Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

Phủ định tri thức

Tri thức là cái đáng nguyền rủa, là tai ương, là cái
xấu xa. Chính là qua tri thức mà con người trở nên bị
chia lìa khỏi cái toàn thể. Tri thức tạo ra khoảng cách.
Bạn đi qua hoa dại trên núi non, bạn không biết nó là
gì, tâm trí bạn chẳng có gì để nói về nó, tâm trí im lặng.
Bạn nhìn vào hoa, bạn thấy hoa, nhưng không tri thức
nào nảy sinh trong bạn - có điều kì diệu, có cái bí ẩn.
Hoa có đấy, bạn có đấy. Qua điều kì diệu mà bạn không
tách biệt, bạn được nối liền.

Nếu bạn biết rằng đây là hoa hồng hay hoa cúc vạn
thọ, hay cái gì đó khác, chính cái hiểu biết đó cắt rời bạn.
Hoa có đó, bạn có đây, nhưng không có cầu nối - bạn
biết! Tri thức tạo ra khoảng cách. Bạn càng biết nhiều
khoảng cách càng lớn; bạn càng biết ít khoảng cách càng
bé. Và nếu bạn trong khoảnh khắc không biết gì, không
có khoảng cách, bạn được nối liền.

Bạn yêu một người đàn bà hay đàn ông - cái ngày
bạn yêu không có khoảng cách. Chỉ có mỗi điều kì diệu,
xúc động, kích động, cực lạc - nhưng không có tri thức.
Bạn không biết người đàn bà này là ai. Không có tri thức,
chẳng có gì chia rẽ bạn. Do đó có cái đẹp của những
khoảnh khắc ban đầu yêu đương này. Bạn đã sống với
người đàn bà này chỉ mới hai mươi bốn giờ; tri thức đã
nảy sinh. Bây giờ bạn có một số ý tưởng về người đàn bà
này: bạn biết cô ấy là ai, có hình ảnh. Hai mươi bốn giờ
đã tạo ra quá khứ. Hai mươi bốn giờ này đã để lại dấu vết
trong tâm trí: bạn nhìn vào cùng người đàn bà này, không
còn cùng bí ẩn nữa. Bạn đang đi xuống đồi, cái đỉnh đó
đã mất.
Hiểu điều này là hiểu được nhiều lắm. Hiểu rằng tri
thức phân chia, tri thức tạo ra khoảng cách, là hiểu chính
bí mật của thiền. Thiền là trạng thái không biết. Thiền là
không gian thuần khiết, không bị tri thức quấy nhiễu. Thế
đấy, câu chuyện kinh thánh thế mà lại đúng - rằng con
người đã sa ngã qua tri thức, bởi việc ăn trái cây hiểu
biết. Không kinh sách nào khác của thế giới vượt hơn
điều đó. Chuyện ngụ ngôn đó là lời cuối cùng; không
chuyện ngụ ngôn nào khác đạt tới đỉnh cao và sáng suốt
đó.

Có vẻ phi lí thế khi nói con người đã sa ngã qua tri
thức. Điều đó có vẻ phi lí bởi vì logic là một phần của tri
thức. Logic là tất cả trong việc hỗ trợ cho tri thức. Điều
đó có vẻ phi lí, bởi vì logic là nguyên nhân gốc rễ cho sa
ngã của con người. Một người tuyệt đối logic, tuyệt đối
lành mạnh, bao giờ cũng lành mạnh, không bao giờ cho
phép có bất kì điều phi lí nào trong cuộc sống mình, là người điên. Cái lành mạnh cần được cân bằng bởi cái
không lành mạnh; logic cần được cân bằng bởi phi logic.
Các cái đối lập gặp nhau và cân bằng. Một người chỉ có
lí trí là vô lí - người đó sẽ bỏ lỡ nhiều lắm. Trong thực tế
người đó sẽ cứ bỏ lỡ tất cả những cái đẹp đẽ và tất cả
những cái đúng đắn. Người ấy sẽ thu thập những cái tầm
thường, cuộc sống người ấy sẽ là cuộc sống trần tục.
Người ấy sẽ là phàm nhân.
Câu chuyện ngụ ngôn kinh thánh đó có sáng suốt sâu
xa. Tại sao con người sa ngã qua tri thức? - bởi vì tri thức
tạo ra khoảng cách, bởi vì tri thức tạo ra cái ‘tôi’ và cái
‘bạn’, bởi vì tri thức tạo ra chủ thể và khách thể, người
biết và cái được biết, người quan sát và cái được quan
sát. Tri thức về cơ bản là bệnh tinh thần phân liệt; nó tạo
ra chia chẻ. Và thế thì không có cách nào bắc cầu qua
điều đó. Đó là lí do tại sao con người càng trở nên có tri
thức, người đó càng ít tôn giáo hơn. Con người càng
được giáo dục, càng ít có khả năng tiếp cận Thượng đế.
Jesus là phải khi ông ấy nói, “Chỉ trẻ con mới có thể
vào vương quốc của ta”... chỉ trẻ con.

Đâu là phẩm chất đứa trẻ có và bạn làm mất? Đứa trẻ
có phẩm chất của không tri thức, của hồn nhiên. Nó nhìn
với ngạc nhiên, mắt nó hoàn toàn trong sáng. Nó nhìn
sâu, nhưng nó không có định kiến, không phán xét,
không có ý tưởng tiên quyết. Nó không phóng chiếu, do
đó nó nhận ra cái đang đấy.
Hôm trước chúng ta đã nói về phân biệt giữa thực tại
và chân lí. Trẻ con biết chân lí, bạn chỉ biết thực tại.
Thực tại là cái bạn đã tạo ra quanh mình - phóng chiếu,
ham muốn, suy nghĩ. Thực tại là diễn giải của bạn về
chân lí. Chân lí đơn giản là cái đang đấy; thực tại là cái
bạn đã đi tới hiểu biết - nó chính là ý tưởng của bạn về
chân lí. Thực tại bao gồm nhiều thứ, tất cả đều tách biệt.
Chân lí bao gồm chỉ một năng lượng vũ trụ. Chân lí bao
gồm cái một, thực tại bao gồm cái ‘nhiều’. Thực tại là
đám đông, chân lí là toàn vẹn.
Trước khi chúng ta đi vào lời kinh này, điều này cần
phải trở thành nền tảng: rằng tri thức là cái đáng nguyền
rủa.

J. Krishnamurti đã nói, “Phủ định là im lặng.” Phủ
định cái gì? - phủ định tri thức, phủ định tâm trí, phủ
định mối bận tâm thường xuyên này ở bên trong bạn; để
tạo ra không gian nhàn rỗi. Khi bạn nhàn rỗi, bạn hài hoà
với cái toàn thể. Khi bạn bận bịu bạn trượt ra khỏi hài
hoà. Do đó, bất kì khi nào xảy ra việc bạn có thể đạt tới
một khoảnh khắc im lặng, có vui vẻ mênh mông. Trong
khoảnh khắc im lặng đó cuộc sống có ý nghĩa, trong
khoảnh khắc im lặng đó cuộc sống có vẻ hùng vĩ vượt ra
ngoài lời nói. Trong khoảnh khắc đó cuộc sống là điệu
vũ. Trong khoảnh khắc đó thậm chí cái chết có tới thì
cuộc sống vẫn cứ nhảy múa và mở hội, bởi vì khoảnh
khắc đó không biết gì ngoài vui vẻ. Khoảnh khắc đó là
vui vẻ, nó là phúc lạc.

Tri thức phải bị phủ định - nhưng không phải bởi vì
tôi nói như thế hay bởi vì J. Krishnamurti nói như thế hay
bởi vì Phật Gautam đã nói như thế. Nếu bạn phủ định bởi
vì tôi đang nói như thế, thế thì bạn sẽ phủ định tri thức
của bạn, và bất kì cái gì tôi đang nói cũng sẽ trở thành tri
thức của bạn ngay chỗ đầu tiên; bạn sẽ thay thế nó. Việc
phủ định phải không tới từ tâm trí, nếu không thì tâm trí
sẽ rất thủ đoạn. Thế thì bất kì cái gì tôi nói cũng đều trở
thành tri thức của bạn, bạn bắt đầu níu bám lấy nó. Bạn
ném đi thần tượng cũ của mình và bạn thay thế chúng bằng thần tượng mới. Nhưng đấy vẫn là trò chơi cũ với
lời lẽ mới, ý tưởng mới, ý nghĩ mới.
Thế thì làm sao phủ định được tri thức? Không phải
bởi tri thức khác: chỉ cần nhìn vào trong sự kiện rằng tri
thức tạo ra khoảng cách, chỉ nhìn vào trong sự kiện này
một cách mãnh liệt, toàn bộ, là đủ. Không phải là bạn
phải thay thế nó bằng một cái gì đó khác; sự mãnh liệt đó
là ngọn lửa, sự mãnh liệt đó sẽ biến tri thức của bạn
thành tro bụi. Sự mãnh liệt đó là đủ. Sự mãnh liệt đó là
cái vẫn được biết là ‘sáng suốt’. Sáng suốt sẽ đốt cháy tri
thức của bạn, và nó sẽ không bị thay thế bởi tri thức
khác. Thế thì có cái trống rỗng, shunyata. Thế thì có cái
không, bởi vì thế thì không có nội dung; có chân lí không
bị xáo lộn, không bị bóp méo.

Bạn phải thấy điều tôi đang nói, bạn đừng học điều
tôi đang nói. Tại đây, ngồi với tôi hàng ngày, lắng nghe
tôi, đừng bắt đầu thu thập tri thức. Tại đây, lắng nghe tôi,
đừng bắt đầu tích trữ. Lắng nghe tôi nên là kinh nghiệm
trong sáng suốt. Bạn nên lắng nghe với sự mãnh liệt, với
tính toàn bộ, với nhiều nhận biết nhất có thể được cho
bạn. Trong chính nhận biết đó bạn sẽ thấy một điểm, và
chính việc thấy đó là biến đổi. Không phải là bạn phải
làm điều gì đó khác về sau; chính bản thân việc thấy đem
tới chuyển hoá. Nếu nỗ lực nào đó là cần tới, điều đó đơn
giản chỉ ra bạn đã lỡ. Nếu ngày mai bạn đến tôi và hỏi
tôi, “Tôi đã hiểu rằng tri thức là cái đáng nguyền rủa,
rằng tri thức tạo ra khoảng cách. Bây giờ làm sao để vứt
bỏ nó?” - thế thì bạn lỡ. Nếu cái ‘làm sao’ nảy sinh, thế
thì bạn đã lỡ. Cái ‘làm sao’ không thể nảy sinh, bởi vì cái
‘làm sao’ đang đang đòi hỏi thêm tri thức. Cái ‘làm sao’
đang đòi hỏi phương pháp, kĩ thuật: “Phải làm gì đây?”
Và sáng suốt là đủ; nó không cần được giúp đỡ bởi bất kì
nỗ lực nào. Ngọn lửa của nó quá đủ để thiêu đốt tất cả tri
thức bạn mang bên trong mình. Chỉ thấy đúng vấn đề
thôi.

Lắng nghe tôi, đi cùng tôi. Lắng nghe tôi, cầm tay tôi
và đi vào trong không gian mà tôi đang cố gắng giúp bạn
đi vào. Và thấy cái tôi đang nói, đừng tranh biện. Đừng
nói có, đừng nói không. Đừng đồng ý, đừng không đồng
ý. Chỉ cùng với tôi trong khoảnh khắc này - và bỗng
nhiên sáng suốt có đó. Nếu bạn lắng nghe một cách chăm
chú... và bởi việc chăm chú tôi không có ý nói tập trung;
bởi chăm chú tôi đơn giản ngụ ý bạn đang lắng nghe với
nhận biết, với cởi mở. Bạn ở đây, bây giờ, với tôi. Đó là
điều tôi muốn nói bởi chăm chú: bạn không ở đâu khác.
Bạn không so sánh trong tâm trí điều tôi đang nói với ý
nghĩ cũ của bạn. Bạn không so sánh chút nào, bạn không
đánh giá. Bạn không có đó để đánh giá bên trong, trong
bạn, dù điều tôi đang nói là đúng hay không, hay nó đúng
đến đâu.

Mới hôm nọ tôi đã nói với một người tìm kiếm. Anh
ta có phẩm chất của người tìm kiếm, nhưng bị trĩu nặng
bởi tri thức. Trong khi tôi đang nói với anh ta thì mắt anh
ta trở nên đẫm lệ. Trái tim anh ấy vừa mới sắp mở ra, và
trong chính khoảnh khắc đó tâm trí nhào vô và phá huỷ
toàn bộ cái đẹp của nó. Anh ta chỉ vừa mới hướng tới trái
tim và cởi mở, nhưng ngay lập tức tâm trí đã vào. Nhưng
giọt nước mắt đó vừa mới ló ra, đã biến mất. Mắt anh ta
thành ráo hoảnh. Điều gì đã xảy ra? - Tôi đã nói điều gì
đó mà anh ta có thể không đồng ý. Anh ta đã đồng ý với
tôi, cho tới điểm đó. Thế rồi tôi đã nói điều gì đó đi
ngược lại với nền tảng Do Thái của anh ta, đi ngược lại
Kabbala, và ngay lập tức toàn bộ năng lượng đã thay đổi.
Anh ta nói, “Mọi thứ đều phải. Bất kì điều gì thầy đang nói cũng đều phải, chỉ trừ mỗi điều này: rằng Thượng đế không có mục đích, rằng sự tồn tại tồn tại vô mục đích -
với điều này tôi không thể nào đồng ý được, bởi vì
Kabbala nói chính điều ngược lại: rằng cuộc sống có mục
đích, rằng Thượng đế là hướng đích, rằng ngài đang dẫn
chúng ta hướng tới định mệnh nào đó, rằng có đích.”
Anh ta có thể thậm chí còn không nhìn vào điều đó
theo cách này - rằng anh ta đã lỡ trong khoảnh khắc đó
bởi vì việc so sánh đã tới. Điều mà Kabbala nói liên quan
gì tới tôi? Khi bạn đang ở cùng tôi, vứt tất cả các tri thức
về Kabbala, về yoga, về mật tông, về cái này cái khác.
Khi bạn đang ở cùng tôi, ở cùng tôi đi. Nếu bạn toàn bộ ở
với tôi... và tôi không nói rằng bạn đang đồng ý với tôi,
nhớ lấy. Tôi không nói rằng bạn đang đồng ý với tôi:
không có vấn đề về đồng ý hay không đồng ý.
Khi bạn thấy hoa hồng, bạn có đồng ý với nó hay
không đồng ý với nó? Khi bạn thấy mặt trời lên, bạn
đồng ý hay bạn không đồng ý? Khi bạn ngắm trăng ban
đêm, bạn đơn giản thấy nó! Hoặc bạn thấy nó hoặc bạn
không thấy nó, nhưng không có vấn đề đồng ý hay không
đồng ý.

Theo cách đó, bạn ở cùng tôi đi; đó là cách ở cùng
với thầy. Chỉ ở với tôi. Tôi không cố thuyết phục bạn về
bất kì cái gì. Tôi không cố thay đổi chính kiến bạn sang lí
thuyết nào đó, triết lí, học thuyết, sang nhà thờ nào đó,
không! Tôi đơn giản chia sẻ điều đã xảy ra cho tôi, và
trong chính việc chia sẻ đó, nếu bạn tham gia, điều ấy có
thể xảy ra cho bạn nữa. Đấy là sự tiêm nhiễm. Sáng suốt
làm biến đổi.

Khi tôi đang nói tri thức là cái đáng nguyền rủa, bạn
có thể đồng ý hay không đồng ý - và bạn đã lỡ! Bạn chỉ
lắng nghe nó thôi, chỉ nhìn vào trong nó, đi vào trong
toàn bộ quá trình của tri thức. Bạn thấy tri thức tạo ra
khoảng cách như thế nào, tri thức trở thành rào chắn như
thế nào, tri thức đứng ở giữa như thế nào, tri thức tăng
lên như thế nào và khoảng cách tăng lên như thế nào, hồn
nhiên mất đi như thế nào qua tri thức, cuộc sống trở
thành đờ đẫn như thế nào và đáng chán như thế nào qua
tri thức. Bí ẩn mất đi, và với bí ẩn Thượng đế cũng mất
đi.

Bí ẩn biến mất bởi vì bạn bắt đầu có ý tưởng rằng
bạn biết. Khi bạn biết, làm sao bí ẩn có thể có được? Bí
ẩn chỉ có thể có khi bạn không biết.
Và nhớ lấy, con người chẳng biết đến một việc! Tất
cả những cái mà chúng ta đã thu thập đều chỉ là rác rưởi.
Điều tối hậu vẫn còn bên ngoài việc nắm bắt. Cái chúng
ta thu thập chỉ là sự kiện, chân lí vẫn còn không được
động tới bởi nỗ lực của chúng ta. Và đó là kinh nghiệm
không chỉ của Phật, Krishna, Krishnamurti và Ramana;
đấy là kinh nghiệm ngay cả của Edison, Newton, Albert
Einstein. Đấy là kinh nghiệm của các nhà thơ, hoạ sĩ, vũ
công. Tất cả những người thông minh của thế giới - họ
có thể là nhà huyền môn, họ có thể là nhà thơ, họ có thể
là nhà khoa học - đều hoàn toàn đồng ý về một điều: rằng
chúng ta càng biết nhiều, chúng ta càng hiểu rằng cuộc
sống là một bí ẩn hoàn toàn. Tri thức của chúng ta không
phá huỷ được cái bí ẩn của nó. Chỉ người ngu mới nghĩ
rằng bởi vì họ mới biết có chút ít, cho nên bây giờ không
còn bí ẩn nào trong cuộc sống. Chỉ tâm trí xoàng xĩnh
mới trở nên quá gắn bó với tri thức; tâm trí thông minh
vẫn còn ở trên tri thức. Người ấy dùng nó, chắc chắn
dùng nó - nó là có ích, nó là tiện ích - nhưng người ấy
biết rất rõ rằng tất cả những cái đúng đắn đều bị giấu kín, vẫn còn bị giấu kín. Chúng ta có thể cứ biết và biết,
nhưng Thượng đế vẫn còn chẳng được biết hết.
Lắng nghe với sáng suốt, chú ý, toàn bộ. Và trong
chính viễn kiến đó bạn sẽ thấy cái gì đó, và việc thấy đó
làm thay đổi bạn. Bạn không hỏi làm sao nữa.
Đó là ý nghĩa khi Krishnamurti nói, “Phủ định là im
lặng.” Sáng suốt là phủ định. Và khi một cái gì đó bị phủ
định và không có gì được đặt vào thay thế, một cái gì đó
đã bị phá huỷ đi và không có gì được đặt vào, được thay
thế vào chỗ của nó, thế thì có im lặng - bởi vì có không
gian. Có im lặng bởi vì cái cũ đã bị ném đi còn cái mới
thì chưa được đem tới. Im lặng đó Phật gọi là shunyata.
Im lặng đó là cái trống rỗng, cái không. Và chỉ cái không
đó mới có thể vận hành trong thế giới của chân lí.

Ý nghĩ không thể vận hành ở đó. Ý nghĩ chỉ làm việc
trong thế giới các vật, bởi vì ý nghĩ cũng là vật - tinh tế,
nhưng nó cũng là vật chất. Đấy là lí do tại sao ý nghĩ có
thể được ghi lại, đó là lí do tại sao ý nghĩ có thể được
chuyển tiếp, được truyền đạt. Tôi có thể ném ý nghĩ vào
bạn; bạn có thể giữ lấy nó, bạn có thể có nó. Nó có thể
được cho và nhận, nó là chuyển trao được, bởi vì nó là
vật. Nó là hiện tượng vật chất.
Cái trống rỗng không thể được đem đi cho, cái trống
rỗng không thể nào bị ném vào bạn được. Bạn có thể
tham gia vào nó, bạn có thể đi vào trong nó, nhưng
không ai có thể đem nó cho bạn. Nó là không chuyển
trao được. Và chỉ có cái trống rỗng mới vận hành trong
thế giới chân lí. Chân lí chỉ được biết tới khi tâm trí
không có đó. Để biết chân lí thì tâm trí phải dừng lại, nó
phải chấm dứt hoạt động. Nó phải im lặng, tĩnh lặng,
không chuyển động.

Ý nghĩ không thể nào vận hành trong chân lí, nhưng
chân lí có thể vận hành qua ý nghĩ. Bạn không thể nào
đạt tới chân lí bằng suy nghĩ, nhưng khi bạn đã đạt tới nó
bạn có thể dùng suy nghĩ trong phục vụ của nó. Đó là
điều tôi đang làm, đó là điều Phật đã làm, đó là điều tất
cả các thầy đã làm.

Điều tôi đang nói là ý nghĩ, nhưng đằng sau ý nghĩ
này là cái trống rỗng. Cái trống rỗng đó không do ý nghĩ
sản sinh ra, cái trống rỗng đó vượt ra ngoài ý nghĩ. Ý
nghĩ không thể động chạm tới nó được, ý nghĩ thậm chí
không thể nhìn vào nó.

Bạn đã bao giờ quan sát một hiện tượng chưa? - đó là
bạn không thể nào nghĩ được về cái trống rỗng, bạn
không thể nào làm cho cái trống rỗng thành một ý nghĩ.
Bạn không thể nào nghĩ về nó, nó là điều không thể nghĩ
được. Nếu bạn có thể nghĩ về nó, nó sẽ không còn là
trống rỗng chút nào nữa. Ý nghĩ phải ra đi để cho cái
trống rỗng tới; chúng chưa bao giờ gặp nhau. Một khi cái
trống rỗng đã tới, thì nó có thể dùng mọi loại phương
cách để diễn tả mình.

Hiểu thấu là trạng thái của vô ý nghĩ. Bất kì khi nào
bạn thấy cái gì đó, bạn bao giờ cũng thấy khi không có ý
nghĩ. Tại đây cũng vậy, lắng nghe tôi, ở cùng với tôi, đôi
khi bạn thấy. Nhưng những khoảnh khắc đó là lỗ hổng,
khoảng hở. Một ý nghĩ đã qua, ý nghĩ khác còn chưa tới,
và có lỗ hổng; và trong lỗ hổng đó một cái gì đó nhoáng
lên, một cái gì đó bắt đầu rung động. Âm thanh đẹp đẽ đó
đi tới là do được tạo ra từ cái trống rỗng. Khi bạn có đó,
không có ý nghĩ, thế thì cái gì đó là có thể, lập tức có thể.
Thế thì bạn có thể thấy điều tôi đang nói. Thế thì nó sẽ
không chỉ là lời nói nghe thấy, thế thì nó sẽ trở thành trực giác, hiểu thấu, viễn kiến. Bạn đã nhìn vào trong nó, bạn
đã chia sẻ với tôi.
Hiểu thấu là trạng thái vô suy nghĩ, không ý nghĩ. Nó
là lỗ hổng, khoảng hở trong quá trình suy nghĩ, và trong
lỗ hổng đó là cái thoáng nhìn, chân lí.
Từ tiếng Anh trống rỗng bắt nguồn từ một gốc có
nghĩa là giải trí, nhàn rỗi. Nó là một từ hay nếu bạn đi về
gốc rễ. Gốc rễ là rất hàm chứa: nó có nghĩa là giải trí,
nhàn rỗi. Bất kì khi nào bạn nhàn rỗi, giải trí, bạn đều
trống rỗng. Và nhớ lấy, câu ngạn ngữ nói rằng tâm trí
trống rỗng là xưởng thợ của quỉ hoàn toàn vô nghĩa.
Chính cái đối lập mới là chân lí: tâm trí bận bịu là xưởng
thợ của quỉ. Tâm trí trống rỗng là xưởng thợ của Thượng
đế, không phải là của quỉ. Nhưng bạn phải hiểu điều tôi
ngụ ý bởi ‘trống rỗng’ - giải trí, thảnh thơi, không căng
thẳng, không chuyển động, không ham muốn, không đi
đâu cả, chỉ ở đây, hoàn toàn ở đây. Tâm trí trống rỗng là
sự hiện diện thuần khiết. Và tất cả đều có thể trong sự
hiện diện thuần khiết đó, bởi vì toàn bộ sự tồn tại bắt
nguồn từ sự hiện diện thuần khiết đó.

Những cây này trưởng thành lên từ sự hiện diện
thuần khiết đó, những vì sao này được sinh ra từ sự hiện
diện thuần khiết đó; chúng ta đang ở đây - tất cả chư phật
đã bắt nguồn từ sự hiện diện thuần khiết này. Trong sự
hiện diện thuần khiết đó bạn là trong Thượng đế, bạn là
Thượng đế. Bận bịu, bạn sa ngã; bận bịu, bạn bị trục xuất
ra khỏi vườn Địa đàng. Nhàn rỗi bạn quay trở lại vườn
này, nhàn rỗi bạn quay trở về nhà.

Khi tâm trí không bận bịu bởi thực tại, bởi mọi vật,
bởi ý nghĩ, thế thì có cái đang đấy. Và cái đang đấy là
chân lí. Chỉ trong trống rỗng mới có gặp gỡ, hội nhập.
Chỉ trong trống rỗng bạn mới cởi mở với chân lí và chân
lí đi vào trong bạn. Chỉ trong trống rỗng bạn mới trở
thành hàm chứa với chân lí.

Có ba trạng thái của tâm trí. Trạng thái thứ nhất là
nội dung và tâm thức. Bạn bao giờ cũng có nội dung
trong tâm trí - ý nghĩ chuyển động, ham muốn nảy sinh,
giận dữ, tham lam, tham vọng. Bạn bao giờ cũng có nội
dung nào đó trong tâm trí; tâm trí chưa bao giờ nhàn rỗi
cả. Giao thông cứ tiếp diễn, ngày tới, ngày đi. Trong khi
tỉnh nó có đấy, trong khi ngủ nó có đấy. Trong khi tỉnh
bạn gọi nó là suy nghĩ, trong khi ngủ bạn gọi nó là mơ -
cũng vẫn cùng một quá trình ấy thôi. Mơ có chút ít
nguyên thuỷ hơn, đó là tất cả - bởi vì nó nghĩ dưới dạng
hình ảnh. Nó không dùng khái niệm, nó dùng hình ảnh.
Nó nguyên thuỷ hơn; giống như trẻ con nghĩ dưới dạng
hình ảnh. Cho nên trong sách cho trẻ con bạn phải làm
bức tranh lớn, mầu sắc, bởi vì chúng nghĩ qua hình ảnh.
Qua hình ảnh chúng sẽ học từ ngữ. Dần dần những hình
ảnh đó trở nên bé dần đi, và thế rồi chúng biến mất.
Con người nguyên thuỷ cũng nghĩ theo hình ảnh.
Ngôn ngữ cổ đại nhất là ngôn ngữ hình ảnh. Tiếng Trung
quốc là ngôn ngữ hình ảnh: nó không có bảng chữ cái.
Nó là ngôn ngữ cổ đại nhất. Trong đêm bạn lần nữa trở
thành nguyên thuỷ; bạn quên mất cái phức tạp của ban
ngày và bạn bắt đầu nghĩ theo hình ảnh - nhưng nó là
một.

Và hiểu thấu của các nhà phân tâm là có giá trị - rằng
người đó nhìn vào trong giấc mơ của bạn. Thế thì có
nhiều chân lí hơn, bởi vì bạn nguyên thuỷ hơn; bạn
không cố gắng lừa dối bất kì ai, bạn chân thực hơn. Ban
ngày bạn có một cá tính bao quanh mình để che dấu
mình - hết tầng cá tính nọ đến tầng cá tính kia. Rất khó để tìm ra con người thật. Bạn sẽ phải đào sâu vào, và
điều đó làm tổn thương, và con người sẽ kháng cự.
Nhưng trong đêm, ngay khi bạn cởi quần áo ra đi ngủ,
bạn cũng cởi bỏ luôn cá tính của mình đi nữa. Nó không
cần nữa bởi vì bạn sẽ không trao đổi với bất kì ai, bạn sẽ
một mình trong giường. Và bạn sẽ không trong thế giới,
bạn sẽ tuyệt đối đơn độc trong cõi riêng tư của mình.
Không cần phải che dấu và không cần giả vờ. Đó là lí do
tại sao các nhà phân tâm cứ cố gắng đi vào trong giấc mơ
của bạn, bởi vì chúng bầy tỏ được rõ ràng hơn nhiều về
bạn là ai. Nhưng đấy cũng lại là cùng trò chơi được chơi
trong ngôn ngữ khác mà thôi; trò chơi đâu có khác biệt.
Đây là trạng thái thông thường của tâm trí: tâm trí và nội
dung, tâm thức cộng với nội dung.
Trạng thái thứ hai của tâm trí là tâm thức không nội
dung; đó chính là điều thiền là gì. Bạn hoàn toàn tỉnh táo,
và có lỗ hổng, khoảng hở. Không ý nghĩ nào đi vào,
không có ý nghĩ trước bạn. Bạn không ngủ, bạn tỉnh thức
- nhưng không có ý nghĩ. Đây là thiền. Trạng thái đầu
tiên được gọi là tâm trí, trạng thái thứ hai được gọi là
thiền.

Và rồi còn có trạng thái thứ ba. Khi nội dung đã biến
mất, khách thể đã biến mất, chủ thể không thể nào còn lại
lâu được - bởi vì chúng tồn tại cùng nhau. Chúng tạo ra
lẫn nhau. Khi chủ thể là một mình thì nó chỉ lơ lửng đâu
đó thêm một chút nữa, giống như còn lại cái đà của quá
khứ. Không có nội dung thì ý thức không thể nào có đó
lâu được; nó sẽ không được cần tới nữa, bởi vì ý thức
bao giờ cũng là một ý thức về cái gì đó. Khi bạn nói ‘ý
thức’, người ta có thể hỏi “Về cái gì?” Bạn nói, “Tôi
đang ý thức về...” Khách thể đó là cần thiết, nó là cái
phải có cho chủ thể tồn tại. Một khi khách thể đã biến
mất, chẳng bao lâu chủ thể cũng sẽ biến mất. Trước hết
nội dung ra đi, thế rồi ý thức biến mất.

Thế thì trạng thái thứ ba được gọi là samadhi - không
nội dung, không ý thức. Nhưng nhớ lấy, cái không nội
dung này, không ý thức này, không phải là trạng thái vô
ý thức. Nó là trạng thái của siêu ý thức, của ý thức siêu
việt. Tâm thức bây giờ chỉ là tâm thức về chính nó. Tâm
thức đã biến thành chính nó; vòng tròn được hoàn chỉnh.
Bạn đã về tới nhà. Đây là trạng thái thứ ba, samadhi; và
trạng thái thứ ba này là cái mà Phật ngụ ý bởi shunyata.
Trước hết gạt bỏ nội dung - bạn trở thành nửa trống
rỗng, thế rồi gạt bỏ ý thức - bạn trở thành trống rỗng
hoàn toàn. Và cái trống rỗng hoàn toàn này là điều đẹp
đẽ nhất có thể xảy ra, phúc lành lớn nhất.
Trong cái không này, trong cái trống rỗng này, trong
cái không có cái ta này, trong cái shunyata này, có an
toàn và ổn định hoàn toàn. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết về
điều này - an toàn và ổn định đầy đủ khi bạn không có
đó. Tất cả mọi sợ hãi đều biến mất... bởi vì sợ hãi cơ bản
là đâu? Sợ hãi cơ bản là sợ cái chết. Tất cả các sợ hãi
khác đều chỉ là phản ánh của cái sợ cơ bản này. Tất cả
các sợ hãi khác đều có thể qui về một cái sợ: sợ chết, sợ
rằng, “Một ngày nào đó mình phải biến mất, một ngày
nào đó mình phải chết. Mình đang đây, rồi một ngày sẽ
tới khi mình sẽ không còn đó” - điều đó gây khiếp sợ, đó
là sợ hãi.
Để tránh cái sợ đó chúng ta bắt đầu chuyển động
theo cách để cho ta có thể sống lâu nhất có thể được. Và
chúng ta cố gắng làm cho cuộc sống mình thành an toàn -
chúng ta bắt đầu thoả hiệp, chúng ta bắt đầu trở nên ngày
một an ninh, an toàn hơn, bởi cái sợ đó. Chúng ta trở nên bị tê liệt, bởi vì bạn càng an toàn hơn, bạn càng an ninh hơn, thì bạn sẽ càng kém sống động hơn.

Cuộc sống tồn tại trong thách thức, cuộc sống tồn tại
trong khủng hoảng, cuộc sống cần bất an. Nó trưởng
thành trong mảnh đất của bất an. Bất kì khi nào bạn bất
an, thì bạn sẽ thấy mình sống động hơn, tỉnh táo hơn. Đó
là lí do tại sao người giầu trở thành đờ đẫn: một loại đần
độn và một loại ngẩn ngơ bao quanh họ. Họ an toàn quá,
chẳng còn thách thức nào nữa. Họ an toàn quá, họ không
cần đến thông minh nữa. Họ an toàn quá - vậy họ cần
thông minh để làm gì? Thông minh chỉ cần tới khi có
thách thức, thông minh được gợi ra từ thách thức.
Cho nên do sợ chết chúng ta cố gắng để được an
ninh, để có số dư ngân hàng, để có bảo hiểm, hôn nhân,
để có cuộc sống định cư, để có nhà; chúng ta trở thành
một phần của quốc gia, chúng ta gia nhập đảng phái
chính trị, chúng ta gia nhập nhà thờ tôn giáo - chúng ta
trở thành người Hindu, người Ki tô giáo, người Mô ha
mét giáo. Có đủ mọi cách để tìm ra an ninh. Có đủ mọi
cách để tìm ra chỗ nào đó mà thuộc vào - quốc gia, nhà
thờ. Bởi sợ hãi này mà các chính khách và tu sĩ khai thác
bạn mãi. Nếu bạn không sợ gì, không chính khách,
không tu sĩ nào có thể khai thác bạn được. Chính chỉ do
sợ hãi mà ông ta mới có thể khai thác được bởi vì ông ta
có thể cung cấp - ít nhất thì ông ta cũng có thể hứa - rằng
điều này sẽ làm cho bạn an toàn: “Điều này sẽ là an ninh
của bạn. Tôi có thể đảm bảo.” Hàng có thể chẳng bao giờ
được giao - đấy lại là việc khác - nhưng cứ hứa đã... Và
lời hứa giữ mọi người bị khai thác, bị áp bức. Lời hứa
giữ mọi người trong nô lệ.

Một khi bạn đã biết cái trống rỗng bên trong này thì
không còn sợ hãi nữa, bởi vì cái chết đã xảy ra rồi. Trong
cái trống rỗng đó nó đã xảy ra. Trong cái trống rỗng đó
bạn đã biến mất. Làm sao bạn có thể sợ gì thêm nữa
được? Về cái gì? Về ai? Và ai có thể đáng sợ? Trong cái
trống rỗng này tất cả mọi sợ hãi đều biến mất bởi vì cái
chết đã xảy ra. Bây giờ không còn cái chết nào có thể có
nữa. Bạn cảm thấy một loại bất tử, vô thời gian. Cái vĩnh
hằng đã tới. Bây giờ bạn không tìm kiếm an ninh nữa;
không cần nữa.

Đây là trạng thái của sannyasin. Đây là trạng thái
một người không cần là một phần của một quốc gia,
không cần là một phần của nhà thờ, hay những thứ xuẩn
ngốc như thế.

Chỉ khi bạn đã trở thành cái không, bạn mới có thể là
chính mình. Điều này có vẻ như nghịch lí.
Và bạn không cần phải thoả hiệp, bởi vì chính từ sợ
hãi và tham lam mà người ta mới thoả hiệp. Và bạn có
thể sống trong nổi dậy bởi vì không có gì để mất cả. Bạn
có thể trở thành việc nổi dậy; không có gì để sợ cả.
Không ai có thể giết bạn, tự mình bạn đã làm điều đó rồi.
Không ai có thể lấy bất kì cái gì khỏi bạn được; bạn đã
loại bỏ tất cả những cái mà có thể lấy đi khỏi bạn. Bây
giờ bạn trong cái không, bạn là cái không. Do đó mới có
hiện tượng nghịch lí này: rằng trong cái không này nảy
sinh an ninh lớn, an toàn lớn, ổn định - bởi vì không còn
cái chết nào có thể có nữa.
Và với cái chết, thời gian biến mất. Với cái chết thì
tất cả các vấn đề mà đã từng do cái chết và thời gian tạo
ra cũng biến mất. Trong thức tỉnh của tất cả những cái
biến mất này, cái còn lại là bầu trời thuần khiết. Bầu trời
thuần khiết này là samadhi, niết bàn. Phật đang nói về
điều này.

Những lời kinh này đã được dành cho một trong các
đại đệ tử của Phật, Sariputra*. Tại sao Sariputra?
Ngày đầu tiên tôi đã nói cho các bạn rằng có bẩy
bình diện, bẩy bậc của chiếc thang. Bậc thứ bẩy là siêu
việt: Thiền, Mật tông, Đạo. Bậc thứ sáu là siêu việt tâm
linh: yoga. Cho tới bậc thứ sáu, phương pháp vẫn còn
quan trọng, ‘làm sao’ vẫn còn là quan trọng. Cho tới bậc
thứ sáu, kỉ luật vẫn còn quan trọng, lễ nghi vẫn còn quan
trọng, kĩ thuật vẫn còn quan trọng. Chỉ khi bạn đạt tới
bậc thứ bẩy, bạn mới thấy rằng chẳng cần gì hết.
Sariputra được nói tới trong những lời kinh này bởi
vì Sariputra đã ở trung tâm thứ sáu, bậc thứ sáu. Ông ấy
là một trong những đại đệ tử của Phật. Phật có tám mươi
đại đệ tử; Sariputra là một trong những người chính trong
số tám mươi người này. Ông ấy là người hiểu biết nhất
quanh Phật. Ông ấy là học giả lớn nhất quanh Phật. Khi
ông ấy tới với Phật, bản thân ông ấy có năm nghìn đệ tử.
Khi ông ấy tới với Phật lần đầu tiên, ông ấy tới để
tranh luận, để tranh cãi và đánh bại Phật. Ông ấy tới với
năm nghìn đệ tử của mình - để gây ấn tượng. Và khi ông
ấy đứng trước Phật, Phật cười to. Và Phật nói với ông ấy,
“Sariputra, ông biết nhiều đấy, nhưng ông chẳng biết gì
cả. Ta có thể thấy ông đã tích luỹ khối lượng tri thức lớn,
nhưng ông thì trống rỗng. Ông đã tới để thảo luận và
tranh luận và để đánh bại ta, nhưng nếu ông thực sự
muốn thảo luận với ta, ông sẽ phải đợi ít nhất là một
năm”

Sariputra nói, “Một năm sao? Để làm gì?”
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Xá Lợi Phất hay Xá Lợi
Tử
Phật nói, “Ông sẽ phải giữ im lặng trong một năm;
điều đó sẽ là cái giá phải trả. Nếu ông có thể giữ im lặng
trong một năm thì ông có thể thảo luận với ta, bởi vì điều
ta định nói với ông sẽ tới từ im lặng. Ông cần có một
chút ít kinh nghiệm về nó. Và ta thấy, Sariputra, ông
thậm chí còn chưa nếm trải một khoảnh khắc im lặng.
Ông tràn đầy với tri thức thế, đầu ông nặng nề thế. Ta
cảm thấy thương hại ông, Sariputra. Ông đã mang tải
trọng nặng thế trong nhiều kiếp rồi. Ông là brahmin
không chỉ trong kiếp này, Sariputra, ông đã từng là
brahmin trong nhiều kiếp rồi. Và trong nhiều kiếp ông đã
mang Veda và các kinh sách. Nó đã là phong cách sống
của ông trong nhiều kiếp... nhưng ta thấy một khả năng.
Ông là người hiểu biết, nhưng vậy mà điều hứa hẹn vẫn
có đó. Ông là người hiểu biết, nhưng tri thức của ông vẫn
chưa khoá kín hoàn toàn bản thể ông; vẫn còn vài cửa sổ
để mở. Ta muốn, trong một năm, lau sạch những cửa sổ
này, và thế thì có khả năng cho sự gặp gỡ, cho việc nói
chuyện và việc hiện hữu của chúng ta. Ông ở lại đây một
năm đi.”

Điều này thật kì lạ. Sariputra đã từng du hành trên
khắp nước, đánh bại mọi người. Đó là một trong những
sự việc ở Ấn Độ: người hiểu biết hay du hành khắp nước
và đánh bại người khác trong những cuộc tranh luận và
thảo luận lớn, những cuộc tranh luận trường kì. Và điều
đó đã được coi như là một trong những sự việc vĩ đại
phải làm. Nếu ai đó trở nên thắng lợi trên khắp nước và
người ấy đánh bại tất cả các học giả thì đó là thoả mãn
bản ngã lớn lao. Con người đó được coi là vĩ đại hơn cả
vua, hoàng đế. Con người đó được coi là vĩ đại hơn
người giầu có. 

Sariputra đã du hành. Và một cách tự nhiên, bạn
không thể nào tự tuyên bố mình là người thắng lợi nếu
bạn còn chưa đánh bại Phật. Cho nên ông ấy đã tới vì
điều đó. Cho nên ông ấy nói, “Được thôi, nếu tôi phải đợi
một năm, thì tôi sẽ đợi.” Và trong một năm ông ấy đã
ngồi đó trong im lặng với Phật. Trong một năm, im lặng
đã lắng đọng trong ông ấy.

Và sau một năm Phật hỏi ông ta, “Bây giờ chúng ta
có thể thảo luận và ông có thể đánh bại ta, Sariputra. Ta
sẽ sung sướng vô cùng được ông đánh bại.”
Còn ông ấy thì cười lớn và cúi đầu chạm chân Phật
và nói, “Xin thầy điểm đạo cho tôi. Trong một năm im
lặng này, lắng nghe thầy, đã có vài khoảnh khắc khi sáng
suốt xảy ra trong tôi. Mặc dầu tôi đã tới như một đối thủ,
tôi đã nghĩ, “Trong khi mình đang ở đây ngồi im suốt
một năm, tại sao lại không lắng nghe con người này, điều
người ấy đang nói?” Cho nên từ tò mò mà tôi bắt đầu
lắng nghe. Nhưng đôi khi những khoảnh khắc đó tới và
thầy thấm vào tôi, và thầy chạm tới trái tim tôi, và thầy
chơi trên chiếc đàn bên trong tôi, và tôi đã nghe thấy âm
nhạc. Thầy đã đánh bại tôi mà không làm tôi thất bại.”
Sariputra trở thành đệ tử của Phật, và năm nghìn đệ
tử của ông ấy cũng trở thành đệ tử của Phật. Sariputra là
một trong những học giả rất nổi tiếng thời đó. Những lời
kinh này nói về Sariputra.

Tại đây, này Sariputra, hình dạng là trống rỗng
và chính trống rỗng là hình dạng;
trống rỗng không khác hình dạng,
hình dạng không khác trống rỗng;
dù hình dạng là gì, đấy cũng là trống rỗng;
dù trống rỗng là gì, đấy cũng là hình dạng;
điều này cũng đúng cho cảm giác,
cảm nhận, thôi thúc và tâm thức
Tại đây, này Sariputra... Phật ngụ ý gì bởi ‘tại đây’?
Ông ấy muốn nói tới không gian của mình. Ông ấy nói,
“Từ viễn kiến về thế giới của ta, từ quan điểm siêu việt,
không gian nơi ta hiện hữu và cái vĩnh hằng nơi ta hiện
hữu...”

Tại đây, này Sariputra, hình dạng là trống rỗng
và chính trống rỗng là hình dạng;
Đây là một trong những điều khẳng định quan trọng
nhất. Toàn bộ cách tiếp cận phật giáo đều phụ thuộc vào
điều này: rằng cái biểu hiện là cái không biểu hiện; rằng
hình dạng không là gì ngoài hình dạng của bản thân cái
trống rỗng, và cái trống rỗng thì cũng chẳng là gì ngoài
hình dạng, khả năng của hình dạng. Phát biểu này là phi
logic và dường như hiển nhiên là vô nghĩa. Làm sao hình
dạng có thể là trống rỗng được? Chúng là những điều đối
lập. Làm sao cái trống rỗng có thể là hình dạng được?
Chúng là các cực.
Một điều cần phải được hiểu trước khi chúng ta đi
vào trong lời kinh cho đúng: Phật là không logic, Phật là
biện chứng.

Có hai cách tiếp cận tới thực tại: một cách là logic.
Từ cách tiếp cận đó, Aristotle là người cha ở phương
Tây. Nó đơn giản đi theo đường thẳng, một đường dứt
khoát. Nó không bao giờ cho phép cái đối lập; cái đối lập
phải bị loại bỏ. Cách tiếp cận này nói A là A và không
bao giờ là không A. A không thể là không A được. Đây
là một công thức của trường phái logic Aristotle - và nó
có vẻ hoàn toàn phải, bởi vì chúng ta đã từng lớn lên với logic đó trong nhà trường phổ thông, cao đẳng, đại học.
Thế giới này bị Aristotle thống trị: A là A và không bao
giờ là không A.
Cách tiếp cận thứ hai tới thực tại là biện chứng. Tại
phương Tây cách tiếp cận đó được gắn với tên của
Heraclitus, Hegel. Quá trình biện chứng nói: cuộc sống
chuyển vận qua các cực, qua những điều đối lập - giống
như sông chảy qua hai bờ đối lập với nhau, nhưng những
bờ đối lập đều giữ cho sông tuôn chảy giữa chúng. Điều
này mang tính tồn tại nhiều hơn. Điện có hai cực, dương
và âm. Nếu logic của Aristotle là của sự tồn tại, thế thì
điện là rất, rất phi logic. Thế thì bản thân Thượng đế là
phi logic, bởi vì ngài tạo ra cuộc sống mới từ gặp gỡ của
đàn ông và đàn bà, là những phía đối lập - âm và dương,
đực và cái. Nếu như Thượng đế do Aristotle dựng nên
theo logic của trường phái Aristole, theo logic tuyến tính,
thế thì đồng dục sẽ là qui tắc còn dị dục sẽ là truỵ lạc.
Thế thì đàn ông sẽ yêu đàn ông và đàn bà sẽ yêu đàn bà.
Thế thì các phía đối lập không thể gặp gỡ.
Nhưng Thượng đế là biện chứng. Tại mọi nơi, các
phía đối lập đều gặp gỡ. Trong bạn, sinh và tử đang gặp
gỡ. Tại mọi nơi, các phía đối lập đều gặp gỡ - ngày và
đêm, mùa hè và mùa đông. Gai nhọn và hoa hồng, chúng
gặp gỡ; chúng đều trên cùng một cành, chúng phát xuất
từ cùng một nguồn gốc. Đàn ông và đàn bà, tuổi thanh
niên và tuổi già, cái đẹp và cái xấu, thân thể và linh hồn,
thế giới và Thượng đế - tất cả đều là đối lập. Đây là bản
giao hưởng của các phía đối lập. Các phía đối lập không
chỉ gặp gỡ mà còn tạo ra bản giao hưởng vĩ đại - chỉ các
phía đối lập mới có thể tạo ra bản giao hưởng. Ngược lại
thì cuộc sống sẽ đơn điệu, không phải là bản giao hưởng.
Cuộc sống sẽ là nhàm chán. Nếu chỉ có một nốt nhạc cứ
liên tục lặp lại, nhất định sẽ tạo ra chán ngấy. Có các nốt
đối lập: chính đề gặp phản đề, tạo ra sự tổng hợp; và
trong việc quay lại riêng của nó, tổng hợp lại trở thành
chính đề, lại tạo ra phản đề, và tổng hợp cao hơn tiến hoá
tiếp. Đó là cách cuộc sống chuyển vận.

Vậy cách tiếp cận của Phật là biện chứng, và nó
mang tính tồn tại nhiều hơn, đúng hơn, hợp lệ hơn.
Đàn ông yêu đàn bà, đàn bà yêu đàn ông - thế thì một
cái gì đó khác cần phải được hiểu nữa. Bây giờ các nhà
sinh học nói, và các nhà tâm lí cũng đồng ý, rằng đàn ông
không chỉ là đàn ông, anh ta là đàn bà nữa. Và đàn bà
không chỉ là đàn bà, cô ấy là đàn ông nữa. Cho nên khi
đàn ông và đàn bà gặp nhau, không chỉ có hai người gặp
nhau mà là bốn người gặp nhau. Đàn ông gặp với đàn bà,
nhưng đàn ông có đàn bà ẩn trong mình; đàn bà cũng có
người đàn ông ẩn trong mình; họ cũng gặp nhau nữa.
Gặp gỡ là trên các bình diện kép. Điều ấy thực chất hơn,
phức tạp hơn, xoắn xuýt hơn. Con người là đàn ông và
đàn bà, cả hai. Sao vậy? - bởi vì người đó xuất phát từ cả
hai. Một cái gì đó đã được đóng góp cho bạn từ bố bạn
và một cái gì đó đã được đóng góp cho bạn từ mẹ bạn, dù
bạn là ai. Đàn ông chảy trong máu bạn và đàn bà nữa
cũng chảy trong máu bạn. Bạn phải là cả hai bởi vì bạn là
gặp gỡ của các cực đối lập. Bạn là tổng hợp! Không thể
nào chối bỏ cực này và chỉ lấy cực kia. Đó là điều đã
được làm.

Aristotle đã được tuân theo đúng từng chữ, theo đủ
mọi cách, và điều đó đã tạo ra nhiều vấn đề cho con
người - và những vấn đề như thế dường như không thể
nào giải quyết nổi nếu Aristotle được tuân theo. Đàn ông
đã được dạy phải là đàn ông: không bao giờ được tỏ ra có
nét nữ tính nào, không bao giờ được tỏ ra mềm yếu của trái tim, không bao giờ được tỏ ra bất kì sự tiếp thu nào,
bao giờ cũng phải năng nổ. Đàn ông đã được dạy không
bao giờ được khóc lóc, không bao giờ được yếu lòng -
bởi vì nước mắt là nữ tính. Đàn bà đã được dạy không
bao giờ được giống như đàn ông theo bất kì cách nào:
không bao giờ được tỏ ra hung hăng, không bao giờ được
tỏ ra biểu lộ, bao giờ cũng phải thụ động, tiếp thu. Điều
này là chống lại thực tại, và điều này làm què quặt cả hai.
Trong một thế giới tốt đẹp hơn, với hiểu biết tốt hơn, đàn
ông sẽ là cả hai, đàn bà sẽ là cả hai - bởi vì đôi khi đàn
ông cũng cần là đàn bà. Có những khoảnh khắc anh ta
cần mềm mỏng - những khoảnh khắc tế nhị, khoảnh khắc
yêu đương. Và có những khoảnh khắc đàn bà cần phải
diễn đạt và hùng hổ - trong giận dữ, trong phòng ngự,
trong nổi dậy. Nếu đàn bà chỉ đơn giản thụ động, thế thì
cô ấy sẽ tự động biến thành nô lệ. Người đàn bà thụ động
nhất định trở thành nô lệ - đó là điều đã xảy ra qua nhiều
thời đại. Và người đàn ông hùng hổ, nhấn mạnh vào tính
hùng hổ và không bao giờ tế nhị, nhất định tạo ra chiến
tranh, điên khùng trong thế giới, bạo hành.

Con người đã đánh nhau, liên tục đánh nhau; dường
như là con người tồn tại trên trái đất chỉ để đánh nhau.
Trong ba nghìn năm đã có năm nghìn cuộc chiến tranh!
Chiến tranh liên tục chỗ này chỗ khác, trái đất chưa bao
giờ là toàn bộ và lành mạnh... chưa bao giờ có khoảnh
khắc nào không chiến tranh. Hoặc chiến tranh ở Triều
tiên, hoặc nó ở Việt Nam, hay ở Israel, ở Ấn Độ,
Pakistan hay Bangladesh; đâu đó việc tàn sát vẫn cứ tiếp
tục. Con người phải giết người. Để còn là con người, anh
ta phải giết người. Bẩy mươi nhăm phần trăm năng lượng
được đổ vào trong nỗ lực chiến tranh, trong việc tạo ra
nhiều bom hơn, nhiều bom khinh khí hơn, nhiều bom
neutron hơn, vân vân và vân vân. Dường như là toàn bộ
mục đích của con người ở đây trên trái đất này là chiến
tranh. Anh hùng chiến tranh được tôn kính nhất. Các
chính khách chiến tranh trở thành những tên tuổi vĩ đại
trong lịch sử: Adolf Hitler, Winston Churchill, Joseph
Stalin, Mao Trạch Đông - những tên tuổi này còn định
lưu lại. Tại sao? - bởi vì họ đã đấu tranh trong những
cuộc chiến lớn, họ huỷ diệt. Dù là trong xâm lược hay
trong bảo vệ - đấy không phải là vấn đề - nhưng họ là
những kẻ hiếu chiến. Và chẳng ai biết người nào là kẻ
xâm lược - liệu người Đức có là kẻ xâm lược hay không,
tất cả đều phụ thuộc vào người viết ra lịch sử. Bất kì ai
thắng đều sẽ viết ra lịch sử, và người ấy sẽ chứng minh
kẻ kia là kẻ xâm lược. Lich sử sẽ hoàn toàn khác đi nếu
như Adolf Hitler thắng lợi. Thế đấy, toà án Nuremburg
sẽ có đấy nhưng các tướng lĩnh và chính khách Mĩ, Anh
và Pháp sẽ bị ra toà. Và lịch sử sẽ do người Đức viết ra;
một cách tự nhiên họ sẽ có viễn kiến khác.

Chẳng ai biết cái gì là đúng cả. Một điều là chắc
chắn: rằng con người trút toàn bộ năng lượng của mình
vào nỗ lực chiến tranh. Lí do sao? - lí do là ở chỗ con
người đã được dạy chỉ là đàn ông, phần đàn bà của con
người đã bị chối bỏ. Cho nên không đàn ông nào là một
tổng thể. Và đàn bà thì cũng vậy - không đàn bà nào là
một tổng thể. Cô ấy đã bị làm cho chối bỏ phần đàn ông
của mình. Khi cô ấy còn là đứa trẻ nhỏ cô ấy đã không
thể nào đánh nhau với tụi con trai, cô ấy không thể nào
trèo lên cây; cô ấy phải chơi với búp bê, cô ấy phải chơi
trò chơi ‘nhà cửa’. Đây là một viễn kiến rất, rất méo mó.
Đàn ông là cả hai, đàn bà cũng vậy - và cả hai đều
cần tạo ra một con người hài hoà, chân thực. Sự tồn tại là
biện chứng; và các phía đối diện không chỉ là đối diện,
chúng là phần bù cho nhau nữa. 

Phật nói: Tại đây, này Sariputra - trong thế giới của
ta, Sariputra, trong không gian của ta, trong thời gian của
ta, Sariputra, tại bậc thứ bẩy của chiếc thang, trong trạng
thái vô trí này, trong trạng thái samadhi này, trong trạng
thái của niết bàn này, của chứng ngộ này - hình dạng là
trống rỗng. Đàn ông là đàn bà và đàn bà là đàn ông, và
cuộc sống là cái chết và cái chết là cuộc sống. Các phía
đối lập không phải là đối lập, Sariputra; chúng đang đan
xuyên lẫn nhau, chúng tồn tại qua nhau. Để chỉ ra sáng
suốt này Phật nói: Hình dạng là vô hình dạng, và vô hình
dạng là hình dạng; cái không biểu lộ trở thành biểu lộ, và
cái biểu lộ lại trở thành không biểu lộ. Chúng không khác
nhau, Sariputra, chúng là một. Cái nhị nguyên chỉ là bề
ngoài. Sâu bên trong tất cả nó là một.
trống rỗng không khác hình dạng,
hình dạng không khác trống rỗng;
dù hình dạng là gì, đấy cũng là trống rỗng;
dù trống rỗng là gì, đấy cũng là hình dạng;
điều này cũng đúng cho cảm giác,
cảm nhận, thôi thúc và tâm thức

Toàn bộ cuộc sống và toàn bộ sự tồn tại bao gồm các
cực đối lập, nhưng chỉ trên bề mặt chúng mới khác nhau.
Các phía đối lập này giống như hai tay tôi: tôi có thể đối
lập chúng với nhau, tôi thậm chí có thể xoay xở tạo ra
một loại xung đột, đánh nhau giữa chúng. Nhưng tay trái
và tay phải của tôi cả hai đều là tay tôi. Bên trong tôi,
chúng là một. Đây đích thị là trường hợp này.
Tại sao Phật nói điều này cho Sariputra? - bởi vì nếu
bạn hiểu điều này, lo nghĩ của bạn sẽ biến mất. Thế thì
không có lo nghĩ. Cuộc sống là cái chết, cái chết là cuộc
sống. Hiện hữu là một cách hướng tới không hiện hữu, và
không hiện hữu là cách hướng tới hiện hữu. Đấy là cùng
một trò chơi. Thế thì không có sợ hãi, thế thì không có
vấn đề gì. Với sáng suốt này, chấp nhận lớn nảy sinh.
Tại đây, này Sariputra,
mọi pháp đều được đánh dấu bởi trống rỗng;
chúng không được tạo ra hay bị chặn lại,
không vẩn đục hay tinh khiết,
không khiếm khuyết hay hoàn chỉnh

Phật nói: Tất cả các pháp đều tràn đầy sự trống rỗng.
Cái không đó tồn tại ở chính cốt lõi của mọi thứ: cái
không đó tồn tại trong cây cối, cái không đó tồn tại trong
tảng đá, cái không đó tồn tại trong ngôi sao.
Bây giờ các nhà khoa học sẽ đồng ý: họ nói rằng khi
một ngôi sao sụp đổ, nó trở thành lỗ đen, cái không.
Nhưng cái không đó không chỉ là cái không; nó có sức
mạnh mênh mông, nó rất đầy đặn, tràn ngập.
Khái niệm, giả thuyết về lỗ đen, là có giá trị mênh
mông trong việc hiểu Phật. Một ngôi sao tồn tại trong
hàng triệu, hàng tỉ năm, nhưng một ngày nào đó nó phải
chết. Mọi thứ được sinh ra đều phải chết. Con người tồn
tại trong bẩy mươi năm, thế rồi cái gì xảy ra? Cạn kiệt,
mệt mỏi, người ấy biến mất, người ấy rơi trở lại vào số
một nguyên thuỷ. Cho nên điều đó đang sắp xảy ra cho
mọi thứ, chẳng chóng thì chầy. Rặng Himalayas sẽ biến
mất một ngày nào đó, rồi trái đất này cũng sẽ biến mất
một ngày nào đó, mặt trời này cũng sẽ biến mất một ngày
nào đó. Nhưng khi ngôi sao lớn biến mất, nó sẽ biến đi
đâu? Nó sụp đổ vào trong chính nó. Nó là một khối
lượng lớn thế; nó sụp đổ. Giống như một người đang
bước đi - một ông già - ngã trên phố và sụp đổ, nếu bạn để người đó ở đấy, chẳng chóng thì chầy thân thể người ấy sẽ biến mất, tan rã vào bùn, vào đất. Nếu bạn để nó ở
đó nhiều năm, thế thì xương cũng sẽ biến thành cát bụi.
Người này đã có đó ngày nào đó, bước đi, sống động,
yêu đương, đánh nhau, và bây giờ tất cả đã biến mất
trong một lỗ đen. Điều như vậy cũng xảy ra cho ngôi sao:
khi ngôi sao sụp đổ vào chính nó, nó trở thành lỗ đen.
Tại sao nó được gọi là lỗ đen? - bởi vì bây giờ không còn
khối lượng nữa, chỉ còn cái trống rỗng thuần khiết, điều
Phật gọi là shunyata. Và shunyata, cái trống rỗng thuần
khiết, mạnh mẽ đến mức nếu bạn tới dưới tác động của
nó, gần nó, trong vùng lân cận của nó, bạn sẽ bị kéo vào,
kéo vào trong cái trống rỗng đó, và bạn cũng sẽ sụp đổ
và biến mất.

Với du hành không gian điều này sẽ là vấn đề cho
tương lai, bởi vì có nhiều ngôi sao đã trở thành lỗ đen.
Và bạn không thể nào thấy được nó bởi vì nó là cái
không, nó chỉ là sự thiếu vắng. Bạn không thể thấy được
nó, và bạn có thể đi qua nó. Nếu một con tầu không gian
tới gần nó, dưới sức hút của nó, con tầu sẽ đơn giản bị
kéo vào. Thế thì không có cách nào để thoát ra khỏi nó,
không thể nào tìm được cách thoát ra khỏi nó. Sức kéo
lớn thế, con tầu sẽ đơn giản bị kéo vào, và nó sẽ biến mất
và sụp đổ. Và bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về con tầu
không gian nữa, nó đã đi đâu, điều gì đã xảy ra cho nó,
điều gì đã xảy ra cho những du khách không gian.
Lỗ đen này là rất, rất giống với khái niệm về cái
trống rỗng của Phật. Tất cả các hình dạng đều sụp đổ và
biến mất vào trong lỗ đen, và thế rồi khi chúng đã nghỉ
ngơi thời gian lâu, chúng lại nổi bọt lên - lần nữa ngôi
sao lại được sinh ra. Điều này tiếp diễn: sống và chết,
sống và chết - điều này tiếp diễn. Đây là cách sự tồn tại
chuyển vận.

Ban đầu nó trở nên biểu lộ, thế rồi trở nên mệt mỏi,
đi vào cái không biểu lộ, rồi lại phục hồi năng lượng của
mình qua nghỉ ngơi, thảnh thơi, lần nữa lại trở thành biểu
lộ. Cả ngày bạn làm việc, bạn trở nên mệt mỏi; ban đêm
bạn biến mất trong giấc ngủ thành một lỗ đen. Bạn tắt
đèn, bạn chui nhanh vào trong chăn, bạn nhắm mắt; thế
rồi trong khoảnh khắc tâm thức biến đi. Bạn đã sụp đổ
vào bên trong. Có những khoảnh khắc khi thậm chí cả
giấc mơ cũng không có đó; thế thì giấc ngủ là sâu nhất.
Trong giấc ngủ sâu đó, bạn trong một lỗ đen, bạn chết.
Trong lúc bạn đang trong cái chết, việc nghỉ ngơi xảy ra
trong cái chết. Và thế rồi buổi sáng bạn trở lại, tràn đầy
nhựa sống và khoan khoái và đầy sinh khí, tươi trẻ lại.
Nếu bạn có giấc ngủ sâu, thực sự say không mơ mộng,
thì buổi sáng tươi tắn, sinh động, rạng ngời, bạn lại trẻ
trung. Nếu bạn biết cách ngủ sâu, bạn cũng biết cách
phục hồi lại bản thân mình. Đến tối lần nữa bạn lại sụp
đổ, mệt mỏi, cạn kiệt bởi hoạt động ban ngày.
Cùng điều ấy xảy ra cho mọi thứ. Con người là việc
thu nhỏ của toàn bộ sự tồn tại. Điều xảy ra cho con người
cũng xảy ra cho toàn bộ sự tồn tại trên qui mô lớn hơn,
có vậy thôi. Mọi đêm bạn biến mất trong cái không, mọi
sáng bạn trở lại hình dạng. Hình dạng, vô hình, hình
dạng, vô hình; đây là cách cuộc sống chuyển vận, đó là
hai bước.
Tại đây, này Sariputra,
mọi pháp đều được đánh dấu bởi trống rỗng;
chúng không được tạo ra hay bị chặn lại... 

Và Phật đang nói: Chẳng phải làm gì cả, chỉ cần có
hiểu biết.
Đây là một phát biểu cơ bản. Nó có thể làm biến đổi
toàn bộ cuộc sống của bạn nếu bạn có thể thấy nó như sự
sáng suốt.
... chúng không được tạo ra hay bị chặn lại...

Không ai tạo ra những hình dạng này, và không ai
chặn lại những hình dạng này. Phật không tin vào
Thượng đế như người thao tác, người điều khiển, đấng
sáng tạo, không. Điều đó sẽ là nhị nguyên, giả thuyết
không cần thiết. Phật nói điều đó xảy ra theo ý của nó;
đấy là tự nhiên, không ai làm điều đó. Không phải là
trước hết Thượng đế nghĩ, “Có ánh sáng” - như được nói
trong Kinh thánh - thế là có ánh sáng. Và rồi một hôm
ngài nói, “Bây giờ, không có ánh sáng,” và ánh sáng biến
mất. Tại sao đem Thượng đế này vào? Và tại sao giao
cho ngài công việc xấu thế? Và ngài sẽ phải làm điều đó
mãi mãi và mãi mãi: “Có ánh sáng, không có ánh sáng,
có ánh sáng...Bây giờ để người này ở đấy, bây giờ để
người ấy chết” - bạn cứ thử nghĩ về ngài và cái chán của
ngài mà xem! Phật an ủi Thượng đế, ông ấy nói điều đó
là không cần thiết.

Đấy chỉ là tự nhiên. Cây đem tới hạt mầm, rồi hạt
mầm lại đem tới cây, và cây lại đem tới hạt mầm. Hạt
mầm là gì? Sự biến mất của cây; cây đã đi vào cái vô
hình. Bạn có thể mang một hạt mầm trong túi mình, bạn
có thể mang một nghìn hạt mầm trong túi, nhưng bạn
không thể mang được một nghìn cây trong túi mình. Cây
có hình dạng, tầm vóc, khối lượng; hạt mầm có cái
không. Và nếu bạn nhìn vào trong hạt mầm, bạn sẽ chẳng
thấy gì. Nếu bạn chưa hề thấy, chưa từng biết rằng hạt
mầm trở thành cây, và ai đó đưa cho bạn một hạt mầm và
nói, “Nhìn đây, hạt mầm này là rất, rất thần kì - nó có thể
trở thành cây lớn, và sẽ có nhiều quả trong nhiều năm, có
tán lá lớn rồi hoa và cây cỏ, rồi chim chóc sẽ tới làm tổ ở
đó,” bạn sẽ nói, “Anh nói cái gì vậy? Mọc ra từ cái viên
sỏi tí xíu này ư? Anh cho rằng tôi ngu lắm hay là cái gì
khác? Làm sao điều đó có thể xảy ra được? Nó không thể
xảy ra được.”

Nhưng bạn biết điều đó xảy ra, đó là lí do tại sao bạn
không chú ý gì tới nó. Phép mầu đang xảy ra. Hạt mầm
nhỏ bé này đang mang toàn bộ bản thiết kế cho cái cây,
cho các chiếc lá - hình dạng và kích cỡ và số lượng - và
cả các cành, cả hình dạng của cành, và chiều dài và chiều
cao của cây, và cuộc sống, bao nhiêu quả, bao nhiêu hoa
sẽ nở ra từ nó, bao nhiêu hạt mầm mà cuối cùng hạt mầm
này sẽ tạo ra. Các nhà khoa học nói rằng dù chỉ một hạt
mầm cũng đủ làm cho cả trái đất thành xanh tươi. Nó có
tiềm năng mênh mông. Không chỉ toàn trái đất này - chỉ
một hạt mầm cũng có thể lấp đầy tất cả các hành tinh
bằng mầu xanh, bởi vì một hạt mầm có thể tạo ra hàng
triệu hạt mầm, thế rồi từng hạt mầm này lại tạo ra hàng
triệu hạt mầm nữa, và cứ thế tiếp diễn. Toàn bộ sự tồn tại
có thể trở thành xanh tươi từ chỉ một hạt mầm. Cái không
đó là rất tiềm năng, rất mạnh mẽ! Mênh mông! Khổng
lồ! Bao la!

Phật nói không ai tạo ra nó và không ai chặn nó lại
cả. Phật nói không cần phải đến đền đài và không cần
phải cầu nguyện và bảo Thượng đế, “Làm cái này, đừng
làm cái kia” - chẳng có ai cả.

Và thông điệp của ông ấy là gì? Ông ấy nói, “Chấp
nhận điều đó đi. Nó là như vậy. Nó là trong bản chất của
mọi vật. Nó chỉ là tự nhiên, mọi vật tới rồi đi.”
Trong chấp nhận này, trong cái tathata này, trong cái
phản ánh như thế, tất cả mọi lo nghĩ biến mất; bạn được
tự do khỏi lo nghĩ. Thế thì không có vấn đề gì. Và không
cái gì có thể bị chặn lại, và không cái gì có thể bị thay
đổi, và không cái gì có thể được tạo ra. Mọi vật đều như
chúng vẫn thế và mọi vật sẽ như chúng sẽ thế, cho nên
chẳng có gì cho bạn làm cả. Bạn chỉ quan sát những vật
này xảy ra. Bạn có thể tham dự vào trong những vật này.
Hiện hữu đi... trong hiện hữu đó có im lặng, trong hiện
hữu đó có vui vẻ. Hiện hữu đó là tự do.
chúng ... không vẩn đục hay tinh khiết...

Sự tồn tại này không dơ bẩn cũng chẳng tinh khiết.
Không ai là tội nhân và không ai là thánh nhân.
Sáng suốt của Phật là hoàn toàn cách mạng: ông ấy
nói không gì có thể là dơ bẩn và không gì có thể là thuần
khiết; mọi vật chỉ là như chúng vẫn thế. Đấy tất cả chỉ là
trò chơi tâm trí mà chúng ta chơi thôi, chúng ta tạo ra ý
tưởng về thuần khiết - và thế rồi cái dơ bẩn đến. Chúng ta
tạo ra ý tưởng về thánh nhân - và thế thì tội nhân tới.
Bạn muốn tội nhân biến mất sao? Họ có thể biến mất
chỉ khi thánh nhân của bạn đã biến mất, không trước đó
đâu. Họ tồn tại cùng nhau. Bạn muốn vô đạo đức biến
mất đi sao? - thế thì đạo đức cũng phải ra đi. Chính đạo
đức tạo ra vô đạo đức. Chính các ý tưởng đạo đức tạo ra
kết án cho một vài người không tuân theo chúng, người
không thể đi với chúng. Và bạn có thể làm bất kì cái gì
vô đạo đức - chỉ cần tạo ra một ý tưởng: Cái này là đạo
đức. Bạn có thể làm một con bò linh thiêng từ bất kì cái
gì, và thế thì nó trở thành một vấn đề.

Phật không nói gì về vẩn đục và không nói gì về tinh
khiết cả. Thuần khiết, dơ bẩn, đều là thái độ của tâm trí.
Bạn có thể nói được cây là đạo đức hay vô đạo đức? Bạn
có thể nói được con vật là tội lỗi hay thánh nhân? Cố
gắng thấy viễn kiến tối thượng này: không có tội nhân,
không có thánh nhân, không có đạo đức, không có vô
đạo đức. Trong chấp nhận này, lấy đâu ra khả năng lo
nghĩ? Không có gì phải cải tiến cả! Và không có mục
đích, bởi vì không có giá trị. Cuộc hành trình này là cuộc
hành trình không có mục đích nào. Nó là cuộc hành trình
thuần khiết; nó là vở kịch, một leela. Và không có ai
đứng sau nó, làm nó. Tất cả đều xảy ra, và không có ai
làm điều đó. Nếu người làm có đó, thế thì vấn đề nảy
sinh - thế thì có cầu nguyện đến người làm. Thế thì có
thuyết phục người làm, thế thì có việc trở thành thân thiết
với người làm. Thế thì bạn sẽ được lợi, và những người
không thân thiết với người làm sẽ bị túng quẫn - họ sẽ
phải chịu đau khổ ở địa ngục. Đó là điều mà người Ki tô
giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo nghĩ. Người Mô ha
mét giáo nghĩ những ai là người Mô ha mét giáo sẽ lên
cõi trời còn những ai không phải Mô ha mét giáo, những
anh chàng tội nghiệp, họ sẽ đi xuống địa ngục. Cũng thế
trong trường hợp của người Ki tô giáo và Hindu giáo:
người Hindu nghĩ những ai không phải là người Hindu
giáo thì chẳng có cơ may nào; người Ki tô giáo nghĩ
những người không tới qua nhà thờ, những người không
đi qua nhà thờ, đều sẽ phải chịu đoạ địa ngục vĩnh viễn -
không giới hạn, vô tận, mãi mãi.

Phật nói: Không có tội nhân, không có thánh nhân;
không có gì là thuần khiết, không có gì là dơ bẩn, mọi sự đều như chúng vẫn thế. Bạn cứ thử ra thuyết phục cây mà
xem, hỏi cây, “Sao mày lại xanh thế? Sao mày không
mầu đỏ?”
Và nếu cây lắng nghe bạn, thì nó sẽ thần kinh - “Tại
sao tôi lại không mầu đỏ? Tại sao? Thực tế, câu hỏi có
quan hệ đấy. Tại sao tôi lại mầu xanh nhỉ?” Kết án mầu
xanh và ngợi ca mầu đỏ, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ
thấy cây nằm trên trường kỉ nhà phân tâm học để được
phân tích, giúp đỡ.

Trước hết bạn tạo ra vấn đề, và thế rồi người cứu tinh
tới. Đấy quả là một công việc đẹp đẽ.
Phật chặt ngay từ chính gốc. Ông ấy nói: Bạn là cái
bạn đang là. Không có gì phải cải thiện, không phải đi
đâu cả. Và đây là toàn bộ cách tiếp cận của tôi nữa: bạn
hoàn hảo như bạn có thể vậy, không thể nào nhiều hơn.
Cái ‘hơn thế’ sẽ chỉ tạo ra rắc rối cho bạn. Cái ý tưởng về
‘hơn thế’ sẽ làm bạn phát điên. Chấp nhận tự nhiên đi,
sống một cách tự nhiên, đơn giản, tự phát, khoảnh khắc
nọ sang khoảnh khắc kia, và có linh thiêng - bởi vì bạn là
toàn thể, không phải bởi vì bạn đã trở thành thánh nhân.
... không vẩn đục hay tinh khiết,
không khiếm khuyết hay hoàn chỉnh

Không cái gì là hoàn chỉnh và không cái gì là không
hoàn chỉnh cả; những giá trị này là vô nghĩa. Phật nói:
Tại đây, này Sariputra, nơi ta hiện hữu, không gì là tốt,
không gì là xấu. Tại đây, nơi ta hiện hữu, luân hồi và niết
bàn là một. Không có phân biệt giữa báng bổ và thiêng
liêng. Tại đây, nơi ta hiện hữu, tất cả tất cả mọi phân biệt
đều đã biến mất, bởi vì phân biệt do ý nghĩ tạo ra. Khi ý
nghĩ biến mất, phân biệt cũng biến mất.
Tội nhân do ý nghĩ tạo ra, còn thánh nhân cũng do ý
nghĩ tạo ra. Thượng đế và cái xấu đều do ý nghĩ tạo ra.
Chính một mình ý nghĩ tạo ra những phân biệt này. Phật
nói: Khi tri thức biến mất, ý nghĩ biến mất. Không có nhị
nguyên. Tất cả là cái một.
Có câu châm ngôn nổi tiếng của Sosan:
Trong cõi giới cao hơn của việc phản ánh như thế
đúng đắn
không có cái ta mà cũng không có cái khác hơn cái ta.
Khi đi tìm sự đồng nhất trực tiếp,
chúng ta chỉ có thể nói ‘bất nhị’.
Một trong tất cả, tất cả trong một:
nếu điều này được hiểu,
thì không còn lo nghĩ về sự không hoàn hảo của bạn
Một trong tất cả, tất cả trong một - nếu điều này
được hiểu, thì không còn lo nghĩ về sự không hoàn hảo
của bạn. Không có hoàn hảo, không có sự không hoàn
hảo. Thấy nó, và thấy nó ngay bây giờ đi! Đừng tới muộn
rồi lại hỏi tôi cách làm điều đó. Không có ‘cách’ nào cả.
‘Cách’ là đưa tới tri thức - và tri thức là cái đáng nguyền
rủa.

Không có môi giới méo mó của ý nghĩ, bạn rơi vào
sự thống nhất với cái toàn thể. Không có ý nghĩ vận hành
giữa bạn và thực tế, tất cả mọi phân biệt biến mất, bạn
được bắc cầu. Và đó là điều mà con người cứ khao khát
thường xuyên. Bạn cảm thấy mất gốc rễ, mất gốc rễ với
cái toàn thể. Đó là cái khổ của bạn. Và bạn bị mất gốc rễ
bởi vì cái môi giới méo mó của ý nghĩ này. Bỏ môi giới
méo mó của ý nghĩ này đi, bỏ những môi giới này đi,
nhìn vào thực tại như nó vẫn thế, không có ý tưởng trong tâm trí mình, không có ý tưởng về cách nó phải thế nào.

Nhìn với sự hồn nhiên. Nhìn với cái không biết và mọi lo
nghĩ sẽ biến mất. Trong biến mất của lo nghĩ đó bạn trở
thành vị Phật.

Bạn là vị Phật! Nhưng bạn bỏ lỡ bởi vì bạn đang
mang những môi giới méo mó quanh mình. Bạn có con
mắt hoàn chỉnh và bạn lại đeo kính. Những cái kính đó
làm méo mó, chúng tô mầu, chúng làm cho mọi vật
dường như không phải là chúng. Vứt kính đi! Đấy là điều
được ngụ ý khi chúng ta nói “Vứt tâm trí đi.” Phủ định
tâm trí và có im lặng - và trong im lặng đó bạn là điều
thiêng liêng. Bạn chưa bao giờ là bất kì cái gì khác, bạn
bao giờ cũng là cái đó. Nhưng nhận biết tới, hiểu biết tới.
Bạn bỗng nhiên thấy ra vấn đề: rằng bạn đã cố gắng gắn
chân cho rắn. Ngay từ đầu việc đó là chẳng cần thiết - rắn
hoàn toàn là tuyệt hảo! Không có chân, nó vẫn di chuyển
hoàn hảo. Chỉ từ so sánh bạn mới cố gắng gắn chân cho
nó. Nếu bạn thành công, bạn sẽ giết chết con rắn. May
mắn là bạn chẳng bao giờ có thể thành công được.
Bạn đang cố gắng để trở thành hiểu biết và đó là lí do
tại sao bạn làm mất cảm nhận của mình, cái biết của bạn,
khả năng của bạn để thấy. Đó là điều tôi ngụ ý qua ‘gắn
chân cho rắn’. Việc biết là bản tính của bạn. Không cần
phải có tri thức để biết. Trong thực tế, tri thức là cái cản
trở, tri thức là cái đáng nguyền rủa.
Phủ định tri thức và hiện hữu đi - và bạn là vị Phật,
và bạn bao giờ cũng là vị Phật.
Đủ cho hôm nay.

Tôi tới từ một gia đình đã có bốn người tự tử bên đằng
ngoại. Làm sao vượt qua được sự bóp méo này của cái
chết?

Lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể thảnh thơi
trong yếu đuối của tôi ở đây. Tôi có phải mạnh mẽ và
dũng cảm không?

Tại sao và làm thế nào mà mọi người tới với Thầy từ
bốn phương trên trái đất này?

Phải làm gì với sợ? Tôi cảm thấy mệt mỏi bị nó lôi đi
quanh. Nó có thể bị làm chủ hay bị làm tiêu tan đi
không?
Tri thức là cái đáng nguyền rủa, là tai ương, là cái
xấu xa. Chính là qua tri thức mà con người trở nên bị
chia lìa khỏi cái toàn thể. Tri thức tạo ra khoảng cách.
Bạn đi qua hoa dại trên núi non, bạn không biết nó là
gì, tâm trí bạn chẳng có gì để nói về nó, tâm trí im lặng.
Bạn nhìn vào hoa, bạn thấy hoa, nhưng không tri thức
nào nảy sinh trong bạn - có điều kì diệu, có cái bí ẩn.
Hoa có đấy, bạn có đấy. Qua điều kì diệu mà bạn không
tách biệt, bạn được nối liền.

Nếu bạn biết rằng đây là hoa hồng hay hoa cúc vạn
thọ, hay cái gì đó khác, chính cái hiểu biết đó cắt rời bạn.
Hoa có đó, bạn có đây, nhưng không có cầu nối - bạn
biết! Tri thức tạo ra khoảng cách. Bạn càng biết nhiều
khoảng cách càng lớn; bạn càng biết ít khoảng cách càng
bé. Và nếu bạn trong khoảnh khắc không biết gì, không
có khoảng cách, bạn được nối liền.

Bạn yêu một người đàn bà hay đàn ông - cái ngày
bạn yêu không có khoảng cách. Chỉ có mỗi điều kì diệu,
xúc động, kích động, cực lạc - nhưng không có tri thức.
Bạn không biết người đàn bà này là ai. Không có tri thức,
chẳng có gì chia rẽ bạn. Do đó có cái đẹp của những
khoảnh khắc ban đầu yêu đương này. Bạn đã sống với
người đàn bà này chỉ mới hai mươi bốn giờ; tri thức đã
nảy sinh. Bây giờ bạn có một số ý tưởng về người đàn bà
này: bạn biết cô ấy là ai, có hình ảnh. Hai mươi bốn giờ
đã tạo ra quá khứ. Hai mươi bốn giờ này đã để lại dấu vết
trong tâm trí: bạn nhìn vào cùng người đàn bà này, không
còn cùng bí ẩn nữa. Bạn đang đi xuống đồi, cái đỉnh đó
đã mất.
Hiểu điều này là hiểu được nhiều lắm. Hiểu rằng tri
thức phân chia, tri thức tạo ra khoảng cách, là hiểu chính
bí mật của thiền. Thiền là trạng thái không biết. Thiền là
không gian thuần khiết, không bị tri thức quấy nhiễu. Thế
đấy, câu chuyện kinh thánh thế mà lại đúng - rằng con
người đã sa ngã qua tri thức, bởi việc ăn trái cây hiểu
biết. Không kinh sách nào khác của thế giới vượt hơn
điều đó. Chuyện ngụ ngôn đó là lời cuối cùng; không
chuyện ngụ ngôn nào khác đạt tới đỉnh cao và sáng suốt
đó.

Có vẻ phi lí thế khi nói con người đã sa ngã qua tri
thức. Điều đó có vẻ phi lí bởi vì logic là một phần của tri
thức. Logic là tất cả trong việc hỗ trợ cho tri thức. Điều
đó có vẻ phi lí, bởi vì logic là nguyên nhân gốc rễ cho sa
ngã của con người. Một người tuyệt đối logic, tuyệt đối
lành mạnh, bao giờ cũng lành mạnh, không bao giờ cho
phép có bất kì điều phi lí nào trong cuộc sống mình, là người điên. Cái lành mạnh cần được cân bằng bởi cái
không lành mạnh; logic cần được cân bằng bởi phi logic.
Các cái đối lập gặp nhau và cân bằng. Một người chỉ có
lí trí là vô lí - người đó sẽ bỏ lỡ nhiều lắm. Trong thực tế
người đó sẽ cứ bỏ lỡ tất cả những cái đẹp đẽ và tất cả
những cái đúng đắn. Người ấy sẽ thu thập những cái tầm
thường, cuộc sống người ấy sẽ là cuộc sống trần tục.
Người ấy sẽ là phàm nhân.
Câu chuyện ngụ ngôn kinh thánh đó có sáng suốt sâu
xa. Tại sao con người sa ngã qua tri thức? - bởi vì tri thức
tạo ra khoảng cách, bởi vì tri thức tạo ra cái ‘tôi’ và cái
‘bạn’, bởi vì tri thức tạo ra chủ thể và khách thể, người
biết và cái được biết, người quan sát và cái được quan
sát. Tri thức về cơ bản là bệnh tinh thần phân liệt; nó tạo
ra chia chẻ. Và thế thì không có cách nào bắc cầu qua
điều đó. Đó là lí do tại sao con người càng trở nên có tri
thức, người đó càng ít tôn giáo hơn. Con người càng
được giáo dục, càng ít có khả năng tiếp cận Thượng đế.
Jesus là phải khi ông ấy nói, “Chỉ trẻ con mới có thể
vào vương quốc của ta”... chỉ trẻ con.

Đâu là phẩm chất đứa trẻ có và bạn làm mất? Đứa trẻ
có phẩm chất của không tri thức, của hồn nhiên. Nó nhìn
với ngạc nhiên, mắt nó hoàn toàn trong sáng. Nó nhìn
sâu, nhưng nó không có định kiến, không phán xét,
không có ý tưởng tiên quyết. Nó không phóng chiếu, do
đó nó nhận ra cái đang đấy.
Hôm trước chúng ta đã nói về phân biệt giữa thực tại
và chân lí. Trẻ con biết chân lí, bạn chỉ biết thực tại.
Thực tại là cái bạn đã tạo ra quanh mình - phóng chiếu,
ham muốn, suy nghĩ. Thực tại là diễn giải của bạn về
chân lí. Chân lí đơn giản là cái đang đấy; thực tại là cái
bạn đã đi tới hiểu biết - nó chính là ý tưởng của bạn về
chân lí. Thực tại bao gồm nhiều thứ, tất cả đều tách biệt.
Chân lí bao gồm chỉ một năng lượng vũ trụ. Chân lí bao
gồm cái một, thực tại bao gồm cái ‘nhiều’. Thực tại là
đám đông, chân lí là toàn vẹn.
Trước khi chúng ta đi vào lời kinh này, điều này cần
phải trở thành nền tảng: rằng tri thức là cái đáng nguyền
rủa.

J. Krishnamurti đã nói, “Phủ định là im lặng.” Phủ
định cái gì? - phủ định tri thức, phủ định tâm trí, phủ
định mối bận tâm thường xuyên này ở bên trong bạn; để
tạo ra không gian nhàn rỗi. Khi bạn nhàn rỗi, bạn hài hoà
với cái toàn thể. Khi bạn bận bịu bạn trượt ra khỏi hài
hoà. Do đó, bất kì khi nào xảy ra việc bạn có thể đạt tới
một khoảnh khắc im lặng, có vui vẻ mênh mông. Trong
khoảnh khắc im lặng đó cuộc sống có ý nghĩa, trong
khoảnh khắc im lặng đó cuộc sống có vẻ hùng vĩ vượt ra
ngoài lời nói. Trong khoảnh khắc đó cuộc sống là điệu
vũ. Trong khoảnh khắc đó thậm chí cái chết có tới thì
cuộc sống vẫn cứ nhảy múa và mở hội, bởi vì khoảnh
khắc đó không biết gì ngoài vui vẻ. Khoảnh khắc đó là
vui vẻ, nó là phúc lạc.

Tri thức phải bị phủ định - nhưng không phải bởi vì
tôi nói như thế hay bởi vì J. Krishnamurti nói như thế hay
bởi vì Phật Gautam đã nói như thế. Nếu bạn phủ định bởi
vì tôi đang nói như thế, thế thì bạn sẽ phủ định tri thức
của bạn, và bất kì cái gì tôi đang nói cũng sẽ trở thành tri
thức của bạn ngay chỗ đầu tiên; bạn sẽ thay thế nó. Việc
phủ định phải không tới từ tâm trí, nếu không thì tâm trí
sẽ rất thủ đoạn. Thế thì bất kì cái gì tôi nói cũng đều trở
thành tri thức của bạn, bạn bắt đầu níu bám lấy nó. Bạn
ném đi thần tượng cũ của mình và bạn thay thế chúng bằng thần tượng mới. Nhưng đấy vẫn là trò chơi cũ với
lời lẽ mới, ý tưởng mới, ý nghĩ mới.
Thế thì làm sao phủ định được tri thức? Không phải
bởi tri thức khác: chỉ cần nhìn vào trong sự kiện rằng tri
thức tạo ra khoảng cách, chỉ nhìn vào trong sự kiện này
một cách mãnh liệt, toàn bộ, là đủ. Không phải là bạn
phải thay thế nó bằng một cái gì đó khác; sự mãnh liệt đó
là ngọn lửa, sự mãnh liệt đó sẽ biến tri thức của bạn
thành tro bụi. Sự mãnh liệt đó là đủ. Sự mãnh liệt đó là
cái vẫn được biết là ‘sáng suốt’. Sáng suốt sẽ đốt cháy tri
thức của bạn, và nó sẽ không bị thay thế bởi tri thức
khác. Thế thì có cái trống rỗng, shunyata. Thế thì có cái
không, bởi vì thế thì không có nội dung; có chân lí không
bị xáo lộn, không bị bóp méo.

Bạn phải thấy điều tôi đang nói, bạn đừng học điều
tôi đang nói. Tại đây, ngồi với tôi hàng ngày, lắng nghe
tôi, đừng bắt đầu thu thập tri thức. Tại đây, lắng nghe tôi,
đừng bắt đầu tích trữ. Lắng nghe tôi nên là kinh nghiệm
trong sáng suốt. Bạn nên lắng nghe với sự mãnh liệt, với
tính toàn bộ, với nhiều nhận biết nhất có thể được cho
bạn. Trong chính nhận biết đó bạn sẽ thấy một điểm, và
chính việc thấy đó là biến đổi. Không phải là bạn phải
làm điều gì đó khác về sau; chính bản thân việc thấy đem
tới chuyển hoá. Nếu nỗ lực nào đó là cần tới, điều đó đơn
giản chỉ ra bạn đã lỡ. Nếu ngày mai bạn đến tôi và hỏi
tôi, “Tôi đã hiểu rằng tri thức là cái đáng nguyền rủa,
rằng tri thức tạo ra khoảng cách. Bây giờ làm sao để vứt
bỏ nó?” - thế thì bạn lỡ. Nếu cái ‘làm sao’ nảy sinh, thế
thì bạn đã lỡ. Cái ‘làm sao’ không thể nảy sinh, bởi vì cái
‘làm sao’ đang đang đòi hỏi thêm tri thức. Cái ‘làm sao’
đang đòi hỏi phương pháp, kĩ thuật: “Phải làm gì đây?”
Và sáng suốt là đủ; nó không cần được giúp đỡ bởi bất kì
nỗ lực nào. Ngọn lửa của nó quá đủ để thiêu đốt tất cả tri
thức bạn mang bên trong mình. Chỉ thấy đúng vấn đề
thôi.

Lắng nghe tôi, đi cùng tôi. Lắng nghe tôi, cầm tay tôi
và đi vào trong không gian mà tôi đang cố gắng giúp bạn
đi vào. Và thấy cái tôi đang nói, đừng tranh biện. Đừng
nói có, đừng nói không. Đừng đồng ý, đừng không đồng
ý. Chỉ cùng với tôi trong khoảnh khắc này - và bỗng
nhiên sáng suốt có đó. Nếu bạn lắng nghe một cách chăm
chú... và bởi việc chăm chú tôi không có ý nói tập trung;
bởi chăm chú tôi đơn giản ngụ ý bạn đang lắng nghe với
nhận biết, với cởi mở. Bạn ở đây, bây giờ, với tôi. Đó là
điều tôi muốn nói bởi chăm chú: bạn không ở đâu khác.
Bạn không so sánh trong tâm trí điều tôi đang nói với ý
nghĩ cũ của bạn. Bạn không so sánh chút nào, bạn không
đánh giá. Bạn không có đó để đánh giá bên trong, trong
bạn, dù điều tôi đang nói là đúng hay không, hay nó đúng
đến đâu.

Mới hôm nọ tôi đã nói với một người tìm kiếm. Anh
ta có phẩm chất của người tìm kiếm, nhưng bị trĩu nặng
bởi tri thức. Trong khi tôi đang nói với anh ta thì mắt anh
ta trở nên đẫm lệ. Trái tim anh ấy vừa mới sắp mở ra, và
trong chính khoảnh khắc đó tâm trí nhào vô và phá huỷ
toàn bộ cái đẹp của nó. Anh ta chỉ vừa mới hướng tới trái
tim và cởi mở, nhưng ngay lập tức tâm trí đã vào. Nhưng
giọt nước mắt đó vừa mới ló ra, đã biến mất. Mắt anh ta
thành ráo hoảnh. Điều gì đã xảy ra? - Tôi đã nói điều gì
đó mà anh ta có thể không đồng ý. Anh ta đã đồng ý với
tôi, cho tới điểm đó. Thế rồi tôi đã nói điều gì đó đi
ngược lại với nền tảng Do Thái của anh ta, đi ngược lại
Kabbala, và ngay lập tức toàn bộ năng lượng đã thay đổi.
Anh ta nói, “Mọi thứ đều phải. Bất kì điều gì thầy đang nói cũng đều phải, chỉ trừ mỗi điều này: rằng Thượng đế không có mục đích, rằng sự tồn tại tồn tại vô mục đích -
với điều này tôi không thể nào đồng ý được, bởi vì
Kabbala nói chính điều ngược lại: rằng cuộc sống có mục
đích, rằng Thượng đế là hướng đích, rằng ngài đang dẫn
chúng ta hướng tới định mệnh nào đó, rằng có đích.”
Anh ta có thể thậm chí còn không nhìn vào điều đó
theo cách này - rằng anh ta đã lỡ trong khoảnh khắc đó
bởi vì việc so sánh đã tới. Điều mà Kabbala nói liên quan
gì tới tôi? Khi bạn đang ở cùng tôi, vứt tất cả các tri thức
về Kabbala, về yoga, về mật tông, về cái này cái khác.
Khi bạn đang ở cùng tôi, ở cùng tôi đi. Nếu bạn toàn bộ ở
với tôi... và tôi không nói rằng bạn đang đồng ý với tôi,
nhớ lấy. Tôi không nói rằng bạn đang đồng ý với tôi:
không có vấn đề về đồng ý hay không đồng ý.
Khi bạn thấy hoa hồng, bạn có đồng ý với nó hay
không đồng ý với nó? Khi bạn thấy mặt trời lên, bạn
đồng ý hay bạn không đồng ý? Khi bạn ngắm trăng ban
đêm, bạn đơn giản thấy nó! Hoặc bạn thấy nó hoặc bạn
không thấy nó, nhưng không có vấn đề đồng ý hay không
đồng ý.

Theo cách đó, bạn ở cùng tôi đi; đó là cách ở cùng
với thầy. Chỉ ở với tôi. Tôi không cố thuyết phục bạn về
bất kì cái gì. Tôi không cố thay đổi chính kiến bạn sang lí
thuyết nào đó, triết lí, học thuyết, sang nhà thờ nào đó,
không! Tôi đơn giản chia sẻ điều đã xảy ra cho tôi, và
trong chính việc chia sẻ đó, nếu bạn tham gia, điều ấy có
thể xảy ra cho bạn nữa. Đấy là sự tiêm nhiễm. Sáng suốt
làm biến đổi.

Khi tôi đang nói tri thức là cái đáng nguyền rủa, bạn
có thể đồng ý hay không đồng ý - và bạn đã lỡ! Bạn chỉ
lắng nghe nó thôi, chỉ nhìn vào trong nó, đi vào trong
toàn bộ quá trình của tri thức. Bạn thấy tri thức tạo ra
khoảng cách như thế nào, tri thức trở thành rào chắn như
thế nào, tri thức đứng ở giữa như thế nào, tri thức tăng
lên như thế nào và khoảng cách tăng lên như thế nào, hồn
nhiên mất đi như thế nào qua tri thức, cuộc sống trở
thành đờ đẫn như thế nào và đáng chán như thế nào qua
tri thức. Bí ẩn mất đi, và với bí ẩn Thượng đế cũng mất
đi.

Bí ẩn biến mất bởi vì bạn bắt đầu có ý tưởng rằng
bạn biết. Khi bạn biết, làm sao bí ẩn có thể có được? Bí
ẩn chỉ có thể có khi bạn không biết.
Và nhớ lấy, con người chẳng biết đến một việc! Tất
cả những cái mà chúng ta đã thu thập đều chỉ là rác rưởi.
Điều tối hậu vẫn còn bên ngoài việc nắm bắt. Cái chúng
ta thu thập chỉ là sự kiện, chân lí vẫn còn không được
động tới bởi nỗ lực của chúng ta. Và đó là kinh nghiệm
không chỉ của Phật, Krishna, Krishnamurti và Ramana;
đấy là kinh nghiệm ngay cả của Edison, Newton, Albert
Einstein. Đấy là kinh nghiệm của các nhà thơ, hoạ sĩ, vũ
công. Tất cả những người thông minh của thế giới - họ
có thể là nhà huyền môn, họ có thể là nhà thơ, họ có thể
là nhà khoa học - đều hoàn toàn đồng ý về một điều: rằng
chúng ta càng biết nhiều, chúng ta càng hiểu rằng cuộc
sống là một bí ẩn hoàn toàn. Tri thức của chúng ta không
phá huỷ được cái bí ẩn của nó. Chỉ người ngu mới nghĩ
rằng bởi vì họ mới biết có chút ít, cho nên bây giờ không
còn bí ẩn nào trong cuộc sống. Chỉ tâm trí xoàng xĩnh
mới trở nên quá gắn bó với tri thức; tâm trí thông minh
vẫn còn ở trên tri thức. Người ấy dùng nó, chắc chắn
dùng nó - nó là có ích, nó là tiện ích - nhưng người ấy
biết rất rõ rằng tất cả những cái đúng đắn đều bị giấu kín, vẫn còn bị giấu kín. Chúng ta có thể cứ biết và biết,
nhưng Thượng đế vẫn còn chẳng được biết hết.
Lắng nghe với sáng suốt, chú ý, toàn bộ. Và trong
chính viễn kiến đó bạn sẽ thấy cái gì đó, và việc thấy đó
làm thay đổi bạn. Bạn không hỏi làm sao nữa.
Đó là ý nghĩa khi Krishnamurti nói, “Phủ định là im
lặng.” Sáng suốt là phủ định. Và khi một cái gì đó bị phủ
định và không có gì được đặt vào thay thế, một cái gì đó
đã bị phá huỷ đi và không có gì được đặt vào, được thay
thế vào chỗ của nó, thế thì có im lặng - bởi vì có không
gian. Có im lặng bởi vì cái cũ đã bị ném đi còn cái mới
thì chưa được đem tới. Im lặng đó Phật gọi là shunyata.
Im lặng đó là cái trống rỗng, cái không. Và chỉ cái không
đó mới có thể vận hành trong thế giới của chân lí.

Ý nghĩ không thể vận hành ở đó. Ý nghĩ chỉ làm việc
trong thế giới các vật, bởi vì ý nghĩ cũng là vật - tinh tế,
nhưng nó cũng là vật chất. Đấy là lí do tại sao ý nghĩ có
thể được ghi lại, đó là lí do tại sao ý nghĩ có thể được
chuyển tiếp, được truyền đạt. Tôi có thể ném ý nghĩ vào
bạn; bạn có thể giữ lấy nó, bạn có thể có nó. Nó có thể
được cho và nhận, nó là chuyển trao được, bởi vì nó là
vật. Nó là hiện tượng vật chất.
Cái trống rỗng không thể được đem đi cho, cái trống
rỗng không thể nào bị ném vào bạn được. Bạn có thể
tham gia vào nó, bạn có thể đi vào trong nó, nhưng
không ai có thể đem nó cho bạn. Nó là không chuyển
trao được. Và chỉ có cái trống rỗng mới vận hành trong
thế giới chân lí. Chân lí chỉ được biết tới khi tâm trí
không có đó. Để biết chân lí thì tâm trí phải dừng lại, nó
phải chấm dứt hoạt động. Nó phải im lặng, tĩnh lặng,
không chuyển động.

Ý nghĩ không thể nào vận hành trong chân lí, nhưng
chân lí có thể vận hành qua ý nghĩ. Bạn không thể nào
đạt tới chân lí bằng suy nghĩ, nhưng khi bạn đã đạt tới nó
bạn có thể dùng suy nghĩ trong phục vụ của nó. Đó là
điều tôi đang làm, đó là điều Phật đã làm, đó là điều tất
cả các thầy đã làm.

Điều tôi đang nói là ý nghĩ, nhưng đằng sau ý nghĩ
này là cái trống rỗng. Cái trống rỗng đó không do ý nghĩ
sản sinh ra, cái trống rỗng đó vượt ra ngoài ý nghĩ. Ý
nghĩ không thể động chạm tới nó được, ý nghĩ thậm chí
không thể nhìn vào nó.

Bạn đã bao giờ quan sát một hiện tượng chưa? - đó là
bạn không thể nào nghĩ được về cái trống rỗng, bạn
không thể nào làm cho cái trống rỗng thành một ý nghĩ.
Bạn không thể nào nghĩ về nó, nó là điều không thể nghĩ
được. Nếu bạn có thể nghĩ về nó, nó sẽ không còn là
trống rỗng chút nào nữa. Ý nghĩ phải ra đi để cho cái
trống rỗng tới; chúng chưa bao giờ gặp nhau. Một khi cái
trống rỗng đã tới, thì nó có thể dùng mọi loại phương
cách để diễn tả mình.

Hiểu thấu là trạng thái của vô ý nghĩ. Bất kì khi nào
bạn thấy cái gì đó, bạn bao giờ cũng thấy khi không có ý
nghĩ. Tại đây cũng vậy, lắng nghe tôi, ở cùng với tôi, đôi
khi bạn thấy. Nhưng những khoảnh khắc đó là lỗ hổng,
khoảng hở. Một ý nghĩ đã qua, ý nghĩ khác còn chưa tới,
và có lỗ hổng; và trong lỗ hổng đó một cái gì đó nhoáng
lên, một cái gì đó bắt đầu rung động. Âm thanh đẹp đẽ đó
đi tới là do được tạo ra từ cái trống rỗng. Khi bạn có đó,
không có ý nghĩ, thế thì cái gì đó là có thể, lập tức có thể.
Thế thì bạn có thể thấy điều tôi đang nói. Thế thì nó sẽ
không chỉ là lời nói nghe thấy, thế thì nó sẽ trở thành trực giác, hiểu thấu, viễn kiến. Bạn đã nhìn vào trong nó, bạn
đã chia sẻ với tôi.
Hiểu thấu là trạng thái vô suy nghĩ, không ý nghĩ. Nó
là lỗ hổng, khoảng hở trong quá trình suy nghĩ, và trong
lỗ hổng đó là cái thoáng nhìn, chân lí.
Từ tiếng Anh trống rỗng bắt nguồn từ một gốc có
nghĩa là giải trí, nhàn rỗi. Nó là một từ hay nếu bạn đi về
gốc rễ. Gốc rễ là rất hàm chứa: nó có nghĩa là giải trí,
nhàn rỗi. Bất kì khi nào bạn nhàn rỗi, giải trí, bạn đều
trống rỗng. Và nhớ lấy, câu ngạn ngữ nói rằng tâm trí
trống rỗng là xưởng thợ của quỉ hoàn toàn vô nghĩa.
Chính cái đối lập mới là chân lí: tâm trí bận bịu là xưởng
thợ của quỉ. Tâm trí trống rỗng là xưởng thợ của Thượng
đế, không phải là của quỉ. Nhưng bạn phải hiểu điều tôi
ngụ ý bởi ‘trống rỗng’ - giải trí, thảnh thơi, không căng
thẳng, không chuyển động, không ham muốn, không đi
đâu cả, chỉ ở đây, hoàn toàn ở đây. Tâm trí trống rỗng là
sự hiện diện thuần khiết. Và tất cả đều có thể trong sự
hiện diện thuần khiết đó, bởi vì toàn bộ sự tồn tại bắt
nguồn từ sự hiện diện thuần khiết đó.

Những cây này trưởng thành lên từ sự hiện diện
thuần khiết đó, những vì sao này được sinh ra từ sự hiện
diện thuần khiết đó; chúng ta đang ở đây - tất cả chư phật
đã bắt nguồn từ sự hiện diện thuần khiết này. Trong sự
hiện diện thuần khiết đó bạn là trong Thượng đế, bạn là
Thượng đế. Bận bịu, bạn sa ngã; bận bịu, bạn bị trục xuất
ra khỏi vườn Địa đàng. Nhàn rỗi bạn quay trở lại vườn
này, nhàn rỗi bạn quay trở về nhà.

Khi tâm trí không bận bịu bởi thực tại, bởi mọi vật,
bởi ý nghĩ, thế thì có cái đang đấy. Và cái đang đấy là
chân lí. Chỉ trong trống rỗng mới có gặp gỡ, hội nhập.
Chỉ trong trống rỗng bạn mới cởi mở với chân lí và chân
lí đi vào trong bạn. Chỉ trong trống rỗng bạn mới trở
thành hàm chứa với chân lí.

Có ba trạng thái của tâm trí. Trạng thái thứ nhất là
nội dung và tâm thức. Bạn bao giờ cũng có nội dung
trong tâm trí - ý nghĩ chuyển động, ham muốn nảy sinh,
giận dữ, tham lam, tham vọng. Bạn bao giờ cũng có nội
dung nào đó trong tâm trí; tâm trí chưa bao giờ nhàn rỗi
cả. Giao thông cứ tiếp diễn, ngày tới, ngày đi. Trong khi
tỉnh nó có đấy, trong khi ngủ nó có đấy. Trong khi tỉnh
bạn gọi nó là suy nghĩ, trong khi ngủ bạn gọi nó là mơ -
cũng vẫn cùng một quá trình ấy thôi. Mơ có chút ít
nguyên thuỷ hơn, đó là tất cả - bởi vì nó nghĩ dưới dạng
hình ảnh. Nó không dùng khái niệm, nó dùng hình ảnh.
Nó nguyên thuỷ hơn; giống như trẻ con nghĩ dưới dạng
hình ảnh. Cho nên trong sách cho trẻ con bạn phải làm
bức tranh lớn, mầu sắc, bởi vì chúng nghĩ qua hình ảnh.
Qua hình ảnh chúng sẽ học từ ngữ. Dần dần những hình
ảnh đó trở nên bé dần đi, và thế rồi chúng biến mất.
Con người nguyên thuỷ cũng nghĩ theo hình ảnh.
Ngôn ngữ cổ đại nhất là ngôn ngữ hình ảnh. Tiếng Trung
quốc là ngôn ngữ hình ảnh: nó không có bảng chữ cái.
Nó là ngôn ngữ cổ đại nhất. Trong đêm bạn lần nữa trở
thành nguyên thuỷ; bạn quên mất cái phức tạp của ban
ngày và bạn bắt đầu nghĩ theo hình ảnh - nhưng nó là
một.

Và hiểu thấu của các nhà phân tâm là có giá trị - rằng
người đó nhìn vào trong giấc mơ của bạn. Thế thì có
nhiều chân lí hơn, bởi vì bạn nguyên thuỷ hơn; bạn
không cố gắng lừa dối bất kì ai, bạn chân thực hơn. Ban
ngày bạn có một cá tính bao quanh mình để che dấu
mình - hết tầng cá tính nọ đến tầng cá tính kia. Rất khó để tìm ra con người thật. Bạn sẽ phải đào sâu vào, và
điều đó làm tổn thương, và con người sẽ kháng cự.
Nhưng trong đêm, ngay khi bạn cởi quần áo ra đi ngủ,
bạn cũng cởi bỏ luôn cá tính của mình đi nữa. Nó không
cần nữa bởi vì bạn sẽ không trao đổi với bất kì ai, bạn sẽ
một mình trong giường. Và bạn sẽ không trong thế giới,
bạn sẽ tuyệt đối đơn độc trong cõi riêng tư của mình.
Không cần phải che dấu và không cần giả vờ. Đó là lí do
tại sao các nhà phân tâm cứ cố gắng đi vào trong giấc mơ
của bạn, bởi vì chúng bầy tỏ được rõ ràng hơn nhiều về
bạn là ai. Nhưng đấy cũng lại là cùng trò chơi được chơi
trong ngôn ngữ khác mà thôi; trò chơi đâu có khác biệt.
Đây là trạng thái thông thường của tâm trí: tâm trí và nội
dung, tâm thức cộng với nội dung.
Trạng thái thứ hai của tâm trí là tâm thức không nội
dung; đó chính là điều thiền là gì. Bạn hoàn toàn tỉnh táo,
và có lỗ hổng, khoảng hở. Không ý nghĩ nào đi vào,
không có ý nghĩ trước bạn. Bạn không ngủ, bạn tỉnh thức
- nhưng không có ý nghĩ. Đây là thiền. Trạng thái đầu
tiên được gọi là tâm trí, trạng thái thứ hai được gọi là
thiền.

Và rồi còn có trạng thái thứ ba. Khi nội dung đã biến
mất, khách thể đã biến mất, chủ thể không thể nào còn lại
lâu được - bởi vì chúng tồn tại cùng nhau. Chúng tạo ra
lẫn nhau. Khi chủ thể là một mình thì nó chỉ lơ lửng đâu
đó thêm một chút nữa, giống như còn lại cái đà của quá
khứ. Không có nội dung thì ý thức không thể nào có đó
lâu được; nó sẽ không được cần tới nữa, bởi vì ý thức
bao giờ cũng là một ý thức về cái gì đó. Khi bạn nói ‘ý
thức’, người ta có thể hỏi “Về cái gì?” Bạn nói, “Tôi
đang ý thức về...” Khách thể đó là cần thiết, nó là cái
phải có cho chủ thể tồn tại. Một khi khách thể đã biến
mất, chẳng bao lâu chủ thể cũng sẽ biến mất. Trước hết
nội dung ra đi, thế rồi ý thức biến mất.

Thế thì trạng thái thứ ba được gọi là samadhi - không
nội dung, không ý thức. Nhưng nhớ lấy, cái không nội
dung này, không ý thức này, không phải là trạng thái vô
ý thức. Nó là trạng thái của siêu ý thức, của ý thức siêu
việt. Tâm thức bây giờ chỉ là tâm thức về chính nó. Tâm
thức đã biến thành chính nó; vòng tròn được hoàn chỉnh.
Bạn đã về tới nhà. Đây là trạng thái thứ ba, samadhi; và
trạng thái thứ ba này là cái mà Phật ngụ ý bởi shunyata.
Trước hết gạt bỏ nội dung - bạn trở thành nửa trống
rỗng, thế rồi gạt bỏ ý thức - bạn trở thành trống rỗng
hoàn toàn. Và cái trống rỗng hoàn toàn này là điều đẹp
đẽ nhất có thể xảy ra, phúc lành lớn nhất.
Trong cái không này, trong cái trống rỗng này, trong
cái không có cái ta này, trong cái shunyata này, có an
toàn và ổn định hoàn toàn. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết về
điều này - an toàn và ổn định đầy đủ khi bạn không có
đó. Tất cả mọi sợ hãi đều biến mất... bởi vì sợ hãi cơ bản
là đâu? Sợ hãi cơ bản là sợ cái chết. Tất cả các sợ hãi
khác đều chỉ là phản ánh của cái sợ cơ bản này. Tất cả
các sợ hãi khác đều có thể qui về một cái sợ: sợ chết, sợ
rằng, “Một ngày nào đó mình phải biến mất, một ngày
nào đó mình phải chết. Mình đang đây, rồi một ngày sẽ
tới khi mình sẽ không còn đó” - điều đó gây khiếp sợ, đó
là sợ hãi.
Để tránh cái sợ đó chúng ta bắt đầu chuyển động
theo cách để cho ta có thể sống lâu nhất có thể được. Và
chúng ta cố gắng làm cho cuộc sống mình thành an toàn -
chúng ta bắt đầu thoả hiệp, chúng ta bắt đầu trở nên ngày
một an ninh, an toàn hơn, bởi cái sợ đó. Chúng ta trở nên bị tê liệt, bởi vì bạn càng an toàn hơn, bạn càng an ninh hơn, thì bạn sẽ càng kém sống động hơn.

Cuộc sống tồn tại trong thách thức, cuộc sống tồn tại
trong khủng hoảng, cuộc sống cần bất an. Nó trưởng
thành trong mảnh đất của bất an. Bất kì khi nào bạn bất
an, thì bạn sẽ thấy mình sống động hơn, tỉnh táo hơn. Đó
là lí do tại sao người giầu trở thành đờ đẫn: một loại đần
độn và một loại ngẩn ngơ bao quanh họ. Họ an toàn quá,
chẳng còn thách thức nào nữa. Họ an toàn quá, họ không
cần đến thông minh nữa. Họ an toàn quá - vậy họ cần
thông minh để làm gì? Thông minh chỉ cần tới khi có
thách thức, thông minh được gợi ra từ thách thức.
Cho nên do sợ chết chúng ta cố gắng để được an
ninh, để có số dư ngân hàng, để có bảo hiểm, hôn nhân,
để có cuộc sống định cư, để có nhà; chúng ta trở thành
một phần của quốc gia, chúng ta gia nhập đảng phái
chính trị, chúng ta gia nhập nhà thờ tôn giáo - chúng ta
trở thành người Hindu, người Ki tô giáo, người Mô ha
mét giáo. Có đủ mọi cách để tìm ra an ninh. Có đủ mọi
cách để tìm ra chỗ nào đó mà thuộc vào - quốc gia, nhà
thờ. Bởi sợ hãi này mà các chính khách và tu sĩ khai thác
bạn mãi. Nếu bạn không sợ gì, không chính khách,
không tu sĩ nào có thể khai thác bạn được. Chính chỉ do
sợ hãi mà ông ta mới có thể khai thác được bởi vì ông ta
có thể cung cấp - ít nhất thì ông ta cũng có thể hứa - rằng
điều này sẽ làm cho bạn an toàn: “Điều này sẽ là an ninh
của bạn. Tôi có thể đảm bảo.” Hàng có thể chẳng bao giờ
được giao - đấy lại là việc khác - nhưng cứ hứa đã... Và
lời hứa giữ mọi người bị khai thác, bị áp bức. Lời hứa
giữ mọi người trong nô lệ.

Một khi bạn đã biết cái trống rỗng bên trong này thì
không còn sợ hãi nữa, bởi vì cái chết đã xảy ra rồi. Trong
cái trống rỗng đó nó đã xảy ra. Trong cái trống rỗng đó
bạn đã biến mất. Làm sao bạn có thể sợ gì thêm nữa
được? Về cái gì? Về ai? Và ai có thể đáng sợ? Trong cái
trống rỗng này tất cả mọi sợ hãi đều biến mất bởi vì cái
chết đã xảy ra. Bây giờ không còn cái chết nào có thể có
nữa. Bạn cảm thấy một loại bất tử, vô thời gian. Cái vĩnh
hằng đã tới. Bây giờ bạn không tìm kiếm an ninh nữa;
không cần nữa.

Đây là trạng thái của sannyasin. Đây là trạng thái
một người không cần là một phần của một quốc gia,
không cần là một phần của nhà thờ, hay những thứ xuẩn
ngốc như thế.

Chỉ khi bạn đã trở thành cái không, bạn mới có thể là
chính mình. Điều này có vẻ như nghịch lí.
Và bạn không cần phải thoả hiệp, bởi vì chính từ sợ
hãi và tham lam mà người ta mới thoả hiệp. Và bạn có
thể sống trong nổi dậy bởi vì không có gì để mất cả. Bạn
có thể trở thành việc nổi dậy; không có gì để sợ cả.
Không ai có thể giết bạn, tự mình bạn đã làm điều đó rồi.
Không ai có thể lấy bất kì cái gì khỏi bạn được; bạn đã
loại bỏ tất cả những cái mà có thể lấy đi khỏi bạn. Bây
giờ bạn trong cái không, bạn là cái không. Do đó mới có
hiện tượng nghịch lí này: rằng trong cái không này nảy
sinh an ninh lớn, an toàn lớn, ổn định - bởi vì không còn
cái chết nào có thể có nữa.
Và với cái chết, thời gian biến mất. Với cái chết thì
tất cả các vấn đề mà đã từng do cái chết và thời gian tạo
ra cũng biến mất. Trong thức tỉnh của tất cả những cái
biến mất này, cái còn lại là bầu trời thuần khiết. Bầu trời
thuần khiết này là samadhi, niết bàn. Phật đang nói về
điều này.

Những lời kinh này đã được dành cho một trong các
đại đệ tử của Phật, Sariputra*. Tại sao Sariputra?
Ngày đầu tiên tôi đã nói cho các bạn rằng có bẩy
bình diện, bẩy bậc của chiếc thang. Bậc thứ bẩy là siêu
việt: Thiền, Mật tông, Đạo. Bậc thứ sáu là siêu việt tâm
linh: yoga. Cho tới bậc thứ sáu, phương pháp vẫn còn
quan trọng, ‘làm sao’ vẫn còn là quan trọng. Cho tới bậc
thứ sáu, kỉ luật vẫn còn quan trọng, lễ nghi vẫn còn quan
trọng, kĩ thuật vẫn còn quan trọng. Chỉ khi bạn đạt tới
bậc thứ bẩy, bạn mới thấy rằng chẳng cần gì hết.
Sariputra được nói tới trong những lời kinh này bởi
vì Sariputra đã ở trung tâm thứ sáu, bậc thứ sáu. Ông ấy
là một trong những đại đệ tử của Phật. Phật có tám mươi
đại đệ tử; Sariputra là một trong những người chính trong
số tám mươi người này. Ông ấy là người hiểu biết nhất
quanh Phật. Ông ấy là học giả lớn nhất quanh Phật. Khi
ông ấy tới với Phật, bản thân ông ấy có năm nghìn đệ tử.
Khi ông ấy tới với Phật lần đầu tiên, ông ấy tới để
tranh luận, để tranh cãi và đánh bại Phật. Ông ấy tới với
năm nghìn đệ tử của mình - để gây ấn tượng. Và khi ông
ấy đứng trước Phật, Phật cười to. Và Phật nói với ông ấy,
“Sariputra, ông biết nhiều đấy, nhưng ông chẳng biết gì
cả. Ta có thể thấy ông đã tích luỹ khối lượng tri thức lớn,
nhưng ông thì trống rỗng. Ông đã tới để thảo luận và
tranh luận và để đánh bại ta, nhưng nếu ông thực sự
muốn thảo luận với ta, ông sẽ phải đợi ít nhất là một
năm”

Sariputra nói, “Một năm sao? Để làm gì?”
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Xá Lợi Phất hay Xá Lợi
Tử
Phật nói, “Ông sẽ phải giữ im lặng trong một năm;
điều đó sẽ là cái giá phải trả. Nếu ông có thể giữ im lặng
trong một năm thì ông có thể thảo luận với ta, bởi vì điều
ta định nói với ông sẽ tới từ im lặng. Ông cần có một
chút ít kinh nghiệm về nó. Và ta thấy, Sariputra, ông
thậm chí còn chưa nếm trải một khoảnh khắc im lặng.
Ông tràn đầy với tri thức thế, đầu ông nặng nề thế. Ta
cảm thấy thương hại ông, Sariputra. Ông đã mang tải
trọng nặng thế trong nhiều kiếp rồi. Ông là brahmin
không chỉ trong kiếp này, Sariputra, ông đã từng là
brahmin trong nhiều kiếp rồi. Và trong nhiều kiếp ông đã
mang Veda và các kinh sách. Nó đã là phong cách sống
của ông trong nhiều kiếp... nhưng ta thấy một khả năng.
Ông là người hiểu biết, nhưng vậy mà điều hứa hẹn vẫn
có đó. Ông là người hiểu biết, nhưng tri thức của ông vẫn
chưa khoá kín hoàn toàn bản thể ông; vẫn còn vài cửa sổ
để mở. Ta muốn, trong một năm, lau sạch những cửa sổ
này, và thế thì có khả năng cho sự gặp gỡ, cho việc nói
chuyện và việc hiện hữu của chúng ta. Ông ở lại đây một
năm đi.”

Điều này thật kì lạ. Sariputra đã từng du hành trên
khắp nước, đánh bại mọi người. Đó là một trong những
sự việc ở Ấn Độ: người hiểu biết hay du hành khắp nước
và đánh bại người khác trong những cuộc tranh luận và
thảo luận lớn, những cuộc tranh luận trường kì. Và điều
đó đã được coi như là một trong những sự việc vĩ đại
phải làm. Nếu ai đó trở nên thắng lợi trên khắp nước và
người ấy đánh bại tất cả các học giả thì đó là thoả mãn
bản ngã lớn lao. Con người đó được coi là vĩ đại hơn cả
vua, hoàng đế. Con người đó được coi là vĩ đại hơn
người giầu có. 

Sariputra đã du hành. Và một cách tự nhiên, bạn
không thể nào tự tuyên bố mình là người thắng lợi nếu
bạn còn chưa đánh bại Phật. Cho nên ông ấy đã tới vì
điều đó. Cho nên ông ấy nói, “Được thôi, nếu tôi phải đợi
một năm, thì tôi sẽ đợi.” Và trong một năm ông ấy đã
ngồi đó trong im lặng với Phật. Trong một năm, im lặng
đã lắng đọng trong ông ấy.

Và sau một năm Phật hỏi ông ta, “Bây giờ chúng ta
có thể thảo luận và ông có thể đánh bại ta, Sariputra. Ta
sẽ sung sướng vô cùng được ông đánh bại.”
Còn ông ấy thì cười lớn và cúi đầu chạm chân Phật
và nói, “Xin thầy điểm đạo cho tôi. Trong một năm im
lặng này, lắng nghe thầy, đã có vài khoảnh khắc khi sáng
suốt xảy ra trong tôi. Mặc dầu tôi đã tới như một đối thủ,
tôi đã nghĩ, “Trong khi mình đang ở đây ngồi im suốt
một năm, tại sao lại không lắng nghe con người này, điều
người ấy đang nói?” Cho nên từ tò mò mà tôi bắt đầu
lắng nghe. Nhưng đôi khi những khoảnh khắc đó tới và
thầy thấm vào tôi, và thầy chạm tới trái tim tôi, và thầy
chơi trên chiếc đàn bên trong tôi, và tôi đã nghe thấy âm
nhạc. Thầy đã đánh bại tôi mà không làm tôi thất bại.”
Sariputra trở thành đệ tử của Phật, và năm nghìn đệ
tử của ông ấy cũng trở thành đệ tử của Phật. Sariputra là
một trong những học giả rất nổi tiếng thời đó. Những lời
kinh này nói về Sariputra.

Tại đây, này Sariputra, hình dạng là trống rỗng
và chính trống rỗng là hình dạng;
trống rỗng không khác hình dạng,
hình dạng không khác trống rỗng;
dù hình dạng là gì, đấy cũng là trống rỗng;
dù trống rỗng là gì, đấy cũng là hình dạng;
điều này cũng đúng cho cảm giác,
cảm nhận, thôi thúc và tâm thức
Tại đây, này Sariputra... Phật ngụ ý gì bởi ‘tại đây’?
Ông ấy muốn nói tới không gian của mình. Ông ấy nói,
“Từ viễn kiến về thế giới của ta, từ quan điểm siêu việt,
không gian nơi ta hiện hữu và cái vĩnh hằng nơi ta hiện
hữu...”

Tại đây, này Sariputra, hình dạng là trống rỗng
và chính trống rỗng là hình dạng;
Đây là một trong những điều khẳng định quan trọng
nhất. Toàn bộ cách tiếp cận phật giáo đều phụ thuộc vào
điều này: rằng cái biểu hiện là cái không biểu hiện; rằng
hình dạng không là gì ngoài hình dạng của bản thân cái
trống rỗng, và cái trống rỗng thì cũng chẳng là gì ngoài
hình dạng, khả năng của hình dạng. Phát biểu này là phi
logic và dường như hiển nhiên là vô nghĩa. Làm sao hình
dạng có thể là trống rỗng được? Chúng là những điều đối
lập. Làm sao cái trống rỗng có thể là hình dạng được?
Chúng là các cực.
Một điều cần phải được hiểu trước khi chúng ta đi
vào trong lời kinh cho đúng: Phật là không logic, Phật là
biện chứng.

Có hai cách tiếp cận tới thực tại: một cách là logic.
Từ cách tiếp cận đó, Aristotle là người cha ở phương
Tây. Nó đơn giản đi theo đường thẳng, một đường dứt
khoát. Nó không bao giờ cho phép cái đối lập; cái đối lập
phải bị loại bỏ. Cách tiếp cận này nói A là A và không
bao giờ là không A. A không thể là không A được. Đây
là một công thức của trường phái logic Aristotle - và nó
có vẻ hoàn toàn phải, bởi vì chúng ta đã từng lớn lên với logic đó trong nhà trường phổ thông, cao đẳng, đại học.
Thế giới này bị Aristotle thống trị: A là A và không bao
giờ là không A.
Cách tiếp cận thứ hai tới thực tại là biện chứng. Tại
phương Tây cách tiếp cận đó được gắn với tên của
Heraclitus, Hegel. Quá trình biện chứng nói: cuộc sống
chuyển vận qua các cực, qua những điều đối lập - giống
như sông chảy qua hai bờ đối lập với nhau, nhưng những
bờ đối lập đều giữ cho sông tuôn chảy giữa chúng. Điều
này mang tính tồn tại nhiều hơn. Điện có hai cực, dương
và âm. Nếu logic của Aristotle là của sự tồn tại, thế thì
điện là rất, rất phi logic. Thế thì bản thân Thượng đế là
phi logic, bởi vì ngài tạo ra cuộc sống mới từ gặp gỡ của
đàn ông và đàn bà, là những phía đối lập - âm và dương,
đực và cái. Nếu như Thượng đế do Aristotle dựng nên
theo logic của trường phái Aristole, theo logic tuyến tính,
thế thì đồng dục sẽ là qui tắc còn dị dục sẽ là truỵ lạc.
Thế thì đàn ông sẽ yêu đàn ông và đàn bà sẽ yêu đàn bà.
Thế thì các phía đối lập không thể gặp gỡ.
Nhưng Thượng đế là biện chứng. Tại mọi nơi, các
phía đối lập đều gặp gỡ. Trong bạn, sinh và tử đang gặp
gỡ. Tại mọi nơi, các phía đối lập đều gặp gỡ - ngày và
đêm, mùa hè và mùa đông. Gai nhọn và hoa hồng, chúng
gặp gỡ; chúng đều trên cùng một cành, chúng phát xuất
từ cùng một nguồn gốc. Đàn ông và đàn bà, tuổi thanh
niên và tuổi già, cái đẹp và cái xấu, thân thể và linh hồn,
thế giới và Thượng đế - tất cả đều là đối lập. Đây là bản
giao hưởng của các phía đối lập. Các phía đối lập không
chỉ gặp gỡ mà còn tạo ra bản giao hưởng vĩ đại - chỉ các
phía đối lập mới có thể tạo ra bản giao hưởng. Ngược lại
thì cuộc sống sẽ đơn điệu, không phải là bản giao hưởng.
Cuộc sống sẽ là nhàm chán. Nếu chỉ có một nốt nhạc cứ
liên tục lặp lại, nhất định sẽ tạo ra chán ngấy. Có các nốt
đối lập: chính đề gặp phản đề, tạo ra sự tổng hợp; và
trong việc quay lại riêng của nó, tổng hợp lại trở thành
chính đề, lại tạo ra phản đề, và tổng hợp cao hơn tiến hoá
tiếp. Đó là cách cuộc sống chuyển vận.

Vậy cách tiếp cận của Phật là biện chứng, và nó
mang tính tồn tại nhiều hơn, đúng hơn, hợp lệ hơn.
Đàn ông yêu đàn bà, đàn bà yêu đàn ông - thế thì một
cái gì đó khác cần phải được hiểu nữa. Bây giờ các nhà
sinh học nói, và các nhà tâm lí cũng đồng ý, rằng đàn ông
không chỉ là đàn ông, anh ta là đàn bà nữa. Và đàn bà
không chỉ là đàn bà, cô ấy là đàn ông nữa. Cho nên khi
đàn ông và đàn bà gặp nhau, không chỉ có hai người gặp
nhau mà là bốn người gặp nhau. Đàn ông gặp với đàn bà,
nhưng đàn ông có đàn bà ẩn trong mình; đàn bà cũng có
người đàn ông ẩn trong mình; họ cũng gặp nhau nữa.
Gặp gỡ là trên các bình diện kép. Điều ấy thực chất hơn,
phức tạp hơn, xoắn xuýt hơn. Con người là đàn ông và
đàn bà, cả hai. Sao vậy? - bởi vì người đó xuất phát từ cả
hai. Một cái gì đó đã được đóng góp cho bạn từ bố bạn
và một cái gì đó đã được đóng góp cho bạn từ mẹ bạn, dù
bạn là ai. Đàn ông chảy trong máu bạn và đàn bà nữa
cũng chảy trong máu bạn. Bạn phải là cả hai bởi vì bạn là
gặp gỡ của các cực đối lập. Bạn là tổng hợp! Không thể
nào chối bỏ cực này và chỉ lấy cực kia. Đó là điều đã
được làm.

Aristotle đã được tuân theo đúng từng chữ, theo đủ
mọi cách, và điều đó đã tạo ra nhiều vấn đề cho con
người - và những vấn đề như thế dường như không thể
nào giải quyết nổi nếu Aristotle được tuân theo. Đàn ông
đã được dạy phải là đàn ông: không bao giờ được tỏ ra có
nét nữ tính nào, không bao giờ được tỏ ra mềm yếu của trái tim, không bao giờ được tỏ ra bất kì sự tiếp thu nào,
bao giờ cũng phải năng nổ. Đàn ông đã được dạy không
bao giờ được khóc lóc, không bao giờ được yếu lòng -
bởi vì nước mắt là nữ tính. Đàn bà đã được dạy không
bao giờ được giống như đàn ông theo bất kì cách nào:
không bao giờ được tỏ ra hung hăng, không bao giờ được
tỏ ra biểu lộ, bao giờ cũng phải thụ động, tiếp thu. Điều
này là chống lại thực tại, và điều này làm què quặt cả hai.
Trong một thế giới tốt đẹp hơn, với hiểu biết tốt hơn, đàn
ông sẽ là cả hai, đàn bà sẽ là cả hai - bởi vì đôi khi đàn
ông cũng cần là đàn bà. Có những khoảnh khắc anh ta
cần mềm mỏng - những khoảnh khắc tế nhị, khoảnh khắc
yêu đương. Và có những khoảnh khắc đàn bà cần phải
diễn đạt và hùng hổ - trong giận dữ, trong phòng ngự,
trong nổi dậy. Nếu đàn bà chỉ đơn giản thụ động, thế thì
cô ấy sẽ tự động biến thành nô lệ. Người đàn bà thụ động
nhất định trở thành nô lệ - đó là điều đã xảy ra qua nhiều
thời đại. Và người đàn ông hùng hổ, nhấn mạnh vào tính
hùng hổ và không bao giờ tế nhị, nhất định tạo ra chiến
tranh, điên khùng trong thế giới, bạo hành.

Con người đã đánh nhau, liên tục đánh nhau; dường
như là con người tồn tại trên trái đất chỉ để đánh nhau.
Trong ba nghìn năm đã có năm nghìn cuộc chiến tranh!
Chiến tranh liên tục chỗ này chỗ khác, trái đất chưa bao
giờ là toàn bộ và lành mạnh... chưa bao giờ có khoảnh
khắc nào không chiến tranh. Hoặc chiến tranh ở Triều
tiên, hoặc nó ở Việt Nam, hay ở Israel, ở Ấn Độ,
Pakistan hay Bangladesh; đâu đó việc tàn sát vẫn cứ tiếp
tục. Con người phải giết người. Để còn là con người, anh
ta phải giết người. Bẩy mươi nhăm phần trăm năng lượng
được đổ vào trong nỗ lực chiến tranh, trong việc tạo ra
nhiều bom hơn, nhiều bom khinh khí hơn, nhiều bom
neutron hơn, vân vân và vân vân. Dường như là toàn bộ
mục đích của con người ở đây trên trái đất này là chiến
tranh. Anh hùng chiến tranh được tôn kính nhất. Các
chính khách chiến tranh trở thành những tên tuổi vĩ đại
trong lịch sử: Adolf Hitler, Winston Churchill, Joseph
Stalin, Mao Trạch Đông - những tên tuổi này còn định
lưu lại. Tại sao? - bởi vì họ đã đấu tranh trong những
cuộc chiến lớn, họ huỷ diệt. Dù là trong xâm lược hay
trong bảo vệ - đấy không phải là vấn đề - nhưng họ là
những kẻ hiếu chiến. Và chẳng ai biết người nào là kẻ
xâm lược - liệu người Đức có là kẻ xâm lược hay không,
tất cả đều phụ thuộc vào người viết ra lịch sử. Bất kì ai
thắng đều sẽ viết ra lịch sử, và người ấy sẽ chứng minh
kẻ kia là kẻ xâm lược. Lich sử sẽ hoàn toàn khác đi nếu
như Adolf Hitler thắng lợi. Thế đấy, toà án Nuremburg
sẽ có đấy nhưng các tướng lĩnh và chính khách Mĩ, Anh
và Pháp sẽ bị ra toà. Và lịch sử sẽ do người Đức viết ra;
một cách tự nhiên họ sẽ có viễn kiến khác.

Chẳng ai biết cái gì là đúng cả. Một điều là chắc
chắn: rằng con người trút toàn bộ năng lượng của mình
vào nỗ lực chiến tranh. Lí do sao? - lí do là ở chỗ con
người đã được dạy chỉ là đàn ông, phần đàn bà của con
người đã bị chối bỏ. Cho nên không đàn ông nào là một
tổng thể. Và đàn bà thì cũng vậy - không đàn bà nào là
một tổng thể. Cô ấy đã bị làm cho chối bỏ phần đàn ông
của mình. Khi cô ấy còn là đứa trẻ nhỏ cô ấy đã không
thể nào đánh nhau với tụi con trai, cô ấy không thể nào
trèo lên cây; cô ấy phải chơi với búp bê, cô ấy phải chơi
trò chơi ‘nhà cửa’. Đây là một viễn kiến rất, rất méo mó.
Đàn ông là cả hai, đàn bà cũng vậy - và cả hai đều
cần tạo ra một con người hài hoà, chân thực. Sự tồn tại là
biện chứng; và các phía đối diện không chỉ là đối diện,
chúng là phần bù cho nhau nữa. 

Phật nói: Tại đây, này Sariputra - trong thế giới của
ta, Sariputra, trong không gian của ta, trong thời gian của
ta, Sariputra, tại bậc thứ bẩy của chiếc thang, trong trạng
thái vô trí này, trong trạng thái samadhi này, trong trạng
thái của niết bàn này, của chứng ngộ này - hình dạng là
trống rỗng. Đàn ông là đàn bà và đàn bà là đàn ông, và
cuộc sống là cái chết và cái chết là cuộc sống. Các phía
đối lập không phải là đối lập, Sariputra; chúng đang đan
xuyên lẫn nhau, chúng tồn tại qua nhau. Để chỉ ra sáng
suốt này Phật nói: Hình dạng là vô hình dạng, và vô hình
dạng là hình dạng; cái không biểu lộ trở thành biểu lộ, và
cái biểu lộ lại trở thành không biểu lộ. Chúng không khác
nhau, Sariputra, chúng là một. Cái nhị nguyên chỉ là bề
ngoài. Sâu bên trong tất cả nó là một.
trống rỗng không khác hình dạng,
hình dạng không khác trống rỗng;
dù hình dạng là gì, đấy cũng là trống rỗng;
dù trống rỗng là gì, đấy cũng là hình dạng;
điều này cũng đúng cho cảm giác,
cảm nhận, thôi thúc và tâm thức

Toàn bộ cuộc sống và toàn bộ sự tồn tại bao gồm các
cực đối lập, nhưng chỉ trên bề mặt chúng mới khác nhau.
Các phía đối lập này giống như hai tay tôi: tôi có thể đối
lập chúng với nhau, tôi thậm chí có thể xoay xở tạo ra
một loại xung đột, đánh nhau giữa chúng. Nhưng tay trái
và tay phải của tôi cả hai đều là tay tôi. Bên trong tôi,
chúng là một. Đây đích thị là trường hợp này.
Tại sao Phật nói điều này cho Sariputra? - bởi vì nếu
bạn hiểu điều này, lo nghĩ của bạn sẽ biến mất. Thế thì
không có lo nghĩ. Cuộc sống là cái chết, cái chết là cuộc
sống. Hiện hữu là một cách hướng tới không hiện hữu, và
không hiện hữu là cách hướng tới hiện hữu. Đấy là cùng
một trò chơi. Thế thì không có sợ hãi, thế thì không có
vấn đề gì. Với sáng suốt này, chấp nhận lớn nảy sinh.
Tại đây, này Sariputra,
mọi pháp đều được đánh dấu bởi trống rỗng;
chúng không được tạo ra hay bị chặn lại,
không vẩn đục hay tinh khiết,
không khiếm khuyết hay hoàn chỉnh

Phật nói: Tất cả các pháp đều tràn đầy sự trống rỗng.
Cái không đó tồn tại ở chính cốt lõi của mọi thứ: cái
không đó tồn tại trong cây cối, cái không đó tồn tại trong
tảng đá, cái không đó tồn tại trong ngôi sao.
Bây giờ các nhà khoa học sẽ đồng ý: họ nói rằng khi
một ngôi sao sụp đổ, nó trở thành lỗ đen, cái không.
Nhưng cái không đó không chỉ là cái không; nó có sức
mạnh mênh mông, nó rất đầy đặn, tràn ngập.
Khái niệm, giả thuyết về lỗ đen, là có giá trị mênh
mông trong việc hiểu Phật. Một ngôi sao tồn tại trong
hàng triệu, hàng tỉ năm, nhưng một ngày nào đó nó phải
chết. Mọi thứ được sinh ra đều phải chết. Con người tồn
tại trong bẩy mươi năm, thế rồi cái gì xảy ra? Cạn kiệt,
mệt mỏi, người ấy biến mất, người ấy rơi trở lại vào số
một nguyên thuỷ. Cho nên điều đó đang sắp xảy ra cho
mọi thứ, chẳng chóng thì chầy. Rặng Himalayas sẽ biến
mất một ngày nào đó, rồi trái đất này cũng sẽ biến mất
một ngày nào đó, mặt trời này cũng sẽ biến mất một ngày
nào đó. Nhưng khi ngôi sao lớn biến mất, nó sẽ biến đi
đâu? Nó sụp đổ vào trong chính nó. Nó là một khối
lượng lớn thế; nó sụp đổ. Giống như một người đang
bước đi - một ông già - ngã trên phố và sụp đổ, nếu bạn để người đó ở đấy, chẳng chóng thì chầy thân thể người ấy sẽ biến mất, tan rã vào bùn, vào đất. Nếu bạn để nó ở
đó nhiều năm, thế thì xương cũng sẽ biến thành cát bụi.
Người này đã có đó ngày nào đó, bước đi, sống động,
yêu đương, đánh nhau, và bây giờ tất cả đã biến mất
trong một lỗ đen. Điều như vậy cũng xảy ra cho ngôi sao:
khi ngôi sao sụp đổ vào chính nó, nó trở thành lỗ đen.
Tại sao nó được gọi là lỗ đen? - bởi vì bây giờ không còn
khối lượng nữa, chỉ còn cái trống rỗng thuần khiết, điều
Phật gọi là shunyata. Và shunyata, cái trống rỗng thuần
khiết, mạnh mẽ đến mức nếu bạn tới dưới tác động của
nó, gần nó, trong vùng lân cận của nó, bạn sẽ bị kéo vào,
kéo vào trong cái trống rỗng đó, và bạn cũng sẽ sụp đổ
và biến mất.

Với du hành không gian điều này sẽ là vấn đề cho
tương lai, bởi vì có nhiều ngôi sao đã trở thành lỗ đen.
Và bạn không thể nào thấy được nó bởi vì nó là cái
không, nó chỉ là sự thiếu vắng. Bạn không thể thấy được
nó, và bạn có thể đi qua nó. Nếu một con tầu không gian
tới gần nó, dưới sức hút của nó, con tầu sẽ đơn giản bị
kéo vào. Thế thì không có cách nào để thoát ra khỏi nó,
không thể nào tìm được cách thoát ra khỏi nó. Sức kéo
lớn thế, con tầu sẽ đơn giản bị kéo vào, và nó sẽ biến mất
và sụp đổ. Và bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về con tầu
không gian nữa, nó đã đi đâu, điều gì đã xảy ra cho nó,
điều gì đã xảy ra cho những du khách không gian.
Lỗ đen này là rất, rất giống với khái niệm về cái
trống rỗng của Phật. Tất cả các hình dạng đều sụp đổ và
biến mất vào trong lỗ đen, và thế rồi khi chúng đã nghỉ
ngơi thời gian lâu, chúng lại nổi bọt lên - lần nữa ngôi
sao lại được sinh ra. Điều này tiếp diễn: sống và chết,
sống và chết - điều này tiếp diễn. Đây là cách sự tồn tại
chuyển vận.

Ban đầu nó trở nên biểu lộ, thế rồi trở nên mệt mỏi,
đi vào cái không biểu lộ, rồi lại phục hồi năng lượng của
mình qua nghỉ ngơi, thảnh thơi, lần nữa lại trở thành biểu
lộ. Cả ngày bạn làm việc, bạn trở nên mệt mỏi; ban đêm
bạn biến mất trong giấc ngủ thành một lỗ đen. Bạn tắt
đèn, bạn chui nhanh vào trong chăn, bạn nhắm mắt; thế
rồi trong khoảnh khắc tâm thức biến đi. Bạn đã sụp đổ
vào bên trong. Có những khoảnh khắc khi thậm chí cả
giấc mơ cũng không có đó; thế thì giấc ngủ là sâu nhất.
Trong giấc ngủ sâu đó, bạn trong một lỗ đen, bạn chết.
Trong lúc bạn đang trong cái chết, việc nghỉ ngơi xảy ra
trong cái chết. Và thế rồi buổi sáng bạn trở lại, tràn đầy
nhựa sống và khoan khoái và đầy sinh khí, tươi trẻ lại.
Nếu bạn có giấc ngủ sâu, thực sự say không mơ mộng,
thì buổi sáng tươi tắn, sinh động, rạng ngời, bạn lại trẻ
trung. Nếu bạn biết cách ngủ sâu, bạn cũng biết cách
phục hồi lại bản thân mình. Đến tối lần nữa bạn lại sụp
đổ, mệt mỏi, cạn kiệt bởi hoạt động ban ngày.
Cùng điều ấy xảy ra cho mọi thứ. Con người là việc
thu nhỏ của toàn bộ sự tồn tại. Điều xảy ra cho con người
cũng xảy ra cho toàn bộ sự tồn tại trên qui mô lớn hơn,
có vậy thôi. Mọi đêm bạn biến mất trong cái không, mọi
sáng bạn trở lại hình dạng. Hình dạng, vô hình, hình
dạng, vô hình; đây là cách cuộc sống chuyển vận, đó là
hai bước.
Tại đây, này Sariputra,
mọi pháp đều được đánh dấu bởi trống rỗng;
chúng không được tạo ra hay bị chặn lại... 

Và Phật đang nói: Chẳng phải làm gì cả, chỉ cần có
hiểu biết.
Đây là một phát biểu cơ bản. Nó có thể làm biến đổi
toàn bộ cuộc sống của bạn nếu bạn có thể thấy nó như sự
sáng suốt.
... chúng không được tạo ra hay bị chặn lại...

Không ai tạo ra những hình dạng này, và không ai
chặn lại những hình dạng này. Phật không tin vào
Thượng đế như người thao tác, người điều khiển, đấng
sáng tạo, không. Điều đó sẽ là nhị nguyên, giả thuyết
không cần thiết. Phật nói điều đó xảy ra theo ý của nó;
đấy là tự nhiên, không ai làm điều đó. Không phải là
trước hết Thượng đế nghĩ, “Có ánh sáng” - như được nói
trong Kinh thánh - thế là có ánh sáng. Và rồi một hôm
ngài nói, “Bây giờ, không có ánh sáng,” và ánh sáng biến
mất. Tại sao đem Thượng đế này vào? Và tại sao giao
cho ngài công việc xấu thế? Và ngài sẽ phải làm điều đó
mãi mãi và mãi mãi: “Có ánh sáng, không có ánh sáng,
có ánh sáng...Bây giờ để người này ở đấy, bây giờ để
người ấy chết” - bạn cứ thử nghĩ về ngài và cái chán của
ngài mà xem! Phật an ủi Thượng đế, ông ấy nói điều đó
là không cần thiết.

Đấy chỉ là tự nhiên. Cây đem tới hạt mầm, rồi hạt
mầm lại đem tới cây, và cây lại đem tới hạt mầm. Hạt
mầm là gì? Sự biến mất của cây; cây đã đi vào cái vô
hình. Bạn có thể mang một hạt mầm trong túi mình, bạn
có thể mang một nghìn hạt mầm trong túi, nhưng bạn
không thể mang được một nghìn cây trong túi mình. Cây
có hình dạng, tầm vóc, khối lượng; hạt mầm có cái
không. Và nếu bạn nhìn vào trong hạt mầm, bạn sẽ chẳng
thấy gì. Nếu bạn chưa hề thấy, chưa từng biết rằng hạt
mầm trở thành cây, và ai đó đưa cho bạn một hạt mầm và
nói, “Nhìn đây, hạt mầm này là rất, rất thần kì - nó có thể
trở thành cây lớn, và sẽ có nhiều quả trong nhiều năm, có
tán lá lớn rồi hoa và cây cỏ, rồi chim chóc sẽ tới làm tổ ở
đó,” bạn sẽ nói, “Anh nói cái gì vậy? Mọc ra từ cái viên
sỏi tí xíu này ư? Anh cho rằng tôi ngu lắm hay là cái gì
khác? Làm sao điều đó có thể xảy ra được? Nó không thể
xảy ra được.”

Nhưng bạn biết điều đó xảy ra, đó là lí do tại sao bạn
không chú ý gì tới nó. Phép mầu đang xảy ra. Hạt mầm
nhỏ bé này đang mang toàn bộ bản thiết kế cho cái cây,
cho các chiếc lá - hình dạng và kích cỡ và số lượng - và
cả các cành, cả hình dạng của cành, và chiều dài và chiều
cao của cây, và cuộc sống, bao nhiêu quả, bao nhiêu hoa
sẽ nở ra từ nó, bao nhiêu hạt mầm mà cuối cùng hạt mầm
này sẽ tạo ra. Các nhà khoa học nói rằng dù chỉ một hạt
mầm cũng đủ làm cho cả trái đất thành xanh tươi. Nó có
tiềm năng mênh mông. Không chỉ toàn trái đất này - chỉ
một hạt mầm cũng có thể lấp đầy tất cả các hành tinh
bằng mầu xanh, bởi vì một hạt mầm có thể tạo ra hàng
triệu hạt mầm, thế rồi từng hạt mầm này lại tạo ra hàng
triệu hạt mầm nữa, và cứ thế tiếp diễn. Toàn bộ sự tồn tại
có thể trở thành xanh tươi từ chỉ một hạt mầm. Cái không
đó là rất tiềm năng, rất mạnh mẽ! Mênh mông! Khổng
lồ! Bao la!

Phật nói không ai tạo ra nó và không ai chặn nó lại
cả. Phật nói không cần phải đến đền đài và không cần
phải cầu nguyện và bảo Thượng đế, “Làm cái này, đừng
làm cái kia” - chẳng có ai cả.

Và thông điệp của ông ấy là gì? Ông ấy nói, “Chấp
nhận điều đó đi. Nó là như vậy. Nó là trong bản chất của
mọi vật. Nó chỉ là tự nhiên, mọi vật tới rồi đi.”
Trong chấp nhận này, trong cái tathata này, trong cái
phản ánh như thế, tất cả mọi lo nghĩ biến mất; bạn được
tự do khỏi lo nghĩ. Thế thì không có vấn đề gì. Và không
cái gì có thể bị chặn lại, và không cái gì có thể bị thay
đổi, và không cái gì có thể được tạo ra. Mọi vật đều như
chúng vẫn thế và mọi vật sẽ như chúng sẽ thế, cho nên
chẳng có gì cho bạn làm cả. Bạn chỉ quan sát những vật
này xảy ra. Bạn có thể tham dự vào trong những vật này.
Hiện hữu đi... trong hiện hữu đó có im lặng, trong hiện
hữu đó có vui vẻ. Hiện hữu đó là tự do.
chúng ... không vẩn đục hay tinh khiết...

Sự tồn tại này không dơ bẩn cũng chẳng tinh khiết.
Không ai là tội nhân và không ai là thánh nhân.
Sáng suốt của Phật là hoàn toàn cách mạng: ông ấy
nói không gì có thể là dơ bẩn và không gì có thể là thuần
khiết; mọi vật chỉ là như chúng vẫn thế. Đấy tất cả chỉ là
trò chơi tâm trí mà chúng ta chơi thôi, chúng ta tạo ra ý
tưởng về thuần khiết - và thế rồi cái dơ bẩn đến. Chúng ta
tạo ra ý tưởng về thánh nhân - và thế thì tội nhân tới.
Bạn muốn tội nhân biến mất sao? Họ có thể biến mất
chỉ khi thánh nhân của bạn đã biến mất, không trước đó
đâu. Họ tồn tại cùng nhau. Bạn muốn vô đạo đức biến
mất đi sao? - thế thì đạo đức cũng phải ra đi. Chính đạo
đức tạo ra vô đạo đức. Chính các ý tưởng đạo đức tạo ra
kết án cho một vài người không tuân theo chúng, người
không thể đi với chúng. Và bạn có thể làm bất kì cái gì
vô đạo đức - chỉ cần tạo ra một ý tưởng: Cái này là đạo
đức. Bạn có thể làm một con bò linh thiêng từ bất kì cái
gì, và thế thì nó trở thành một vấn đề.

Phật không nói gì về vẩn đục và không nói gì về tinh
khiết cả. Thuần khiết, dơ bẩn, đều là thái độ của tâm trí.
Bạn có thể nói được cây là đạo đức hay vô đạo đức? Bạn
có thể nói được con vật là tội lỗi hay thánh nhân? Cố
gắng thấy viễn kiến tối thượng này: không có tội nhân,
không có thánh nhân, không có đạo đức, không có vô
đạo đức. Trong chấp nhận này, lấy đâu ra khả năng lo
nghĩ? Không có gì phải cải tiến cả! Và không có mục
đích, bởi vì không có giá trị. Cuộc hành trình này là cuộc
hành trình không có mục đích nào. Nó là cuộc hành trình
thuần khiết; nó là vở kịch, một leela. Và không có ai
đứng sau nó, làm nó. Tất cả đều xảy ra, và không có ai
làm điều đó. Nếu người làm có đó, thế thì vấn đề nảy
sinh - thế thì có cầu nguyện đến người làm. Thế thì có
thuyết phục người làm, thế thì có việc trở thành thân thiết
với người làm. Thế thì bạn sẽ được lợi, và những người
không thân thiết với người làm sẽ bị túng quẫn - họ sẽ
phải chịu đau khổ ở địa ngục. Đó là điều mà người Ki tô
giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo nghĩ. Người Mô ha
mét giáo nghĩ những ai là người Mô ha mét giáo sẽ lên
cõi trời còn những ai không phải Mô ha mét giáo, những
anh chàng tội nghiệp, họ sẽ đi xuống địa ngục. Cũng thế
trong trường hợp của người Ki tô giáo và Hindu giáo:
người Hindu nghĩ những ai không phải là người Hindu
giáo thì chẳng có cơ may nào; người Ki tô giáo nghĩ
những người không tới qua nhà thờ, những người không
đi qua nhà thờ, đều sẽ phải chịu đoạ địa ngục vĩnh viễn -
không giới hạn, vô tận, mãi mãi.

Phật nói: Không có tội nhân, không có thánh nhân;
không có gì là thuần khiết, không có gì là dơ bẩn, mọi sự đều như chúng vẫn thế. Bạn cứ thử ra thuyết phục cây mà
xem, hỏi cây, “Sao mày lại xanh thế? Sao mày không
mầu đỏ?”
Và nếu cây lắng nghe bạn, thì nó sẽ thần kinh - “Tại
sao tôi lại không mầu đỏ? Tại sao? Thực tế, câu hỏi có
quan hệ đấy. Tại sao tôi lại mầu xanh nhỉ?” Kết án mầu
xanh và ngợi ca mầu đỏ, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ
thấy cây nằm trên trường kỉ nhà phân tâm học để được
phân tích, giúp đỡ.

Trước hết bạn tạo ra vấn đề, và thế rồi người cứu tinh
tới. Đấy quả là một công việc đẹp đẽ.
Phật chặt ngay từ chính gốc. Ông ấy nói: Bạn là cái
bạn đang là. Không có gì phải cải thiện, không phải đi
đâu cả. Và đây là toàn bộ cách tiếp cận của tôi nữa: bạn
hoàn hảo như bạn có thể vậy, không thể nào nhiều hơn.
Cái ‘hơn thế’ sẽ chỉ tạo ra rắc rối cho bạn. Cái ý tưởng về
‘hơn thế’ sẽ làm bạn phát điên. Chấp nhận tự nhiên đi,
sống một cách tự nhiên, đơn giản, tự phát, khoảnh khắc
nọ sang khoảnh khắc kia, và có linh thiêng - bởi vì bạn là
toàn thể, không phải bởi vì bạn đã trở thành thánh nhân.
... không vẩn đục hay tinh khiết,
không khiếm khuyết hay hoàn chỉnh

Không cái gì là hoàn chỉnh và không cái gì là không
hoàn chỉnh cả; những giá trị này là vô nghĩa. Phật nói:
Tại đây, này Sariputra, nơi ta hiện hữu, không gì là tốt,
không gì là xấu. Tại đây, nơi ta hiện hữu, luân hồi và niết
bàn là một. Không có phân biệt giữa báng bổ và thiêng
liêng. Tại đây, nơi ta hiện hữu, tất cả tất cả mọi phân biệt
đều đã biến mất, bởi vì phân biệt do ý nghĩ tạo ra. Khi ý
nghĩ biến mất, phân biệt cũng biến mất.
Tội nhân do ý nghĩ tạo ra, còn thánh nhân cũng do ý
nghĩ tạo ra. Thượng đế và cái xấu đều do ý nghĩ tạo ra.
Chính một mình ý nghĩ tạo ra những phân biệt này. Phật
nói: Khi tri thức biến mất, ý nghĩ biến mất. Không có nhị
nguyên. Tất cả là cái một.
Có câu châm ngôn nổi tiếng của Sosan:
Trong cõi giới cao hơn của việc phản ánh như thế
đúng đắn
không có cái ta mà cũng không có cái khác hơn cái ta.
Khi đi tìm sự đồng nhất trực tiếp,
chúng ta chỉ có thể nói ‘bất nhị’.
Một trong tất cả, tất cả trong một:
nếu điều này được hiểu,
thì không còn lo nghĩ về sự không hoàn hảo của bạn
Một trong tất cả, tất cả trong một - nếu điều này
được hiểu, thì không còn lo nghĩ về sự không hoàn hảo
của bạn. Không có hoàn hảo, không có sự không hoàn
hảo. Thấy nó, và thấy nó ngay bây giờ đi! Đừng tới muộn
rồi lại hỏi tôi cách làm điều đó. Không có ‘cách’ nào cả.
‘Cách’ là đưa tới tri thức - và tri thức là cái đáng nguyền
rủa.

Không có môi giới méo mó của ý nghĩ, bạn rơi vào
sự thống nhất với cái toàn thể. Không có ý nghĩ vận hành
giữa bạn và thực tế, tất cả mọi phân biệt biến mất, bạn
được bắc cầu. Và đó là điều mà con người cứ khao khát
thường xuyên. Bạn cảm thấy mất gốc rễ, mất gốc rễ với
cái toàn thể. Đó là cái khổ của bạn. Và bạn bị mất gốc rễ
bởi vì cái môi giới méo mó của ý nghĩ này. Bỏ môi giới
méo mó của ý nghĩ này đi, bỏ những môi giới này đi,
nhìn vào thực tại như nó vẫn thế, không có ý tưởng trong tâm trí mình, không có ý tưởng về cách nó phải thế nào.

Nhìn với sự hồn nhiên. Nhìn với cái không biết và mọi lo
nghĩ sẽ biến mất. Trong biến mất của lo nghĩ đó bạn trở
thành vị Phật.

Bạn là vị Phật! Nhưng bạn bỏ lỡ bởi vì bạn đang
mang những môi giới méo mó quanh mình. Bạn có con
mắt hoàn chỉnh và bạn lại đeo kính. Những cái kính đó
làm méo mó, chúng tô mầu, chúng làm cho mọi vật
dường như không phải là chúng. Vứt kính đi! Đấy là điều
được ngụ ý khi chúng ta nói “Vứt tâm trí đi.” Phủ định
tâm trí và có im lặng - và trong im lặng đó bạn là điều
thiêng liêng. Bạn chưa bao giờ là bất kì cái gì khác, bạn
bao giờ cũng là cái đó. Nhưng nhận biết tới, hiểu biết tới.
Bạn bỗng nhiên thấy ra vấn đề: rằng bạn đã cố gắng gắn
chân cho rắn. Ngay từ đầu việc đó là chẳng cần thiết - rắn
hoàn toàn là tuyệt hảo! Không có chân, nó vẫn di chuyển
hoàn hảo. Chỉ từ so sánh bạn mới cố gắng gắn chân cho
nó. Nếu bạn thành công, bạn sẽ giết chết con rắn. May
mắn là bạn chẳng bao giờ có thể thành công được.
Bạn đang cố gắng để trở thành hiểu biết và đó là lí do
tại sao bạn làm mất cảm nhận của mình, cái biết của bạn,
khả năng của bạn để thấy. Đó là điều tôi ngụ ý qua ‘gắn
chân cho rắn’. Việc biết là bản tính của bạn. Không cần
phải có tri thức để biết. Trong thực tế, tri thức là cái cản
trở, tri thức là cái đáng nguyền rủa.
Phủ định tri thức và hiện hữu đi - và bạn là vị Phật,
và bạn bao giờ cũng là vị Phật.
Đủ cho hôm nay.

Tôi tới từ một gia đình đã có bốn người tự tử bên đằng
ngoại. Làm sao vượt qua được sự bóp méo này của cái
chết?

Lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể thảnh thơi
trong yếu đuối của tôi ở đây. Tôi có phải mạnh mẽ và
dũng cảm không?

Tại sao và làm thế nào mà mọi người tới với Thầy từ
bốn phương trên trái đất này?

Phải làm gì với sợ? Tôi cảm thấy mệt mỏi bị nó lôi đi
quanh. Nó có thể bị làm chủ hay bị làm tiêu tan đi
không?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến