Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

Bên ngoài khoa học

Nó lan toả khắp nơi,nó là cái thuần khiết nhất,nó vô thân thể, nó không thể bị phá huỷ,nó không có gân cốt, nó không tì vết,nó vô tội, nó thấy hết,nó biết hết,nó là cái tốt nhất trong những cái tốt,và nó là tự sáng tạo

Lời kinh này cho chúng ta một số chỉ dẫn về bản tính của
atman - trên hết, rằng nó được tạo ra từ bản thân nó. Atman, sự
tồn tại, một mình nó là tự sáng tạo. Từ swayambhoo có nghĩa là
tự khởi nguồn. Điều đó có nghĩa là cái không được tạo ra bởi bất
kì cái gì khác, cái mà tự nó được tạo ra. Sự tồn tại của nó là từ
bản thân nó. Sự tồn tại của nó không ở trong tay ai cả; nó phụ
thuộc vào bản thân nó.
Cho nên điểm đầu tiên này, rằng atman là tự khởi nguồn, cần
phải được hiểu cho đầy đủ. Mọi thứ chúng ta thấy đều có thể
được tạo ra. Bất kì cái gì được tạo ra, bất kì cái gì có thể được
làm ra, sẽ không là atman. Chúng ta xây nhà; nhà không phải là
tự khởi nguồn, nó được làm ra. Chúng ta chế tạo ra máy; nó
không phải là tự tạo ra, nó do chúng ta chế tạo ra. Tìm yếu tố đó,
cái bản chất đó, cái không do ai chế tạo ra. Bản chất không được
tạo ra này là atman. Trong nỗ lực của chúng ta để tìm kiếm sự
tồn tại của vũ trụ, nếu chúng ta đạt tới đó, nếu chúng ta có thể
hiểu thấu được cái bản chất tối cao đó của vũ trụ, cái không do
bất kì ai tạo ra, cái là vĩnh hằng, vô thuỷ, bản thân cái ta, thế thì
chúng ta sẽ đạt tới tính thượng đế.
Atman và atman tối cao không phải là hai; chúng là những
cái tên của cùng một điều được thấy từ hai quan điểm. Nếu bạn
tìm nó bên trong bản thân mình, thế thì cái yếu tố không được
chế tạo, không được sinh, được tự tạo ra đó được gọi là atman.
Còn nếu bạn tìm kiếm và thấy nó ở chỗ khác, thế thì yếu tố đó
được gọi là atman tối cao, vĩ đại. Atman đơn giản là atman tối
cao được biết tới từ bên trong. Atman tối cao đơn giản là atman
được biết tới từ bên ngoài.

Nếu bạn xem xét bản thân mình bạn sẽ thấy rằng thân thể
này là thứ được tạo ra. Nó không thể được tạo ra mà không có sự
hợp tác của bố mẹ bạn. Cho dù vậy, trong tương lai, nó được tạo
ra trong ống nghiệm, nó vẫn còn là thứ được chế tạo. Các nhà khoa học và sinh học
của phương Tây có thể có khả năng, nếu
không phải hôm nay thì trong tương lai, hoàn thành được công bố
của họ về việc tạo ra đứa trẻ trong ống nghiệm. Họ sẽ thành công
trong việc chế tạo ra một thân thể trong ống nghiệm, và do đó hi
vọng chung cuộc đánh bại tôn giáo. Nhưng họ sai lầm trong cách
nhìn của họ, vì con người tâm linh chưa bao giờ coi thân thể là
atman .

Con người tâm linh nói, “Cái mà không được sinh ra, không
được tạo ra, là atman.” Bằng việc chế tạo ra thân thể trong ống
nghiệm, các nhà khoa học sẽ đơn giản chứng minh rằng thân thể
không phải là linh hồn - atman. Dường như là thân thể sẽ được
chế tạo ra trong tương lai; tôi không thấy bất kì lí do gì tại sao nó
không như vậy. Nhiều người tâm linh e sợ về điều này: “Điều gì
sẽ xảy ra cho atman khi thân thể được tạo ra trong ống nghiệm
trong phòng thí nghiệm? Điều đó sẽ chứng minh rằng atman
không tồn tại nếu chúng ta có thể tạo ra một đứa trẻ mà không có
sự hợp tác của bố mẹ và chỉ với sự trợ giúp của hoá chất?”
Nhưng những người tâm linh đó không biết rằng thân thể không
phải là atman. Nếu nhà khoa học thành công trong thực nghiệm
của ông ấy thì đích thực lời kinh của Upanishad sẽ được chứng
minh là đúng - rằng thân thể này không phải là atman. Chỉ ngần
ấy thôi, và không gì hơn nữa, là được chứng minh.
Ngay cả bây giờ chúng ta biết rằng thân thể không phải là
linh hồn. Sự kiện này được khoa học vật lí chứng minh. Trong
tương lai thân thể sẽ được tạo ra bằng các quá trình hoá học và
nhân tạo. Hiện tại, khi các chất hoá học của bố mẹ tổ hợp và tạo
ra tế bào, chính là tế bào đầu tiên của thân thể, thế rồi linh hồn đi
vào nó. Nếu trong tương lai tế bào đó được tạo ra trong phòng thí
nghiệm, và nếu tình huống gen đó được tạo ra, điều mà từ trước
tới nay vẫn do bố mẹ tạo ra, thế thì linh hồn cũng sẽ đi vào cả
trong đó nữa.

Nhưng tế bào đó, cái tế bào đầu tiên của thân thể, không phải
là atman. Nó là một thứ được chế tạo ra, nó không phải là tự sinh
ra. Nó được tạo ra bởi ai đó. Sự tồn tại của nó, sự sinh thành của
nó, tuỳ thuộc vào cái gì đó, do vậy những người biết tới atman
không sẵn lòng gọi nó là atman. Nó không phải là atman. Biết
điều đó, chúng ta sẽ phải làm việc theo cách lùi lại hơn; chúng ta
sẽ phải đi ngày một sâu xuống hơn.
Cho nên bản thân tôi hài lòng và hi vọng rằng khoa học
thành công trong việc làm ra đứa trẻ trong ống nghiệm sớm nhất
có thể được, bởi vì thế thì chúng ta sẽ được các nghiên cứu khoa
học giúp đỡ để phá vỡ sự đồng nhất của chúng ta với thân thể.
Thế thì chúng ta sẽ biết chắc chắn rằng thân thể là một loại máy,
và rằng việc tin vào nó như cái ta là điều ngu xuẩn. Ngay cả bây
giờ nó cũng là điều ngu xuẩn, nhưng hiện tại chúng ta không sẵn
lòng thừa nhận rằng thân thể là một cái máy. Dầu vậy nó vẫn cứ
là một cái máy. Nó được tạo ra bởi các lực tự nhiên, cho nên
bằng việc hiểu các bí mật này của tự nhiên chúng ta sẽ có khả
năng tạo ra nó, và thế thì chúng ta sẽ có được sự hợp tác của các
lực tự nhiên để bẻ vỡ việc đồng nhất mình với thân thể.
Khi đi sâu vào bên trong bản thân mình, chúng ta phải đạt tới
chỗ đó, cái bản chất đó, cái không thể được tạo ra; và chừng nào
mà việc chế tạo nó còn là điều có thể, biết rằng nó không thể là
atman. Cho nên bằng việc đi ngày càng sâu hơn vào trong việc
chế tạo, khoa học giúp đỡ cho tôn giáo, bởi vì bất kì cái gì khoa
học có thể tạo ra, cái đó không phải là atman. Atman còn xa hơn
điều đó. Atman bao giờ cũng vượt ra ngoài cái có thể được làm
ra.

Cho nên chúng ta biết ơn khoa học rất nhiều về việc nó cứ
làm ra hết thứ nọ đến thứ kia, đẩy xa giới hạn về cái có thể được
chế tạo và do đó xác định cái không phải là atman; bởi vì chúng
ta gọi một yếu tố là atman khi nó tự khởi nguồn, không được sinh ra, khi nó không
thể được tạo ra. Điều đó nghĩa là cái nguyên
thuỷ.

Không hoài nghi gì nữa, phải có cái tối thượng, yếu tố nền
tảng cho vũ trụ này được tạo ra, và yếu tố tối thượng này phải là
không được tạo ra. Nếu một cơ sở được cần cho việc sáng tạo của
mọi thứ, thế thì việc sáng tạo là không thể được. Nếu bạn nói,
“Thượng đế được cần tới để tạo ra thế giới,” thế thì bạn sẽ phải
nói một Thượng đế tối cao khác là cần có để tạo ra Thượng đế.
Không có điểm cuối cho loại logic này. Thế thì chúng ta sẽ
không bao giờ đạt tới được chỗ chúng ta có thể nói, “Được rồi,
đây là chỗ có sự sáng tạo mà không cần tới người sáng tạo khác.”
Sẽ tốt hơn và khoa học hơn nếu chúng ta hiểu điều đó thế
này: rằng cái tự khởi nguồn là atman. Điều này khoa học hơn
việc nói rằng atman là tự khởi nguồn. Nếu chúng ta nói, “Chúng
ta gọi ngài là atman tối cao - Thượng đế - người không được tạo
ra, người không được bất kì ai tạo ra,” sẽ khoa học hơn là nói,
“Không ai đã tạo ra Thượng đế.”

Khoa học cũng kinh nghiệm điều này. Trong những nghiên
cứu của mình, các nhà khoa học đạt tới giới hạn nào đó và thế rồi
họ cảm thấy rằng có cái gì đó còn nằm ngoài những giới hạn này,
cái bên ngoài sự sáng tạo. Khi điều này xảy ra, khoa học bao giờ
cũng làm các nghiên cứu về các yếu tố, và các nhà khoa học cổ
đại đã tuyên bố rằng có năm yếu tố. Người tâm linh cổ đại -
người tôn giáo - không nói điều này bởi vì họ không quan tâm tới
những yếu tố như vậy. Họ quan tâm tới chỉ cái một, yếu tố tự
khởi nguồn.

Tư duy khoa học cổ đại của gần bốn đến năm nghìn năm
trước đây đã xác nhận rằng mọi thứ được tạo ra từ năm yếu tố.
Bây giờ sai lầm đã xảy ra bởi vì đã không tồn tại những cuốn
sách khoa học tách biệt; mọi chủ đề đều được đưa vào trong các
sách tôn giáo. Sách tôn giáo là tuyển tập của tất cả tri thức của
những ngày đó, và do vậy niềm tin rằng mọi thứ đã được tạo ra
từ năm yếu tố đều có sẵn trong các sách tôn giáo. Nhưng vấn đề
này liên quan tới khoa học chứ không phải tới tôn giáo. Tôn giáo
chỉ tìm kiếm một yếu tố - yếu tố tự khởi nguồn.
Khoa học đã tiếp tục nghiên cứu của nó, và nó đã thấy rằng
nguyên lí về năm yếu tố là không đúng. Khi điều này được chỉ ra
là ngu xuẩn thì cái gọi là những người tôn giáo rất lo nghĩ. Họ
nghĩ mọi thứ bây giờ bị lẫn lộn hết, bởi vì họ đã tin vào năm yếu
tố. Nhưng khoa học vẫn tiến vững chắc với nghiên cứu của nó.
Bây giờ các nhà khoa học đã phát hiện ra một trăm lẻ tám yếu tố.
Nhưng tôi muốn làm điều này rõ ràng rằng các nghiên cứu mới
của khoa học chỉ bác bỏ khoa học cũ.

Không khám phá nào của khoa học có thể bác bỏ được tôn
giáo, bởi vì chiều hướng của tôn giáo và khoa học là hoàn toàn
tách biệt. Ai đó có thể soạn một bài thơ rất hay, nhưng điều đó
không thể bác bỏ nguyên lí của toán học được. Không có quan hệ
gì giữa thơ ca và toán học. Tương tự ai đó có thể phát triển một lí
thuyết toán học sâu sắc và khó, nhưng điều đó sẽ không làm mất
phẩm chất của bài thơ hay, vì chiều hướng của chúng là tách biệt;
chúng không huỷ lẫn nhau. Chúng thậm chí không chạm vào
nhau. Những chiều hướng này chạy song song tựa như đường ray
xe hoả. Nếu chúng dường như gặp nhau ở đâu đấy, đó là ảo giác
của chúng ta. Nếu bạn đi tới điểm gặp gỡ, bạn sẽ thấy rằng chúng
chạy song song nhau. Chỉ ảo giác về sự gặp gỡ lẫn nhau của
chúng là có thể nảy sinh ra, như trường hợp của đường ray xe
hoả.

Khi khoa học bác bỏ điều gì đó, nó bác bỏ sự kiện hay niềm
tin cũ. Toàn bộ giới Ki tô giáo trở nên rất bồn chồn khi khoa học
tuyên bố rằng đất không phẳng mà tròn, vì trong Kinh thánh có
nói rằng đất là phẳng. Nhưng điều được viết trong Kinh thánh về
hình dạng của trái đất là sự khẳng định của các nhà khoa học vào thời đó; đấy
không phải là khẳng định tôn giáo. Cho nên khi khoa
học thấy rằng trái đất là tròn, nó bác bỏ niềm tin cũ. Nhưng khám
phá mới này đã chỉ ra rằng khoa học cổ đại là sai. Khoa học
không bao giờ có thể làm cho tôn giáo không đúng được, tôn
giáo không bao giờ làm cho khoa học sai được. Chúng không có
quan hệ chút nào với nhau, không có kết nối giữa chúng. Thậm
chí không có trao đổi giữa chúng; chiều hướng của chúng là khác
nhau. Chiều hướng của chúng tuyệt đối tách biệt.

Bắt đầu với năm yếu tố khoa học đã tìm ra nhiều yếu tố khác
và số các yếu tố này là một trăm linh tám ngày nay, do vậy chứng
minh rằng năm yếu tố cổ đại đã bị hiểu không đúng như các yếu
tố. Chúng chắc chắn không phải là các yếu tố. Thực ra, những cái
đã được biết như các yếu tố lúc ban đầu không phải là các yếu tố;
chúng là hợp chất. Chẳng hạn, đất. Bây giờ có nhiều chất trong
đất - không chỉ có một chất trong bất kì loại đất nào. Một thí dụ
khác là nước. Khoa học nói có hai chất, hidro và oxi trong nước.
Nước không phải là yếu tố, nó là trộn lẫn của hai chất. Tổ hợp
không phải là yếu tố; theo khoa học, nó được gọi là hợp chất.
Cho nên nước không thể được xem như một yếu tố. Oxi và hidro
là các yếu tố.
Cho nên khoa học đã phát hiện ra một trăm linh tám yếu tố.
Nhưng khi khoa học đi sâu hơn vào trong nghiên cứu của nó, các
nhà khoa học dần dần bắt đầu nhận ra rằng tất cả một trăm lẻ tám
yếu tố này đều có một trung gian chung. Nó có thể là hidro hay
nó có thể là oxi, nhưng cả hai đều được tạo ra bởi các hạt điện.
Cho nên dường như là hidro và oxi cũng không là các yếu tố.
Điện bây giờ đã trở thành yếu tố. Việc hợp nhất một số hạt điện
tạo ra hidro và việc hợp nhất một số hạt điện khác tạo ra oxi, và
một trăm lẻ tám yếu tố này đơn giản là tổ hợp của các hạt điện.
Nếu ba hạt có đó, chúng tạo ra một yếu tố; nếu có hai hạt, một
yếu tố khác được tạo ra. Nếu có bốn hạt, một yếu tố khác được
tạo ra. Nhưng dù chúng là ba hay bốn hay hai, chúng tất cả đều là
các hạt điện.

Do đó khoa học đã có kinh nghiệm mới - rằng chỉ có một
yếu tố, và đó là điện. Tất cả một trăm linh tám cái gọi là yếu tố
đó, trong phân tích cuối cùng, là hợp chất. Chúng là các tổ hợp.
Chúng không phải là các yếu tố, chúng không phải là các chất cơ
sở.

Thế của khoa học hiện tại là ở chỗ nó được chuẩn bị để tin
rằng điện là không được tạo ra, rằng nó là tự khởi nguồn, và rằng
tất cả sự phát triển bao la này, sự mở rộng này, là sự mở rộng của
một yếu tố duy nhất - điện. Điện, khoa học nói, không phải là
chất được tạo ra bởi việc tổ hợp hai chất, nó là không được tạo ra.
Khoa học gọi chất đó là yếu tố, cái tự khởi nguồn. Cho nên bây
giờ khoa học gọi điện là yếu tố tự khởi nguồn. Nó không thể
được tạo ra, vì chỉ chất mà có thể được tạo ra bằng cách tổ hợp
mới có thể được chế tạo ra. Nếu bạn tổ hợp hai thứ, cái thứ ba sẽ
được tạo ra. Nếu bạn tổ hợp ba thứ, kết quả sẽ là làm ra cái thứ
tư. Nhưng làm sao bạn có thể tạo ra phân tử nguyên thuỷ mà
không có bất kì tổ hợp nào? Bạn không thể làm ra nó không thể
phá huỷ nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ nước, chúng ta có thể
làm như vậy bằng việc phân li hidro và oxi, vì nước được tạo nên
bằng việc tổ hợp. Nếu chúng ta muốn phá huỷ hidro, chúng ta có
thể làm như vậy. Nếu chúng ta phân li các hạt điện của nó - cái
chúng ta gọi là năng lượng nguyên tử - thế thì hidro sẽ không còn
có nữa. Chỉ năng lượng điện là sẽ còn lại. Nhưng chúng ta không
thể phá huỷ được năng lượng đó bởi vì không có việc tổ hợp của
hai chất mà chúng ta có thể phân li. Chúng ta có thể đơn giản làm
chừng này thôi - chúng ta hoặc có thể tổ hợp hoặc phân lí các vật.
Chúng ta không thể tạo ra. Cái mà không được tạo ra là yếu tố.
Hiện tại khoa học gọi điện, năng lượng điện, là yếu tố tự
khởi nguồn. Nhưng tôn giáo gọi atman là yếu tố tự khởi nguồn.
Điều đó sẽ trở thành có thể, nếu không phải bây giờ thế thì trong
tương lai, vì việc khảo cứu khoa học để phá vỡ, phân li cả điện
nữa; và thế thì chúng ta sẽ có khả năng thấy rằng ngay cả điện
cũng không tự khởi nguồn. Nhiều năm trước chúng ta đã biết
nước như một yếu tố; thế rồi chúng ta đã có thể phân tích nó và
thấy rằng oxi và hidro là những yếu tố, nước thì không. Thế rồi
chúng ta phân tích hidro và có thể thấy rằng nó cũng không phải
là yếu tố; điện là yếu tố.

Có hai khả năng: hoặc có thể thiết lập rằng điện và atman là
một và như nhau, hoặc có thể là điện cũng sẽ bị chia nhỏ ra và
chúng ta sẽ phát hiện ra là nó cũng không phải là yếu tố. Như chỗ
tôi hiểu, điện cũng có thể bị chia nhỏ ra, và khi nó bị chia ra
chúng ta sẽ thấy rằng chỉ tâm thức là còn .

Bây giờ, điều đáng quan tâm để xem xét rằng không ai coi
đá là năng lượng. Nó là chất - vật chất. Phân biệt cũ của chúng ta
phân chia mọi vật thành vật chất và năng lượng. Đá là vật chất.
Nhưng khi đem đá ra phân tích, và trong phân tích cuối cùng
nguyên tử được tìm thấy, thế thì vật chất đã mất đi và năng lượng
còn lại; và khoa học phải bỏ khái niệm cũ của nó về nhị nguyên -
nhị nguyên của vật chất và năng lượng. Vật chất mà cứ được
phân tích, phân tích thêm mãi người ta thấy rằng nó không tồn
tại; chỉ còn có năng lượng. Vật chất là năng lượng. Bây giờ
không có chất nào như vật chất cả; vị trí nhất của khoa học là ở
chỗ không có cái gì giống vật chất. Bây giờ các nhà duy vật phải
rất cẩn thận khi nói bất kì cái gì hỗ trợ cho vật chất vì không có
cái gì giống như vật chất tồn tại cả; chỉ có năng lượng.
Chừng nào chúng ta còn chưa đi tới việc phân tích cuối cùng
về vật chất, hai chất liệu đã được các nhà khoa học chấp nhận -
vật chất và năng lượng. Bạn dứt khoát sẽ thấy phân biệt này nếu
bạn cầm một hòn đá trong một tay và chạm vào dây điện bằng
tay kia. Bạn sẽ biết rằng hòn đá là hòn đá còn cái chạy qua dây là
năng lượng. Có khác biệt rất lớn giữa hai thứ này. Nhưng bây giờ
khoa học nói nếu bạn cứ phá vỡ và phân tích hòn đá, bạn sẽ chấm
dứt với năng lượng mà có thể chạy qua dây điện. Bằng cách đập
vỡ thêm nó, chúng ta đã giết một trăm nghìn người ở Hiroshima.
Đó là cơn sốc điện! Bằng cách đập vỡ vật chất, bằng sự bùng nổ
của một nguyên tử nhỏ, nhiều năng lượng đã được tạo ra đến
mức chúng ta có thể giết một trăm nghìn người ở Hiroshima và
một trăm hai mươi nghìn người ở Nagasaki. Nhiều người sẽ
không chết bởi việc chạm vào ngay cả dòng điện mạnh nhất.
Một nguyên tử nhỏ tạo ra một khối lượng điện cực kì lớn, và
bằng việc biến đổi nó thành điện, nguyên tử bị phá huỷ - nó
không còn nữa. Cho nên khoa học bây giờ nói rằng khái niệm cũ
về nhị nguyên - vật chất và năng lượng - đã mất rồi. Bây giờ chỉ
còn lại năng lượng. Nhưng tôi bảo bạn, vẫn còn một phân biệt
nữa, và đó là sự phân biệt giữa năng lượng và tâm thức.
Khi chúng ta chạm vào điện chúng ta biết nó là năng lượng,
nhưng khi chúng ta nói với một người, chúng ta không cảm thấy
rằng người đó đơn giản là năng lượng, chúng ta cảm thấy cả tâm
thức của người đó nữa. Nếu dòng điện bật lên, máy ghi âm ở đây
sẽ làm việc, nó sẽ nói. Nhưng nó sẽ chỉ lặp lại điều tôi đang nói.
Cho nên khi nó nói, đấy chỉ là năng lượng. Nhưng khi tôi nói đấy
không chỉ là năng lượng; cũng có cả tâm thức nữa. Máy ghi băng
không thể tạo ra bất kì thay đổi nào, nó sẽ báo cáo điều tôi đã
nói; nhưng ngay cả nếu tôi muốn, ngày mai tôi cũng không thể
lặp lại được điều tôi đang nói hôm nay, bởi vì tôi không phải là
cái máy. Bản thân tôi không biết câu nào sẽ tiếp sau câu này. Khi
bạn nghe tôi, tôi cũng đang nghe nó.

Phân biệt giữa tâm thức và năng lượng vẫn tồn tại. Phải nói
rằng thế giới cũ không phải là nhị nguyên, nó là thế giới tam
nguyên của vật chất, năng lượng và tâm thức. Từ ba thứ này, vật chất bị loại bỏ
ra. Bây giờ có hai - năng lượng và tâm thức.
Những nghiên cứu sâu vào vật chất đã chứng tỏ nó không tồn tại;
nó đã biến mất bởi vì chúng ta biết rằng nó là năng lượng. Và tôi
bảo bạn năng lượng cũng sẽ biến mất trong những nghiên cứu
thêm nữa và sâu nữa, và chúng ta sẽ thấy rằng chỉ còn mỗi tâm
thức. Tâm thức đó là atman. Thế thì sẽ không có vật chất, và
không có năng lượng; mọi thứ sẽ biến mất và chỉ tâm thức sẽ còn
lại.

Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi tên yếu tố tối cao đó là
satchitanand. Để chuyển tải ý nghĩa đúng của từ ‘atman’, người
ta phải dùng ba từ. Từ sat nghĩa là sự tồn tại - cái đang đấy, cái
bao giờ cũng đang tồn tại, cái chưa bao giờ không tồn tại. Sat có
nghĩa là cái bao giờ cũng có đấy. Nó không bao giờ trong trạng
thái mà bạn có thể nói về nó là ‘Nó đấy’. Mọi thứ đều thay đổi và
cứ thay đổi; vậy mà nó có đấy, không thay đổi.
Từ chit nghĩa là tâm thức. Không phải là nó đơn giản tồn tại,
nhưng nó biết rằng ‘tôi đây’. Nó biết sự hiện diện của nó. Một
thứ có thể tồn tại; chẳng hạn, một hòn đá đang nằm trên đất,
nhưng nó đơn thuần tồn tại. Nếu hòn đá đó biết rằng nó tồn tại,
thế thì và chỉ thế thì nó cũng là tâm thức nữa.
Từ thứ ba là anand - phúc lạc. Nó là atman vẫn chưa đủ, nó
là tâm thức vẫn chưa đủ, nó tồn tại và nó nhận biết về sự tồn tại
vẫn chưa đủ. Cũng như nó là nhận biết về sự tồn tại của mình, nó
cũng biết rằng ‘tôi là anand’ - cực lạc cao nhất!

Atman được nói trong lời kinh này là tự khởi nguồn bởi vì
nó không được tạo ra không bị phá huỷ bởi bất kì ai. Nhớ lấy, vì
nó là tự khởi nguồn nên nó là không thể phá huỷ nổi; nó là bất tử.
Cái có thể được làm ra sẽ chết; cái có thể được chế tạo ra sẽ bị
phá huỷ. Không sản xuất nào có thể kéo dài mãi, không cấu trúc
nào có thể mang bản tính thường hằng. Mọi vật được xây dựng
đều được tạo ra vào một thời điểm thích hợp và biến mất vào thời
điểm định mệnh của nó. Thực ra, cái được sinh ra sẽ chết đi. Dù
nó có thể được làm mạnh mẽ đến đâu, nó chắc chắn chết mặc dầu
nó có thể kéo dài hơn chút ít. Các lâu đài, dù được làm bằng giấy
hay đá granit, chắc chắn sẽ sụp đổ. Hàng triệu cơn gió tàn phá
cuối cùng sẽ xô đổ các bức tường đá của lâu đài. Nếu chúng được
làm bằng thép thì chúng sẽ đứng lâu hơn chút ít, nhưng cuối cùng
chúng chắc chắn sẽ sụp đổ. Lâu đài bằng bìa sẽ sụp đổ dù chỉ một
ngọn gió nhỏ thoảng qua. Khác biệt nhau ở mức độ mà thôi.
Khác biệt giữa việc sụp đổ của ngôi nhà làm bằng bìa và
ngôi nhà làm bằng đá chỉ đơn giản là vấn đề khác biệt về tốc độ
gió. Không có khác biệt cơ bản trong ngôi nhà; lâu đài bằng bìa
là một thứ được xây dựng ra, cho nên nó phải sụp đổ, và lâu đài
bằng đá cũng là một thứ được xây dựng ra, cho nên nó nữa cũng
phải sụp đổ. Nơi mà có việc tạo ra ở đầu này, chắc chắn sẽ có
việc phá huỷ ở đầu kia. Vì nó là tự khởi nguồn, atman là không
thể bị phá huỷ. Vì nó chưa bao giờ được làm ra tại đầu này, nên
nó sẽ không bao giờ bị phá huỷ tại đầu kia.

Cái tự khởi nguồn có hai đặc trưng: nó không được tạo ra và
nó không thể bị phá huỷ. Để tôi nói nữa cho bạn là khoa học hỗ
trợ cho quan điểm này, rằng bất kì cái gì được làm ra bởi việc tổ
hợp của hai thứ đều sẽ chết; trong khi yếu tố được tạo nên từ một
thứ không thể bị phá huỷ, không thể chết. Không có cách nào cho
nó hoặc bị phá huỷ hoặc được tạo ra. Để tạo ra cái gì đó những
cái khác phải được tổ hợp lại, và để phá huỷ một thứ, những thứ
khác phải bị tách ra. Làm tức là nối lại, và phá huỷ là tách ra.
Nhưng yếu tố mà riêng lẻ, không có yếu tố nào khác trong nó,
không thể bị phá huỷ. Làm sao nó có thể bị phá huỷ được? Nó
không thể bị đập vỡ. Nếu như nó được làm bằng hai thứ nó có
thể bị đập vỡ. Nhưng nó là riêng một thứ, nó bao giờ cũng thế.
Yếu tố có nguồn gốc trong bản thân nó là không thể bị phá huỷ,
và yếu tố đó được Upanishad gọi là atman.

Một số trong các tính năng khác của nó, đặc trưng không
tránh khỏi của nó, cũng được mô tả. Người ta nói rằng atman tự
tạo là biết tất cả. Biết tất cả nghĩa là gì? Nó có thể có hai nghĩa,
và nghĩa sai trong hai nghĩa này là mốt. Việc thường xảy ra là cái
theo mốt là sai. Tri thức đúng là sâu sắc và bí ẩn đến mức nó
không bao giờ có thể là mốt. Một vấn đề mà không có chiều sâu
cho lắm thì ai cũng có thể hiểu được và rất có thể là đúng mốt.
Một nghĩa nữa của từ biết tất là có tri thức về mọi thứ; đây là
ý nghĩa đúng mốt. Chẳng hạn, người Jaina gọi Mahavira là biết
tất, bởi vì khi một người biết atman, người ấy trở thành toàn
năng, thấy tất cả; như thế là bản tính của atman. Bản thân
Mahavira đã nói rằng người biết đến cái một, biết tất cả. Theo
nghĩa này nói Mahavira biết tất cả là đúng. Thế thì điều thường
xảy ra là ở chỗ những tín đồ diễn giải điều này nghĩa là Mahavira
biết cách chữa châm kim xe đạp! Nhưng Mahavira đã không biết
đến xe đạp là gì. Hay như là Mahavira phải biết cách máy bay
được xây dựng ra... Nếu thuật ngữ biết tất được hiểu theo cách
này, nó sẽ làm phát sinh ra ảo tưởng lớn và khó khăn; và người
Jaina cũng đã trong khó khăn lớn khi bọ bắt đầu coi Mahavira là
biết tất theo nghĩa này.

Phật thường chế nhạo niềm tin này của người Jaina. Điều
ông ấy thực sự cười là cái ngớ ngẩn của tín đồ Mahavira khi diễn
giải chứng ngộ của ông ấy theo cách này, vì họ thực tại bắt đầu
nói rằng Mahavira biết mọi thứ. Cho nên Phật nhiều lần đã đùa,
“Tôi có nghe ai đó nói rằng một cá nhân nào đó là biết tất thảy,
nhưng tôi thấy rằng cá nhân đó đi ăn xin trước một ngôi nhà
không có ai cả. Sau đó người ấy nhận ra rằng ngôi nhà không
người ở. Tôi đã thấy người ấy bước đi trong ánh sáng nhập
nhoạng buổi sớm; liệu người ấy có biết con chó đang nằm trên
đường đi của mình không khi người ấy dẫm vào đuôi của nó?”
Vậy Phật cười vào cách diễn giải ngu xuẩn cho thuật ngữ
biết tất đó. Ông ấy sẽ nói, “Tôi đã nghe nói về cá nhân biết tất
này đang đứng ở ngoại ô một thành phố mà hỏi mọi người về con
đường tới thành phố đó.” Nhưng chuyện cười này không nhắm
vào Mahavira. Mahavira chưa bao giờ đưa ra những lời như vậy.
Những người nêu ra lời đó là các tín đồ của ông ấy. Họ nói,
“Mahavira là người biết tất; ông ấy biết con đường nào dẫn tới
lâu đài nào.”
Biết tất còn có một nghĩa khác - nghĩa phủ định. Nghĩa
khẳng định này của “ông ấy biết tất” là không đúng. Nghĩa phủ
định là ở chỗ bây giờ không cái gì còn lại để mà biết; không cái
gì còn lại đáng để biết nữa. Có đáng biết con đường đặc biệt dẫn
tới đâu, hay liệu có ai trong ngôi nhà? Thành vấn đề gì nếu
những điều như thế không được biết? Liệu có đáng biết một con
chó đang ngủ hay không ngủ trên đường không? Có hại gì nếu
không biết điều ấy?

Như tôi thấy điều ấy, từ biết tất nghĩa là sau khi biết atman,
không cái gì bị bỏ lại không được biết mà đáng biết. Tất cả
những cái đáng biết đều được biết. Trong thế giới buồn tẻ này
nhiều thứ dường như đáng để biết, nhưng có khác biệt gì để nà
biết chúng? Cho nên với tôi nghĩa của nó là ở chỗ không cái gì bị
bỏ lại mà đáng biết. Không một điều nhỏ nhặt nhất bị bỏ đi khỏi
việc biết của chúng ta, cái có thể đem lại ngay cả sự giảm thiểu tí
hon nhất trong cực lạc của cuộc đời chúng ta. Không cái gì bị bỏ
mà việc thiếu nó có thể gây ra cản trở cho việc trở thành
satchitanand của chúng ta.

Nếu một con đường đặc biệt đi về bên trái nó sẽ dẫn người ta
tới một chỗ nào đó và nếu nó đi về bên phải nó sẽ dẫn người ta
tới một chỗ khác, nhưng điều này không tạo ra khác biệt gì về
phẩm chất của satchitanand. Nếu Mahavira lỡ con đường mình và
đến sai địa chỉ điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì với ông ấy cả, vì có khác
biệt nào cho một người đã đạt tới mục đích của mình,
người đã đạt tới đích đến cuối cùng, khi có lỡ đường trong lúc
lang thang ở thế giới này? Có gì khác biệt cho một người đã đạt
tới đích đến của mình, còn vẩn vơ đây đó? Cái gì có tác động tới
chúng ta khi chúng ta còn chưa đạt tới đích tìm ra đúng thôn
làng? Và có gì khác biệt với chúng ta nếu chúng ta biết mọi con
đường chính xác dường như chúng ta có bản đồ địa lí?
Bởi việc các tín đồ diễn giải sai cho từ biết tất mà Mahavira
đã trở thành chủ đề không cần thiết cho hàng đống chuyện lố
bịch, bởi vì những lời tuyên bố họ đưa ra là ngu xuẩn; và bây giờ,
lần nữa, những người nêu ra điều đó rất phân vân. Chẳng hạn,
gần đây họ thấy khó khăn khi các phi hành gia đặt chân lên mặt
trăng lần đầu tiên, bởi vì mô tả về mặt trăng của các phi hành gia
không tương ứng với mặt trăng như nó đã từng được mô tả trong
kinh sách của họ: và trong kinh sách của họ nói rằng những sự
kiện đã được ‘người biết tất’ tuyên bố là không thể sai được. Cho
nên những người sùng kính Jaina đã đi tới mức độ nói rằng
nhưng người du hành không gian đã bị ảo tưởng là họ đã đặt
chân lên mặt trăng. Họ đã không đặt chân lên mặt trăng, nhưng
đã du hành tới phía xa của mặt trăng nơi các xe cộ - chiếc xe
ngựa của các thần - vẫn còn đang chờ đợi. Tại đó họ đã bước
xuống và từ đó họ đã trở về! Họ chắc chắn đã không đặt chân lên
mặt trăng.

Một tín đồ Jaina thậm chí bắt đầu lập ra một quĩ, và quản lí
việc thu thập hàng trăm nghìn đồng ru pi từ những người ngu,
đơn giản để chứng minh trong phòng thí nghiệm rằng các phi
hành gia vẫn chưa đặt chân lên mặt trăng, mà bước lên chiếc xe
của vị thần nào đó. “Và nếu họ mà đạt tới mặt trăng, họ sẽ thấy
mặt trăng như được mô tả trong kinh sách của chúng ta, bởi vì
bất kì cái gì được nói trong những kinh sách đó đều là nhân
chứng của một người biết tất.”
Việc dùng kinh sách của ai đó để níu bám lấy những luận cứ
ngu xuẩn như thế làm cho kinh sách thành vô giá trị. Khi được
nói đến trong kinh sách của bạn rằng mặt trăng là thế nọ thế kia,
và phát biểu này về sau được chứng tỏ là không đúng, nhớ rằng
phát biểu đó trong kinh sách là phát biểu của nhà khoa học của
ngày xưa ấy, không phải của người biết tới atman. Người biết tới
atman có mối bận tâm gì với việc mô tả loại đá nào có và không
có trên mặt trăng? Và nếu một phát biểu như thế do ông ta nêu ra,
nó không được thực hiện trong năng lực của ông ta như người
biết về atman.

Lập trường như thế tạo ra khó khăn lớn. Ta xem xét trường
hợp một nhà tư tưởng lớn như Einstein - một nhà toán học lớn.
Là nhà toán học lớn cũng không xác định ra mọi tính cách của cá
tính ông ta; còn có nhiều thứ khác trong cuộc đời ông. Ông ta
không phải là nhà toán học khi ông ấy chơi bài. Và ông ấy sẽ bận
tâm gì tới toán học khi ông ấy đang yêu một người đàn bà? Ông
ấy không đưa ra phát biểu toán học nào khi ông ấy nói với cô ấy
rằng không có người đàn bà nào khác đẹp hơn cô ấy. Nhưng
trong tương lai nếu ai đó nói rằng một nhà toán học lớn như
Einstein phải nói như thế chỉ sau khi đã đo và so sánh cái đẹp của
tất cả phụ nữ trên thế giới, lời tuyên bố đó chắc chắn là ngây thơ.
Không, những phát biểu như thế được đưa ra bởi bất kì ai và mọi
người trên thế gian này. Mọi đàn bà gặp một đàn ông nào đó,
người đó nói với cô ấy điều như vậy. Không cần phải là nhà toán
học để nói như vậy. Một phát biểu như vậy được đưa ra, không
phải với năng lực của nhà toán học, mà là của người đang yêu.
Cho nên từ biết tất có nghĩa là bây giờ không cái gì còn lại
đáng để biết nữa, không cái gì làm tăng thêm cực lạc của người
này. Cực lạc của người đó là toàn diện. Và không cái gì còn lại
có thể cảm trở điều đó. Tất cả dốt nát của người đó, tất cả cái
điên rồ của người đó, đều bị phá huỷ. Giận dữ của người đó, gắn
bó của người đó, tham lam của người đó, tất cả đều đã mất đi, đều đã bị phá huỷ.
Người đó đang trong trạng thái cực lạc tối cao.

Biết tất có nghĩa là một người đang sống trong cực lạc tối cao.
Người đó biết rằng tri thức đúng đắn đưa người đó vào cực lạc và
loại bỏ đi mọi khả năng của bất hạnh.
Atman là biết tất theo nghĩa này, và không theo nghĩa người
biết của ba thời - quá khứ, hiện tại và tương lai. Người đó không
biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai hay ngày kia. Người đó không
biết ai sẽ thắng cuộc bầu cử này hay sẽ thua; không có lí do hay
sự cần thiết nào để biết những việc như thế. Tất cả những biến cố
xảy ra bên trong giới hạn thời gian đối với người đó đều giống
như những đường vẽ trên nước. Người đó không đoái hoài tới
chúng, người đó không lo nghĩ về chúng. Ai thắng hay ai thua là
chất liệu mơ đối với người đó; những việc như thế thuộc về thế
giới trẻ con, người đó đã quá chín chắn với chúng rồi. Người đó
không bận tâm với những việc như vậy.

Trong việc biết tới yếu tố tối cao người đó trở thành biết tất -
tức là, dốt nát của người đó sụp đổ. Hám lợi, gắn bó và giận dữ
được tạo ra trong dốt nát sụp đổ. Thay thế vào chỗ chúng là cực
lạc tới, được sinh ra từ việc biết đúng. Ánh sáng của việc biết bắt
đầu chiếu sáng, và sống trong chói sáng của nó là sống trong cực
lạc tối cao - không dừng và vĩnh hằng.
Đặc trưng thứ ba của atman này là thuần khiết - bao giờ cũng
tinh khiết, bao giờ cũng trong sạch, và bao giờ cũng hồn nhiên.
Khi chúng ta trở thành không thuần khiết nó không trở thành
không thuần khiết. Toàn thể không thuần khiết của chúng ta là ảo
tưởng của chúng ta. Như tôi đã nói đêm qua, phản xạ của mặt trời
là thuần khiết trong vũng nước bẩn cũng như trong hồ pha lê.
Không có một khác biệt nhỏ nhặt nhất trong thuần khiết của nó.
Thuần khiết của nó không phải là đặc trưng ngẫu nhiên; nó là bản
chất, bẩm sinh. Cho nên vấn đề này sẽ dễ dàng được hiểu nếu bạn
hiểu khác biệt giữa điều ngẫu nhiên và điều bẩm sinh.

Đặc trưng ngẫu nhiên là ngoại lai; nó được gắn vào bạn
nhưng không tới từ bên trong bạn. Chẳng hạn, một người là
không trung thực; cái không trung thực của người đó là ngẫu
nhiên, không phải là cố hữu. Nó đã được thực hành, nó đã được
thu nhận. Đây là lí do tại sao không người nào có thể như vậy
mọi giờ một ngày, bởi vì cái được thu nhận là gánh nặng đôi khi
phải bị gạt sang bên. Đôi khi người này cần phải được nhẹ gánh
về nó. Nó không phải là bản tính của người đó, cho nên người đó
phải trung thực với ai đó trong giao thiệp của mình. Và đôi khi
điều xảy ra là người không trung thực là trung thực trong số họ
tới mức ngay cả người trung thực cũng không được như thế. Lí
do là ở chỗ điều chúng ta gọi là trung thực cũng là một thứ được
thu nhận mà từ đó đôi khi chúng ta phải tìm kiếm giảm nhẹ.
Bạn không thể sống liên miên với thứ được thu nhận, với cái
ngẫu nhiên. Nhiều lúc bạn sẽ phải nghỉ ngơi khỏi điều đó. Bạn sẽ
phải làm như vậy, bằng không căng thẳng sẽ tăng lên và gánh
nặng sẽ trở thành lớn. Do đó một người với tâm trí nghiêm chỉnh
phải tìm kiếm việc giải trí nào đó ở những lúc tạm ngưng, bằng
không cái nghiêm chỉnh của người đó sẽ trở thành gánh nặng cho
người đó. Mahavira và Phật không cần giải trí vì họ không mang
tải trọng nghiêm chỉnh nào. Nhớ lấy điều này trong đầu. Chúng
ta có khuynh hướng nghĩ điều này là bởi vì họ mang tâm trí
nghiêm chỉnh đến mức họ sẽ không đi xem phim hay xem kịch.
Nếu họ nghiêm chỉnh họ sẽ phải đi xem kịch. Không, họ chắc
chắn không mang tâm trí nghiêm chỉnh.

Điều này không có nghĩa là họ không nghiêm chỉnh. Nghiêm
chỉnh và không nghiêm chỉnh, cả hai đều giả. Mahavira, Phật là
bản thân họ; họ là cái ta bản chất của họ. Họ không thu nhận cái
gì từ bên ngoài, cho nên không cái gì từ đó mà họ cần phải nghỉ
ngơi. Nếu một người thực hành tính thánh thiện và làm nó thành
thói quen, thế thì người đó đôi khi sẽ phải có ngày nghỉ. Trong ba
hay bốn ngày mỗi tháng hay nửa tháng người đó sẽ phải có ngày nghỉ. Và người đó
sẽ không có khả năng duy trì vai trò thánh
thiện của mình trong ngày nếu người đó không đi vào thế giới
không thánh thiện trong một hay hai giờ trong thời gian đó. Điều
đó sẽ khó khăn cho người đó.
Các thuộc tính ngẫu hiên là những thuộc tính mà chúng ta
học, chúng ta thu nhận. Chúng tới với chúng ta từ bên ngoài,
chúng không tới từ bên trong. Chúng tất cả đều là những thứ do
chúng ta học hỏi. Chẳng hạn, ngôn ngữ là một thuộc tính ngẫu
nhiên, được thu nhận. Bất kì ai cũng đều có thể học tiếng Hindu
hay Marathi hay tiếng Anh hay tiếng Đức. Có hàng nghìn ngôn
ngữ và cũng có thể còn có nhiều nữa, không khó khăn gì. Mọi
ngôn ngữ chúng ta phát minh ra cũng đều là ngẫu nhiên.
Nhưng im lặng thì sao? Nó không phải là ngẫu nhiên. Cho
nên trong khi sẽ có khác biệt nếu hai người nói chuyện, nếu họ
tôn trọng im lặng hoàn toàn sẽ không có khác biệt gì trong cái im
lặng đó. Có thể có thảo luận trong lời nói: không thể có bất kì
thảo luận nào trong im lặng.

Sẽ không có phân biệt nào trong thuộc tính bên trong của hai
người khi họ đang trong im lặng hoàn toàn. Khác biệt gì sẽ có
đấy trong hai cái im lặng? Nhưng sẽ có khác biệt nếu im lặng
được áp từ bên ngoài, bởi vì lời nói sẽ tiếp tục bên trong. Sẽ có
khác biệt nếu hai người giữ im lặng chỉ để trưng bầy. Tôi đang
ngồi im lặng, bạn đang ngồi im lặng bên cạnh tôi. Tôi tiếp tục
suy nghĩ của tôi, bạn tiếp tục suy nghĩ của bạn. Cho nên mặc dầu
môi khép, hành động suy nghĩ vẫn tiếp tiễn, và sẽ có khác biệt
bao la giữa chúng ta trong hoàn cảnh như vậy. Chúng ta sẽ xa
nhau hàng nghìn dặm bên trong. Không ai có thể nói bạn sẽ ở đâu
và tôi sẽ ở đâu.

Nhưng nếu im lặng thực sự được đạt tới, không phải bị áp
đặt từ bên ngoài mà là nở hoa từ bên trong, mở ra từ bên trong,
thế thì và chỉ thế thì chúng ta thực sự trong im lặng hoàn toàn.
Thế thì khác biệt gì sẽ có đó giữa tôi và bạn, khi lời tan biến từ
bên trong, khi lời nói đã tan biến từ bên trong? Sẽ không có khác
biệt chút nào. Chúng ta sẽ đứng ở cùng chỗ. Chúng ta sẽ dường
như chúng ta là một. Dần dần, khi im lặng tiến triển, hai ngọn lửa
của chúng ta sẽ hoà trộn thành một ngọn lửa. Chúng không thể
còn là hai vật tách biệt được, bởi vì đường biên đánh dấu sự phân
biệt giữa hai vật đã biến mất. Phân biệt tạo ra biên giới; trong cái
im lặng của nó, biên giới biến mất.

Cho nên im lặng - im lặng ẩn trú, im lặng bên trong - là tự
nhiên, trong khi nói là ngẫu nhiên; và bất kì cái gì là ngẫu nhiên
đều không kéo dài lâu. Đây là lí do tại sao bạn không thể duy trì
được giận dữ trong hai mươi bốn giờ, mặc dầu bạn có thể sống
trong khoan hoà hai mươi bốn giờ. Nghĩ về điều này đi. Bạn
không thể sống trong giận dữ cả ngày được. Bạn sẽ giận dữ, rồi
sau một chốc bạn sẽ không giận nữa. Sẽ có một loại đến và đi của
giận dữ. Nhưng sẽ không có chướng ngại nào để sống trong
khoan hoà trong hai mươi bốn giờ. Bạn vẫn còn có thể khoan hoà
trong cả ngày. Tương tự, nếu bạn muốn sống trong căm ghét hai
mươi bốn giờ một ngày điều đó là điều không thể được; bạn sẽ
tạo ra địa ngục cho bản thân mình. Nhưng ngược lại nếu bạn
muốn sống vĩnh viễn trong tình yêu, điều ấy có thể.

Nhưng không thể vẫn còn trong cảm giác mà hiện thời chúng
ta gọi là tình yêu, bởi vì nó không phải là tình yêu thực, nó là một
thứ bề ngoài. Bạn có thể đầy tình yêu trong có thể là mười phút
trong hai mươi bốn giờ; phần thời gian còn lại điều đó là không
thể được. Và nếu ai đó làm nỗ lực để trong tình yêu trong một
thời kì dài, sẽ khó khăn cho người đó để yêu ngay cả trong mười
phút thôi. Tại sao? - bởi vì chúng ta chỉ có thể ở mãi với cái là
bản tính của chúng ta, và chúng ta không thể ở mãi với cái ngoại
lai đối với ta và cái được nhập khẩu từ bên ngoài. Cái đó sẽ phải
bị loại bỏ, tải trọng đó sẽ phải bị quẳng đi.

Atman là thuần khiết, không tì vết. Nó không bị làm hỏng,
nó không thỉnh thoảng trở nên không thuần khiết và thế thì cần
chúng ta uốn nắn nó, làm cho nó thuần khiết trở lại. Nếu atman
có thể không thuần khiết, chúng ta sẽ không có khả năng làm cho
nó thuần khiết được. Thế thì ai sẽ làm cho nó thuần khiết? Người
có thể làm cho nó thuần khiết thì bản thân người đó bây giờ là
không thuần khiết. Bất kì cái gì mà atman không thuần khiết làm
bây giờ đều sẽ không thuần khiết.

Không, đấy không phải vấn đề atman trở nên không thuần
khiết và chúng ta cần làm cho nó thuần khiết. Nó đã thuần khiết
rồi. Chỉ chúng ta tích luỹ cái không thuần khiết và không thánh
thiện ở đủ mọi phía quanh ta, cũng hệt như chúng ta treo tấm
màn đen tứ phía quanh ngọn đèn. Ánh sáng đèn không thay đổi
trong bóng tối vì màn đen. Đèn vẫn đang cháy trong sự toả sáng
của riêng nó, nhưng tấm màn đen bao quanh ngăn cản ánh sáng
của nó toả ra mọi hướng. Và nếu đèn điên khùng như chúng ta,
và quên mất rằng “Ta là ánh sáng,” nó sẽ đối diện với cùng
những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.

Mối quan hệ của chúng ta với bản tính của cái ta hoàn toàn
bị phá vỡ và chúng ta bị đồng nhất với cái mạng nhện làm bằng
thân thể, tâm trí, suy nghĩ, cảm giác, đam mê và ham muốn của
chúng ta, bao quanh chúng ta tứ phía. Chúng ta bắt đầu nói, “Đây
là tôi!” Người ở bên trong chúng ta tự đồng nhất bản thân mình
với bất kì cái gì và bắt đầu nói, “Đây là tôi!” Và yếu tố đó ở bên
trong là thuần khiết, không tì vết và trong trẻo đến mức bất kì cái
gì được phản xạ trong nó đều được phản xạ đầy đặn; chúng ta
nắm giữ cái phản xạ đó và bắt đầu nói, “Đây là tôi!”

Sai lầm ấy giống như thế này. Giả sử tấm gương đang đứng
phía trước bạn trở nên có ý thức và nhìn vào trong bản thân nó và
thấy hình ảnh bạn đang đứng trước nó, và thế rồi nói, “Đây là
tôi!” Việc xảy ra không may như thế chỉ xuất hiện bởi vì sự thuần
khiết của tấm gương. Atman là thuần khiết và không tì vết, và
bởi vì sự thuần khiết trong như pha lê của nó, bất kì cái gì tiếp
cận tới nó đều được phản xạ trong nó như một tấm gương - bất kì
cái gì có thể có. Nếu thân thể tiến tới nó, thân thể sẽ được phản
xạ như trong tấm gương và atman nói, “Tôi là thân thể.”
Bạn không có ý tưởng nào về thay đổi liên tục trong thân thể
mình và về cách bạn đồng nhất bản thân mình với chúng. Nếu tế
bào đầu tiên được tạo ra trong bụng mẹ bạn được lấy ra và đặt
trước bạn rồi bạn được bảo là “Bạn đã có thời là cái này đây,”
bạn lập tức sẽ chối phắt và nói, “Làm sao cái này có thể là tôi
được? Điều ấy không thể được.” Nếu năm đến mười bức ảnh
được chụp hàng ngày về cuộc sống của bạn thì sẽ có một chuỗi
dài những tấm ảnh bạn. Mỗi tấm ảnh đều có thời đã từng được
bạn nói là bản thân mình. Nhưng thật khác biệt làm sao giữa tấm
ảnh thời trẻ thơ của bạn và tấm ảnh tuổi già của bạn! Khác biệt
bao la làm sao giữa đứa trẻ mới sinh và cái thân tàn sắp xuống
mồ. Trong tất cả những thay đổi này bạn có đấy. Bất kì cái gì
được phản xạ trong tấm gương của bạn, bạn đều nói, “Đây là
tôi.”

Bạn đã bao giờ thấy bất kì tương tự nào giữa tấm ảnh thời trẻ
thơ của mình và tấm ảnh người lớn của mình không? Có sự giống
nhau nào không? Bạn có phải là đứa trẻ đó không? Không, một
thời bạn đã làm chủ nhân nó, và lời tuyên bố đó đã ăn vào trong
kí ức bạn; và chỉ có lời tuyên bố đó là vẫn còn đến hôm nay -
rằng đây là bạn. Thân thể thay đổi hàng ngày.
Các nhà khoa học cho chúng ta biết rằng mọi tế bào trong
thân thể đều hoàn toàn bị thay đổi sau một thời kì bẩy năm;
không một tế bào cũ nào còn lại. Nhưng đồng nhất của chúng ta
tiếp tục. Đồng nhất tiếp diễn. Trong thời gian bẩy năm xương,
thịt, máu và mọi tế bào khác của chúng ta đều được thay đổi. Nếu một người sống
bẩy mươi năm thì thân thể đã thay đổi toàn bộ
mười lần. Toàn bộ thân thể đã trải qua thay đổi mười lần.

Thân thể thay đổi trong mọi khoảnh khắc, nhưng có một tấm
gương không tì vết ở bên trong. Bất kì phản xạ nào được thực
hiện trong nó, bất kì bức tranh nào được tạo nên trong nó đều bảo
cho chúng ta, “Đây là tôi.” Nếu đồng nhất này bị phá vỡ, nếu dốt
nát này bị loại bỏ, nếu chúng ta dừng việc nói, “Đây là tôi,” thế
thì chúng ta sẽ có khả năng nói, “Tôi là người biết tới tất cả
những thay đổi này, tôi là nhân chứng cho tất cả những điều này.
Tôi biết tuổi thơ của mình, và tôi không phải là cái đó; tôi biết
tuổi thanh niên của mình và nó không phải là tôi. Tôi sẽ biết tuổi
già của tôi nữa, nhưng nó sẽ không phải là tôi. Tôi đã biết việc
sinh; đây không phải là tôi. Tôi sẽ biết việc chết nữa, và tôi cũng
không phải là nó. Tôi là cái biết tới tất cả những pha khác nhau
này. Tôi là cái biết tới chuỗi dài này, đoạn phim dài này. Tôi là
người biết, tôi không phải là cái được biết tới. Tôi không phải là
cái được phản xạ. Tôi là cái trong đó việc phản xạ được tạo ra.”
Thế thì atman là tấm gương trong trẻo, thuần khiết và không tì
vết, cái ao không bẩn, nơi chưa từng có gợn sóng nào của không
thuần khiết.

Khi Upanishad nói nó là thuần khiết, họ nói về sự thuần
khiết toàn bộ. Không chút không thuần khiết nào đã bao giờ đi
vào trong atman. Cho nên Upanishad khẳng định, bằng việc phá
vỡ đồng nhất này chúng ta cũng trở nên thuần khiết. Thực ra
không ai đã bao giờ trở thành không thuần khiết; điều đó không
có thể có, điều đó là không thể được. Không thuần khiết là trong
đồng nhất. Việc đồng nhất làm cho người ta thành tội nhân hay
thánh nhân. Nhớ lấy, thánh nhân cũng không thuần khiết bởi vì
ông ta bị đồng nhất với tính chất thần thánh. Tội nhân mang
xiềng sắt, thánh nhân mang xiềng vàng. Nhưng điều đó tạo ra
khác biệt gì? Giá trị thị trường của sắt và vàng có thể là khác
nhau, nhưng đồng nhất, nô lệ vẫn tiếp tục.

Ai đó nói, “Tôi là tội nhân,” ai khác nói, “Tôi là người đức
hạnh.” Chừng nào mà chúng ta còn tiếp tục nói, “Đây là tôi,”
chúng ta đang làm cho bản thân mình thành không thuần khiết
một cách không cần thiết. Mặc dầu chúng ta về bản chất là thuần
khiết, chúng ta cứ chấp nhận cái không thuần khiết. Cái ngày mà
bạn có khả năng nói, “Tôi không là cái này, tôi không là cái nọ,”
bạn sẽ có khả năng nói, “Tôi là cái mà trong đó mọi thứ được
phản xạ. Tôi là tấm gương trong đó mọi hình bóng đến rồi đi. Tôi
là cái trống rỗng mà trong đó mọi thứ đều sáng long lanh và biến
mất.”

Không ai biết bao nhiêu lần sinh thành, bao nhiêu thân thể,
bao nhiêu hình dạng, bao nhiêu thuộc tính ngẫu nhiên, bao nhiêu
sự kính trọng, bao nhiêu địa vị và bao nhiêu biến thiên đã long
lanh trong nó. Những cuộc hành trình là vô tận nhưng cái hồ là
một; và nó bao giờ cũng sạch sẽ và không tì vết. Lữ khách cứ đi
trên bờ hồ và hồ thì cứ giả thiết, “Đây là tôi, đây là tôi.” Vào lúc
kẻ cắp đi qua trên con đường đó và hồ nói, “Tôi là kẻ cắp”; đôi
khi một thánh Hindu đi qua con đường đó và hồ nói, “Tôi là
thánh Hindu.” Đôi khi một vị thánh đi qua con đường đó và hồ
nói, “Tôi là thánh nhân,” và đôi khi một tội nhân đi qua con
đường đó và hồ nói, “Tôi là tội nhân.”

Vậy hồ cứ tuyên bố khi đoàn lữ hành của sự phản xạ diễu
qua con đường đó. Và họ đi qua nhanh đến độ ngay khi phản xạ
này vừa tan biến phản xạ khác lại xuất hiện trong nó. Chúng ta
thậm chí không tính đến khoảnh khắc đó - cái khoảng giữa hai
ccieeuf xảy ra - để cho chúng ta có thể nhìn vào hồ trong đó
không có phản xạ chút nào.

Thiền là việc thực hành với hội tụ vào khoảng giữa đó.
Trong khoảnh khắc đó khi không cái gì đang phản xạ, chúng ta
có thể thoáng nhìn vào bản thân hồ; chúng ta có thể biết, “Tôi là
hồ, tôi không phải là đoàn lữ hành đang đi trên bờ hồ. Tôi không phải là những sự
phản xạ đó cái hình thành trên tôi. Tôi là cái mà
trên đó mọi hình dạng được tạo ra, vậy mà bản thân nó không
được tạo ra. Tôi vẫn còn không được tạo ra, không được làm ra.”
Nhớ lấy trong đầu ba điều này. Tất cả những thứ khác được
hàm chứa trong Ishavasya Upanishad đều chỉ là những khía cạnh
khác biệt của ba điều này.
Nó lan toả khắp nơi,nó là cái thuần khiết nhất,nó vô thân thể, nó không thể bị phá huỷ,nó không có gân cốt, nó không tì vết,nó vô tội, nó thấy hết,nó biết hết,nó là cái tốt nhất trong những cái tốt,và nó là tự sáng tạo

Lời kinh này cho chúng ta một số chỉ dẫn về bản tính của
atman - trên hết, rằng nó được tạo ra từ bản thân nó. Atman, sự
tồn tại, một mình nó là tự sáng tạo. Từ swayambhoo có nghĩa là
tự khởi nguồn. Điều đó có nghĩa là cái không được tạo ra bởi bất
kì cái gì khác, cái mà tự nó được tạo ra. Sự tồn tại của nó là từ
bản thân nó. Sự tồn tại của nó không ở trong tay ai cả; nó phụ
thuộc vào bản thân nó.
Cho nên điểm đầu tiên này, rằng atman là tự khởi nguồn, cần
phải được hiểu cho đầy đủ. Mọi thứ chúng ta thấy đều có thể
được tạo ra. Bất kì cái gì được tạo ra, bất kì cái gì có thể được
làm ra, sẽ không là atman. Chúng ta xây nhà; nhà không phải là
tự khởi nguồn, nó được làm ra. Chúng ta chế tạo ra máy; nó
không phải là tự tạo ra, nó do chúng ta chế tạo ra. Tìm yếu tố đó,
cái bản chất đó, cái không do ai chế tạo ra. Bản chất không được
tạo ra này là atman. Trong nỗ lực của chúng ta để tìm kiếm sự
tồn tại của vũ trụ, nếu chúng ta đạt tới đó, nếu chúng ta có thể
hiểu thấu được cái bản chất tối cao đó của vũ trụ, cái không do
bất kì ai tạo ra, cái là vĩnh hằng, vô thuỷ, bản thân cái ta, thế thì
chúng ta sẽ đạt tới tính thượng đế.
Atman và atman tối cao không phải là hai; chúng là những
cái tên của cùng một điều được thấy từ hai quan điểm. Nếu bạn
tìm nó bên trong bản thân mình, thế thì cái yếu tố không được
chế tạo, không được sinh, được tự tạo ra đó được gọi là atman.
Còn nếu bạn tìm kiếm và thấy nó ở chỗ khác, thế thì yếu tố đó
được gọi là atman tối cao, vĩ đại. Atman đơn giản là atman tối
cao được biết tới từ bên trong. Atman tối cao đơn giản là atman
được biết tới từ bên ngoài.

Nếu bạn xem xét bản thân mình bạn sẽ thấy rằng thân thể
này là thứ được tạo ra. Nó không thể được tạo ra mà không có sự
hợp tác của bố mẹ bạn. Cho dù vậy, trong tương lai, nó được tạo
ra trong ống nghiệm, nó vẫn còn là thứ được chế tạo. Các nhà khoa học và sinh học
của phương Tây có thể có khả năng, nếu
không phải hôm nay thì trong tương lai, hoàn thành được công bố
của họ về việc tạo ra đứa trẻ trong ống nghiệm. Họ sẽ thành công
trong việc chế tạo ra một thân thể trong ống nghiệm, và do đó hi
vọng chung cuộc đánh bại tôn giáo. Nhưng họ sai lầm trong cách
nhìn của họ, vì con người tâm linh chưa bao giờ coi thân thể là
atman .

Con người tâm linh nói, “Cái mà không được sinh ra, không
được tạo ra, là atman.” Bằng việc chế tạo ra thân thể trong ống
nghiệm, các nhà khoa học sẽ đơn giản chứng minh rằng thân thể
không phải là linh hồn - atman. Dường như là thân thể sẽ được
chế tạo ra trong tương lai; tôi không thấy bất kì lí do gì tại sao nó
không như vậy. Nhiều người tâm linh e sợ về điều này: “Điều gì
sẽ xảy ra cho atman khi thân thể được tạo ra trong ống nghiệm
trong phòng thí nghiệm? Điều đó sẽ chứng minh rằng atman
không tồn tại nếu chúng ta có thể tạo ra một đứa trẻ mà không có
sự hợp tác của bố mẹ và chỉ với sự trợ giúp của hoá chất?”
Nhưng những người tâm linh đó không biết rằng thân thể không
phải là atman. Nếu nhà khoa học thành công trong thực nghiệm
của ông ấy thì đích thực lời kinh của Upanishad sẽ được chứng
minh là đúng - rằng thân thể này không phải là atman. Chỉ ngần
ấy thôi, và không gì hơn nữa, là được chứng minh.
Ngay cả bây giờ chúng ta biết rằng thân thể không phải là
linh hồn. Sự kiện này được khoa học vật lí chứng minh. Trong
tương lai thân thể sẽ được tạo ra bằng các quá trình hoá học và
nhân tạo. Hiện tại, khi các chất hoá học của bố mẹ tổ hợp và tạo
ra tế bào, chính là tế bào đầu tiên của thân thể, thế rồi linh hồn đi
vào nó. Nếu trong tương lai tế bào đó được tạo ra trong phòng thí
nghiệm, và nếu tình huống gen đó được tạo ra, điều mà từ trước
tới nay vẫn do bố mẹ tạo ra, thế thì linh hồn cũng sẽ đi vào cả
trong đó nữa.

Nhưng tế bào đó, cái tế bào đầu tiên của thân thể, không phải
là atman. Nó là một thứ được chế tạo ra, nó không phải là tự sinh
ra. Nó được tạo ra bởi ai đó. Sự tồn tại của nó, sự sinh thành của
nó, tuỳ thuộc vào cái gì đó, do vậy những người biết tới atman
không sẵn lòng gọi nó là atman. Nó không phải là atman. Biết
điều đó, chúng ta sẽ phải làm việc theo cách lùi lại hơn; chúng ta
sẽ phải đi ngày một sâu xuống hơn.
Cho nên bản thân tôi hài lòng và hi vọng rằng khoa học
thành công trong việc làm ra đứa trẻ trong ống nghiệm sớm nhất
có thể được, bởi vì thế thì chúng ta sẽ được các nghiên cứu khoa
học giúp đỡ để phá vỡ sự đồng nhất của chúng ta với thân thể.
Thế thì chúng ta sẽ biết chắc chắn rằng thân thể là một loại máy,
và rằng việc tin vào nó như cái ta là điều ngu xuẩn. Ngay cả bây
giờ nó cũng là điều ngu xuẩn, nhưng hiện tại chúng ta không sẵn
lòng thừa nhận rằng thân thể là một cái máy. Dầu vậy nó vẫn cứ
là một cái máy. Nó được tạo ra bởi các lực tự nhiên, cho nên
bằng việc hiểu các bí mật này của tự nhiên chúng ta sẽ có khả
năng tạo ra nó, và thế thì chúng ta sẽ có được sự hợp tác của các
lực tự nhiên để bẻ vỡ việc đồng nhất mình với thân thể.
Khi đi sâu vào bên trong bản thân mình, chúng ta phải đạt tới
chỗ đó, cái bản chất đó, cái không thể được tạo ra; và chừng nào
mà việc chế tạo nó còn là điều có thể, biết rằng nó không thể là
atman. Cho nên bằng việc đi ngày càng sâu hơn vào trong việc
chế tạo, khoa học giúp đỡ cho tôn giáo, bởi vì bất kì cái gì khoa
học có thể tạo ra, cái đó không phải là atman. Atman còn xa hơn
điều đó. Atman bao giờ cũng vượt ra ngoài cái có thể được làm
ra.

Cho nên chúng ta biết ơn khoa học rất nhiều về việc nó cứ
làm ra hết thứ nọ đến thứ kia, đẩy xa giới hạn về cái có thể được
chế tạo và do đó xác định cái không phải là atman; bởi vì chúng
ta gọi một yếu tố là atman khi nó tự khởi nguồn, không được sinh ra, khi nó không
thể được tạo ra. Điều đó nghĩa là cái nguyên
thuỷ.

Không hoài nghi gì nữa, phải có cái tối thượng, yếu tố nền
tảng cho vũ trụ này được tạo ra, và yếu tố tối thượng này phải là
không được tạo ra. Nếu một cơ sở được cần cho việc sáng tạo của
mọi thứ, thế thì việc sáng tạo là không thể được. Nếu bạn nói,
“Thượng đế được cần tới để tạo ra thế giới,” thế thì bạn sẽ phải
nói một Thượng đế tối cao khác là cần có để tạo ra Thượng đế.
Không có điểm cuối cho loại logic này. Thế thì chúng ta sẽ
không bao giờ đạt tới được chỗ chúng ta có thể nói, “Được rồi,
đây là chỗ có sự sáng tạo mà không cần tới người sáng tạo khác.”
Sẽ tốt hơn và khoa học hơn nếu chúng ta hiểu điều đó thế
này: rằng cái tự khởi nguồn là atman. Điều này khoa học hơn
việc nói rằng atman là tự khởi nguồn. Nếu chúng ta nói, “Chúng
ta gọi ngài là atman tối cao - Thượng đế - người không được tạo
ra, người không được bất kì ai tạo ra,” sẽ khoa học hơn là nói,
“Không ai đã tạo ra Thượng đế.”

Khoa học cũng kinh nghiệm điều này. Trong những nghiên
cứu của mình, các nhà khoa học đạt tới giới hạn nào đó và thế rồi
họ cảm thấy rằng có cái gì đó còn nằm ngoài những giới hạn này,
cái bên ngoài sự sáng tạo. Khi điều này xảy ra, khoa học bao giờ
cũng làm các nghiên cứu về các yếu tố, và các nhà khoa học cổ
đại đã tuyên bố rằng có năm yếu tố. Người tâm linh cổ đại -
người tôn giáo - không nói điều này bởi vì họ không quan tâm tới
những yếu tố như vậy. Họ quan tâm tới chỉ cái một, yếu tố tự
khởi nguồn.

Tư duy khoa học cổ đại của gần bốn đến năm nghìn năm
trước đây đã xác nhận rằng mọi thứ được tạo ra từ năm yếu tố.
Bây giờ sai lầm đã xảy ra bởi vì đã không tồn tại những cuốn
sách khoa học tách biệt; mọi chủ đề đều được đưa vào trong các
sách tôn giáo. Sách tôn giáo là tuyển tập của tất cả tri thức của
những ngày đó, và do vậy niềm tin rằng mọi thứ đã được tạo ra
từ năm yếu tố đều có sẵn trong các sách tôn giáo. Nhưng vấn đề
này liên quan tới khoa học chứ không phải tới tôn giáo. Tôn giáo
chỉ tìm kiếm một yếu tố - yếu tố tự khởi nguồn.
Khoa học đã tiếp tục nghiên cứu của nó, và nó đã thấy rằng
nguyên lí về năm yếu tố là không đúng. Khi điều này được chỉ ra
là ngu xuẩn thì cái gọi là những người tôn giáo rất lo nghĩ. Họ
nghĩ mọi thứ bây giờ bị lẫn lộn hết, bởi vì họ đã tin vào năm yếu
tố. Nhưng khoa học vẫn tiến vững chắc với nghiên cứu của nó.
Bây giờ các nhà khoa học đã phát hiện ra một trăm lẻ tám yếu tố.
Nhưng tôi muốn làm điều này rõ ràng rằng các nghiên cứu mới
của khoa học chỉ bác bỏ khoa học cũ.

Không khám phá nào của khoa học có thể bác bỏ được tôn
giáo, bởi vì chiều hướng của tôn giáo và khoa học là hoàn toàn
tách biệt. Ai đó có thể soạn một bài thơ rất hay, nhưng điều đó
không thể bác bỏ nguyên lí của toán học được. Không có quan hệ
gì giữa thơ ca và toán học. Tương tự ai đó có thể phát triển một lí
thuyết toán học sâu sắc và khó, nhưng điều đó sẽ không làm mất
phẩm chất của bài thơ hay, vì chiều hướng của chúng là tách biệt;
chúng không huỷ lẫn nhau. Chúng thậm chí không chạm vào
nhau. Những chiều hướng này chạy song song tựa như đường ray
xe hoả. Nếu chúng dường như gặp nhau ở đâu đấy, đó là ảo giác
của chúng ta. Nếu bạn đi tới điểm gặp gỡ, bạn sẽ thấy rằng chúng
chạy song song nhau. Chỉ ảo giác về sự gặp gỡ lẫn nhau của
chúng là có thể nảy sinh ra, như trường hợp của đường ray xe
hoả.

Khi khoa học bác bỏ điều gì đó, nó bác bỏ sự kiện hay niềm
tin cũ. Toàn bộ giới Ki tô giáo trở nên rất bồn chồn khi khoa học
tuyên bố rằng đất không phẳng mà tròn, vì trong Kinh thánh có
nói rằng đất là phẳng. Nhưng điều được viết trong Kinh thánh về
hình dạng của trái đất là sự khẳng định của các nhà khoa học vào thời đó; đấy
không phải là khẳng định tôn giáo. Cho nên khi khoa
học thấy rằng trái đất là tròn, nó bác bỏ niềm tin cũ. Nhưng khám
phá mới này đã chỉ ra rằng khoa học cổ đại là sai. Khoa học
không bao giờ có thể làm cho tôn giáo không đúng được, tôn
giáo không bao giờ làm cho khoa học sai được. Chúng không có
quan hệ chút nào với nhau, không có kết nối giữa chúng. Thậm
chí không có trao đổi giữa chúng; chiều hướng của chúng là khác
nhau. Chiều hướng của chúng tuyệt đối tách biệt.

Bắt đầu với năm yếu tố khoa học đã tìm ra nhiều yếu tố khác
và số các yếu tố này là một trăm linh tám ngày nay, do vậy chứng
minh rằng năm yếu tố cổ đại đã bị hiểu không đúng như các yếu
tố. Chúng chắc chắn không phải là các yếu tố. Thực ra, những cái
đã được biết như các yếu tố lúc ban đầu không phải là các yếu tố;
chúng là hợp chất. Chẳng hạn, đất. Bây giờ có nhiều chất trong
đất - không chỉ có một chất trong bất kì loại đất nào. Một thí dụ
khác là nước. Khoa học nói có hai chất, hidro và oxi trong nước.
Nước không phải là yếu tố, nó là trộn lẫn của hai chất. Tổ hợp
không phải là yếu tố; theo khoa học, nó được gọi là hợp chất.
Cho nên nước không thể được xem như một yếu tố. Oxi và hidro
là các yếu tố.
Cho nên khoa học đã phát hiện ra một trăm linh tám yếu tố.
Nhưng khi khoa học đi sâu hơn vào trong nghiên cứu của nó, các
nhà khoa học dần dần bắt đầu nhận ra rằng tất cả một trăm lẻ tám
yếu tố này đều có một trung gian chung. Nó có thể là hidro hay
nó có thể là oxi, nhưng cả hai đều được tạo ra bởi các hạt điện.
Cho nên dường như là hidro và oxi cũng không là các yếu tố.
Điện bây giờ đã trở thành yếu tố. Việc hợp nhất một số hạt điện
tạo ra hidro và việc hợp nhất một số hạt điện khác tạo ra oxi, và
một trăm lẻ tám yếu tố này đơn giản là tổ hợp của các hạt điện.
Nếu ba hạt có đó, chúng tạo ra một yếu tố; nếu có hai hạt, một
yếu tố khác được tạo ra. Nếu có bốn hạt, một yếu tố khác được
tạo ra. Nhưng dù chúng là ba hay bốn hay hai, chúng tất cả đều là
các hạt điện.

Do đó khoa học đã có kinh nghiệm mới - rằng chỉ có một
yếu tố, và đó là điện. Tất cả một trăm linh tám cái gọi là yếu tố
đó, trong phân tích cuối cùng, là hợp chất. Chúng là các tổ hợp.
Chúng không phải là các yếu tố, chúng không phải là các chất cơ
sở.

Thế của khoa học hiện tại là ở chỗ nó được chuẩn bị để tin
rằng điện là không được tạo ra, rằng nó là tự khởi nguồn, và rằng
tất cả sự phát triển bao la này, sự mở rộng này, là sự mở rộng của
một yếu tố duy nhất - điện. Điện, khoa học nói, không phải là
chất được tạo ra bởi việc tổ hợp hai chất, nó là không được tạo ra.
Khoa học gọi chất đó là yếu tố, cái tự khởi nguồn. Cho nên bây
giờ khoa học gọi điện là yếu tố tự khởi nguồn. Nó không thể
được tạo ra, vì chỉ chất mà có thể được tạo ra bằng cách tổ hợp
mới có thể được chế tạo ra. Nếu bạn tổ hợp hai thứ, cái thứ ba sẽ
được tạo ra. Nếu bạn tổ hợp ba thứ, kết quả sẽ là làm ra cái thứ
tư. Nhưng làm sao bạn có thể tạo ra phân tử nguyên thuỷ mà
không có bất kì tổ hợp nào? Bạn không thể làm ra nó không thể
phá huỷ nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ nước, chúng ta có thể
làm như vậy bằng việc phân li hidro và oxi, vì nước được tạo nên
bằng việc tổ hợp. Nếu chúng ta muốn phá huỷ hidro, chúng ta có
thể làm như vậy. Nếu chúng ta phân li các hạt điện của nó - cái
chúng ta gọi là năng lượng nguyên tử - thế thì hidro sẽ không còn
có nữa. Chỉ năng lượng điện là sẽ còn lại. Nhưng chúng ta không
thể phá huỷ được năng lượng đó bởi vì không có việc tổ hợp của
hai chất mà chúng ta có thể phân li. Chúng ta có thể đơn giản làm
chừng này thôi - chúng ta hoặc có thể tổ hợp hoặc phân lí các vật.
Chúng ta không thể tạo ra. Cái mà không được tạo ra là yếu tố.
Hiện tại khoa học gọi điện, năng lượng điện, là yếu tố tự
khởi nguồn. Nhưng tôn giáo gọi atman là yếu tố tự khởi nguồn.
Điều đó sẽ trở thành có thể, nếu không phải bây giờ thế thì trong
tương lai, vì việc khảo cứu khoa học để phá vỡ, phân li cả điện
nữa; và thế thì chúng ta sẽ có khả năng thấy rằng ngay cả điện
cũng không tự khởi nguồn. Nhiều năm trước chúng ta đã biết
nước như một yếu tố; thế rồi chúng ta đã có thể phân tích nó và
thấy rằng oxi và hidro là những yếu tố, nước thì không. Thế rồi
chúng ta phân tích hidro và có thể thấy rằng nó cũng không phải
là yếu tố; điện là yếu tố.

Có hai khả năng: hoặc có thể thiết lập rằng điện và atman là
một và như nhau, hoặc có thể là điện cũng sẽ bị chia nhỏ ra và
chúng ta sẽ phát hiện ra là nó cũng không phải là yếu tố. Như chỗ
tôi hiểu, điện cũng có thể bị chia nhỏ ra, và khi nó bị chia ra
chúng ta sẽ thấy rằng chỉ tâm thức là còn .

Bây giờ, điều đáng quan tâm để xem xét rằng không ai coi
đá là năng lượng. Nó là chất - vật chất. Phân biệt cũ của chúng ta
phân chia mọi vật thành vật chất và năng lượng. Đá là vật chất.
Nhưng khi đem đá ra phân tích, và trong phân tích cuối cùng
nguyên tử được tìm thấy, thế thì vật chất đã mất đi và năng lượng
còn lại; và khoa học phải bỏ khái niệm cũ của nó về nhị nguyên -
nhị nguyên của vật chất và năng lượng. Vật chất mà cứ được
phân tích, phân tích thêm mãi người ta thấy rằng nó không tồn
tại; chỉ còn có năng lượng. Vật chất là năng lượng. Bây giờ
không có chất nào như vật chất cả; vị trí nhất của khoa học là ở
chỗ không có cái gì giống vật chất. Bây giờ các nhà duy vật phải
rất cẩn thận khi nói bất kì cái gì hỗ trợ cho vật chất vì không có
cái gì giống như vật chất tồn tại cả; chỉ có năng lượng.
Chừng nào chúng ta còn chưa đi tới việc phân tích cuối cùng
về vật chất, hai chất liệu đã được các nhà khoa học chấp nhận -
vật chất và năng lượng. Bạn dứt khoát sẽ thấy phân biệt này nếu
bạn cầm một hòn đá trong một tay và chạm vào dây điện bằng
tay kia. Bạn sẽ biết rằng hòn đá là hòn đá còn cái chạy qua dây là
năng lượng. Có khác biệt rất lớn giữa hai thứ này. Nhưng bây giờ
khoa học nói nếu bạn cứ phá vỡ và phân tích hòn đá, bạn sẽ chấm
dứt với năng lượng mà có thể chạy qua dây điện. Bằng cách đập
vỡ thêm nó, chúng ta đã giết một trăm nghìn người ở Hiroshima.
Đó là cơn sốc điện! Bằng cách đập vỡ vật chất, bằng sự bùng nổ
của một nguyên tử nhỏ, nhiều năng lượng đã được tạo ra đến
mức chúng ta có thể giết một trăm nghìn người ở Hiroshima và
một trăm hai mươi nghìn người ở Nagasaki. Nhiều người sẽ
không chết bởi việc chạm vào ngay cả dòng điện mạnh nhất.
Một nguyên tử nhỏ tạo ra một khối lượng điện cực kì lớn, và
bằng việc biến đổi nó thành điện, nguyên tử bị phá huỷ - nó
không còn nữa. Cho nên khoa học bây giờ nói rằng khái niệm cũ
về nhị nguyên - vật chất và năng lượng - đã mất rồi. Bây giờ chỉ
còn lại năng lượng. Nhưng tôi bảo bạn, vẫn còn một phân biệt
nữa, và đó là sự phân biệt giữa năng lượng và tâm thức.
Khi chúng ta chạm vào điện chúng ta biết nó là năng lượng,
nhưng khi chúng ta nói với một người, chúng ta không cảm thấy
rằng người đó đơn giản là năng lượng, chúng ta cảm thấy cả tâm
thức của người đó nữa. Nếu dòng điện bật lên, máy ghi âm ở đây
sẽ làm việc, nó sẽ nói. Nhưng nó sẽ chỉ lặp lại điều tôi đang nói.
Cho nên khi nó nói, đấy chỉ là năng lượng. Nhưng khi tôi nói đấy
không chỉ là năng lượng; cũng có cả tâm thức nữa. Máy ghi băng
không thể tạo ra bất kì thay đổi nào, nó sẽ báo cáo điều tôi đã
nói; nhưng ngay cả nếu tôi muốn, ngày mai tôi cũng không thể
lặp lại được điều tôi đang nói hôm nay, bởi vì tôi không phải là
cái máy. Bản thân tôi không biết câu nào sẽ tiếp sau câu này. Khi
bạn nghe tôi, tôi cũng đang nghe nó.

Phân biệt giữa tâm thức và năng lượng vẫn tồn tại. Phải nói
rằng thế giới cũ không phải là nhị nguyên, nó là thế giới tam
nguyên của vật chất, năng lượng và tâm thức. Từ ba thứ này, vật chất bị loại bỏ
ra. Bây giờ có hai - năng lượng và tâm thức.
Những nghiên cứu sâu vào vật chất đã chứng tỏ nó không tồn tại;
nó đã biến mất bởi vì chúng ta biết rằng nó là năng lượng. Và tôi
bảo bạn năng lượng cũng sẽ biến mất trong những nghiên cứu
thêm nữa và sâu nữa, và chúng ta sẽ thấy rằng chỉ còn mỗi tâm
thức. Tâm thức đó là atman. Thế thì sẽ không có vật chất, và
không có năng lượng; mọi thứ sẽ biến mất và chỉ tâm thức sẽ còn
lại.

Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi tên yếu tố tối cao đó là
satchitanand. Để chuyển tải ý nghĩa đúng của từ ‘atman’, người
ta phải dùng ba từ. Từ sat nghĩa là sự tồn tại - cái đang đấy, cái
bao giờ cũng đang tồn tại, cái chưa bao giờ không tồn tại. Sat có
nghĩa là cái bao giờ cũng có đấy. Nó không bao giờ trong trạng
thái mà bạn có thể nói về nó là ‘Nó đấy’. Mọi thứ đều thay đổi và
cứ thay đổi; vậy mà nó có đấy, không thay đổi.
Từ chit nghĩa là tâm thức. Không phải là nó đơn giản tồn tại,
nhưng nó biết rằng ‘tôi đây’. Nó biết sự hiện diện của nó. Một
thứ có thể tồn tại; chẳng hạn, một hòn đá đang nằm trên đất,
nhưng nó đơn thuần tồn tại. Nếu hòn đá đó biết rằng nó tồn tại,
thế thì và chỉ thế thì nó cũng là tâm thức nữa.
Từ thứ ba là anand - phúc lạc. Nó là atman vẫn chưa đủ, nó
là tâm thức vẫn chưa đủ, nó tồn tại và nó nhận biết về sự tồn tại
vẫn chưa đủ. Cũng như nó là nhận biết về sự tồn tại của mình, nó
cũng biết rằng ‘tôi là anand’ - cực lạc cao nhất!

Atman được nói trong lời kinh này là tự khởi nguồn bởi vì
nó không được tạo ra không bị phá huỷ bởi bất kì ai. Nhớ lấy, vì
nó là tự khởi nguồn nên nó là không thể phá huỷ nổi; nó là bất tử.
Cái có thể được làm ra sẽ chết; cái có thể được chế tạo ra sẽ bị
phá huỷ. Không sản xuất nào có thể kéo dài mãi, không cấu trúc
nào có thể mang bản tính thường hằng. Mọi vật được xây dựng
đều được tạo ra vào một thời điểm thích hợp và biến mất vào thời
điểm định mệnh của nó. Thực ra, cái được sinh ra sẽ chết đi. Dù
nó có thể được làm mạnh mẽ đến đâu, nó chắc chắn chết mặc dầu
nó có thể kéo dài hơn chút ít. Các lâu đài, dù được làm bằng giấy
hay đá granit, chắc chắn sẽ sụp đổ. Hàng triệu cơn gió tàn phá
cuối cùng sẽ xô đổ các bức tường đá của lâu đài. Nếu chúng được
làm bằng thép thì chúng sẽ đứng lâu hơn chút ít, nhưng cuối cùng
chúng chắc chắn sẽ sụp đổ. Lâu đài bằng bìa sẽ sụp đổ dù chỉ một
ngọn gió nhỏ thoảng qua. Khác biệt nhau ở mức độ mà thôi.
Khác biệt giữa việc sụp đổ của ngôi nhà làm bằng bìa và
ngôi nhà làm bằng đá chỉ đơn giản là vấn đề khác biệt về tốc độ
gió. Không có khác biệt cơ bản trong ngôi nhà; lâu đài bằng bìa
là một thứ được xây dựng ra, cho nên nó phải sụp đổ, và lâu đài
bằng đá cũng là một thứ được xây dựng ra, cho nên nó nữa cũng
phải sụp đổ. Nơi mà có việc tạo ra ở đầu này, chắc chắn sẽ có
việc phá huỷ ở đầu kia. Vì nó là tự khởi nguồn, atman là không
thể bị phá huỷ. Vì nó chưa bao giờ được làm ra tại đầu này, nên
nó sẽ không bao giờ bị phá huỷ tại đầu kia.

Cái tự khởi nguồn có hai đặc trưng: nó không được tạo ra và
nó không thể bị phá huỷ. Để tôi nói nữa cho bạn là khoa học hỗ
trợ cho quan điểm này, rằng bất kì cái gì được làm ra bởi việc tổ
hợp của hai thứ đều sẽ chết; trong khi yếu tố được tạo nên từ một
thứ không thể bị phá huỷ, không thể chết. Không có cách nào cho
nó hoặc bị phá huỷ hoặc được tạo ra. Để tạo ra cái gì đó những
cái khác phải được tổ hợp lại, và để phá huỷ một thứ, những thứ
khác phải bị tách ra. Làm tức là nối lại, và phá huỷ là tách ra.
Nhưng yếu tố mà riêng lẻ, không có yếu tố nào khác trong nó,
không thể bị phá huỷ. Làm sao nó có thể bị phá huỷ được? Nó
không thể bị đập vỡ. Nếu như nó được làm bằng hai thứ nó có
thể bị đập vỡ. Nhưng nó là riêng một thứ, nó bao giờ cũng thế.
Yếu tố có nguồn gốc trong bản thân nó là không thể bị phá huỷ,
và yếu tố đó được Upanishad gọi là atman.

Một số trong các tính năng khác của nó, đặc trưng không
tránh khỏi của nó, cũng được mô tả. Người ta nói rằng atman tự
tạo là biết tất cả. Biết tất cả nghĩa là gì? Nó có thể có hai nghĩa,
và nghĩa sai trong hai nghĩa này là mốt. Việc thường xảy ra là cái
theo mốt là sai. Tri thức đúng là sâu sắc và bí ẩn đến mức nó
không bao giờ có thể là mốt. Một vấn đề mà không có chiều sâu
cho lắm thì ai cũng có thể hiểu được và rất có thể là đúng mốt.
Một nghĩa nữa của từ biết tất là có tri thức về mọi thứ; đây là
ý nghĩa đúng mốt. Chẳng hạn, người Jaina gọi Mahavira là biết
tất, bởi vì khi một người biết atman, người ấy trở thành toàn
năng, thấy tất cả; như thế là bản tính của atman. Bản thân
Mahavira đã nói rằng người biết đến cái một, biết tất cả. Theo
nghĩa này nói Mahavira biết tất cả là đúng. Thế thì điều thường
xảy ra là ở chỗ những tín đồ diễn giải điều này nghĩa là Mahavira
biết cách chữa châm kim xe đạp! Nhưng Mahavira đã không biết
đến xe đạp là gì. Hay như là Mahavira phải biết cách máy bay
được xây dựng ra... Nếu thuật ngữ biết tất được hiểu theo cách
này, nó sẽ làm phát sinh ra ảo tưởng lớn và khó khăn; và người
Jaina cũng đã trong khó khăn lớn khi bọ bắt đầu coi Mahavira là
biết tất theo nghĩa này.

Phật thường chế nhạo niềm tin này của người Jaina. Điều
ông ấy thực sự cười là cái ngớ ngẩn của tín đồ Mahavira khi diễn
giải chứng ngộ của ông ấy theo cách này, vì họ thực tại bắt đầu
nói rằng Mahavira biết mọi thứ. Cho nên Phật nhiều lần đã đùa,
“Tôi có nghe ai đó nói rằng một cá nhân nào đó là biết tất thảy,
nhưng tôi thấy rằng cá nhân đó đi ăn xin trước một ngôi nhà
không có ai cả. Sau đó người ấy nhận ra rằng ngôi nhà không
người ở. Tôi đã thấy người ấy bước đi trong ánh sáng nhập
nhoạng buổi sớm; liệu người ấy có biết con chó đang nằm trên
đường đi của mình không khi người ấy dẫm vào đuôi của nó?”
Vậy Phật cười vào cách diễn giải ngu xuẩn cho thuật ngữ
biết tất đó. Ông ấy sẽ nói, “Tôi đã nghe nói về cá nhân biết tất
này đang đứng ở ngoại ô một thành phố mà hỏi mọi người về con
đường tới thành phố đó.” Nhưng chuyện cười này không nhắm
vào Mahavira. Mahavira chưa bao giờ đưa ra những lời như vậy.
Những người nêu ra lời đó là các tín đồ của ông ấy. Họ nói,
“Mahavira là người biết tất; ông ấy biết con đường nào dẫn tới
lâu đài nào.”
Biết tất còn có một nghĩa khác - nghĩa phủ định. Nghĩa
khẳng định này của “ông ấy biết tất” là không đúng. Nghĩa phủ
định là ở chỗ bây giờ không cái gì còn lại để mà biết; không cái
gì còn lại đáng để biết nữa. Có đáng biết con đường đặc biệt dẫn
tới đâu, hay liệu có ai trong ngôi nhà? Thành vấn đề gì nếu
những điều như thế không được biết? Liệu có đáng biết một con
chó đang ngủ hay không ngủ trên đường không? Có hại gì nếu
không biết điều ấy?

Như tôi thấy điều ấy, từ biết tất nghĩa là sau khi biết atman,
không cái gì bị bỏ lại không được biết mà đáng biết. Tất cả
những cái đáng biết đều được biết. Trong thế giới buồn tẻ này
nhiều thứ dường như đáng để biết, nhưng có khác biệt gì để nà
biết chúng? Cho nên với tôi nghĩa của nó là ở chỗ không cái gì bị
bỏ lại mà đáng biết. Không một điều nhỏ nhặt nhất bị bỏ đi khỏi
việc biết của chúng ta, cái có thể đem lại ngay cả sự giảm thiểu tí
hon nhất trong cực lạc của cuộc đời chúng ta. Không cái gì bị bỏ
mà việc thiếu nó có thể gây ra cản trở cho việc trở thành
satchitanand của chúng ta.

Nếu một con đường đặc biệt đi về bên trái nó sẽ dẫn người ta
tới một chỗ nào đó và nếu nó đi về bên phải nó sẽ dẫn người ta
tới một chỗ khác, nhưng điều này không tạo ra khác biệt gì về
phẩm chất của satchitanand. Nếu Mahavira lỡ con đường mình và
đến sai địa chỉ điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì với ông ấy cả, vì có khác
biệt nào cho một người đã đạt tới mục đích của mình,
người đã đạt tới đích đến cuối cùng, khi có lỡ đường trong lúc
lang thang ở thế giới này? Có gì khác biệt cho một người đã đạt
tới đích đến của mình, còn vẩn vơ đây đó? Cái gì có tác động tới
chúng ta khi chúng ta còn chưa đạt tới đích tìm ra đúng thôn
làng? Và có gì khác biệt với chúng ta nếu chúng ta biết mọi con
đường chính xác dường như chúng ta có bản đồ địa lí?
Bởi việc các tín đồ diễn giải sai cho từ biết tất mà Mahavira
đã trở thành chủ đề không cần thiết cho hàng đống chuyện lố
bịch, bởi vì những lời tuyên bố họ đưa ra là ngu xuẩn; và bây giờ,
lần nữa, những người nêu ra điều đó rất phân vân. Chẳng hạn,
gần đây họ thấy khó khăn khi các phi hành gia đặt chân lên mặt
trăng lần đầu tiên, bởi vì mô tả về mặt trăng của các phi hành gia
không tương ứng với mặt trăng như nó đã từng được mô tả trong
kinh sách của họ: và trong kinh sách của họ nói rằng những sự
kiện đã được ‘người biết tất’ tuyên bố là không thể sai được. Cho
nên những người sùng kính Jaina đã đi tới mức độ nói rằng
nhưng người du hành không gian đã bị ảo tưởng là họ đã đặt
chân lên mặt trăng. Họ đã không đặt chân lên mặt trăng, nhưng
đã du hành tới phía xa của mặt trăng nơi các xe cộ - chiếc xe
ngựa của các thần - vẫn còn đang chờ đợi. Tại đó họ đã bước
xuống và từ đó họ đã trở về! Họ chắc chắn đã không đặt chân lên
mặt trăng.

Một tín đồ Jaina thậm chí bắt đầu lập ra một quĩ, và quản lí
việc thu thập hàng trăm nghìn đồng ru pi từ những người ngu,
đơn giản để chứng minh trong phòng thí nghiệm rằng các phi
hành gia vẫn chưa đặt chân lên mặt trăng, mà bước lên chiếc xe
của vị thần nào đó. “Và nếu họ mà đạt tới mặt trăng, họ sẽ thấy
mặt trăng như được mô tả trong kinh sách của chúng ta, bởi vì
bất kì cái gì được nói trong những kinh sách đó đều là nhân
chứng của một người biết tất.”
Việc dùng kinh sách của ai đó để níu bám lấy những luận cứ
ngu xuẩn như thế làm cho kinh sách thành vô giá trị. Khi được
nói đến trong kinh sách của bạn rằng mặt trăng là thế nọ thế kia,
và phát biểu này về sau được chứng tỏ là không đúng, nhớ rằng
phát biểu đó trong kinh sách là phát biểu của nhà khoa học của
ngày xưa ấy, không phải của người biết tới atman. Người biết tới
atman có mối bận tâm gì với việc mô tả loại đá nào có và không
có trên mặt trăng? Và nếu một phát biểu như thế do ông ta nêu ra,
nó không được thực hiện trong năng lực của ông ta như người
biết về atman.

Lập trường như thế tạo ra khó khăn lớn. Ta xem xét trường
hợp một nhà tư tưởng lớn như Einstein - một nhà toán học lớn.
Là nhà toán học lớn cũng không xác định ra mọi tính cách của cá
tính ông ta; còn có nhiều thứ khác trong cuộc đời ông. Ông ta
không phải là nhà toán học khi ông ấy chơi bài. Và ông ấy sẽ bận
tâm gì tới toán học khi ông ấy đang yêu một người đàn bà? Ông
ấy không đưa ra phát biểu toán học nào khi ông ấy nói với cô ấy
rằng không có người đàn bà nào khác đẹp hơn cô ấy. Nhưng
trong tương lai nếu ai đó nói rằng một nhà toán học lớn như
Einstein phải nói như thế chỉ sau khi đã đo và so sánh cái đẹp của
tất cả phụ nữ trên thế giới, lời tuyên bố đó chắc chắn là ngây thơ.
Không, những phát biểu như thế được đưa ra bởi bất kì ai và mọi
người trên thế gian này. Mọi đàn bà gặp một đàn ông nào đó,
người đó nói với cô ấy điều như vậy. Không cần phải là nhà toán
học để nói như vậy. Một phát biểu như vậy được đưa ra, không
phải với năng lực của nhà toán học, mà là của người đang yêu.
Cho nên từ biết tất có nghĩa là bây giờ không cái gì còn lại
đáng để biết nữa, không cái gì làm tăng thêm cực lạc của người
này. Cực lạc của người đó là toàn diện. Và không cái gì còn lại
có thể cảm trở điều đó. Tất cả dốt nát của người đó, tất cả cái
điên rồ của người đó, đều bị phá huỷ. Giận dữ của người đó, gắn
bó của người đó, tham lam của người đó, tất cả đều đã mất đi, đều đã bị phá huỷ.
Người đó đang trong trạng thái cực lạc tối cao.

Biết tất có nghĩa là một người đang sống trong cực lạc tối cao.
Người đó biết rằng tri thức đúng đắn đưa người đó vào cực lạc và
loại bỏ đi mọi khả năng của bất hạnh.
Atman là biết tất theo nghĩa này, và không theo nghĩa người
biết của ba thời - quá khứ, hiện tại và tương lai. Người đó không
biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai hay ngày kia. Người đó không
biết ai sẽ thắng cuộc bầu cử này hay sẽ thua; không có lí do hay
sự cần thiết nào để biết những việc như thế. Tất cả những biến cố
xảy ra bên trong giới hạn thời gian đối với người đó đều giống
như những đường vẽ trên nước. Người đó không đoái hoài tới
chúng, người đó không lo nghĩ về chúng. Ai thắng hay ai thua là
chất liệu mơ đối với người đó; những việc như thế thuộc về thế
giới trẻ con, người đó đã quá chín chắn với chúng rồi. Người đó
không bận tâm với những việc như vậy.

Trong việc biết tới yếu tố tối cao người đó trở thành biết tất -
tức là, dốt nát của người đó sụp đổ. Hám lợi, gắn bó và giận dữ
được tạo ra trong dốt nát sụp đổ. Thay thế vào chỗ chúng là cực
lạc tới, được sinh ra từ việc biết đúng. Ánh sáng của việc biết bắt
đầu chiếu sáng, và sống trong chói sáng của nó là sống trong cực
lạc tối cao - không dừng và vĩnh hằng.
Đặc trưng thứ ba của atman này là thuần khiết - bao giờ cũng
tinh khiết, bao giờ cũng trong sạch, và bao giờ cũng hồn nhiên.
Khi chúng ta trở thành không thuần khiết nó không trở thành
không thuần khiết. Toàn thể không thuần khiết của chúng ta là ảo
tưởng của chúng ta. Như tôi đã nói đêm qua, phản xạ của mặt trời
là thuần khiết trong vũng nước bẩn cũng như trong hồ pha lê.
Không có một khác biệt nhỏ nhặt nhất trong thuần khiết của nó.
Thuần khiết của nó không phải là đặc trưng ngẫu nhiên; nó là bản
chất, bẩm sinh. Cho nên vấn đề này sẽ dễ dàng được hiểu nếu bạn
hiểu khác biệt giữa điều ngẫu nhiên và điều bẩm sinh.

Đặc trưng ngẫu nhiên là ngoại lai; nó được gắn vào bạn
nhưng không tới từ bên trong bạn. Chẳng hạn, một người là
không trung thực; cái không trung thực của người đó là ngẫu
nhiên, không phải là cố hữu. Nó đã được thực hành, nó đã được
thu nhận. Đây là lí do tại sao không người nào có thể như vậy
mọi giờ một ngày, bởi vì cái được thu nhận là gánh nặng đôi khi
phải bị gạt sang bên. Đôi khi người này cần phải được nhẹ gánh
về nó. Nó không phải là bản tính của người đó, cho nên người đó
phải trung thực với ai đó trong giao thiệp của mình. Và đôi khi
điều xảy ra là người không trung thực là trung thực trong số họ
tới mức ngay cả người trung thực cũng không được như thế. Lí
do là ở chỗ điều chúng ta gọi là trung thực cũng là một thứ được
thu nhận mà từ đó đôi khi chúng ta phải tìm kiếm giảm nhẹ.
Bạn không thể sống liên miên với thứ được thu nhận, với cái
ngẫu nhiên. Nhiều lúc bạn sẽ phải nghỉ ngơi khỏi điều đó. Bạn sẽ
phải làm như vậy, bằng không căng thẳng sẽ tăng lên và gánh
nặng sẽ trở thành lớn. Do đó một người với tâm trí nghiêm chỉnh
phải tìm kiếm việc giải trí nào đó ở những lúc tạm ngưng, bằng
không cái nghiêm chỉnh của người đó sẽ trở thành gánh nặng cho
người đó. Mahavira và Phật không cần giải trí vì họ không mang
tải trọng nghiêm chỉnh nào. Nhớ lấy điều này trong đầu. Chúng
ta có khuynh hướng nghĩ điều này là bởi vì họ mang tâm trí
nghiêm chỉnh đến mức họ sẽ không đi xem phim hay xem kịch.
Nếu họ nghiêm chỉnh họ sẽ phải đi xem kịch. Không, họ chắc
chắn không mang tâm trí nghiêm chỉnh.

Điều này không có nghĩa là họ không nghiêm chỉnh. Nghiêm
chỉnh và không nghiêm chỉnh, cả hai đều giả. Mahavira, Phật là
bản thân họ; họ là cái ta bản chất của họ. Họ không thu nhận cái
gì từ bên ngoài, cho nên không cái gì từ đó mà họ cần phải nghỉ
ngơi. Nếu một người thực hành tính thánh thiện và làm nó thành
thói quen, thế thì người đó đôi khi sẽ phải có ngày nghỉ. Trong ba
hay bốn ngày mỗi tháng hay nửa tháng người đó sẽ phải có ngày nghỉ. Và người đó
sẽ không có khả năng duy trì vai trò thánh
thiện của mình trong ngày nếu người đó không đi vào thế giới
không thánh thiện trong một hay hai giờ trong thời gian đó. Điều
đó sẽ khó khăn cho người đó.
Các thuộc tính ngẫu hiên là những thuộc tính mà chúng ta
học, chúng ta thu nhận. Chúng tới với chúng ta từ bên ngoài,
chúng không tới từ bên trong. Chúng tất cả đều là những thứ do
chúng ta học hỏi. Chẳng hạn, ngôn ngữ là một thuộc tính ngẫu
nhiên, được thu nhận. Bất kì ai cũng đều có thể học tiếng Hindu
hay Marathi hay tiếng Anh hay tiếng Đức. Có hàng nghìn ngôn
ngữ và cũng có thể còn có nhiều nữa, không khó khăn gì. Mọi
ngôn ngữ chúng ta phát minh ra cũng đều là ngẫu nhiên.
Nhưng im lặng thì sao? Nó không phải là ngẫu nhiên. Cho
nên trong khi sẽ có khác biệt nếu hai người nói chuyện, nếu họ
tôn trọng im lặng hoàn toàn sẽ không có khác biệt gì trong cái im
lặng đó. Có thể có thảo luận trong lời nói: không thể có bất kì
thảo luận nào trong im lặng.

Sẽ không có phân biệt nào trong thuộc tính bên trong của hai
người khi họ đang trong im lặng hoàn toàn. Khác biệt gì sẽ có
đấy trong hai cái im lặng? Nhưng sẽ có khác biệt nếu im lặng
được áp từ bên ngoài, bởi vì lời nói sẽ tiếp tục bên trong. Sẽ có
khác biệt nếu hai người giữ im lặng chỉ để trưng bầy. Tôi đang
ngồi im lặng, bạn đang ngồi im lặng bên cạnh tôi. Tôi tiếp tục
suy nghĩ của tôi, bạn tiếp tục suy nghĩ của bạn. Cho nên mặc dầu
môi khép, hành động suy nghĩ vẫn tiếp tiễn, và sẽ có khác biệt
bao la giữa chúng ta trong hoàn cảnh như vậy. Chúng ta sẽ xa
nhau hàng nghìn dặm bên trong. Không ai có thể nói bạn sẽ ở đâu
và tôi sẽ ở đâu.

Nhưng nếu im lặng thực sự được đạt tới, không phải bị áp
đặt từ bên ngoài mà là nở hoa từ bên trong, mở ra từ bên trong,
thế thì và chỉ thế thì chúng ta thực sự trong im lặng hoàn toàn.
Thế thì khác biệt gì sẽ có đó giữa tôi và bạn, khi lời tan biến từ
bên trong, khi lời nói đã tan biến từ bên trong? Sẽ không có khác
biệt chút nào. Chúng ta sẽ đứng ở cùng chỗ. Chúng ta sẽ dường
như chúng ta là một. Dần dần, khi im lặng tiến triển, hai ngọn lửa
của chúng ta sẽ hoà trộn thành một ngọn lửa. Chúng không thể
còn là hai vật tách biệt được, bởi vì đường biên đánh dấu sự phân
biệt giữa hai vật đã biến mất. Phân biệt tạo ra biên giới; trong cái
im lặng của nó, biên giới biến mất.

Cho nên im lặng - im lặng ẩn trú, im lặng bên trong - là tự
nhiên, trong khi nói là ngẫu nhiên; và bất kì cái gì là ngẫu nhiên
đều không kéo dài lâu. Đây là lí do tại sao bạn không thể duy trì
được giận dữ trong hai mươi bốn giờ, mặc dầu bạn có thể sống
trong khoan hoà hai mươi bốn giờ. Nghĩ về điều này đi. Bạn
không thể sống trong giận dữ cả ngày được. Bạn sẽ giận dữ, rồi
sau một chốc bạn sẽ không giận nữa. Sẽ có một loại đến và đi của
giận dữ. Nhưng sẽ không có chướng ngại nào để sống trong
khoan hoà trong hai mươi bốn giờ. Bạn vẫn còn có thể khoan hoà
trong cả ngày. Tương tự, nếu bạn muốn sống trong căm ghét hai
mươi bốn giờ một ngày điều đó là điều không thể được; bạn sẽ
tạo ra địa ngục cho bản thân mình. Nhưng ngược lại nếu bạn
muốn sống vĩnh viễn trong tình yêu, điều ấy có thể.

Nhưng không thể vẫn còn trong cảm giác mà hiện thời chúng
ta gọi là tình yêu, bởi vì nó không phải là tình yêu thực, nó là một
thứ bề ngoài. Bạn có thể đầy tình yêu trong có thể là mười phút
trong hai mươi bốn giờ; phần thời gian còn lại điều đó là không
thể được. Và nếu ai đó làm nỗ lực để trong tình yêu trong một
thời kì dài, sẽ khó khăn cho người đó để yêu ngay cả trong mười
phút thôi. Tại sao? - bởi vì chúng ta chỉ có thể ở mãi với cái là
bản tính của chúng ta, và chúng ta không thể ở mãi với cái ngoại
lai đối với ta và cái được nhập khẩu từ bên ngoài. Cái đó sẽ phải
bị loại bỏ, tải trọng đó sẽ phải bị quẳng đi.

Atman là thuần khiết, không tì vết. Nó không bị làm hỏng,
nó không thỉnh thoảng trở nên không thuần khiết và thế thì cần
chúng ta uốn nắn nó, làm cho nó thuần khiết trở lại. Nếu atman
có thể không thuần khiết, chúng ta sẽ không có khả năng làm cho
nó thuần khiết được. Thế thì ai sẽ làm cho nó thuần khiết? Người
có thể làm cho nó thuần khiết thì bản thân người đó bây giờ là
không thuần khiết. Bất kì cái gì mà atman không thuần khiết làm
bây giờ đều sẽ không thuần khiết.

Không, đấy không phải vấn đề atman trở nên không thuần
khiết và chúng ta cần làm cho nó thuần khiết. Nó đã thuần khiết
rồi. Chỉ chúng ta tích luỹ cái không thuần khiết và không thánh
thiện ở đủ mọi phía quanh ta, cũng hệt như chúng ta treo tấm
màn đen tứ phía quanh ngọn đèn. Ánh sáng đèn không thay đổi
trong bóng tối vì màn đen. Đèn vẫn đang cháy trong sự toả sáng
của riêng nó, nhưng tấm màn đen bao quanh ngăn cản ánh sáng
của nó toả ra mọi hướng. Và nếu đèn điên khùng như chúng ta,
và quên mất rằng “Ta là ánh sáng,” nó sẽ đối diện với cùng
những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.

Mối quan hệ của chúng ta với bản tính của cái ta hoàn toàn
bị phá vỡ và chúng ta bị đồng nhất với cái mạng nhện làm bằng
thân thể, tâm trí, suy nghĩ, cảm giác, đam mê và ham muốn của
chúng ta, bao quanh chúng ta tứ phía. Chúng ta bắt đầu nói, “Đây
là tôi!” Người ở bên trong chúng ta tự đồng nhất bản thân mình
với bất kì cái gì và bắt đầu nói, “Đây là tôi!” Và yếu tố đó ở bên
trong là thuần khiết, không tì vết và trong trẻo đến mức bất kì cái
gì được phản xạ trong nó đều được phản xạ đầy đặn; chúng ta
nắm giữ cái phản xạ đó và bắt đầu nói, “Đây là tôi!”

Sai lầm ấy giống như thế này. Giả sử tấm gương đang đứng
phía trước bạn trở nên có ý thức và nhìn vào trong bản thân nó và
thấy hình ảnh bạn đang đứng trước nó, và thế rồi nói, “Đây là
tôi!” Việc xảy ra không may như thế chỉ xuất hiện bởi vì sự thuần
khiết của tấm gương. Atman là thuần khiết và không tì vết, và
bởi vì sự thuần khiết trong như pha lê của nó, bất kì cái gì tiếp
cận tới nó đều được phản xạ trong nó như một tấm gương - bất kì
cái gì có thể có. Nếu thân thể tiến tới nó, thân thể sẽ được phản
xạ như trong tấm gương và atman nói, “Tôi là thân thể.”
Bạn không có ý tưởng nào về thay đổi liên tục trong thân thể
mình và về cách bạn đồng nhất bản thân mình với chúng. Nếu tế
bào đầu tiên được tạo ra trong bụng mẹ bạn được lấy ra và đặt
trước bạn rồi bạn được bảo là “Bạn đã có thời là cái này đây,”
bạn lập tức sẽ chối phắt và nói, “Làm sao cái này có thể là tôi
được? Điều ấy không thể được.” Nếu năm đến mười bức ảnh
được chụp hàng ngày về cuộc sống của bạn thì sẽ có một chuỗi
dài những tấm ảnh bạn. Mỗi tấm ảnh đều có thời đã từng được
bạn nói là bản thân mình. Nhưng thật khác biệt làm sao giữa tấm
ảnh thời trẻ thơ của bạn và tấm ảnh tuổi già của bạn! Khác biệt
bao la làm sao giữa đứa trẻ mới sinh và cái thân tàn sắp xuống
mồ. Trong tất cả những thay đổi này bạn có đấy. Bất kì cái gì
được phản xạ trong tấm gương của bạn, bạn đều nói, “Đây là
tôi.”

Bạn đã bao giờ thấy bất kì tương tự nào giữa tấm ảnh thời trẻ
thơ của mình và tấm ảnh người lớn của mình không? Có sự giống
nhau nào không? Bạn có phải là đứa trẻ đó không? Không, một
thời bạn đã làm chủ nhân nó, và lời tuyên bố đó đã ăn vào trong
kí ức bạn; và chỉ có lời tuyên bố đó là vẫn còn đến hôm nay -
rằng đây là bạn. Thân thể thay đổi hàng ngày.
Các nhà khoa học cho chúng ta biết rằng mọi tế bào trong
thân thể đều hoàn toàn bị thay đổi sau một thời kì bẩy năm;
không một tế bào cũ nào còn lại. Nhưng đồng nhất của chúng ta
tiếp tục. Đồng nhất tiếp diễn. Trong thời gian bẩy năm xương,
thịt, máu và mọi tế bào khác của chúng ta đều được thay đổi. Nếu một người sống
bẩy mươi năm thì thân thể đã thay đổi toàn bộ
mười lần. Toàn bộ thân thể đã trải qua thay đổi mười lần.

Thân thể thay đổi trong mọi khoảnh khắc, nhưng có một tấm
gương không tì vết ở bên trong. Bất kì phản xạ nào được thực
hiện trong nó, bất kì bức tranh nào được tạo nên trong nó đều bảo
cho chúng ta, “Đây là tôi.” Nếu đồng nhất này bị phá vỡ, nếu dốt
nát này bị loại bỏ, nếu chúng ta dừng việc nói, “Đây là tôi,” thế
thì chúng ta sẽ có khả năng nói, “Tôi là người biết tới tất cả
những thay đổi này, tôi là nhân chứng cho tất cả những điều này.
Tôi biết tuổi thơ của mình, và tôi không phải là cái đó; tôi biết
tuổi thanh niên của mình và nó không phải là tôi. Tôi sẽ biết tuổi
già của tôi nữa, nhưng nó sẽ không phải là tôi. Tôi đã biết việc
sinh; đây không phải là tôi. Tôi sẽ biết việc chết nữa, và tôi cũng
không phải là nó. Tôi là cái biết tới tất cả những pha khác nhau
này. Tôi là cái biết tới chuỗi dài này, đoạn phim dài này. Tôi là
người biết, tôi không phải là cái được biết tới. Tôi không phải là
cái được phản xạ. Tôi là cái trong đó việc phản xạ được tạo ra.”
Thế thì atman là tấm gương trong trẻo, thuần khiết và không tì
vết, cái ao không bẩn, nơi chưa từng có gợn sóng nào của không
thuần khiết.

Khi Upanishad nói nó là thuần khiết, họ nói về sự thuần
khiết toàn bộ. Không chút không thuần khiết nào đã bao giờ đi
vào trong atman. Cho nên Upanishad khẳng định, bằng việc phá
vỡ đồng nhất này chúng ta cũng trở nên thuần khiết. Thực ra
không ai đã bao giờ trở thành không thuần khiết; điều đó không
có thể có, điều đó là không thể được. Không thuần khiết là trong
đồng nhất. Việc đồng nhất làm cho người ta thành tội nhân hay
thánh nhân. Nhớ lấy, thánh nhân cũng không thuần khiết bởi vì
ông ta bị đồng nhất với tính chất thần thánh. Tội nhân mang
xiềng sắt, thánh nhân mang xiềng vàng. Nhưng điều đó tạo ra
khác biệt gì? Giá trị thị trường của sắt và vàng có thể là khác
nhau, nhưng đồng nhất, nô lệ vẫn tiếp tục.

Ai đó nói, “Tôi là tội nhân,” ai khác nói, “Tôi là người đức
hạnh.” Chừng nào mà chúng ta còn tiếp tục nói, “Đây là tôi,”
chúng ta đang làm cho bản thân mình thành không thuần khiết
một cách không cần thiết. Mặc dầu chúng ta về bản chất là thuần
khiết, chúng ta cứ chấp nhận cái không thuần khiết. Cái ngày mà
bạn có khả năng nói, “Tôi không là cái này, tôi không là cái nọ,”
bạn sẽ có khả năng nói, “Tôi là cái mà trong đó mọi thứ được
phản xạ. Tôi là tấm gương trong đó mọi hình bóng đến rồi đi. Tôi
là cái trống rỗng mà trong đó mọi thứ đều sáng long lanh và biến
mất.”

Không ai biết bao nhiêu lần sinh thành, bao nhiêu thân thể,
bao nhiêu hình dạng, bao nhiêu thuộc tính ngẫu nhiên, bao nhiêu
sự kính trọng, bao nhiêu địa vị và bao nhiêu biến thiên đã long
lanh trong nó. Những cuộc hành trình là vô tận nhưng cái hồ là
một; và nó bao giờ cũng sạch sẽ và không tì vết. Lữ khách cứ đi
trên bờ hồ và hồ thì cứ giả thiết, “Đây là tôi, đây là tôi.” Vào lúc
kẻ cắp đi qua trên con đường đó và hồ nói, “Tôi là kẻ cắp”; đôi
khi một thánh Hindu đi qua con đường đó và hồ nói, “Tôi là
thánh Hindu.” Đôi khi một vị thánh đi qua con đường đó và hồ
nói, “Tôi là thánh nhân,” và đôi khi một tội nhân đi qua con
đường đó và hồ nói, “Tôi là tội nhân.”

Vậy hồ cứ tuyên bố khi đoàn lữ hành của sự phản xạ diễu
qua con đường đó. Và họ đi qua nhanh đến độ ngay khi phản xạ
này vừa tan biến phản xạ khác lại xuất hiện trong nó. Chúng ta
thậm chí không tính đến khoảnh khắc đó - cái khoảng giữa hai
ccieeuf xảy ra - để cho chúng ta có thể nhìn vào hồ trong đó
không có phản xạ chút nào.

Thiền là việc thực hành với hội tụ vào khoảng giữa đó.
Trong khoảnh khắc đó khi không cái gì đang phản xạ, chúng ta
có thể thoáng nhìn vào bản thân hồ; chúng ta có thể biết, “Tôi là
hồ, tôi không phải là đoàn lữ hành đang đi trên bờ hồ. Tôi không phải là những sự
phản xạ đó cái hình thành trên tôi. Tôi là cái mà
trên đó mọi hình dạng được tạo ra, vậy mà bản thân nó không
được tạo ra. Tôi vẫn còn không được tạo ra, không được làm ra.”
Nhớ lấy trong đầu ba điều này. Tất cả những thứ khác được
hàm chứa trong Ishavasya Upanishad đều chỉ là những khía cạnh
khác biệt của ba điều này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến