Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Hương vị của cái không

Cái không là hương vị của cõi bên kia. Nó là việc cởi
mở trái tim cho điều siêu việt. Nó là việc mở ra của hoa
sen một nghìn cánh. Nó là định mệnh của con người. Con
người là hoàn chỉnh chỉ khi con người đã đi tới hương
thơm này, khi con người đã đi tới cái không tuyệt đối này
bên trong bản thể mình, khi cái không này đã lan toả
khắp người đó, khi người đó chỉ là bầu trời thuần khiết,
không mây.

Cái không này Phật gọi là niết bàn. Trước hết chúng
ta phải hiểu cái không này thực tế là gì, bởi vì nó không
chỉ là cái trống rỗng - nó là đầy tràn, nó là tràn ngập. Bạn
đừng bao giờ trong bất kì khoảnh khắc nào nghĩ rằng cái
không là trạng thái tiêu cực, sự thiếu vắng, không. Cái
không đơn giản là không có thứ gì. Mọi thứ đều biến
mất, chỉ còn lại bản chất tối thượng. Hình dạng biến mất,
chỉ cái vô hình còn lại. Các định nghĩa biến mất, cái
không định nghĩa còn lại.
Cho nên cái không không phải dường như là không
có gì. Nó đơn giản có nghĩa là không có khả năng để
định nghĩa cái gì có đó. Nó dường như là bạn đã bỏ tất cả
các đồ đạc ra khỏi nhà. Ai đó đến và người đó nói, “Bây
giờ, đây là không có gì.” Người ấy đã thấy đồ đạc trước
đó; bây giờ đồ đạc mất đi và người đó nói, “Tại đây
không còn thứ gì nữa. Đây là cái không.” Phát biểu của
anh ta là hợp lệ chỉ ở mức độ nào đó. Trong thực tế, khi
bạn loại bỏ đồ đạc, bạn đơn giản loại bỏ các chướng ngại
trong không gian của ngôi nhà. Bây giờ không gian thuần
khiết tồn tại, bây giờ chẳng có gì cản trở. Bây giờ không
có đám mây nào trôi nổi trên bầu trời; nó chỉ là một bầu
trời. Nó không chỉ là không, nó là thuần khiết. Nó không
chỉ là thiếu vắng, nó còn là hiện diện.
Bạn đã bao giờ ở trong ngôi nhà trống rỗng hoàn
toàn chưa? Bạn sẽ thấy rằng cái trống rỗng như là sự hiện
diện; nó rất hữu hình, bạn gần như có thể chạm vào nó.
Đó là cái đẹp của ngôi đền hay nhà thờ hay đền Mô ha
mét giáo - cái rỗng không thuần khiết, chỉ là trống rỗng.
Khi bạn đi vào ngôi đền, cái bao quanh bạn là cái không.
Nó là sự trống rỗng mọi thứ, nhưng chỉ là sự trống rỗng.
Trong cái trống rỗng đó một cái gì đó vẫn hiện diện -
nhưng chỉ hiện diện cho những người có thể cảm thấy nó,
người đủ nhạy cảm để cảm thấy nó, người đủ nhận biết
để thấy nó.
Những người chỉ có thể thấy đồ vật sẽ nói, “Cái gì có
đó nào? Chẳng có gì cả.” Những người có thể thấy cái
không sẽ nói, “Tất cả là ở đây, bởi vì không có gì là ở
đây.” 

Sự đồng nhất của ‘có’ và ‘không’ là bí mật của cái
không. Để tôi nhắc lại nó; điều đó là rất cơ bản đối với
cách tiếp cận của Phật: cái không thì không đồng nhất
với ‘không’, cái không là sự đồng nhất của ‘có’ và
‘không’, nơi các cực không còn là các cực nữa, nơi các
phía đối lập không còn là đối lập nữa.
Khi bạn làm tình với người đàn bà hay với người đàn
ông, điểm cực thích là điểm của cái không. Vào khoảnh
khắc đó người đàn bà không còn là người đàn bà nữa và
người đàn ông cũng không còn là đàn ông nữa. Những
hình dạng đó đã biến mất. Phân cực giữa đàn ông và đàn
bà không còn đó nữa, căng thẳng đó không còn đó nữa;
đấy là việc thảnh thơi hoàn toàn. Họ cả hai đã tan chảy
vào lẫn nhau. Họ đã không thành hình nữa, họ đã đi tới
một trạng thái không thể nào được xác định. Người đàn
ông không thể nào nói ‘tôi’, người đàn bà không thể nào
nói ‘tôi’; họ không còn cái ‘tôi’ nữa, họ không còn bản
ngã nữa - bởi vì bản ngã bao giờ cũng trong xung đột,
bản ngã tồn tại qua xung đột, nó không thể nào tồn tại mà
không có xung đột. Trong khoảnh khắc cực thích đó thì
không còn bản ngã nào nữa. Do đó mới có cái đẹp của
nó, do đó mới có cực lạc về nó, do đó mới có phẩm chất
tựa samadhi của nó.
Nhưng điều đó chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc.
Nhưng thậm chí khoảnh khắc đó, chỉ một khoảnh khắc
về nó, cũng còn giá trị hơn toàn bộ cuộc đời bạn - bởi vì
trong khoảnh khắc đó bạn tới gần nhất với chân lí. Đàn
ông và đàn bà không còn tách biệt nữa; đây là một cực.
Âm và dương, tích cực và tiêu cực, ngày và đêm, mùa hè
và mùa đông, sống và chết - đấy là các cực. Khi ‘có’ và
‘không’ gặp nhau, khi các phía đối lập gặp nhau và
không còn đối lập nữa, khi chúng đi vào lẫn nhau và tan
biến trong nhau, có cực thích. Cực thích là sự gặp gỡ của
có và không. Nó không đồng nhất với không; nó vượt ra
ngoài có và không.
Theo một nghĩa nào đó thì nó vượt ra ngoài cả hai;
theo một nghĩa nào đó thì nó lại là cả hai, đồng thời. Việc
hội nhập của âm và dương là định nghĩa của cái không.
Và đó là định nghĩa của cực thích nữa, và đó là định
nghĩa của samadhi nữa. Bạn để điều đó được ghi nhớ.
Việc đồng nhất của có và không là bí mật của cái
trống rỗng, cái không, niết bàn. Cái trống rỗng không chỉ
là trống rỗng; nó là sự hiện diện, sự hiện diễn rất vững
chắc. Nó không loại trừ cái đối lập của nó; nó bao hàm
cái đối lập nó, nó tràn đầy cái đối lập của nó. Nó là cái
trống rỗng hoàn toàn, nó là cái trống rỗng tràn ngập. Nó
là sống động, dào dạt sống động, cực kì sống động. Cho
nên đừng bao giờ dù bất kì khoảnh khắc nào để cho từ
điển lừa dối bạn, nếu không bạn sẽ hiểu nhầm Phật.
Nếu bạn tra từ điển và tìm ý nghĩa của ‘cái không’,
thì bạn sẽ lỡ Phật. Từ điển chỉ định nghĩa cái không bình
thường, cái trống rỗng bình thường. Phật đang nói về cái
gì đó rất phi thường. Nếu bạn muốn biết nó, bạn sẽ phải
đi vào trong cuộc sống, vào trong một tình huống nào đó
mà có và không gặp nhau - thế thì bạn sẽ biết nó. Khi
thân thể và linh hồn gặp nhau, khi thế giới và Thượng đế
gặp nhau, khi các phía đối lập không còn là đối lập nữa -
chỉ thế thì bạn mới nếm trải hương vị của nó. Hương vị
của nó là hương vị của Đạo, của Thiền, của Hasidism,
của Yoga.
Từ yoga cũng có ý nghĩa. Nó nghĩa là tới cùng nhau.
Khi đàn ông và đàn bà gặp nhau, đấy là yoga: đến cùng
nhau, họ thực sự đến gần, họ bắt đầu tràn lấp và rồi họ biến mất vào nhau. Thế thì họ không là còn các trung tâm
nữa. Xung đột của các phía đối lập đã biến mất và chỉ có
thảnh thơi hoàn toàn.
Thảnh thơi này chỉ xảy ra trong khoảnh khắc giữa
đàn ông và đàn bà. Nhưng thảnh thơi này có thể xảy ra
với cái toàn bộ, với cái toàn thể, theo một cách vô thời
gian. Nó có thể xảy ra theo cách vĩnh hằng. Trong tình
yêu bạn chỉ là một giọt của cực lạc của nó. Trong cực lạc
bạn có toàn bộ đại dương tình yêu.
Cái không này có thể được đạt tới nếu không có mây
ý nghĩ trong bạn. Những ý nghĩ đó là mây đang cản trở
không gian bên trong của bạn, làm vướng víu không gian
bên trong của bạn. Bạn đã bao giờ quan sát bầu trời này
chưa? Vào mùa hè nó sạch sẽ và trong trẻo làm sao -
trong như pha lê - không một gợn mây. Và thế rồi mưa
tới, hàng nghìn đám mây tới, và toàn bộ trái đất bị bao
quanh bởi mây. Mặt trời biến mất, bầu trời không còn
sẵn đó nữa. Đây là trạng thái của tâm trí: tâm trí thường
xuyên bị mây bao phủ. Nó là mùa mưa của tâm thức bạn;
mặt trời không sẵn đấy, ánh sáng bị che khuất, cản trở, và
tính thuần khiết của không gian và tính tự do của không
gian không còn sẵn đó nữa. Tại mọi nơi bạn thấy mình bị
xác định bởi những đám mây.
Khi bạn nói, “Tôi là người Hindu,” bạn đang nói gì
vậy? Bạn bị một đám mây bắt giữ, ý nghĩ rằng bạn là
người Hindu. Khi bạn nói, “Tôi là người Mô ha mét
giáo” - hay Ki tô giáo hay Jaina - bạn đang nói gì vậy?
Bạn đang trở nên đồng nhất với đám mây-ý nghĩ, bạn
đang làm mất cái thuần khiết của mình. Đó là lí do tại
sao tôi nói người tôn giáo thì không là Hinđu giáo, không
Mô ha mét giáo, không Ki tô giáo - người ấy không thể
như vậy được. Người ấy là mùa hè của tâm thức, người
ấy không có đám mây nào: mặt trời có đó, chói lọi,
không bị cản trở, và có không gian vô hạn bao quanh
người đó, có im lặng bao quanh người đó. Bạn sẽ không
tìm thấy rung động của tâm thức mây phủ.
Khi bạn nói, “Tôi là người cộng sản,” bạn đang nói
gì vậy? Bạn đang nói rằng bạn đã đọc Karl Marx, Lenin,
Stalin, Mao; rằng bạn đã trở nên quá gắn bó với Tư bản
luận Das Kapital; rằng bạn đã trở nên đồng nhất với cái ý
tưởng về đấu tranh giai cấp - người nghèo và người giầu
và xung đột; rằng bạn đã trở thành quá bị hấp dẫn, bị thôi
miên bởi giấc mơ, xã hội không tưởng: rằng một ngày
nào đó trong tương lai, xã hội phi giai cấp sẽ có thể được
tạo ra; rằng bạn đã trở thành quá bị ám ảnh với cái xã hội
này và bạn sẵn sàng làm bất kì điều gì vì nó. Ngay cả nếu
bạn phải giết hàng triệu người, bạn cũng sẵn sàng - vì
mục đích riêng của họ, vì cái tốt riêng của họ. Đây là
trạng thái bị mây che phủ.
Khi bạn nói, “Tôi là người Ấn Độ,” lần nữa lại cũng
cùng vấn đề ấy. Khi bạn nói, “Tôi là người Trung quốc,”
lần nữa đấy lại là cùng vấn đề. Nếu bạn thực sự muốn là
người tôn giáo, bạn sẽ phải loại bỏ những đồng nhất này
dần dần. Không ý tưởng nào được chiếm giữ bạn. Không
sách nào nên là Kinh thánh của bạn! Không Veda nào
nên xác định ra bạn, không Gita nào nên tạo khuôn bạn.
Bạn không nên cho phép bất kì triết lí nào, thượng đế học
nào, học thuyết nào, lí thuyết nào, giả thuyết nào chen
chúc len vào bạn. Bạn không nên cho phép bất kì đám
khói bụi nào bao quanh ngọn lửa tâm thức. Chỉ thế thì
bạn mới là người tôn giáo.
Nếu bạn hỏi một người tôn giáo anh ta là ai, anh ta
chỉ có thể nói, “Tôi là cái không,” bởi vì cái không không phải là ý tưởng, nó không phải là lí thuyết. Nó đơn giản
chỉ ra trạng thái thuần khiết.
Nhớ lấy, cảm nhận chẳng liên quan gì tới tri thức.
Trong thực tế, khi bạn cảm nhận qua tri thức, bạn không
cảm nhận đúng. Tất cả các tri thức đều tạo ra phóng
chiếu. Tri thức là thiên lệch, tri thức là định kiến. Tri
thức là kết luận - bạn đã kết luận ngay trước khi bạn đi
vào trong nó.
Chẳng hạn, nếu bạn đến với tôi bằng một kết luận đã
có trong tâm trí - nó có thể là ủng hộ tôi, nó có thể là
chống tôi, điều đó chẳng thành vấn đề - nếu bạn đến với
tôi bằng kết luận, bạn đến cùng với một đám mây. Thế
thì bạn cứ nhìn vào tôi qua đám mây của bạn, và một
cách tự nhiên đám mây của bạn sẽ soi bóng lên tôi. Nếu
bạn tới với ý tưởng, “Đây là một người đúng,” bạn sẽ
thấy cái gì đó cứ hỗ trợ cho ý tưởng này của bạn. Nếu
bạn đến với ý tưởng, “Đây là người sai trái, nguy hiểm,
quỉ quái,” thế thì bạn sẽ cứ tìm ra cái gì đó hỗ trợ cho ý
tưởng này của bạn.
Bất kì ý tưởng nào bạn đem tới cũng đều tự tồn tại
mãi, nó cứ tìm ra bằng chứng cho chính nó. Và người đã
tới với định kiến sẽ làm cho định kiến của mình mạnh
thêm mãi. Trong thực tế, người ấy chưa bao giờ tới tôi
cả.
Để tới với tôi người ta cần phải không bị mây che
phủ, không định kiến nào dù ủng hộ hay chống đối,
không đánh giá nào trước. Bạn chỉ tới để xem cái gì có
đó, bạn không mang bất kì ý kiến nào. Bạn đã nghe thấy
nhiều điều nhưng bạn không tin vào chúng. Bạn đơn giản
tới để thấy bằng chính mắt mình, bạn tới để cảm bằng
chính trái tim mình. Đó là phẩm chất của người tôn giáo.
Và nếu bạn muốn biết về chân lí, bạn sẽ phải loại bỏ
tất cả mọi loại tri thức bạn đã thu thập qua nhiều thời đại,
trong nhiều, nhiều kiếp sống. Bất kì khi nào ai đó đi tới
chân lí với tri thức, người ấy đều không thể nào thấy
được nó, người ấy mù. Tri thức làm bạn mù. Nếu bạn
muốn có đôi mắt sáng tỏ, loại bỏ tri thức đi. Cảm nhận
chẳng liên quan gì tới tri thức cả.
Chân lí và tri thức không đi đôi với nhau. Tri thức
không thể chứa đựng được cái mênh mông của cuộc sống
và sự tồn tại. Tri thức quá tí hon, quá nhỏ nhoi, còn sự
tồn tại bao la, khổng lồ làm sao - làm sao nó có thể hàm
chứa được sự tồn tại? Nó không thể hàm chứa được. Và
nếu bạn buộc sự tồn tại vào khuôn mẫu tri thức của mình,
bạn sẽ phá huỷ cái đẹp của nó và bạn sẽ phá huỷ chân lí
của nó. Một khi sự tồn tại bị biến cải vào trong tri thức,
nó không còn là sự tồn tại nữa. Cứ dường như một người
đang mang tấm bản đồ Ấn Độ và nghĩ rằng mình đang
mang Ấn Độ. Không bản đồ nào có thể chứa nổi Ấn Độ.
Bức tranh mặt trăng không phải là mặt trăng. Từ
thượng đế không phải là Thượng đế; từ tình yêu không
phải là tình yêu. Không từ nào có thể hàm chứa những
cái bí ẩn của cuộc sống. Và tri thức thì không là gì ngoài
những lời, lời và lời. Tri thức là ảo tưởng lớn. Đó là lí do
tại sao Phật nói: cho phép cái không lắng đọng trong bạn.
Cái không nghĩa là trạng thái của không biết, trạng
thái không đám mây nào nổi trong tâm thức bạn. Khi tâm
thức bạn không mây phủ, thế thì có cái không. Không có
gì đi đôi hoàn hảo với chân lí - chỉ không có gì mới đi
đôi hoàn hảo với chân lí. Tri thức không thể nào hàm
chứa cái bí ẩn của sự hiện hữu; tri thức chống lại bí ẩn.
‘Bí ẩn’ có nghĩa là cái không biết, là cái không thể nào
biết được, là cái mà về bản chất, cơ bản, chủ chốt là không thể biết được - không chỉ không biết, mà không
thể nào biết nổi. Làm sao cái không thể nào biết nổi lại
có thể bị thu gọn lại thành tri thức? Tri thức cứ đi thu
nhặt đá cuội trên bãi cát và cứ bỏ lỡ kim cương. Tri thức
là cái tầm thường, vay mượn, chưa bao giờ là chân thực,
chưa bao giờ là nguyên bản. Để biết chân lí bạn cần sáng
suốt, sáng suốt nguyên thuỷ. Bạn cần đôi mắt có thể thấy
thấu suốt; bạn cần cái nhìn trong suốt.
Cho nên chỉ khi tâm trí hoàn toàn đã bị lột bỏ hết trí
thức, trống rỗng tri thức, nó đi tới việc biết. Khi không có
tri thức, thì lại có tri thức, bởi vì khi không có tri thức thì
có việc biết. Khi tâm trí hoàn toàn trần trụi khỏi tri thức,
không che đậy, im lặng, không vận hành, khi tâm trí
trong chờ đợi, không ý tưởng về cái gì, chỉ là chờ đợi
thuần khiết, trông đợi nhưng không biết vì cái gì, chờ đợi
vị khách nhưng không có ý tưởng nào, chờ đợi tiếng gõ
cửa của vị khách với cánh cửa mở và không ý tưởng về
vị khác này là ai... Làm sao bạn có thể biết điều đó trước
được?
Nếu bạn mang một bản kế hoạch về Thượng đế thì
bạn sẽ cứ làm lỡ Thượng đế - bởi vì bạn chưa từng biết
tới ngài trước đây. Quả vậy, người khác đã biết, nhưng
bất kì điều gì họ đã nói đều chỉ là bản đồ. Tôi chỉ có thể
trao cho bạn chiếc bản đồ. Tất cả tri thức đều là bản đồ.
Đừng bắt đầu tôn thờ bản đồ, đừng bắt đầu tạo ra đền đài
quanh bản đồ. Đấy chính là cách thức mà đền đài đã
được tạo ra. Đền này được dành cho Veda, đền kia cho
Kinh thánh, đền nọ cho Koran - toàn những bản đồ!
Không có quốc gia thực nào cả, chúng chỉ là các sơ đồ.
Khi tôi nói điều gì đó cho bạn, tôi phải dùng lời. Lời đạt
tới bạn, bạn nhảy vào lời, bạn bắt đầu tích trữ lời - tâm trí
là kẻ tích trữ lớn - và thế thì bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn
biết.
Đây không phải là cách biết. Cách biết là vứt bỏ tất
cả tri thức. Và vứt bỏ nó trong một cú ném! Đừng đi
chậm chạp, dần dần. Nếu bạn thấy ra vấn đề, nó có thể
xảy ra ngay chính khoảnh khắc này. Trong thực tế, thấy
được vấn đề là để cho nó xảy ra. Bạn chẳng cần cái gì
đặc biệt cả, bạn không cần thậm chí cả việc loại bỏ tri
thức. Chỉ nhìn thấy vấn đề rằng tri thức không thể làm
cho bạn thành người biết - trong thực tế nó sẽ cản trở bạn
- thấy điều này, là cách mạng... thấy điều này, là biến
đổi.
Cho nên khi tâm trí trần trụi, im lặng, không vận
hành, trong chờ đợi hoàn toàn, thế thì chân lí tới. Thế thì
có chân lí. Nó không cần đến từ đâu cả, nó bao giờ cũng
có đó. Nhưng bạn đã quá tràn đầy với tri thức, do đó bạn
cứ làm lỡ nó.
Cái không có thể biết tới chân lí bởi vì trong cái
không thì thông minh vận hành toàn bộ. Chỉ trong cái
không thì thông minh mới vận hành toàn bộ. Đó là lí do
tại sao - bạn thấy phép mầu đấy! - trẻ con thông minh
làm sao còn người già, dần dần, trở nên trì trệ thế. Trẻ
con học mọi thứ nhanh thế! Bạn càng trở nên già hơn,
càng khó học hơn. Nếu bạn già và bạn muốn học tiếng
Trung quốc, bạn sẽ mất ba mươi năm; còn đứa trẻ chỉ
học mất hai hay ba năm.
Bây giờ các nhà khoa học nói rằng đứa trẻ có thể học
ít nhất bốn ngôn ngữ rất dễ dàng nếu nó được đặt vào
bốn ngôn ngữ - rất dễ dàng! Đây là tối thiểu. Số tối đa thì
còn chưa quyết định được: một đứa trẻ có thể cùng học
được bao nhiêu ngôn ngữ nếu nó được đặt vào các ngôn ngữ đó. Điều này đã xảy ra! Nếu một gia đình là đa ngữ
thì điều này xảy ra rất dễ dàng. Nếu thành phố là đa ngữ
thì điều đó xảy ra rất dễ dàng. Tại Bombay điều đó xảy
ra rất dễ dàng: trẻ con sẽ học tiếng Hindu, tiếng Anh,
tiếng Marathi, Gujarati, rất dễ dàng. Trẻ con chỉ cần được
đặt vào hoàn cảnh. Nó thông minh tới mức nó lập tức
thấy ra vấn đề về điều đó và học điều đó. Bạn càng già
thêm, càng khó khăn hơn.
Người ta nói sẽ rất khó dạy người già các trò mới.
Không nhất thiết là như vậy! Nếu bạn vẫn còn là cái
không, thế thì không nhất thiết là như vậy - bởi vì thế thì
bạn vẫn còn là đứa trẻ trong toàn bộ cuộc sống của mình.
Socrates là đứa trẻ thậm chí cả lúc chết, bởi vì ông ấy
vẫn còn mong manh, cởi mở, sẵn sàng để học; sẵn sàng
học ngay cả từ cái chết! Khi ông ấy nằm trên giường chết
và thuốc độc đang được chuẩn bị - vào lúc sáu giờ ông ấy
sẽ được cho uống thuốc độc, ngay khi mặt trời lên - ông
ấy kích động thế, giống như một đứa trẻ. Đệ tử của ông
ấy đang kêu khóc, còn ông ấy thì kích động thế. Ông ấy
cứ nhỏm dậy đi nhỏm dậy lại và đi ra hỏi người chuẩn bị
thuốc độc: “Phải mất bao lâu mới pha chế xong?” - mắt
ông ấy tò mò làm sao. Mà người này lại sắp chết! - đây
không phải là lúc để tò mò thế. Người này đang sắp thở
hơi thở cuối cùng trong vài phút nữa, và ông ấy kích
động thế, cực lạc thế. Một đệ tử hỏi, “Thầy kích động thế
là vì cái gì vậy? Thầy đang sắp chết!” Còn Socrates thì
nói, “Ta đã biết cuộc sống, và ta đã học được nhiều từ
cuộc sống. Bây giờ ta muốn biết cái chết và học từ cái
chết. Đó là lí do tại sao ta kích động.”
Ngay cả cái chết cũng trở thành kinh nghiệm lớn cho
người hồn nhiên. Socrates là hồn nhiên. Phương Tây
chưa tạo ra được một người khác sánh được với Socrates.
Socrates là Phật của phương Tây.
Bạn bao giờ cũng có thể vẫn còn có khả năng học
nếu bạn vẫn còn là đứa trẻ. Điều gì tạo ra trì trệ trong
bạn, đần đồn, tầm thường? Tri thức. Bạn tích luỹ tri thức;
bạn trở thành ngày càng ít có khả năng biết.
Từ bỏ tri thức đi! Tôi dạy bạn từ bỏ tri thức. Tôi
không dạy bạn từ bỏ thế giới; điều đó là đần độn, xuẩn
ngốc, vô nghĩa! Tôi dạy bạn từ bỏ tri thức. Và điều kì lạ
xảy ra...
Tôi đã bắt gặp những người từ bỏ thế giới. Trong
rặng Himalayas tôi đã gặp một tu sĩ Hindu - rất già, ông
ấy phải đã chín mươi tuổi hay còn hơn nữa. Trong suốt
bẩy mươi năm ông ấy đã là một sannyasin, trong bẩy
mươi năm ông ấy đã sống bên ngoài xã hội. Ông ấy đã từ
bỏ xã hội, ông ấy đã không quay lại đồng bằng trong bẩy
mươi năm. Khi ông ấy mới chỉ là một thanh niên hai
mươi tuổi, ông ấy lên Himalayas, và ông ấy đã không
quay trở lại quê hương lần nữa. Ông ấy chưa bao giờ trở
lại trong đám đông, nhưng ông ấy vẫn là một người
Hindu. Ông ấy vẫn nghĩ về bản thân mình như một người
Hindu.
Tôi bảo ông ấy, “Ông từ bỏ xã hội nhưng ông không
từ bỏ tri thức của ông, và tri thức thì do xã hội trao cho.
Ông vẫn là người Hindu. Ông vẫn là đám đông - bởi vì là
người Hindu chính là đám đông. Ông vẫn chưa là một cá
nhân; ông vẫn chưa trở thành không.”
Ông ấy này hiểu ra. Ông ấy bắt đầu khóc. Ông ấy
nói, “Chẳng ai nói điều này cho tôi cả.”
Bạn có thể từ bỏ xã hội, bạn có thể từ bỏ của cải, bạn
có thể từ bỏ vợ, con, chồng, gia đình, bố mẹ - điều ấy thật dễ dàng, chẳng có gì nhiều trong đó cả. Điều thực sự
là từ bỏ tri thức. Những điều này là ở bên ngoài bạn, bạn
có thể trốn thoát khỏi chúng - nhưng bạn sẽ trốn ở đâu và
làm thế nào để thoát khỏi cái gì đó ở bên trong bạn, cái
vẫn bám ở đó? Cái đó sẽ đi với bạn. Bạn có thể lên hang
động Himalayas mà bạn thì vẫn cứ còn là một người
Hindu, bạn vẫn cứ còn là người Mô ha mét giáo, bạn vẫn
cứ còn là người Ki tô giáo. Thế thì bạn sẽ không thể nào
thấy được cái đẹp và chân lí của Himalayas. Bạn sẽ
không thể thấy được cái trong trắng của Himalayas.
Người Hindu không thể nào thấy được nó, người Hindu
là mù quáng.
Là người Hindu có nghĩa là mù quáng; là người Mô
ha mét giáo có nghĩa là mù quáng. Bạn có thể dùng các
công cụ khác nhau để trở thành mù quáng, điều đó cũng
chẳng thành vấn đề. Người này mù vì Koran, người khác
mù vì Bhagava Gita, và ai đó khác mù vì Kinh thánh -
nhưng đôi mắt đầy tri thức.
Phật nói: Cái không cho phép thông minh vận hành.
Từ phật bắt nguồn từ buddhi - nó có nghĩa là thông
minh. Khi bạn là không, khi không có gì hàm chứa bạn,
khi không có gì xác định bạn, khi không có gì chứa đựng
bạn, khi bạn chỉ là sự cởi mở, thế thì có thông minh. Tại
sao? - vì khi bạn là không thì sợ hãi tan biến, và khi sợ
hãi tan biến, bạn vận hành một cách thông minh. Nếu cái
sợ có đó, bạn không thể vận hành một cách thông minh
được. Sợ hãi làm bạn què quặt, làm tê liệt bạn.
Bạn cứ làm mọi thứ bởi vì sợ hãi; đó là lí do tại sao
bạn không thể trở thành vị Phật, mà chính là quyền tập
ấm của bạn! Bạn là đức hạnh do sợ hãi, bạn cứ tới đền
đài bởi vì sợ hãi, bạn tuân theo lễ nghi nào đó bởi vì sợ
hãi, bạn cầu nguyện Thượng đế bởi vì sợ hãi. Và người
sống trong sợ hãi thì không thể nào thông minh được. Sợ
hãi là chất độc đối với thông minh. Làm sao bạn có thể
thông minh nếu có sợ hãi? Sợ hãi cứ kéo bạn theo đủ mọi
cách khác nhau. Nó sẽ không cho phép bạn được dũng
cảm, nó sẽ không cho phép bạn bước vào trong cái chưa
biết, nó sẽ không cho phép bạn trở thành người phiêu
lưu, nó sẽ không cho phép bạn rời khỏi bãi rào, đám
đông. Nó sẽ không cho phép bạn trở thành độc lập, tự do;
nó sẽ giữ bạn là nô lệ. Và chúng ta là nô lệ theo biết bao
nhiêu cách. Việc nô lệ của chúng ta là đa chiều: chính trị,
tâm linh, tôn giáo, theo đủ mọi cách chúng ta là nô lệ, và
sợ hãi là gốc rễ của nó.
Bạn không biết liệu Thượng đế có tồn tại hay không,
và bạn vẫn cầu nguyện sao? Điều này là rất không thông
minh, điều này là xuẩn ngốc. Bạn cầu nguyện ai? Bạn
không biết liệu Thượng đế có hay là không. Bạn không
có bất kì tin cậy nào, bởi vì làm sao bạn có thể có bất kì
tin cậy nào được? - bạn đâu đã biết. Cho nên chỉ từ sợ hãi
mà bạn cứ níu bám lấy ý tưởng về Thượng đế. Bạn đã
từng quan sát nó chưa? - khi nào bạn có nhiều sợ hãi, bạn
nhớ tới Thượng đế nhiều hơn. Khi ai đó chết, bạn bắt đầu
nhớ.
Tôi đã biết một người đi theo J. Krishnamurti; ông ấy
là một học giả rất nổi tiếng, cả nước này đều biết tới. Và
trong ít nhất bốn mươi năm ông ấy là là một người đi
theo Krishnamurti, cho nên ông ấy không tin vào Thượng
đế, ông ấy không tin vào thiền, ông ấy không tin vào cầu
nguyện.
Thế rồi một hôm việc xảy ra là ông ấy ngã bệnh, ông
ấy bị đau tim. Vào dịp ấy tôi cũng ở cùng thành phố đó.
Con trai ông ấy gọi điện cho tôi và nói, “Bố con đang trong tình trạng nguy kịch. Nếu thầy có thể tới thì sẽ là
niềm động viên rất lớn cho ông. Đây có thể là những giây
phút cuối cùng của ông.”
Thế là tôi xô tới. Khi tôi vào trong phòng, ông ấy
đang nằm trên giường mắt nhắm nghiền lẩm bẩm,
“Rama, Rama, Rama.”
Tôi không thể nào tin vào điều đó được! Suốt bốn
mươi năm ông ấy đã liên tục nói, “Không có Thượng đế,
và tôi không tin...” Và điều gì đã xảy ra cho ông già này?
Tôi lay ông ấy dậy và hỏi, “Ông đang làm gì vậy?”
Ông ấy nói, “Đừng quấy rầy tôi. Để tôi làm điều tôi
muốn.”
Nhưng tôi nói, “Thế này thì chống lại Krishnamurti
quá lắm.”
Ông ấy nói, “Quên Krishnamurti đi! Tôi đang chết
mà ông lại nói về Krishnamurti sao?”
“Nhưng thế bốn mươi năm qua thì sao, phí hoài à?
Và ông chưa bao giờ tin rằng một japa - lời tụng - lại có
thể có ích, hay lời cầu nguyện lại có thể có ích.”
Ông ấy nói, “Vâng, điều đó đúng. Tôi đã chưa bao
giờ tin cả, nhưng bây giờ tôi đang đối mặt với cái chết.
Có sợ hãi lớn trong tôi. Có thể - ai mà biết được -
Thượng đế có thật, và trong vài phút tôi sẽ gặp ngài. Nếu
ngài không có, thế thì chẳng có vấn đề gì; chẳng có gì
mất bởi việc tôi tụng, ‘Rama, Rama’. Nếu ngài là có, thì
tôi được cái gì đó. Ít nhất thì tôi cũng có thể nói với ngài,
‘Vào khoảnh khắc cuối tôi đã nhớ tới ngài.’”
Bạn có quan sát điều đấy không? - bất kì khi nào bạn
khổ thì bạn bắt đầu nhớ tới Thượng đế nhiều hơn. Khi
bạn đang trong nguy hiểm, bạn nhớ tới Thượng đế. Khi
bạn hạnh phúc và mọi thứ diễn ra trôi chảy, bạn quên hết
về Thượng đế. Thượng đế của bạn chẳng là gì ngoài sợ
hãi của bạn được phóng chiếu ra.
Phật nói: từ sợ hãi không có khả năng thông minh
nào cả. Và sợ hãi có đó bởi một lí do rất nền tảng - vì bạn
nghĩ bạn có đó! Đó là lí do tại sao có sợ hãi. Bản ngã
đem theo sợ hãi như cái bóng. Bản thân bản ngã là ảo
tưởng, nhưng bản ngã phủ một cái bóng lớn lên cuộc
sống bạn. Bởi vì bạn nghĩ ‘tôi đây’, do đó mới có sợ hãi:
“Có thể nếu mình làm điều gì đó sai, mình sẽ bị ném vào
địa ngục, thế thì mình sẽ khổ.” Nếu bạn nghĩ ‘tôi đây’,
thế thì tự nhiên bạn nghĩ tới việc phải dự phòng cho cuộc
sống tương lai, cho thế giới khác - làm điều gì đó tốt, tích
luỹ thêm một chút punya.
Bạn biết đấy, tên của thành phố này - Poona - bắt
nguồn từ punya, đức hạnh. Tích luỹ thêm một chút đức
hạnh, tích luỹ thêm một cái gì đó trong tài khoản, trong
số dư ngân hàng của bạn để cho bạn có thể chỉ cho
Thượng đế: “Ngài nhìn đây này, con đã thực sự là một
đứa con tốt. Con đã làm những điều này: nhịn ăn biết bao
nhiêu ngày, chưa bao giờ nhìn vào bất kì người đàn bà
nào với con mắt ác độc, chưa bao giờ là kẻ cắp, đã đem
bao nhiêu tiền đi làm từ thiện cho ngôi đền này và nhà
thờ nọ. Con bao giờ cũng hành xử như con đã được trông
đợi làm như vậy.” Người ta bắt đầu tích luỹ đức hạnh chỉ
trong trường hợp nó được cần tới trong thế giới khác.
Nhưng đây là xuất phát từ cái sợ. Người tốt của bạn,
người xấu của bạn tất cả đều sống trong sợ hãi. Người
thông minh sống không sợ hãi. Nhưng để sống không sợ
hãi, bạn sẽ phải đi tới nhìn thẳng vào sự kiện của bản ngã
của bạn. Nếu không có bản ngã, nếu ‘tôi không có’, thế
thì sợ hãi có thể tồn tại ở đâu? Thế thì, “Tôi không thể bị ném vào địa ngục được bởi vì ngay từ đầu tôi đã không
có rồi, và tôi cũng không thể được thưởng trên cõi trời
bởi vì ngay từ đầu tôi đã không có rồi. Tôi không có, chỉ
Thượng đế là có, cho nên làm sao tôi có thể là tội nhân
hay thánh nhân được? Nếu chỉ Thượng đế là có thế thì
cái gì có đó để cho tôi phải sợ? Tôi đã không được sinh
ra, bởi vì ngay từ đầu tôi đã không có; và tôi sẽ không
chết, bởi vì ngay từ đầu tôi đã không có. Cho nên không
sinh, không diệt. Tôi không tách biệt, tôi là một với sự
tồn tại này. Như một con sóng tôi có thể biến mất, nhưng
như đại dương thì tôi sẽ sống. Và đại dương là thực tại,
con sóng là bất kì.”
Cái không không biết đến cái sợ, cái tham lam, tham
vọng, bạo hành. Cái không không biết đến tầm thường,
ngu si, xuẩn ngốc. Cái không không biết địa ngục, cõi
trời. Và bởi vì không có cái sợ, cho nên có thông minh.
Đây là một trong những phát biểu vĩ đại cần phải ghi
nhớ: thông minh là khi không có cái sợ. Thế thì hành
động có phẩm chất hoàn toàn khác cho nó. Khi bạn hành
động từ cái không của mình, hành động đó có phẩm chất
hoàn toàn khác cho nó. Đấy là điều thiêng liêng, đấy là
điều thần thánh. Tại sao? - bởi vì khi bạn hành động từ
cái không, đấy không phải là phản ứng, khi bạn hành
động từ cái không, đấy không phải là kế hoạch, khi bạn
hành động từ cái không, đấy không phải là diễn tập. Khi
bạn hành động từ cái không, đấy là tự phát, thế thì bạn
sống khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Bạn là cái
không: tình huống nảy sinh và bạn đáp ứng cho nó. Nếu
bạn là bản ngã, bạn chẳng bao giờ đáp ứng, bạn bao giờ
cũng phản ứng.
Để tôi giải thích điều đó cho bạn. Khi bạn là bản ngã
bạn bao giờ cũng phản ứng. Chẳng hạn, nếu bạn nghĩ bạn
là người rất, rất tốt, bạn nghĩ bạn là thánh nhân, và thế rồi
một cái gì đó xảy ra - một ai đó xúc phạm bạn - bây giờ,
bạn sẽ đáp ứng cho xúc phạm này hay phản ứng lại? Nếu
bạn nghĩ bạn là thánh nhân, bạn sẽ nghĩ ba lần về cách
phản ứng, bạn phải làm gì để cứu tính chất thánh của
mình nữa; nếu không thì người này có thể phá huỷ tính
chất thánh đó chỉ bằng việc xúc phạm bạn. Bạn không
thể tự phát được, bạn phải nhìn lại, bạn phải cân nhắc về
nó. Và thời gian trôi qua. Nó thậm chí có thể chỉ là một
khoảnh khắc, nhưng thời gian trôi qua. Nó không thể nào
tự phát, nó không thể nào trong khoảnh khắc được. Và
bạn hành động từ quá khứ. Bạn nghĩ, “Thế này thì quá
lắm. Nếu mình mà giận dữ” - và giận dữ đang tới - “nếu
mình trở nên giận dữ, tính chất thánh của mình sẽ bị mất.
Thế thì phải trả giá đắt quá cho điều này”... bạn bắt đầu
mỉm cười. Để cứu lấy tính chất thánh của mình bạn mỉm
cười.
Nụ cười này là giả tạo; nó không đến từ bạn, nó
không đến từ trái tim bạn. Nó chỉ có đó, sơn vẽ lên môi.
Nó là giả. Bạn không mỉm cười, đấy chỉ cái mặt nạ của
bạn mỉm cười mà thôi. Bạn đang lừa dối. Bạn là nhà thôi
miên! Bạn là giả! Bạn là đồ rởm! Nhưng bạn đã cứu
được tính chất thánh của mình: bạn hành động từ quá
khứ, từ hình ảnh đặc biệt của mình và ý tưởng về con
người mình. Đây là phản ứng.
Con người của tự phát thì không phản ứng, người ấy
đáp ứng. Khác biệt là gì? Người ấy chỉ cho phép tình
huống vận hành trên mình, và người ấy cho phép việc
đáp ứng xảy ra, dù nó là cái gì.
Người sống từ quá khứ là dự kiến trước được, còn
người sống khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia thì
không dự đoán được. Và dự đoán được là trở thành vật. 

Là không dự đoán được thì là tự do - đó là chân giá trị
của con người. Cái ngày bạn là người không dự đoán
được... chẳng ai biết được, kể cả bạn; nhớ lấy, kể cả
bạn... Nếu bạn đã biết bạn sẽ làm cái gì, thế thì không
còn đáp ứng nữa. Bạn đã sẵn sàng, đấy là việc diễn tập.
Chẳng hạn, bạn sắp đi phỏng vấn. Bạn liền diễn tập:
bạn nghĩ cái gì sẽ được hỏi và cách bạn sẽ trả lời nó.
Điều ấy xảy ra hàng ngày, nó rõ ràng làm sao. Tối nào tôi
cũng thấy mọi người - cả hai loại người đều có đó: khi ai
đó tới đây mà đã được chuẩn bị sẵn, đã nghĩ sẵn về điều
người đó định nói với tôi, đã chuẩn bị nó sẵn sàng; bài
viết đã sẵn đấy, anh ta chỉ việc lặp lại nó, anh ta đã quyết
định mọi thứ về điều anh ta định hỏi. Và tôi có thể thấy
khó khăn của người này, bởi vì khi anh ta tới trước tôi,
khi anh ta ngồi cạnh tôi, đấy lại là một tình huống khác.
Và thay đổi bắt đầu xảy ra. Bầu không khí, sự hiện diện,
tình yêu của người ấy với tôi, tình yêu của tôi với người
ấy, sự hiện diện của người khác, tin cậy có đó rất hiển
nhiên, tình yêu đang tuôn chảy, trạng thái thiền - và điều
đó hoàn toàn khác với cái anh ta đã nghĩ từ trước. Bây
giờ bất kì cái gì anh ta đã chuẩn bị đều có vẻ chẳng liên
quan gì nữa; nó không thích hợp. Anh ta trở nên bồn
chồn, bất ổn - “Phải làm gì đây?” Và anh ta chẳng biết
làm sao hành động một cách tự phát, làm sao hành động
từ tình huống này.
Anh ta đến trước tôi nhưng tôi thấy cái giả tạo của
nó. Câu hỏi của anh ta không xuất phát từ trái tim anh ta.
Nó chỉ thoát ra từ cổ họng, nó không có chiều sâu. Tiếng
nói của anh ta không có chiều sâu. Bản thân anh ta không
chắc chắn liệu anh ta muốn hỏi nó thêm nữa hay không,
nhưng anh ta đã chuẩn bị nó, có thể nhiều ngày. Cho nên
tâm trí cứ nói, “Hỏi đi. Mình đã chuẩn bị về nó rồi.” Và
anh ta thấy cái chẳng liên can gì của nó. Có thể nó đã
được trả lời rồi. Có thể trong câu trả lời cho ai đó khác
tôi đã trả lời nó rồi. Có thể chính tình huống là ở chỗ tâm
trí anh ta đã thay đổi và câu hỏi không còn có nghĩa nữa.
Nhưng anh ta hành động từ quá khứ: đó là phản ứng. Nó
sẽ có vẻ vụng về. Anh ta cảm thấy bối rối nếu anh ta
không có gì để hỏi. Và anh ta không thể lên tiếng bởi vì
anh ta là người rởm, mà anh ta cũng không thể đơn giản
nói, “Xin chào,” anh ta không thể nói, “Con muốn chỉ
ngồi trước thầy một phút thôi, và con chẳng có gì để nói
cả.” Anh ta không thể nào hành động từ khoảnh khắc
này. Anh ta không thể ở đây và bây giờ; anh ta cảm thấy
bối rối. Anh ta phải hỏi, nếu không thì mọi người sẽ nghĩ
gì? - “Thế thì tại sao, ngay chỗ đầu tiên, anh đã yêu cầu
được trả lời nếu anh chẳng có gì để hỏi cả?” Cho nên anh
ta hỏi. Anh ta không còn đứng sau nó. Đấy là một câu
hỏi cũ rích vô giá trị mà chẳng có nghĩa lí gì - nhưng anh
ta cứ hỏi.
Và đôi khi - bạn có thể đã từng quan sát - với vài
người tôi cứ trả lời mãi và để thời gian rất lâu, còn đối
với một vài người tôi trả lời một cách rất ngắn ngủi. Bất
kì khi nào tôi thấy rằng ai đó là rởm, câu hỏi của người
ấy là rởm, là một câu hỏi đã chuẩn bị sẵn, thế thì thật là
vô nghĩa mà trả lời anh ta. Chỉ vì tôn trọng anh ta mà tôi
nói đôi chút với anh ấy, nhưng tôi không còn quan tâm
nữa. Và người hỏi câu hỏi rởm cũng chẳng quan tâm tới
điều tôi đang nói - bởi vì người ấy thậm chí còn không
quan tâm tới câu hỏi của mình, thì làm sao người ấy có
thể quan tâm tới câu trả lời được?
Nhưng còn có những người khác... dần dần cái rởm
đó biến mất và sannyasin ngày càng trở nên đúng hơn,
chân thực hơn. Thế thì ai đó đơn giản ngồi đó mà cười to. 

Đó là điều xảy ra trong khoảnh khắc đó. Người ấy không
cảm thấy bối rối, người ấy không cảm thấy rằng không
đúng chỗ. Khong phải như vậy. Bản chuẩn bị sẵn là
không đúng chỗ.
Đối diện với cái không, bạn cũng phải là không. Chỉ
thế thì mới có thể có gặp gỡ, bởi vì chỉ những điều tương
tự mới có thể gặp nhau. Thế thì có niềm vui lớn, thế thì
có cái đẹp lớn. Thế thì có đối thoại. Có thể không một lời
thốt ra, nhưng có đối thoại. Đôi khi ai đó tới và đơn giản
ngồi và bắt đầu lắc lư, nhắm mắt, đi vào bên trong - đó là
cách tới với tôi; người ấy chỉ đi vào bên trong mình và
đơn giản nhảy vào tôi và cho phép tôi nhảy vào người ấy,
hoặc đơn giản chạm chân tôi, hay đơn giản nhìn vào mắt
tôi. Hay đôi khi một câu hỏi lớn cũng nảy sinh, nhưng
đấy là trong khoảnh khắc đó - thế thì nó là đúng, thế thì
nó có sức mạnh mênh mông, thế thì nó tới từ chính cốt
lõi sâu xa nhất của bạn. Nó có liên quan.
Khi bạn hành động từ cái không, bạn đáp ứng; nó
không còn là phản ứng nữa. Nó có chân lí, nó có tính hợp
lệ trong nó, chân thực. Nó là sự tồn tại. Nó là tức khắc, tự
phát, đơn giản, hồn nhiên. Và hành động này không tạo
ra nghiệp nào.
Nhớ lấy, từ nghiệp karma có nghĩa là hành động, một
hành động đặc biệt. Không phải tất cả các hành động đều
tạo ra nghiệp, nhớ lấy. Phật đã sống sau chứng ngộ của
mình trong bốn mươi hai năm. Ông ấy đã không ngồi cả
quãng thời gian đó dưới cây bồ đề mà không làm gì cả.
Ông ấy đã làm cả nghìn lẻ một thứ, nhưng nghiệp không
được tạo ra. Ông ấy đã hành động! - nhưng đấy không
còn là phản ứng nữa, đấy là đáp ứng.
Nếu bạn đáp ứng từ cái không thì nó chẳng để lại cái
gì, nó không để lại dấu vết nào lên bạn, nghiệp không
được tạo ra. Bạn vẫn còn tự do. Bạn cứ hành động mà
bạn vẫn còn tự do. Cũng dường như là con chim bay trên
bầu trời, không để lại dấu vết nào, dấu chân nào. Người
sống trong bầu trời của cái không cũng không để lại dấu
chân nào, không để lại nghiệp nào, không để lại cái gì.
Hành động của người đó là toàn bộ, nó đã kết thúc, nó
trọn vẹn. Và một hành động trọn vẹn không treo quanh
bạn như mây; chỉ những hành động không trọn vẹn mới
lởn vởn quanh bạn.
Ai đó xúc phạm bạn - bạn muốn đánh người đó
nhưng bạn đã không làm. Bạn cứu tính thánh thiện của
mình, bạn mỉm cười và ban phúc cho người đó và về nhà.
Bây giờ thì vấn đề thành khó khăn: bây giờ cả đêm bạn
sẽ mơ rằng bạn đang đánh người đó. Bạn thậm chí còn có
thể giết người đó trong giấc mơ. Trong nhiều năm điều
đó sẽ lởn vởn quanh bạn; nó là không trọn vẹn. Bất kì cái
gì không trọn vẹn cũng đều nguy hiểm. Khi bạn là rởm
mọi thứ đều trở thành không trọn vẹn. Bạn yêu người đàn
bà nhưng không đủ để làm cho nó thành trọn vẹn. Ngay
cả trong khi làm tình bạn cũng không hoàn toàn có đấy;
có thể bạn vẫn đang diễn tập thôi. Có thể bạn đã đọc sách
nói về tình dục đang có sẵn. Có thể bạn đã đọc Kam
Sutra của Vatsyayana, hay Các thầy và Johnson hay Báo
cáo Kinsey, và bạn đã học cách làm tình. Và bạn đã sẵn
sàng, hiểu biết! Bây giờ người đàn bà này chỉ là cơ hội
để thực hành hiểu biết của bạn. Cho nên bạn đang thực
hành tri thức của mình, nhưng nó sẽ là không trọn vẹn
bởi vì bạn không có trong đó. Và thế thì nó là không thoả
mãn, thế thì bạn cảm thấy thất vọng - và nguyên nhân là
do tri thức bạn. 


Tình yêu không phải là cái gì đó được thực hành.
Tình yêu cần không bị thực hành; tình yêu phải được
sống, trong hoàn toàn hồn nhiên. Cuộc sống không phải
là vở kịch - bạn không cần chuẩn bị, bạn không cần đi
vào diễn tập cho nó. Để nó tới khi nó tới, và tự phát.
Nhưng làm sao bạn có thể tự phát nếu bản ngã có đó?
Bản ngã là nghệ sĩ lớn, bản ngã là chính khách lớn; bản
ngã cứ thao túng bạn. Bản ngã nói, “Nếu mình thực sự
muốn hành động theo cách lễ phép thì chuẩn bị là cần
thiết. Nếu mình muốn hành động theo cách có văn hoá
mình phải diễn tập nó trước.” Bản ngã là diễn viên, và
bởi vì diễn viên này mà bạn cứ làm lỡ vui vẻ, lễ hội, ân
huệ của cuộc sống.
Phật nói: Khi hành động phát xuất từ không thì nó
không tạo ra nghiệp. Thế thì nó là toàn bộ đến mức là
chính tính toàn bộ của nó... và vòng tròn là trọn vẹn và
kết thúc. Bạn chẳng bao giờ nhìn lại. Tại sao bạn cứ nhìn
lại mãi thế? - bởi vì có những thứ không trọn vẹn. Bất kì
khi nào cái gì đó là trọn vẹn, bạn không nhìn lại. Nó đã
kết thúc! Toàn bộ vấn đề đã đạt tới, không còn gì nữa
phải làm về nó. Hành động từ cái không và hành động
của bạn là toàn bộ, và hành động toàn bộ không để lại kí
ức nào - tôi muốn nói không kí ức tâm lí nào.
Kí ức bị bỏ lại trong bộ não, nhưng không có vẩn vơ
về tâm lí. Và người không có vẩn vơ nào, theo định nghĩa
của tôi là một sannyasin.
Khi hành động là hoàn toàn trọn vẹn, bạn tự do với
nó. Khi hành động là toàn bộ, bạn trượt ra ngoài nó -
giống như con rắn thoát ra khỏi lớp da cũ và lớp da cũ bị
bỏ lại sau. Chỉ những hành động không trọn vẹn mới trở
thành nghiệp, nhớ điều đó. Nhưng để có hành động trọn
vẹn, nó phải bắt nguồn từ cái không.
Có ba mức độ nhận biết: nhận biết về cái ta, nhận
biết về thế giới, và nhận biết về hoang tưởng chen giữa
cái ta và thế giới. Fritz Perls gọi mức trung gian này là
DMZ - vùng phi quân sự - và nó vận hành để giữ chúng
ta không là toàn bộ trong đụng chạm với chính mình và
với thế giới. DMZ chứa các định kiến của chúng ta, các
định kiến mà qua chúng, chúng ta nhìn thế giới và người
khác và chính bản thân chúng ta. Nếu chúng ta nhìn vào
thế giới qua thành kiến của mình, chúng ta không thể nào
thấy chân lí của nó. Chúng ta không thể nào thấy cái
đang đấy. Chúng ta tạo ra ảo tưởng - đó là điều người
Hindu gọi là ảo vọng maya.
Nếu chúng ta nhìn ra ngoài với ý chỉ trích, với định
kiến sẵn, thế thì chúng ta tạo ra thế giới của riêng mình,
chính là ảo vọng, ảo tưởng, phóng chiếu. Nếu chúng ta
nhìn vào chính mình qua những chỉ trích này cùng tri
thức và ý kiến, chúng ta tạo ra ảo tưởng khác - bản ngã.
Thế thì chúng ta không thể thấy được thực tại có đó bên
trong chúng ta. Chúng ta không thể thấy cái bên ngoài có
đấy, và chúng ta cũng không thể thấy được cái ở bên
trong đây. Khi bên ngoài bị lỡ, chúng ta tạo ra ảo tưởng,
ảo vọng; khi bên trong bị lỡ, chúng ta tạo ra bản ngã,
ahankar. Và cả hai điều này đều xảy ra qua DMZ - vùng
phi quân sự .
Gurdjieff quen gọi vùng này là ‘vùng đệm’. DMZ là
một cái tên hay cho nó. DMZ càng lớn, người này càng
bệnh hoạn, càng thần kinh. DMZ càng nhỏ, người này
càng mạnh khoẻ, cành lành mạnh về tâm lí. Và khi DMZ
hoàn toàn biến mất và không còn ý nghĩ nào chen vào
giữa bạn và thế giới - không một ý nghĩ - thì đó là điều Phật ngụ ý qua cái không. Thế thì người này hoàn toàn
lành mạnh, trong sạch, toàn bộ.
Trước khi chúng ta đi vào lời kinh này, cần thêm đôi
điều về bản ngã này. Ảo tưởng về cái ta cần phải được
hiểu.
Điều thứ nhất: bản ngã không phải là thực tại, nó chỉ
là ý tưởng. Bạn không đến với nó khi bạn đi vào trong
thế giới này, bạn không mang nó theo cùng mình. Nó
không phải là một phần con người bạn. Khi đứa trẻ được
sinh ra, nó không đem bản ngã vào trong thế giới. Bản
ngã là cái gì đó người đó học được, nó không phải là một
phần của gen.
Gordon Alport gọi cái ngã là proprium, và nó có thể
được định nghĩa bằng việc xem xét dạng tính từ
propriate, xem như một từ xấp xỉ. ‘Proprium’ nói tới cái
gì đó thuộc về hay là duy nhất cho một người. Cái ta
được tạo ra bởi vì từng cái không là duy nhất, mỗi cái
không có cách riêng của nó để nở hoa. Bởi tính duy nhất
này mà có khả năng tạo ra bản ngã.
Tôi yêu theo cách của tôi, bạn yêu theo cách của bạn.
Tôi hành xử theo cách của tôi, bạn hành xử theo cách của
bạn. Có khác biệt giữa mọi người, nhưng chỉ là khác biệt.
Hoa hồng nở hoa theo cách này còn hoa cúc vạn thọ nở
hoa theo cách khác, nhưng cả hai đều nở hoa. Việc nở
hoa là một, cái không là một. Những từng cái không lại
vận hành theo cách duy nhất. Bởi điều này mà có khả
năng tạo ra bản ngã.
Có bẩy cánh cửa mà từ đó bản ngã đi vào, bẩy cánh
cửa mà từ đó chúng ta học bản ngã. Những cánh cửa đó
cần phải được hiểu, bởi vì nếu bạn hiểu chúng, bạn sẽ có
khả năng loại bỏ bản ngã... bởi vì những cánh cửa này,
khi được hiểu thật đúng, có thể được khép lại. Thế thì
bản ngã không còn được tạo ra nữa. Được thấy đúng,
được hiểu thật rõ - rằng bản ngã chỉ là cái bóng - nó bắt
đầu biến mất theo ý nó.
Cánh cửa thứ nhất Alport gọi là ‘cái ta thân thể’.
Chúng ta không được sinh ra với cảm giác về cái ta. Đứa
trẻ trong bụng mẹ không có cảm giác về cái ta. Nó là một
với mẹ; nó hoàn toàn là một, được nối liền, được bắc cầu
với người mẹ. Và người mẹ là toàn bộ sự tồn tại của nó,
vũ trụ của nó. Nó không biết rằng nó là tách biệt. Tách
biệt tới khi đứa con ra khỏi bụng mẹ, khi cây cầu của nó
với người mẹ bị cắt đứt và đứa trẻ phải thở theo cách
riêng của nó. Trong thực tế, việc thở không phải là cái gì
đó mà đứa trẻ định làm. Làm sao nó làm được? Nó thậm
chí còn chưa thể thở được, cho nên nó chưa có đó. Việc
thở xảy ra. Không phải là đứa trẻ đang làm điều đó, đấy
là việc xảy ra. Nó đi ra từ cái không: đứa trẻ bắt đầu thở.
Những giây phút đó là rất, rất có giá trị, chủ chốt, nguy
hiểm. Bố mẹ, bác sĩ, y tá, những người coi sóc việc sinh
tất cả đều trong chờ đợi lớn lao - liệu đứa trẻ có thở hay
không.
Đứa trẻ không thể bị bắt buộc, đứa trẻ không thể bị
thuyết phục, và đứa trẻ không thể làm bất kì cái gì của
riêng nó. Nếu việc ấy định xảy ra thì nó sẽ xảy ra. Nó có
thể không xảy ra, nó có thể xảy ra. Đôi khi đứa trẻ chẳng
bao giờ thở, thế thì chúng ta nghĩ chúng sinh ra đã chết
rồi.
Thật là phép mầu về cách đứa trẻ thở hơi thở đầu
tiên: nó chưa bao giờ làm điều đó trước đấy, nó không
thể nào được chuẩn bị về điều đó. Nó không biết rằng cơ
chế thở là tồn tại. Phổi còn chưa hoạt động trước đây,
nhưng việc thở tới và phép mầu bắt đầu. Nhưng việc thở tới từ cái không, nhớ lấy. Về sau bạn sẽ bắt đầu nói, ‘Tôi
thở.” Điều đó là ngớ ngẩn. Bạn không thở: việc thở xảy
ra. Đừng tạo ra ý tưởng về cái ‘tôi’, đừng nói, ‘tôi thở.’
Không ai thở cả! Điều đó không nằm trong khả năng của
bạn để làm hay không làm.
Bạn có thể thử: dừng việc thở lại vài giây và bạn sẽ
biết rằng cũng khó mà dừng việc thở lại. Trong vài giây
một xô đẩy lớn tới từ không đâu cả và bạn bắt đầu thở
lại. Hay dừng việc thở bên ngoài lại; thử vài giây xem và
bỗng nhiên bạn thấy một xô đẩy lớn. Nó ở bên ngoài bạn.
Việc thở muốn tới.
Chính cái ‘không’ đang thở trong bạn... hay bạn có
thể gọi nó là Thượng đế - cũng chẳng khác biệt gì, nó là
một. Không hay Thượng đế, đều có cùng nghĩa. ‘Không’
trong Phật giáo có nghĩa đích xác là Thượng đế mà Ki tô
giáo, Judaism, Hindu nói tới. Thượng đế là không.
Chúng ta không sinh với cảm giác về cái ta. Nó
không phải là một phần thiên tư trong gen của chúng ta.
Trẻ con không thể nào phân biệt được giữa cái ta và thế
giới bao quanh nó. Cho dù khi đứa trẻ đã bắt đầu thở,
cũng phải mất nhiều tháng để nó trở nên nhận biết rằng
có phân biệt giữa bên trong nó và bên ngoài. Dần dần,
qua học tập phức tạp tăng dần và kinh nghiệm cảm nhận,
một phân biệt mang máng đã phát triển giữa cái gì đó
‘trong tôi’ và các cái khác ‘ngoài kia’.
Đây là cánh cửa đầu tiên mà từ đó bản ngã đi vào:
phân biệt rằng có cái gì đó ‘trong tôi’. Chẳng hạn: đứa trẻ
cảm thấy đói, nó cảm thấy điều đó tới từ bên trong. Và
thế rồi người mẹ quở trách nó, và nó cảm thấy điều đó tới
từ bên ngoài. Bây giờ một phân biệt nhất định phải được
cảm thấy dần dần - rằng có những thứ tới từ bên trong, và
có những thứ tới từ bên ngoài. Khi người mẹ mỉm cười,
nó có thể thấy nụ cười tới từ đó, và rồi nó đáp ứng, nó
mỉm cười. Bây giờ nó cảm thấy nụ cười tới từ bên trong,
đâu đó bên trong. Ý tưởng về bên trong và bên ngoài nảy
sinh. Đây là kinh nghiệm thứ nhất về bản ngã.
Trong thực tế không có phân biệt giữa bên ngoài và
bên trong. Bên trong là một phần của bên ngoài và bên
ngoài là một phần của bên trong. Bầu trời bên trong ngôi
nhà bạn và bầu trời bên ngoài ngôi nhà bạn không phải là
hai bầu trời, nhớ lấy; chúng là một bầu trời. Và như thế,
đấy cũng là trường hợp với... bạn ở đó và tôi ở đây không
phải là hai. Chúng ta là hai khía cạnh của cùng một năng
lượng, hai mặt của cùng một đồng tiền. Nhưng đứa trẻ
bắt đầu học các con đường của bản ngã.
Cánh cửa thứ hai là tự đồng nhất. Đứa trẻ học tên nó,
hiểu rằng cái phản xạ trong gương hàng ngày là về cùng
một người như đã thấy hôm qua, và tin rằng cảm giác về
tôi hay cái ta vẫn còn trong khuôn mặt của những kinh
nghiệm thay đổi. Đứa trẻ cứ tiếp tục biết rằng mọi thứ
đều thay đổi. Đôi khi nó đói, đôi khi nó không đói; đôi
khi nó ngủ và đôi khi nó thức; và đôi khi nó giận dữ và
đôi khi nó yêu thương - mọi thứ cứ thay đổi. Hôm nay
trời đẹp, hôm khác trời sầm xì và ảm đạm. Nhưng nó
đứng trước gương...
Bạn đã bao giờ quan sát một đứa nhỏ ngồi trước
gương chưa? Nó cố gắng bắt lấy đứa trẻ bên trong gương
bởi vì nó nghĩ đứa trẻ đấy ‘có đó bên ngoài’. Nếu nó
không thể bắt lấy được, thì nó đi vòng ra sau và nhìn sau
gương - có thể có đứa trẻ trốn ở đấy chăng? Nhưng dần
dần nó bắt đầu nhận ra rằng chính nó là người được phản
xạ. Và thế thì nó bắt đầu cảm thấy một loại liên tục: hôm
qua cũng cùng khuôn mặt ấy, hôm nay cũng cùng khuôn mặt ấy trong gương. Khi trẻ con tìm kiếm lần đầu tiên
trong gương thì chúng trở nên bị thôi miên với gương.
Chúng không thể rời gương ra được. Chúng đi đi lại lại
phòng ngủ để nhìn chúng là ai.
Mọi thứ cứ thay đổi mãi. Một thứ dường như không
đổi: hình ảnh mình. Bản ngã có một cánh cửa khác mà từ
đó nó đi vào: hình ảnh mình.
Cánh cửa thứ ba là lòng tự trọng. Điều này liên quan
tới cảm giác tự hào của đứa trẻ xem như kết quả của việc
tập làm một việc theo cách riêng của nó: làm, thám hiểm,
chế tạo. Khi một đứa trẻ học bất kì cái gì - chẳng hạn nó
học một từ, ‘bố’; thế thì nó cứ liên tục nói, “bố, bố,” cả
ngày. Không không bỏ lỡ một cơ hội nào để dùng từ này.
Khi đứa trẻ bắt đầu tập đi, nó thử đi cả ngày. Nó ngã lên
ngã xuống, nó loạng quạng, nó bị đau, nhưng nó lại đứng
dậy - bởi vì điều đó cho nó lòng tự hào: “Mình cũng có
thể làm việc gì đó! Mình có thể bước! Mình có thể bước!
Mình có thể mang các thứ từ đây sang kia!”
Bố mẹ rất lo âu bởi vì đứa trẻ quấy rối. Nó bắt đầu
kêu đòi mọi thứ. Họ không thể nào hiểu nổi: “Tại sao?
Để làm gì? Sao con đem cuốn sách đó từ đằng kia?” Đứa
trẻ đâu có quan tâm gì tới cuốn sách! Điều đó là vô nghĩa
với nó. Nó không thể quan niệm được tại sao bạn cứ nhìn
liên tục vào thứ này - “Bố tìm cái gì ở đó?” Nhưng sự
quan tâm của nó lại khác: nó có thể mang được một thứ.
Đứa trẻ bắt đầu giết con vật. Một con kiến, và nó sẽ
lập tức dẫm lên kiến và giết kiến. Nó có thể làm được cái
gì đó! Nó thích thú với việc làm; nó có thể trở thành rất
huỷ diệt. Nếu nó thấy chiếc đồng hồ, thì nó sẽ mở ra - nó
muốn biết cái gì bên trong. Nó trở thành nhà thám hiểm,
người điều tra.
Nó thích thú làm những thứ này bởi vì điều đó đem
cho bản ngã của nó cánh cửa thứ ba: nó cảm thấy tự hào,
nó có thể làm được. Nó có thể hát một bài hát, thế thì nó
sẵn sàng hát bài hát đó cho bất kì ai. Nếu có khách nào
tới, nó cũng ở đó, chờ đợi để ai đó nêu ra một đề nghị để
cho nó có thể hát bài hát ấy. Hay nó có thể nhảy múa,
hay nó có thể làm trò bắt chước, hay điều gì đó! Dù điều
đó là gì, nó muốn làm điều gì đó để chỉ ra rằng nó không
chỉ là kẻ vô dụng, rằng nó có thể cũng làm được nữa.
Việc làm này đem bản ngã vào.
Cánh cửa thứ tư là tự mở rộng mình, chiếm hữu, sở
hữu. Đứa trẻ nói về cái nhà của cháu, bố cháu, mẹ cháu,
trường cháu. Nó bắt đầu tăng lĩnh vực cái ‘của cháu’.
‘Của cháu’ bắt đầu trở thành từ chính của nó. Nếu bạn
lấy đồ chơi của nó - nó chẳng quan tâm nhiều lắm tới đồ
chơi ấy; nó quan tâm nhiều hơn tới, “Đồ chơi này là của
cháu, bác không được lấy nó!” Nhớ lấy, nó không quan
tâm nhiều lắm tới đồ chơi đâu. Khi không ai quan tâm
tới, nó sẽ ném đồ chơi vào góc nhà và chạy ra ngoài chơi.
Nhưng một khi ai đó muốn lấy đồ chơi, thì nó sẽ không
muốn cho đi. Đấy là của nó - ‘của cháu’.
‘Của tôi’ làm nảy sinh cảm giác về ‘tôi’; ‘tôi’ tạo ra
cái ‘tôi’. Và nhớ lấy, những cánh cửa này không chỉ là
cho trẻ con thôi, chúng vẫn còn là con đường cho toàn bộ
cuộc sống bạn. Khi bạn nói nhà tôi, bạn cũng mang tính
trẻ con vậy. Khi bạn nói vợ tôi, bạn cũng mang tính trẻ
con vậy. Khi bạn nói tôn giáo tôi, bạn cũng mang tính trẻ
con vậy. Khi một người Hindu bắt đầu đánh nhau với
người Mô ha mét giáo về tôn giáo, họ đều là trẻ con cả.
Họ không biết họ đang làm gì. Họ không thực sự trở nên
chín chắn và trưởng thành. Trẻ con thường xuyên cãi
nhau, “Bố tao là người vĩ đại nhất trên thế giới!” Và các tu sĩ cũng cứ đánh nhau như vậy, “Khái niệm của tôi về
Thượng đế là tốt nhất, mạnh mẽ nhất, thứ thiệt! Tất cả
các cái khác chỉ là tàm tạm thôi.”
Đấy là những thái độ rất trẻ con, nhưng chúng cứ lần
lữa quanh bạn trong suốt cả đời bạn. Bạn rất quan tâm tới
tên tuổi mình. Khi tôi đổi tên cho mọi người, một vài
người rất bướng bỉnh; họ không muốn điều đó. Một vài
người viết thư cho tôi: “Tôi muốn có tính sannyas, nhưng
xin thầy đừng đổi tên tôi.” Tại sao? Tên tôi! Đấy dường
như là một cái gì đó giống như của cải lớn lao. Và chẳng
có gì trong cái tên cả. Nhưng trong ba mươi năm, bốn
mươi năm, bản ngã bạn đã tồn tại với cái tên đó. Rất khó
cho bản ngã đóng lại cánh cửa. Đó là lí do tại sao cái tên
lại được đổi - để cho bạn có thể thấy rằng cái tên là bất
kì: nó có thể bị thay đổi vào bất kì ngày nào. Và đó là lí
do tại sao tôi lại đổi tên bạn mà không có gì làm nhặng sị
lên về nó cả. Trong các tôn giáo khác cái tên cũng bị thay
đổi. Nếu bạn trở thành một sư Jaina, họ sẽ làm nhặng sị
lên về điều đó - đám rước và lễ hội lớn; ai đó đang trở
thành sư! Bây giờ người ấy sẽ trở nên rất gắn bó với cái
tên mới này! Lễ hội nhiều thế và hội hè nhiều thế, và tôn
kính cùng tôn trọng ghê thế, biết bao nhiêu điều nhặng sị
cả lên về nó; thế thì toàn bộ vấn đề bị mất. Tôi đơn giản
thay đổi nó như một sự kiện, chỉ để cho bạn một ý tưởng
rằng nó là cái không; nó là bất kì, nó có thể bị thay đổi
rất dễ dàng. Bạn có thể được gọi là A, bạn có thể được
gọi là B, bạn có thể được gọi là C - cũng chẳng thành vấn
đề. Trong thực tế bạn không tên tuổi - đó là lí do tại sao
nó chẳng thành vấn đề. Bất kì cái tên nào cũng được, đấy
chỉ là tiện dụng.
Cánh cửa thứ năm là tự hình dung. Điều này nói tới
cách thức trẻ con nhìn chính mình. Qua tương tác với bố
mẹ, qua khen ngợi và trừng phạt, nó học việc tạo ra hình
ảnh nào đó về chính mình - tốt hay xấu.
Trẻ con bao giờ cũng nhìn vào cách bố mẹ phản ứng
lại nó. Nếu nó đang làm một điều nào đó, liệu họ khen
ngợi nó hay trừng phạt nó? Nếu nó cảm thấy bị trừng
phạt thì nó nghĩ, “Mình đã làm điều gì đó sai rồi. Mình
xấu.” Nếu nó làm điều gì đó tốt và được khen ngợi, thì
nó nghĩ, “Mình tốt, mình được đánh giá tốt.” Nó bắt đầu
cố gắng làm ngày càng nhiều việc tốt, để cho nó được
đánh giá tốt. Hay, nếu bố mẹ thực sự là những người rất
khó tính và không thể chấp nhận, và yêu cầu của họ đến
mức trẻ con không thể nào thực hiện được, thế thì nó sẽ
lấy con đường khác, nó bắt đầu làm tất cả những cái mà
họ gọi là ‘xấu’. Nó phản ứng và nổi loạn.
Đây là hai cách thức - cánh cửa là một: hoặc bạn
khen ngợi nó và nó cảm thấy thoải mái là nó là ai đó;
hoặc nếu bạn không khen ngợi nó một cách dễ dàng thì
nó nói, “Được, thế thì cháu sẽ cho bác biết.” Thế thì nó
sẽ làm cho mọi người phải nhận thấy sự hiện diện của nó.
Nó sẽ bắt đầu quậy phá mọi vật, nó sẽ bắt đầu hút thuốc,
nó sẽ bắt đầu làm những điều mà bạn không thích. Và nó
sẽ nói, “Bây giờ bác thấy chưa? Bác phải chú ý đến cháu;
bác phải để ý đến cháu. Bác phải biết rằng cháu là ai đó
và cháu đang ở đây, và bác không thể bỏ qua cháu.”
Người tốt và người xấu sinh ra theo cách này, thánh nhân
và tội nhân.
Cánh cửa thứ sáu là cái ta như một lí lẽ.
Đứa trẻ học cách lập luận, logic, biện luận. Nó học
cái nó có thể giải quyết vấn đề. Lí lẽ trở thành hỗ trợ lớn
cho cái ta của nó - đó là lí do tại sao người ta tranh luận.
Đó là lí do tại sao những người có giáo dục nghĩ rằng họ là ai đó. Vô giáo dục sao? - bạn cảm thấy đôi chút bối
rối. Bạn có bằng cấp lớn - bạn là tiến sĩ hay tiến sĩ văn
chương - và bạn cứ trưng bầy, phô bầy cái bằng xác nhận
của mình: bạn là người được huy chương vàng, bạn đứng
đầu đại học, rồi thế này thế nọ. Tại sao? - vì bạn đang
trưng bầy rằng bạn đã trở thành người có lí trí, có giáo
dục tốt, được học trong những trường đại học tốt nhất,
được học với những giáo sư giỏi nhất: “Tôi có thể tranh
luận giỏi hơn bất kì ai khác.” Lập luận trở thành một chỗ
dựa lớn.
Và cánh cửa thứ bẩy là cố gắng thích đáng, sống có
mục tiêu, tham vọng, trở thành: người ta là gì và là ai là
thông qua việc người ta muốn trở thành cái gì và ai. Bận
tâm về tương lai, mơ ước và các mục tiêu dài hạn xuất
hiện - giai đoạn cuối của bản ngã. Thế thì người ta bắt
đầu nghĩ về việc phải làm gì trong thế giới này để lưu lại
dấu vết trong lịch sử, để lại dấu hiệu trên cát thời đại. Trở
thành một thi sĩ sao? Trở thành một chính khách sao?
Trở thành một mahatma sao? Làm điều này hay điều nọ?
Cuộc sống đang chạy hối hả, tuột qua nhanh chóng, và
người ta phải làm điều gì đó, nếu không thì chẳng mấy
chốc người ta sẽ trở thành không và chẳng ai sẽ biết rằng
bạn đã tồn tại. Người ta muốn trở thành một Alexander
hay một Napoleon. Nếu có thể được, người ta muốn trở
thành một người tốt, nổi danh, nổi tiếng, thánh nhân, một
mahatma. Nếu điều ấy là không thể được, thế thì người
ấy vẫn muốn trở thành ai đó.
Nhiều kẻ giết người đã thú nhận trước toà án rằng
chúng không giết ai đó bởi vì chúng thích giết người đó,
mà bởi vì chúng muốn tên tuổi chúng xuất hiện trên trang
nhất của các báo.
Một kẻ giết một ai đó từ phía sau. Hắn ta lại và đâm
người này, và hắn ta thậm chí cũng chẳng gặp người này
trước đó. Hắn ta hoàn toàn không biết gì về người này;
họ không quen nhau, không bạn bè cũng chẳng kẻ thù.
Hắn ta chưa bao giờ gặp người đó. Và lần này cũng thế,
hắn ta chưa từng thấy khuôn mặt của người mà hắn đã
giết. Hắn chưa từng thấy người đó, hắn đơn giản giết
người đó từ phía sau. Người này đang ngồi trên bãi biển
ngắm nhìn sóng nước, và tên này tới và giết người ấy.
Toà án rất khó xử, nhưng người này nói, “Tôi không
quan tâm tới bản thân người ấy... người tôi đã giết.
Người ấy chẳng liên quan, bất kì ai thì cũng bị giết. Tôi
đã ra đó để giết ai đó. Nếu người này không ở đó, thì bất
kì ai khác sẽ bị giết.” Nhưng tại sao? Và hắn ta nói, “Bởi
vì tôi muốn ảnh tôi và tên tôi được đăng trên tranh nhất
các báo. Ham muốn của tôi được mãn nguyện. Tôi được
người ta bàn tán tới trên khắp nước, tôi thấy sung sướng.
Bây giờ tôi sẵn sàng chết. Nếu các ông ấy có xử tử tôi thì
tôi cũng có thể chết một cách sung sướng: tôi đã nổi
tiếng, tôi đã nổi danh.”
Nếu bạn không thể trở thành nổi danh, bạn sẽ cố
gắng trở thành khét tiếng. Nếu bạn không thể trở thành
Mahatma Gandhi, bạn sẽ thích trở thành Adolf Hitler -
nhưng không ai muốn còn là không ai cả.
Có bẩy cánh cửa qua đó ảo tưởng về bản ngã thành
mạnh hơn, trở thành ngày càng mạnh hơn. Và đây cũng
là bẩy cánh cửa - nếu bạn hiểu - qua đó bản ngã phải bị
tống ra. Dần dần, từ mỗi cánh cửa bạn phải nhìn sâu vào
trong bản ngã của mình và nói lời vĩnh biệt nó. Thế thì
nảy sinh cái không. 



Lời kinh:
Do đó, này Sariputra,
trong cái trống rỗng không có hình dạng,
không cảm giác, không cảm nhận,
không rung động, không ý thức;
không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, trí;
không hình dạng, âm thanh, mùi, vị, động chạm
hay các đối tượng của tâm trí;
không yếu tố thấy, và vân vân,
khi chúng ta đi tới: Yếu tố không tâm trí - tâm thức;
không có dốt nát, không có phá bỏ dốt nát,
và vân vân, chừng nào chúng ta tới:
Không huỷ hoại và cái chết,
không phá bỏ huỷ hoại và cái chết.
không có đau khổ, không nguồn gốc,
không chấm dứt, không con đường.
Không có cảm nhận, không có việc thành đạt
và không có việc không thành đạt.
Một phát biểu cách mạng vô cùng.
Do đó, này Sariputra...
Trước hết chúng ta phải hiểu từ do đó. ‘Do đó’ là
hoàn toàn có quan hệ trong phép tam đoạn luận, trong lí
lẽ logic. Không có lí lẽ nào đứng trước, và Phật nói: Do
đó, này Sariputra.
Các học giả đã rất lo nghĩ tại sao ông ấy lại dùng ‘do
đó’. ‘Do đó’ là một phần của phép tam đoạn luận: Tất cả
mọi người đều chết. Socrates là một người, do đó
Socrates chết. Nó là một phần của logic. Nhưng đã không
có mệnh đề nào, không lí lẽ nào, và bỗng nhiên Phật nói,
“Do đó...” Tại sao?
Các học giả không thể nào hiểu được điều đó, bởi vì
không có lí lẽ nào trên bề mặt. Nhưng đã có đối thoại
giữa con mắt của Phật và Sariputra. Đã nảy sinh một hiểu
biết. Lắng nghe Phật nói về cái trống rỗng, cái không,
Sariputra đã vươn lên mức độ cái không đó.
Nó có thể nảy sinh trong bạn tại đây, bạn có thể cảm
thấy nó... đôi cánh nó dập dờn quanh bạn.
Nhìn vào trong mắt Sariputra, Phật cảm thấy, nhìn
thấy rằng Sariputra đã hiểu: bây giờ lí lẽ có thể đi xa
thêm. Trên bề mặt thì không có lí lẽ nào hết cả. Đã không
có tranh luận, thảo luận, nhưng đã có đối thoại. Đối thoại
là giữa hai năng lượng này - Phật và Sariputra. Đã có
thống nhất, họ đã bắc cầu qua nhau. Trên chiếc cầu đó,
trong khoảnh khắc bắc cầu đó, Sariputra đã nhìn vào cái
trống rỗng của Phật. Bây giờ Phật nói với Sariputra, “Do
đó... Ông đã nhìn, Sariputra, bây giờ ta có thể đi thêm
vào trong nó, vào chi tiết hơn. Bây giờ ta có thể nói đôi
điều cho ông mà trước đây thì không thể nói được.”
Do đó, này Sariputra,
trong cái trống rỗng không có hình dạng,
.. không cảm giác, không cảm nhận...
... Bởi vì không có ai để cảm giác, vậy làm sao có thể
có cảm giác? Khi bản ngã không có đó, không có cảm
giác, không tri thức, không cảm nhận. Không hình dạng
nào nảy sinh bởi vì bầu trời hoàn toàn không mây. Bạn
có thể thấy một hình dạng trong một đám mây. Đôi khi
bạn chưa từng quan sát điều đó sao? - một đám mây
trông gióng con voi, và thế rồi nó đổi thành con ngựa và rồi lại thành cái gì đó khác, và nó cứ thay đổi mãi. Nó lấy
biết bao nhiêu là hình dạng.
Nhưng đã bao giờ bạn thấy bất kì hình dạng nào nảy
sinh trên bầu trời thuần khiết chưa? Không hình dạng nào
nảy sinh cả.
... không có hình dạng, không cảm giác,
không cảm nhận, không rung động...
Và khi không có ai bên trong, làm sao rung động nào
có thể nảy sinh được? Làm sao ham muốn có thể nảy
sinh được?
... không ý thức ...
Khi không có nội dung, khi không có khách thể, chủ
thể cũng biến mất. Ý thức đó bao giờ cũng về khách thể
không còn tìm thấy ở đấy nữa.
... không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, trí ...
Phật nói, “Mọi thứ đều biến mất trong cái không đó,
Sariputra. Và bây giờ ông có thể hiểu, Sariputra; do đó ta
đang nói về nó. Ông đã thấy nó! Ông đã nhìn vào ta! Ông
đã từng ở ngay bên bờ nó. Ông đã hé nhìn vào trong vực
thẳm này, vĩnh hằng này, chiều sâu thăm thẳm này.”
... không hình dạng, âm thanh, mùi, vị, động chạm
hay các đối tượng của tâm trí;
không yếu tố thấy, và vân vân...
... yếu tố không tâm trí - tâm thức;
Khi bạn ở trong trạng thái đó, bạn thậm chí không
thể nói rằng, “Tôi đang trong trạng thái của cái không,”
bởi vì nếu bạn nói điều này, bạn đã quay lại.
... khi chúng ta đi tới ...
Nếu bạn nói, “Tôi đã kinh nghiệm về cái không,”
điều đó nghĩa là bạn đã quay lại với thế giới hình dạng.
Tâm trí đã bắt đầu vận hành trở lại. Trong khoảnh khắc
đó bạn không tách bạch với cái không, cho nên làm sao
bạn có thể nói, “Tôi đang kinh nghiệm cái không?” Cái
không không giống như một vật: nó không tách biệt khỏi
bạn, bạn không tách biệt khỏi nó. Người quan sát và cái
được quan sát có đó; khách thể và chủ thể có đó. Nhị
nguyên đã biến mất.
... không có dốt nát, Phật nói.
Không có tri thức, không có dốt nát nữa, vì dốt nát
chỉ có thể có khi bạn nghĩ dưới dạng của tri thức. Nó
được so sánh với tri thức. Khi bạn gọi một người là dốt
nát, bạn ngụ ý gì? Bạn đang so sánh người ấy với ai đó là
người có hiểu biết. Nhưng không có tri thức cho nên
không thể có bất kì dốt nát nào.
... không có dốt nát, không có phá bỏ dốt nát...
Và Phật nói: Nhớ lấy, ta không nói rằng dốt nát biến
mất. Dốt nát chưa bao giờ có đó; nó là cái bóng của tri
thức, nó là cái bóng của tâm trí nghiện ngập tri thức.
Khi bạn đem đèn vào trong phòng tối, bạn nói gì
nào? - rằng bóng tối biến mất, đi ra khỏi phòng, thoát
khỏi phòng, chạy mất sao? Không, bạn không thể nào nói như thế được - bởi vì bóng tối ngay từ đầu là không tồn
tại. Làm sao nó có thể đi ra được? Ánh sáng tới và bóng
tối không tìm thấy, bởi vì bóng tối chỉ là việc thiếu ánh
sáng.
Cho nên không có dốt nát, và không có việc phá bỏ
dốt nát. Không có tri thức và không có không tri thức.
Người ta đơn giản hồn nhiên về tất cả - tri thức, dốt nát;
chỉ hồn nhiên, trong trắng. Tự do khỏi tri thức và tự do
khỏi dốt nát là trong trắng, là thuần khiết.
Không huỷ hoại và cái chết...
... Bởi vì không có ai chết cả. Và nhớ lấy, không có
việc phá bỏ huỷ hoại và cái chết. Và Phật không nói rằng
cái chết biến mất, bởi vì cái chết ngay chỗ đầu tiên chưa
bao giờ có đó. Nói rằng cái chết đã biến mất sẽ là sai.
Phật rất, rất hoàn hảo trong khẳng định của mình, rất cẩn
thận. Ông ấy không thốt ra một lời nào mà có thể bị bác
bẻ bởi bất kì người nào biết thực tại. Ông ấy không thoả
hiệp. Ông ấy không thoả hiệp với người nghe. Ông ấy có
thể nói điều hoàn hảo nhất mà có thể được nói.
Thì không có đau khổ...
Bây giờ ông ấy đi tới lời phát biểu cách mạng tối
thượng.
Bạn phải đã nghe tới bốn chân lí cao quí của Phật.
Chân lí thứ nhất là đau khổ: rằng mọi người đều đau khổ,
rằng toàn bộ sự tồn tại là dukkha, đau khổ, đau đớn, khổ,
bi thảm.
Và chân lí cao quí thứ hai là: nguồn gốc của nó là
trong thèm muốn - tanha, ham muốn. Đau khổ tồn tại:
chân lí cao quí thứ nhất - arya satya; chân lí thứ hai là ở
chỗ đau khổ có nguyên nhân và nguyên nhân là trong
ham muốn. Chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta ham muốn.
Và chân lí cao quí thứ ba là: việc ham muốn này có
thể được chấm dứt. Đó là điều có thể - nirodha; nó có thể
được chấm dứt. Bằng cách nhìn sâu vào ham muốn, nó
có thể được chấm dứt, và khi ham muốn chấm dứt thì
đau khổ biến mất. Còn chân lí cao quí thứ tư là: có con
đường tám làn dẫn tới chấm dứt, nirodha, ham muốn, và
kết quả là chấm dứt đau khổ.
Đây là triết lí nền tảng nhất của Phật giáo, và trong
phát biểu này Phật chối bỏ cả điều ấy nữa! Ông ấy nói:
không có đau khổ, không nguồn gốc,
không chấm dứt, không con đường.
Không ai đã từng phát biểu một điều cách mạng như
thế. Phật đạt tới đỉnh cao nhất của cách mạng; mọi người
khác đều không tới đích.
Các học giả bao giờ cũng lo nghĩ rằng điều này là
mâu thuẫn. Phật dạy rằng có đau khổ, thế rồi một hôm
ông ấy lại nói, “Không có đau khổ.” Ông ấy dạy rằng có
nguyên nhân tại sao lại đau khổ, và rồi một hôm ông ấy
lại nói, “Không có nguồn gốc.” Ông ấy dạy rằng có một
khả năng - norodha - có thể chấm dứt nó, rồi một hôm
ông ấy lại nói, “Không có chấm dứt.” Và ông ấy nói - và
toàn bộ Phật giáo phụ thuộc vào lời nói này - rằng có con
đường tám làn, astangik marga: nhìn đúng, luyện đúng,
thiền đúng, samadhi đúng vân vân và vân vân; con đường
tám làn đưa bạn tới chân lí tối hậu. Và bây giờ một hôm
ông ấy lại nói, “Không có con đường. Thực tại này là
thực tại không đường.” Tại sao có mâu thuẫn này? Phát biểu thứ nhất được đưa ra cho những người không biết
rằng họ là không có. Phát biểu thứ nhất được dành cho
những người bình thường, đầy bản ngã. Phát biểu này là
dành cho Sariputra tại một chỗ đặc biệt, trong một trạng
thái đặc biệt.
Do đó, này Sariputra...
... Bây giờ ta có thể nói điều này cho ông. Ta có thể
đã không nói trước đây, ông còn chưa sẵn sàng. Bây giờ
ông đã nhìn vào ta, và nhìn vào ta, ông đã thấy cái không
là gì. Ông đã nếm trải nó! Do đó, Sariputra: Tasmat,
Sariputra! Bây giờ có thể nói cho ông rằng không có đau
khổ, rằng đó là mơ; mọi người đang đau khổ trong mơ.
Và không có nguyên nhân - mọi người đều ham muốn
trong mơ. Và không có chấm dứt - mọi người đang luyện
tập, thực hành các phương pháp, thiền, yoga vân vân,
trong mơ. Và toàn bộ con đường tồn tại trong mơ. Bây
giờ điều đó có thể được nói cho ông bởi vì ông đã tỉnh
thức, Sariputra. Mắt ông đã mở ra; bây giờ ông thấy bản
ngã không tồn tại.
Và thoát ra khỏi bản ngã là thoát ra khỏi giấc ngủ.
Thoát ra khỏi bản ngã là thoát ra khỏi bóng tối. Thoát ra
khỏi bản ngã là được tự do. Trong tự do đó có thể nói
rằng không có con đường. Nó là tựa như mơ.
Trong mơ bạn đau khổ, và khi bạn đau khổ trong mơ,
nó thực làm sao. Và bạn đang tìm kiếm: “Tại sao tôi khổ
thế này?” Và thế rồi bạn bắt gặp một hiền nhân vĩ đại -
trong mơ - và hiền nhân này nói, “Bạn khổ bởi vì bạn
ham muốn. Bạn bị mê đắm đến thế với tiền bạc; đó là lí
do tại sao bạn khổ. Loại bỏ ham muốn này và khổ sẽ biến
mất.” Bạn hiểu điều đó, nó là rất logic. Bạn biết nó, bạn
đã tự mình kinh nghiệm nó rằng bất kì khi nào bạn ham
muốn, thì khổ tới. Ham muốn càng có đó thì khổ càng
nhiều. Ham muốn càng lớn thì khổ càng lớn.. Bạn hiểu
điều đó. Thế rồi bạn hỏi, “Thế thì làm sao chấm dứt được
nó?” Và hiền nhân vĩ đại này nói, “Trồng cây chuối, tập
yoga, tập thiền chao đảo, tập kundalini, tập nadabrahma,
tham gia nhóm đụng độ và tập kịch leela, thực hành liệu
pháp nguyên thuỷ và đủ mọi thứ.” Hiền nhân vĩ đại này
nói, “Làm những điều này đi; chúng sẽ có ích. Bạn sẽ trở
nên hiểu biết nhiều hơn về ham muốn của mình, và bạn
sẽ có thể loại bỏ ham muốn.”
Cho nên hiền nhân này trao cho bạn con đường tám
làn đã được trình bầy rõ. Ông ấy nói, “Đây là con
đường.” Một hôm, khi bạn thực sự tỉnh thức... Và nhớ
lấy, những điều này giúp cho bạn thức tỉnh. Bây giờ ngay
cả bạn trồng cây chuối trong mơ thì vẫn có khả năng giấc
mơ của bạn sẽ bị phá vỡ. Thử đi! Thử ngay tối nay đi!
Khi bạn đang trong mơ, trồng cây chuối trong mơ, và
bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng bạn thức tỉnh. Tập kundalini
trong mơ - bạn sẽ thức tỉnh. Và nếu bạn không tỉnh, ít
nhất chồng bạn sẽ tỉnh, hàng xóm sẽ tỉnh, cái gì đó đang
sắp xảy ra.
Tất cả các phương pháp chỉ để đánh thức bạn. Nhưng
khi bạn đã tỉnh...
Do đó, này Sariputra...
Và bây giờ Phật có thể nói điều này cho Sariputra;
ông ấy thức tỉnh rồi. Ông ấy có thể nói, “Bây giờ ta có
thể nói cho ông chân lí này - rằng không ai tồn tại cả,
chẳng có đệ tử mà cũng chẳng có thầy, không mơ, không khổ, không hiền nhân, không nguyên nhân, không chấm
dứt. Không có con đường.”
Đây là phát biểu tối hậu về chân lí.
Nhưng điều này chỉ có thể được đưa ra tại giai đoạn
cao nhất, tại bậc thang thứ bẩy của chiếc thang. Sariputra
đã đạt tới bậc thang đó vào ngày này. Đó là lí do tại sao
‘do đó’... Tasmat Sariputra.


Cái không là hương vị của cõi bên kia. Nó là việc cởi
mở trái tim cho điều siêu việt. Nó là việc mở ra của hoa
sen một nghìn cánh. Nó là định mệnh của con người. Con
người là hoàn chỉnh chỉ khi con người đã đi tới hương
thơm này, khi con người đã đi tới cái không tuyệt đối này
bên trong bản thể mình, khi cái không này đã lan toả
khắp người đó, khi người đó chỉ là bầu trời thuần khiết,
không mây.

Cái không này Phật gọi là niết bàn. Trước hết chúng
ta phải hiểu cái không này thực tế là gì, bởi vì nó không
chỉ là cái trống rỗng - nó là đầy tràn, nó là tràn ngập. Bạn
đừng bao giờ trong bất kì khoảnh khắc nào nghĩ rằng cái
không là trạng thái tiêu cực, sự thiếu vắng, không. Cái
không đơn giản là không có thứ gì. Mọi thứ đều biến
mất, chỉ còn lại bản chất tối thượng. Hình dạng biến mất,
chỉ cái vô hình còn lại. Các định nghĩa biến mất, cái
không định nghĩa còn lại.
Cho nên cái không không phải dường như là không
có gì. Nó đơn giản có nghĩa là không có khả năng để
định nghĩa cái gì có đó. Nó dường như là bạn đã bỏ tất cả
các đồ đạc ra khỏi nhà. Ai đó đến và người đó nói, “Bây
giờ, đây là không có gì.” Người ấy đã thấy đồ đạc trước
đó; bây giờ đồ đạc mất đi và người đó nói, “Tại đây
không còn thứ gì nữa. Đây là cái không.” Phát biểu của
anh ta là hợp lệ chỉ ở mức độ nào đó. Trong thực tế, khi
bạn loại bỏ đồ đạc, bạn đơn giản loại bỏ các chướng ngại
trong không gian của ngôi nhà. Bây giờ không gian thuần
khiết tồn tại, bây giờ chẳng có gì cản trở. Bây giờ không
có đám mây nào trôi nổi trên bầu trời; nó chỉ là một bầu
trời. Nó không chỉ là không, nó là thuần khiết. Nó không
chỉ là thiếu vắng, nó còn là hiện diện.
Bạn đã bao giờ ở trong ngôi nhà trống rỗng hoàn
toàn chưa? Bạn sẽ thấy rằng cái trống rỗng như là sự hiện
diện; nó rất hữu hình, bạn gần như có thể chạm vào nó.
Đó là cái đẹp của ngôi đền hay nhà thờ hay đền Mô ha
mét giáo - cái rỗng không thuần khiết, chỉ là trống rỗng.
Khi bạn đi vào ngôi đền, cái bao quanh bạn là cái không.
Nó là sự trống rỗng mọi thứ, nhưng chỉ là sự trống rỗng.
Trong cái trống rỗng đó một cái gì đó vẫn hiện diện -
nhưng chỉ hiện diện cho những người có thể cảm thấy nó,
người đủ nhạy cảm để cảm thấy nó, người đủ nhận biết
để thấy nó.
Những người chỉ có thể thấy đồ vật sẽ nói, “Cái gì có
đó nào? Chẳng có gì cả.” Những người có thể thấy cái
không sẽ nói, “Tất cả là ở đây, bởi vì không có gì là ở
đây.” 

Sự đồng nhất của ‘có’ và ‘không’ là bí mật của cái
không. Để tôi nhắc lại nó; điều đó là rất cơ bản đối với
cách tiếp cận của Phật: cái không thì không đồng nhất
với ‘không’, cái không là sự đồng nhất của ‘có’ và
‘không’, nơi các cực không còn là các cực nữa, nơi các
phía đối lập không còn là đối lập nữa.
Khi bạn làm tình với người đàn bà hay với người đàn
ông, điểm cực thích là điểm của cái không. Vào khoảnh
khắc đó người đàn bà không còn là người đàn bà nữa và
người đàn ông cũng không còn là đàn ông nữa. Những
hình dạng đó đã biến mất. Phân cực giữa đàn ông và đàn
bà không còn đó nữa, căng thẳng đó không còn đó nữa;
đấy là việc thảnh thơi hoàn toàn. Họ cả hai đã tan chảy
vào lẫn nhau. Họ đã không thành hình nữa, họ đã đi tới
một trạng thái không thể nào được xác định. Người đàn
ông không thể nào nói ‘tôi’, người đàn bà không thể nào
nói ‘tôi’; họ không còn cái ‘tôi’ nữa, họ không còn bản
ngã nữa - bởi vì bản ngã bao giờ cũng trong xung đột,
bản ngã tồn tại qua xung đột, nó không thể nào tồn tại mà
không có xung đột. Trong khoảnh khắc cực thích đó thì
không còn bản ngã nào nữa. Do đó mới có cái đẹp của
nó, do đó mới có cực lạc về nó, do đó mới có phẩm chất
tựa samadhi của nó.
Nhưng điều đó chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc.
Nhưng thậm chí khoảnh khắc đó, chỉ một khoảnh khắc
về nó, cũng còn giá trị hơn toàn bộ cuộc đời bạn - bởi vì
trong khoảnh khắc đó bạn tới gần nhất với chân lí. Đàn
ông và đàn bà không còn tách biệt nữa; đây là một cực.
Âm và dương, tích cực và tiêu cực, ngày và đêm, mùa hè
và mùa đông, sống và chết - đấy là các cực. Khi ‘có’ và
‘không’ gặp nhau, khi các phía đối lập gặp nhau và
không còn đối lập nữa, khi chúng đi vào lẫn nhau và tan
biến trong nhau, có cực thích. Cực thích là sự gặp gỡ của
có và không. Nó không đồng nhất với không; nó vượt ra
ngoài có và không.
Theo một nghĩa nào đó thì nó vượt ra ngoài cả hai;
theo một nghĩa nào đó thì nó lại là cả hai, đồng thời. Việc
hội nhập của âm và dương là định nghĩa của cái không.
Và đó là định nghĩa của cực thích nữa, và đó là định
nghĩa của samadhi nữa. Bạn để điều đó được ghi nhớ.
Việc đồng nhất của có và không là bí mật của cái
trống rỗng, cái không, niết bàn. Cái trống rỗng không chỉ
là trống rỗng; nó là sự hiện diện, sự hiện diễn rất vững
chắc. Nó không loại trừ cái đối lập của nó; nó bao hàm
cái đối lập nó, nó tràn đầy cái đối lập của nó. Nó là cái
trống rỗng hoàn toàn, nó là cái trống rỗng tràn ngập. Nó
là sống động, dào dạt sống động, cực kì sống động. Cho
nên đừng bao giờ dù bất kì khoảnh khắc nào để cho từ
điển lừa dối bạn, nếu không bạn sẽ hiểu nhầm Phật.
Nếu bạn tra từ điển và tìm ý nghĩa của ‘cái không’,
thì bạn sẽ lỡ Phật. Từ điển chỉ định nghĩa cái không bình
thường, cái trống rỗng bình thường. Phật đang nói về cái
gì đó rất phi thường. Nếu bạn muốn biết nó, bạn sẽ phải
đi vào trong cuộc sống, vào trong một tình huống nào đó
mà có và không gặp nhau - thế thì bạn sẽ biết nó. Khi
thân thể và linh hồn gặp nhau, khi thế giới và Thượng đế
gặp nhau, khi các phía đối lập không còn là đối lập nữa -
chỉ thế thì bạn mới nếm trải hương vị của nó. Hương vị
của nó là hương vị của Đạo, của Thiền, của Hasidism,
của Yoga.
Từ yoga cũng có ý nghĩa. Nó nghĩa là tới cùng nhau.
Khi đàn ông và đàn bà gặp nhau, đấy là yoga: đến cùng
nhau, họ thực sự đến gần, họ bắt đầu tràn lấp và rồi họ biến mất vào nhau. Thế thì họ không là còn các trung tâm
nữa. Xung đột của các phía đối lập đã biến mất và chỉ có
thảnh thơi hoàn toàn.
Thảnh thơi này chỉ xảy ra trong khoảnh khắc giữa
đàn ông và đàn bà. Nhưng thảnh thơi này có thể xảy ra
với cái toàn bộ, với cái toàn thể, theo một cách vô thời
gian. Nó có thể xảy ra theo cách vĩnh hằng. Trong tình
yêu bạn chỉ là một giọt của cực lạc của nó. Trong cực lạc
bạn có toàn bộ đại dương tình yêu.
Cái không này có thể được đạt tới nếu không có mây
ý nghĩ trong bạn. Những ý nghĩ đó là mây đang cản trở
không gian bên trong của bạn, làm vướng víu không gian
bên trong của bạn. Bạn đã bao giờ quan sát bầu trời này
chưa? Vào mùa hè nó sạch sẽ và trong trẻo làm sao -
trong như pha lê - không một gợn mây. Và thế rồi mưa
tới, hàng nghìn đám mây tới, và toàn bộ trái đất bị bao
quanh bởi mây. Mặt trời biến mất, bầu trời không còn
sẵn đó nữa. Đây là trạng thái của tâm trí: tâm trí thường
xuyên bị mây bao phủ. Nó là mùa mưa của tâm thức bạn;
mặt trời không sẵn đấy, ánh sáng bị che khuất, cản trở, và
tính thuần khiết của không gian và tính tự do của không
gian không còn sẵn đó nữa. Tại mọi nơi bạn thấy mình bị
xác định bởi những đám mây.
Khi bạn nói, “Tôi là người Hindu,” bạn đang nói gì
vậy? Bạn bị một đám mây bắt giữ, ý nghĩ rằng bạn là
người Hindu. Khi bạn nói, “Tôi là người Mô ha mét
giáo” - hay Ki tô giáo hay Jaina - bạn đang nói gì vậy?
Bạn đang trở nên đồng nhất với đám mây-ý nghĩ, bạn
đang làm mất cái thuần khiết của mình. Đó là lí do tại
sao tôi nói người tôn giáo thì không là Hinđu giáo, không
Mô ha mét giáo, không Ki tô giáo - người ấy không thể
như vậy được. Người ấy là mùa hè của tâm thức, người
ấy không có đám mây nào: mặt trời có đó, chói lọi,
không bị cản trở, và có không gian vô hạn bao quanh
người đó, có im lặng bao quanh người đó. Bạn sẽ không
tìm thấy rung động của tâm thức mây phủ.
Khi bạn nói, “Tôi là người cộng sản,” bạn đang nói
gì vậy? Bạn đang nói rằng bạn đã đọc Karl Marx, Lenin,
Stalin, Mao; rằng bạn đã trở nên quá gắn bó với Tư bản
luận Das Kapital; rằng bạn đã trở nên đồng nhất với cái ý
tưởng về đấu tranh giai cấp - người nghèo và người giầu
và xung đột; rằng bạn đã trở thành quá bị hấp dẫn, bị thôi
miên bởi giấc mơ, xã hội không tưởng: rằng một ngày
nào đó trong tương lai, xã hội phi giai cấp sẽ có thể được
tạo ra; rằng bạn đã trở thành quá bị ám ảnh với cái xã hội
này và bạn sẵn sàng làm bất kì điều gì vì nó. Ngay cả nếu
bạn phải giết hàng triệu người, bạn cũng sẵn sàng - vì
mục đích riêng của họ, vì cái tốt riêng của họ. Đây là
trạng thái bị mây che phủ.
Khi bạn nói, “Tôi là người Ấn Độ,” lần nữa lại cũng
cùng vấn đề ấy. Khi bạn nói, “Tôi là người Trung quốc,”
lần nữa đấy lại là cùng vấn đề. Nếu bạn thực sự muốn là
người tôn giáo, bạn sẽ phải loại bỏ những đồng nhất này
dần dần. Không ý tưởng nào được chiếm giữ bạn. Không
sách nào nên là Kinh thánh của bạn! Không Veda nào
nên xác định ra bạn, không Gita nào nên tạo khuôn bạn.
Bạn không nên cho phép bất kì triết lí nào, thượng đế học
nào, học thuyết nào, lí thuyết nào, giả thuyết nào chen
chúc len vào bạn. Bạn không nên cho phép bất kì đám
khói bụi nào bao quanh ngọn lửa tâm thức. Chỉ thế thì
bạn mới là người tôn giáo.
Nếu bạn hỏi một người tôn giáo anh ta là ai, anh ta
chỉ có thể nói, “Tôi là cái không,” bởi vì cái không không phải là ý tưởng, nó không phải là lí thuyết. Nó đơn giản
chỉ ra trạng thái thuần khiết.
Nhớ lấy, cảm nhận chẳng liên quan gì tới tri thức.
Trong thực tế, khi bạn cảm nhận qua tri thức, bạn không
cảm nhận đúng. Tất cả các tri thức đều tạo ra phóng
chiếu. Tri thức là thiên lệch, tri thức là định kiến. Tri
thức là kết luận - bạn đã kết luận ngay trước khi bạn đi
vào trong nó.
Chẳng hạn, nếu bạn đến với tôi bằng một kết luận đã
có trong tâm trí - nó có thể là ủng hộ tôi, nó có thể là
chống tôi, điều đó chẳng thành vấn đề - nếu bạn đến với
tôi bằng kết luận, bạn đến cùng với một đám mây. Thế
thì bạn cứ nhìn vào tôi qua đám mây của bạn, và một
cách tự nhiên đám mây của bạn sẽ soi bóng lên tôi. Nếu
bạn tới với ý tưởng, “Đây là một người đúng,” bạn sẽ
thấy cái gì đó cứ hỗ trợ cho ý tưởng này của bạn. Nếu
bạn đến với ý tưởng, “Đây là người sai trái, nguy hiểm,
quỉ quái,” thế thì bạn sẽ cứ tìm ra cái gì đó hỗ trợ cho ý
tưởng này của bạn.
Bất kì ý tưởng nào bạn đem tới cũng đều tự tồn tại
mãi, nó cứ tìm ra bằng chứng cho chính nó. Và người đã
tới với định kiến sẽ làm cho định kiến của mình mạnh
thêm mãi. Trong thực tế, người ấy chưa bao giờ tới tôi
cả.
Để tới với tôi người ta cần phải không bị mây che
phủ, không định kiến nào dù ủng hộ hay chống đối,
không đánh giá nào trước. Bạn chỉ tới để xem cái gì có
đó, bạn không mang bất kì ý kiến nào. Bạn đã nghe thấy
nhiều điều nhưng bạn không tin vào chúng. Bạn đơn giản
tới để thấy bằng chính mắt mình, bạn tới để cảm bằng
chính trái tim mình. Đó là phẩm chất của người tôn giáo.
Và nếu bạn muốn biết về chân lí, bạn sẽ phải loại bỏ
tất cả mọi loại tri thức bạn đã thu thập qua nhiều thời đại,
trong nhiều, nhiều kiếp sống. Bất kì khi nào ai đó đi tới
chân lí với tri thức, người ấy đều không thể nào thấy
được nó, người ấy mù. Tri thức làm bạn mù. Nếu bạn
muốn có đôi mắt sáng tỏ, loại bỏ tri thức đi. Cảm nhận
chẳng liên quan gì tới tri thức cả.
Chân lí và tri thức không đi đôi với nhau. Tri thức
không thể chứa đựng được cái mênh mông của cuộc sống
và sự tồn tại. Tri thức quá tí hon, quá nhỏ nhoi, còn sự
tồn tại bao la, khổng lồ làm sao - làm sao nó có thể hàm
chứa được sự tồn tại? Nó không thể hàm chứa được. Và
nếu bạn buộc sự tồn tại vào khuôn mẫu tri thức của mình,
bạn sẽ phá huỷ cái đẹp của nó và bạn sẽ phá huỷ chân lí
của nó. Một khi sự tồn tại bị biến cải vào trong tri thức,
nó không còn là sự tồn tại nữa. Cứ dường như một người
đang mang tấm bản đồ Ấn Độ và nghĩ rằng mình đang
mang Ấn Độ. Không bản đồ nào có thể chứa nổi Ấn Độ.
Bức tranh mặt trăng không phải là mặt trăng. Từ
thượng đế không phải là Thượng đế; từ tình yêu không
phải là tình yêu. Không từ nào có thể hàm chứa những
cái bí ẩn của cuộc sống. Và tri thức thì không là gì ngoài
những lời, lời và lời. Tri thức là ảo tưởng lớn. Đó là lí do
tại sao Phật nói: cho phép cái không lắng đọng trong bạn.
Cái không nghĩa là trạng thái của không biết, trạng
thái không đám mây nào nổi trong tâm thức bạn. Khi tâm
thức bạn không mây phủ, thế thì có cái không. Không có
gì đi đôi hoàn hảo với chân lí - chỉ không có gì mới đi
đôi hoàn hảo với chân lí. Tri thức không thể nào hàm
chứa cái bí ẩn của sự hiện hữu; tri thức chống lại bí ẩn.
‘Bí ẩn’ có nghĩa là cái không biết, là cái không thể nào
biết được, là cái mà về bản chất, cơ bản, chủ chốt là không thể biết được - không chỉ không biết, mà không
thể nào biết nổi. Làm sao cái không thể nào biết nổi lại
có thể bị thu gọn lại thành tri thức? Tri thức cứ đi thu
nhặt đá cuội trên bãi cát và cứ bỏ lỡ kim cương. Tri thức
là cái tầm thường, vay mượn, chưa bao giờ là chân thực,
chưa bao giờ là nguyên bản. Để biết chân lí bạn cần sáng
suốt, sáng suốt nguyên thuỷ. Bạn cần đôi mắt có thể thấy
thấu suốt; bạn cần cái nhìn trong suốt.
Cho nên chỉ khi tâm trí hoàn toàn đã bị lột bỏ hết trí
thức, trống rỗng tri thức, nó đi tới việc biết. Khi không có
tri thức, thì lại có tri thức, bởi vì khi không có tri thức thì
có việc biết. Khi tâm trí hoàn toàn trần trụi khỏi tri thức,
không che đậy, im lặng, không vận hành, khi tâm trí
trong chờ đợi, không ý tưởng về cái gì, chỉ là chờ đợi
thuần khiết, trông đợi nhưng không biết vì cái gì, chờ đợi
vị khách nhưng không có ý tưởng nào, chờ đợi tiếng gõ
cửa của vị khách với cánh cửa mở và không ý tưởng về
vị khác này là ai... Làm sao bạn có thể biết điều đó trước
được?
Nếu bạn mang một bản kế hoạch về Thượng đế thì
bạn sẽ cứ làm lỡ Thượng đế - bởi vì bạn chưa từng biết
tới ngài trước đây. Quả vậy, người khác đã biết, nhưng
bất kì điều gì họ đã nói đều chỉ là bản đồ. Tôi chỉ có thể
trao cho bạn chiếc bản đồ. Tất cả tri thức đều là bản đồ.
Đừng bắt đầu tôn thờ bản đồ, đừng bắt đầu tạo ra đền đài
quanh bản đồ. Đấy chính là cách thức mà đền đài đã
được tạo ra. Đền này được dành cho Veda, đền kia cho
Kinh thánh, đền nọ cho Koran - toàn những bản đồ!
Không có quốc gia thực nào cả, chúng chỉ là các sơ đồ.
Khi tôi nói điều gì đó cho bạn, tôi phải dùng lời. Lời đạt
tới bạn, bạn nhảy vào lời, bạn bắt đầu tích trữ lời - tâm trí
là kẻ tích trữ lớn - và thế thì bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn
biết.
Đây không phải là cách biết. Cách biết là vứt bỏ tất
cả tri thức. Và vứt bỏ nó trong một cú ném! Đừng đi
chậm chạp, dần dần. Nếu bạn thấy ra vấn đề, nó có thể
xảy ra ngay chính khoảnh khắc này. Trong thực tế, thấy
được vấn đề là để cho nó xảy ra. Bạn chẳng cần cái gì
đặc biệt cả, bạn không cần thậm chí cả việc loại bỏ tri
thức. Chỉ nhìn thấy vấn đề rằng tri thức không thể làm
cho bạn thành người biết - trong thực tế nó sẽ cản trở bạn
- thấy điều này, là cách mạng... thấy điều này, là biến
đổi.
Cho nên khi tâm trí trần trụi, im lặng, không vận
hành, trong chờ đợi hoàn toàn, thế thì chân lí tới. Thế thì
có chân lí. Nó không cần đến từ đâu cả, nó bao giờ cũng
có đó. Nhưng bạn đã quá tràn đầy với tri thức, do đó bạn
cứ làm lỡ nó.
Cái không có thể biết tới chân lí bởi vì trong cái
không thì thông minh vận hành toàn bộ. Chỉ trong cái
không thì thông minh mới vận hành toàn bộ. Đó là lí do
tại sao - bạn thấy phép mầu đấy! - trẻ con thông minh
làm sao còn người già, dần dần, trở nên trì trệ thế. Trẻ
con học mọi thứ nhanh thế! Bạn càng trở nên già hơn,
càng khó học hơn. Nếu bạn già và bạn muốn học tiếng
Trung quốc, bạn sẽ mất ba mươi năm; còn đứa trẻ chỉ
học mất hai hay ba năm.
Bây giờ các nhà khoa học nói rằng đứa trẻ có thể học
ít nhất bốn ngôn ngữ rất dễ dàng nếu nó được đặt vào
bốn ngôn ngữ - rất dễ dàng! Đây là tối thiểu. Số tối đa thì
còn chưa quyết định được: một đứa trẻ có thể cùng học
được bao nhiêu ngôn ngữ nếu nó được đặt vào các ngôn ngữ đó. Điều này đã xảy ra! Nếu một gia đình là đa ngữ
thì điều này xảy ra rất dễ dàng. Nếu thành phố là đa ngữ
thì điều đó xảy ra rất dễ dàng. Tại Bombay điều đó xảy
ra rất dễ dàng: trẻ con sẽ học tiếng Hindu, tiếng Anh,
tiếng Marathi, Gujarati, rất dễ dàng. Trẻ con chỉ cần được
đặt vào hoàn cảnh. Nó thông minh tới mức nó lập tức
thấy ra vấn đề về điều đó và học điều đó. Bạn càng già
thêm, càng khó khăn hơn.
Người ta nói sẽ rất khó dạy người già các trò mới.
Không nhất thiết là như vậy! Nếu bạn vẫn còn là cái
không, thế thì không nhất thiết là như vậy - bởi vì thế thì
bạn vẫn còn là đứa trẻ trong toàn bộ cuộc sống của mình.
Socrates là đứa trẻ thậm chí cả lúc chết, bởi vì ông ấy
vẫn còn mong manh, cởi mở, sẵn sàng để học; sẵn sàng
học ngay cả từ cái chết! Khi ông ấy nằm trên giường chết
và thuốc độc đang được chuẩn bị - vào lúc sáu giờ ông ấy
sẽ được cho uống thuốc độc, ngay khi mặt trời lên - ông
ấy kích động thế, giống như một đứa trẻ. Đệ tử của ông
ấy đang kêu khóc, còn ông ấy thì kích động thế. Ông ấy
cứ nhỏm dậy đi nhỏm dậy lại và đi ra hỏi người chuẩn bị
thuốc độc: “Phải mất bao lâu mới pha chế xong?” - mắt
ông ấy tò mò làm sao. Mà người này lại sắp chết! - đây
không phải là lúc để tò mò thế. Người này đang sắp thở
hơi thở cuối cùng trong vài phút nữa, và ông ấy kích
động thế, cực lạc thế. Một đệ tử hỏi, “Thầy kích động thế
là vì cái gì vậy? Thầy đang sắp chết!” Còn Socrates thì
nói, “Ta đã biết cuộc sống, và ta đã học được nhiều từ
cuộc sống. Bây giờ ta muốn biết cái chết và học từ cái
chết. Đó là lí do tại sao ta kích động.”
Ngay cả cái chết cũng trở thành kinh nghiệm lớn cho
người hồn nhiên. Socrates là hồn nhiên. Phương Tây
chưa tạo ra được một người khác sánh được với Socrates.
Socrates là Phật của phương Tây.
Bạn bao giờ cũng có thể vẫn còn có khả năng học
nếu bạn vẫn còn là đứa trẻ. Điều gì tạo ra trì trệ trong
bạn, đần đồn, tầm thường? Tri thức. Bạn tích luỹ tri thức;
bạn trở thành ngày càng ít có khả năng biết.
Từ bỏ tri thức đi! Tôi dạy bạn từ bỏ tri thức. Tôi
không dạy bạn từ bỏ thế giới; điều đó là đần độn, xuẩn
ngốc, vô nghĩa! Tôi dạy bạn từ bỏ tri thức. Và điều kì lạ
xảy ra...
Tôi đã bắt gặp những người từ bỏ thế giới. Trong
rặng Himalayas tôi đã gặp một tu sĩ Hindu - rất già, ông
ấy phải đã chín mươi tuổi hay còn hơn nữa. Trong suốt
bẩy mươi năm ông ấy đã là một sannyasin, trong bẩy
mươi năm ông ấy đã sống bên ngoài xã hội. Ông ấy đã từ
bỏ xã hội, ông ấy đã không quay lại đồng bằng trong bẩy
mươi năm. Khi ông ấy mới chỉ là một thanh niên hai
mươi tuổi, ông ấy lên Himalayas, và ông ấy đã không
quay trở lại quê hương lần nữa. Ông ấy chưa bao giờ trở
lại trong đám đông, nhưng ông ấy vẫn là một người
Hindu. Ông ấy vẫn nghĩ về bản thân mình như một người
Hindu.
Tôi bảo ông ấy, “Ông từ bỏ xã hội nhưng ông không
từ bỏ tri thức của ông, và tri thức thì do xã hội trao cho.
Ông vẫn là người Hindu. Ông vẫn là đám đông - bởi vì là
người Hindu chính là đám đông. Ông vẫn chưa là một cá
nhân; ông vẫn chưa trở thành không.”
Ông ấy này hiểu ra. Ông ấy bắt đầu khóc. Ông ấy
nói, “Chẳng ai nói điều này cho tôi cả.”
Bạn có thể từ bỏ xã hội, bạn có thể từ bỏ của cải, bạn
có thể từ bỏ vợ, con, chồng, gia đình, bố mẹ - điều ấy thật dễ dàng, chẳng có gì nhiều trong đó cả. Điều thực sự
là từ bỏ tri thức. Những điều này là ở bên ngoài bạn, bạn
có thể trốn thoát khỏi chúng - nhưng bạn sẽ trốn ở đâu và
làm thế nào để thoát khỏi cái gì đó ở bên trong bạn, cái
vẫn bám ở đó? Cái đó sẽ đi với bạn. Bạn có thể lên hang
động Himalayas mà bạn thì vẫn cứ còn là một người
Hindu, bạn vẫn cứ còn là người Mô ha mét giáo, bạn vẫn
cứ còn là người Ki tô giáo. Thế thì bạn sẽ không thể nào
thấy được cái đẹp và chân lí của Himalayas. Bạn sẽ
không thể thấy được cái trong trắng của Himalayas.
Người Hindu không thể nào thấy được nó, người Hindu
là mù quáng.
Là người Hindu có nghĩa là mù quáng; là người Mô
ha mét giáo có nghĩa là mù quáng. Bạn có thể dùng các
công cụ khác nhau để trở thành mù quáng, điều đó cũng
chẳng thành vấn đề. Người này mù vì Koran, người khác
mù vì Bhagava Gita, và ai đó khác mù vì Kinh thánh -
nhưng đôi mắt đầy tri thức.
Phật nói: Cái không cho phép thông minh vận hành.
Từ phật bắt nguồn từ buddhi - nó có nghĩa là thông
minh. Khi bạn là không, khi không có gì hàm chứa bạn,
khi không có gì xác định bạn, khi không có gì chứa đựng
bạn, khi bạn chỉ là sự cởi mở, thế thì có thông minh. Tại
sao? - vì khi bạn là không thì sợ hãi tan biến, và khi sợ
hãi tan biến, bạn vận hành một cách thông minh. Nếu cái
sợ có đó, bạn không thể vận hành một cách thông minh
được. Sợ hãi làm bạn què quặt, làm tê liệt bạn.
Bạn cứ làm mọi thứ bởi vì sợ hãi; đó là lí do tại sao
bạn không thể trở thành vị Phật, mà chính là quyền tập
ấm của bạn! Bạn là đức hạnh do sợ hãi, bạn cứ tới đền
đài bởi vì sợ hãi, bạn tuân theo lễ nghi nào đó bởi vì sợ
hãi, bạn cầu nguyện Thượng đế bởi vì sợ hãi. Và người
sống trong sợ hãi thì không thể nào thông minh được. Sợ
hãi là chất độc đối với thông minh. Làm sao bạn có thể
thông minh nếu có sợ hãi? Sợ hãi cứ kéo bạn theo đủ mọi
cách khác nhau. Nó sẽ không cho phép bạn được dũng
cảm, nó sẽ không cho phép bạn bước vào trong cái chưa
biết, nó sẽ không cho phép bạn trở thành người phiêu
lưu, nó sẽ không cho phép bạn rời khỏi bãi rào, đám
đông. Nó sẽ không cho phép bạn trở thành độc lập, tự do;
nó sẽ giữ bạn là nô lệ. Và chúng ta là nô lệ theo biết bao
nhiêu cách. Việc nô lệ của chúng ta là đa chiều: chính trị,
tâm linh, tôn giáo, theo đủ mọi cách chúng ta là nô lệ, và
sợ hãi là gốc rễ của nó.
Bạn không biết liệu Thượng đế có tồn tại hay không,
và bạn vẫn cầu nguyện sao? Điều này là rất không thông
minh, điều này là xuẩn ngốc. Bạn cầu nguyện ai? Bạn
không biết liệu Thượng đế có hay là không. Bạn không
có bất kì tin cậy nào, bởi vì làm sao bạn có thể có bất kì
tin cậy nào được? - bạn đâu đã biết. Cho nên chỉ từ sợ hãi
mà bạn cứ níu bám lấy ý tưởng về Thượng đế. Bạn đã
từng quan sát nó chưa? - khi nào bạn có nhiều sợ hãi, bạn
nhớ tới Thượng đế nhiều hơn. Khi ai đó chết, bạn bắt đầu
nhớ.
Tôi đã biết một người đi theo J. Krishnamurti; ông ấy
là một học giả rất nổi tiếng, cả nước này đều biết tới. Và
trong ít nhất bốn mươi năm ông ấy là là một người đi
theo Krishnamurti, cho nên ông ấy không tin vào Thượng
đế, ông ấy không tin vào thiền, ông ấy không tin vào cầu
nguyện.
Thế rồi một hôm việc xảy ra là ông ấy ngã bệnh, ông
ấy bị đau tim. Vào dịp ấy tôi cũng ở cùng thành phố đó.
Con trai ông ấy gọi điện cho tôi và nói, “Bố con đang trong tình trạng nguy kịch. Nếu thầy có thể tới thì sẽ là
niềm động viên rất lớn cho ông. Đây có thể là những giây
phút cuối cùng của ông.”
Thế là tôi xô tới. Khi tôi vào trong phòng, ông ấy
đang nằm trên giường mắt nhắm nghiền lẩm bẩm,
“Rama, Rama, Rama.”
Tôi không thể nào tin vào điều đó được! Suốt bốn
mươi năm ông ấy đã liên tục nói, “Không có Thượng đế,
và tôi không tin...” Và điều gì đã xảy ra cho ông già này?
Tôi lay ông ấy dậy và hỏi, “Ông đang làm gì vậy?”
Ông ấy nói, “Đừng quấy rầy tôi. Để tôi làm điều tôi
muốn.”
Nhưng tôi nói, “Thế này thì chống lại Krishnamurti
quá lắm.”
Ông ấy nói, “Quên Krishnamurti đi! Tôi đang chết
mà ông lại nói về Krishnamurti sao?”
“Nhưng thế bốn mươi năm qua thì sao, phí hoài à?
Và ông chưa bao giờ tin rằng một japa - lời tụng - lại có
thể có ích, hay lời cầu nguyện lại có thể có ích.”
Ông ấy nói, “Vâng, điều đó đúng. Tôi đã chưa bao
giờ tin cả, nhưng bây giờ tôi đang đối mặt với cái chết.
Có sợ hãi lớn trong tôi. Có thể - ai mà biết được -
Thượng đế có thật, và trong vài phút tôi sẽ gặp ngài. Nếu
ngài không có, thế thì chẳng có vấn đề gì; chẳng có gì
mất bởi việc tôi tụng, ‘Rama, Rama’. Nếu ngài là có, thì
tôi được cái gì đó. Ít nhất thì tôi cũng có thể nói với ngài,
‘Vào khoảnh khắc cuối tôi đã nhớ tới ngài.’”
Bạn có quan sát điều đấy không? - bất kì khi nào bạn
khổ thì bạn bắt đầu nhớ tới Thượng đế nhiều hơn. Khi
bạn đang trong nguy hiểm, bạn nhớ tới Thượng đế. Khi
bạn hạnh phúc và mọi thứ diễn ra trôi chảy, bạn quên hết
về Thượng đế. Thượng đế của bạn chẳng là gì ngoài sợ
hãi của bạn được phóng chiếu ra.
Phật nói: từ sợ hãi không có khả năng thông minh
nào cả. Và sợ hãi có đó bởi một lí do rất nền tảng - vì bạn
nghĩ bạn có đó! Đó là lí do tại sao có sợ hãi. Bản ngã
đem theo sợ hãi như cái bóng. Bản thân bản ngã là ảo
tưởng, nhưng bản ngã phủ một cái bóng lớn lên cuộc
sống bạn. Bởi vì bạn nghĩ ‘tôi đây’, do đó mới có sợ hãi:
“Có thể nếu mình làm điều gì đó sai, mình sẽ bị ném vào
địa ngục, thế thì mình sẽ khổ.” Nếu bạn nghĩ ‘tôi đây’,
thế thì tự nhiên bạn nghĩ tới việc phải dự phòng cho cuộc
sống tương lai, cho thế giới khác - làm điều gì đó tốt, tích
luỹ thêm một chút punya.
Bạn biết đấy, tên của thành phố này - Poona - bắt
nguồn từ punya, đức hạnh. Tích luỹ thêm một chút đức
hạnh, tích luỹ thêm một cái gì đó trong tài khoản, trong
số dư ngân hàng của bạn để cho bạn có thể chỉ cho
Thượng đế: “Ngài nhìn đây này, con đã thực sự là một
đứa con tốt. Con đã làm những điều này: nhịn ăn biết bao
nhiêu ngày, chưa bao giờ nhìn vào bất kì người đàn bà
nào với con mắt ác độc, chưa bao giờ là kẻ cắp, đã đem
bao nhiêu tiền đi làm từ thiện cho ngôi đền này và nhà
thờ nọ. Con bao giờ cũng hành xử như con đã được trông
đợi làm như vậy.” Người ta bắt đầu tích luỹ đức hạnh chỉ
trong trường hợp nó được cần tới trong thế giới khác.
Nhưng đây là xuất phát từ cái sợ. Người tốt của bạn,
người xấu của bạn tất cả đều sống trong sợ hãi. Người
thông minh sống không sợ hãi. Nhưng để sống không sợ
hãi, bạn sẽ phải đi tới nhìn thẳng vào sự kiện của bản ngã
của bạn. Nếu không có bản ngã, nếu ‘tôi không có’, thế
thì sợ hãi có thể tồn tại ở đâu? Thế thì, “Tôi không thể bị ném vào địa ngục được bởi vì ngay từ đầu tôi đã không
có rồi, và tôi cũng không thể được thưởng trên cõi trời
bởi vì ngay từ đầu tôi đã không có rồi. Tôi không có, chỉ
Thượng đế là có, cho nên làm sao tôi có thể là tội nhân
hay thánh nhân được? Nếu chỉ Thượng đế là có thế thì
cái gì có đó để cho tôi phải sợ? Tôi đã không được sinh
ra, bởi vì ngay từ đầu tôi đã không có; và tôi sẽ không
chết, bởi vì ngay từ đầu tôi đã không có. Cho nên không
sinh, không diệt. Tôi không tách biệt, tôi là một với sự
tồn tại này. Như một con sóng tôi có thể biến mất, nhưng
như đại dương thì tôi sẽ sống. Và đại dương là thực tại,
con sóng là bất kì.”
Cái không không biết đến cái sợ, cái tham lam, tham
vọng, bạo hành. Cái không không biết đến tầm thường,
ngu si, xuẩn ngốc. Cái không không biết địa ngục, cõi
trời. Và bởi vì không có cái sợ, cho nên có thông minh.
Đây là một trong những phát biểu vĩ đại cần phải ghi
nhớ: thông minh là khi không có cái sợ. Thế thì hành
động có phẩm chất hoàn toàn khác cho nó. Khi bạn hành
động từ cái không của mình, hành động đó có phẩm chất
hoàn toàn khác cho nó. Đấy là điều thiêng liêng, đấy là
điều thần thánh. Tại sao? - bởi vì khi bạn hành động từ
cái không, đấy không phải là phản ứng, khi bạn hành
động từ cái không, đấy không phải là kế hoạch, khi bạn
hành động từ cái không, đấy không phải là diễn tập. Khi
bạn hành động từ cái không, đấy là tự phát, thế thì bạn
sống khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Bạn là cái
không: tình huống nảy sinh và bạn đáp ứng cho nó. Nếu
bạn là bản ngã, bạn chẳng bao giờ đáp ứng, bạn bao giờ
cũng phản ứng.
Để tôi giải thích điều đó cho bạn. Khi bạn là bản ngã
bạn bao giờ cũng phản ứng. Chẳng hạn, nếu bạn nghĩ bạn
là người rất, rất tốt, bạn nghĩ bạn là thánh nhân, và thế rồi
một cái gì đó xảy ra - một ai đó xúc phạm bạn - bây giờ,
bạn sẽ đáp ứng cho xúc phạm này hay phản ứng lại? Nếu
bạn nghĩ bạn là thánh nhân, bạn sẽ nghĩ ba lần về cách
phản ứng, bạn phải làm gì để cứu tính chất thánh của
mình nữa; nếu không thì người này có thể phá huỷ tính
chất thánh đó chỉ bằng việc xúc phạm bạn. Bạn không
thể tự phát được, bạn phải nhìn lại, bạn phải cân nhắc về
nó. Và thời gian trôi qua. Nó thậm chí có thể chỉ là một
khoảnh khắc, nhưng thời gian trôi qua. Nó không thể nào
tự phát, nó không thể nào trong khoảnh khắc được. Và
bạn hành động từ quá khứ. Bạn nghĩ, “Thế này thì quá
lắm. Nếu mình mà giận dữ” - và giận dữ đang tới - “nếu
mình trở nên giận dữ, tính chất thánh của mình sẽ bị mất.
Thế thì phải trả giá đắt quá cho điều này”... bạn bắt đầu
mỉm cười. Để cứu lấy tính chất thánh của mình bạn mỉm
cười.
Nụ cười này là giả tạo; nó không đến từ bạn, nó
không đến từ trái tim bạn. Nó chỉ có đó, sơn vẽ lên môi.
Nó là giả. Bạn không mỉm cười, đấy chỉ cái mặt nạ của
bạn mỉm cười mà thôi. Bạn đang lừa dối. Bạn là nhà thôi
miên! Bạn là giả! Bạn là đồ rởm! Nhưng bạn đã cứu
được tính chất thánh của mình: bạn hành động từ quá
khứ, từ hình ảnh đặc biệt của mình và ý tưởng về con
người mình. Đây là phản ứng.
Con người của tự phát thì không phản ứng, người ấy
đáp ứng. Khác biệt là gì? Người ấy chỉ cho phép tình
huống vận hành trên mình, và người ấy cho phép việc
đáp ứng xảy ra, dù nó là cái gì.
Người sống từ quá khứ là dự kiến trước được, còn
người sống khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia thì
không dự đoán được. Và dự đoán được là trở thành vật. 

Là không dự đoán được thì là tự do - đó là chân giá trị
của con người. Cái ngày bạn là người không dự đoán
được... chẳng ai biết được, kể cả bạn; nhớ lấy, kể cả
bạn... Nếu bạn đã biết bạn sẽ làm cái gì, thế thì không
còn đáp ứng nữa. Bạn đã sẵn sàng, đấy là việc diễn tập.
Chẳng hạn, bạn sắp đi phỏng vấn. Bạn liền diễn tập:
bạn nghĩ cái gì sẽ được hỏi và cách bạn sẽ trả lời nó.
Điều ấy xảy ra hàng ngày, nó rõ ràng làm sao. Tối nào tôi
cũng thấy mọi người - cả hai loại người đều có đó: khi ai
đó tới đây mà đã được chuẩn bị sẵn, đã nghĩ sẵn về điều
người đó định nói với tôi, đã chuẩn bị nó sẵn sàng; bài
viết đã sẵn đấy, anh ta chỉ việc lặp lại nó, anh ta đã quyết
định mọi thứ về điều anh ta định hỏi. Và tôi có thể thấy
khó khăn của người này, bởi vì khi anh ta tới trước tôi,
khi anh ta ngồi cạnh tôi, đấy lại là một tình huống khác.
Và thay đổi bắt đầu xảy ra. Bầu không khí, sự hiện diện,
tình yêu của người ấy với tôi, tình yêu của tôi với người
ấy, sự hiện diện của người khác, tin cậy có đó rất hiển
nhiên, tình yêu đang tuôn chảy, trạng thái thiền - và điều
đó hoàn toàn khác với cái anh ta đã nghĩ từ trước. Bây
giờ bất kì cái gì anh ta đã chuẩn bị đều có vẻ chẳng liên
quan gì nữa; nó không thích hợp. Anh ta trở nên bồn
chồn, bất ổn - “Phải làm gì đây?” Và anh ta chẳng biết
làm sao hành động một cách tự phát, làm sao hành động
từ tình huống này.
Anh ta đến trước tôi nhưng tôi thấy cái giả tạo của
nó. Câu hỏi của anh ta không xuất phát từ trái tim anh ta.
Nó chỉ thoát ra từ cổ họng, nó không có chiều sâu. Tiếng
nói của anh ta không có chiều sâu. Bản thân anh ta không
chắc chắn liệu anh ta muốn hỏi nó thêm nữa hay không,
nhưng anh ta đã chuẩn bị nó, có thể nhiều ngày. Cho nên
tâm trí cứ nói, “Hỏi đi. Mình đã chuẩn bị về nó rồi.” Và
anh ta thấy cái chẳng liên can gì của nó. Có thể nó đã
được trả lời rồi. Có thể trong câu trả lời cho ai đó khác
tôi đã trả lời nó rồi. Có thể chính tình huống là ở chỗ tâm
trí anh ta đã thay đổi và câu hỏi không còn có nghĩa nữa.
Nhưng anh ta hành động từ quá khứ: đó là phản ứng. Nó
sẽ có vẻ vụng về. Anh ta cảm thấy bối rối nếu anh ta
không có gì để hỏi. Và anh ta không thể lên tiếng bởi vì
anh ta là người rởm, mà anh ta cũng không thể đơn giản
nói, “Xin chào,” anh ta không thể nói, “Con muốn chỉ
ngồi trước thầy một phút thôi, và con chẳng có gì để nói
cả.” Anh ta không thể nào hành động từ khoảnh khắc
này. Anh ta không thể ở đây và bây giờ; anh ta cảm thấy
bối rối. Anh ta phải hỏi, nếu không thì mọi người sẽ nghĩ
gì? - “Thế thì tại sao, ngay chỗ đầu tiên, anh đã yêu cầu
được trả lời nếu anh chẳng có gì để hỏi cả?” Cho nên anh
ta hỏi. Anh ta không còn đứng sau nó. Đấy là một câu
hỏi cũ rích vô giá trị mà chẳng có nghĩa lí gì - nhưng anh
ta cứ hỏi.
Và đôi khi - bạn có thể đã từng quan sát - với vài
người tôi cứ trả lời mãi và để thời gian rất lâu, còn đối
với một vài người tôi trả lời một cách rất ngắn ngủi. Bất
kì khi nào tôi thấy rằng ai đó là rởm, câu hỏi của người
ấy là rởm, là một câu hỏi đã chuẩn bị sẵn, thế thì thật là
vô nghĩa mà trả lời anh ta. Chỉ vì tôn trọng anh ta mà tôi
nói đôi chút với anh ấy, nhưng tôi không còn quan tâm
nữa. Và người hỏi câu hỏi rởm cũng chẳng quan tâm tới
điều tôi đang nói - bởi vì người ấy thậm chí còn không
quan tâm tới câu hỏi của mình, thì làm sao người ấy có
thể quan tâm tới câu trả lời được?
Nhưng còn có những người khác... dần dần cái rởm
đó biến mất và sannyasin ngày càng trở nên đúng hơn,
chân thực hơn. Thế thì ai đó đơn giản ngồi đó mà cười to. 

Đó là điều xảy ra trong khoảnh khắc đó. Người ấy không
cảm thấy bối rối, người ấy không cảm thấy rằng không
đúng chỗ. Khong phải như vậy. Bản chuẩn bị sẵn là
không đúng chỗ.
Đối diện với cái không, bạn cũng phải là không. Chỉ
thế thì mới có thể có gặp gỡ, bởi vì chỉ những điều tương
tự mới có thể gặp nhau. Thế thì có niềm vui lớn, thế thì
có cái đẹp lớn. Thế thì có đối thoại. Có thể không một lời
thốt ra, nhưng có đối thoại. Đôi khi ai đó tới và đơn giản
ngồi và bắt đầu lắc lư, nhắm mắt, đi vào bên trong - đó là
cách tới với tôi; người ấy chỉ đi vào bên trong mình và
đơn giản nhảy vào tôi và cho phép tôi nhảy vào người ấy,
hoặc đơn giản chạm chân tôi, hay đơn giản nhìn vào mắt
tôi. Hay đôi khi một câu hỏi lớn cũng nảy sinh, nhưng
đấy là trong khoảnh khắc đó - thế thì nó là đúng, thế thì
nó có sức mạnh mênh mông, thế thì nó tới từ chính cốt
lõi sâu xa nhất của bạn. Nó có liên quan.
Khi bạn hành động từ cái không, bạn đáp ứng; nó
không còn là phản ứng nữa. Nó có chân lí, nó có tính hợp
lệ trong nó, chân thực. Nó là sự tồn tại. Nó là tức khắc, tự
phát, đơn giản, hồn nhiên. Và hành động này không tạo
ra nghiệp nào.
Nhớ lấy, từ nghiệp karma có nghĩa là hành động, một
hành động đặc biệt. Không phải tất cả các hành động đều
tạo ra nghiệp, nhớ lấy. Phật đã sống sau chứng ngộ của
mình trong bốn mươi hai năm. Ông ấy đã không ngồi cả
quãng thời gian đó dưới cây bồ đề mà không làm gì cả.
Ông ấy đã làm cả nghìn lẻ một thứ, nhưng nghiệp không
được tạo ra. Ông ấy đã hành động! - nhưng đấy không
còn là phản ứng nữa, đấy là đáp ứng.
Nếu bạn đáp ứng từ cái không thì nó chẳng để lại cái
gì, nó không để lại dấu vết nào lên bạn, nghiệp không
được tạo ra. Bạn vẫn còn tự do. Bạn cứ hành động mà
bạn vẫn còn tự do. Cũng dường như là con chim bay trên
bầu trời, không để lại dấu vết nào, dấu chân nào. Người
sống trong bầu trời của cái không cũng không để lại dấu
chân nào, không để lại nghiệp nào, không để lại cái gì.
Hành động của người đó là toàn bộ, nó đã kết thúc, nó
trọn vẹn. Và một hành động trọn vẹn không treo quanh
bạn như mây; chỉ những hành động không trọn vẹn mới
lởn vởn quanh bạn.
Ai đó xúc phạm bạn - bạn muốn đánh người đó
nhưng bạn đã không làm. Bạn cứu tính thánh thiện của
mình, bạn mỉm cười và ban phúc cho người đó và về nhà.
Bây giờ thì vấn đề thành khó khăn: bây giờ cả đêm bạn
sẽ mơ rằng bạn đang đánh người đó. Bạn thậm chí còn có
thể giết người đó trong giấc mơ. Trong nhiều năm điều
đó sẽ lởn vởn quanh bạn; nó là không trọn vẹn. Bất kì cái
gì không trọn vẹn cũng đều nguy hiểm. Khi bạn là rởm
mọi thứ đều trở thành không trọn vẹn. Bạn yêu người đàn
bà nhưng không đủ để làm cho nó thành trọn vẹn. Ngay
cả trong khi làm tình bạn cũng không hoàn toàn có đấy;
có thể bạn vẫn đang diễn tập thôi. Có thể bạn đã đọc sách
nói về tình dục đang có sẵn. Có thể bạn đã đọc Kam
Sutra của Vatsyayana, hay Các thầy và Johnson hay Báo
cáo Kinsey, và bạn đã học cách làm tình. Và bạn đã sẵn
sàng, hiểu biết! Bây giờ người đàn bà này chỉ là cơ hội
để thực hành hiểu biết của bạn. Cho nên bạn đang thực
hành tri thức của mình, nhưng nó sẽ là không trọn vẹn
bởi vì bạn không có trong đó. Và thế thì nó là không thoả
mãn, thế thì bạn cảm thấy thất vọng - và nguyên nhân là
do tri thức bạn. 


Tình yêu không phải là cái gì đó được thực hành.
Tình yêu cần không bị thực hành; tình yêu phải được
sống, trong hoàn toàn hồn nhiên. Cuộc sống không phải
là vở kịch - bạn không cần chuẩn bị, bạn không cần đi
vào diễn tập cho nó. Để nó tới khi nó tới, và tự phát.
Nhưng làm sao bạn có thể tự phát nếu bản ngã có đó?
Bản ngã là nghệ sĩ lớn, bản ngã là chính khách lớn; bản
ngã cứ thao túng bạn. Bản ngã nói, “Nếu mình thực sự
muốn hành động theo cách lễ phép thì chuẩn bị là cần
thiết. Nếu mình muốn hành động theo cách có văn hoá
mình phải diễn tập nó trước.” Bản ngã là diễn viên, và
bởi vì diễn viên này mà bạn cứ làm lỡ vui vẻ, lễ hội, ân
huệ của cuộc sống.
Phật nói: Khi hành động phát xuất từ không thì nó
không tạo ra nghiệp. Thế thì nó là toàn bộ đến mức là
chính tính toàn bộ của nó... và vòng tròn là trọn vẹn và
kết thúc. Bạn chẳng bao giờ nhìn lại. Tại sao bạn cứ nhìn
lại mãi thế? - bởi vì có những thứ không trọn vẹn. Bất kì
khi nào cái gì đó là trọn vẹn, bạn không nhìn lại. Nó đã
kết thúc! Toàn bộ vấn đề đã đạt tới, không còn gì nữa
phải làm về nó. Hành động từ cái không và hành động
của bạn là toàn bộ, và hành động toàn bộ không để lại kí
ức nào - tôi muốn nói không kí ức tâm lí nào.
Kí ức bị bỏ lại trong bộ não, nhưng không có vẩn vơ
về tâm lí. Và người không có vẩn vơ nào, theo định nghĩa
của tôi là một sannyasin.
Khi hành động là hoàn toàn trọn vẹn, bạn tự do với
nó. Khi hành động là toàn bộ, bạn trượt ra ngoài nó -
giống như con rắn thoát ra khỏi lớp da cũ và lớp da cũ bị
bỏ lại sau. Chỉ những hành động không trọn vẹn mới trở
thành nghiệp, nhớ điều đó. Nhưng để có hành động trọn
vẹn, nó phải bắt nguồn từ cái không.
Có ba mức độ nhận biết: nhận biết về cái ta, nhận
biết về thế giới, và nhận biết về hoang tưởng chen giữa
cái ta và thế giới. Fritz Perls gọi mức trung gian này là
DMZ - vùng phi quân sự - và nó vận hành để giữ chúng
ta không là toàn bộ trong đụng chạm với chính mình và
với thế giới. DMZ chứa các định kiến của chúng ta, các
định kiến mà qua chúng, chúng ta nhìn thế giới và người
khác và chính bản thân chúng ta. Nếu chúng ta nhìn vào
thế giới qua thành kiến của mình, chúng ta không thể nào
thấy chân lí của nó. Chúng ta không thể nào thấy cái
đang đấy. Chúng ta tạo ra ảo tưởng - đó là điều người
Hindu gọi là ảo vọng maya.
Nếu chúng ta nhìn ra ngoài với ý chỉ trích, với định
kiến sẵn, thế thì chúng ta tạo ra thế giới của riêng mình,
chính là ảo vọng, ảo tưởng, phóng chiếu. Nếu chúng ta
nhìn vào chính mình qua những chỉ trích này cùng tri
thức và ý kiến, chúng ta tạo ra ảo tưởng khác - bản ngã.
Thế thì chúng ta không thể thấy được thực tại có đó bên
trong chúng ta. Chúng ta không thể thấy cái bên ngoài có
đấy, và chúng ta cũng không thể thấy được cái ở bên
trong đây. Khi bên ngoài bị lỡ, chúng ta tạo ra ảo tưởng,
ảo vọng; khi bên trong bị lỡ, chúng ta tạo ra bản ngã,
ahankar. Và cả hai điều này đều xảy ra qua DMZ - vùng
phi quân sự .
Gurdjieff quen gọi vùng này là ‘vùng đệm’. DMZ là
một cái tên hay cho nó. DMZ càng lớn, người này càng
bệnh hoạn, càng thần kinh. DMZ càng nhỏ, người này
càng mạnh khoẻ, cành lành mạnh về tâm lí. Và khi DMZ
hoàn toàn biến mất và không còn ý nghĩ nào chen vào
giữa bạn và thế giới - không một ý nghĩ - thì đó là điều Phật ngụ ý qua cái không. Thế thì người này hoàn toàn
lành mạnh, trong sạch, toàn bộ.
Trước khi chúng ta đi vào lời kinh này, cần thêm đôi
điều về bản ngã này. Ảo tưởng về cái ta cần phải được
hiểu.
Điều thứ nhất: bản ngã không phải là thực tại, nó chỉ
là ý tưởng. Bạn không đến với nó khi bạn đi vào trong
thế giới này, bạn không mang nó theo cùng mình. Nó
không phải là một phần con người bạn. Khi đứa trẻ được
sinh ra, nó không đem bản ngã vào trong thế giới. Bản
ngã là cái gì đó người đó học được, nó không phải là một
phần của gen.
Gordon Alport gọi cái ngã là proprium, và nó có thể
được định nghĩa bằng việc xem xét dạng tính từ
propriate, xem như một từ xấp xỉ. ‘Proprium’ nói tới cái
gì đó thuộc về hay là duy nhất cho một người. Cái ta
được tạo ra bởi vì từng cái không là duy nhất, mỗi cái
không có cách riêng của nó để nở hoa. Bởi tính duy nhất
này mà có khả năng tạo ra bản ngã.
Tôi yêu theo cách của tôi, bạn yêu theo cách của bạn.
Tôi hành xử theo cách của tôi, bạn hành xử theo cách của
bạn. Có khác biệt giữa mọi người, nhưng chỉ là khác biệt.
Hoa hồng nở hoa theo cách này còn hoa cúc vạn thọ nở
hoa theo cách khác, nhưng cả hai đều nở hoa. Việc nở
hoa là một, cái không là một. Những từng cái không lại
vận hành theo cách duy nhất. Bởi điều này mà có khả
năng tạo ra bản ngã.
Có bẩy cánh cửa mà từ đó bản ngã đi vào, bẩy cánh
cửa mà từ đó chúng ta học bản ngã. Những cánh cửa đó
cần phải được hiểu, bởi vì nếu bạn hiểu chúng, bạn sẽ có
khả năng loại bỏ bản ngã... bởi vì những cánh cửa này,
khi được hiểu thật đúng, có thể được khép lại. Thế thì
bản ngã không còn được tạo ra nữa. Được thấy đúng,
được hiểu thật rõ - rằng bản ngã chỉ là cái bóng - nó bắt
đầu biến mất theo ý nó.
Cánh cửa thứ nhất Alport gọi là ‘cái ta thân thể’.
Chúng ta không được sinh ra với cảm giác về cái ta. Đứa
trẻ trong bụng mẹ không có cảm giác về cái ta. Nó là một
với mẹ; nó hoàn toàn là một, được nối liền, được bắc cầu
với người mẹ. Và người mẹ là toàn bộ sự tồn tại của nó,
vũ trụ của nó. Nó không biết rằng nó là tách biệt. Tách
biệt tới khi đứa con ra khỏi bụng mẹ, khi cây cầu của nó
với người mẹ bị cắt đứt và đứa trẻ phải thở theo cách
riêng của nó. Trong thực tế, việc thở không phải là cái gì
đó mà đứa trẻ định làm. Làm sao nó làm được? Nó thậm
chí còn chưa thể thở được, cho nên nó chưa có đó. Việc
thở xảy ra. Không phải là đứa trẻ đang làm điều đó, đấy
là việc xảy ra. Nó đi ra từ cái không: đứa trẻ bắt đầu thở.
Những giây phút đó là rất, rất có giá trị, chủ chốt, nguy
hiểm. Bố mẹ, bác sĩ, y tá, những người coi sóc việc sinh
tất cả đều trong chờ đợi lớn lao - liệu đứa trẻ có thở hay
không.
Đứa trẻ không thể bị bắt buộc, đứa trẻ không thể bị
thuyết phục, và đứa trẻ không thể làm bất kì cái gì của
riêng nó. Nếu việc ấy định xảy ra thì nó sẽ xảy ra. Nó có
thể không xảy ra, nó có thể xảy ra. Đôi khi đứa trẻ chẳng
bao giờ thở, thế thì chúng ta nghĩ chúng sinh ra đã chết
rồi.
Thật là phép mầu về cách đứa trẻ thở hơi thở đầu
tiên: nó chưa bao giờ làm điều đó trước đấy, nó không
thể nào được chuẩn bị về điều đó. Nó không biết rằng cơ
chế thở là tồn tại. Phổi còn chưa hoạt động trước đây,
nhưng việc thở tới và phép mầu bắt đầu. Nhưng việc thở tới từ cái không, nhớ lấy. Về sau bạn sẽ bắt đầu nói, ‘Tôi
thở.” Điều đó là ngớ ngẩn. Bạn không thở: việc thở xảy
ra. Đừng tạo ra ý tưởng về cái ‘tôi’, đừng nói, ‘tôi thở.’
Không ai thở cả! Điều đó không nằm trong khả năng của
bạn để làm hay không làm.
Bạn có thể thử: dừng việc thở lại vài giây và bạn sẽ
biết rằng cũng khó mà dừng việc thở lại. Trong vài giây
một xô đẩy lớn tới từ không đâu cả và bạn bắt đầu thở
lại. Hay dừng việc thở bên ngoài lại; thử vài giây xem và
bỗng nhiên bạn thấy một xô đẩy lớn. Nó ở bên ngoài bạn.
Việc thở muốn tới.
Chính cái ‘không’ đang thở trong bạn... hay bạn có
thể gọi nó là Thượng đế - cũng chẳng khác biệt gì, nó là
một. Không hay Thượng đế, đều có cùng nghĩa. ‘Không’
trong Phật giáo có nghĩa đích xác là Thượng đế mà Ki tô
giáo, Judaism, Hindu nói tới. Thượng đế là không.
Chúng ta không sinh với cảm giác về cái ta. Nó
không phải là một phần thiên tư trong gen của chúng ta.
Trẻ con không thể nào phân biệt được giữa cái ta và thế
giới bao quanh nó. Cho dù khi đứa trẻ đã bắt đầu thở,
cũng phải mất nhiều tháng để nó trở nên nhận biết rằng
có phân biệt giữa bên trong nó và bên ngoài. Dần dần,
qua học tập phức tạp tăng dần và kinh nghiệm cảm nhận,
một phân biệt mang máng đã phát triển giữa cái gì đó
‘trong tôi’ và các cái khác ‘ngoài kia’.
Đây là cánh cửa đầu tiên mà từ đó bản ngã đi vào:
phân biệt rằng có cái gì đó ‘trong tôi’. Chẳng hạn: đứa trẻ
cảm thấy đói, nó cảm thấy điều đó tới từ bên trong. Và
thế rồi người mẹ quở trách nó, và nó cảm thấy điều đó tới
từ bên ngoài. Bây giờ một phân biệt nhất định phải được
cảm thấy dần dần - rằng có những thứ tới từ bên trong, và
có những thứ tới từ bên ngoài. Khi người mẹ mỉm cười,
nó có thể thấy nụ cười tới từ đó, và rồi nó đáp ứng, nó
mỉm cười. Bây giờ nó cảm thấy nụ cười tới từ bên trong,
đâu đó bên trong. Ý tưởng về bên trong và bên ngoài nảy
sinh. Đây là kinh nghiệm thứ nhất về bản ngã.
Trong thực tế không có phân biệt giữa bên ngoài và
bên trong. Bên trong là một phần của bên ngoài và bên
ngoài là một phần của bên trong. Bầu trời bên trong ngôi
nhà bạn và bầu trời bên ngoài ngôi nhà bạn không phải là
hai bầu trời, nhớ lấy; chúng là một bầu trời. Và như thế,
đấy cũng là trường hợp với... bạn ở đó và tôi ở đây không
phải là hai. Chúng ta là hai khía cạnh của cùng một năng
lượng, hai mặt của cùng một đồng tiền. Nhưng đứa trẻ
bắt đầu học các con đường của bản ngã.
Cánh cửa thứ hai là tự đồng nhất. Đứa trẻ học tên nó,
hiểu rằng cái phản xạ trong gương hàng ngày là về cùng
một người như đã thấy hôm qua, và tin rằng cảm giác về
tôi hay cái ta vẫn còn trong khuôn mặt của những kinh
nghiệm thay đổi. Đứa trẻ cứ tiếp tục biết rằng mọi thứ
đều thay đổi. Đôi khi nó đói, đôi khi nó không đói; đôi
khi nó ngủ và đôi khi nó thức; và đôi khi nó giận dữ và
đôi khi nó yêu thương - mọi thứ cứ thay đổi. Hôm nay
trời đẹp, hôm khác trời sầm xì và ảm đạm. Nhưng nó
đứng trước gương...
Bạn đã bao giờ quan sát một đứa nhỏ ngồi trước
gương chưa? Nó cố gắng bắt lấy đứa trẻ bên trong gương
bởi vì nó nghĩ đứa trẻ đấy ‘có đó bên ngoài’. Nếu nó
không thể bắt lấy được, thì nó đi vòng ra sau và nhìn sau
gương - có thể có đứa trẻ trốn ở đấy chăng? Nhưng dần
dần nó bắt đầu nhận ra rằng chính nó là người được phản
xạ. Và thế thì nó bắt đầu cảm thấy một loại liên tục: hôm
qua cũng cùng khuôn mặt ấy, hôm nay cũng cùng khuôn mặt ấy trong gương. Khi trẻ con tìm kiếm lần đầu tiên
trong gương thì chúng trở nên bị thôi miên với gương.
Chúng không thể rời gương ra được. Chúng đi đi lại lại
phòng ngủ để nhìn chúng là ai.
Mọi thứ cứ thay đổi mãi. Một thứ dường như không
đổi: hình ảnh mình. Bản ngã có một cánh cửa khác mà từ
đó nó đi vào: hình ảnh mình.
Cánh cửa thứ ba là lòng tự trọng. Điều này liên quan
tới cảm giác tự hào của đứa trẻ xem như kết quả của việc
tập làm một việc theo cách riêng của nó: làm, thám hiểm,
chế tạo. Khi một đứa trẻ học bất kì cái gì - chẳng hạn nó
học một từ, ‘bố’; thế thì nó cứ liên tục nói, “bố, bố,” cả
ngày. Không không bỏ lỡ một cơ hội nào để dùng từ này.
Khi đứa trẻ bắt đầu tập đi, nó thử đi cả ngày. Nó ngã lên
ngã xuống, nó loạng quạng, nó bị đau, nhưng nó lại đứng
dậy - bởi vì điều đó cho nó lòng tự hào: “Mình cũng có
thể làm việc gì đó! Mình có thể bước! Mình có thể bước!
Mình có thể mang các thứ từ đây sang kia!”
Bố mẹ rất lo âu bởi vì đứa trẻ quấy rối. Nó bắt đầu
kêu đòi mọi thứ. Họ không thể nào hiểu nổi: “Tại sao?
Để làm gì? Sao con đem cuốn sách đó từ đằng kia?” Đứa
trẻ đâu có quan tâm gì tới cuốn sách! Điều đó là vô nghĩa
với nó. Nó không thể quan niệm được tại sao bạn cứ nhìn
liên tục vào thứ này - “Bố tìm cái gì ở đó?” Nhưng sự
quan tâm của nó lại khác: nó có thể mang được một thứ.
Đứa trẻ bắt đầu giết con vật. Một con kiến, và nó sẽ
lập tức dẫm lên kiến và giết kiến. Nó có thể làm được cái
gì đó! Nó thích thú với việc làm; nó có thể trở thành rất
huỷ diệt. Nếu nó thấy chiếc đồng hồ, thì nó sẽ mở ra - nó
muốn biết cái gì bên trong. Nó trở thành nhà thám hiểm,
người điều tra.
Nó thích thú làm những thứ này bởi vì điều đó đem
cho bản ngã của nó cánh cửa thứ ba: nó cảm thấy tự hào,
nó có thể làm được. Nó có thể hát một bài hát, thế thì nó
sẵn sàng hát bài hát đó cho bất kì ai. Nếu có khách nào
tới, nó cũng ở đó, chờ đợi để ai đó nêu ra một đề nghị để
cho nó có thể hát bài hát ấy. Hay nó có thể nhảy múa,
hay nó có thể làm trò bắt chước, hay điều gì đó! Dù điều
đó là gì, nó muốn làm điều gì đó để chỉ ra rằng nó không
chỉ là kẻ vô dụng, rằng nó có thể cũng làm được nữa.
Việc làm này đem bản ngã vào.
Cánh cửa thứ tư là tự mở rộng mình, chiếm hữu, sở
hữu. Đứa trẻ nói về cái nhà của cháu, bố cháu, mẹ cháu,
trường cháu. Nó bắt đầu tăng lĩnh vực cái ‘của cháu’.
‘Của cháu’ bắt đầu trở thành từ chính của nó. Nếu bạn
lấy đồ chơi của nó - nó chẳng quan tâm nhiều lắm tới đồ
chơi ấy; nó quan tâm nhiều hơn tới, “Đồ chơi này là của
cháu, bác không được lấy nó!” Nhớ lấy, nó không quan
tâm nhiều lắm tới đồ chơi đâu. Khi không ai quan tâm
tới, nó sẽ ném đồ chơi vào góc nhà và chạy ra ngoài chơi.
Nhưng một khi ai đó muốn lấy đồ chơi, thì nó sẽ không
muốn cho đi. Đấy là của nó - ‘của cháu’.
‘Của tôi’ làm nảy sinh cảm giác về ‘tôi’; ‘tôi’ tạo ra
cái ‘tôi’. Và nhớ lấy, những cánh cửa này không chỉ là
cho trẻ con thôi, chúng vẫn còn là con đường cho toàn bộ
cuộc sống bạn. Khi bạn nói nhà tôi, bạn cũng mang tính
trẻ con vậy. Khi bạn nói vợ tôi, bạn cũng mang tính trẻ
con vậy. Khi bạn nói tôn giáo tôi, bạn cũng mang tính trẻ
con vậy. Khi một người Hindu bắt đầu đánh nhau với
người Mô ha mét giáo về tôn giáo, họ đều là trẻ con cả.
Họ không biết họ đang làm gì. Họ không thực sự trở nên
chín chắn và trưởng thành. Trẻ con thường xuyên cãi
nhau, “Bố tao là người vĩ đại nhất trên thế giới!” Và các tu sĩ cũng cứ đánh nhau như vậy, “Khái niệm của tôi về
Thượng đế là tốt nhất, mạnh mẽ nhất, thứ thiệt! Tất cả
các cái khác chỉ là tàm tạm thôi.”
Đấy là những thái độ rất trẻ con, nhưng chúng cứ lần
lữa quanh bạn trong suốt cả đời bạn. Bạn rất quan tâm tới
tên tuổi mình. Khi tôi đổi tên cho mọi người, một vài
người rất bướng bỉnh; họ không muốn điều đó. Một vài
người viết thư cho tôi: “Tôi muốn có tính sannyas, nhưng
xin thầy đừng đổi tên tôi.” Tại sao? Tên tôi! Đấy dường
như là một cái gì đó giống như của cải lớn lao. Và chẳng
có gì trong cái tên cả. Nhưng trong ba mươi năm, bốn
mươi năm, bản ngã bạn đã tồn tại với cái tên đó. Rất khó
cho bản ngã đóng lại cánh cửa. Đó là lí do tại sao cái tên
lại được đổi - để cho bạn có thể thấy rằng cái tên là bất
kì: nó có thể bị thay đổi vào bất kì ngày nào. Và đó là lí
do tại sao tôi lại đổi tên bạn mà không có gì làm nhặng sị
lên về nó cả. Trong các tôn giáo khác cái tên cũng bị thay
đổi. Nếu bạn trở thành một sư Jaina, họ sẽ làm nhặng sị
lên về điều đó - đám rước và lễ hội lớn; ai đó đang trở
thành sư! Bây giờ người ấy sẽ trở nên rất gắn bó với cái
tên mới này! Lễ hội nhiều thế và hội hè nhiều thế, và tôn
kính cùng tôn trọng ghê thế, biết bao nhiêu điều nhặng sị
cả lên về nó; thế thì toàn bộ vấn đề bị mất. Tôi đơn giản
thay đổi nó như một sự kiện, chỉ để cho bạn một ý tưởng
rằng nó là cái không; nó là bất kì, nó có thể bị thay đổi
rất dễ dàng. Bạn có thể được gọi là A, bạn có thể được
gọi là B, bạn có thể được gọi là C - cũng chẳng thành vấn
đề. Trong thực tế bạn không tên tuổi - đó là lí do tại sao
nó chẳng thành vấn đề. Bất kì cái tên nào cũng được, đấy
chỉ là tiện dụng.
Cánh cửa thứ năm là tự hình dung. Điều này nói tới
cách thức trẻ con nhìn chính mình. Qua tương tác với bố
mẹ, qua khen ngợi và trừng phạt, nó học việc tạo ra hình
ảnh nào đó về chính mình - tốt hay xấu.
Trẻ con bao giờ cũng nhìn vào cách bố mẹ phản ứng
lại nó. Nếu nó đang làm một điều nào đó, liệu họ khen
ngợi nó hay trừng phạt nó? Nếu nó cảm thấy bị trừng
phạt thì nó nghĩ, “Mình đã làm điều gì đó sai rồi. Mình
xấu.” Nếu nó làm điều gì đó tốt và được khen ngợi, thì
nó nghĩ, “Mình tốt, mình được đánh giá tốt.” Nó bắt đầu
cố gắng làm ngày càng nhiều việc tốt, để cho nó được
đánh giá tốt. Hay, nếu bố mẹ thực sự là những người rất
khó tính và không thể chấp nhận, và yêu cầu của họ đến
mức trẻ con không thể nào thực hiện được, thế thì nó sẽ
lấy con đường khác, nó bắt đầu làm tất cả những cái mà
họ gọi là ‘xấu’. Nó phản ứng và nổi loạn.
Đây là hai cách thức - cánh cửa là một: hoặc bạn
khen ngợi nó và nó cảm thấy thoải mái là nó là ai đó;
hoặc nếu bạn không khen ngợi nó một cách dễ dàng thì
nó nói, “Được, thế thì cháu sẽ cho bác biết.” Thế thì nó
sẽ làm cho mọi người phải nhận thấy sự hiện diện của nó.
Nó sẽ bắt đầu quậy phá mọi vật, nó sẽ bắt đầu hút thuốc,
nó sẽ bắt đầu làm những điều mà bạn không thích. Và nó
sẽ nói, “Bây giờ bác thấy chưa? Bác phải chú ý đến cháu;
bác phải để ý đến cháu. Bác phải biết rằng cháu là ai đó
và cháu đang ở đây, và bác không thể bỏ qua cháu.”
Người tốt và người xấu sinh ra theo cách này, thánh nhân
và tội nhân.
Cánh cửa thứ sáu là cái ta như một lí lẽ.
Đứa trẻ học cách lập luận, logic, biện luận. Nó học
cái nó có thể giải quyết vấn đề. Lí lẽ trở thành hỗ trợ lớn
cho cái ta của nó - đó là lí do tại sao người ta tranh luận.
Đó là lí do tại sao những người có giáo dục nghĩ rằng họ là ai đó. Vô giáo dục sao? - bạn cảm thấy đôi chút bối
rối. Bạn có bằng cấp lớn - bạn là tiến sĩ hay tiến sĩ văn
chương - và bạn cứ trưng bầy, phô bầy cái bằng xác nhận
của mình: bạn là người được huy chương vàng, bạn đứng
đầu đại học, rồi thế này thế nọ. Tại sao? - vì bạn đang
trưng bầy rằng bạn đã trở thành người có lí trí, có giáo
dục tốt, được học trong những trường đại học tốt nhất,
được học với những giáo sư giỏi nhất: “Tôi có thể tranh
luận giỏi hơn bất kì ai khác.” Lập luận trở thành một chỗ
dựa lớn.
Và cánh cửa thứ bẩy là cố gắng thích đáng, sống có
mục tiêu, tham vọng, trở thành: người ta là gì và là ai là
thông qua việc người ta muốn trở thành cái gì và ai. Bận
tâm về tương lai, mơ ước và các mục tiêu dài hạn xuất
hiện - giai đoạn cuối của bản ngã. Thế thì người ta bắt
đầu nghĩ về việc phải làm gì trong thế giới này để lưu lại
dấu vết trong lịch sử, để lại dấu hiệu trên cát thời đại. Trở
thành một thi sĩ sao? Trở thành một chính khách sao?
Trở thành một mahatma sao? Làm điều này hay điều nọ?
Cuộc sống đang chạy hối hả, tuột qua nhanh chóng, và
người ta phải làm điều gì đó, nếu không thì chẳng mấy
chốc người ta sẽ trở thành không và chẳng ai sẽ biết rằng
bạn đã tồn tại. Người ta muốn trở thành một Alexander
hay một Napoleon. Nếu có thể được, người ta muốn trở
thành một người tốt, nổi danh, nổi tiếng, thánh nhân, một
mahatma. Nếu điều ấy là không thể được, thế thì người
ấy vẫn muốn trở thành ai đó.
Nhiều kẻ giết người đã thú nhận trước toà án rằng
chúng không giết ai đó bởi vì chúng thích giết người đó,
mà bởi vì chúng muốn tên tuổi chúng xuất hiện trên trang
nhất của các báo.
Một kẻ giết một ai đó từ phía sau. Hắn ta lại và đâm
người này, và hắn ta thậm chí cũng chẳng gặp người này
trước đó. Hắn ta hoàn toàn không biết gì về người này;
họ không quen nhau, không bạn bè cũng chẳng kẻ thù.
Hắn ta chưa bao giờ gặp người đó. Và lần này cũng thế,
hắn ta chưa từng thấy khuôn mặt của người mà hắn đã
giết. Hắn chưa từng thấy người đó, hắn đơn giản giết
người đó từ phía sau. Người này đang ngồi trên bãi biển
ngắm nhìn sóng nước, và tên này tới và giết người ấy.
Toà án rất khó xử, nhưng người này nói, “Tôi không
quan tâm tới bản thân người ấy... người tôi đã giết.
Người ấy chẳng liên quan, bất kì ai thì cũng bị giết. Tôi
đã ra đó để giết ai đó. Nếu người này không ở đó, thì bất
kì ai khác sẽ bị giết.” Nhưng tại sao? Và hắn ta nói, “Bởi
vì tôi muốn ảnh tôi và tên tôi được đăng trên tranh nhất
các báo. Ham muốn của tôi được mãn nguyện. Tôi được
người ta bàn tán tới trên khắp nước, tôi thấy sung sướng.
Bây giờ tôi sẵn sàng chết. Nếu các ông ấy có xử tử tôi thì
tôi cũng có thể chết một cách sung sướng: tôi đã nổi
tiếng, tôi đã nổi danh.”
Nếu bạn không thể trở thành nổi danh, bạn sẽ cố
gắng trở thành khét tiếng. Nếu bạn không thể trở thành
Mahatma Gandhi, bạn sẽ thích trở thành Adolf Hitler -
nhưng không ai muốn còn là không ai cả.
Có bẩy cánh cửa qua đó ảo tưởng về bản ngã thành
mạnh hơn, trở thành ngày càng mạnh hơn. Và đây cũng
là bẩy cánh cửa - nếu bạn hiểu - qua đó bản ngã phải bị
tống ra. Dần dần, từ mỗi cánh cửa bạn phải nhìn sâu vào
trong bản ngã của mình và nói lời vĩnh biệt nó. Thế thì
nảy sinh cái không. 



Lời kinh:
Do đó, này Sariputra,
trong cái trống rỗng không có hình dạng,
không cảm giác, không cảm nhận,
không rung động, không ý thức;
không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, trí;
không hình dạng, âm thanh, mùi, vị, động chạm
hay các đối tượng của tâm trí;
không yếu tố thấy, và vân vân,
khi chúng ta đi tới: Yếu tố không tâm trí - tâm thức;
không có dốt nát, không có phá bỏ dốt nát,
và vân vân, chừng nào chúng ta tới:
Không huỷ hoại và cái chết,
không phá bỏ huỷ hoại và cái chết.
không có đau khổ, không nguồn gốc,
không chấm dứt, không con đường.
Không có cảm nhận, không có việc thành đạt
và không có việc không thành đạt.
Một phát biểu cách mạng vô cùng.
Do đó, này Sariputra...
Trước hết chúng ta phải hiểu từ do đó. ‘Do đó’ là
hoàn toàn có quan hệ trong phép tam đoạn luận, trong lí
lẽ logic. Không có lí lẽ nào đứng trước, và Phật nói: Do
đó, này Sariputra.
Các học giả đã rất lo nghĩ tại sao ông ấy lại dùng ‘do
đó’. ‘Do đó’ là một phần của phép tam đoạn luận: Tất cả
mọi người đều chết. Socrates là một người, do đó
Socrates chết. Nó là một phần của logic. Nhưng đã không
có mệnh đề nào, không lí lẽ nào, và bỗng nhiên Phật nói,
“Do đó...” Tại sao?
Các học giả không thể nào hiểu được điều đó, bởi vì
không có lí lẽ nào trên bề mặt. Nhưng đã có đối thoại
giữa con mắt của Phật và Sariputra. Đã nảy sinh một hiểu
biết. Lắng nghe Phật nói về cái trống rỗng, cái không,
Sariputra đã vươn lên mức độ cái không đó.
Nó có thể nảy sinh trong bạn tại đây, bạn có thể cảm
thấy nó... đôi cánh nó dập dờn quanh bạn.
Nhìn vào trong mắt Sariputra, Phật cảm thấy, nhìn
thấy rằng Sariputra đã hiểu: bây giờ lí lẽ có thể đi xa
thêm. Trên bề mặt thì không có lí lẽ nào hết cả. Đã không
có tranh luận, thảo luận, nhưng đã có đối thoại. Đối thoại
là giữa hai năng lượng này - Phật và Sariputra. Đã có
thống nhất, họ đã bắc cầu qua nhau. Trên chiếc cầu đó,
trong khoảnh khắc bắc cầu đó, Sariputra đã nhìn vào cái
trống rỗng của Phật. Bây giờ Phật nói với Sariputra, “Do
đó... Ông đã nhìn, Sariputra, bây giờ ta có thể đi thêm
vào trong nó, vào chi tiết hơn. Bây giờ ta có thể nói đôi
điều cho ông mà trước đây thì không thể nói được.”
Do đó, này Sariputra,
trong cái trống rỗng không có hình dạng,
.. không cảm giác, không cảm nhận...
... Bởi vì không có ai để cảm giác, vậy làm sao có thể
có cảm giác? Khi bản ngã không có đó, không có cảm
giác, không tri thức, không cảm nhận. Không hình dạng
nào nảy sinh bởi vì bầu trời hoàn toàn không mây. Bạn
có thể thấy một hình dạng trong một đám mây. Đôi khi
bạn chưa từng quan sát điều đó sao? - một đám mây
trông gióng con voi, và thế rồi nó đổi thành con ngựa và rồi lại thành cái gì đó khác, và nó cứ thay đổi mãi. Nó lấy
biết bao nhiêu là hình dạng.
Nhưng đã bao giờ bạn thấy bất kì hình dạng nào nảy
sinh trên bầu trời thuần khiết chưa? Không hình dạng nào
nảy sinh cả.
... không có hình dạng, không cảm giác,
không cảm nhận, không rung động...
Và khi không có ai bên trong, làm sao rung động nào
có thể nảy sinh được? Làm sao ham muốn có thể nảy
sinh được?
... không ý thức ...
Khi không có nội dung, khi không có khách thể, chủ
thể cũng biến mất. Ý thức đó bao giờ cũng về khách thể
không còn tìm thấy ở đấy nữa.
... không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, trí ...
Phật nói, “Mọi thứ đều biến mất trong cái không đó,
Sariputra. Và bây giờ ông có thể hiểu, Sariputra; do đó ta
đang nói về nó. Ông đã thấy nó! Ông đã nhìn vào ta! Ông
đã từng ở ngay bên bờ nó. Ông đã hé nhìn vào trong vực
thẳm này, vĩnh hằng này, chiều sâu thăm thẳm này.”
... không hình dạng, âm thanh, mùi, vị, động chạm
hay các đối tượng của tâm trí;
không yếu tố thấy, và vân vân...
... yếu tố không tâm trí - tâm thức;
Khi bạn ở trong trạng thái đó, bạn thậm chí không
thể nói rằng, “Tôi đang trong trạng thái của cái không,”
bởi vì nếu bạn nói điều này, bạn đã quay lại.
... khi chúng ta đi tới ...
Nếu bạn nói, “Tôi đã kinh nghiệm về cái không,”
điều đó nghĩa là bạn đã quay lại với thế giới hình dạng.
Tâm trí đã bắt đầu vận hành trở lại. Trong khoảnh khắc
đó bạn không tách bạch với cái không, cho nên làm sao
bạn có thể nói, “Tôi đang kinh nghiệm cái không?” Cái
không không giống như một vật: nó không tách biệt khỏi
bạn, bạn không tách biệt khỏi nó. Người quan sát và cái
được quan sát có đó; khách thể và chủ thể có đó. Nhị
nguyên đã biến mất.
... không có dốt nát, Phật nói.
Không có tri thức, không có dốt nát nữa, vì dốt nát
chỉ có thể có khi bạn nghĩ dưới dạng của tri thức. Nó
được so sánh với tri thức. Khi bạn gọi một người là dốt
nát, bạn ngụ ý gì? Bạn đang so sánh người ấy với ai đó là
người có hiểu biết. Nhưng không có tri thức cho nên
không thể có bất kì dốt nát nào.
... không có dốt nát, không có phá bỏ dốt nát...
Và Phật nói: Nhớ lấy, ta không nói rằng dốt nát biến
mất. Dốt nát chưa bao giờ có đó; nó là cái bóng của tri
thức, nó là cái bóng của tâm trí nghiện ngập tri thức.
Khi bạn đem đèn vào trong phòng tối, bạn nói gì
nào? - rằng bóng tối biến mất, đi ra khỏi phòng, thoát
khỏi phòng, chạy mất sao? Không, bạn không thể nào nói như thế được - bởi vì bóng tối ngay từ đầu là không tồn
tại. Làm sao nó có thể đi ra được? Ánh sáng tới và bóng
tối không tìm thấy, bởi vì bóng tối chỉ là việc thiếu ánh
sáng.
Cho nên không có dốt nát, và không có việc phá bỏ
dốt nát. Không có tri thức và không có không tri thức.
Người ta đơn giản hồn nhiên về tất cả - tri thức, dốt nát;
chỉ hồn nhiên, trong trắng. Tự do khỏi tri thức và tự do
khỏi dốt nát là trong trắng, là thuần khiết.
Không huỷ hoại và cái chết...
... Bởi vì không có ai chết cả. Và nhớ lấy, không có
việc phá bỏ huỷ hoại và cái chết. Và Phật không nói rằng
cái chết biến mất, bởi vì cái chết ngay chỗ đầu tiên chưa
bao giờ có đó. Nói rằng cái chết đã biến mất sẽ là sai.
Phật rất, rất hoàn hảo trong khẳng định của mình, rất cẩn
thận. Ông ấy không thốt ra một lời nào mà có thể bị bác
bẻ bởi bất kì người nào biết thực tại. Ông ấy không thoả
hiệp. Ông ấy không thoả hiệp với người nghe. Ông ấy có
thể nói điều hoàn hảo nhất mà có thể được nói.
Thì không có đau khổ...
Bây giờ ông ấy đi tới lời phát biểu cách mạng tối
thượng.
Bạn phải đã nghe tới bốn chân lí cao quí của Phật.
Chân lí thứ nhất là đau khổ: rằng mọi người đều đau khổ,
rằng toàn bộ sự tồn tại là dukkha, đau khổ, đau đớn, khổ,
bi thảm.
Và chân lí cao quí thứ hai là: nguồn gốc của nó là
trong thèm muốn - tanha, ham muốn. Đau khổ tồn tại:
chân lí cao quí thứ nhất - arya satya; chân lí thứ hai là ở
chỗ đau khổ có nguyên nhân và nguyên nhân là trong
ham muốn. Chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta ham muốn.
Và chân lí cao quí thứ ba là: việc ham muốn này có
thể được chấm dứt. Đó là điều có thể - nirodha; nó có thể
được chấm dứt. Bằng cách nhìn sâu vào ham muốn, nó
có thể được chấm dứt, và khi ham muốn chấm dứt thì
đau khổ biến mất. Còn chân lí cao quí thứ tư là: có con
đường tám làn dẫn tới chấm dứt, nirodha, ham muốn, và
kết quả là chấm dứt đau khổ.
Đây là triết lí nền tảng nhất của Phật giáo, và trong
phát biểu này Phật chối bỏ cả điều ấy nữa! Ông ấy nói:
không có đau khổ, không nguồn gốc,
không chấm dứt, không con đường.
Không ai đã từng phát biểu một điều cách mạng như
thế. Phật đạt tới đỉnh cao nhất của cách mạng; mọi người
khác đều không tới đích.
Các học giả bao giờ cũng lo nghĩ rằng điều này là
mâu thuẫn. Phật dạy rằng có đau khổ, thế rồi một hôm
ông ấy lại nói, “Không có đau khổ.” Ông ấy dạy rằng có
nguyên nhân tại sao lại đau khổ, và rồi một hôm ông ấy
lại nói, “Không có nguồn gốc.” Ông ấy dạy rằng có một
khả năng - norodha - có thể chấm dứt nó, rồi một hôm
ông ấy lại nói, “Không có chấm dứt.” Và ông ấy nói - và
toàn bộ Phật giáo phụ thuộc vào lời nói này - rằng có con
đường tám làn, astangik marga: nhìn đúng, luyện đúng,
thiền đúng, samadhi đúng vân vân và vân vân; con đường
tám làn đưa bạn tới chân lí tối hậu. Và bây giờ một hôm
ông ấy lại nói, “Không có con đường. Thực tại này là
thực tại không đường.” Tại sao có mâu thuẫn này? Phát biểu thứ nhất được đưa ra cho những người không biết
rằng họ là không có. Phát biểu thứ nhất được dành cho
những người bình thường, đầy bản ngã. Phát biểu này là
dành cho Sariputra tại một chỗ đặc biệt, trong một trạng
thái đặc biệt.
Do đó, này Sariputra...
... Bây giờ ta có thể nói điều này cho ông. Ta có thể
đã không nói trước đây, ông còn chưa sẵn sàng. Bây giờ
ông đã nhìn vào ta, và nhìn vào ta, ông đã thấy cái không
là gì. Ông đã nếm trải nó! Do đó, Sariputra: Tasmat,
Sariputra! Bây giờ có thể nói cho ông rằng không có đau
khổ, rằng đó là mơ; mọi người đang đau khổ trong mơ.
Và không có nguyên nhân - mọi người đều ham muốn
trong mơ. Và không có chấm dứt - mọi người đang luyện
tập, thực hành các phương pháp, thiền, yoga vân vân,
trong mơ. Và toàn bộ con đường tồn tại trong mơ. Bây
giờ điều đó có thể được nói cho ông bởi vì ông đã tỉnh
thức, Sariputra. Mắt ông đã mở ra; bây giờ ông thấy bản
ngã không tồn tại.
Và thoát ra khỏi bản ngã là thoát ra khỏi giấc ngủ.
Thoát ra khỏi bản ngã là thoát ra khỏi bóng tối. Thoát ra
khỏi bản ngã là được tự do. Trong tự do đó có thể nói
rằng không có con đường. Nó là tựa như mơ.
Trong mơ bạn đau khổ, và khi bạn đau khổ trong mơ,
nó thực làm sao. Và bạn đang tìm kiếm: “Tại sao tôi khổ
thế này?” Và thế rồi bạn bắt gặp một hiền nhân vĩ đại -
trong mơ - và hiền nhân này nói, “Bạn khổ bởi vì bạn
ham muốn. Bạn bị mê đắm đến thế với tiền bạc; đó là lí
do tại sao bạn khổ. Loại bỏ ham muốn này và khổ sẽ biến
mất.” Bạn hiểu điều đó, nó là rất logic. Bạn biết nó, bạn
đã tự mình kinh nghiệm nó rằng bất kì khi nào bạn ham
muốn, thì khổ tới. Ham muốn càng có đó thì khổ càng
nhiều. Ham muốn càng lớn thì khổ càng lớn.. Bạn hiểu
điều đó. Thế rồi bạn hỏi, “Thế thì làm sao chấm dứt được
nó?” Và hiền nhân vĩ đại này nói, “Trồng cây chuối, tập
yoga, tập thiền chao đảo, tập kundalini, tập nadabrahma,
tham gia nhóm đụng độ và tập kịch leela, thực hành liệu
pháp nguyên thuỷ và đủ mọi thứ.” Hiền nhân vĩ đại này
nói, “Làm những điều này đi; chúng sẽ có ích. Bạn sẽ trở
nên hiểu biết nhiều hơn về ham muốn của mình, và bạn
sẽ có thể loại bỏ ham muốn.”
Cho nên hiền nhân này trao cho bạn con đường tám
làn đã được trình bầy rõ. Ông ấy nói, “Đây là con
đường.” Một hôm, khi bạn thực sự tỉnh thức... Và nhớ
lấy, những điều này giúp cho bạn thức tỉnh. Bây giờ ngay
cả bạn trồng cây chuối trong mơ thì vẫn có khả năng giấc
mơ của bạn sẽ bị phá vỡ. Thử đi! Thử ngay tối nay đi!
Khi bạn đang trong mơ, trồng cây chuối trong mơ, và
bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng bạn thức tỉnh. Tập kundalini
trong mơ - bạn sẽ thức tỉnh. Và nếu bạn không tỉnh, ít
nhất chồng bạn sẽ tỉnh, hàng xóm sẽ tỉnh, cái gì đó đang
sắp xảy ra.
Tất cả các phương pháp chỉ để đánh thức bạn. Nhưng
khi bạn đã tỉnh...
Do đó, này Sariputra...
Và bây giờ Phật có thể nói điều này cho Sariputra;
ông ấy thức tỉnh rồi. Ông ấy có thể nói, “Bây giờ ta có
thể nói cho ông chân lí này - rằng không ai tồn tại cả,
chẳng có đệ tử mà cũng chẳng có thầy, không mơ, không khổ, không hiền nhân, không nguyên nhân, không chấm
dứt. Không có con đường.”
Đây là phát biểu tối hậu về chân lí.
Nhưng điều này chỉ có thể được đưa ra tại giai đoạn
cao nhất, tại bậc thang thứ bẩy của chiếc thang. Sariputra
đã đạt tới bậc thang đó vào ngày này. Đó là lí do tại sao
‘do đó’... Tasmat Sariputra.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến