Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

Tôi không là thân thể

Người biết cả vidya và avidya ,vượt qua cái chết qua avidya, và kinh nghiệm cái bất tử qua vidya.

Người biết cả avidya và vidya, khi vượt qua cái chết, sẽ biết
cái bất tử. Đây là đôi câu thơ rất hãn hữu. Nó nói với bạn rằng
Upanishad là không đối lập với avidya. Họ thiên về vidya nhưng
không đối lập chút nào với avidya. Nó được nói, “Người biết
avidya sẽ vượt qua cái chết.” Toàn thể xung đột của avidya là
chống lại cái chết. Bác sĩ đang tranh đấu với cái chết, các kĩ sư
đang tranh đấu với cái chết. Toàn bộ nỗ lực của khoa học, mọi
hoạt động của nó, đều hướng vào việc chống lại cái chết - chống
lại bệnh tật, chống lại bất an, chống lại những nguy hiểm tương
lai. Việc bảo đảm rằng cuộc sống không kết thúc, việc bảo đảm
cho nó được bảo toàn, là toàn bộ nỗ lực của avidya - của tri thức
khoa học. Toàn thể avidya là cuộc tranh đấu thường xuyên với
cái chết. Cho nên người thành thạo trong avidya thành công dồn
cái chết vào đường cùng. Tức là, người đó sống một cách thoải
mái. Theo nghĩa này, qua avidya người đó vượt qua cái chết -
nhưng người đó không thể đạt tới cái bất tử. Người đó đơn giản
kiểm soát cái chết hoàn toàn thoải mái.

Với sự trợ giúp của avidya chúng ta có thể tồn tại, nhưng
chúng ta không thể nếm trải thực chất của cuộc sống. Chúng ta
có thể đơn thuần tồn tại. Điều này nên được gọi là sống vô vị.
Chúng ta sẽ chạy theo quá trình của cuộc sống. Mọi thứ - thức
ăn, nhà cửa, thuốc thang và vân vân - sẽ có sẵn cho chúng ta.
Chúng ta sẽ có tất cả nó, và cuộc sống sẽ trôi qua dễ chịu, thoải
mái. Nhưng cái bất tử sẽ không có sẵn cho chúng ta. Và cho dù
avidya có thành công trong việc ngăn cản cái chết, cái bất tử vẫn
sẽ không sẵn có.

Khoa học hiện đại bận rộn tìm kiếm các cách thức và
phương tiện để chinh phục cái chết. Toàn thể nỗ lực của khoa học
thực sự để cứu con người khỏi cái chết. Đó là lí do tại sao khoa
học sính tìm ra cách thức để cái chết có thể được tránh, cách thức
nó có thể được tránh mãi mãi. Tình huống này có thể nảy sinh trong tương lai xa
khi chúng ta có thể, nếu chúng ta muốn, tránh
cái chết mãi mãi. Nếu chúng ta hiểu đúng tiến bộ của khoa học
trong ba nghìn năm qua chúng ta sẽ thấy rằng điều này đã là toàn
bộ hoạt động của nó. Toàn bộ xung đột của nó là chống lại cái
chết, và nó đã thành công tới một mức độ lớn.

Một nghìn năm trước đây, chín trong mười đứa trẻ mới sinh
thường chết, còn ngày nay, trong những nước mà khoa học có
tiến bộ nổi bật, thậm chí không đến một trong mười đứa trẻ mới
sinh ra bị chết. Trong những cái xương mà các nhà khoa học tìm
ra về những người sống mười nghìn năm trước đây, không mấy
người được coi như đã sống quá hai mươi nhăm tuổi. Không
người nào sống lâu hơn bốn mươi nhăm tuổi. Không một bộ
xương nào được tìm thấy vào thời ấy trên trái đất này của người
mười nghìn năm trước đây chỉ ra rằng người đó sống lâu hơn bốn
mươi nhăm tuổi.

Vậy mà ngày nay có hơn một nghìn người trên một trăm
năm mươi tuổi ở nước Nga Xô viết. Việc sống một trăm tuổi bây
giờ trở thành chuyện bình thường. Bạn có thể ngạc nhiên mà đọc
trong báo rằng một ông già chín mươi tuổi người Nga mới lấy
vợ. Chúng ta nghĩ người già phải lú lẫn lắm. Nhưng nhớ rằng ông
già đó vẫn chưa là già đâu, và rằng ông ấy không làm bất kì cái gì
không thông thường. Khi ông già chín mươi tuổi lấy vợ ở Nga,
đừng so sánh ông ấy với người già ở nước chúng ta. Người già ở
nước chúng ta sẽ chết hai mươi năm trước khi đạt tới độ tuổi ấy.
Ông già chín mươi tuổi đó thuộc vào một cộng đồng nơi độ tuổi
tối đa là một trăm năm mươi tuổi. Đến độ tuổi nào một người vẫn
còn là trẻ khi khoảng đời của người đó mở tới một trăm năm
mươi tuổi? Bạn sẽ không ấn định độ tuổi đó là ít nhất ở một trăm
chứ?
Bất kì khi nào khoa học thành công, cái chết lại bị đẩy lùi xa
thêm một chút, và trong những thời gần đây khoa học đã thực
hiện thêm nhiều tiến bộ nữa. Rất có cơ may là dường như đến
cuối thế kỉ này chúng ta sẽ có thể giữ cho con người sống vô hạn
định nếu chúng ta muốn làm điều đó. Sẽ không có chướng ngại
còn lại để ngăn cản khoa học hoàn thành điều đó. Con người có
thể được làm cho sống vô tận. Đó là lí do tại sao một số nhà tư
tưởng phương Tây, và đặc biệt là Mĩ, đã bắt đầu phản đối kịch
liệt rằng trước khi khoa học thành công trong việc kéo dài cuộc
sống của con người, chúng ta phải bổ sung thêm qui tắc này vào
hiến pháp của đất nước - rằng mọi người được sinh ra đều có
quyền được chết. Bằng không một tình huống rất khó khăn sẽ
nảy sinh; bởi vì nếu chính phủ không cho phép một người được
chết, người đó sẽ không có quyền được làm như vậy.

Cho tới tận bây giờ chúng ta đã đặt ra các qui tắc trên toàn
thế giới rằng không ai có quyền được giết người khác. Nhưng
bây giờ, trên toàn thế giới - đặc biệt là ở các nước như Thuỵ sĩ,
Thuỵ điển và Na uy, nơi khoa học đã thành công trong việc kéo
dài cuộc sống con người - mọi người bắt đầu khuấy lên việc kết
thúc cuộc sống. Những người thông minh đã khởi xướng những
chiến dịch tuyên truyền xác nhận rằng không bác sĩ nào được
quyền cứu mạng cho người muốn được chết, và nếu bác sĩ cứu
mạng cho người như thế, phải coi đó là sự lạm dụng chống
quyền cơ bản của người đó, quyền cơ bản của người đó đối với
cuộc sống của riêng mình.

Chúng ta đang trong một vị thế nguy hiểm. Giả sử một người
đã một trăm năm mươi tuổi. Bây giờ, người đó sẽ là ngớ ngẩn
nếu người đó muốn sống lâu hơn, người đó muốn có nghỉ ngơi
mãi mãi, được chết. Nhưng các bác sĩ phải giữ người đó ở bệnh
viện để chữa chạy và cố gắng giữ người đó sống, bởi vì hiện tại
các bác sĩ không có quyền giúp cho người ta chết. Cho nên họ sẽ
cố gắng tối đa để cứu người này. Nếu mặc cho những cố gắng
của bác sĩ, người bệnh vẫn chết, đấy là vấn đề khác. Cho nên sự khuấy động cứ
tiếp tục để đòi cho con người cái quyền được chết
nếu người đó chọn lựa cái chết.

Vấn đề này không mấy chốc đang trở thành rất có ý nghĩa,
bởi vì không một cơ chế nào đã tìm ra trong thân thể con người
mà thực tế có thể xua đuổi được cái chết. Lí do duy nhất cho cái
chết xảy ra là ở chỗ cho tới nay vẫn không thể thay thế được các
cơ quan vật lí của thân thể. Chúng ta không có khả năng thay thế
được những bộ phận nào đó của thân thể, và đó là khó khăn. Khi
chúng ta tiếp tục đạt tiến bộ trong việc thay thế các bộ phận con
người, cái chết sẽ không còn là một hiện tượng không thể tránh
khỏi cho con người nữa. Nó sẽ trở thành một hành động của ý chí
riêng của người ta. Nhớ trong tâm trí, không bao lâu nữa điều sẽ
xảy ra là việc không người nào, ngoại trừ bị tai nạn, sẽ chết trong
tiến trình thời gian. Cho nên sẽ có ngày càng ít cái chết tự nhiên
và nhiều tự tử hơn trên thế giới. Chắc chắn đấy sẽ là tự tử nếu
một người yêu cầu bác sĩ chấm dứt cuộc đời hộ mình. Thế thì tự
tử sẽ là một phương tiện chết thông thường.
Ngay từ thời rất cổ đại, con người đã tuyên bố rằng cái chết
có thể vượt qua được nhờ có avidya. Điều mà y học của phương
Tây nói ngày nay, được tuyên bố trong Upanishad. Họ nói cái
chết có thể bị hạn chế nhiều đến mức nó thực sự bị avidya vượt
qua. Cái bên trong vĩnh hằng không bao giờ có thể chết. Cái chết
chỉ là của thân thể; thế thì cái bên trong vĩnh hằng của chúng ta
chấp nhận một thân thể mới.

Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể giữ thân thể cũ mạnh khoẻ và
tích cực, thế thì không có nhu cầu chấp nhận thân thể mới, và
việc chấp nhận thân thể mới dường như tuyệt đối không kinh tế.
Dường như là tự nhiên không có kinh nghiệm về bất kì cái gì của
khoa học kinh tế. Nó cho ra đời trẻ con và giết chết người già.
Người già của chúng ta đều được huấn luyện và có kinh nghiệm,
rất nhiều nỗ lực đã đổ vào việc huấn luyện cho họ, trong khi trẻ
con, những người thay thế họ chưa được huấn luyện gì, vô dụng
toàn bộ. Tự nhiên chấm dứt cuộc sống của những người đã lao
động bẩy mươi năm và cho sinh ra những đứa trẻ không có tri
thức gì, cho nên chúng phải được nuôi nấng dạy dỗ. Điều này rất
không kinh tế.

Nền kinh tế sẽ không cho phép người bẩy mươi tuổi, với tất
cả kinh nghiệm của mình, được chết. Một người bẩy mươi tuổi
hay cho rằng sẽ có cuộc sống mới sau cái chết của người đó - và
sẽ phải mất từ hai mươi cho tới hai mươi nhăm năm trong giáo
dục và đào tạo bản thân mình, chỉ để thu lại một cách khó khăn vị
trí mà người đó đã có vào lúc chết. Điều này thật là vô giá trị.
Cho nên khoa học bận rộn theo chiều hướng này, và làm mọi nỗ
lực để chấm dứt phí hoài này. Nếu chúng ta có thể tiết kiệm cuộc
sống của Einstein, phí hoài lớn lao được tránh khỏi. Nếu ông ấy
lấy ba lần sinh, sự tăng trưởng về tri thức gây ra bởi điều này sẽ
không lớn như ông ấy sống liền ba trăm năm, bởi vì điều này sẽ
là trưởng thành liên tục. Sẽ không có gián đoạn thường xuyên ở
giữa. Sẽ không có những lỗ hổng hai mươi nhăm hay ba mươi
năm để giới hạn trưởng thành đó. Cho nên nếu chúng ta giữ cho
Einstein sống được ba trăm năm, chúng ta không thể hình dung
nổi ông ấy sẽ cống hiến thêm bao nhiêu nữa cho toàn bộ kho tri
thức. Và tri thức là vô tận.

Có vô số triệu tế bào trong bộ não nhỏ bé của con người, và
các nhà khoa học nói rằng mỗi tế bào đều có khả năng lưu giữ tri
thức đến mức thông tin chứa trong mọi thư viện của thế giới có
thể được cất giữ trong bộ não con người. Có nhiều triệu tế bào là
một tiềm năng bao la đến mức từng cá nhân có thể là người chủ
của mọi tri thức hiện có trên thế giới ngày nay. Điều chúng ta
chưa xây dựng ra được thiết bị mà qua đó chúng ta có thể rót
nhiều tri thức vào bộ não con người là vấn đề khác. Cách thức
truyền đạt tri thức của chúng ta còn rất sơ cấp. Một đứa trẻ chắc
chắn sẽ học được điều gì đó sau khi đã được dạy trong hai mươi năm - nhưng không
cái gì thực sự được đạt tới. Sau khi cho ai đó
hai mươi năm giáo dục, phần lớn điều chúng ta có thể nói là ở
chỗ người đó không được giáo dục. Chỉ ngần này là có thể.
Không điều gì đặt biệt là được đạt tới. Cho dù chúng ta có cung
cấp việc giáo dục cho cả bẩy mươi năm, không mấy điều được
đạt tới. Kho tri thức là khổng lồ và chúng ta không có thiết bị lẫn
hệ thống chúng ta sẽ cần để rót tri thức vào trong bộ não con
người. Do đó nhiều cách thức và phương pháp đang được thăm
dò sau khi liên tục phát triển các kĩ thuật tiên tiến về giáo dục.
Công trình lớn về việc dạy học trong khi ngủ hiện đang được
tiến hành tại nước Nga. Trẻ con thường đã được dạy học trong
ngày, và dành ban đêm cho việc ngủ; mười hai giờ ban đêm bị
phí hoài. Cho nên ở Nga người ta cho bật băng ghi âm vào tai trẻ
nhỏ khi chúng đang ngủ để cho chúng nhận được việc dạy học
trong cả thời gian đêm nữa. Vậy những nỗ lực lớn đang được tiến
hành để làm giấc ngủ thành trung gian, công cụ, của việc truyền
đạt dạy dỗ, và họ đã thành công trong việc này ở mức độ lớn. Hi
vọng của họ là trong tương lai gần họ có khả năng truyền đạt việc
nhiều việc dạy trong bẩy năm như bây giờ được dạy trong mười
lăm năm, thông qua cả việc dùng thời gian ban đêm nữa.

Cũng còn có một thuận tiện khác cho thực nghiệm mới này.
Khi giáo viên đang dạy cho trẻ con trong những giờ thức của
chúng, có phát sinh xung đột giữa bản ngã của thầy và bản ngã
của trẻ em, và điều này tạo ra cản trở lớn cho tiến bộ của đứa trẻ.
Không có xung đột khi trẻ đang ngủ và việc dạy được hấp thu
trực tiếp. Giáo viên không có đấy và trẻ con cũng không có đấy.
Học sinh đang ngủ, thầy không hiện diện, chỉ có băng ghi âm là
chạy. Băng chầm chậm đưa lời dạy vào não trẻ nhỏ trong cả đêm,
và chúng nhận được lời dạy đó một cách trực tiếp.
Tuyên bố của Upanishad rằng cái chết có thể bị vượt qua
nhờ có avidya, khoa học, nên được chuyển thành bài viết cho mọi
đại học. Hiền nhân của Upanishad nói điều này là như vậy bởi vì
cái chết chỉ đơn thuần là thảm kịch thể chất, điều ngẫu nhiên.
Nếu chúng ta có thể phát triển những công cụ và công nghệ thích
hợp, cái chết có thể bị đẩy lùi ra xa thêm chút ít. Không có khó
khăn gì về việc này .
 
Cho tới nay khoa học đã thiếu các phương tiện để phục hồi
người chết về cuộc sống, nhưng các nhà khoa học hi vọng có khả
năng đem cuộc sống mới cho người đã chết vào cuối thế kỉ này.
Một người chết mười lăm năm trước đây đã làm một chúc thư
mười triệu đô la dành cho mục đích gìn giữ thân thể chết của ông
ấy theo cách an toàn nhất ít nhất tới lúc ông ấy có thể được làm
sống lại. Một số tiền quãng hàng trăm nghìn ru pi mỗi ngày đang
được tiêu ra để gìn giữ cái xác chết của ông ấy theo cách tốt nhất
để cho thậm chí không có chút xíu phân huỷ trong nó. Ý định là
bản quản cái xác chết của ông ấy trong cùng một điều kiện như
nó thế, khi ông ấy chết, để cho nếu chúng ta có thể phát hiện ra
chìa khoá khoa học cho vấn đề này thì chúng ta có thể làm sống
lại xác của ông ấy và cho ông ấy một cuộc sống được làm mới.
Những người duy linh rất sợ hãi về những nghiên cứu này.
Họ nói, “Nếu những thực nghiệm đó thành công, cái gì sẽ là vị trí
của linh hồn?” Xác chết của người này có thể được đem tới sống
lại chỉ với một điều kiện - rằng khoa học có khả năng bảo tồn xác
của người đó trong điều kiện tốt. Đây là phần cần của thực
nghiệm này, nhưng nó không phải là tất cả. Nếu linh hồn của
người đó đang lang thang và còn chưa đi vào một thân thể khác,
thế thì nó sẽ đi vào thân thể chết này; và tôi cảm thấy rằng linh
hồn của người này sẽ vẫn còn lang thang và chờ đợi. Người này
đã từ giã cõi đời sau khi làm một bản di chúc rất có giá trị. Mười
triệu đô la không phải là số tiền nhỏ. Người đó chắc chắn sẽ chờ
đợi. Người đó sẽ chờ đợi thêm mười năm nữa, và nếu thân thể
người đó có thể được làm sống, người đó sẽ vào lại nó. Điều ấy sẽ giống như việc
vào lại ngôi nhà đã được xây dựng lại sau khi
đã sụp đổ.

Cái chết có thể bị vượt qua bởi avidya - khoa học - nhưng cái
bất tử thì không thể được kinh nghiệm qua nó. Phần thứ hai của
lời kinh này là quan trọng hơn, và là điều kiện cần. Có thể là
khoa học có khả năng đánh bại cái chết, và có thể làm cho con
người gần như bất tử, nhưng thế thì làm sao con người được ích
lợi bởi thay đổi này? Ngay cả sau khi trở thành gần như bất tử
người đó không thể có kinh nghiệm về bất tử. Ngay cả như thế
chúng ta sẽ không biết tới cái là bất tử trong chúng ta. Chúng ta
có thể có bẩy mươi năm tri thức, hay bẩy trăm năm tri thức;
chúng ta thậm chí có thể sống tới bẩy nghìn năm. Nhưng chúng
ta không có kinh nghiệm chút nào về cái đã có đó trước cuộc
sống chúng ta, cái đã tồn tại trước việc sinh của chúng ta và cũng
sẽ tồn tại sau cái chết của chúng ta. Nếu chúng ta muốn biết -
kinh nghiệm - cái bất tử, chỉ vidya, tri thức thực, là có ích.
Upanishad rất kính trọng avidya, khoa học. Đó là cách thức
tranh đấu chống cái chết, mặc dầu nó bất lực để đạt tới cái bất tử.
Xung đột với cái chết là nỗ lực tiêu cực; kinh nghiệm cái bất tử là
thành tựu tích cực. Cố gắng kinh nghiệm cái bất tử là nỗ lực để
biết cái đã tồn tại trước việc sinh ra của chúng ta và cũng sẽ tồn
tại sau cái chết của chúng ta; cái đang trong hiện tại, cái đã có
trong quá khứ và cái sẽ có trong tương lai nữa. Nó có trước khi
thân thể này tồn tại, và nó sẽ vẫn còn tồn tại khi thân thể này đã
tàn lụi.
Biết điều này là đạt tới cái bất tử. Cứ kéo dài cuộc sống của
thân thể này đơn thuần là trong xung đột với cái chết. Nó là cuộc
vật lộn để mở rộng khoảng cách giữa sinh và tử, trong khi đi sâu
vào kinh nghiệm này về cái vượt ra bên ngoài sinh và tử là khám
phá ra cái bất tử. Upanishad tuyên bố rằng cái bất tử sẽ được kinh
nghiệm thông qua vidya - tri thức thực. Giáo huấn nào về vidya
có thể hướng dẫn chúng ta bây giờ hướng tới cái bất tử?

Điểm đầu tiên là ở chỗ người nghĩ mình là thân thể không có
khả năng hướng tới cái bất tử. Cho nên lời kinh đầu tiên là để lột
bỏ sự đồng nhất với thân thể người ta. Bao giờ cũng biết tới điều
đó, nhớ tới nó hàng ngày. Nhận biết về nó thường xuyên, nghĩ
đến nó thường xuyên - rằng, “Mình không là thân thể.” Khi bạn
hiểu sâu và thiết lập lời kinh này ngay bên trong bạn, ngần ấy sẽ
đưa bạn tới cái bất tử. Ngược lại, chừng nào tin tưởng vững chắc
rằng “Mình là thân thể này” còn bắt rễ trong bạn, ngần ấy sẽ đưa
bạn tới avidya, hướng tới xung đột với cái chết. Và cuộc sống là
ở mức chúng ta thường xuyên được nhắc nhở hai mươi bốn tiếng
một ngày rằng “Mình là thân thể.”
Nếu chân chúng ta bị thương một chút, chúng ta lập tức nhớ
ngay, “Mình là thân thể.” Nếu chúng ta đói, chúng ta nhớ, “Mình
là thân thể.” Nếu có một chút đau đầu là chúng ta nhớ, “Mình là
thân thể.” Nếu có cơn sốt chúng ta liền nhớ, “Mình là thân thể.”
Khi tuổi thanh xuân tới chúng ta nhớ, “Mình là thân thể.” Khi
tuổi già tới chúng ta nhớ, "Mình là thân thể." Cuộc sống thường
xuyên nhắc nhở chúng ta từ mọi phía rằng, “Mình là thân thể,”
trong khi đó chúng ta không nhận được chỉ dẫn nào từ bất kì đâu
rằng, “Mình không phải là thân thể.” Và một điểm đáng để ý là
chính với chân lí không có sẵn chỉ dẫn, trong khi với điều phi
chân lí hướng dẫn có đầy rẫy hàng ngày.

Nhưng chúng ta phạm phải một sai lầm nền tảng trong diễn
giải của mình về những chỉ dẫn đang hiện diện. Khi một điều
được chỉ ra, chúng ta xét nó theo ánh sáng hoàn toàn khác, và
hiểu lầm lớn xảy ra. Toàn thể cuộc sống do vậy trở thành việc
hiểu lầm lớn. Những chỉ dẫn ngụ ý điều này, nhưng chúng ta thấy
chúng theo ánh sáng khác. Khi bụng cần thức ăn, chúng ta nói,
“Tôi đói.” Điều này là không đúng. Chúng ta đã hiểu lầm gợi ý này. Gợi ý chỉ là
thế này - rằng tôi đã đi tới biết rằng bụng đang
đói. Nhưng chúng ta nói, “Tôi đói.” Không ai chỉ ra cách thức
chúng ta đi tới kết luận này. Mối móc nối ở giữa biến mất như
thế nào - rằng tôi đã nhận ra là bụng đang đói? ‘Tôi’ không bao
giờ có thể cảm thấy bụng đói cả, và vậy mà chúng ta vẫn nói,
“Tôi đói.”

Khi có đau đầu, tôi đi tới biết rằng có cái đau trên đầu.
Nhưng tôi nói rằng đầu tôi đau. Tôi bảo với người khác rằng tôi
bị đau đầu, còn tôi tự nhủ mình rằng có cái đau bên trong tôi.
Không có sai lầm gì trong những chỉ dẫn của thân thể cả, nhưng
chúng ta phạm phải sai lầm khi chúng ta cố gắng giải mã chúng.
Sai lầm là ở trong điều chúng ta làm với chúng.

Swami Ram bao giờ cũng nói điều đúng. Ông ấy bao giờ
cũng tự diễn đạt mình một cách đúng đắn. Kết quả là ở chỗ mọi
người coi ông ấy như người cung trăng. Thế giới này đầy người
điên - và không khó khăn gì trong việc phán người trí huệ là
người điên. Ram chưa bao giờ nói, “Tôi đói.” Đôi khi ông ấy sẽ
nói, “Nghe này, người anh em, có cơn đói ở đây.” Khi nghe ông
ấy, mọi người đều tự hỏi liệu ông ấy có tâm trí lành mạnh không,
và rồi đủ loại khó khăn sẽ nảy sinh.
Ram tội nghiệp đã diễn đạt bản thân mình một cách đúng
đắn, nhưng mọi người quen nghi ngờ về sự lành mạnh của ông
ấy. Đôi khi, trở về nhà, ông ấy sẽ nói, “Hôm nay vui quá. Khi
Ram bước đi trên đường mọi người bắt đầu xúc phạm ông ta.”
Ông ấy không bao giờ nói, “Họ bắt đầu xúc phạm tôi.” Ông ấy
không nói, “Khi tôi đi qua, người ta bắt đầu xúc phạm tôi.” Ông
ấy hay nói, “Hôm nay vui quá: một số người trên đường chế giễu
Ram. Ram cũng thấy cả họ nữa. Tôi nói, “Nhìm Ram kìa, họ
đang chế giễu cậu đấy.”

Điều đó đã gây ra khó khăn lớn khi ông ấy tới Mĩ lần đầu
tiên và bắt đầu gọi bản thân mình theo ngôi thứ ba. ở Ấn Độ, bạn
bè ông ấy đã biết rõ ông, họ biết rằng ông ấy có hơi chút quái dị.
Nhưng ở Mĩ thì khó khăn lớn nảy sinh vì mọi người không thể
đoán được điều ông ấy đang nói. Nhưng ông ấy hoàn toàn đúng
trong phát biểu của mình.
Bụng trở nên đói, nhưng bạn không bao giờ đói. Điều đó
chưa bao giờ xảy ra cho tới nay. Điều đó là không thể được, bởi
vì cái đói là bất lực trước linh hồn, trước cái ta. Linh hồn không
có cơ chế để cảm thấy đói, nó không có phương tiện để cảm thấy
cái dầy vò của cái đói. Không cái gì giảm đi hay được tăng lên
trong linh hồn; không cái gì rời bỏ linh hồn; không cái gì bị mất
đi từ nó để sinh ra sự giằn vặt của cái đói. Cái gì đó bao giờ cũng
giảm đi trong thân thể bởi vì nó chết đi hàng ngày, và bởi quá
trình chết này mà bạn cảm thấy cái đói.

Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng cái gì đó bên trong bạn
chết đi hàng ngày; cho nên cái phần chết đi đó phải được thay thế
bởi thức ăn. Không có lí do khác. Một số phần nào đó bên trong
bạn chết đi, cho nên bạn phải thay thế những phần chết đó bằng
những phần đang sống sao cho bạn vẫn có thể còn sống. Do đó
bạn mất một nửa cân trọng lượng khi bạn nhịn ăn trong một
ngày. Lí do là gì? Một nửa cân đó đã chết và bạn đã không thay
thế nó. Bạn sẽ lại phải thay thế nó. Các nhà khoa học nói một
người có thể nhịn đói trong chín mươi ngày. Đến cuối cùng điều
này sẽ gây ra khó khăn lớn bởi vì người đó vẫn cứ sống trong
chín mươi ngày này bằng việc tiêu thụ mỡ tích luỹ trong thân thể;
nhưng ngày qua ngày, khi vét kiệt kho mỡ dự trữ của mình,
người đó chết dần. Người đó sẽ ngày một yếu đi hơn, mất trọng
lượng và cảm thấy kiệt sức, nhưng người đó vẫn tiếp tục sống.
Chúng ta thay thế những yếu tố chết của mình bằng thức ăn;
cái thiếu hụt được làm đủ lên. Nhưng linh hồn không chết.
Không yếu tố nào của nó bị kém đi, cho nên không có lí do cho
linh hồn cảm thấy đói. Có một điều đáng quan tâm nên biết về sự kiện này. Linh
hồn không cảm thấy đói; thân thể không biết cơn
đói. Thân thể cảm thấy đói nhưng linh hồn biết cơn đói. Toàn thể
hiện tượng này là cái gì đó giống như câu chuyện mà bạn có thể
đã nghe.

Ngày xưa một khu rừng bốc cháy. Một người mù và một
người què đi ngang qua khu rừng này. Người mù không thể thấy
được, nhưng người đó có thể bước; người đó có chân khoẻ. Thật
là nguy hiểm mà tiến bước. May mắn là lửa còn chưa lan tới nơi
họ đang đứng. Người què thì không thể bước đi nhưng có thể
thấy lửa đang lan tới. Hai người này phải là những người khôn
ngoan, mặc dầu bình thường những người như thế không được
như vậy. Làm sao bạn có thể trông đợi người mù khôn ngoan khi
người đủ mắt còn không khôn ngoan? Làm sao người què có thể
khôn ngoan khi người đủ chân không khôn ngoan? Nhưng hai
người này quả là khôn ngoan và họ đi tới hiểu biết. Người què
nói, “Nếu chúng ta muốn cứu mạng mình chỉ còn mỗi một cách.
Để tôi ngồi lên vai bác. Chúng ta sẽ dùng mắt của tôi và chân của
bác. Tôi sẽ hướng dẫn và bác sẽ bước theo.” Do đó họ cứu được
tính mạng mình.

Hành trình cuộc sống cũng là một loại hiểu biết sâu sắc giữa
thân thể và linh hồn vậy. Đó là cuộc hành trình của người mù và
người què. Linh hồn có kinh nghiệm - nó kinh nghiệm - nhưng
không cái gì xảy ra cả; việc xảy ra là trong thân thể, nhưng thân
thể không kinh nghiệm. Tất cả mọi kinh nghiệm đều do linh hồn
cảm nhận; và mọi điều xảy ra đều diễn ra trong thân thể, nhưng
thân thể không kinh nghiệm chúng. Do đó tất cả những điều này
là rắc rối!

Ngày đó cũng rắc rối nào đó phải đã nảy sinh, nhưng Aesop,
người đã viết ra câu chuyện người mù và người què này, đã
không nhắc gì đến điều đó. Điều cần đối với hai người này là vội
vã, cho nên khi người mù chạy thật nhanh còn người què nhìn
thật chóng, rất có thể là người mù cảm thấy, “Tôi có thể thấy,”
còn người què cảm thấy, “Tôi đang chạy.”

Điều này đích xác là điều xảy ra với chúng ta. Chính điều
xảy ra này cần phải bị phá vỡ. Cả hai nên được phân biệt cho rõ
ràng. Cả hai nên tách bạch ra, bằng không dây dợ của chúng ta sẽ
bị bắt chéo. Mọi việc xảy ra đều diễn ra trong thân thể, và linh
hồn kinh nghiệm chúng. Bạn sẽ bắt đầu hiểu thấu lời kinh về
vidya khi bạn tách bạch hai phần này ra. Thế thì cuộc hành trình
của bạn hướng tới điều bất tử sẽ bắt đầu.

Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ lại nói vào sáng mai. Bây giờ
chúng ta bắt đầu cuộc hành trình hướng tới điều bất tử.
Người biết cả vidya và avidya ,vượt qua cái chết qua avidya, và kinh nghiệm cái bất tử qua vidya.

Người biết cả avidya và vidya, khi vượt qua cái chết, sẽ biết
cái bất tử. Đây là đôi câu thơ rất hãn hữu. Nó nói với bạn rằng
Upanishad là không đối lập với avidya. Họ thiên về vidya nhưng
không đối lập chút nào với avidya. Nó được nói, “Người biết
avidya sẽ vượt qua cái chết.” Toàn thể xung đột của avidya là
chống lại cái chết. Bác sĩ đang tranh đấu với cái chết, các kĩ sư
đang tranh đấu với cái chết. Toàn bộ nỗ lực của khoa học, mọi
hoạt động của nó, đều hướng vào việc chống lại cái chết - chống
lại bệnh tật, chống lại bất an, chống lại những nguy hiểm tương
lai. Việc bảo đảm rằng cuộc sống không kết thúc, việc bảo đảm
cho nó được bảo toàn, là toàn bộ nỗ lực của avidya - của tri thức
khoa học. Toàn thể avidya là cuộc tranh đấu thường xuyên với
cái chết. Cho nên người thành thạo trong avidya thành công dồn
cái chết vào đường cùng. Tức là, người đó sống một cách thoải
mái. Theo nghĩa này, qua avidya người đó vượt qua cái chết -
nhưng người đó không thể đạt tới cái bất tử. Người đó đơn giản
kiểm soát cái chết hoàn toàn thoải mái.

Với sự trợ giúp của avidya chúng ta có thể tồn tại, nhưng
chúng ta không thể nếm trải thực chất của cuộc sống. Chúng ta
có thể đơn thuần tồn tại. Điều này nên được gọi là sống vô vị.
Chúng ta sẽ chạy theo quá trình của cuộc sống. Mọi thứ - thức
ăn, nhà cửa, thuốc thang và vân vân - sẽ có sẵn cho chúng ta.
Chúng ta sẽ có tất cả nó, và cuộc sống sẽ trôi qua dễ chịu, thoải
mái. Nhưng cái bất tử sẽ không có sẵn cho chúng ta. Và cho dù
avidya có thành công trong việc ngăn cản cái chết, cái bất tử vẫn
sẽ không sẵn có.

Khoa học hiện đại bận rộn tìm kiếm các cách thức và
phương tiện để chinh phục cái chết. Toàn thể nỗ lực của khoa học
thực sự để cứu con người khỏi cái chết. Đó là lí do tại sao khoa
học sính tìm ra cách thức để cái chết có thể được tránh, cách thức
nó có thể được tránh mãi mãi. Tình huống này có thể nảy sinh trong tương lai xa
khi chúng ta có thể, nếu chúng ta muốn, tránh
cái chết mãi mãi. Nếu chúng ta hiểu đúng tiến bộ của khoa học
trong ba nghìn năm qua chúng ta sẽ thấy rằng điều này đã là toàn
bộ hoạt động của nó. Toàn bộ xung đột của nó là chống lại cái
chết, và nó đã thành công tới một mức độ lớn.

Một nghìn năm trước đây, chín trong mười đứa trẻ mới sinh
thường chết, còn ngày nay, trong những nước mà khoa học có
tiến bộ nổi bật, thậm chí không đến một trong mười đứa trẻ mới
sinh ra bị chết. Trong những cái xương mà các nhà khoa học tìm
ra về những người sống mười nghìn năm trước đây, không mấy
người được coi như đã sống quá hai mươi nhăm tuổi. Không
người nào sống lâu hơn bốn mươi nhăm tuổi. Không một bộ
xương nào được tìm thấy vào thời ấy trên trái đất này của người
mười nghìn năm trước đây chỉ ra rằng người đó sống lâu hơn bốn
mươi nhăm tuổi.

Vậy mà ngày nay có hơn một nghìn người trên một trăm
năm mươi tuổi ở nước Nga Xô viết. Việc sống một trăm tuổi bây
giờ trở thành chuyện bình thường. Bạn có thể ngạc nhiên mà đọc
trong báo rằng một ông già chín mươi tuổi người Nga mới lấy
vợ. Chúng ta nghĩ người già phải lú lẫn lắm. Nhưng nhớ rằng ông
già đó vẫn chưa là già đâu, và rằng ông ấy không làm bất kì cái gì
không thông thường. Khi ông già chín mươi tuổi lấy vợ ở Nga,
đừng so sánh ông ấy với người già ở nước chúng ta. Người già ở
nước chúng ta sẽ chết hai mươi năm trước khi đạt tới độ tuổi ấy.
Ông già chín mươi tuổi đó thuộc vào một cộng đồng nơi độ tuổi
tối đa là một trăm năm mươi tuổi. Đến độ tuổi nào một người vẫn
còn là trẻ khi khoảng đời của người đó mở tới một trăm năm
mươi tuổi? Bạn sẽ không ấn định độ tuổi đó là ít nhất ở một trăm
chứ?
Bất kì khi nào khoa học thành công, cái chết lại bị đẩy lùi xa
thêm một chút, và trong những thời gần đây khoa học đã thực
hiện thêm nhiều tiến bộ nữa. Rất có cơ may là dường như đến
cuối thế kỉ này chúng ta sẽ có thể giữ cho con người sống vô hạn
định nếu chúng ta muốn làm điều đó. Sẽ không có chướng ngại
còn lại để ngăn cản khoa học hoàn thành điều đó. Con người có
thể được làm cho sống vô tận. Đó là lí do tại sao một số nhà tư
tưởng phương Tây, và đặc biệt là Mĩ, đã bắt đầu phản đối kịch
liệt rằng trước khi khoa học thành công trong việc kéo dài cuộc
sống của con người, chúng ta phải bổ sung thêm qui tắc này vào
hiến pháp của đất nước - rằng mọi người được sinh ra đều có
quyền được chết. Bằng không một tình huống rất khó khăn sẽ
nảy sinh; bởi vì nếu chính phủ không cho phép một người được
chết, người đó sẽ không có quyền được làm như vậy.

Cho tới tận bây giờ chúng ta đã đặt ra các qui tắc trên toàn
thế giới rằng không ai có quyền được giết người khác. Nhưng
bây giờ, trên toàn thế giới - đặc biệt là ở các nước như Thuỵ sĩ,
Thuỵ điển và Na uy, nơi khoa học đã thành công trong việc kéo
dài cuộc sống con người - mọi người bắt đầu khuấy lên việc kết
thúc cuộc sống. Những người thông minh đã khởi xướng những
chiến dịch tuyên truyền xác nhận rằng không bác sĩ nào được
quyền cứu mạng cho người muốn được chết, và nếu bác sĩ cứu
mạng cho người như thế, phải coi đó là sự lạm dụng chống
quyền cơ bản của người đó, quyền cơ bản của người đó đối với
cuộc sống của riêng mình.

Chúng ta đang trong một vị thế nguy hiểm. Giả sử một người
đã một trăm năm mươi tuổi. Bây giờ, người đó sẽ là ngớ ngẩn
nếu người đó muốn sống lâu hơn, người đó muốn có nghỉ ngơi
mãi mãi, được chết. Nhưng các bác sĩ phải giữ người đó ở bệnh
viện để chữa chạy và cố gắng giữ người đó sống, bởi vì hiện tại
các bác sĩ không có quyền giúp cho người ta chết. Cho nên họ sẽ
cố gắng tối đa để cứu người này. Nếu mặc cho những cố gắng
của bác sĩ, người bệnh vẫn chết, đấy là vấn đề khác. Cho nên sự khuấy động cứ
tiếp tục để đòi cho con người cái quyền được chết
nếu người đó chọn lựa cái chết.

Vấn đề này không mấy chốc đang trở thành rất có ý nghĩa,
bởi vì không một cơ chế nào đã tìm ra trong thân thể con người
mà thực tế có thể xua đuổi được cái chết. Lí do duy nhất cho cái
chết xảy ra là ở chỗ cho tới nay vẫn không thể thay thế được các
cơ quan vật lí của thân thể. Chúng ta không có khả năng thay thế
được những bộ phận nào đó của thân thể, và đó là khó khăn. Khi
chúng ta tiếp tục đạt tiến bộ trong việc thay thế các bộ phận con
người, cái chết sẽ không còn là một hiện tượng không thể tránh
khỏi cho con người nữa. Nó sẽ trở thành một hành động của ý chí
riêng của người ta. Nhớ trong tâm trí, không bao lâu nữa điều sẽ
xảy ra là việc không người nào, ngoại trừ bị tai nạn, sẽ chết trong
tiến trình thời gian. Cho nên sẽ có ngày càng ít cái chết tự nhiên
và nhiều tự tử hơn trên thế giới. Chắc chắn đấy sẽ là tự tử nếu
một người yêu cầu bác sĩ chấm dứt cuộc đời hộ mình. Thế thì tự
tử sẽ là một phương tiện chết thông thường.
Ngay từ thời rất cổ đại, con người đã tuyên bố rằng cái chết
có thể vượt qua được nhờ có avidya. Điều mà y học của phương
Tây nói ngày nay, được tuyên bố trong Upanishad. Họ nói cái
chết có thể bị hạn chế nhiều đến mức nó thực sự bị avidya vượt
qua. Cái bên trong vĩnh hằng không bao giờ có thể chết. Cái chết
chỉ là của thân thể; thế thì cái bên trong vĩnh hằng của chúng ta
chấp nhận một thân thể mới.

Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể giữ thân thể cũ mạnh khoẻ và
tích cực, thế thì không có nhu cầu chấp nhận thân thể mới, và
việc chấp nhận thân thể mới dường như tuyệt đối không kinh tế.
Dường như là tự nhiên không có kinh nghiệm về bất kì cái gì của
khoa học kinh tế. Nó cho ra đời trẻ con và giết chết người già.
Người già của chúng ta đều được huấn luyện và có kinh nghiệm,
rất nhiều nỗ lực đã đổ vào việc huấn luyện cho họ, trong khi trẻ
con, những người thay thế họ chưa được huấn luyện gì, vô dụng
toàn bộ. Tự nhiên chấm dứt cuộc sống của những người đã lao
động bẩy mươi năm và cho sinh ra những đứa trẻ không có tri
thức gì, cho nên chúng phải được nuôi nấng dạy dỗ. Điều này rất
không kinh tế.

Nền kinh tế sẽ không cho phép người bẩy mươi tuổi, với tất
cả kinh nghiệm của mình, được chết. Một người bẩy mươi tuổi
hay cho rằng sẽ có cuộc sống mới sau cái chết của người đó - và
sẽ phải mất từ hai mươi cho tới hai mươi nhăm năm trong giáo
dục và đào tạo bản thân mình, chỉ để thu lại một cách khó khăn vị
trí mà người đó đã có vào lúc chết. Điều này thật là vô giá trị.
Cho nên khoa học bận rộn theo chiều hướng này, và làm mọi nỗ
lực để chấm dứt phí hoài này. Nếu chúng ta có thể tiết kiệm cuộc
sống của Einstein, phí hoài lớn lao được tránh khỏi. Nếu ông ấy
lấy ba lần sinh, sự tăng trưởng về tri thức gây ra bởi điều này sẽ
không lớn như ông ấy sống liền ba trăm năm, bởi vì điều này sẽ
là trưởng thành liên tục. Sẽ không có gián đoạn thường xuyên ở
giữa. Sẽ không có những lỗ hổng hai mươi nhăm hay ba mươi
năm để giới hạn trưởng thành đó. Cho nên nếu chúng ta giữ cho
Einstein sống được ba trăm năm, chúng ta không thể hình dung
nổi ông ấy sẽ cống hiến thêm bao nhiêu nữa cho toàn bộ kho tri
thức. Và tri thức là vô tận.

Có vô số triệu tế bào trong bộ não nhỏ bé của con người, và
các nhà khoa học nói rằng mỗi tế bào đều có khả năng lưu giữ tri
thức đến mức thông tin chứa trong mọi thư viện của thế giới có
thể được cất giữ trong bộ não con người. Có nhiều triệu tế bào là
một tiềm năng bao la đến mức từng cá nhân có thể là người chủ
của mọi tri thức hiện có trên thế giới ngày nay. Điều chúng ta
chưa xây dựng ra được thiết bị mà qua đó chúng ta có thể rót
nhiều tri thức vào bộ não con người là vấn đề khác. Cách thức
truyền đạt tri thức của chúng ta còn rất sơ cấp. Một đứa trẻ chắc
chắn sẽ học được điều gì đó sau khi đã được dạy trong hai mươi năm - nhưng không
cái gì thực sự được đạt tới. Sau khi cho ai đó
hai mươi năm giáo dục, phần lớn điều chúng ta có thể nói là ở
chỗ người đó không được giáo dục. Chỉ ngần này là có thể.
Không điều gì đặt biệt là được đạt tới. Cho dù chúng ta có cung
cấp việc giáo dục cho cả bẩy mươi năm, không mấy điều được
đạt tới. Kho tri thức là khổng lồ và chúng ta không có thiết bị lẫn
hệ thống chúng ta sẽ cần để rót tri thức vào trong bộ não con
người. Do đó nhiều cách thức và phương pháp đang được thăm
dò sau khi liên tục phát triển các kĩ thuật tiên tiến về giáo dục.
Công trình lớn về việc dạy học trong khi ngủ hiện đang được
tiến hành tại nước Nga. Trẻ con thường đã được dạy học trong
ngày, và dành ban đêm cho việc ngủ; mười hai giờ ban đêm bị
phí hoài. Cho nên ở Nga người ta cho bật băng ghi âm vào tai trẻ
nhỏ khi chúng đang ngủ để cho chúng nhận được việc dạy học
trong cả thời gian đêm nữa. Vậy những nỗ lực lớn đang được tiến
hành để làm giấc ngủ thành trung gian, công cụ, của việc truyền
đạt dạy dỗ, và họ đã thành công trong việc này ở mức độ lớn. Hi
vọng của họ là trong tương lai gần họ có khả năng truyền đạt việc
nhiều việc dạy trong bẩy năm như bây giờ được dạy trong mười
lăm năm, thông qua cả việc dùng thời gian ban đêm nữa.

Cũng còn có một thuận tiện khác cho thực nghiệm mới này.
Khi giáo viên đang dạy cho trẻ con trong những giờ thức của
chúng, có phát sinh xung đột giữa bản ngã của thầy và bản ngã
của trẻ em, và điều này tạo ra cản trở lớn cho tiến bộ của đứa trẻ.
Không có xung đột khi trẻ đang ngủ và việc dạy được hấp thu
trực tiếp. Giáo viên không có đấy và trẻ con cũng không có đấy.
Học sinh đang ngủ, thầy không hiện diện, chỉ có băng ghi âm là
chạy. Băng chầm chậm đưa lời dạy vào não trẻ nhỏ trong cả đêm,
và chúng nhận được lời dạy đó một cách trực tiếp.
Tuyên bố của Upanishad rằng cái chết có thể bị vượt qua
nhờ có avidya, khoa học, nên được chuyển thành bài viết cho mọi
đại học. Hiền nhân của Upanishad nói điều này là như vậy bởi vì
cái chết chỉ đơn thuần là thảm kịch thể chất, điều ngẫu nhiên.
Nếu chúng ta có thể phát triển những công cụ và công nghệ thích
hợp, cái chết có thể bị đẩy lùi ra xa thêm chút ít. Không có khó
khăn gì về việc này .
 
Cho tới nay khoa học đã thiếu các phương tiện để phục hồi
người chết về cuộc sống, nhưng các nhà khoa học hi vọng có khả
năng đem cuộc sống mới cho người đã chết vào cuối thế kỉ này.
Một người chết mười lăm năm trước đây đã làm một chúc thư
mười triệu đô la dành cho mục đích gìn giữ thân thể chết của ông
ấy theo cách an toàn nhất ít nhất tới lúc ông ấy có thể được làm
sống lại. Một số tiền quãng hàng trăm nghìn ru pi mỗi ngày đang
được tiêu ra để gìn giữ cái xác chết của ông ấy theo cách tốt nhất
để cho thậm chí không có chút xíu phân huỷ trong nó. Ý định là
bản quản cái xác chết của ông ấy trong cùng một điều kiện như
nó thế, khi ông ấy chết, để cho nếu chúng ta có thể phát hiện ra
chìa khoá khoa học cho vấn đề này thì chúng ta có thể làm sống
lại xác của ông ấy và cho ông ấy một cuộc sống được làm mới.
Những người duy linh rất sợ hãi về những nghiên cứu này.
Họ nói, “Nếu những thực nghiệm đó thành công, cái gì sẽ là vị trí
của linh hồn?” Xác chết của người này có thể được đem tới sống
lại chỉ với một điều kiện - rằng khoa học có khả năng bảo tồn xác
của người đó trong điều kiện tốt. Đây là phần cần của thực
nghiệm này, nhưng nó không phải là tất cả. Nếu linh hồn của
người đó đang lang thang và còn chưa đi vào một thân thể khác,
thế thì nó sẽ đi vào thân thể chết này; và tôi cảm thấy rằng linh
hồn của người này sẽ vẫn còn lang thang và chờ đợi. Người này
đã từ giã cõi đời sau khi làm một bản di chúc rất có giá trị. Mười
triệu đô la không phải là số tiền nhỏ. Người đó chắc chắn sẽ chờ
đợi. Người đó sẽ chờ đợi thêm mười năm nữa, và nếu thân thể
người đó có thể được làm sống, người đó sẽ vào lại nó. Điều ấy sẽ giống như việc
vào lại ngôi nhà đã được xây dựng lại sau khi
đã sụp đổ.

Cái chết có thể bị vượt qua bởi avidya - khoa học - nhưng cái
bất tử thì không thể được kinh nghiệm qua nó. Phần thứ hai của
lời kinh này là quan trọng hơn, và là điều kiện cần. Có thể là
khoa học có khả năng đánh bại cái chết, và có thể làm cho con
người gần như bất tử, nhưng thế thì làm sao con người được ích
lợi bởi thay đổi này? Ngay cả sau khi trở thành gần như bất tử
người đó không thể có kinh nghiệm về bất tử. Ngay cả như thế
chúng ta sẽ không biết tới cái là bất tử trong chúng ta. Chúng ta
có thể có bẩy mươi năm tri thức, hay bẩy trăm năm tri thức;
chúng ta thậm chí có thể sống tới bẩy nghìn năm. Nhưng chúng
ta không có kinh nghiệm chút nào về cái đã có đó trước cuộc
sống chúng ta, cái đã tồn tại trước việc sinh của chúng ta và cũng
sẽ tồn tại sau cái chết của chúng ta. Nếu chúng ta muốn biết -
kinh nghiệm - cái bất tử, chỉ vidya, tri thức thực, là có ích.
Upanishad rất kính trọng avidya, khoa học. Đó là cách thức
tranh đấu chống cái chết, mặc dầu nó bất lực để đạt tới cái bất tử.
Xung đột với cái chết là nỗ lực tiêu cực; kinh nghiệm cái bất tử là
thành tựu tích cực. Cố gắng kinh nghiệm cái bất tử là nỗ lực để
biết cái đã tồn tại trước việc sinh ra của chúng ta và cũng sẽ tồn
tại sau cái chết của chúng ta; cái đang trong hiện tại, cái đã có
trong quá khứ và cái sẽ có trong tương lai nữa. Nó có trước khi
thân thể này tồn tại, và nó sẽ vẫn còn tồn tại khi thân thể này đã
tàn lụi.
Biết điều này là đạt tới cái bất tử. Cứ kéo dài cuộc sống của
thân thể này đơn thuần là trong xung đột với cái chết. Nó là cuộc
vật lộn để mở rộng khoảng cách giữa sinh và tử, trong khi đi sâu
vào kinh nghiệm này về cái vượt ra bên ngoài sinh và tử là khám
phá ra cái bất tử. Upanishad tuyên bố rằng cái bất tử sẽ được kinh
nghiệm thông qua vidya - tri thức thực. Giáo huấn nào về vidya
có thể hướng dẫn chúng ta bây giờ hướng tới cái bất tử?

Điểm đầu tiên là ở chỗ người nghĩ mình là thân thể không có
khả năng hướng tới cái bất tử. Cho nên lời kinh đầu tiên là để lột
bỏ sự đồng nhất với thân thể người ta. Bao giờ cũng biết tới điều
đó, nhớ tới nó hàng ngày. Nhận biết về nó thường xuyên, nghĩ
đến nó thường xuyên - rằng, “Mình không là thân thể.” Khi bạn
hiểu sâu và thiết lập lời kinh này ngay bên trong bạn, ngần ấy sẽ
đưa bạn tới cái bất tử. Ngược lại, chừng nào tin tưởng vững chắc
rằng “Mình là thân thể này” còn bắt rễ trong bạn, ngần ấy sẽ đưa
bạn tới avidya, hướng tới xung đột với cái chết. Và cuộc sống là
ở mức chúng ta thường xuyên được nhắc nhở hai mươi bốn tiếng
một ngày rằng “Mình là thân thể.”
Nếu chân chúng ta bị thương một chút, chúng ta lập tức nhớ
ngay, “Mình là thân thể.” Nếu chúng ta đói, chúng ta nhớ, “Mình
là thân thể.” Nếu có một chút đau đầu là chúng ta nhớ, “Mình là
thân thể.” Nếu có cơn sốt chúng ta liền nhớ, “Mình là thân thể.”
Khi tuổi thanh xuân tới chúng ta nhớ, “Mình là thân thể.” Khi
tuổi già tới chúng ta nhớ, "Mình là thân thể." Cuộc sống thường
xuyên nhắc nhở chúng ta từ mọi phía rằng, “Mình là thân thể,”
trong khi đó chúng ta không nhận được chỉ dẫn nào từ bất kì đâu
rằng, “Mình không phải là thân thể.” Và một điểm đáng để ý là
chính với chân lí không có sẵn chỉ dẫn, trong khi với điều phi
chân lí hướng dẫn có đầy rẫy hàng ngày.

Nhưng chúng ta phạm phải một sai lầm nền tảng trong diễn
giải của mình về những chỉ dẫn đang hiện diện. Khi một điều
được chỉ ra, chúng ta xét nó theo ánh sáng hoàn toàn khác, và
hiểu lầm lớn xảy ra. Toàn thể cuộc sống do vậy trở thành việc
hiểu lầm lớn. Những chỉ dẫn ngụ ý điều này, nhưng chúng ta thấy
chúng theo ánh sáng khác. Khi bụng cần thức ăn, chúng ta nói,
“Tôi đói.” Điều này là không đúng. Chúng ta đã hiểu lầm gợi ý này. Gợi ý chỉ là
thế này - rằng tôi đã đi tới biết rằng bụng đang
đói. Nhưng chúng ta nói, “Tôi đói.” Không ai chỉ ra cách thức
chúng ta đi tới kết luận này. Mối móc nối ở giữa biến mất như
thế nào - rằng tôi đã nhận ra là bụng đang đói? ‘Tôi’ không bao
giờ có thể cảm thấy bụng đói cả, và vậy mà chúng ta vẫn nói,
“Tôi đói.”

Khi có đau đầu, tôi đi tới biết rằng có cái đau trên đầu.
Nhưng tôi nói rằng đầu tôi đau. Tôi bảo với người khác rằng tôi
bị đau đầu, còn tôi tự nhủ mình rằng có cái đau bên trong tôi.
Không có sai lầm gì trong những chỉ dẫn của thân thể cả, nhưng
chúng ta phạm phải sai lầm khi chúng ta cố gắng giải mã chúng.
Sai lầm là ở trong điều chúng ta làm với chúng.

Swami Ram bao giờ cũng nói điều đúng. Ông ấy bao giờ
cũng tự diễn đạt mình một cách đúng đắn. Kết quả là ở chỗ mọi
người coi ông ấy như người cung trăng. Thế giới này đầy người
điên - và không khó khăn gì trong việc phán người trí huệ là
người điên. Ram chưa bao giờ nói, “Tôi đói.” Đôi khi ông ấy sẽ
nói, “Nghe này, người anh em, có cơn đói ở đây.” Khi nghe ông
ấy, mọi người đều tự hỏi liệu ông ấy có tâm trí lành mạnh không,
và rồi đủ loại khó khăn sẽ nảy sinh.
Ram tội nghiệp đã diễn đạt bản thân mình một cách đúng
đắn, nhưng mọi người quen nghi ngờ về sự lành mạnh của ông
ấy. Đôi khi, trở về nhà, ông ấy sẽ nói, “Hôm nay vui quá. Khi
Ram bước đi trên đường mọi người bắt đầu xúc phạm ông ta.”
Ông ấy không bao giờ nói, “Họ bắt đầu xúc phạm tôi.” Ông ấy
không nói, “Khi tôi đi qua, người ta bắt đầu xúc phạm tôi.” Ông
ấy hay nói, “Hôm nay vui quá: một số người trên đường chế giễu
Ram. Ram cũng thấy cả họ nữa. Tôi nói, “Nhìm Ram kìa, họ
đang chế giễu cậu đấy.”

Điều đó đã gây ra khó khăn lớn khi ông ấy tới Mĩ lần đầu
tiên và bắt đầu gọi bản thân mình theo ngôi thứ ba. ở Ấn Độ, bạn
bè ông ấy đã biết rõ ông, họ biết rằng ông ấy có hơi chút quái dị.
Nhưng ở Mĩ thì khó khăn lớn nảy sinh vì mọi người không thể
đoán được điều ông ấy đang nói. Nhưng ông ấy hoàn toàn đúng
trong phát biểu của mình.
Bụng trở nên đói, nhưng bạn không bao giờ đói. Điều đó
chưa bao giờ xảy ra cho tới nay. Điều đó là không thể được, bởi
vì cái đói là bất lực trước linh hồn, trước cái ta. Linh hồn không
có cơ chế để cảm thấy đói, nó không có phương tiện để cảm thấy
cái dầy vò của cái đói. Không cái gì giảm đi hay được tăng lên
trong linh hồn; không cái gì rời bỏ linh hồn; không cái gì bị mất
đi từ nó để sinh ra sự giằn vặt của cái đói. Cái gì đó bao giờ cũng
giảm đi trong thân thể bởi vì nó chết đi hàng ngày, và bởi quá
trình chết này mà bạn cảm thấy cái đói.

Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng cái gì đó bên trong bạn
chết đi hàng ngày; cho nên cái phần chết đi đó phải được thay thế
bởi thức ăn. Không có lí do khác. Một số phần nào đó bên trong
bạn chết đi, cho nên bạn phải thay thế những phần chết đó bằng
những phần đang sống sao cho bạn vẫn có thể còn sống. Do đó
bạn mất một nửa cân trọng lượng khi bạn nhịn ăn trong một
ngày. Lí do là gì? Một nửa cân đó đã chết và bạn đã không thay
thế nó. Bạn sẽ lại phải thay thế nó. Các nhà khoa học nói một
người có thể nhịn đói trong chín mươi ngày. Đến cuối cùng điều
này sẽ gây ra khó khăn lớn bởi vì người đó vẫn cứ sống trong
chín mươi ngày này bằng việc tiêu thụ mỡ tích luỹ trong thân thể;
nhưng ngày qua ngày, khi vét kiệt kho mỡ dự trữ của mình,
người đó chết dần. Người đó sẽ ngày một yếu đi hơn, mất trọng
lượng và cảm thấy kiệt sức, nhưng người đó vẫn tiếp tục sống.
Chúng ta thay thế những yếu tố chết của mình bằng thức ăn;
cái thiếu hụt được làm đủ lên. Nhưng linh hồn không chết.
Không yếu tố nào của nó bị kém đi, cho nên không có lí do cho
linh hồn cảm thấy đói. Có một điều đáng quan tâm nên biết về sự kiện này. Linh
hồn không cảm thấy đói; thân thể không biết cơn
đói. Thân thể cảm thấy đói nhưng linh hồn biết cơn đói. Toàn thể
hiện tượng này là cái gì đó giống như câu chuyện mà bạn có thể
đã nghe.

Ngày xưa một khu rừng bốc cháy. Một người mù và một
người què đi ngang qua khu rừng này. Người mù không thể thấy
được, nhưng người đó có thể bước; người đó có chân khoẻ. Thật
là nguy hiểm mà tiến bước. May mắn là lửa còn chưa lan tới nơi
họ đang đứng. Người què thì không thể bước đi nhưng có thể
thấy lửa đang lan tới. Hai người này phải là những người khôn
ngoan, mặc dầu bình thường những người như thế không được
như vậy. Làm sao bạn có thể trông đợi người mù khôn ngoan khi
người đủ mắt còn không khôn ngoan? Làm sao người què có thể
khôn ngoan khi người đủ chân không khôn ngoan? Nhưng hai
người này quả là khôn ngoan và họ đi tới hiểu biết. Người què
nói, “Nếu chúng ta muốn cứu mạng mình chỉ còn mỗi một cách.
Để tôi ngồi lên vai bác. Chúng ta sẽ dùng mắt của tôi và chân của
bác. Tôi sẽ hướng dẫn và bác sẽ bước theo.” Do đó họ cứu được
tính mạng mình.

Hành trình cuộc sống cũng là một loại hiểu biết sâu sắc giữa
thân thể và linh hồn vậy. Đó là cuộc hành trình của người mù và
người què. Linh hồn có kinh nghiệm - nó kinh nghiệm - nhưng
không cái gì xảy ra cả; việc xảy ra là trong thân thể, nhưng thân
thể không kinh nghiệm. Tất cả mọi kinh nghiệm đều do linh hồn
cảm nhận; và mọi điều xảy ra đều diễn ra trong thân thể, nhưng
thân thể không kinh nghiệm chúng. Do đó tất cả những điều này
là rắc rối!

Ngày đó cũng rắc rối nào đó phải đã nảy sinh, nhưng Aesop,
người đã viết ra câu chuyện người mù và người què này, đã
không nhắc gì đến điều đó. Điều cần đối với hai người này là vội
vã, cho nên khi người mù chạy thật nhanh còn người què nhìn
thật chóng, rất có thể là người mù cảm thấy, “Tôi có thể thấy,”
còn người què cảm thấy, “Tôi đang chạy.”

Điều này đích xác là điều xảy ra với chúng ta. Chính điều
xảy ra này cần phải bị phá vỡ. Cả hai nên được phân biệt cho rõ
ràng. Cả hai nên tách bạch ra, bằng không dây dợ của chúng ta sẽ
bị bắt chéo. Mọi việc xảy ra đều diễn ra trong thân thể, và linh
hồn kinh nghiệm chúng. Bạn sẽ bắt đầu hiểu thấu lời kinh về
vidya khi bạn tách bạch hai phần này ra. Thế thì cuộc hành trình
của bạn hướng tới điều bất tử sẽ bắt đầu.

Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ lại nói vào sáng mai. Bây giờ
chúng ta bắt đầu cuộc hành trình hướng tới điều bất tử.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến