còn
không được biết. Chúng ta có khả năng biết yếu tố tâm linh cao
nhất đó chỉ khi tâm trí không có đó.

Tâm trí có toàn bộ công nghệ bất ổn riêng của nó. Bởi vì
việc chạy không mục đích là không thể được, tâm trí tạo ra
nguyên nhân hay mục đích cho việc chạy của nó. Những điều này
được gọi là ham muốn. Tâm trí nói, “Mình ham muốn điều đó,
cho nên mình sẽ đuổi theo nó.” Làm sao bạn có thể chạy đuổi
được nếu bạn không có ham muốn đạt tới cái gì đó trong tương
lai, hay nếu không có mục đích nào để đạt tới? Do đó hàng ngày
tâm trí đều quyết định hoàn thành một mục tiêu đặc biệt trong
tương lai. Thế thì việc chạy đuổi bắt đầu, nhưng vào lúc mà mục
đích được đạt tới, người ta phát hiện ra nó là vô dụng vì nó chỉ
đơn thuần là cái cớ cho tâm trí chạy đuổi. Mục đích được đạt tới
trở thành vô giá trị khi được hoàn thành. Thế thì tâm trí tìm kiếm
cái cớ khác, mục đích khác để được đạt tới. Sau khi đạt tới mục
đích đó nó sẽ nói, “Chẳng có gì thực chất trong cái này. Bây giờ
mình phải cố gắng cho mục tiêu kia...” Cho nên nó tiếp tục chạy
đuổi, thêm nữa thêm nữa.

Đây là lí do tại sao tâm trí bao giờ cũng ở tương lai. Nó
không bao giờ có thể trong hiện tại. Người muốn chạy sẽ phải
sống trong tương lai. Tâm trí bao giờ cũng ở phía trước bạn. Nó
sẽ không còn ở đây nơi bạn đang có đấy. Để ở đây, nơi bạn đang
có đấy, việc chạy phải dừng lại. Linh hồn - atman - là ở đây nơi
bạn có đấy, và tâm trí có đấy nơi bạn không có - nơi bạn chưa
bao giờ có đấy. Nó bao giờ cũng ở trước bạn, và bất kì nơi nào
tâm trí đạt tới nó đều nói, “Cái này vô dụng, vô giá trị. Đi tiếp
đi!” Nó giống như cột mốc có mũi tên bao giờ cũng báo bạn đi
tiếp. Nhưng trong những cột mốc này mọi lần chúng ta đều bắt
gặp một cột mốc đánh số không, thay vì mũi tên.
Hôm qua trong khi đi dạo tôi đã thấy một cột mốc với dấu số
không trên đó. Không có mũi tên chỉ lối này hay lối nọ, vì số
không nghĩa là điểm đích. Không đâu nữa mà đi; bạn đã đạt tới
đích của mình. Nhưng tâm trí bịa ra mũi tên nói, “Đi tiếp.” Cột
mốc với số không không bao giờ được thấy trên cuộc hành trình
của tâm trí. Và nếu vào bất kì lúc nào, bất kì ngày nào, bạn bắt
gặp một cột mốc như thế, biết rằng bạn đã đến một nơi được biết
như thiền. Khi bạn tình cờ thấy cột mốc đó trên cuộc hành trình
của mình, biết rằng đấy là việc nhận ra atman. Linh hồn có đấy
nơi có số không. Cho nên những người đã biết tới điều tối thượng
đều tuyên bố rằng bạn sẽ không thể biết được nó thông qua tâm
trí; bạn sẽ biết nó bởi số không. Nhớ lấy, cái mà người chứng ngộ
gọi là số không chính là vô trí.

Tôi đã bảo bạn tâm trí luôn tạo ra cớ để săn đuổi mọi thứ.
Khi nó bắt đầu chán ngán với mọi thứ trần thế, chúng bị dẹp sang
một bên. Tâm trí nói, “Mình thu được giầu sang lớn lao, mình đã
xây dựng nhiều toà nhà, mình đã mua bao nhiêu thân thể cho việc
tận hưởng nhưng không thu được bản chất gì từ những thứ này.”
Thế rồi nó chơi trò mẹo cuối cùng để giữ việc chạy đuổi của nó:
nó bắt đầu tạo ra mũi tên trỏ tới thế giới tiếp, tới cõi trời, tới cứu
rỗi và Thượng đế. Cho dù thế, nó không yêu cầu chúng ta dừng
tạo ra mũi tên và quay trở về số không. Không, bây giờ nó nói,
“Thử đạt tới giầu có tâm linh xem sao. Giầu có trần thế mình đã
đạt tới rồi và thấy nó vô dụng, cho nên thử tiếp xem sao! Bây
giờ mình phải cố gắng đạt tới tôn giáo. Mình biết mình có thể
làm được điều đó. Bằng cách này hay cách khác, mình sẽ làm
điều đó!”

Thôi thúc trở thành dai dẳng. Nếu nỗ lực để có được cái gì
đó vẫn tiếp tục, thế thì tâm trí cũng sẽ tiếp tục. Nhớ lấy điều này:
người không phải là người tôn giáo thực là người ước ao đạt tới
điều gì đó. Người tôn giáo là người đã nhận ra chân lí rằng mọi
hoạt động nhằm thu được đều chỉ là tâm trí; người đó từ bỏ cố
gắng đạt tới bất kì cái gì. “Bây giờ tôi không còn cố gắng đạt tới
bất kì cái gì. Bây giờ, chung cuộc, tôi sẵn sàng cho tĩnh lặng. Bây
giờ, cho dù Thượng đế có yêu cầu tôi tới chỗ ngài, chỉ bước hai
bước tới chỗ ngài, tôi sẽ vẫn còn tĩnh lặng. Bây giờ tôi đang đứng
ở cột mốc số không. Tôi không còn cuộc hành trình nào cần tiến hành bây giờ nữa.”
Nhận biết đi, người đứng tĩnh lặng, trong cái
tĩnh lặng ấy của người đó, người đó tìm thấy Thượng đế. Người
chạy theo Thượng đế không bao giờ đạt tới ngài bởi vì việc chạy
là của tâm trí, và yếu tố tâm linh cao nhất đó không bao giờ được
đạt tới bởi tâm trí.

Khi bạn phát chán với việc tìm kiếm theo các đồ vật trần
gian bởi tâm trí, bạn sẽ bịa ra những cái cớ mới cho tâm trí -
atman, Thượng đế, chứng ngộ. Phật đi xa khi chối bỏ sự tồn tại
của atman, vì bằng không bạn sẽ dồn mọi nỗ lực vào việc cố
gắng tìm ra nó. Tâm trí láu cá thế, nó sẽ nói, “Được thôi, nếu
không có cái gì khác, ít nhất có atman, cho nên ta sẽ theo đuổi cái
đó! Ta sẽ cống hiến năng lực của mình để đạt tới điều đó!” Nếu
nó không chạy về nhà nó sẽ chạy hướng tới đền thờ. Nó phải
chạy - nếu không hướng tới đối tượng vật chất thế thì hướng tới
Thượng đế; trong bất kì trường hợp nào, tâm trí phải chạy.
Nhưng chỉ những người đứng tĩnh lặng mới tìm thấy nó. Đây
là tuyên bố của lời kinh này. Nó ở sau các giác quan và bên ngoài
tâm trí. Cả hai không thể giúp cho bạn đạt tới atman. Thế thì
chúng ta phải làm gì? Vì nó ở sau giác quan, vứt bỏ mọi khái
niệm rằng chúng có thể giúp bạn. Vì nó ở bên ngoài tầm với của
tâm trí, dừng việc tuỳ thuộc vào tốc độ tâm trí của bạn.
Tôi đang nói cho bạn để không đặt tin tưởng nào vào cả tâm
trí lẫn giác quan. Khi tôi yêu cầu bạn nhắm mắt, thực ra đấy là
yêu cầu bạn phá vỡ thói quen phụ thuộc vào một giác quan đặc
biệt. Tôi đang bảo bạn, bạn đã từng thấy quá đủ bằng mắt bạn,
vậy mà điều đó vẫn không được thấy. Mắt đã hoạt động trong
nhiều kiếp rồi, nhưng điều đó không thể được thấy. Bây giờ
chúng ta thấy bằng mắt nhắm.

Chúng ta đã cố gắng vất vả để nghe tiếng nói của điều đó,
nhưng điều đó không thể được nghe thấy. Chúng ta đã mong mỏi
đam mê để nghe thấy âm nhạc của nó, nhưng tai chúng ta không
bắt được nó. Bây giờ, chúng ta nút tai lại. Chúng ta đã suy nghĩ
và suy tư vô tận, nhưng không bao giờ có thể phát minh ra lời
kinh đưa chúng ta tới đó. Chúng ta đã cố gắng vất vả với tâm trí,
chúng ta đã chịu đựng nhiều lo âu và buồn phiền, chúng ta đã lập
luận và cân nhắc, và đã nhìn vào nhiều triết học, nhiều tôn giáo
và nhiều kinh sách. Chúng ta đã tạo ra nhiều cuốn sách và lập ra
nhiều lí thuyết và nguyên lí, nhưng không tìm được bất kì dấu vết
nào của điều đó. Bây giờ gạt sang bên tất cả những điều này đi.
Chúng ta từ bỏ suy nghĩ. Bây giờ chúng ta đi vào vùng vô suy
nghĩ. Có lẽ ở đây điều đó có thể được tìm ra.

Tôi dùng từ có lẽ cho bạn. Nó chắc chắn được đạt tới ở đây.
Nhưng trong khi nó vẫn còn chưa được đạt tới, ngay cả với tin
tưởng chân thành rằng trong vùng vô trí nó chắc chắn sẽ được
tìm thấy, là nguy hiểm. Cho nên tôi dùng từ có lẽ cho bạn: thông
thường, việc giữ niềm tin như thế trở thành chướng ngại cho tiến
bộ của chúng ta. Người ta khuyên chúng ta rằng điều đó là được -
rằng bây giờ chúng ta sẽ có nó, rằng bây giờ chúng ta đã tìm thấy
cách thức để chắc chắn! Cho nên các lí thuyết đi tới trông có vẻ
như những thành tựu. Đấy là lí do tại sao tôi dùng từ có lẽ, để cho
bạn có thể được thuyết phục đi vào trong thực nghiệm.
Đấy là điều chắc chắn đạt tới được, nhưng phải từ bỏ sự hỗ
trợ của các giác quan. Tâm trí, chạy và đua, phải bị loại bỏ. Đấy
là bản tính của yếu tố tâm linh cao nhất, cái đã và bao giờ cũng
hiện hữu bên trong chúng ta, nhưng cái mà chúng ta liên tục bỏ
lỡ qua những phương sách và kế hoạch của riêng chúng ta cho
cuộc sống. Nó chưa bao giờ bị chúng ta đánh mất, nó đơn giản bị
quên lãng. Chúng ta đơn giản quên nó. Nhưng trong khi quên nó,
toàn thể cuộc sống của chúng ta trở thành vô giá trị, trở thành địa
ngục. Trong khi quên nó, không hoa nào phát triển trong cuộc
sống, chỉ gai. Trong khi quên nó, cuộc sống trở thành sa mạc
không có sông, không luồng nước ngọt. Mọi hạnh phúc biến mất.
Cuộc sống của chúng ta trở thành sa mạc nơi mà, dù chúng ta tìm kiếm nhiều đến
đâu, không dòng nước nào được tìm thấy, và chỉ
có cát tuột qua đôi tay chúng ta. Chúng ta bước đi bao lâu không
thành vấn đề, không bóng râm nào được thấy, không đâu là nơi
trú ngụ, không đâu là chỗ nghỉ ngơi.

Hiểu điều này: không có chỗ trú ngụ nào, không có ốc đảo
nào trong cuộc sống, nếu không có yếu tố tâm linh cao nhất đó,
atman. Không cực lạc nào từng tuôn chảy mà không có yếu tố
tâm linh cao nhất đó. Nó là tất cả nói chung. Nó là tinh hoa thực.
Nhưng những người bị vướng vào lá cây không có khả năng tụt
xuống rễ. Lá có thể công nhận việc mọc ra của chúng là từ rễ,
nhưng những người vẫn còn vướng trong lá không bao giờ phát
hiện ra rễ. Từ bỏ lá đi. Đi sâu xuống vào bên trong, vượt ra ngoài
cảm giác, vượt ra ngoài giác quan, vượt ra ngoài ý nghĩ. Đi vào
bên trong và ra sau chúng, dần dần, cho tới khi bạn đi tới điểm số
không. Nó là ở bên trong mọi người. Xoay xung quanh nó, chúng
ta vẩn vơ đây đó, nhưng không có nó không thể có việc lang
thang được. Không có điểm số không bên trong đó, không có yếu
tố tĩnh lặng hoàn hảo đó tại trung tâm, toàn thể quá trình biến đổi
này, mạng lưới tuần hoàn khổng lồ này, không thể tiếp diễn
được. Việc chạy đuổi này của bạn giống như cơn bão, việc xoay
tròn này giống như cơn xoáy lốc, tất cả những điều này phụ thuộc
vào sự hiện diện của số không đó.

Để tôi làm rõ một điều cuối cùng về vấn đề này. Có hai cách
mô tả cho một điều đó: như số không và như sự hoàn hảo.
Upanishad thích thuật ngữ hoàn hảo; họ ưa chuộng dùng từ hoàn
hảo. Khi Upanishad đã đi vào sự tồn tại, khi những lời kinh này
lần đầu tiên được đọc ra, con người chỉ có khả năng hiểu nghĩa
này là hoàn hảo. Từ này diễn tả nghĩa này trong ngôn ngữ khẳng
định. Việc dùng từ số không là để diễn tả nghĩa theo ngôn ngữ
phủ định. Để hiểu thuật ngữ hoàn hảo người ta phải có trái tim
hồn nhiên của trẻ thơ. Người già không có khả năng hiểu ngôn
ngữ này, người đang đi xa hơn mỗi ngày khỏi trạng thái trẻ thơ.
Những người, giống như trẻ thơ, đã hiểu ngôn ngữ của hoàn
hảo trong những ngày khi lời kinh này được soạn ra. Bạn sẽ hiểu
tình huống này nếu bạn đã từng nghiên cứu trẻ con, nếu bạn đã
theo cách thức và hành vi của chúng. Bước đi trên đường đứa trẻ
hỏi đủ mọi loại câu hỏi; tất cả trẻ con đều làm điều này. Thỉnh
thoảng câu hỏi khá thách đố, nhưng bạn đưa ra cho chúng những
câu trả lời dễ dàng đơn giản, và chúng hài lòng và trở nên yên
tĩnh.

Những câu hỏi đó đôi khi khó đến mức người già hơn không
có câu trả lời cho chúng. Khi một em bé mới được sinh ra trong
nhà, trẻ nhỏ sẽ hỏi, “Em bé mới này từ đâu đến thế?” Câu hỏi này
thật khó. Bây giờ, người lớn không có câu trả lời đúng cho câu
hỏi này; cả những người biết - các nhà sinh học - cũng không có
câu trả lời đúng. Họ nói, “Chúng tôi vẫn còn đang nghiên cứu.
Chúng tôi chưa biết dứt khoát em bé đến từ đâu. Chúng tôi có thể
nói cho các anh những điều chúng tôi có khả năng phát hiện ra,
nhưng cuộc sống đến từ cõi bên kia xa xăm; chúng tôi không biết
điều gì một cách dứt khoát.”

Cho nên ngay cả các nhà nghiên cứu, người đã dành nhiều
kiếp sống cho vấn đề này cũng không biết. Và những người cho
sinh ra trẻ con không biết gì hết cả về điều đó, vì không cần phải
biết gì về điều đó để sinh ra trẻ con. Nhưng ý tưởng sai lầm này
được tạo ra rằng người bố của bẩy đứa con nên biết đứa trẻ từ
đâu đến, và vì người đó cũng đã sống trong ảo tưởng này nên
người đó sẽ đưa ra lời đáp, người đó sẽ tìm ra câu trả lời. Nhưng
quan sát thật kĩ lưỡng phản ứng của đứa trẻ mà xem. Nó hỏi
những câu hỏi khó thế - trẻ con từ đâu tới? - điều đó ngay cả
khoa học vẫn còn chưa phát hiện ra câu trả lời đúng; và như tôi
thấy, khoa học không bao giờ có được câu trả đúng. Nhưng bạn
ngay lập tức đáp rằng bạn đã thấy con cò đem em bé tới. Đứa trẻ
tin vào bạn, và chạy đi chơi. Với nó vấn đề thế là xong.
Nó đã tin vào bạn. Tâm trí của nó là tâm trí khẳng định,
không phản đối, không hoài nghi cho đến lúc đó. Nó sẽ không
hỏi để phản đối, “Làm sao cò đem em bé tới được? Nó lấy em bé
từ đâu?” Bây giờ nó không nêu ra chút hoài nghi nào. Về sau nó
sẽ hoài nghi. Rồi một ngày sẽ tới khi câu trả lời, “Cò đem em bé
tới,” không còn tác dụng nữa. Thế thì nó sẽ hỏi nhiều câu hỏi và
bày tỏ nhiều hoài nghi. Thế thì bạn sẽ biết rằng tâm trí phủ định
đã đi vào sự tồn tại.

Có một thời đại khi toàn thể thế giới, toàn thể loài người đã
từng hồn nhiên như trẻ nhỏ; người ta tin vào điều họ được nói
cho. Cho nên kinh sách càng cổ bạn sẽ càng ngạc nhiên và bối rối
nhiều. Bạn sẽ bị lẫn lộn bởi thiếu logic, và bởi vắng bóng lập
luận khéo. Chỉ có những phát biểu trực tiếp. Ai đó đến một hiền
nhân và bảo ông ta, “Tôi rất không thoải mái và lo âu. Tôi phải
làm gì để có được an bình tâm trí?” Hiền nhân nói, “Niệm tên
Rama đi.” Người hỏi được thoả mãn và nói, “Được rồi, tôi sẽ
niệm,” và ra đi. Người đó thậm chí không hỏi điều gì sẽ xảy ra
hay hỏi làm sao người đó có thể được trợ giúp chỉ bởi việc niệm
tên Rama. Người đó không hỏi bất kì câu hỏi nào. Nhớ trong tâm
trí, không cái gì sẽ xảy ra bởi việc niệm tên của Rama, nhưng
hoàn cảnh của tâm trí con người là tới mức ngay cả nếu hiền
nhân yêu cầu người đó lẩm nhẩm “Hòn đá, hòn đá!” người đó sẽ
được lợi.

Không cái gì xảy ra bởi việc niệm hoặc từ Rama hoặc từ hòn
đá. Nhưng chính hoàn cảnh khẳng định của tâm trí, tâm trạng hồn
nhiên của việc chấp nhận, không biết tới chối bỏ hay không vâng
lời, không phát sinh hoài nghi, làm cho nó có kết quả. Đó là lí do
tại sao người ta hay nói, “Đi và niệm tên Rama rồi mọi thứ sẽ ổn
thoả .” Người này về nhà, niệm tên Rama, và mọi sự ổn thoả.
Nhớ lấy, không cái gì xảy ra bởi việc niệm tên Rama. Nó xảy ra
là bởi vì thái độ khẳng định của tâm trí. Nếu như hiền nhân đã
nói, “Cầm lấy bùa hộ mệnh này,” hay nếu ông ta đưa cho người
đó một thứ nước nào đó và bảo người đó uống, người này chắc
chắn sẽ uống nước bùa đó và nó sẽ có kết quả. Bất kì cái gì cũng
đều sẽ có hiệu quả. Không cái gì khác biệt khi phương thuốc là
thế này hay thế nọ. Điều quan trọng là tâm trí khẳng định đằng
sau toàn thể sự việc. Nếu điều đó có đấy, kết quả là thành công
chắc chắn.

Nhưng bây giờ thái độ khẳng định của tâm trí đã mất rồi. Nó
đã hoàn toàn biến mất ngay vào thời của Mahavira và Phật. Cho
nên cả Mahavira và Phật đều phải dùng ngôn ngữ phủ định.
Mahavira đã dùng nó chút ít và tuyên bố, “Không có Thượng
đế!” - không phải bởi vì đã không có Thượng đế, mà bởi vì bây
giờ không còn người nào sẽ nhảy múa vui vẻ khi được bảo rằng
có Thượng đế. Một người như vậy sẽ không hỏi, “Ngài ở đâu?”
Người đó đơn giản nhảy múa theo cách của mình để đi vào cực
lạc. Người đó sẽ nói, “Nếu có Thượng đế, tôi sẽ tới gặp ngài, và
cửa cõi trời sẽ được mở cho tôi.” Và nhớ lấy, không có cánh cửa
nào không mở cho một tâm trí tin cậy và hồn nhiên như thế.
Không có những người như thế ngồi cùng Mahavira. Khi
ông ấy bảo ai đó, “Thượng đế có đấy,” người đó lập tức đối chất
với Mahavira với hàng loạt câu hỏi về chủ đề này. Thế thì
Mahavira nói, “Không có Thượng đế đâu.” Thực ra, câu trả lời
thứ nhất của ông ấy là đúng, nhưng khi một ai đó bắt đầu đưa ra
hoài nghi, toàn bộ tình huống trở thành ngớ ngẩn và vô ích.
Không có ý nghĩa gì trong câu trả lời này nếu hoài nghi được nó
gợi ra. Đó là câu trả lời của các hiền nhân cổ đại. Nhưng mọi
người trong thời của Mahavira bắt đầu hỏi, “Thượng đế là ai?
Ngài ở đâu? Ngài có bao nhiêu đầu? Ngài có bao nhiêu tay? Ngài
được sinh ra thế nào? Ngài từ đâu tới? Chúng ta có thể gặp ngài ở
đâu?” Cho nên Mahavira nói, “Ngài không có đó chút nào.”
Câu trả lời cũ không còn hữu dụng nữa. Câu trả lời mà từ đó
câu hỏi bắt đầu nảy ra là không có giá trị nào. Mục đích của câu trả lời là để
cho câu hỏi được tập trung vào trong nó. Đó là câu
trả lời hàm chứa câu hỏi, cho nên câu hỏi rơi đi. “Có Thượng
đế!” là câu trả lời lớn nhất, nhưng Mahavira bị buộc phải từ bỏ
nó đi. Và Phật đã phải đi thêm một bước nữa.
Mahavira chấp nhận sự tồn tại của linh hồn, atman, với sứ
mệnh của ông ấy. Khác trong quan điểm của Mahavira và Phật
đã nảy sinh nhanh chóng thế. Không có khác biệt gì lớn giữa thời
đại của Mahavira và Phật, thực ra chỉ ba mươi năm. Vậy mà Phật
đã buộc phải nói, “Không có điều như linh hồn.” Mahavira đã
nói, “Không có Thượng đế, có linh hồn.” Phật phải nói, “Thậm
chí không có cả linh hồn,” vì vào thời của Phật người ta bắt đầu
hỏi, “Atman có nghĩa gì?

Không có câu trả lời cho điều đó. Phật nói, “Nó là số không;
nó là cái không.” Nhớ lấy, câu hỏi không thể nảy sinh đối với số
không, vì nó có nghĩa là cái không có đấy. Câu hỏi nào có thể
được nêu ra về nó? Câu hỏi không thể được đưa ra cho số không.
Và nếu bạn đưa ra bất kì câu hỏi nào, điều đó nghĩa là bạn đã
không hiểu. Nghĩa của số không là ở chỗ nó không có. Bây giờ,
bạn có thể hỏi câu hỏi nào thêm nữa về nó? Bản thân chúng ta
nói, “Nó không có.” Phật nói, “Số không. Cái không!” và hướng
dẫn mọi người trở thành được hợp nhất với nó. Toàn thể ngôn
ngữ bị thay đổi. Nhưng tôi bảo bạn rằng số không và sự hoàn hảo
là một và là cùng một thứ. Từ hoàn hảo là câu trả lời của tâm trí
khẳng định, và từ số không là câu trả lời của tâm trí phủ định.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng chúng ta, trong thế giới
này, không có kinh nghiệm gì về sự hoàn hảo, khác với kinh
nghiệm về số không. Đó là lí do tại sao vòng tròn được chúng ta
tạo ra và chấp nhận như biểu tượng về số không. Nó là hình vẽ
hoàn hảo nhất được con người vẽ ra. Không một hình nào khác là
hoàn hảo. Điều cũng đáng quan tâm để biết là, trong mọi nước
trên thế giới, hình số không lần đầu tiên đã được phát minh ra ở
Ấn Độ; và nó được phát minh ra không phải bởi các lí do toán
học mà bởi các lí do của Veda, với mục đích để hiểu biết.

Số một tới chín cũng đã được hình thành nên ở Ấn Độ,
nhưng điều rất đáng quan tâm là tất cả những con số này từ một
tới chín đều không hoàn hảo. Cái gì đó có thể được thêm vào
chúng. Với số một, một khác có thể được cộng vào, và cái mà với
nó cái gì đó có thể được thêm vào là không hoàn hảo, vì giá trị
của nó tăng lên theo phép cộng. Cái gì đó có thể được lấy đi, bớt
từ nó đi, và cái mà từ đó cái gì đó có thể được lấy bớt đi, do vậy
làm bé nó đi, là không hoàn hảo. Bạn không thể thêm cái gì vào
số không cũng không bớt cái gì đi từ nó được. Nó là hoàn hảo.
Bạn không thể bớt cái gì từ số không - làm sao bạn có thể bớt cái
gì từ cái không? - bạn cũng không thể thêm gì vào số không
được. Bạn có thể làm thế nào?

Số không là biểu tượng, là hình ảnh cho sự hoàn hảo. Nó là
hình ảnh hình học của sự hoàn hảo. Chúng ta mang số không
này, hình ảnh của sự hoàn hảo, bên trong chúng ta. Nếu bạn có
thể đi tới hiểu Thượng đế thông qua sự hoàn hảo, điều đó là tốt.
Và nếu bạn không thể hiểu được qua sự hoàn hảo, thế thì tới qua
số không. Sẽ không khác biệt gì về kết quả cuối cùng.
Qua thay đổi thái độ tâm trí hai con đường đã đi vào hiện
hữu, dẫn tới cùng đích. Nếu tâm trí bạn có tính khẳng định và
bạn cảm thấy bạn sẽ không nhận ra nó qua số không, bạn nên lấy
con đường của nhảy múa, ca hát và hiện hữu trong cực lạc. Và
nếu bạn cảm thấy tâm trí bạn có tính phủ định và hoài nghi, thế
thì cứ duy trì im lặng, yên tĩnh, là số không, và mất hút trong số
không. Nếu bạn nghĩ tâm trí bạn có cách tiếp cận phủ định, thế
thì trở nên được thống nhất với số không. Kết quả cuối cùng là
như nhau.

Nhảy múa đó, cực lạc đó, sẽ tới qua cả số không nữa, nhưng
nó sẽ tới bởi việc là số không, và số không sẽ tới qua nhảy múa, bởi việc trở
thành một với việc nhảy múa. Người có hoàn cảnh
tâm trí thiên về sự hoàn hảo sẽ nhảy múa, ca hát và tụng niệm lời
cầu nguyện ngay từ đầu và do vậy biến mất trong số không. Khi
việc nhảy múa trở thành nhanh và hoang dại, chỉ thế thì việc
nhảy múa của người đó còn lại, và khi nó trở thành điên cuồng
như một cơn xoáy lốc, người đó bắt đầu kinh nghiệm số không
bên trong. Người đó sẽ cảm thấy ai đó đang đứng đằng sau. Thân
thể sẽ tiếp tục nhảy múa và số không, atman, sẽ đứng lại, sẽ được
thức tỉnh bên trong. Điểm tĩnh lặng sẽ bắt đầu xuất hiện cùng với
bánh xe xoay tròn.

Nhớ trong tâm trí rằng nếu bánh xe bất động, sẽ khó biết tới
điểm tĩnh lặng bởi vì cả hai sẽ tĩnh lặng. Sẽ khó phân biệt nổi đâu
là trục xe và đâu là bánh xe nếu bánh xe bất động. Nếu bánh xe
đang chuyển động, sẽ dễ dàng biết được trục vì nó sẽ không
chuyển động khi bánh xe đang chuyển động. Được nhấn chìm
trong cực lạc bởi việc trở thành một với sự hoàn hảo, một
Chaitanya hay một Meera nào đó đang nhảy múa. Khi điệu nhảy
tiếp tục, bánh xe quay càng ngày càng nhanh, và điểm trung tâm
xuất hiện như sự tách biệt trong cái tĩnh lặng của nó.
Nếu bạn bắt đầu với số không thì bạn bắt đầu cảm thấy trống
rỗng bên trong. Khi mọi thứ bên trong trở thành trống rỗng, bánh
xe bên ngoài bắt đầu được thấy đang quay; ý nghĩ tới và đi,
samsara, thế giới, đang tiếp diễn.

Cuộc hành trình tới điều tối thượng có thể bắt đầu từ trục xe
hay từ bánh xe. Cả hai sẽ đem chúng ta tới điểm cuối cuộc hành
trình. Yếu tố tâm linh cao nhất có thể được biết tới hoặc bởi việc
trở thành sự hoàn hảo hoặc bởi việc trở thành số không; nhưng
các giác quan không thể đưa chúng ta hoặc tới sự hoàn hảo hoặc
tới số không được - mà tâm trí thì cũng không thể đưa ta tới đó
được.
Yếu tố tâm linh cao nhất đó,atman, có bản chất không đổi thay,và có chuyển động nhanh hơn tâm trí.Các giác quan không thể với tới nó,vì nó đứng trước tất cả chúng.
Trong sự tĩnh lặng của nó,nó vượt qua mọi thứ chuyển động.Chỉ trong sự hiện diện của nó mà khí sắc cai quản mọi hoạt động của mọi sinh linh.

Trong tĩnh lặng của mình, atman - yếu tố tâm linh cao nhất -
là cái nhanh nhất trong các cái nhanh. Nó vượt qua sự chuyển
động của các giác quan và của tâm trí bởi vì nó cao hơn cả hai.
Nó có đấy trước khi cả hai thứ này được tạo ra. Nó ở bên ngoài
cả hai.
Rất cần thiết và hữu dụng cho người tìm kiếm để hiểu lời
kinh này. Điều thứ nhất là ở chỗ chúng ta dốt nát về yếu tố tâm
linh cao nhất này; chúng ta không có bất kì tri thức nào về nó. Nó
là chúng ta, vậy mà chúng ta không biết gì về nó chút nào. Nó là
chiều sâu tối thượng của tâm thức chúng ta, từ nơi con người
chúng ta được sinh ra và phát triển.

Nếu bạn tưởng tượng bản thân mình như một cây, việc hiểu
biết sẽ được làm thành dễ dàng. Lá trên cây lan rộng trên bầu
trời; sau lá là cành nằm lẩn khuất, và tận cùng của cành là phần
chóp của cây. Cây cũng có rễ ăn phía dưới, ẩn trong đất sâu.
Không quá khó cho cây để tin rằng nó chỉ là lá, vì rễ là không
thấy được; chúng bị ẩn sâu trong đất. Cho nên có thể là cây sẽ
nghĩ, “Ta là một chùm lá,” quên mất rằng rễ cũng có đó. Nhưng
việc nó quên rễ không tạo ra khác biệt gì. Rễ vẫn cứ làm bổn
phận của chúng mặc cho việc quên lãng đó. Lá không thể sống
lâu được nếu không có rễ của chúng. Điều đáng quan tâm là để ý
rằng lá không thể sống nếu không có rễ, nhưng rễ có thể sống mà
không có lá. Cho dù nếu chúng ta có chặt cả cây đi, rễ vẫn cứ làm
công việc của chúng và một cây mới sẽ mọc ra và nở hoa. Nhưng
nếu chúng ta cắt hết rễ lá sẽ đơn giản héo đi, khô đi và chết.
Chúng không thể cho sinh thành ra lá được. Rễ ẩn sâu bên dưới
trong bóng tối là cuộc sống thực.

Nếu chúng ta xem người như cây, những điều chúng ta gọi là
ý nghĩ không gì khác hơn lá của cây - và chúng ta coi tổng toàn
bộ những ý nghĩ này là ‘tôi đây’. Rễ nằm ở chiều sâu là cái thực,
chúng là yếu tố tâm linh cao nhất. Nhưng cũng như rễ của cây bị che giấu dưới đất
sâu và trong bóng tối, yếu tố tâm linh cao nhất
của chúng ta, atman, bị che giấu ở chiều sâu nguyên thuỷ, trong
sự tồn tại. Từ đó chúng ta nhận được điều tinh tuý của cuộc sống,
từ đó bản thân cuộc sống tới. Từ đó tuôn chảy dòng suối năng
lượng-cuộc sống, chảy mãi lên tới lá của chúng ta. Nếu những rễ
này không có đó, lá của chúng ta không thể có được. Cho nên
vào ngày mà những cái rễ này quăn lại, lá của chúng ta héo đi,
cành của chúng ta sẽ khô , mọi người nói về chúng ta, “Người
này đã chết.”

Chừng nào mà những chiếc rễ này vẫn còn bú và uống nước
nguồn năng lượng cuộc sống, yếu tố tâm linh cao nhất này vẫn
còn tiếp tục mở rộng, và chúng ta cảm thấy mình đang sống. Suy
nghĩ của chúng ta cũng giống như lá của chúng ta, ham muốn của
chúng ta giống như cành của chúng ta, và bản ngã chúng ta được
sinh ra từ sự hợp nhất của lá và cành này. Đây là một phần rất
nhỏ của sự tồn tại của chúng ta. Phần quan trọng nhất của chúng
ta, cái tinh tuý cơ bản của chúng ta, bị dấu ngầm dưới đất; nó
được Upanishad gọi là atman, nghĩa là yếu tố tâm linh cao nhất.
Nó là cái mà chúng ta có thể quên mất, nhưng không có nó chúng
ta không thể sống được. Nó là cái mà không có nó chúng ta
không thể đạt được cái gì cả. Nhưng nó ở sâu dưới đất, ở độ sâu
của sự tồn tại đến mức chúng ta có thể quên mất nó. Yếu tố tâm
linh cao nhất ấy bị lãng quên; chúng ta mất cái nhìn về nó.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng cái mà không có nó
chúng ta vẫn có thể tồn tại không ở rất sâu, nó ở ngay trên bề mặt
thôi, thấy được, và có thể dễ dàng nắm giữ, cho nên khi chúng ta
cố gắng nắm giữ bản thân mình, chính do dồi dào suy nghĩ của
chúng ta mà chúng ta nghĩ là ‘tôi’. Chúng ta nghĩ rằng tâm trí là
‘tôi’. Nhưng tâm trí - yếu tố trí tuệ - chỉ là đám lá của chúng ta
thôi. Yếu tố tâm linh cao nhất là gốc rễ của chúng ta. Và nhớ
trong tâm trí, người có hiểu biết chưa đạt tới chính gốc rễ không
bao giờ có thể biết đến cái nguồn mà từ đó rễ hút nước. Rễ là
atman, còn người đạt tới gốc rễ của mình sẽ sớm sẽ phát hiện ra
đất cái nuôi dưỡng rễ.

Người đã đi tới hiểu ra yếu tố tâm linh cao nhất cũng sẽ có
khả năng biết đến yếu tố tối cao - Paramatman - Thượng đế.
Nhưng chúng ta sống ở lá và nghĩ rằng đám lá đó là ‘tôi’. Cho
nên khi một cái lá nhỏ héo đi và rụng xuống, chúng ta nghĩ là
chúng ta chết, chúng ta đã qua đời, chúng ta đã mất. Và khi tất cả
lá đều héo đi, chúng ta nghĩ bản thân cuộc sống đã tắt. Chúng ta
không biết cuộc sống là gì. Chúng ta sống trong niềm tin rằng cái
vỏ bên ngoài của cuộc sống là ‘tôi’.

Upanishad nói rằng một người sống trong cái vỏ ngoài này là
kẻ giết cái ta. Người biết cái ta là người đi sâu vào bên trong lớp
vỏ, đi xuống tận rễ, tới nơi sự tồn tại làm nên ngọn nguồn nguyên
thuỷ của nó; tại đó người đó phát hiện ra cội nguồn của cuộc
sống. Người biết điều này là người biết cái ta. Chỉ người biết
điều này mới tìm ra ánh sáng; người đó đạt tới sự sống. Người đó
đạt tới bản chất của sự sống.

Ba điều được nhắc tới về yếu tố tâm linh cao nhất này. Điều
thứ nhất là ở chỗ nó bao giờ cũng tĩnh lặng, trong khi tất cả
quanh nó một mạng lưới biến đổi vĩ đại đang tiếp diễn. Điều có
tầm quan trọng lớn là biết về bí mật của cái tĩnh lặng tại trung
tâm. Bất kì chỗ nào biến đổi xảy ra, trung tâm sẽ không tránh
khỏi tĩnh lặng, cũng như cái trục vẫn còn tĩnh tại khi bánh xe
chuyển động. Bánh xe có thể chuyển động được bởi vì cái trục
đứng yên. Bí mật của cái bánh xe chuyển động là ở cái tĩnh lặng
của trục xe. Nếu trục bắt đầu di chuyển, bánh xe sẽ không di
chuyển. Thế thì chiếc xe sẽ bị lật nhào và bị phá huỷ. Việc quay
của bánh xe phụ thuộc vào sự bất động của trục xe.
Trục xe đi được bao nhiêu dặm khi bánh xe quay được một
trăm dặm? Trục xe vẫn còn đứng yên tại chỗ của nó. Điều rất
đáng quan tâm là thấy rằng bánh xe chuyển động cần sự trợ giúp của trục xe bất
động. Bánh xe của thay đổi chuyển động trên cái
không thay đổi. Cho nên điều đầu tiên cần phải nhớ là ở chỗ mọi
thứ trong cuộc sống đều thay đổi; lá sẽ tới và đi chừng nào biến
đổi có đó. Chúng sẽ mọc ra trong mùa xuân này và sẽ rụng đi vào
mùa thu tới. Không cái gì còn tĩnh tại cho dù trong một giây.
Nhưng có một yếu tố không biết nào đó ở sâu, sâu đâu đó bên
trong, cai quản qua trung tâm của mọi vật và mang sự biến đổi
quanh cái tĩnh lặng của riêng nó.

Bạn đã bao giờ thấy cơn xoáy lốc mùa hè di chuyển rất
nhanh trong bầu khí quyển chưa? Nâng cả một đám mây bụi
cùng nó, cơn xoáy lốc xoay tròn lôi mọi thứ lên trời. Bạn sẽ rất
ngạc nhiên mà thấy những dấu vết bị nó bỏ lại trong cát bụi trên
mặt đất. Nó di chuyển mọi thứ đi nhanh làm sao! Nhiều lần nó
cuốn cả người lớn đi nữa. Bạn sẽ rất kinh ngạc nếu bạn quan sát
các dấu vết do nó tạo ra. Có một khoảng không cỡ như một cái
thùng nhỏ, giống như trục của bánh xe, ở trung tâm cơn xoáy lốc.
Không gian này vẫn còn tuyệt đối không bị động chạm. Cho dù
cơn xoáy lốc chuyển động mãnh liệt thế vẫn còn lại ở trung tâm
nó một vị trí mà không bị động chạm tới và không bị xáo trộn.
Một cái trục được tạo ra ở đấy, và toàn bộ cơn xoáy lốc xoay tròn
quanh cái trục vững chắc đó. Thực tế là không cái gì có thể xoay
tròn được nếu không có một trung tâm tĩnh lặng cho nó.
Cuộc sống chuyển động rất nhanh; ý nghĩ xoay tròn rất
nhanh, ham muốn lơ lửng quanh chúng ta theo sự kế tiếp nhanh
chóng, và đam mê cuộn xoáy với lực lớn. Cuộc sống là bánh xe
chuyển động thật nhanh. Upanishad nói có một yếu tố bất động ở
trung tâm của nó. Chúng ta phải tìm kiếm nó. Cơn xoáy lốc mạnh
mẽ như cuộc sống không thể tiếp diễn được nếu không có sự hỗ
trợ của yếu tố đó. Yếu tố vững chắc đó là atman. Nó bao giờ
cũng tĩnh lặng, nó là bất động. Nó chưa bao giờ đi đâu. Nó chưa
bao giờ thay đổi. Nhớ lấy rằng chúng ta chưa biết cuộc sống là gì
chừng nào chúng ta còn chưa gặp cái yếu tố không bị thay đổi và
không thể thay đổi đó. Hiện tại chúng ta chỉ biết tới những thay
đổi xuất hiện ở phạm vi bên ngoài; chúng ta chưa được giới thiệu
với yếu tố tâm linh cao nhất đó. Cho tới giờ chúng ta chỉ quen
thuộc với nan hoa của bánh xe; chúng ta còn chưa thấy cái trục
mà trên đó mọi thứ đều phụ thuộc vào.

Cụm từ ‘trong cái tĩnh lặng của nó’ có nghĩa gì? Dù chúng ta
cho nó bất kì cách diễn giải nào, có toàn bộ khả năng phạm sai
lầm. Phân lớn những người bình chú về Upanishad đều phạm
phải sai lầm này. Cụm từ này này không có nghĩa trì trệ; nó
không có nghĩa rằng nó giống như chiếc ao có nước không chảy
đi đâu. Khi chúng ta nói yếu tố tâm linh cao nhất này là tĩnh lặng,
điều đó không ngụ ý nó là trì trệ. Nó là một yếu tố hoàn hảo thế,
nó là đầy đủ về mọi phương diện đến mức không còn phạm vi
nào trong nó cho bất kì biến đổi nào. Nó chan chứa, lớn lao, vô tư
đến mức tuyệt đối không có tiềm năng nào cho bất kì thay đổi
khác xảy ra trong nó.

Cái đó thay đổi mà trong nó có sự không đầy đủ - nó còn
thiếu cái gì đó. Biến đổi xảy ra tại nơi có phạm vi nào đó cho
việc thích nghi thêm, nơi có tiềm năng nào đó, cơ hội nào đó, để
là cái gì đó khác. Đứa trẻ lớn lên là thanh niên, thanh niên lớn lên
là cụ già, bởi vì còn chỗ nào đó để chừa lại cho thay đổi; cho nên
thay đổi liên tục xảy ra. Lá mọc ra, hoa nở, chúng héo đi và rụng,
và lá mới, tươi lại tới nữa. Yếu tố tâm linh cao nhất là tĩnh lặng.
Điều này có nghĩa là nó là hoàn hảo, đầy đủ về mọi phương diện.
Làm sao bạn có thể thay đổi cái hoàn hảo được? Biến đổi
cho cái hoàn hảo sẽ xảy ra ở phần nào? Không còn chỗ nữa cho
biến đổi. Không còn phạm vi thêm cho thay đổi. ‘Trong cái tĩnh
lặng của nó’ nghĩa là nó được nở rộ hoàn toàn. Không còn chỗ
nào cho việc nở rộ thêm. Nhớ trong tâm trí nó không giống như
ao tù, nó giống như hoa sen đã nở trọn vẹn. Nó đã nở đến mức
không còn nụ nào nữa để nở. Cho nên ở đây cái tĩnh tại, cái tĩnh lặng, có nghĩa là
cái hoàn hảo. Cánh hoa sẽ nở ở đâu, cho dù
chúng muốn nở? - bởi vì yếu tố tâm linh cao nhất là hoàn hảo tới
mức tối đa, tới mức độ cao nhất có thể được. Nó hoàn hảo đến
mức bây giờ không còn chỗ nào cho cánh hoa mở thêm ra nữa,
cho dù chúng muốn làm như vậy. Ở đây, cái tĩnh lặng nghĩa là
tiềm năng toàn bộ đã trở thành thực tại. Bất kì cái gì được che
giấu trong hạt mầm đều được biểu hiện ra toàn bộ - không còn
cái gì vô hình bị bỏ sau nữa. Cho nên, tĩnh lặng ở đây không kéo
theo sức ì hay trì trệ; nó có nghĩa hoàn hảo toàn bộ. Cho nên
nghĩ về đoá hoa nở tròn trịa chứ không phải là cái ao, và thế thì
bạn sẽ hiểu nghĩa của nó.

Điểm tiếp mà lời kinh này của Ishavasya bảo chúng ta là ở
chỗ các giác quan không thể đạt tới atman được, ‘vì nó đứng
trước tất cả chúng.’ Khi bạn ở trước mắt tôi, tự nhiên tôi có thể
thấy được bạn. Nhưng tôi không thể thấy được bản thân tôi bằng
mắt mình vì tôi ở đằng sau đôi mắt. Tôi thấy bạn bởi vì bạn ở
trước mắt tôi. Tôi không thể thấy được bản thân mình bằng mắt
riêng của mình vì tôi ở đằng sau đôi mắt. Nếu tôi mất mắt, nếu
tôi bị mù, thế thì tôi sẽ không có khả năng thấy được bạn chút
nào; nhưng điều đó cũng không khác biệt gì cho năng lực của tôi
thấy bản thân mình. Nếu tôi mất thị giác, tôi sẽ không có khả
năng thấy được bằng mắt của mình. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy
được bản thân mình bằng mắt mình, cho nên mặc dầu trở nên bị
mù tôi sẽ vẫn có khả năng thấy bản thân mình. Về vấn đề này,
hai điểm cần được hiểu thấu cho đúng.

Các giác quan trở thành phương tiện để nhìn, để biết về
những đối tượng ở trước chúng. Chúng không trở thành phương
tiện để thấy những đối tượng ở sau chúng. Từ ‘ở sau’ tại đây
cũng có hai nghĩa. Nó không chỉ có nghĩa là ở sau - đằng sau
lưng - nó cũng còn có nghĩa đứng trước. Khi bào thai bám vào tử
cung để sinh ra đứa trẻ, sự sống tới trước rồi giác quan theo sau
nó. Điều đó hoàn toàn đúng bởi vì, nếu sự sống không tới trước,
ai sẽ tạo ra các cơ quan? Cho nên sự sống tới trước. Linh hồn đi
vào bụng mẹ trước; toàn thể linh hồn đi vào và rồi các giác quan
bắt đầu tiến hoá bộ phận nọ tiếp bộ phận kia khi thân thể bắt đầu
tiến hoá. Các giác quan phát triển chậm qua bẩy tháng trong bụng
mẹ, và chúng có được hình dạng hoàn chỉnh của chúng trong
chín tháng. Nhưng dẫu thế vẫn có cái gì đó không được hoàn
chỉnh. Chẳng hạn, cơ quan dục không phát triển đầy đủ. Nó còn
cần thêm mười bốn năm nữa để tới phát triển đầy đủ của nó,
ngay cả sau khi đã hình thành từ trong tử cung. Có một số phần
của bộ óc phát triển dần dần, và liên tục phát triển trong toàn bộ
cuộc sống. Ngay cả người chết cũng vẫn còn phát triển, ngay cả
thế. Nhưng sự sống tới trước, các giác quan theo sau, và các tính
năng khác xuất hiện sau.

Người chủ tới trước rồi người phục vụ được gọi tới sau đó.
Ai thường gọi tới người phục vụ? Ai sử dụng họ? Người chủ có
thể biết người phục vụ, nhưng ngược lại, người phục vụ không
thể biết được người chủ. Linh hồn có thể biết các giác quan,
nhưng các giác quan, về phần chúng, không thể biết được linh
hồn, vì nó đã tồn tại trước chúng, trước khi chúng thành hình, và
nó tồn tại ở chiều sâu mà các giác quan không thâm nhập tới.
Chúng ở trên bề mặt. Chúng cũng bao phủ cuộc sống. Cho nên
không ai có thể biết linh hồn bằng trợ giúp của giác quan, dù
chúng vận hành nhanh đến đâu cũng không thành vấn đề.
Tâm trí thì cũng là giác quan. Nó chạy nhanh làm sao! Cho
nên, có một phát biểu mâu thuẫn trong lời kinh này; cho dù tâm
trí có chạy nhanh thế, nó không có khả năng đạt tới linh hồn, cái
là tĩnh lặng. Tâm trí chạy nhanh như thế không đạt tới nó. Đây là
cuộc đua rất đáng để ý. Cuộc đua là rất thách đố: tâm trí đua
tranh này không thể đạt tới linh hồn bất động này! Nhưng đây là
điều vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Những thứ bất động chỉ
có thể có được bằng việc duy trì tĩnh lặng, không phải bằng việc
đuổi theo chúng.

Bạn đang bước trên đường... có hoa nở bên vệ đường. Chúng
là tĩnh lặng, bắt rễ tại chỗ. Bạn càng bước chậm, bạn càng thấy
chúng nhiều hơn và nếu bạn đứng tĩnh lặng bạn sẽ có khả năng
thấy tất cả mọi thứ ở đó để nhìn chúng. Nếu bạn đang trong xe
chạy nhanh qua chúng với tốc độ một trăm năm mươi ki lô mét
một giờ, bạn sẽ không thể có được lấy một thoáng nhìn về chúng,
và nếu bạn đang bay trong máy bay qua chúng bạn sẽ không biết
gì về chúng. Giả sử, nếu trong tương lai một phương tiện còn
nhanh hơn được phát minh ra, thế thì bạn sẽ không bao giờ biết
liệu hoa có đó hay không. Một chiếc máy bay bay với tốc độ
mười sáu nghìn ki lô mét một giờ sẽ bỏ lỡ hoa đang mọc bên
đường. Mặc dầu chúng vẫn đang đứng tĩnh lặng, bạn sẽ lỡ chúng
bởi vì tốc độ lớn của bạn.

Tâm trí chạy với tốc độ cực lớn. Cho tới nay chúng ta không
có máy bay hay phương tiện nào có thể sánh được với tốc độ của
tâm trí. Cứ thử dành ra một phương tiện như thế, hay một
phương tiện chạy nhanh hơn tâm trí, để cho tâm trí chúng ta bị bỏ
sau khi chúng ta theo cuộc đua mà xem! Sẽ có không thoải mái
lớn, và rất khó khăn; con người sẽ thấy bản thân mình trong rắc
rối lớn. Không, chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện có chiếc máy
bay bay nhanh hơn tâm trí chúng ta. Lúc mà máy bay tới được
mặt trăng tâm trí chúng ta đã hoàn thành cuộc hành trình của nó
tới sao Hoả rồi. Và khi máy bay tới sao Hoả thì tâm trí lúc đó đã
đi vào một hệ mặt trời khác. Tâm trí luôn chạy trước mọi máy
bay, dù tốc độ của máy bay có thể nhanh đến đâu.

Vậy mà tâm trí, với khả năng tốc độ nhanh thế, không bao
giờ có thể đạt tới được atman bất động. Cho nên điều mà
Upanishad nói là hoàn toàn đúng. Cái tuyệt đối tĩnh lặng không
thể được đạt tới được bằng việc chạy đuổi theo; nó chỉ có thể đạt
tới được bằng việc đứng tĩnh lặng. Nếu tâm trí trở thành yên tĩnh
toàn bộ - tuyệt đối tĩnh lặng - thế thì, và chỉ thế thì, nó sẽ có khả
năng biết cái là tĩnh lặng. Bạn cũng biết điều này - rằng khi tâm
trí tuyệt đối yên tĩnh, nó dừng hiện hữu. Nó chỉ có đấy chừng nào
nó đang chạy. Nói thực, chạy là cái tên khác của tâm trí. Nói tâm
trí đang chạy là việc thừa. Khi chúng ta nói tâm trí đang chạy,
chúng ta lỡ lời, cũng hệt như ta lỡ lời khi nói rằng tia sét đang loé
lên. Trong sự kiện thật, việc loé sáng đó là tia sét. Không cần
phải nêu ra hai phát biểu: “Tia sét đang loé lên.” Bạn đã bao giờ
thấy tia sét mà không loé sáng không? Thế thì sao bận tâm nói
như vậy? Chính việc dùng từ tạo nên khó khăn đó. Chúng ta tách
bạch tia sét với việc loé sáng khi ta diễn đạt hiện tượng đó bằng
lời. Thế rồi chúng ta nói, “Nhìn kìa, tia sét đang loé lên!” trong
khi việc loé sáng và tia sét thực sự là hai tên cho một hiện tượng.
Chúng ta cũng phạm phải cùng sai lầm khi chúng ta nói tâm
trí đang chạy. Thực ra, cái được gọi là tâm trí bao giờ cũng đang
chạy. Chạy là tâm trí! Thế thì một tâm trí tĩnh lặng không có
nghĩa, cũng như một tia sét không loé sáng không có nghĩa. Nếu
ai đó nói, “Tia sét không loé sáng lần này,” bạn sẽ nói ngay, “Thế
thì nó không có đó chút nào,” bởi vì phát biểu, “Tia sét không loé
sáng,” không có nghĩa. Khi nó loé sáng, nó có đấy. Nếu tâm trí
tĩnh lặng, nó dừng hiện hữu. Tâm trí tĩnh lặng trở thành vô trí.
Kabir gọi trạng thái này của vô trí là trạng thái của lặng lẽ.
Khi nó tĩnh lặng, nó dừng tồn tại. Tâm trí chỉ hiện diện khi nó
đang chạy. Đây là lí do tại sao bạn sẽ không bao giờ có khả năng
giữ cho nó tĩnh lặng được. Nếu bạn trở nên tĩnh lặng, bạn sẽ thấy
rằng tâm trí không có. Tâm trí không bao giờ có thể biết được
linh hồn, vì linh hồn không bao giờ có thể được biết tới qua việc
chạy, và tâm trí là từ khác cho việc chạy. Do đó atman chỉ được
biết tới vào ngày không có tâm trí. Chúng ta có thể biết toàn thể
thế giới qua tâm trí; chỉ yếu tố tâm linh cao nhất là vẫn còn
không được biết. Chúng ta có khả năng biết yếu tố tâm linh cao
nhất đó chỉ khi tâm trí không có đó.

Tâm trí có toàn bộ công nghệ bất ổn riêng của nó. Bởi vì
việc chạy không mục đích là không thể được, tâm trí tạo ra
nguyên nhân hay mục đích cho việc chạy của nó. Những điều này
được gọi là ham muốn. Tâm trí nói, “Mình ham muốn điều đó,
cho nên mình sẽ đuổi theo nó.” Làm sao bạn có thể chạy đuổi
được nếu bạn không có ham muốn đạt tới cái gì đó trong tương
lai, hay nếu không có mục đích nào để đạt tới? Do đó hàng ngày
tâm trí đều quyết định hoàn thành một mục tiêu đặc biệt trong
tương lai. Thế thì việc chạy đuổi bắt đầu, nhưng vào lúc mà mục
đích được đạt tới, người ta phát hiện ra nó là vô dụng vì nó chỉ
đơn thuần là cái cớ cho tâm trí chạy đuổi. Mục đích được đạt tới
trở thành vô giá trị khi được hoàn thành. Thế thì tâm trí tìm kiếm
cái cớ khác, mục đích khác để được đạt tới. Sau khi đạt tới mục
đích đó nó sẽ nói, “Chẳng có gì thực chất trong cái này. Bây giờ
mình phải cố gắng cho mục tiêu kia...” Cho nên nó tiếp tục chạy
đuổi, thêm nữa thêm nữa.

Đây là lí do tại sao tâm trí bao giờ cũng ở tương lai. Nó
không bao giờ có thể trong hiện tại. Người muốn chạy sẽ phải
sống trong tương lai. Tâm trí bao giờ cũng ở phía trước bạn. Nó
sẽ không còn ở đây nơi bạn đang có đấy. Để ở đây, nơi bạn đang
có đấy, việc chạy phải dừng lại. Linh hồn - atman - là ở đây nơi
bạn có đấy, và tâm trí có đấy nơi bạn không có - nơi bạn chưa
bao giờ có đấy. Nó bao giờ cũng ở trước bạn, và bất kì nơi nào
tâm trí đạt tới nó đều nói, “Cái này vô dụng, vô giá trị. Đi tiếp
đi!” Nó giống như cột mốc có mũi tên bao giờ cũng báo bạn đi
tiếp. Nhưng trong những cột mốc này mọi lần chúng ta đều bắt
gặp một cột mốc đánh số không, thay vì mũi tên.
Hôm qua trong khi đi dạo tôi đã thấy một cột mốc với dấu số
không trên đó. Không có mũi tên chỉ lối này hay lối nọ, vì số
không nghĩa là điểm đích. Không đâu nữa mà đi; bạn đã đạt tới
đích của mình. Nhưng tâm trí bịa ra mũi tên nói, “Đi tiếp.” Cột
mốc với số không không bao giờ được thấy trên cuộc hành trình
của tâm trí. Và nếu vào bất kì lúc nào, bất kì ngày nào, bạn bắt
gặp một cột mốc như thế, biết rằng bạn đã đến một nơi được biết
như thiền. Khi bạn tình cờ thấy cột mốc đó trên cuộc hành trình
của mình, biết rằng đấy là việc nhận ra atman. Linh hồn có đấy
nơi có số không. Cho nên những người đã biết tới điều tối thượng
đều tuyên bố rằng bạn sẽ không thể biết được nó thông qua tâm
trí; bạn sẽ biết nó bởi số không. Nhớ lấy, cái mà người chứng ngộ
gọi là số không chính là vô trí.

Tôi đã bảo bạn tâm trí luôn tạo ra cớ để săn đuổi mọi thứ.
Khi nó bắt đầu chán ngán với mọi thứ trần thế, chúng bị dẹp sang
một bên. Tâm trí nói, “Mình thu được giầu sang lớn lao, mình đã
xây dựng nhiều toà nhà, mình đã mua bao nhiêu thân thể cho việc
tận hưởng nhưng không thu được bản chất gì từ những thứ này.”
Thế rồi nó chơi trò mẹo cuối cùng để giữ việc chạy đuổi của nó:
nó bắt đầu tạo ra mũi tên trỏ tới thế giới tiếp, tới cõi trời, tới cứu
rỗi và Thượng đế. Cho dù thế, nó không yêu cầu chúng ta dừng
tạo ra mũi tên và quay trở về số không. Không, bây giờ nó nói,
“Thử đạt tới giầu có tâm linh xem sao. Giầu có trần thế mình đã
đạt tới rồi và thấy nó vô dụng, cho nên thử tiếp xem sao! Bây
giờ mình phải cố gắng đạt tới tôn giáo. Mình biết mình có thể
làm được điều đó. Bằng cách này hay cách khác, mình sẽ làm
điều đó!”

Thôi thúc trở thành dai dẳng. Nếu nỗ lực để có được cái gì
đó vẫn tiếp tục, thế thì tâm trí cũng sẽ tiếp tục. Nhớ lấy điều này:
người không phải là người tôn giáo thực là người ước ao đạt tới
điều gì đó. Người tôn giáo là người đã nhận ra chân lí rằng mọi
hoạt động nhằm thu được đều chỉ là tâm trí; người đó từ bỏ cố
gắng đạt tới bất kì cái gì. “Bây giờ tôi không còn cố gắng đạt tới
bất kì cái gì. Bây giờ, chung cuộc, tôi sẵn sàng cho tĩnh lặng. Bây
giờ, cho dù Thượng đế có yêu cầu tôi tới chỗ ngài, chỉ bước hai
bước tới chỗ ngài, tôi sẽ vẫn còn tĩnh lặng. Bây giờ tôi đang đứng
ở cột mốc số không. Tôi không còn cuộc hành trình nào cần tiến hành bây giờ nữa.”
Nhận biết đi, người đứng tĩnh lặng, trong cái
tĩnh lặng ấy của người đó, người đó tìm thấy Thượng đế. Người
chạy theo Thượng đế không bao giờ đạt tới ngài bởi vì việc chạy
là của tâm trí, và yếu tố tâm linh cao nhất đó không bao giờ được
đạt tới bởi tâm trí.

Khi bạn phát chán với việc tìm kiếm theo các đồ vật trần
gian bởi tâm trí, bạn sẽ bịa ra những cái cớ mới cho tâm trí -
atman, Thượng đế, chứng ngộ. Phật đi xa khi chối bỏ sự tồn tại
của atman, vì bằng không bạn sẽ dồn mọi nỗ lực vào việc cố
gắng tìm ra nó. Tâm trí láu cá thế, nó sẽ nói, “Được thôi, nếu
không có cái gì khác, ít nhất có atman, cho nên ta sẽ theo đuổi cái
đó! Ta sẽ cống hiến năng lực của mình để đạt tới điều đó!” Nếu
nó không chạy về nhà nó sẽ chạy hướng tới đền thờ. Nó phải
chạy - nếu không hướng tới đối tượng vật chất thế thì hướng tới
Thượng đế; trong bất kì trường hợp nào, tâm trí phải chạy.
Nhưng chỉ những người đứng tĩnh lặng mới tìm thấy nó. Đây
là tuyên bố của lời kinh này. Nó ở sau các giác quan và bên ngoài
tâm trí. Cả hai không thể giúp cho bạn đạt tới atman. Thế thì
chúng ta phải làm gì? Vì nó ở sau giác quan, vứt bỏ mọi khái
niệm rằng chúng có thể giúp bạn. Vì nó ở bên ngoài tầm với của
tâm trí, dừng việc tuỳ thuộc vào tốc độ tâm trí của bạn.
Tôi đang nói cho bạn để không đặt tin tưởng nào vào cả tâm
trí lẫn giác quan. Khi tôi yêu cầu bạn nhắm mắt, thực ra đấy là
yêu cầu bạn phá vỡ thói quen phụ thuộc vào một giác quan đặc
biệt. Tôi đang bảo bạn, bạn đã từng thấy quá đủ bằng mắt bạn,
vậy mà điều đó vẫn không được thấy. Mắt đã hoạt động trong
nhiều kiếp rồi, nhưng điều đó không thể được thấy. Bây giờ
chúng ta thấy bằng mắt nhắm.

Chúng ta đã cố gắng vất vả để nghe tiếng nói của điều đó,
nhưng điều đó không thể được nghe thấy. Chúng ta đã mong mỏi
đam mê để nghe thấy âm nhạc của nó, nhưng tai chúng ta không
bắt được nó. Bây giờ, chúng ta nút tai lại. Chúng ta đã suy nghĩ
và suy tư vô tận, nhưng không bao giờ có thể phát minh ra lời
kinh đưa chúng ta tới đó. Chúng ta đã cố gắng vất vả với tâm trí,
chúng ta đã chịu đựng nhiều lo âu và buồn phiền, chúng ta đã lập
luận và cân nhắc, và đã nhìn vào nhiều triết học, nhiều tôn giáo
và nhiều kinh sách. Chúng ta đã tạo ra nhiều cuốn sách và lập ra
nhiều lí thuyết và nguyên lí, nhưng không tìm được bất kì dấu vết
nào của điều đó. Bây giờ gạt sang bên tất cả những điều này đi.
Chúng ta từ bỏ suy nghĩ. Bây giờ chúng ta đi vào vùng vô suy
nghĩ. Có lẽ ở đây điều đó có thể được tìm ra.

Tôi dùng từ có lẽ cho bạn. Nó chắc chắn được đạt tới ở đây.
Nhưng trong khi nó vẫn còn chưa được đạt tới, ngay cả với tin
tưởng chân thành rằng trong vùng vô trí nó chắc chắn sẽ được
tìm thấy, là nguy hiểm. Cho nên tôi dùng từ có lẽ cho bạn: thông
thường, việc giữ niềm tin như thế trở thành chướng ngại cho tiến
bộ của chúng ta. Người ta khuyên chúng ta rằng điều đó là được -
rằng bây giờ chúng ta sẽ có nó, rằng bây giờ chúng ta đã tìm thấy
cách thức để chắc chắn! Cho nên các lí thuyết đi tới trông có vẻ
như những thành tựu. Đấy là lí do tại sao tôi dùng từ có lẽ, để cho
bạn có thể được thuyết phục đi vào trong thực nghiệm.
Đấy là điều chắc chắn đạt tới được, nhưng phải từ bỏ sự hỗ
trợ của các giác quan. Tâm trí, chạy và đua, phải bị loại bỏ. Đấy
là bản tính của yếu tố tâm linh cao nhất, cái đã và bao giờ cũng
hiện hữu bên trong chúng ta, nhưng cái mà chúng ta liên tục bỏ
lỡ qua những phương sách và kế hoạch của riêng chúng ta cho
cuộc sống. Nó chưa bao giờ bị chúng ta đánh mất, nó đơn giản bị
quên lãng. Chúng ta đơn giản quên nó. Nhưng trong khi quên nó,
toàn thể cuộc sống của chúng ta trở thành vô giá trị, trở thành địa
ngục. Trong khi quên nó, không hoa nào phát triển trong cuộc
sống, chỉ gai. Trong khi quên nó, cuộc sống trở thành sa mạc
không có sông, không luồng nước ngọt. Mọi hạnh phúc biến mất.
Cuộc sống của chúng ta trở thành sa mạc nơi mà, dù chúng ta tìm kiếm nhiều đến
đâu, không dòng nước nào được tìm thấy, và chỉ
có cát tuột qua đôi tay chúng ta. Chúng ta bước đi bao lâu không
thành vấn đề, không bóng râm nào được thấy, không đâu là nơi
trú ngụ, không đâu là chỗ nghỉ ngơi.

Hiểu điều này: không có chỗ trú ngụ nào, không có ốc đảo
nào trong cuộc sống, nếu không có yếu tố tâm linh cao nhất đó,
atman. Không cực lạc nào từng tuôn chảy mà không có yếu tố
tâm linh cao nhất đó. Nó là tất cả nói chung. Nó là tinh hoa thực.
Nhưng những người bị vướng vào lá cây không có khả năng tụt
xuống rễ. Lá có thể công nhận việc mọc ra của chúng là từ rễ,
nhưng những người vẫn còn vướng trong lá không bao giờ phát
hiện ra rễ. Từ bỏ lá đi. Đi sâu xuống vào bên trong, vượt ra ngoài
cảm giác, vượt ra ngoài giác quan, vượt ra ngoài ý nghĩ. Đi vào
bên trong và ra sau chúng, dần dần, cho tới khi bạn đi tới điểm số
không. Nó là ở bên trong mọi người. Xoay xung quanh nó, chúng
ta vẩn vơ đây đó, nhưng không có nó không thể có việc lang
thang được. Không có điểm số không bên trong đó, không có yếu
tố tĩnh lặng hoàn hảo đó tại trung tâm, toàn thể quá trình biến đổi
này, mạng lưới tuần hoàn khổng lồ này, không thể tiếp diễn
được. Việc chạy đuổi này của bạn giống như cơn bão, việc xoay
tròn này giống như cơn xoáy lốc, tất cả những điều này phụ thuộc
vào sự hiện diện của số không đó.

Để tôi làm rõ một điều cuối cùng về vấn đề này. Có hai cách
mô tả cho một điều đó: như số không và như sự hoàn hảo.
Upanishad thích thuật ngữ hoàn hảo; họ ưa chuộng dùng từ hoàn
hảo. Khi Upanishad đã đi vào sự tồn tại, khi những lời kinh này
lần đầu tiên được đọc ra, con người chỉ có khả năng hiểu nghĩa
này là hoàn hảo. Từ này diễn tả nghĩa này trong ngôn ngữ khẳng
định. Việc dùng từ số không là để diễn tả nghĩa theo ngôn ngữ
phủ định. Để hiểu thuật ngữ hoàn hảo người ta phải có trái tim
hồn nhiên của trẻ thơ. Người già không có khả năng hiểu ngôn
ngữ này, người đang đi xa hơn mỗi ngày khỏi trạng thái trẻ thơ.
Những người, giống như trẻ thơ, đã hiểu ngôn ngữ của hoàn
hảo trong những ngày khi lời kinh này được soạn ra. Bạn sẽ hiểu
tình huống này nếu bạn đã từng nghiên cứu trẻ con, nếu bạn đã
theo cách thức và hành vi của chúng. Bước đi trên đường đứa trẻ
hỏi đủ mọi loại câu hỏi; tất cả trẻ con đều làm điều này. Thỉnh
thoảng câu hỏi khá thách đố, nhưng bạn đưa ra cho chúng những
câu trả lời dễ dàng đơn giản, và chúng hài lòng và trở nên yên
tĩnh.

Những câu hỏi đó đôi khi khó đến mức người già hơn không
có câu trả lời cho chúng. Khi một em bé mới được sinh ra trong
nhà, trẻ nhỏ sẽ hỏi, “Em bé mới này từ đâu đến thế?” Câu hỏi này
thật khó. Bây giờ, người lớn không có câu trả lời đúng cho câu
hỏi này; cả những người biết - các nhà sinh học - cũng không có
câu trả lời đúng. Họ nói, “Chúng tôi vẫn còn đang nghiên cứu.
Chúng tôi chưa biết dứt khoát em bé đến từ đâu. Chúng tôi có thể
nói cho các anh những điều chúng tôi có khả năng phát hiện ra,
nhưng cuộc sống đến từ cõi bên kia xa xăm; chúng tôi không biết
điều gì một cách dứt khoát.”

Cho nên ngay cả các nhà nghiên cứu, người đã dành nhiều
kiếp sống cho vấn đề này cũng không biết. Và những người cho
sinh ra trẻ con không biết gì hết cả về điều đó, vì không cần phải
biết gì về điều đó để sinh ra trẻ con. Nhưng ý tưởng sai lầm này
được tạo ra rằng người bố của bẩy đứa con nên biết đứa trẻ từ
đâu đến, và vì người đó cũng đã sống trong ảo tưởng này nên
người đó sẽ đưa ra lời đáp, người đó sẽ tìm ra câu trả lời. Nhưng
quan sát thật kĩ lưỡng phản ứng của đứa trẻ mà xem. Nó hỏi
những câu hỏi khó thế - trẻ con từ đâu tới? - điều đó ngay cả
khoa học vẫn còn chưa phát hiện ra câu trả lời đúng; và như tôi
thấy, khoa học không bao giờ có được câu trả đúng. Nhưng bạn
ngay lập tức đáp rằng bạn đã thấy con cò đem em bé tới. Đứa trẻ
tin vào bạn, và chạy đi chơi. Với nó vấn đề thế là xong.
Nó đã tin vào bạn. Tâm trí của nó là tâm trí khẳng định,
không phản đối, không hoài nghi cho đến lúc đó. Nó sẽ không
hỏi để phản đối, “Làm sao cò đem em bé tới được? Nó lấy em bé
từ đâu?” Bây giờ nó không nêu ra chút hoài nghi nào. Về sau nó
sẽ hoài nghi. Rồi một ngày sẽ tới khi câu trả lời, “Cò đem em bé
tới,” không còn tác dụng nữa. Thế thì nó sẽ hỏi nhiều câu hỏi và
bày tỏ nhiều hoài nghi. Thế thì bạn sẽ biết rằng tâm trí phủ định
đã đi vào sự tồn tại.

Có một thời đại khi toàn thể thế giới, toàn thể loài người đã
từng hồn nhiên như trẻ nhỏ; người ta tin vào điều họ được nói
cho. Cho nên kinh sách càng cổ bạn sẽ càng ngạc nhiên và bối rối
nhiều. Bạn sẽ bị lẫn lộn bởi thiếu logic, và bởi vắng bóng lập
luận khéo. Chỉ có những phát biểu trực tiếp. Ai đó đến một hiền
nhân và bảo ông ta, “Tôi rất không thoải mái và lo âu. Tôi phải
làm gì để có được an bình tâm trí?” Hiền nhân nói, “Niệm tên
Rama đi.” Người hỏi được thoả mãn và nói, “Được rồi, tôi sẽ
niệm,” và ra đi. Người đó thậm chí không hỏi điều gì sẽ xảy ra
hay hỏi làm sao người đó có thể được trợ giúp chỉ bởi việc niệm
tên Rama. Người đó không hỏi bất kì câu hỏi nào. Nhớ trong tâm
trí, không cái gì sẽ xảy ra bởi việc niệm tên của Rama, nhưng
hoàn cảnh của tâm trí con người là tới mức ngay cả nếu hiền
nhân yêu cầu người đó lẩm nhẩm “Hòn đá, hòn đá!” người đó sẽ
được lợi.

Không cái gì xảy ra bởi việc niệm hoặc từ Rama hoặc từ hòn
đá. Nhưng chính hoàn cảnh khẳng định của tâm trí, tâm trạng hồn
nhiên của việc chấp nhận, không biết tới chối bỏ hay không vâng
lời, không phát sinh hoài nghi, làm cho nó có kết quả. Đó là lí do
tại sao người ta hay nói, “Đi và niệm tên Rama rồi mọi thứ sẽ ổn
thoả .” Người này về nhà, niệm tên Rama, và mọi sự ổn thoả.
Nhớ lấy, không cái gì xảy ra bởi việc niệm tên Rama. Nó xảy ra
là bởi vì thái độ khẳng định của tâm trí. Nếu như hiền nhân đã
nói, “Cầm lấy bùa hộ mệnh này,” hay nếu ông ta đưa cho người
đó một thứ nước nào đó và bảo người đó uống, người này chắc
chắn sẽ uống nước bùa đó và nó sẽ có kết quả. Bất kì cái gì cũng
đều sẽ có hiệu quả. Không cái gì khác biệt khi phương thuốc là
thế này hay thế nọ. Điều quan trọng là tâm trí khẳng định đằng
sau toàn thể sự việc. Nếu điều đó có đấy, kết quả là thành công
chắc chắn.

Nhưng bây giờ thái độ khẳng định của tâm trí đã mất rồi. Nó
đã hoàn toàn biến mất ngay vào thời của Mahavira và Phật. Cho
nên cả Mahavira và Phật đều phải dùng ngôn ngữ phủ định.
Mahavira đã dùng nó chút ít và tuyên bố, “Không có Thượng
đế!” - không phải bởi vì đã không có Thượng đế, mà bởi vì bây
giờ không còn người nào sẽ nhảy múa vui vẻ khi được bảo rằng
có Thượng đế. Một người như vậy sẽ không hỏi, “Ngài ở đâu?”
Người đó đơn giản nhảy múa theo cách của mình để đi vào cực
lạc. Người đó sẽ nói, “Nếu có Thượng đế, tôi sẽ tới gặp ngài, và
cửa cõi trời sẽ được mở cho tôi.” Và nhớ lấy, không có cánh cửa
nào không mở cho một tâm trí tin cậy và hồn nhiên như thế.
Không có những người như thế ngồi cùng Mahavira. Khi
ông ấy bảo ai đó, “Thượng đế có đấy,” người đó lập tức đối chất
với Mahavira với hàng loạt câu hỏi về chủ đề này. Thế thì
Mahavira nói, “Không có Thượng đế đâu.” Thực ra, câu trả lời
thứ nhất của ông ấy là đúng, nhưng khi một ai đó bắt đầu đưa ra
hoài nghi, toàn bộ tình huống trở thành ngớ ngẩn và vô ích.
Không có ý nghĩa gì trong câu trả lời này nếu hoài nghi được nó
gợi ra. Đó là câu trả lời của các hiền nhân cổ đại. Nhưng mọi
người trong thời của Mahavira bắt đầu hỏi, “Thượng đế là ai?
Ngài ở đâu? Ngài có bao nhiêu đầu? Ngài có bao nhiêu tay? Ngài
được sinh ra thế nào? Ngài từ đâu tới? Chúng ta có thể gặp ngài ở
đâu?” Cho nên Mahavira nói, “Ngài không có đó chút nào.”
Câu trả lời cũ không còn hữu dụng nữa. Câu trả lời mà từ đó
câu hỏi bắt đầu nảy ra là không có giá trị nào. Mục đích của câu trả lời là để
cho câu hỏi được tập trung vào trong nó. Đó là câu
trả lời hàm chứa câu hỏi, cho nên câu hỏi rơi đi. “Có Thượng
đế!” là câu trả lời lớn nhất, nhưng Mahavira bị buộc phải từ bỏ
nó đi. Và Phật đã phải đi thêm một bước nữa.
Mahavira chấp nhận sự tồn tại của linh hồn, atman, với sứ
mệnh của ông ấy. Khác trong quan điểm của Mahavira và Phật
đã nảy sinh nhanh chóng thế. Không có khác biệt gì lớn giữa thời
đại của Mahavira và Phật, thực ra chỉ ba mươi năm. Vậy mà Phật
đã buộc phải nói, “Không có điều như linh hồn.” Mahavira đã
nói, “Không có Thượng đế, có linh hồn.” Phật phải nói, “Thậm
chí không có cả linh hồn,” vì vào thời của Phật người ta bắt đầu
hỏi, “Atman có nghĩa gì?

Không có câu trả lời cho điều đó. Phật nói, “Nó là số không;
nó là cái không.” Nhớ lấy, câu hỏi không thể nảy sinh đối với số
không, vì nó có nghĩa là cái không có đấy. Câu hỏi nào có thể
được nêu ra về nó? Câu hỏi không thể được đưa ra cho số không.
Và nếu bạn đưa ra bất kì câu hỏi nào, điều đó nghĩa là bạn đã
không hiểu. Nghĩa của số không là ở chỗ nó không có. Bây giờ,
bạn có thể hỏi câu hỏi nào thêm nữa về nó? Bản thân chúng ta
nói, “Nó không có.” Phật nói, “Số không. Cái không!” và hướng
dẫn mọi người trở thành được hợp nhất với nó. Toàn thể ngôn
ngữ bị thay đổi. Nhưng tôi bảo bạn rằng số không và sự hoàn hảo
là một và là cùng một thứ. Từ hoàn hảo là câu trả lời của tâm trí
khẳng định, và từ số không là câu trả lời của tâm trí phủ định.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng chúng ta, trong thế giới
này, không có kinh nghiệm gì về sự hoàn hảo, khác với kinh
nghiệm về số không. Đó là lí do tại sao vòng tròn được chúng ta
tạo ra và chấp nhận như biểu tượng về số không. Nó là hình vẽ
hoàn hảo nhất được con người vẽ ra. Không một hình nào khác là
hoàn hảo. Điều cũng đáng quan tâm để biết là, trong mọi nước
trên thế giới, hình số không lần đầu tiên đã được phát minh ra ở
Ấn Độ; và nó được phát minh ra không phải bởi các lí do toán
học mà bởi các lí do của Veda, với mục đích để hiểu biết.

Số một tới chín cũng đã được hình thành nên ở Ấn Độ,
nhưng điều rất đáng quan tâm là tất cả những con số này từ một
tới chín đều không hoàn hảo. Cái gì đó có thể được thêm vào
chúng. Với số một, một khác có thể được cộng vào, và cái mà với
nó cái gì đó có thể được thêm vào là không hoàn hảo, vì giá trị
của nó tăng lên theo phép cộng. Cái gì đó có thể được lấy đi, bớt
từ nó đi, và cái mà từ đó cái gì đó có thể được lấy bớt đi, do vậy
làm bé nó đi, là không hoàn hảo. Bạn không thể thêm cái gì vào
số không cũng không bớt cái gì đi từ nó được. Nó là hoàn hảo.
Bạn không thể bớt cái gì từ số không - làm sao bạn có thể bớt cái
gì từ cái không? - bạn cũng không thể thêm gì vào số không
được. Bạn có thể làm thế nào?

Số không là biểu tượng, là hình ảnh cho sự hoàn hảo. Nó là
hình ảnh hình học của sự hoàn hảo. Chúng ta mang số không
này, hình ảnh của sự hoàn hảo, bên trong chúng ta. Nếu bạn có
thể đi tới hiểu Thượng đế thông qua sự hoàn hảo, điều đó là tốt.
Và nếu bạn không thể hiểu được qua sự hoàn hảo, thế thì tới qua
số không. Sẽ không khác biệt gì về kết quả cuối cùng.
Qua thay đổi thái độ tâm trí hai con đường đã đi vào hiện
hữu, dẫn tới cùng đích. Nếu tâm trí bạn có tính khẳng định và
bạn cảm thấy bạn sẽ không nhận ra nó qua số không, bạn nên lấy
con đường của nhảy múa, ca hát và hiện hữu trong cực lạc. Và
nếu bạn cảm thấy tâm trí bạn có tính phủ định và hoài nghi, thế
thì cứ duy trì im lặng, yên tĩnh, là số không, và mất hút trong số
không. Nếu bạn nghĩ tâm trí bạn có cách tiếp cận phủ định, thế
thì trở nên được thống nhất với số không. Kết quả cuối cùng là
như nhau.

Nhảy múa đó, cực lạc đó, sẽ tới qua cả số không nữa, nhưng
nó sẽ tới bởi việc là số không, và số không sẽ tới qua nhảy múa, bởi việc trở
thành một với việc nhảy múa. Người có hoàn cảnh
tâm trí thiên về sự hoàn hảo sẽ nhảy múa, ca hát và tụng niệm lời
cầu nguyện ngay từ đầu và do vậy biến mất trong số không. Khi
việc nhảy múa trở thành nhanh và hoang dại, chỉ thế thì việc
nhảy múa của người đó còn lại, và khi nó trở thành điên cuồng
như một cơn xoáy lốc, người đó bắt đầu kinh nghiệm số không
bên trong. Người đó sẽ cảm thấy ai đó đang đứng đằng sau. Thân
thể sẽ tiếp tục nhảy múa và số không, atman, sẽ đứng lại, sẽ được
thức tỉnh bên trong. Điểm tĩnh lặng sẽ bắt đầu xuất hiện cùng với
bánh xe xoay tròn.

Nhớ trong tâm trí rằng nếu bánh xe bất động, sẽ khó biết tới
điểm tĩnh lặng bởi vì cả hai sẽ tĩnh lặng. Sẽ khó phân biệt nổi đâu
là trục xe và đâu là bánh xe nếu bánh xe bất động. Nếu bánh xe
đang chuyển động, sẽ dễ dàng biết được trục vì nó sẽ không
chuyển động khi bánh xe đang chuyển động. Được nhấn chìm
trong cực lạc bởi việc trở thành một với sự hoàn hảo, một
Chaitanya hay một Meera nào đó đang nhảy múa. Khi điệu nhảy
tiếp tục, bánh xe quay càng ngày càng nhanh, và điểm trung tâm
xuất hiện như sự tách biệt trong cái tĩnh lặng của nó.
Nếu bạn bắt đầu với số không thì bạn bắt đầu cảm thấy trống
rỗng bên trong. Khi mọi thứ bên trong trở thành trống rỗng, bánh
xe bên ngoài bắt đầu được thấy đang quay; ý nghĩ tới và đi,
samsara, thế giới, đang tiếp diễn.

Cuộc hành trình tới điều tối thượng có thể bắt đầu từ trục xe
hay từ bánh xe. Cả hai sẽ đem chúng ta tới điểm cuối cuộc hành
trình. Yếu tố tâm linh cao nhất có thể được biết tới hoặc bởi việc
trở thành sự hoàn hảo hoặc bởi việc trở thành số không; nhưng
các giác quan không thể đưa chúng ta hoặc tới sự hoàn hảo hoặc
tới số không được - mà tâm trí thì cũng không thể đưa ta tới đó
được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến