Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

Ham muốn thực sự

Asura -ma quỉ -là những người bị vây bọc trong bóng tối của không hiểu biết mình.
Những người là kẻ giết cái ta đi tới thế giới của Asura sau cái chết.

Upanishad chia con người ra làm hai loại. Loại thứ nhất là
những người giết chết atman - cái ta; họ là những người tự tử vì
họ giết cái ta riêng của họ. Và có những người biết cái ta; họ
thuộc vào loại thứ hai. Người biết cái ta và người giết cái ta.
Chúng ta có một từ, atmahatya, nghĩa là giết cái ta, nhưng chúng
ta không dùng nó theo đúng nghĩa của nó. Upanishad đã dùng nó
theo đúng nghĩa của nó. Khi một người phá huỷ thân thể mình,
chúng ta nói người đó tự tử - đã giết chết atman. Điều này không
đúng, vì giết chết thân thể không có nghĩa là giết chết atman.
Giết thân thể riêng của bạn chắc chắn là tự tử. Nó chắc chắn có
nghĩa là cái chết riêng của riêng bạn, và vậy mà, đồng thời, nó
không phải là của riêng bạn. Nó đơn thuần là thay đổi cái vỏ,
thay đổi thân thể. Nó là việc giết chết thân thể, không phải là giết
cái ta - không phải là giết chết atman.

Upanishad gọi người ấy là kẻ giết chết - kẻ phá huỷ cái ta -
người cứ sống mà không biết đến bản thân mình, người bị bao
phủ trong dốt nát. Người như thế là người đang giết chết atman
của mình. Sống mà không biết đến bản thân mình là việc tự tử
thực sự. Và tất cả chúng ta đều sống mà không biết đến chính bản
thân mình. Chúng ta sống nhưng chúng ta không biết chút nào về
chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến, tại sao chúng ta có, chúng ta
có với mục đích gì, chúng ta đi đâu, ý nghĩa cuộc sống này là gì.
Không, về tất cả những câu hỏi này, chúng ta không có ý tưởng
mờ nhạt nào. Chúng ta không biết gì về bản thân mình. Chúng ta
có thể biết về nhiều thứ khác, nhưng chúng ta hoàn toàn dốt nát
về một điều; chúng ta không biết gì về bản thân mình .

Upanishad sẽ qui chúng ta là kẻ giết cái ta, là asura - là ma
quỉ. Cố ý hay không cố ý chúng ta làm tổn thương bản thân mình
chừng nào mà chúng ta còn chưa biết tới bản thân mình. Trước
hết dốt nát của chúng ta gây rắc rối cho chúng ta, thế rồi nó gây
rắc rối cho người khác. Nhớ trong tâm, người dốt nát tấn công bản thân mình trước
và tấn công người khác sau. Thực ra chừng nào mà chúng ta còn chưa tấn công mình trước, không thể tấn
công người khác được. Không thể gây đau cho người khác trước
khi chúng ta làm như thế cho bản thân mình. Người chưa bao giờ
bị gai đâm vào chân mình không rải gai trên đường của người
khác. Và người còn chưa làm cho mình phải khóc không bao giờ
tạo ra kế hoạch gây rắc rối cho người khác. Sự kiện là trước hết
chúng ta tạo ra rắc rối cho chính mình, và khi nó đã trở thành rắn
chắc và tập trung và bắt đầu biểu lộ qua chúng ta, thế thì chúng ta
bắt đầu phân phát nó. Duy nhất khổ làm cho người khác bất
hạnh. Điều này dường như là phải vì chúng ta đang chia sẻ cái
chúng ta có. Nhưng việc cho này là cái đến sau, cái thứ yếu;
trước hết chúng ta gây ra đau đớn và khổ sở cho bản thân mình.
Không phải tất cả chúng ta đều đang gây ra đau khổ cho bản
thân mình đấy sao? Chúng ta đang làm thế đấy! Chúng ta có thể
cố gắng để đem vui vẻ và thích thú đến cho người khác nhưng
đến cuối cùng chúng ta chỉ đem cho đau khổ. Con đường tới địa
ngục được lát bằng thiện ý, và nó được làm bằng những nỗ lực
của mong muốn tốt lành mà chúng ta nuôi dưỡng cho bản thân
mình. Ham muốn của chúng ta là gì không phải là vấn đề gốc rễ.
Tất cả chúng ta đều ham muốn đem vui vẻ đến cho bản thân
mình, nhưng không ai có thể đem cho mình vui vẻ mà không biết
đến bản thân mình. Làm sao một người không biết “Tôi là ai?”
có được bất kì ý tưởng nào về “Vui vẻ của tôi là gì? Tôi có thể
biết được vui vẻ của mình là gì chỉ khi tôi biết bản tính của tôi,
bản thể của riêng tôi, cái ta của tôi.”

Chừng nào mà tôi còn chưa biết gì về loại gốc rễ ăn sâu
trong tôi, làm sao tôi có cảm giác nào về hoa gì có thể nở trong
tôi? Tôi có thể hi vọng vào loại hoa nào khi tôi dốt nát đến thế về
loại hạt mầm nằm bên trong tôi? Tôi nên ao ước là loại hoa nào?
Nếu tôi không có một ý tưởng tối thiểu nào về bản thân hạt mầm,
kết quả chỉ có thể là bất hạnh cho tôi, dù tôi có thể cố gắng bất kì
cái gì, vì tôi không thể là cái tôi cố là được, và hậu quả tôi trở
thành khổ, đau buồn, lo âu. Tôi sẽ chết trong căng thẳng và lo âu.
Toàn thể cuộc đời tôi sẽ là cuộc chạy đua điên cuồng của thèm
khát, nhưng tôi sẽ không đạt tới đâu cả. Mặc dầu cuộc hành trình
rất dài, tôi sẽ không tìm ra nơi đến, vì nó bị giấu kín trong bản
tính của tôi, trong cái ta của tôi.

Trước hết tôi phải biết tôi là ai. Tôi phải chắc chắn liệu tôi
đang cố gắng phát hiện ra tôi là gì, hay liệu tôi đang cố gắng phát
hiện ra tôi không là gì. Nếu tôi không phát hiện được tôi không là
gì, tôi sẽ chắc chắn bị khổ. Điều đáng quan tâm hơn là ở sự kiện
rằng nếu tôi thực sự thành công trong việc phát hiện ra tôi không
là gì, tôi vẫn sẽ khổ. Những người không thành công trong cuộc
sống chắc chắn trở nên khổ, nhưng không có sự chấm dứt khổ sở
cho cả những người thành công. Những người không thành công
đó trở thành khổ là có thể hiểu được. Nhưng những người thành
công cũng trở nên bất hạnh. Đi và tìm ra điều ấy từ người thành
công mà xem.

Thế thì dường như là cuộc sống là một trò đùa lớn, sự diễu
cợt. Trong thế giới này người không thành công trở thành bất
hạnh, điều dường như hoàn toàn logic; điều ấy dường như công
bằng và đúng đắn. Nhưng những người thành công trong cuộc
sống cũng bất hạnh. Trong những hoàn cảnh như thế, thế giới này
dường như là rất quái dị và không cân bằng. Khi cả người thành
công và người không thành công đều phải bất hạnh, thế thì dường
như không có cách nào để hạnh phúc. Cho nên trước hết chúng ta
hỏi những người thành công tại sao họ bất hạnh, vì không cái gì
đáng ngạc nhiên về người không thành công bị bất hạnh. Chúng
ta hỏi những người như Alexander Đại đế và Stalin; chúng ta hỏi
các nhà triệu phú như Carnegie và Ford. hỏi những người đã thu
được cái họ muốn. Hỏi họ, “Ông có tìm thấy hạnh phúc không?”
và bạn sẽ rất phân vân khi nghe họ trả lời. Họ nói, “Chúng tôi đã
thành công, nhưng thành công trong trong việc tìm ra bất hạnh.”
Những người không thành công cũng nói, “Chúng tôi không đạt
tới hạnh phúc; thay vì thế chúng tôi tìm thấy bất hạnh.” Những
người đã đạt tới thành công nói, “Chúng tôi thành công trong
việc trở nên bất hạnh; chúng tôi chỉ tìm thấy bất hạnh trong tay.”
Những người chạy nhanh nhất trong cuộc đua của cuộc sống
đạt tới đích của họ chỉ qua bất hạnh; và những người không đạt
tới đâu và cứ lang thang đây đó nơi hoang vu cũng vẩn vơ trong
khổ sở. Khi như vậy là trường hợp, cái gì là khác biệt giữa đích
đến và con đường? Cái gì là khác biệt giữa đi lang thang và đạt
tới đích? Dường như không cái gì khác biệt cả. Khác biệt không
thể được thấy, vì người không biết mình là ai sẽ bị làm cho khổ
sở ngay cả bởi thành công của người đó. Cái ngày mà người đó
trở nên thành công người đó sẽ nhận ra rằng toà nhà mà người đó
đã xây dựng - thành tựu lớn của người đó - đã không hoàn thành
nhu cầu của người đó. Nó không cho bản tính của người đó sự
nuôi dưỡng nào. Toà nhà đã được xây dựng, người đó đã tích luỹ
của cải, người đó đã tìm thấy danh vọng và tài sản; nhưng những
thành đạt này không nuôi dưỡng gì cho bất kì phần nào của cuộc
sống nội tâm của người đó cả, chúng không đem đến mãn
nguyện. Người đó đã phải thăm dò để phát hiện, “Cái gì là ham
muốn thực sự của mình, cái gì là khát khao của mình? Mình thực
sự ước muốn cái gì?” Không biết được ham muốn thực sự của
mình bạn sẽ đơn giản cứ tiếp tục ham muốn, nhảy hết từ ham
muốn nọ sang ham muốn kia.

Vài ngày trước khi chết, Freud đã viết trong một bức thư gửi
cho một người bạn: “Sau khi nghe nói về khổ sở của hàng nghìn
người trong cả cuộc đời tôi, tôi đã đi đến kết luận rằng loài người
mang định mệnh là bao giờ cũng còn trong bất hạnh, lí do là ở
chỗ con người không biết mình muốn gì.” Khi một người như
Freud nói một điều như vậy, vấn đề này cũng đáng để suy nghĩ
tới. Ông ấy nói, “Tôi đã đi đến kết luận rằng con người không
biết mình muốn gì, sau khi đã nghiên cứu những đau khổ, lo âu,
khắc khoải và những xung đột tinh thần của hàng nghìn người bất
hạnh.”

Con người sẽ không bao giờ biết điều mình muốn bởi vì,
ngay ở chỗ đầu tiên, người đó không biết mình là ai. Giả sử tôi ra
phố mua quần áo may sẵn cho bản thân mình. Tôi không biết gì
về thân thể tôi cả, tôi không biết gì về số đo của mình cả, tôi
không biết gì về các yêu cầu thân thể của tôi; nói tóm lại, tôi
không có bất kì ý tưởng nào về bản thân mình vậy mà tôi ra phố
mua quần áo may sẵn. Khi chúng có đầy ra đấy tôi thấy rằng
chúng không vừa với tôi. Có cái gì sai ở đâu đó; chúng không
khớp với việc sử dụng của tôi. Bằng đủ mọi cách đi và kiếm quần
áo may sẵn đi, nhưng trước khi đi ra, tìm xem bạn là ai, tìm xem
quần áo của ai đang được chuẩn bị, nhà của ai đang được xây
dựng, hạnh phúc của ai đang cần được tìm.

Điều rất đáng quan tâm là quan sát rằng một người biết mình
là ai không sớm hơn cuộc hành trình, và mọi thu xếp cùng chuẩn
bị cho toàn bộ cuộc đời anh ta, được biến đổi. Người đó không
còn tìm kiếm những cái mà chúng ta tìm kiếm nữa. Người đó
không biểu lộ sự sẵn lòng mỉm cười và vẻ hài lòng bởi ai đó chào
giá hời - hay không phải mất gì - để có được cái mà vì nó chúng
ta phải lao động vất vả. Nếu ai đó sẵn lòng cho không người đó
cái gì đó, người đó sẽ quay mặt đi với người này trong trường
hợp cái đó bị tống vào anh ta. Người đó quyết tâm đạt tới cái gì
đó hoàn toàn khác, cái gì đó bất thường; và cũng rất đáng quan
tâm mà thấy rằng những người đã biết bản thân mình không bao
giờ thất bại . Cho đến giờ họ chưa bao giờ không thành công. Họ
thành công cũng nhiều như những người không biết bản thân
mình vẫn không thành công. Người đã biết tới bản thân mình trở
nên thành công bởi vì, khi biết về cái ta, người đó mở ra cho bản
thân mình cái bí mật đó và cái cửa đó nơi phúc lạc có đấy. Phúc
lạc đó bị ẩn giấu bên trong cái ta.

Cho nên, Upanishad tuyên bố có hai kiểu người: những
người biết tới chính bản thân họ, và những người dốt nát về bản
thân họ. Những người không biết tới bản thân mình theo đuổi con
đường của họ đi vào dốt nát, và mọi thứ họ làm đều được tiến
hành trong dốt nát. Họ cứ thu nhận trong dốt nát, họ ra quyết
định trong dốt nát, và trong cái dốt nát của họ, cuộc đua của họ
càng trở nên ngày một nhanh hơn. Cách nhìn nhận thông thường
là: “Mình đã không đạt được điều mình muốn trong cuộc sống
bởi vì mình chạy chưa nhanh như mình đáng phải chạy. Để mình
chạy nhanh hơn một chút, nhanh hơn, rồi nhanh hơn nữa, để cho
mình có thể đạt tới mục đích của mình. Có lẽ mình chưa đạt được
nó bởi vì mình đã không đặt cược tất cả. Nếu mình đặt cược tất
cả, mình có thể đạt được.”

Chúng ta không bao giờ dừng việc xem xét liệu điều ta đang
cố gắng đạt tới có bất kì hài hoà nội tâm nào với chúng ta hay
không. Cho dù một điều được đạt tới, nó sẽ thành vô dụng, và
nếu nó không được đạt tới, nó không thể hữu dụng gì; và thời
gian dành ra để thu được nó hay để không thể thu được nó bị mất
đi. Tới mức độ này chúng ta trở thành kẻ ám sát của mình. Chúng
ta đã trở thành asura, ma quỉ, kẻ giết atman - cái ta. Từ asur
nghĩa là những người sống trong bóng tối. Nó có nghĩa là những
người sống tại một nơi mà ánh sáng mặt trời không đạt tới, một
nơi mà không có bừng sáng. Họ dò dẫm trong bóng tối, họ vẩn
vơ trong bóng tối, giống như mầm mống của bóng tối. Những
người không biết tới bản thân mình đang sống trong bóng tối
này.

Biết tới bản thân mình là trở thành mặt trời. Cuộc hành trình
của một cá nhân như vậy là đi vào trong thế giới của ánh sáng;
nhưng có những người mà ánh sáng bên trong của họ không
cháy, bị tắt ngấm; họ chìm sâu trong bóng tối. Những người vẫn
còn đang chạy, dò dẫm, khao khát, đi theo kẻ mù, đều giống như
kẻ mù theo sau kẻ mù. Và còn có một số người trong số họ là
những kẻ nói lớn; những người như thế có những người theo sau
ít nói hơn, và cứ thế cuộc đua tiếp diễn. Kẻ mù với chút ít dũng
cảm tập hợp quanh mình những kẻ mù ít dũng cảm hơn.
Kahlil Gibran đã viết rằng ông ấy đi lang thang từ làng nọ
sang làng kia, hứa hẹn cho mọi người thấy Thượng đế nếu họ
theo ông ấy. Không ai đã bao giờ theo ông ấy cho nên không rắc
rối nào nảy sinh. Dân làng bảo ông ấy tới lần nữa vì họ đang rất
bận với những việc khác. Mùa màng đang chín rộ và phải gặt
ngay, cho nên ông ấy nên tới sau một thời gian nữa. Khi ông ấy
lại tới thăm họ, họ nói, “Năm nay mùa màng không được tốt; có
khan hiếm lương thực và chúng tôi đang khó khăn. Xin phiền
ông tới sang năm vậy.” Ông ấy vẫn tiếp tục tới thăm làng ấy. Ông
ấy không vội vàng gì để thuyết phục bất kì ai theo ông ấy, nhưng
một người hăng hái trong làng đó quyết định đi theo ông ấy. Khi
Gibran nói, “Theo ta nếu ông muốn gặp Thượng đế,” thì người
đó quẳng chiếc rìu của mình đi và nói, “Tôi xin theo ông!”
Gibran trở nên nóng nẩy. Thế rồi ông ấy nghĩ, “Không biết
thằng cha này theo mình bao lâu? Trong một hay hai tuần nó sẽ
mệt mỏi và sẽ rời bỏ ta.” Nhưng người dân làng này vẫn tiếp tục
theo ông ấy.

Một năm trôi qua. Người này nói, “Tôi sẽ theo ông đến bất
kì đâu ông đưa tôi tới.” Hai năm trôi qua và Gibram trở nên ngày
một nóng nẩy hơn. Ông ấy cố tránh người theo mình, nhưng
người này bao giờ cũng đứng sau ông, nói, “Tôi được chuẩn bị
để theo ông tới bất kì đâu ông đưa tôi đến. Tôi sẽ tuân theo bất kì
điều gì ông bảo tôi làm.”
Sáu năm trôi qua theo kiểu này. Thế rồi một hôm người này
tóm lấy cổ Gibran và nói, “Ông đã lấy thời gian khá lâu rồi, bây
giờ chỉ cho tôi Thượng đế. Ông muốn đi đâu bây giờ nào?”
Thầy nói, “Ta xin lỗi; ta thậm chí đã lạc đường trong việc đi
cùng với ông. Bản thân ta đã lạc đường vì ông đã theo ta. Trước
khi ông bắt đầu theo ta, con đường của ta hoàn toàn rõ ràng cho
ta. Mọi thứ đều rõ ràng thấy được. Ta đã gần tới đích, Thượng đế
đã ở trước mặt ta. Tai hoạ làm sao mà ta để ông đi cùng ta! Bây
giờ ta đã lạc mất đường rồi. Cho nên xin ông rời bỏ ta và đi theo
đường của ông đi.”

Người dân làng đó cảnh cáo ông, “Đừng tới làng tôi lần nữa
đấy!”
Gibran nói, “Này người anh em, tôi xin ông thứ lỗi. Tôi sẽ
không bao giờ tới thăm làng ông nữa đâu, nhưng tôi có thể sang
làng khác, vì không có những người như ông trong các thôn làng
này. Họ chỉ đơn giản nghe tôi và tôi cứ đi một mình trên con
đường của mình.”

Con người, bản thân người đó sống trong dốt nát, thường
được cho là đi nói cho người khác về ánh sáng của tri thức đúng
đắn; để làm cho người đó thoải mái và giúp người đó quên đi
bóng tối của riêng người đó. Điều quan trọng là nhận biết về
những người như thế. Khi bạn bắt đầu nói về những vấn đề mà
bạn không biết gì về nó, thật khó ước lượng được bạn làm hại
người khác đến mức độ nào. Nhưng thật khó mà tìm ra một
người tuân theo qui tắc chỉ nói những điều mình biết, và người
giữ im lặng về điều người đó không biết. Không, có hấp dẫn lớn
để chỉ cho người khác, để bảo người khác, nếu cơ hội nảy sinh.
Hấp dẫn này cực kì lớn. Nếu chúng ta gặp ai đó mà dường như
chút ít yếu về chủ đề Thượng đế và linh hồn, và người mà có thể
bị tràn ngập và kính cẩn bởi việc nói của chúng ta, thế thì chắc
chắn chúng ta sẽ tống tri thức của chúng ta cho người đó. Thế thì
chúng ta sẽ chỉ cho người đó con đường đạt tới Thượng đế và chỉ
dẫn người đó cách tiến hành.

Công việc chỉ ra con đường cho người khác là thích thú và
hài lòng bởi vì nó tạo ra ảo tưởng trong chúng ta rằng chúng ta đã
biết con đường: và trong việc chỉ nó cho người khác qua một thời
gian dài, dần dần chúng ta quên mất rằng bản thân chúng ta
không biết đến chân lí. Có rất ít người thực sự biết, nhưng có rất
nhiều người bao giờ cũng sẵn sàng cố vấn cho người khác. Sẽ có
lợi rất nhiều cho thế giới nếu những người không biết mà cứ đi
nói cho người khác sẽ giữ im lặng về chủ đề tri thức tâm linh.
Nhưng rất khó để họ giữ yên tĩnh, và cũng khó tương đương cho
người khác để làm im lặng họ. Nếu bạn cố gắng làm họ im lặng,
họ sẽ bắt đầu hét to nhiều hơn, vì trong việc hét to lên họ có thể
tự lừa dối mình. Âm thanh riêng của họ rơi vào tai họ tạo ra niềm
tin trong họ: “Tất cả đều ổn thoả, tôi biết chân lí rồi!”
Upanishad tuyên bố rằng có hai kiểu người. Cân nhắc và
xem xét cẩn thận xem bạn thuộc vào kiểu nào trong hai kiểu này,
bạn thuộc vào phân loại nào. Cần phải ra quyết định một cách
chân thành và đúng đắn về bản thân mình để cho bước tiếp có thể
được lấy đúng đắn và theo đúng hướng. Bạn là ai? Người tự giết
mình hay người tự biết mình?

Nếu bạn là người tự biết mình thế thì không vấn đề gì nảy
sinh, vấn đề xong rồi. Thế thì không có hành trình nào cho bạn.
Nếu bạn là người tự giết mình thế thì bạn phải làm cuộc hành
trình. Nó còn chưa bắt đầu, để một mình câu hỏi về sự tồn tại của
nó qua đi. Nhưng thật dễ để coi bản thân mình là người biết về
cái ta, vì tất cả chúng ta đều đã đọc Upanishad, Gita, Kinh thánh,
Koran và những điều Mahavira và Phật đã nói. Thật khó tưởng
tượng được điều này đắt giá và tai hại đến đâu cho nhân loại.
Những cuốn sách ‘tôn giáo’ này ở ngay đầu lưỡi mọi người; tất
cả họ đều biết đầy đủ. Sự kiện là, không ai biết gì về họ nhưng tất
cả đều trong ảo tưởng rằng họ biết mọi điều, vì toàn bộ sách vở
đều được ghi nhớ.

Ngừoi ta viết thư cho tôi nói rằng, “Thầy nói điều gì đó về
vấn đề nào đó, nhưng nó dường như không đúng vì có điều gì đó
khác đã được viết về nó trong sách như vậy và như vậy.” Bây
giờ, nếu bạn biết cái gì là đúng thế thì không cần bạn phải nghe
điều tôi nói. Và nếu bạn không biết cái gì là đúng thế thì làm sao
bạn có thể quyết định được cái như thế và như thế mà sách đã
viết là đúng? Vấn đề này không thể được quyết định đơn giản chỉ
bởi việc suy nghĩ và cân nhắc về nó. Người ta phải làm điều gì đó
trong vấn đề này, đơn giản nghĩ và cân nhắc không có tác dụng.
Hôm qua khi tôi rời khỏi chỗ này, một người bạn đã tiến tới
chiếc xe và nói, “Điều thầy vừa nói trong bài giảng hôm nay đã
được nói tới trong Yogasara rồi.” Bây giờ, người này đã đọc
Yogasara. Cho nên tôi nói, “Chú ý làm như tôi vừa bảo bạn - vì
nếu bạn đã hành động theo điều mà Yogasara phải nói, bạn sẽ
không cần đi đến tôi nữa. Bạn đã bày tỏ tôn kính lớn lao với
Yogasara; nhưng bạn đã không làm gì cả. Xin đừng tôn kính tôi
theo cùng cách đó. Và bây giờ bạn hỏi liệu điều này đã không
được nói trong Yogasara không. Nó có tạo ra khác biệt nào? Bạn
đã đọc Yoagasara và bây giờ bạn đã nghe tôi. Câu hỏi là: khi nào
bạn sẽ đưa vào thực hành điều bạn đã nghe thấy?”

Người hỏi không phải là trẻ con, trẻ con không bao giờ hỏi
những câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Người đó là một ông già. Nếu
bạn muốn thu thập những câu chuyện rất ngu xuẩn, bạn nên tới
với ông già ấy, vì cái ngu xuẩn của họ đã chín muồi và đúng vụ.
Họ đã kinh nghiệm dốt nát theo tất cả sức mạnh và sức nặng của
chúng. Họ quen thuộc với mọi kinh sách. Họ biết tất cả những
điều đã được nói. Họ đã trở thành ‘người biết về cái ta.’ Không
có hại gì khi trở thành như vậy. Điều ấy là rất tốt, rất đáng ca
ngợi. Nếu ai đó trở thành người biết về cái ta, đấy là lí do để mở
hội. Nhưng thế thì người ấy không có nhu cầu đến với tôi làm gì
cả, và từ khi người ấy tới, tôi biết rằng việc đọc Yogasara của
ông ấy là vô dụng và rằng bất kì cái gì ông ấy đã đọc cho đến nay
đều không ích lợi gì.

Điều rất có thể là những người như vậy sẽ làm cho tôi thành
vô dụng khi họ đã thực hiện mọi việc đọc của họ. Họ quá bận rộn
với hoạt động này. Nếu tôi nói rằng điều Yogasara đã nói là
đúng, thế thì - tôi biết điều đó - vấn đề sẽ xong rồi. Nhưng nếu tôi
nói, “Nó không được nói theo cách này trong Yogasara,” họ sẽ
nắm ngay lấy cơ hội để bắt đầu tranh cãi. Bạn có thể tranh biện
trong cả đời mình.

Tôi không hào hứng với bất kì cuộc tranh cãi nào, tôi không
lo lắng gì mấy tới bất kì chủ nghĩa nào. Tôi hào hứng với mỗi
việc cỏn con này - rằng bạn có thể có khả năng quyết định được
rõ ràng liệu bạn là người giết cái ta hay là người biết cái ta. Nếu
bạn là người biết cái ta, bạn ở bên ngoài việc xem xét. Thế thì tôi
không bận tâm với bạn. Vấn đề xong rồi! Nếu bạn là người giết
cái ta thế thì cái gì đó có thể được thực hiện, và tôi đang bảo bạn
điều có thể được làm. Nhớ lấy lấy điều này: không phải là việc
tôi bảo bạn làm cho nó thành đúng, không cái gì trở thành đúng
bởi vì lời nói của tôi là vậy. Bạn sẽ không biết nó theo bất kì cách
nào chừng nào mà bạn còn chưa dịch nó thành hành động. Biết
nó sau khi đưa nó vào thực hành đi - sau việc thực hiện của nó.
Tôn giáo là thực nghiệm, không phải là ý nghĩ. Tôn giáo là
phương pháp hành động, không phải là phương pháp suy nghĩ.
Tôn giáo là khoa học, không phải triết học. Nó chắc chắn là
phòng thí nghiệm, nhưng không phải là phòng thí nghiệm phức
tạp nơi chúng ta tới và thu thập chất liệu và công cụ, và bắt đầu
thực hiện thực nghiệm. Bản thân bạn là phòng thí nghiệm. Toàn
bộ thực nghiệm được tiến hành bên trong bản thân bạn.
Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ nói về lời kinh khác vào ngày
mai. Bây giờ tôi sẽ nói vài lời về thực nghiệm của chúng ta ở đây
và thế rồi chúng ta sẽ bắt đầu làm nó. Tôi bắt đầu với niềm tin rằng bạn là người
giết cái ta. Bạn có thể bị xúc phạm bởi lời tôi.

Điều tốt là bạn bị xúc phạm. Điều tốt là bạn bị tổn thương một
chút. Đôi khi tôi thấy mọi người bị chết về xúc động đến mức họ
thậm chí không còn bị ảnh hưởng bởi những lời như vậy. Nếu
bạn dán cho họ cái nhãn là người giết cái ta, họ sẽ nói, “Anh
đúng đấy, chúng tôi chấp nhận cái nhãn của anh.” Tôi bảo bạn
rằng bạn đang sống cho đến tận bây giờ mà không biết gì về bản
thân mình. Tôi muốn bạn đi vào bên trong cái ta của bạn, và có
khả năng nói với cái ta của bạn, “Tôi đang sống mà không biết về
cái ta của mình”; vì đau xót của việc không biết tới cái ta là sắc
buốt đến mức nó sẽ hướng dẫn bạn trong thực nghiệm của bạn.
Bằng không không thể làm được điều đó.

Nhớ lấy trong đầu, thực nghiệm này là tới mức bạn sẽ biết
nó chỉ nếu bạn làm nó. Bạn sẽ không có khả năng biết bởi vì
người bên cạnh bạn làm nó. Trong buổi thiền chiều nay tôi thấy
khoảng chục người tuyệt đối ngây thơ ngồi nhìn quanh đây đó để
xem người khác đang làm gì. Họ sẽ thấy gì? Ai đó chạy, ai đó
múa, ai đó khác hét to. Bạn nhìn cái gì vậy? Có thể bạn đang
nghĩ rằng những người ấy điên. Tôi đang bảo bạn nghĩ lại - bạn
là người điên đấy! Người kia đang làm điều gì đó. Bạn đã tới để
quan sát người điên sao? Tại sao tất cả các bạn đã lên đường tới
đây? Chỉ để quan sát ai đó nhảy múa sao? Công sức bạn tới đây
bị phí hoài rồi. Cuộc hành trình dài thế và vô ích đến thế. Nếu
bạn muốn thấy người điên bạn có thể làm điều đó ở thành phố
riêng của bạn. Bạn không cần phải làm cuộc hành trình dài đến
thế và leo lên ngọn núi này.

Bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết cái gì đang xảy ra
bên trong thân thể người khác. Nếu người đó đang cười to bạn sẽ
có khả năng nghe thấy âm thanh của tiếng cười, nhưng bạn sẽ
không bao giờ biết được giấc mơ người đó đang mơ bên trong
bản thân người đó. Nếu người đó đang khóc bạn sẽ có khả năng
thấy nước mắt của người đó, nhưng bạn sẽ không bao giờ biết cái
đã bị kích động bên trong người đó và cái trào ra qua nước mắt
người đó. Nếu người đó nhảy múa bạn sẽ thấy tay người đó đưa
lên đưa xuống, hay bạn sẽ thấy người đó nhún nhảy, nhưng bạn
sẽ không bao giờ biết âm thanh nào bắt đầu chơi bên trong người
đó, sợi dây nào bắt đầu âm vang bên trong anh ta: bạn sẽ không
có khả năng nghe thấy âm thanh không biết đó của cây sáo bên
trong người đó, dù bạn có để tai mình sát gần ngực người đó đến
đâu. Do đó tôi bảo bạn quên hoàn toàn người khác đi, gạt sang
bên mọi bận tâm về người khác.

Cho nên tôi muốn nói rằng từ mai bạn đeo khăn bịt mắt ngay
cả trong buổi thiền trưa. Không ai được ngồi đây mà không bịt
mắt; và nút tai bạn bằng miếng bông. Gạt sang bên tính tò mò
của bạn để nghe và nhìn; bạn sẽ không đến đâu cả qua những
hành động như thế. Bạn phải để mắt mở trong chương trình đêm;
những người giữ mắt nhắm tối đa trong ngày sẽ có khả năng đi
sâu hết mức. Những người chưa làm như thế hôm nay phải nhớ
điều này và giữ mắt nhắm nhiều nhất có thể được. Chương trình
đêm sẽ thực hiện với mắt mở.

Nhớ lấy điều này: khi mắt bạn mở, năng lượng của bạn tiếp
tục chảy ra mọi lúc. Nếu bạn muốn làm thực nghiệm này với
năng lượng tối đa của mình, thế thì giữ mắt nhắm nhiều nhất có
thể được trong ngày để cho năng lượng đó có thể được tích luỹ .
Mắt bạn có thể dùng năng lượng này trong chương trình đêm;
bằng không nó không thể được dùng. Cho nên thật cẩn thận về
điều này sáng mai. Giữ cho mắt, tai và mồm khép kín tới hết
mức khả năng bạn. Chương trình sáng và việc im lặng buổi trưa
sẽ được trải qua với việc bịt mắt, và mắt bạn sẽ còn để mở cho
bốn mươi phút trong chương trình đêm.

Bây giờ chúng ta sẽ ngồi đây trong bốn mươi phút và bạn
đơn giản giữ cái nhìn thẳng vào tôi; thậm chí đừng chớp mắt. Để
mắt mở trong bốn mươi phút. Bạn sẽ bắt đầu có nhiều kinh nghiệm, và những người
đã tiến hành kinh nghiệm này vào ban ngày - và nhiều bạn đã làm điều đó rất có ý thức - sẽ phát hiện ra
một số kết quả rất quan trọng. Những người thích làm điều đó khi
đứng nên đi ra vòng ngoài ở các phía và đứng đó, vì họ thích
nhảy nhót và múa may mãnh liệt. Những người ngồi ở trung tâm
quanh tôi về mọi phía trong góc này nên vẫn còn ở chỗ mình.
Bây giờ những người đang đứng nên tản ra mọi hướng. Những
người có ý tưởng ít nhất rằng việc đứng sẽ là tư thế thích hợp hơn
cho họ nên đi ra xa bây giờ, để cho họ sẽ không cần phải đứng
dậy vào giữa chương trình, vì một khi chúng ta bắt đầu bạn sẽ
không được phép đứng dậy và quấy rối người xung quanh.
Giữ im lặng hoàn toàn - không ai được nói. Tôi theo dõi và
nhìn các bạn trong bốn mươi phút. Tôi sẽ ngồi trong im lặng
hoàn toàn. Thế rồi để cho bất kì cái gì xảy ra, cứ xảy ra với bạn.
Nếu bạn muốn thở sâu, làm nó; nếu bạn muốn nhảy múa, thì
nhảy múa; nhưng chú ý của bạn phải dồn vào tôi, mắt bạn phải
nhìn thẳng vào tôi. Nếu bạn có ý hò hét, hay nhảy múa, hay khóc
lóc hay cười nói, làm điều đó. Làm bất kì cái gì bạn muốn làm,
nhưng giữ mắt hướng về tôi.

Tôi có thể cho bạn vài hướng dẫn. Khi tôi cảm thấy rằng bạn
bây giờ đều theo nhịp độ riêng của bạn, tôi sẽ giơ cả hai tay lên.
Đồng thời bạn tự thực hiện đầy đủ. Đó sẽ là dấu hiệu của tôi rằng
kundalini bên trong của bạn đang dâng lên - đang thức tỉnh. Bây
giờ đặt tất cả năng lượng của bạn vào hoạt động của bạn. Và khi
tôi cảm thấy rằng bạn đã tràn đầy năng lượng đến mức tính
thượng đế có thể giáng xuống bạn, tôi sẽ hạ tay xuống. Thế thì
đặt tất cả năng lượng của bạn, không giữ lại một chút nào, vào
trong hoạt động của bạn - và nhiều điều sẽ xảy ra!
Asura -ma quỉ -là những người bị vây bọc trong bóng tối của không hiểu biết mình.
Những người là kẻ giết cái ta đi tới thế giới của Asura sau cái chết.

Upanishad chia con người ra làm hai loại. Loại thứ nhất là
những người giết chết atman - cái ta; họ là những người tự tử vì
họ giết cái ta riêng của họ. Và có những người biết cái ta; họ
thuộc vào loại thứ hai. Người biết cái ta và người giết cái ta.
Chúng ta có một từ, atmahatya, nghĩa là giết cái ta, nhưng chúng
ta không dùng nó theo đúng nghĩa của nó. Upanishad đã dùng nó
theo đúng nghĩa của nó. Khi một người phá huỷ thân thể mình,
chúng ta nói người đó tự tử - đã giết chết atman. Điều này không
đúng, vì giết chết thân thể không có nghĩa là giết chết atman.
Giết thân thể riêng của bạn chắc chắn là tự tử. Nó chắc chắn có
nghĩa là cái chết riêng của riêng bạn, và vậy mà, đồng thời, nó
không phải là của riêng bạn. Nó đơn thuần là thay đổi cái vỏ,
thay đổi thân thể. Nó là việc giết chết thân thể, không phải là giết
cái ta - không phải là giết chết atman.

Upanishad gọi người ấy là kẻ giết chết - kẻ phá huỷ cái ta -
người cứ sống mà không biết đến bản thân mình, người bị bao
phủ trong dốt nát. Người như thế là người đang giết chết atman
của mình. Sống mà không biết đến bản thân mình là việc tự tử
thực sự. Và tất cả chúng ta đều sống mà không biết đến chính bản
thân mình. Chúng ta sống nhưng chúng ta không biết chút nào về
chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến, tại sao chúng ta có, chúng ta
có với mục đích gì, chúng ta đi đâu, ý nghĩa cuộc sống này là gì.
Không, về tất cả những câu hỏi này, chúng ta không có ý tưởng
mờ nhạt nào. Chúng ta không biết gì về bản thân mình. Chúng ta
có thể biết về nhiều thứ khác, nhưng chúng ta hoàn toàn dốt nát
về một điều; chúng ta không biết gì về bản thân mình .

Upanishad sẽ qui chúng ta là kẻ giết cái ta, là asura - là ma
quỉ. Cố ý hay không cố ý chúng ta làm tổn thương bản thân mình
chừng nào mà chúng ta còn chưa biết tới bản thân mình. Trước
hết dốt nát của chúng ta gây rắc rối cho chúng ta, thế rồi nó gây
rắc rối cho người khác. Nhớ trong tâm, người dốt nát tấn công bản thân mình trước
và tấn công người khác sau. Thực ra chừng nào mà chúng ta còn chưa tấn công mình trước, không thể tấn
công người khác được. Không thể gây đau cho người khác trước
khi chúng ta làm như thế cho bản thân mình. Người chưa bao giờ
bị gai đâm vào chân mình không rải gai trên đường của người
khác. Và người còn chưa làm cho mình phải khóc không bao giờ
tạo ra kế hoạch gây rắc rối cho người khác. Sự kiện là trước hết
chúng ta tạo ra rắc rối cho chính mình, và khi nó đã trở thành rắn
chắc và tập trung và bắt đầu biểu lộ qua chúng ta, thế thì chúng ta
bắt đầu phân phát nó. Duy nhất khổ làm cho người khác bất
hạnh. Điều này dường như là phải vì chúng ta đang chia sẻ cái
chúng ta có. Nhưng việc cho này là cái đến sau, cái thứ yếu;
trước hết chúng ta gây ra đau đớn và khổ sở cho bản thân mình.
Không phải tất cả chúng ta đều đang gây ra đau khổ cho bản
thân mình đấy sao? Chúng ta đang làm thế đấy! Chúng ta có thể
cố gắng để đem vui vẻ và thích thú đến cho người khác nhưng
đến cuối cùng chúng ta chỉ đem cho đau khổ. Con đường tới địa
ngục được lát bằng thiện ý, và nó được làm bằng những nỗ lực
của mong muốn tốt lành mà chúng ta nuôi dưỡng cho bản thân
mình. Ham muốn của chúng ta là gì không phải là vấn đề gốc rễ.
Tất cả chúng ta đều ham muốn đem vui vẻ đến cho bản thân
mình, nhưng không ai có thể đem cho mình vui vẻ mà không biết
đến bản thân mình. Làm sao một người không biết “Tôi là ai?”
có được bất kì ý tưởng nào về “Vui vẻ của tôi là gì? Tôi có thể
biết được vui vẻ của mình là gì chỉ khi tôi biết bản tính của tôi,
bản thể của riêng tôi, cái ta của tôi.”

Chừng nào mà tôi còn chưa biết gì về loại gốc rễ ăn sâu
trong tôi, làm sao tôi có cảm giác nào về hoa gì có thể nở trong
tôi? Tôi có thể hi vọng vào loại hoa nào khi tôi dốt nát đến thế về
loại hạt mầm nằm bên trong tôi? Tôi nên ao ước là loại hoa nào?
Nếu tôi không có một ý tưởng tối thiểu nào về bản thân hạt mầm,
kết quả chỉ có thể là bất hạnh cho tôi, dù tôi có thể cố gắng bất kì
cái gì, vì tôi không thể là cái tôi cố là được, và hậu quả tôi trở
thành khổ, đau buồn, lo âu. Tôi sẽ chết trong căng thẳng và lo âu.
Toàn thể cuộc đời tôi sẽ là cuộc chạy đua điên cuồng của thèm
khát, nhưng tôi sẽ không đạt tới đâu cả. Mặc dầu cuộc hành trình
rất dài, tôi sẽ không tìm ra nơi đến, vì nó bị giấu kín trong bản
tính của tôi, trong cái ta của tôi.

Trước hết tôi phải biết tôi là ai. Tôi phải chắc chắn liệu tôi
đang cố gắng phát hiện ra tôi là gì, hay liệu tôi đang cố gắng phát
hiện ra tôi không là gì. Nếu tôi không phát hiện được tôi không là
gì, tôi sẽ chắc chắn bị khổ. Điều đáng quan tâm hơn là ở sự kiện
rằng nếu tôi thực sự thành công trong việc phát hiện ra tôi không
là gì, tôi vẫn sẽ khổ. Những người không thành công trong cuộc
sống chắc chắn trở nên khổ, nhưng không có sự chấm dứt khổ sở
cho cả những người thành công. Những người không thành công
đó trở thành khổ là có thể hiểu được. Nhưng những người thành
công cũng trở nên bất hạnh. Đi và tìm ra điều ấy từ người thành
công mà xem.

Thế thì dường như là cuộc sống là một trò đùa lớn, sự diễu
cợt. Trong thế giới này người không thành công trở thành bất
hạnh, điều dường như hoàn toàn logic; điều ấy dường như công
bằng và đúng đắn. Nhưng những người thành công trong cuộc
sống cũng bất hạnh. Trong những hoàn cảnh như thế, thế giới này
dường như là rất quái dị và không cân bằng. Khi cả người thành
công và người không thành công đều phải bất hạnh, thế thì dường
như không có cách nào để hạnh phúc. Cho nên trước hết chúng ta
hỏi những người thành công tại sao họ bất hạnh, vì không cái gì
đáng ngạc nhiên về người không thành công bị bất hạnh. Chúng
ta hỏi những người như Alexander Đại đế và Stalin; chúng ta hỏi
các nhà triệu phú như Carnegie và Ford. hỏi những người đã thu
được cái họ muốn. Hỏi họ, “Ông có tìm thấy hạnh phúc không?”
và bạn sẽ rất phân vân khi nghe họ trả lời. Họ nói, “Chúng tôi đã
thành công, nhưng thành công trong trong việc tìm ra bất hạnh.”
Những người không thành công cũng nói, “Chúng tôi không đạt
tới hạnh phúc; thay vì thế chúng tôi tìm thấy bất hạnh.” Những
người đã đạt tới thành công nói, “Chúng tôi thành công trong
việc trở nên bất hạnh; chúng tôi chỉ tìm thấy bất hạnh trong tay.”
Những người chạy nhanh nhất trong cuộc đua của cuộc sống
đạt tới đích của họ chỉ qua bất hạnh; và những người không đạt
tới đâu và cứ lang thang đây đó nơi hoang vu cũng vẩn vơ trong
khổ sở. Khi như vậy là trường hợp, cái gì là khác biệt giữa đích
đến và con đường? Cái gì là khác biệt giữa đi lang thang và đạt
tới đích? Dường như không cái gì khác biệt cả. Khác biệt không
thể được thấy, vì người không biết mình là ai sẽ bị làm cho khổ
sở ngay cả bởi thành công của người đó. Cái ngày mà người đó
trở nên thành công người đó sẽ nhận ra rằng toà nhà mà người đó
đã xây dựng - thành tựu lớn của người đó - đã không hoàn thành
nhu cầu của người đó. Nó không cho bản tính của người đó sự
nuôi dưỡng nào. Toà nhà đã được xây dựng, người đó đã tích luỹ
của cải, người đó đã tìm thấy danh vọng và tài sản; nhưng những
thành đạt này không nuôi dưỡng gì cho bất kì phần nào của cuộc
sống nội tâm của người đó cả, chúng không đem đến mãn
nguyện. Người đó đã phải thăm dò để phát hiện, “Cái gì là ham
muốn thực sự của mình, cái gì là khát khao của mình? Mình thực
sự ước muốn cái gì?” Không biết được ham muốn thực sự của
mình bạn sẽ đơn giản cứ tiếp tục ham muốn, nhảy hết từ ham
muốn nọ sang ham muốn kia.

Vài ngày trước khi chết, Freud đã viết trong một bức thư gửi
cho một người bạn: “Sau khi nghe nói về khổ sở của hàng nghìn
người trong cả cuộc đời tôi, tôi đã đi đến kết luận rằng loài người
mang định mệnh là bao giờ cũng còn trong bất hạnh, lí do là ở
chỗ con người không biết mình muốn gì.” Khi một người như
Freud nói một điều như vậy, vấn đề này cũng đáng để suy nghĩ
tới. Ông ấy nói, “Tôi đã đi đến kết luận rằng con người không
biết mình muốn gì, sau khi đã nghiên cứu những đau khổ, lo âu,
khắc khoải và những xung đột tinh thần của hàng nghìn người bất
hạnh.”

Con người sẽ không bao giờ biết điều mình muốn bởi vì,
ngay ở chỗ đầu tiên, người đó không biết mình là ai. Giả sử tôi ra
phố mua quần áo may sẵn cho bản thân mình. Tôi không biết gì
về thân thể tôi cả, tôi không biết gì về số đo của mình cả, tôi
không biết gì về các yêu cầu thân thể của tôi; nói tóm lại, tôi
không có bất kì ý tưởng nào về bản thân mình vậy mà tôi ra phố
mua quần áo may sẵn. Khi chúng có đầy ra đấy tôi thấy rằng
chúng không vừa với tôi. Có cái gì sai ở đâu đó; chúng không
khớp với việc sử dụng của tôi. Bằng đủ mọi cách đi và kiếm quần
áo may sẵn đi, nhưng trước khi đi ra, tìm xem bạn là ai, tìm xem
quần áo của ai đang được chuẩn bị, nhà của ai đang được xây
dựng, hạnh phúc của ai đang cần được tìm.

Điều rất đáng quan tâm là quan sát rằng một người biết mình
là ai không sớm hơn cuộc hành trình, và mọi thu xếp cùng chuẩn
bị cho toàn bộ cuộc đời anh ta, được biến đổi. Người đó không
còn tìm kiếm những cái mà chúng ta tìm kiếm nữa. Người đó
không biểu lộ sự sẵn lòng mỉm cười và vẻ hài lòng bởi ai đó chào
giá hời - hay không phải mất gì - để có được cái mà vì nó chúng
ta phải lao động vất vả. Nếu ai đó sẵn lòng cho không người đó
cái gì đó, người đó sẽ quay mặt đi với người này trong trường
hợp cái đó bị tống vào anh ta. Người đó quyết tâm đạt tới cái gì
đó hoàn toàn khác, cái gì đó bất thường; và cũng rất đáng quan
tâm mà thấy rằng những người đã biết bản thân mình không bao
giờ thất bại . Cho đến giờ họ chưa bao giờ không thành công. Họ
thành công cũng nhiều như những người không biết bản thân
mình vẫn không thành công. Người đã biết tới bản thân mình trở
nên thành công bởi vì, khi biết về cái ta, người đó mở ra cho bản
thân mình cái bí mật đó và cái cửa đó nơi phúc lạc có đấy. Phúc
lạc đó bị ẩn giấu bên trong cái ta.

Cho nên, Upanishad tuyên bố có hai kiểu người: những
người biết tới chính bản thân họ, và những người dốt nát về bản
thân họ. Những người không biết tới bản thân mình theo đuổi con
đường của họ đi vào dốt nát, và mọi thứ họ làm đều được tiến
hành trong dốt nát. Họ cứ thu nhận trong dốt nát, họ ra quyết
định trong dốt nát, và trong cái dốt nát của họ, cuộc đua của họ
càng trở nên ngày một nhanh hơn. Cách nhìn nhận thông thường
là: “Mình đã không đạt được điều mình muốn trong cuộc sống
bởi vì mình chạy chưa nhanh như mình đáng phải chạy. Để mình
chạy nhanh hơn một chút, nhanh hơn, rồi nhanh hơn nữa, để cho
mình có thể đạt tới mục đích của mình. Có lẽ mình chưa đạt được
nó bởi vì mình đã không đặt cược tất cả. Nếu mình đặt cược tất
cả, mình có thể đạt được.”

Chúng ta không bao giờ dừng việc xem xét liệu điều ta đang
cố gắng đạt tới có bất kì hài hoà nội tâm nào với chúng ta hay
không. Cho dù một điều được đạt tới, nó sẽ thành vô dụng, và
nếu nó không được đạt tới, nó không thể hữu dụng gì; và thời
gian dành ra để thu được nó hay để không thể thu được nó bị mất
đi. Tới mức độ này chúng ta trở thành kẻ ám sát của mình. Chúng
ta đã trở thành asura, ma quỉ, kẻ giết atman - cái ta. Từ asur
nghĩa là những người sống trong bóng tối. Nó có nghĩa là những
người sống tại một nơi mà ánh sáng mặt trời không đạt tới, một
nơi mà không có bừng sáng. Họ dò dẫm trong bóng tối, họ vẩn
vơ trong bóng tối, giống như mầm mống của bóng tối. Những
người không biết tới bản thân mình đang sống trong bóng tối
này.

Biết tới bản thân mình là trở thành mặt trời. Cuộc hành trình
của một cá nhân như vậy là đi vào trong thế giới của ánh sáng;
nhưng có những người mà ánh sáng bên trong của họ không
cháy, bị tắt ngấm; họ chìm sâu trong bóng tối. Những người vẫn
còn đang chạy, dò dẫm, khao khát, đi theo kẻ mù, đều giống như
kẻ mù theo sau kẻ mù. Và còn có một số người trong số họ là
những kẻ nói lớn; những người như thế có những người theo sau
ít nói hơn, và cứ thế cuộc đua tiếp diễn. Kẻ mù với chút ít dũng
cảm tập hợp quanh mình những kẻ mù ít dũng cảm hơn.
Kahlil Gibran đã viết rằng ông ấy đi lang thang từ làng nọ
sang làng kia, hứa hẹn cho mọi người thấy Thượng đế nếu họ
theo ông ấy. Không ai đã bao giờ theo ông ấy cho nên không rắc
rối nào nảy sinh. Dân làng bảo ông ấy tới lần nữa vì họ đang rất
bận với những việc khác. Mùa màng đang chín rộ và phải gặt
ngay, cho nên ông ấy nên tới sau một thời gian nữa. Khi ông ấy
lại tới thăm họ, họ nói, “Năm nay mùa màng không được tốt; có
khan hiếm lương thực và chúng tôi đang khó khăn. Xin phiền
ông tới sang năm vậy.” Ông ấy vẫn tiếp tục tới thăm làng ấy. Ông
ấy không vội vàng gì để thuyết phục bất kì ai theo ông ấy, nhưng
một người hăng hái trong làng đó quyết định đi theo ông ấy. Khi
Gibran nói, “Theo ta nếu ông muốn gặp Thượng đế,” thì người
đó quẳng chiếc rìu của mình đi và nói, “Tôi xin theo ông!”
Gibran trở nên nóng nẩy. Thế rồi ông ấy nghĩ, “Không biết
thằng cha này theo mình bao lâu? Trong một hay hai tuần nó sẽ
mệt mỏi và sẽ rời bỏ ta.” Nhưng người dân làng này vẫn tiếp tục
theo ông ấy.

Một năm trôi qua. Người này nói, “Tôi sẽ theo ông đến bất
kì đâu ông đưa tôi tới.” Hai năm trôi qua và Gibram trở nên ngày
một nóng nẩy hơn. Ông ấy cố tránh người theo mình, nhưng
người này bao giờ cũng đứng sau ông, nói, “Tôi được chuẩn bị
để theo ông tới bất kì đâu ông đưa tôi đến. Tôi sẽ tuân theo bất kì
điều gì ông bảo tôi làm.”
Sáu năm trôi qua theo kiểu này. Thế rồi một hôm người này
tóm lấy cổ Gibran và nói, “Ông đã lấy thời gian khá lâu rồi, bây
giờ chỉ cho tôi Thượng đế. Ông muốn đi đâu bây giờ nào?”
Thầy nói, “Ta xin lỗi; ta thậm chí đã lạc đường trong việc đi
cùng với ông. Bản thân ta đã lạc đường vì ông đã theo ta. Trước
khi ông bắt đầu theo ta, con đường của ta hoàn toàn rõ ràng cho
ta. Mọi thứ đều rõ ràng thấy được. Ta đã gần tới đích, Thượng đế
đã ở trước mặt ta. Tai hoạ làm sao mà ta để ông đi cùng ta! Bây
giờ ta đã lạc mất đường rồi. Cho nên xin ông rời bỏ ta và đi theo
đường của ông đi.”

Người dân làng đó cảnh cáo ông, “Đừng tới làng tôi lần nữa
đấy!”
Gibran nói, “Này người anh em, tôi xin ông thứ lỗi. Tôi sẽ
không bao giờ tới thăm làng ông nữa đâu, nhưng tôi có thể sang
làng khác, vì không có những người như ông trong các thôn làng
này. Họ chỉ đơn giản nghe tôi và tôi cứ đi một mình trên con
đường của mình.”

Con người, bản thân người đó sống trong dốt nát, thường
được cho là đi nói cho người khác về ánh sáng của tri thức đúng
đắn; để làm cho người đó thoải mái và giúp người đó quên đi
bóng tối của riêng người đó. Điều quan trọng là nhận biết về
những người như thế. Khi bạn bắt đầu nói về những vấn đề mà
bạn không biết gì về nó, thật khó ước lượng được bạn làm hại
người khác đến mức độ nào. Nhưng thật khó mà tìm ra một
người tuân theo qui tắc chỉ nói những điều mình biết, và người
giữ im lặng về điều người đó không biết. Không, có hấp dẫn lớn
để chỉ cho người khác, để bảo người khác, nếu cơ hội nảy sinh.
Hấp dẫn này cực kì lớn. Nếu chúng ta gặp ai đó mà dường như
chút ít yếu về chủ đề Thượng đế và linh hồn, và người mà có thể
bị tràn ngập và kính cẩn bởi việc nói của chúng ta, thế thì chắc
chắn chúng ta sẽ tống tri thức của chúng ta cho người đó. Thế thì
chúng ta sẽ chỉ cho người đó con đường đạt tới Thượng đế và chỉ
dẫn người đó cách tiến hành.

Công việc chỉ ra con đường cho người khác là thích thú và
hài lòng bởi vì nó tạo ra ảo tưởng trong chúng ta rằng chúng ta đã
biết con đường: và trong việc chỉ nó cho người khác qua một thời
gian dài, dần dần chúng ta quên mất rằng bản thân chúng ta
không biết đến chân lí. Có rất ít người thực sự biết, nhưng có rất
nhiều người bao giờ cũng sẵn sàng cố vấn cho người khác. Sẽ có
lợi rất nhiều cho thế giới nếu những người không biết mà cứ đi
nói cho người khác sẽ giữ im lặng về chủ đề tri thức tâm linh.
Nhưng rất khó để họ giữ yên tĩnh, và cũng khó tương đương cho
người khác để làm im lặng họ. Nếu bạn cố gắng làm họ im lặng,
họ sẽ bắt đầu hét to nhiều hơn, vì trong việc hét to lên họ có thể
tự lừa dối mình. Âm thanh riêng của họ rơi vào tai họ tạo ra niềm
tin trong họ: “Tất cả đều ổn thoả, tôi biết chân lí rồi!”
Upanishad tuyên bố rằng có hai kiểu người. Cân nhắc và
xem xét cẩn thận xem bạn thuộc vào kiểu nào trong hai kiểu này,
bạn thuộc vào phân loại nào. Cần phải ra quyết định một cách
chân thành và đúng đắn về bản thân mình để cho bước tiếp có thể
được lấy đúng đắn và theo đúng hướng. Bạn là ai? Người tự giết
mình hay người tự biết mình?

Nếu bạn là người tự biết mình thế thì không vấn đề gì nảy
sinh, vấn đề xong rồi. Thế thì không có hành trình nào cho bạn.
Nếu bạn là người tự giết mình thế thì bạn phải làm cuộc hành
trình. Nó còn chưa bắt đầu, để một mình câu hỏi về sự tồn tại của
nó qua đi. Nhưng thật dễ để coi bản thân mình là người biết về
cái ta, vì tất cả chúng ta đều đã đọc Upanishad, Gita, Kinh thánh,
Koran và những điều Mahavira và Phật đã nói. Thật khó tưởng
tượng được điều này đắt giá và tai hại đến đâu cho nhân loại.
Những cuốn sách ‘tôn giáo’ này ở ngay đầu lưỡi mọi người; tất
cả họ đều biết đầy đủ. Sự kiện là, không ai biết gì về họ nhưng tất
cả đều trong ảo tưởng rằng họ biết mọi điều, vì toàn bộ sách vở
đều được ghi nhớ.

Ngừoi ta viết thư cho tôi nói rằng, “Thầy nói điều gì đó về
vấn đề nào đó, nhưng nó dường như không đúng vì có điều gì đó
khác đã được viết về nó trong sách như vậy và như vậy.” Bây
giờ, nếu bạn biết cái gì là đúng thế thì không cần bạn phải nghe
điều tôi nói. Và nếu bạn không biết cái gì là đúng thế thì làm sao
bạn có thể quyết định được cái như thế và như thế mà sách đã
viết là đúng? Vấn đề này không thể được quyết định đơn giản chỉ
bởi việc suy nghĩ và cân nhắc về nó. Người ta phải làm điều gì đó
trong vấn đề này, đơn giản nghĩ và cân nhắc không có tác dụng.
Hôm qua khi tôi rời khỏi chỗ này, một người bạn đã tiến tới
chiếc xe và nói, “Điều thầy vừa nói trong bài giảng hôm nay đã
được nói tới trong Yogasara rồi.” Bây giờ, người này đã đọc
Yogasara. Cho nên tôi nói, “Chú ý làm như tôi vừa bảo bạn - vì
nếu bạn đã hành động theo điều mà Yogasara phải nói, bạn sẽ
không cần đi đến tôi nữa. Bạn đã bày tỏ tôn kính lớn lao với
Yogasara; nhưng bạn đã không làm gì cả. Xin đừng tôn kính tôi
theo cùng cách đó. Và bây giờ bạn hỏi liệu điều này đã không
được nói trong Yogasara không. Nó có tạo ra khác biệt nào? Bạn
đã đọc Yoagasara và bây giờ bạn đã nghe tôi. Câu hỏi là: khi nào
bạn sẽ đưa vào thực hành điều bạn đã nghe thấy?”

Người hỏi không phải là trẻ con, trẻ con không bao giờ hỏi
những câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Người đó là một ông già. Nếu
bạn muốn thu thập những câu chuyện rất ngu xuẩn, bạn nên tới
với ông già ấy, vì cái ngu xuẩn của họ đã chín muồi và đúng vụ.
Họ đã kinh nghiệm dốt nát theo tất cả sức mạnh và sức nặng của
chúng. Họ quen thuộc với mọi kinh sách. Họ biết tất cả những
điều đã được nói. Họ đã trở thành ‘người biết về cái ta.’ Không
có hại gì khi trở thành như vậy. Điều ấy là rất tốt, rất đáng ca
ngợi. Nếu ai đó trở thành người biết về cái ta, đấy là lí do để mở
hội. Nhưng thế thì người ấy không có nhu cầu đến với tôi làm gì
cả, và từ khi người ấy tới, tôi biết rằng việc đọc Yogasara của
ông ấy là vô dụng và rằng bất kì cái gì ông ấy đã đọc cho đến nay
đều không ích lợi gì.

Điều rất có thể là những người như vậy sẽ làm cho tôi thành
vô dụng khi họ đã thực hiện mọi việc đọc của họ. Họ quá bận rộn
với hoạt động này. Nếu tôi nói rằng điều Yogasara đã nói là
đúng, thế thì - tôi biết điều đó - vấn đề sẽ xong rồi. Nhưng nếu tôi
nói, “Nó không được nói theo cách này trong Yogasara,” họ sẽ
nắm ngay lấy cơ hội để bắt đầu tranh cãi. Bạn có thể tranh biện
trong cả đời mình.

Tôi không hào hứng với bất kì cuộc tranh cãi nào, tôi không
lo lắng gì mấy tới bất kì chủ nghĩa nào. Tôi hào hứng với mỗi
việc cỏn con này - rằng bạn có thể có khả năng quyết định được
rõ ràng liệu bạn là người giết cái ta hay là người biết cái ta. Nếu
bạn là người biết cái ta, bạn ở bên ngoài việc xem xét. Thế thì tôi
không bận tâm với bạn. Vấn đề xong rồi! Nếu bạn là người giết
cái ta thế thì cái gì đó có thể được thực hiện, và tôi đang bảo bạn
điều có thể được làm. Nhớ lấy lấy điều này: không phải là việc
tôi bảo bạn làm cho nó thành đúng, không cái gì trở thành đúng
bởi vì lời nói của tôi là vậy. Bạn sẽ không biết nó theo bất kì cách
nào chừng nào mà bạn còn chưa dịch nó thành hành động. Biết
nó sau khi đưa nó vào thực hành đi - sau việc thực hiện của nó.
Tôn giáo là thực nghiệm, không phải là ý nghĩ. Tôn giáo là
phương pháp hành động, không phải là phương pháp suy nghĩ.
Tôn giáo là khoa học, không phải triết học. Nó chắc chắn là
phòng thí nghiệm, nhưng không phải là phòng thí nghiệm phức
tạp nơi chúng ta tới và thu thập chất liệu và công cụ, và bắt đầu
thực hiện thực nghiệm. Bản thân bạn là phòng thí nghiệm. Toàn
bộ thực nghiệm được tiến hành bên trong bản thân bạn.
Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ nói về lời kinh khác vào ngày
mai. Bây giờ tôi sẽ nói vài lời về thực nghiệm của chúng ta ở đây
và thế rồi chúng ta sẽ bắt đầu làm nó. Tôi bắt đầu với niềm tin rằng bạn là người
giết cái ta. Bạn có thể bị xúc phạm bởi lời tôi.

Điều tốt là bạn bị xúc phạm. Điều tốt là bạn bị tổn thương một
chút. Đôi khi tôi thấy mọi người bị chết về xúc động đến mức họ
thậm chí không còn bị ảnh hưởng bởi những lời như vậy. Nếu
bạn dán cho họ cái nhãn là người giết cái ta, họ sẽ nói, “Anh
đúng đấy, chúng tôi chấp nhận cái nhãn của anh.” Tôi bảo bạn
rằng bạn đang sống cho đến tận bây giờ mà không biết gì về bản
thân mình. Tôi muốn bạn đi vào bên trong cái ta của bạn, và có
khả năng nói với cái ta của bạn, “Tôi đang sống mà không biết về
cái ta của mình”; vì đau xót của việc không biết tới cái ta là sắc
buốt đến mức nó sẽ hướng dẫn bạn trong thực nghiệm của bạn.
Bằng không không thể làm được điều đó.

Nhớ lấy trong đầu, thực nghiệm này là tới mức bạn sẽ biết
nó chỉ nếu bạn làm nó. Bạn sẽ không có khả năng biết bởi vì
người bên cạnh bạn làm nó. Trong buổi thiền chiều nay tôi thấy
khoảng chục người tuyệt đối ngây thơ ngồi nhìn quanh đây đó để
xem người khác đang làm gì. Họ sẽ thấy gì? Ai đó chạy, ai đó
múa, ai đó khác hét to. Bạn nhìn cái gì vậy? Có thể bạn đang
nghĩ rằng những người ấy điên. Tôi đang bảo bạn nghĩ lại - bạn
là người điên đấy! Người kia đang làm điều gì đó. Bạn đã tới để
quan sát người điên sao? Tại sao tất cả các bạn đã lên đường tới
đây? Chỉ để quan sát ai đó nhảy múa sao? Công sức bạn tới đây
bị phí hoài rồi. Cuộc hành trình dài thế và vô ích đến thế. Nếu
bạn muốn thấy người điên bạn có thể làm điều đó ở thành phố
riêng của bạn. Bạn không cần phải làm cuộc hành trình dài đến
thế và leo lên ngọn núi này.

Bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết cái gì đang xảy ra
bên trong thân thể người khác. Nếu người đó đang cười to bạn sẽ
có khả năng nghe thấy âm thanh của tiếng cười, nhưng bạn sẽ
không bao giờ biết được giấc mơ người đó đang mơ bên trong
bản thân người đó. Nếu người đó đang khóc bạn sẽ có khả năng
thấy nước mắt của người đó, nhưng bạn sẽ không bao giờ biết cái
đã bị kích động bên trong người đó và cái trào ra qua nước mắt
người đó. Nếu người đó nhảy múa bạn sẽ thấy tay người đó đưa
lên đưa xuống, hay bạn sẽ thấy người đó nhún nhảy, nhưng bạn
sẽ không bao giờ biết âm thanh nào bắt đầu chơi bên trong người
đó, sợi dây nào bắt đầu âm vang bên trong anh ta: bạn sẽ không
có khả năng nghe thấy âm thanh không biết đó của cây sáo bên
trong người đó, dù bạn có để tai mình sát gần ngực người đó đến
đâu. Do đó tôi bảo bạn quên hoàn toàn người khác đi, gạt sang
bên mọi bận tâm về người khác.

Cho nên tôi muốn nói rằng từ mai bạn đeo khăn bịt mắt ngay
cả trong buổi thiền trưa. Không ai được ngồi đây mà không bịt
mắt; và nút tai bạn bằng miếng bông. Gạt sang bên tính tò mò
của bạn để nghe và nhìn; bạn sẽ không đến đâu cả qua những
hành động như thế. Bạn phải để mắt mở trong chương trình đêm;
những người giữ mắt nhắm tối đa trong ngày sẽ có khả năng đi
sâu hết mức. Những người chưa làm như thế hôm nay phải nhớ
điều này và giữ mắt nhắm nhiều nhất có thể được. Chương trình
đêm sẽ thực hiện với mắt mở.

Nhớ lấy điều này: khi mắt bạn mở, năng lượng của bạn tiếp
tục chảy ra mọi lúc. Nếu bạn muốn làm thực nghiệm này với
năng lượng tối đa của mình, thế thì giữ mắt nhắm nhiều nhất có
thể được trong ngày để cho năng lượng đó có thể được tích luỹ .
Mắt bạn có thể dùng năng lượng này trong chương trình đêm;
bằng không nó không thể được dùng. Cho nên thật cẩn thận về
điều này sáng mai. Giữ cho mắt, tai và mồm khép kín tới hết
mức khả năng bạn. Chương trình sáng và việc im lặng buổi trưa
sẽ được trải qua với việc bịt mắt, và mắt bạn sẽ còn để mở cho
bốn mươi phút trong chương trình đêm.

Bây giờ chúng ta sẽ ngồi đây trong bốn mươi phút và bạn
đơn giản giữ cái nhìn thẳng vào tôi; thậm chí đừng chớp mắt. Để
mắt mở trong bốn mươi phút. Bạn sẽ bắt đầu có nhiều kinh nghiệm, và những người
đã tiến hành kinh nghiệm này vào ban ngày - và nhiều bạn đã làm điều đó rất có ý thức - sẽ phát hiện ra
một số kết quả rất quan trọng. Những người thích làm điều đó khi
đứng nên đi ra vòng ngoài ở các phía và đứng đó, vì họ thích
nhảy nhót và múa may mãnh liệt. Những người ngồi ở trung tâm
quanh tôi về mọi phía trong góc này nên vẫn còn ở chỗ mình.
Bây giờ những người đang đứng nên tản ra mọi hướng. Những
người có ý tưởng ít nhất rằng việc đứng sẽ là tư thế thích hợp hơn
cho họ nên đi ra xa bây giờ, để cho họ sẽ không cần phải đứng
dậy vào giữa chương trình, vì một khi chúng ta bắt đầu bạn sẽ
không được phép đứng dậy và quấy rối người xung quanh.
Giữ im lặng hoàn toàn - không ai được nói. Tôi theo dõi và
nhìn các bạn trong bốn mươi phút. Tôi sẽ ngồi trong im lặng
hoàn toàn. Thế rồi để cho bất kì cái gì xảy ra, cứ xảy ra với bạn.
Nếu bạn muốn thở sâu, làm nó; nếu bạn muốn nhảy múa, thì
nhảy múa; nhưng chú ý của bạn phải dồn vào tôi, mắt bạn phải
nhìn thẳng vào tôi. Nếu bạn có ý hò hét, hay nhảy múa, hay khóc
lóc hay cười nói, làm điều đó. Làm bất kì cái gì bạn muốn làm,
nhưng giữ mắt hướng về tôi.

Tôi có thể cho bạn vài hướng dẫn. Khi tôi cảm thấy rằng bạn
bây giờ đều theo nhịp độ riêng của bạn, tôi sẽ giơ cả hai tay lên.
Đồng thời bạn tự thực hiện đầy đủ. Đó sẽ là dấu hiệu của tôi rằng
kundalini bên trong của bạn đang dâng lên - đang thức tỉnh. Bây
giờ đặt tất cả năng lượng của bạn vào hoạt động của bạn. Và khi
tôi cảm thấy rằng bạn đã tràn đầy năng lượng đến mức tính
thượng đế có thể giáng xuống bạn, tôi sẽ hạ tay xuống. Thế thì
đặt tất cả năng lượng của bạn, không giữ lại một chút nào, vào
trong hoạt động của bạn - và nhiều điều sẽ xảy ra!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến