Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Vậy tới, vậy đi

Câu hỏi thứ nhất từ Anand Nirgrantha.
Câu hỏi thứ nhất
Thầy nói rằng Phật sẽ không nói về thượng đế bởi
vì điều đó không thể chứng minh được. Vậy mà
trong lời nói tiếp ông ấy lại nói về các kiếp sống
khác, và hoá thân. Làm sao điều này khớp được
với các sự kiện khoa học?

Phật nói không có linh hồn. Cái gì là cái còn lại
sau cái chết? Hoá thân là gì? Tôi hiểu mông lung
rằng có thể cái vô hình dạng vẫn còn, nhưng cái
đó có một thực thể cá nhân không? Cùng con
sóng đó không được tái sinh.
Câu hỏi này rất có ý nghĩa. Đó là một trong
những đóng góp nền tảng nhất của Phật cho tâm thức
con người - ý tưởng về vô ngã. Nó rất phức tạp. Bạn
sẽ phải rất tỉnh táo im lặng để hiểu nó, bởi vì nó đi
ngược lại mọi hình mẫu mà bạn đã được ước định.
Trước hết là vài điều tương tự, để cho bạn có ý
tưởng nào đó về điều ông ấy ngụ ý bởi vô ngã. Thân
thể bạn là cái túi da. Lớp da xác định ra thân thể bạn;
nó xác định chỗ bạn và thế giới bắt đầu. Nó là ranh
giới quanh bạn. Nó bảo vệ bạn với thế giới, nó phân
chia bạn khỏi thế giới, và nó cho phép bạn chỉ có vài
lỗ hổng để đi vào thế giới hay để thế giới đi vào bạn.
Nếu không có da, bạn sẽ không thể nào tồn tại được.
Bạn sẽ mất biên giới của mình với tất cả mọi thứ xung
quanh bạn. Nhưng bạn không phải là da của mình. Da
cứ thay đổi hoài.
Điều đó cũng giống như con rắn cứ lột lớp da cũ
lặp đi lặp lại. Bạn cũng thoát ra khỏi da của mình lặp
đi lặp lại nhiều lần. Nếu bạn hỏi các nhà sinh lí học,
họ sẽ nói, 'Nếu một người sống bẩy mươi tuổi, thế thì
gần mười lần người đó sẽ đổi da hoàn toàn.' Nhưng
quá trình này rất chậm, cho nên bạn chẳng bao giờ trở
nên nhận biết. Một phần tí xíu thay đổi mọi khoảnh
khắc đến mức bạn không thể cảm thấy điều đó được;
cảm giác của bạn không tinh tế thế. Thay đổi là rất
tinh tế. Da cứ thay đổi dầu vậy bạn cứ nghĩ về bản
thân mình rằng đây là thân thể bạn, vẫn cùng thân thể
ấy. Nó không phải là cùng thân thể đó đâu, nó là sự
liên tục.
Khi bạn còn trong bụng mẹ, ngày đầu tiên bạn chỉ
là một tế bào nhỏ, vô hình với mắt trần. Đó là da của
bạn vào lúc đó, đó là thân thể bạn. Thế rồi bạn bắt đầu
lớn lên. Sau chín tháng bạn được sinh ra - thế thì bạn có một thân thể hoàn hoàn khác. Nếu bỗng nhiên bạn
bắt gặp bản thân mình mới một ngày tuổi, vừa mới
được sinh ra, bạn sẽ không thể nào nhận ra được rằng
đây là bạn. Bạn đã thay đổi nhiều thế. Nhưng dầu vậy
bạn vẫn nghĩ mình như cũ. Theo một cách nào đó thì
bạn vẫn như cũ bởi vì bạn là cùng sự liên tục. Theo
một cách nào đó bạn lại không như cũ bởi vì bạn vẫn
đang thay đổi liên tục.
Theo cùng cách đó, cũng giống như da, là bản
ngã. Da giữ thân thể bạn trong một hình mẫu, trong
một định nghĩa, trong một giới hạn. Bản ngã giữ nội
dung của tâm trí bạn trong một giới hạn. Bản ngã là
lớp da bên trong để cho bạn biết mình là ai; bằng
không bạn sẽ bị lạc - bạn sẽ không biết ai là ai; ai là
mình và ai là người khác.
Ý tưởng về cái ta, cái tôi, bản ngã, cho bạn một
định nghĩa, một định nghĩa tiện dụng. Nó làm cho bạn
tách biệt rõ ràng với người khác. Nhưng điều đó nữa
cũng là da, lớp da rất tinh tế, cái giữ lại tất cả nội
dung của tâm trí bạn - kí ức của bạn, quá khứ của bạn,
ham muốn của bạn, kế hoạch của bạn, tương lai của
bạn, hiện tại của bạn, yêu của bạn, ghét của bạn, giận
dữ, buồn rầu, sung sướng - nó giữ tất cả những cái đó
trong một cái túi. Nhưng bạn lại không là bản ngã đó.
Bởi vì cái đó nữa lại cũng cứ thay đổi và cái đó thay
đổi còn nhiều hơn da thân thể. Từng khoảnh khắc nó
đều đang thay đổi.
Phật dùng sự tương tự với ngọn lửa. Chiếc đèn
được thắp sáng: bạn thấy ngọn lửa, nhưng nó liên tục
thay đổi, nó chưa bao giờ như cũ cả. Đến sáng khi bạn
tắt đèn đi, bạn không tắt cùng ngọn lửa đó đâu. Nó đã
liên tục thay đổi cả đêm rồi.
Từng khoảnh khắc ngọn lửa đều biến mất thành
khói và ngọn lửa mới đang thay thế nó. Nhưng việc
thay thế lại nhanh tới mức bạn không thể thấy được
sự vắng mặt - rằng ngọn lửa này đã qua, ngọn lửa
khác đã tới. Cái này qua đi, cái khác tới liền. Khoảnh
khắc này nhanh tới mức bạn không thể thấy được lỗ
hổng giữa cả hai. Bằng không thì chỉ có sự liên tục;
nó không phải là cùng ngọn lửa. Nhưng dầu vậy, theo
một cách nào đó, nó là cùng ngọn lửa bởi vì nó là sự
liên tục của cùng ngọn lửa. Nó được sinh ra từ cùng
một ngọn lửa.
Cũng hệt như bạn được sinh ra từ cha mẹ mình -
bạn là sự liên tục. Bạn không là một. Bạn không phải
là bố bạn, bạn không phải là mẹ bạn - nhưng dầu vậy
bạn vẫn là bố bạn và mẹ bạn, bởi vì bạn liên tục cùng
một truyền thống, cùng một dòng họ, cùng một kế
thừa.
Phật nói bản ngã là sự liên tục, nó không phải là
cái căn bản - liên tục giống như ngọn lửa, liên tục
giống như dòng sông, liên tục giống như thân thể.
Vấn đề nảy sinh... chúng ta có thể nhân nhượng
về điều đó rằng thôi được, nó có thể là như vậy: nếu
một người chết vào lúc chết và mọi thứ biến mất, thế
thì hoàn toàn đúng - có thể đó chỉ là ngọn lửa. Nhưng
Phật nói người ta được tái sinh - thế thì vấn đề nảy
sinh. Thế thì ai được tái sinh?
Thế thì lần nữa, lại cần vài sự tương tự. Bạn đã
bao giờ thấy ngôi nhà to bị cháy, hay một khu rừng bốc cháy chưa? Nếu bạn quan sát bạn sẽ đi tới thấy
một hiện tượng. Đơn giản ngọn lửa nhảy từ cây nọ
sang cây kia. Chẳng có chất liệu nào trong nó, nó chỉ
là ngọn lửa thôi. Nó không có vật chất trong nó, nó
chỉ là năng lượng thuần khiết, một lượng năng lượng,
một số lượng năng lượng nào đó - nó nhảy từ cây nọ
và lan tới cây kia và cây kia bốc cháy.
Hay, bạn có thể mang một ngọn đuốc chưa cháy
lại gần ngọn đuốc đã thắp cháy. Điều gì xảy ra? Ngọn
lửa từ đuốc đã cháy nhảy lên ngọn đuốc chưa cháy.
Nó là bước nhảy lượng tử, nó là cú nhảy. Ngọn lửa
thuần khiết nhảy tới ngọn đuốc khác và bắt đầu sự
liên tục khác.
Hay, ngay bây giờ bạn đang nghe tôi. Nếu bạn bật
radio lên, bỗng nhiên bạn sẽ bắt đầu nghe một buổi
phát thanh nào đó từ trạm phát nào đó đang truyền
ngay bây giờ. Chỉ cần mỗi máy thu thôi. Một khi máy
thu có đó, cái gì đó đang trong buổi phát thanh từ
London hay từ Moscow hay từ Bắc Kinh, bạn có thể
bắt được nó.
Chẳng chất liệu nào tới cả, chỉ thuần sóng ý nghĩ
thuần tuý nhảy từ Bắc Kinh tới Pune... chỉ sóng ý
nghĩ, không cái gì chất liệu. Bạn không thể bắt giữ
chúng trong tay được, bạn không thể thấy được
chúng, nhưng chúng có đó bởi vì chiếc máy thu radio
của bạn bắt lấy chúng, hay chiếc máy thu hình của
bạn bắt lấy chúng.
Phật nói khi một người chết, toàn thể những ham
muốn tích luỹ của cả đời người đó, toàn thể những kí
ức được tích luỹ của cả đời người đó, toàn thể
sanskaras, nghiệp của người đó, nhảy tựa sóng năng
lượng vào bụng mẹ mới. Đó là cú nhảy. Từ đích xác
là trong vật lí: họ gọi nó là 'bước nhảy lượng tử' -
'bước nhảy của năng lượng thuần khiết mà không có
chất liệu nào trong nó'.
Phật là nhà vật lí lượng tử đầu tiên. Einstein tới
sau ông ấy hai mươi nhăm thế kỉ, nhưng họ cả hai nói
cùng một ngôn ngữ. Và tôi vẫn nói rằng Phật mang
tính khoa học. Ngôn ngữ của ông ấy là ngôn ngữ của
vật lí hiện đại; ông ấy tới từ hai mươi nhăm thế kỉ
trước thời thời đại của Einstein.
Khi một người chết đi, thân thể biến mất, phần vật
chất biến mất, nhưng phần phi vật chất, phần tâm trí,
là rung động. Rung động đó được thoát ra, phát ra.
Bây giờ, bất kì chỗ nào một bụng mẹ đúng sẵn sàng
cho rung động này, nó sẽ đi vào trong bụng mẹ đó.
Không có cái ta đi, không có ai đi cả, không có
bản ngã nào đi cả. Không có nhu cầu cho bất kì cái gì
mang tính chất liệu di chuyển, đó chỉ là sự thúc đẩy
của năng lượng. Nhấn mạnh là ở chỗ nó lại là cùng
cái túi của bản ngã nhảy. Ngôi nhà này đã trở thành
không thể sống được, thân thể này không còn có thể
để sống nữa. Ham muốn cũ, niềm khao khát về cuộc
sống - thuật ngữ của Phật là tanha, thèm khát về cuộc
sống - vẫn còn sống, đang cháy. Chính ham muốn đó
lấy cú nhảy.
Bây giờ, nghe vật lí hiện đại. Họ nói rằng không
có vật chất. Bạn có thấy bức tường rất vật chất này
đằng sau tôi không? Bạn không thể đi qua nó được;
nếu bạn thử bạn sẽ bị thương. Nhưng vật lí hiện đại
nói nó là cái không, chẳng cái gì có chất liệu cả. Nó
đơn giản là việc chuyển năng lượng thuần khiết với tốc độ lớn vô cùng tới mức mọi khoảnh khắc nó đều
tạo ra sự giả dối, ảo tưởng, dáng vẻ của chất liệu.
Thỉnh thoảng bạn quan sát chiếc quạt quay nhanh
- thế thì bạn không thể thấy được cánh. Chỉ có ba
cánh thôi, nhưng chúng chuyển động nhanh thế trông
giống như một vòng tròn, như cái đĩa; bạn không thể
thấy được lỗ hổng giữa hai cánh. Nếu cái quạt chuyển
động với cùng tốc độ như điện tử đang chuyển động -
tốc độ cao vô cùng - thế thì bạn có thể ngồi lên chiếc
quạt và bạn sẽ không bị rơi khỏi nó. Bạn có thể ngồi
như tôi đang ngồi trên chiếc ghế và bạn sẽ không cảm
thấy chuyển động nào cả, bởi vì chuyển động này
nhanh thế.
Đích xác cùng điều đó xảy ra trong chiếc ghế này
và cùng điều đó đang xảy ra dưới bạn trên sàn. Nó
không phải là sàn đá đâu, đấy chỉ là dáng vẻ, nhưng
các hạt năng lượng đang chuyển động nhanh tới mức
chính sự chuyển động của chúng, tính nhanh của
chúng, tạo ra ảo tưởng về chất liệu. Chất liệu không
tồn tại, chỉ năng lượng thuần khiết tồn tại. Khoa học
hiện đại nói vật chất không tồn tại, chỉ năng lượng phi
vật chất là tồn tại.
Do đó tôi nói Phật rất khoa học. Ông ấy không
nói về thượng đế, nhưng ông ấy nói về vô ngã phi vật
chất. Cũng như khoa học hiện đại đã lấy ý tưởng về
chất liệu ra khỏi siêu hình của nó, Phật đã lấy ý tưởng
về cái ta ra khỏi siêu hình của ông ấy. Cái ta và chất
liệu là có tương quan với nhau. Khó mà tin được rằng
bức tường lại là phi chất liệu và theo cùng cách đó
khó mà tin được rằng không có cái ta nào tồn tại trong
bạn.
Bây giờ, vài điều thêm nữa sẽ làm cho điều đó rõ
ràng hơn. Tôi không thể nói rằng bạn sẽ hiểu điều đó,
nhưng nó sẽ làm cho điều đó rõ ràng hơn.
Bạn bước đi, bạn đang bước, bạn đã đi dạo buổi
sáng. Chính ngôn ngữ này - cái chúng ta nói 'bạn đang
bước' - tạo ra vấn đề; vấn đề ở trong chính ngôn ngữ
của chúng ta. Khoảnh khắc chúng ta nói ai đó đang
bước, chúng ta giả thiết rằng ai đó có đó người đang
bước - người bước. Chúng ta hỏi, làm sao có được
việc bước nếu không có người bước?
Phật nói không có người bước, chỉ có việc bước.
Cuộc sống không chứa các sự vật. Phật nói cuộc sống
bao gồm các biến cố. Và đó là đích xác là điều khoa
học hiện đại nói: chỉ có các tiến trình, không có vật -
các biến cố.
Ngay cả nói rằng cuộc sống tồn tại cũng không
đúng. Chỉ hàng nghìn và hàng nghìn quá trình sống
tồn tại. Cuộc sống chỉ là ý tưởng. Không có gì giống
như cuộc sống cả.
Trên trời một ngày nào đó bạn thấy mây đen tụ
tập và có sấm sét. Khi có sét bạn có hỏi, 'Có cái gì
đằng sau sét không? Ai đang làm sét? Sét là gì?' Bạn
sẽ nói, 'Sét đơn giản là sét - không có ai đằng sau nó;
đấy chỉ là một quá trình. Không phải là có cái gì đó là
sét. Nó đơn giản là sét.'
Nhị nguyên được ngôn ngữ mang vào. Bạn đang
bước - Phật nói chỉ có việc bước. Bạn đang nghĩ -
Phật nói chỉ có việc nghĩ, không có người nghĩ.
Người nghĩ được tạo ra bởi ngôn ngữ. Bởi vì chúng ta dùng ngôn ngữ dựa trên nhị nguyên, nó phân chia mọi
thứ thành hai mặt.
Khi bạn nghĩ, có một chùm ý nghĩ, được thôi -
nhưng không có người nghĩ. Nếu bạn thực sự muốn
hiểu nó bạn sẽ phải thiền sâu và đi tới điểm mà suy
nghĩ biến mất. Khoảnh khắc suy nghĩ biến mất bạn sẽ
ngạc nhiên - người nghĩ cũng mất rồi. Với suy nghĩ,
người nghĩ cũng biến mất. Đó chỉ là sự xuất hiện của
ý nghĩ chuyển động.
Bạn nhìn dòng sông. Dòng sông có thực sự tồn tại
không, hay đấy chỉ là chuyển động? Nếu bạn rút
chuyển động ra, liệu sẽ còn dòng sông không? Một
khi chuyển động bị lấy ra thì dòng sông sẽ biến mất.
Không phải là dòng sông chuyển động; dòng sông
không là gì ngoài việc chảy.
Ngôn ngữ tạo ra khó khăn. Có thể bởi vì cấu trúc
đặc biệt này trong một số ngôn ngữ, Phật đã trở thành
quan trọng và có ý nghĩa và trở nên được bắt rễ chỉ ở
Nhật Bản, Trung Quốc, Miến Điện - bởi vì họ có
ngôn ngữ khác hoàn toàn. Điều rất có ý nghĩa là hiểu
tại sao ông ấy đã trở nên quan trọng thế trong tâm trí
người Trung Quốc, tại sao Trung Quốc có thể hiểu
được ông ấy mà Ấn Độ lại không thể hiểu được.
Trung Quốc có một ngôn ngữ khác mà lại hợp với ý
thức hệ Phật giáo tuyệt đối. Tiếng Trung Quốc không
phân chia thành hai. Trong tiến Trung Quốc, hay tiếng
Hàn Quốc, hay tiếng Nhật Bản hay tiếng Miến Điện
tồn tại một cấu trúc hoàn toàn khác với tiếng Phạn,
tiếng Hindi, tiếng Anh, tiếng Hi Lạp, tiếng Latin,
tiếng Pháp, tiếng Đức - một cấu trúc khác toàn bộ.
Khi lần đầu tiên Kinh Thánh được dịch sang tiếng
Miến Điện đã có nhiều khó khăn, bởi vì vài câu không
thể dịch được chút nào. Khoảnh khắc bạn dịch, toàn
thể nghĩa bị mất. Chẳng hạn, một câu đơn giản,
'Thượng đế hiện hữu'; bạn không thể dịch nó sang
tiếng Miến Điện được. Nếu bạn dịch nó, nó sẽ thành
'Thượng đế trở thành'. 'Thượng đế hiện hữu' không
thể được dịch bởi vì không có thuật ngữ tương đương
cho 'hiện hữu', bởi vì 'hiện hữu' chỉ ra sự tĩnh tại.
Chúng ta có thể nói 'cây hiện hữu', nhưng trong
tiếng Miến Điện bạn phải nói 'cây đang trở thành', chứ
không 'hiện hữu'. Không có chữ tương đương cho
'hiện hữu'. Cây 'trở thành'. Vào lúc bạn nói 'cây hiện
hữu', nó không còn là cùng cái cây đó, cho nên tại sao
bạn lại nói 'hiện hữu'? 'Hiện hữu' cho sự tĩnh tại. Đó là
hiện tượng giống như dòng sông vậy - 'cây đang trở
thành'. Tôi phải nói 'cây đang trở thành' nhưng trong
tiếng Miến Điện nó sẽ đơn giản 'cây trở thành', chữ
'đang' sẽ không có đó. 'Dòng sông hiện hữu' - nếu bạn
muốn dịch - sẽ là 'dòng sông chuyển động'. 'Dòng
sông chảy' sẽ là việc dịch chính xác trong tiếng Miến
Điện.
Nhưng nói 'Thượng đế trở thành' là rất khó, bởi vì
người Ki tô giáo không thể nói được điều đó. Thượng
đế là hoàn hảo, ông ấy không thể trở thành được. Ông
ấy không phải là quá trình, ông ấy không có khả năng
phát triển - ông ấy đã đạt tới rồi. Ông ấy là cái tuyệt
đối - bạn ngụ ý gì bởi việc 'trở thành'? Trở thành là có
thể nếu ai đó còn chưa hoàn hảo. Thượng đế là hoàn
hảo rồi, ông ấy không thể trở thành được. Cho nên
làm sao dịch được điều đó? Rất khó. 

Nhưng Phật xuyên thấu lập tức vào tâm trí Miến
Điện, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc; xuyên thấu
lập tức. Chính cấu trúc của ngôn ngữ làm cho điều đó
thành có thể; họ có thể hiểu Phật rất dễ dàng.
Trong cuộc sống chỉ có các biến cố. Việc ăn có đó
nhưng không có người ăn. Quan sát việc ăn. Thực sự
có người ăn không? Bạn cảm thấy đói, đúng - cơn đói
có đó, nhưng không có ai đói cả. Thế rồi bạn ăn - việc
ăn có đó, nhưng không có ai là người ăn. Thế rồi cơn
đói được thoả mãn, thế rồi bạn cảm thấy thoả mãn -
sự thoả mãn này có đó nhưng không có ai được thoả
mãn cả.
Phật nói cuộc sống bao gồm các biến cố. Cuộc
sống nghĩa là việc sống. Cuộc sống không phải là
danh từ, nó là động từ. Và mọi thứ đều là động từ.
Quan sát và bạn sẽ có khả năng thấy: mọi thứ đều
đang trưởng thành, không cái gì tĩnh tại cả.
Eddington đã nói rằng trong tiếng Anh có vài từ
tuyệt đối giả: chẳng hạn, nghỉ ngơi. Chẳng cái gì đã
bao giờ trong nghỉ ngơi cả, chính từ này là sai, bởi vì
không có tương đương trong thực tế. Bạn đã bao giờ
thấy cái gì nghỉ ngơi chưa? Ngay cả khi bạn nghỉ
ngơi, đấy là việc nghỉ, nó không phải là nghỉ ngơi. Đó
là một quá trình: cái gì đó đang xảy ra, bạn vẫn thở.
Nằm dài ra, thảnh thơi - nhưng đấy không phải là
nghỉ ngơi; nhiều điều, cả nghìn thứ đang xảy ra. Bạn
đã bao giờ thấy cái gì nghỉ ngơi chưa? Điều đó là
không thể được, nghỉ ngơi không tồn tại. Ngay cả khi
một người chết, thế thì thân thể vẫn liên tục các quá
trình của nó.
Bạn có thể chưa nghe nói - đôi khi điều đó xảy ra:
người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, nhưng người
đi chôn người chết dưới đất, đôi khi đi tới biết rằng
người chết đó nhưng râu anh ta vẫn mọc ra, tóc anh ta
trở nên dài hơn, móng tay anh ta vẫn mọc. Người này
chết rồi!
Bây giờ điều này là rất kì quái. Nếu bạn cạo trọc
một người chết rồi đưa anh ta vào nấm mồ và sau sáu
tháng bạn mở nấm mồ ra và anh ta có râu... bây giờ
phải nói gì đây, liệu anh ta sống hay chết? Và bạn sẽ
rất sợ; bạn sẽ trốn khỏi nhà, và khuôn mặt đó sẽ ám
ảnh bạn trong đêm. Điều gì đã xảy ra? Nếu người này
chết thế thì làm sao râu người đó lại mọc được? Còn
nếu râu người đó có thể mọc được, thì người đó thực
sự chết hay không - chỉ giả vờ sao?
Cuộc sống là hàng triệu quá trình. Ngay cả khi
bản ngã của bạn biến mất từ căn cứ này, cất cánh từ
sân bay này và hạ cánh trong bụng mẹ nào đó khác,
nhiều quá trình vẫn tiếp tục. Tất cả các quá trình đều
không dừng lại, bởi vì có nhiều quá trình chẳng có gì
liên quan tới bản ngã của bạn; chẳng liên quan gì tới
bản ngã của bạn - bản ngã của bạn có thể đi và chúng
sẽ tiếp tục. Tóc mọc, móng tay mọc, chẳng có liên
quan gì...
Và, ngay lập tức, khoảnh khắc bản ngã bạn rời đi,
hàng triệu vi khuẩn nhỏ bé sẽ trở nên sống động và
chúng sẽ bắt đầu làm việc và vận hành. Bạn sẽ gần
như cái bãi chợ. Bạn sẽ sống động tràn đầy theo cách
đó. Nhiều điều sẽ xảy ra: nhiều vi khuẩn chạy đi chạy
lại đây đó, làm tình, hôn nhân, chết đi và mọi thứ sẽ
xảy ra. Khoảnh khắc bạn rời bỏ thân thể, thân thể bạn trở thành mảnh đất cho nhiều người khác đang chờ
đợi và những người sẽ nói, 'Xin ông đi cho! Để chúng
tôi vào chứ.'
Cuộc sống là quá trình liên tục - không chỉ một
quá trình mà nhiều quá trình, sự liên tục.
Phật nói chính ý tưởng về cái ta là bởi vì ngôn
ngữ. Bạn cảm thấy đói: trong ngôn ngữ chúng ta nói
'tôi đói'. Ngôn ngữ tạo ra ý tưởng về tôi. Làm sao để
nói nó? Để đích xác đúng bạn chỉ có thể nói 'cơn đói'.
'Tôi đói' đang đem cái gì đó tuyệt đối sai vào trong
nó. 'Cơn đói' - thế là đủ.
Quan sát các quá trình của bạn và bạn sẽ cảm thấy
điều đó. Khi bạn cảm thấy đói hôm nay, quan sát nó.
Có thực sự có ai đó đang đói hay chỉ có cơn đói thôi?
Và phải chăng hình mẫu ngôn ngữ cho nó sự xoắn
xuýt và phân chia nó ra làm đôi, và bạn bắt đầu cảm
thấy 'tôi đói'?
Phật giáo là tôn giáo đầu tiên đã đem thông điệp
này vào thế giới - rằng tôn giáo của bạn, triết lí của
bạn, được đặt nền móng trong các hình mẫu ngôn ngữ
của bạn còn hơn ở trong bất kì cái gì khác. Và nếu
bạn có thể hiểu ngôn ngữ của mình tốt hơn, bạn sẽ có
khả năng hiểu các quá trình bên trong của mình tốt
hơn. Phật là nhà ngôn ngữ học đầu tiên, và sáng suốt
của ông ấy là có ý nghĩa vô cùng.
Bạn nói: "Phật sẽ không nói về thượng đế bởi vì
điều đó không thể được chứng minh.' Vâng, ông ấy sẽ
không nói về thượng đế đâu bởi vì điều đó không thể
nào được chứng minh và ông ấy sẽ không nói về
thượng đế bởi vì thượng đế mà bạn nghĩ là tồn tại, thì
lại không tồn tại. Thượng đế của bạn lại là cùng cái
giả dối cũ của cái ta. Bạn nghĩ bạn có cái ta, cho nên
toàn thể vũ trụ phải có cái ta. Bởi vì bạn có cái ta,
toàn thể vũ trụ phải có cái siêu ta. Cái siêu ta đó là
thượng đế.
Phật nói bạn không có cái ta nào cả. Vũ trụ hiện
hữu, nhưng không có cái siêu ta trong nó... Hàng triệu
quá trình, nhưng không có cái siêu ta. Không có trung
tâm cho nó; nó tất cả đều là chu vi.
Rất khó thấu hiểu được điều đó - chừng nào bạn
còn chưa thiền. Đó là lí do tại sao Phật chưa bao giờ
đi vào thảo luận siêu hình; ông ấy nói, 'Thiền đi.' Bởi
vì trong thiền những điều này sẽ trở nên rõ ràng thế.
Khi suy nghĩ dừng lại, bỗng nhiên bạn thấy người
nghĩ đã biến mất. Nó là cái bóng. Và khi người nghĩ
biến mất, làm sao bạn có thể nói, làm sao bạn có thể
cảm thấy 'tôi đây'? Không có cái 'tôi' còn lại, bạn là
không gian thuần khiết. Đó là điều Phật gọi là anatta,
không gian thuần khiết của cái vô ngã. Đó là kinh
nghiệm vô cùng.
...'Vậy mà trong lời nói tiếp ông ấy lại nói về các
kiếp sống khác, và hoá thân.' Ông ấy nói, và các Phật
tử bao giờ cũng gặp rắc rối bởi vì điều đó. Phật khoa
học tới mức ông ấy không thể thêu dệt sự kiện được.
Nếu ông ấy không phải là con người khoa học như
vậy, nếu ông ấy chỉ là nhà siêu hình, thì hoặc ông ấy
đã chấp nhận cái ta để làm cho toàn thể triết lí của ông
ấy có vẻ nhất quán, hoặc ông ấy sẽ vứt bỏ ý tưởng về
hoá thân, bởi vì cả hai điều này có vẻ mâu thuẫn. 

Nhưng ông ấy là nhà khoa học tới mức ông ấy sẽ
không ép buộc cái gì từ tâm trí mình lên thực tại. Ông
ấy đơn giản phát biểu sự kiện. Nếu nó mâu thuẫn, ông
ấy nói, 'Có thể nó là mâu thuẫn đấy, nhưng nó là thế.'
Đây là điều đang xảy ra trong khoa học hiện đại.
Mới năm mươi năm trước, khi các nhà khoa học đi
vào cốt lõi bên trong nhất của vật chất, họ đã rất phân
vân, bởi vì điện tử hành xử theo cách rất phi logic.
Bây giờ bạn không thể nào buộc các điện tử phải
logic được, bạn không thể gửi chúng tới đại học để
học Aristotle và bạn không thể bảo chúng, 'Các cậu
hành xử phi logic lắm, hành xử như thế à! điều này là
không đúng.' Bạn không thể nói được điều đó. Nếu
chúng hành xử phi logic, thì chúng đang hành xử phi
logic đấy! - bạn phải hiểu nó, có thế thôi; chẳng thể
làm được gì cả.
Và cái phi logic mới thực sự lớn lao, nó không
phải là vấn đề bình thường. Đôi khi cùng điện tử đó
sẽ hành xử giống như sóng và đôi khi nó sẽ hành xử
như một lượng, như một hạt. Bây giờ hai điều này là
không thể được, chúng là phi Euclid và phi Aristotle -
cứ dường như những điện tử này không tin vào Euclid
và Aristotle. Chúng đang làm gì? Chúng chưa bao giờ
biết tới Euclid sao?
Đó là hình học đơn giản, chúng ta tất cả đều đã
học ở trong trường phổ thông - rằng điểm không thể
là đường thẳng và đường thẳng không thể là điểm
được. Đường thẳng là nhiều điểm được đặt cùng nhau
theo trình tự, cho nên một điểm không thể hành xử
như một đường được, bằng không thì toàn thể hình
học sẽ bị rối loạn. Bạn đặt một điểm và bạn đi vào
buồng tắm, bạn quay lại và nó đã trở thành một
đường! Thế thì bạn sẽ làm gì?
Nhưng điều này đích xác là điều đang xảy ra
trong cốt lõi bên trong nhất của vật chất đấy. Bạn cứ
quan sát và nó trông giống như một điểm rồi bất thần
nó là đường thẳng. Và cú nhảy lại tới mức bạn chẳng
thấy nó phát triển thành đường.
Trong khoảng thời gian này nó là điểm, trong
khoảng thời gian khác nó là đường - thậm chí không
lớn lên thành đường, chỉ một cú nhảy... bất thần thế,
phi logic thế. Nếu nó phát triển dần, chúng ta có thể
hiểu điều đó nữa: có thể nó giống như hạt mầm, đâm
chồi và trở thành cái cây. Được đấy, chúng ta có thể
hiểu. Trong khoảnh khắc thời gian này nó là hạt mầm
trong khoảnh khắc thời gian khác nó phát triển, dần
dần và dần dần, tuần tự, và trở thành cái cây. Chúng
ta có thể hiểu được.
Nếu một điểm dần dần trở thành đường, chúng ta
sẽ có khả năng hiểu. Nhưng bất thần sao? Và không
chỉ bất thần, thậm chí điều phi logic hơn là thế này:
rằng hai người quan sát trong cùng một khoảnh khắc
thời gian, đồng thời có thể quan sát - người này có thể
quan sát nó là điểm còn người kia có thể quan sát nó
là đường. Bây giờ phải làm gì? Người quan sát này
thấy nó như hạt mầm và người quan sát khác thấy nó
như cái cây? Trong một khoảnh khắc thời gian.
Toàn thể khoa học phương tây đã phát triển lên từ
logic Hi Lạp. Những điện tử này đang nổi loạn chống
lại Aristotle, và không có cách nào đưa chúng về lẽ
phải. Các nhà khoa học đã cố gắng theo nhiều cách,
bởi vì tâm trí có khuynh hướng níu bám lấy các khái niệm, hình mẫu của riêng nó. Không dễ dàng thế để
thảnh thơi và buông xuôi theo những điện tử ngu xuẩn
này.
Trong gần hai, ba thập kỉ, các nhà khoa học đã
phân vân và họ đã cố gắng tìm ra cách nào đó để giải
thích điều đó, hay ít nhất để thanh minh điều đó, tại
sao nó lại xảy ra. Nhưng cuối cùng họ phải nhường
bước cho sự kiện và họ chấp nhận nó. Do đó mới có lí
thuyết về vật lí lượng tử.
Lượng tử: chính từ này đã được phát minh ra; nó
chưa bao giờ tồn tại trước đây bởi vì con người chưa
bao giờ bắt gặp một hiện tượng phi lí như vậy. Lượng
tử nghĩa là điểm và đường cùng nhau, đồng thời.
Lượng tử nghĩa là hạt và sóng cùng nhau, đồng thời.
Chúng ta phải tìm ra cái tên cho điều gì đó tuyệt đối
phi logic và chúng ta không có kí hiệu cho nó.
Và khi mọi người hỏi nhà khoa học, 'Các ông giải
thích điều đó thế nào? - nó là phi logic,' họ nói, ‘Nó
phi logic đấy nhưng nó là thế và chúng tôi không thể
làm được gì cả. Chúng tôi phải nghe theo thực tại.
Nếu thực tại là phi logic, thế thì cái gì đó phải sai với
logic của chúng ta, có vậy thôi. Chúng ta có thể thay
đổi logic, nhưng chúng ta không thể thay đổi được
thực tại.'
Đó là điều đã xảy ra khi Phật vào thế giới này.
Ông ấy đã đi vào cốt lõi bên trong nhất của cái gọi là
cái ta, cả bạn và ông ấy cũng phân vân - phải làm gì
đây? Không có cái ta, và có hoá thân. Bây giờ nếu
ông ấy mà không thực là khoa học vĩ đại như vậy, và
nếu ông ấy chỉ là một triết gia bình thường, thế thì
ông ấy chắc đã quên rồi; ông ấy chắc đã không nói về
sự kiện này chút nào - ông ấy chắc đã chọn lựa. Việc
chọn lựa là đơn giản: hoặc bạn nói không có hoá thân
bởi vì không có cái ta...
Đó là điều những người không tin vào linh hồn
bao giờ cũng nói. Những người vô thần, charvakas,
họ bao giờ cũng nói rằng không có cái ta - khi bạn
chết bạn đơn giản chết, chẳng cái gì còn sống, và
không có tái sinh. Điều đó là đơn giản, logic. Hay có
những người theo điều vĩnh hằng, những người hữu
thần, những người tin vào cái ta. Họ nói rằng bạn chết
nhưng chỉ thân thể chết thôi; cái ta của bạn, trung tâm
của bạn vẫn tồn tại. Linh hồn của bạn, atma của bạn
vẫn còn tồn tại; nó là vĩnh hằng. Điều đó nữa cũng
mang tính logic.
Phật rất phi logic và ông ấy là phi logic bởi vì sự
khẳng định của ông ấy không đi ngược lại thực tại là
tuyệt đối. Nhấn mạnh của ông ấy là thế này: rằng bất
kì cái gì thực tại để lộ ra thì chúng ta đều phải nghe
theo nó. Chúng ta không ở đây để áp đặt mộng tưởng
riêng của mình lên nó. Chúng ta là ai?
Nếu đây là sự kiện, thế thì cái gì đó sai trong logic
của chúng ta, trong ngôn ngữ của chúng ta, trong
chính cách nghĩ của chúng ta. Chúng ta phải thay đổi
điều đó chứ không phải là tránh né thực tại, trốn chạy
khỏi thực tại. Cho nên ông ấy dường như là nhà tư
tưởng ngớ ngẩn nhất trên thế giới, bởi vì đây là một
trong những phát biểu ngớ ngẩn nhất - rằng bạn
không tồn tại nhưng bạn được tái sinh.
Bạn có thể thấy điều đó một cách rõ ràng, nó là
ngớ ngẩn. Nếu bạn không tồn tại, làm sao bạn có thể
được tái sinh? Và ông ấy nói, 'Điều đó ta không biết. 

Ông không tồn tại và ông được tái sinh - điều đó thì ta
biết, điều đó ta đã đi tới biết, điều đó ta đã thấy. Và
nếu ông muốn thấy điều đó, thiền đi. Đi sâu hơn vào
trong bản thể mình như ta đã đi vào bản thể ta và ông
cũng sẽ bị phân vân, lẫn lộn rất nhiều. Nhưng dần dần
ông sẽ lắng đọng với thực tại. Và thế rồi ông sẽ thay
đổi toàn thể ngôn ngữ của mình.'
Phật đã thay đổi toàn thể ngôn ngữ, toàn thể
phong cách triết lí. Chưa bao giờ có một con người
độc đáo đến như vậy trước đây. Gần như không thể
nào hiểu nổi ông ấy bởi vì ông ấy không nói theo
cùng ngôn ngữ như bạn nói, và ông ấy đã đem tới
những tầm nhìn mới nào đó vào trong thế giới này.
Người không tin vào linh hồn là rất cổ, chẳng có
gì mới trong điều đó. Marx chẳng nói điều gì mới cả.
Trong hàng nghìn năm đã từng có những người vô
thần, người phủ nhận linh hồn, người phủ nhận tái
sinh. Cả Mahavira lẫn Patanjali đều không nói điều gì
mới, bởi vì bao giờ cũng có những người đã tin vào
linh hồn và hoá thân.
Phật đang đem tới một tầm nhìn mới, rất độc đáo.
Ông ấy nói: không có linh hồn và vậy mà vẫn có hoá
thân. Đó là bước nhảy lượng tử.
Cho nên khi tôi nói rằng ông ấy là nhà khoa học,
tôi ngụ ý điều đó. Và nếu bạn hiểu ngôn ngữ của vật lí
hiện đại, bạn sẽ có khả năng hiểu Phật. Thực tế, hiểu
Phật mà không hiểu vật lí hiện đại là không thể được.
Lần đầu tiên, vật lí hiện đại đã đưa ra điều tương
đương. Heisenberg, Planck, và Einstein, họ đã đưa ra
điều tương đương. Vật chất đã biến mất; chỉ có năng
lượng, không có cái ta trong nó, không có chất liệu
trong nó. Và điều Phật nói là hệt như vậy: anatta, vô
ngã.
'Làm sao điều này khớp được với sự kiện khoa
học?' Nó khớp hoàn hảo đấy chứ. Thực tế, khi
Nirgrantha hỏi làm sao nó khớp với sự kiện khoa học,
ý của anh ấy về khoa học là khoa học thế kỉ thứ mười
chín; anh ấy không nhận biết về khoa học hiện đại,
anh ấy không nhận biết về những phát triển mới nhất.
Ý của anh ấy về khoa học là rất chính thống, rất cổ
hủ, lạc hậu rồi. Khoa học đã thay đổi nhiều lắm rồi.
Nếu Newton quay lại, ông ấy sẽ không có khả
năng hiểu được khoa học chút nào, bởi vì khoa học đã
thay đổi nhanh thế, và sáng suốt của nó đã trở thành
thách đố tới mức các nhà khoa học đang nói như các
nhà siêu hình, các nhà huyền môn. Bây giờ họ không
nói như các nhà toán học, họ đang nói như các nhà
huyền môn và nhà thơ.
'Tôi hiểu mông lung rằng có thể cái vô hình dạng
vẫn còn.' Không, bạn sẽ không có khả năng hiểu được
nó về mặt trí tuệ, bởi vì cái vô hình dạng của bạn sẽ
lại có hình dạng nào đó. Làm sao bạn có thể quan
niệm được về cái vô hình dạng? Từ này thì được,
nhưng khoảnh khắc bạn cố gắng quan niệm cái vô
hình dạng, lập tức nó bắt đầu lấy một hình dạng - bởi
vì chỉ hình dạng mới có thể được quan niệm; cái vô
hình dạng không thể được quan niệm. Nó là từ trống
rỗng.
Bạn có thể cứ gọi thượng đế là vô hình dạng,
nhưng bạn không thể quan niệm được điều đó. Và bất
kì khi nào những người như Shankara, người nói về
thượng đế vô hình dạng, đi tôn thờ, họ đều đi tôn thờ trước một hình dạng. Thế rồi họ bắt đầu ca bài Bhaj
Govindam Moodhamate. Thế rồi lại có tượng, nghi lễ,
thượng đế nam, thượng đế nữ, một hình dạng.
Ngay cả một người như Shankara cũng cứ nói mãi
về cái vô hình dạng, vô thuộc tính - nirgun - nhưng
việc tôn thờ của ông ấy, lời nguyện của ông ấy, là về
sagun - có thuộc tính, có hình dạng - bởi vì không thể
nào quan niệm nổi cái vô hình dạng. Việc quan niệm
chỉ là về hình dạng thôi; hay về bất kì cái gì bạn có
thể quan niệm, bằng chính khả năng của việc được
quan niệm của nó, nó sẽ lấy một hình dạng. Cho nên
đấy chỉ là một ý tưởng mông lung.
Nirgrantha nói, 'Tôi hiểu mông lung rằng có thể
cái vô hình dạng vẫn còn.'
Không, đấy không phải là vấn đề hiểu mông lung
đâu. Về mặt trí tuệ thì không có cách nào cả. Cách
duy nhất chỉ là mang tính thiền, tính tồn tại. Bạn
không hình dung ra nó qua trí tuệ, bạn đơn giản đi
nhiều hơn vào thiền, mở ra chiều hướng mới cho tầm
nhìn. Không ai đã nhấn mạnh vào thiền nhiều như
Phật. Toàn thể phương pháp của ông ấy là thiền.
Và thiền là gì? Thiền là dần dần trở nên vô ý nghĩ;
không rơi vào giấc ngủ - vẫn còn tỉnh táo và vậy mà
trở nên vô ý nghĩ. Một khi ý nghĩ biến mất, mọi thứ
đều trong như pha lê - rằng người nghĩ chỉ là sản
phẩm phụ của các ý nghĩ di chuyển. Nó là một đống
các ý nghĩ và không gì khác. Nó không có sự tồn tại
tách biệt.
Thế rồi bạn bước đi, nhưng người bước lại không
có đó nữa; thế rồi bạn ăn, nhưng người ăn không còn
có đó nữa; thế rồi bạn ngủ, nhưng người ngủ không
còn có đó nữa; thế rồi bạn sống, nhưng không có ai
đang sống cả; thế rồi bạn chết, và không có ai đang
chết cả.
Bạn chỉ là không gian thuần khiết trong đó hàng
triệu quá trình tồn tại, trong đó cuộc sống tuôn chảy
với tất cả những quá trình của nó và bạn vẫn còn
không bị biến chất bởi nó. Bạn giống như bầu trời
mở... mây tới và đi.
Một trong những cái tên hay nhất được đặt cho
Phật là Như Lai - Tathagata. Nó có nghĩa là 'tới vậy,
đi vậy'. Không có người nào tới và không có người
nào đi cả - chỉ việc tới và việc đi thôi. Đó là nghĩa của
Tathagata - chỉ là quá trình tới và quá trình đi; không
có người nào đã tới và không có người nào đã đi.
Các Thiền sư bao giờ cũng nói rằng người này
chưa bao giờ tồn tại cả, người có tên là Phật Gautam
chưa bao giờ tồn tại cả. Vâng, ông ấy chắc chắn đã
tới, và ông ấy cũng đã đi, nhưng ông ấy chưa bao giờ
tồn tại. Điều đó cũng giống như quá trình mơ. Giấc
mơ tới và đi và đến sáng bạn biết nó chưa bao giờ tồn
tại cả.
Một khi bạn hiểu bản thân mình như không gian
thuần khiết và nhiều điều xảy ra, bạn trở thành tách
rời. Thế thì bạn trở thành vô sợ hãi, bởi vì không có gì
để mất cả, không có ai để mất cái gì cả. Thế thì bạn
không còn đầy những thèm khát cuộc sống, bởi vì bạn
không quan niệm về cái ta nào. Thế thì bạn không sợ
chết và bạn không trong thèm khát cuộc sống. Thế thì
bạn không nghĩ về quá khứ và thế thì bạn không
phóng chiếu tương lai. Thế thì bạn đơn giản hiện hữu - thuần khiết như bầu trời bao la bên ngoài; bạn cũng
trở thành bầu trời thuần khiết bên trong. Và sự gặp gỡ
của hai bầu trời này, cái bên trong và cái bên ngoài, là
điều Phật gọi là niết bàn.
'Tôi hiểu mông lung rằng có thể cái vô hình dạng
vẫn còn, nhưng cái đó có một thực thể cá nhân
không?'
Không, nó không có thực thể cá nhân nào cả.
'Cùng con sóng đó không được tái sinh.' Đúng.
Thực tế, nếu bạn quan sát kĩ hơn - đi tới dòng sông
hay đại dương và quan sát sóng; bạn sẽ ngạc nhiên
khi thấy cái gì đó mới mẻ mà bạn chưa bao giờ nghĩ
tới trước đây. Khi bạn thấy một con sóng xô tới mình,
chẳng cái gì tới cả, sóng chưa bao giờ đi tới bạn. Bạn
thấy nó chuyển động về phía bạn; nó không chuyển
động đâu. Con sóng này đơn giản giúp con sóng kia
dâng lên bên cạnh. Con sóng kia giúp con sóng khác
dâng lên. Nhưng điều đó xảy ra nhanh tới mức nó tạo
ra ảo giác, ảo tưởng - bạn nghĩ cùng con sóng đang đi
tới bạn. Chẳng cái gì đi tới bạn cả.
Khi con sóng này nảy sinh, bởi tác động của con
sóng đó mà con sóng khác nảy sinh; chỉ trong lân cận
gần gũi, là con sóng khác. Bởi lực của con sóng thứ
nhất, có con sóng thứ hai; bởi lực của con sóng thứ
hai, có con sóng thứ ba; bởi lực của con sóng thứ ba,
có con sóng thứ tư - đó là cách thức sóng nảy sinh.
Nhưng chúng cho ảo tưởng cứ dường như cùng một
con sóng đang đi tới bạn. Chúng chưa bao giờ tới cả.
Khi bạn thấy một con sóng nảy sinh ở phía xa trên
đường chân trời, nó vẫn còn ở đó; nó chưa bao giờ tới
bạn cả.
Điều đó có thể xảy ra: bạn có thể thả một mẩu gỗ
ở ngay giữa dòng sông: mẩu gỗ đó sẽ đi tới bạn,
nhưng đừng bị lừa dối bởi điều đó - sóng không tới
đâu. Khi con sóng này đi lên cao, mẩu gỗ đó chuyển
sang con sóng khác; con sóng khác đi lên cao, nó đi
cùng con sóng thứ ba. Với các con sóng lên cao và
xuống thấp mẩu gỗ đi tới bờ, nhưng sóng chẳng bao
giờ tới. Đây là sự kiện khoa học. Chúng chỉ có vẻ là
đang tới thôi.
Đúng, chính xác, đó là điều Phật đang nói. 'Cùng
con sóng đó không được tái sinh.' Ông ấy không nói
bạn sẽ được tái sinh, ông ấy đơn giản nói có việc tái
sinh.
Nhưng theo một cách nào đó chúng ta có thể nói
bạn sẽ được sinh ra, bởi vì nó sẽ là sự liên tục. Cùng
con sóng đó: sóng A tạo ra sóng B, sóng B tạo ra sóng
C - nó là sự liên tục; sự liên tục là từ đúng. Điều đó
nữa cũng tới từ vật lí hiện đại: sự liên tục.
Phật gọi nó là santati. Cũng như đứa trẻ được sinh
ra cho bạn: nó là bạn theo cách nào đó, và vậy mà lại
không phải là bạn, không toàn bộ là bạn. Nó sẽ có cá
tính riêng của mình, nhưng bạn tạo ra con sóng.
Chính năng lượng của người cha và người mẹ tạo ra
con sóng mới. Con sóng này sẽ đi - người cha có thể
chết, người mẹ có thể chết - con sóng này sẽ tiếp tục,
và con sóng này sẽ tạo ra con sóng khác theo cách
riêng của nó, vào thời riêng của nó.
Santati, sự liên tục. Bạn không được sinh ra, chỉ
ham muốn của bạn là lại được sinh ra lần nữa; bởi vì
bạn không hiện hữu, cho nên bạn không thể được sinh
ra. Do đó, Phật nói, nếu bạn vứt bỏ việc ham muốn bạn sẽ không bao giờ được sinh ra nữa. Do đó, nếu
bạn hiểu toàn thể cái vô tích sự của ham muốn và bạn
dừng việc ham muốn, bạn vứt bỏ việc ham muốn, thế
thì sẽ không có việc sinh cho bạn.
Thế thì, đầu tiên bạn trở thành một dự lưu, bạn đi
vào trong dòng chảy, bạn bắt đầu hiểu cách mọi sự
đang đấy, mọi thứ là gì: cuộc sống diễn ra mà không
có cái ta. Đây là điều ông ấy ngụ ý bởi việc trở thành
một dự lưu, đi vào dòng chảy: đi vào trong ý tưởng về
dòng chảy - rằng cuộc sống cũng tựa như dòng sông,
không tĩnh tại mà năng động; không có vật mà chỉ có
các biến cố; thuyết động lực học, một hiện tượng năng
lượng.
Thế rồi, dần dần, khi bạn đi sâu hơn vào trong
luồng chảy này bạn trở thành một nhất hoàn - bạn sẽ
được sinh ra chỉ một lần nữa thôi. Bạn hiểu, nhưng
dầu vậy việc hiểu của bạn là không toàn bộ. Thế thì
bạn trở thành một bất hoàn - bạn sẽ không được sinh
ra lần nữa. Bạn đã hiểu toàn thể hiện tượng này.
Trong chính việc hiểu đó bạn được giải thoát.
Bằng việc trở nên có khả năng không được sinh ra
nữa, bạn trở thành một a la hán - người đã đạt tới,
người đã về tới. Bây giờ tôi đang dùng ngôn ngữ
không phải của Phật giáo, cho nên hãy nhận biết. Tôi
phải dùng ngôn ngữ không phải của Phật giáo, cho
nên tôi dùng các thuật ngữ - tôi nói, 'người đã đạt tới'.
Bây giờ, không có cách nào khác để nói điều đó,
nhưng bạn phải hiểu: khi tôi nói 'người đã đạt tới', thì
không có 'người', chỉ có 'đạt tới'... chỉ có 'việc đạt tới',
thậm chí không có 'sự đạt tới'.
Tầm nhìn của Phật là rất mang tính tồn tại và
không có gì mang tính giải thoát như tầm nhìn của
Phật. Bởi vì nếu bạn tin vào linh hồn thì bạn có thể bỏ
lại thế giới này, nhưng thế thì bạn sẽ ham muốn thiên
đường - bởi vì bạn không bỏ lại cái ta của mình. Ham
muốn dịch chuyển vào chiều hướng mới. Bạn vứt bỏ
tham lam, nhưng thực sự bạn không vứt bỏ nó - tham
lam tinh vi nảy sinh.
Nhìn thiên đường của người Mô ha mét giáo hay
người Ki tô giáo hay người Hindu giáo mà xem. Nó
trông trần tục thế, báng bổ thế. Bởi vì bất kì cái gì
những tôn giáo này đang bảo bạn vứt bỏ ở đây, thì lại
được cung cấp ở đó, và với khối lượng dồi dào. Họ
nói, 'Đừng uống rượu!' và trong thiên đường của
người Mô ha mét giáo, firdaus, sông rượu lại có đó.
Không có nhu cầu mua hay tậu, không có nhu cầu
mang giấy phép; bạn chỉ có việc nhảy vào thôi. Bạn
có thể tắm, bạn có thể bơi. Bây giờ, đây là cái gì?
Trong các quốc gia Hồi giáo, đồng dục đã từng rất
phổ biến, cho nên ngay cả điều đó cũng được chu cấp.
Không chỉ đàn bà đẹp có đó, mà cả con trai đẹp cũng
được cung cấp. Bây giờ điều này có vẻ xấu, nhưng
đấy là tâm trí người thường mà...
Bầt kì cái gì bạn đang vứt bỏ ở đây, bạn đang vứt
bỏ chỉ để được nhiều hơn - đây là logic đó.
Đàn bà đẹp - apsaras người Hindus gọi họ vậy,
hoors người Hồi giáo gọi họ vậy... và không chỉ hoors
mà còn gilmes, con trai đẹp, con trai điển trai cũng có
sẵn, bởi vì vài người đồng dục sẽ tới; họ sẽ làm gì? 

Phật nói chừng nào bạn còn chưa vứt bỏ cái ta,
bạn sẽ cứ duy trì mãi cùng cái điều vô nghĩa lặp đi lặp
lại. Cõi trời của bạn sẽ chẳng là gì ngoài thế giới này
được phóng chiếu - vẫn cùng thế giới này nhưng được
sửa đổi đi, được làm cho đẹp hơn, được trang trí hơn.
Ở đây trên trái đất này đàn bà đều phải già đi, trở nên
già đi. Trong thiên đường, trong thiên đường của
người Hindu, họ chẳng bao giờ trở nên già; họ bị kẹt
lại ở tuổi mười sáu. Họ phải cảm thấy rất chán ngán -
ở tuổi mười sáu; họ chẳng bao giờ lớn lên ra ngoài
điều đó.
Thực tế, đó là ham muốn của mọi đàn bà - được
kẹt lại ở tuổi mười sáu. Điều đó chẳng bao giờ xảy ra
ở đây cả, nhưng ở kia... Sau mười sáu tuổi đàn bà lớn
lên rất miễn cưỡng: trong ba, bốn năm, chỉ một lần
ngày sinh của họ tới. Rất miễn cưỡng... Nhưng đó đã
là ham muốn đấy - làm cho cái đẹp thành vĩnh viễn.
Ở đây điều đó là không thể được. Ngay cả với
mọi thứ đồ vật khoa học, dụng cụ, phương pháp làm
đẹp, phẫu thuật tạo hình, thế này thế nọ, ngay cả thế
thì điều đó vẫn không thể được. Người ta phải già đi.
Trong thiên đường - Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki
tô giáo, Do Thái giáo - phép màu đó đã xảy ra:
thượng đế đã chuẩn bị vườn cõi trời có tường bao cho
bạn rồi. Ông ấy đang đợi. Nếu bạn đức hạnh, nếu bạn
vâng lời ông ấy, bạn sẽ được thưởng nhiều vô cùng;
nếu bạn không vâng lời, thế thì có địa ngục.
Cho nên cái ta tồn tại ở đây như trung tâm của
ham muốn và thượng đế tồn tại như trung tâm của
việc đáp ứng cho ham muốn đó. Phật nói cả hai đều
không có, bỏ cả hai đi; thượng đế không có mà cái ta
cũng không có. Nhìn vào thực tại, đừng đi vào trong
ham muốn. Vứt những tưởng tượng đi, chấm dứt việc
mơ và nhìn vào cái đang đấy. Và ông ấy nói chỉ có thế
giới vô thường này của các quá trình mà thôi - thế
giới tựa như luồng chảy này, cơn lốc xoáy của thực
tại... mọi thứ đều vô thường và thay đổi, chẳng cái gì
thường hằng cả.
Đó là nghĩa của nhấn mạnh của ông ấy rằng
không có cái ta, bởi vì bạn đang cố gắng làm cho cái
gì đó trong bạn thành thường hằng. Bạn nói, thân thể
thay đổi, được; thế giới này thay đổi, được. Mối quan
hệ thay đổi, trở nên mục ruỗng, được thôi - nhưng cái
ta, cái ta là vĩnh hằng. Vâng, thế giới thấy được này
thay đổi - nhưng thượng đế vô hình, ông ấy là vĩnh
hằng. Bạn muốn cái gì đó vĩnh hằng một cách liều
lĩnh tới mức bạn bắt đầu tin vào nó. Chính ham muốn
của bạn là cái vĩnh hằng phải có đó.
Phật nói không có gì vĩnh hằng cả. Mọi thứ đều
vô thường, mọi thứ đều trong luồng chảy. Hiểu điều
này, và chính hiểu biết này sẽ giải thoát bạn.
Nhớ lấy, khi người khác nói về giải thoát, họ nói
về giải thoát vì cái ta. Khi Phật nói về giải thoát, ông
ấy nói về giải thoát khỏi cái ta. Và đó là quan điểm
triệt để vô cùng. Không phải là bạn sẽ được giải thoát,
mà bạn được giải thoát khỏi bạn.
Tự do duy nhất mà Phật nói là tự do thực khỏi
bạn. Bằng không tâm trí bạn sẽ cứ chơi trò chơi. Nó
sẽ cứ vẽ ra những ham muốn mới trên vải vẽ mới.
Chẳng cái gì sẽ thay đổi cả. Vải vẽ bạn có thể thay đổi
được. Bạn có thể trốn khỏi bãi chợ và ngồi trong đền
chùa - chẳng cái gì sẽ thay đổi, tâm trí bạn sẽ phóng chiếu cùng những ham muốn đó lên trời và thiên
đường.
Nhìn vào tâm trí này. Nhìn vào ham muốn của nó.
Quan sát, trở nên nhận biết đi. Tôi sẽ phải nhắc nhở
bạn lặp đi lặp lại, bởi vì tôi đang nói trong ngôn ngữ
phi Phật giáo. Cho nên khi Phật nói trở nên nhận biết,
ông ấy ngụ ý: là việc nhận biết. Không có ai để trở
nên nhận biết cả, chỉ có việc nhận biết.
Vâng, bạn sẽ không bao giờ được sinh ra lần nữa
đâu, nhưng nếu bạn còn mang ý tưởng rằng bạn có,
thế thì bạn sẽ vẫn còn trong sự liên tục đấy. Nếu bạn
vứt bỏ ý tưởng về cái ta, sự liên tục biến mất; bạn bay
hơi.
Đó chính là niết bàn là gì. Cũng như bạn thổi tắt
đèn và ánh sáng dừng lại, biến mất, bạn tắt tâm trí
ham muốn của mình đi và tất cả mọi khổ, và tất cả
mọi luân hồi, và mọi đau khổ, đều dừng lại. Bỗng
nhiên, bạn không có đó.
Nhưng điều đó không có nghĩa là không có gì cả,
bằng không thì sẽ chẳng có gì khác biệt giữa một
charvak và một Phật tử, thế thì sẽ không có gì khác
biệt giữa người vô thần và Phật. Có khác biệt vô cùng
đấy. Ông ấy nói bạn dừng lại và lần đầu tiên thực tại
tiếp quản. Nhưng ông ấy không bao giờ cho nó cái tên
nào, bởi vì việc đặt tên là không thể được - đặt tên
cho nó là làm sai nó đi. Nói nó ra là làm không thật nó
rồi. Ông ấy giữ im lặng, tuyệt đối im lặng về điều đó.
Ông ấy chỉ ra cách thức để kinh nghiệm nó. Ông ấy
không thêu và dệt triết lí quanh nó.
Câu hỏi thứ hai
Thầy đã nói cho chúng tôi nhiều lần: vị kỉ đi. Vị kỉ
là gì vậy?
Vứt bỏ cái ngã đi. Bởi vì đó là điều đẹp nhất có
thể xảy ra cho bạn. Đó sẽ là hài lòng lớn lao nhất có
thể tới với bạn.
Vứt bỏ cái ngã đi, nếu bạn thực sự vị kỉ. Nếu bạn
thực sự muốn là phúc lạc, vứt bỏ cái ngã đi - bởi vì
cái ngã đang tạo ra đủ mọi khổ của bạn và mọi địa
ngục của bạn.
Khó đấy, bởi vì điều đó cũng tựa như điều ngược
đời. Nhưng bạn có quan sát không? Mọi khổ tới bạn
bởi vì cái ngã của bạn, bởi vì bản ngã của bạn. Bạn cứ
bị tổn thương lặp đi lặp lại, bạn đau khổ nhiều bởi vì
bản ngã. Nó giống như vết thương bao giờ cũng còn
đau, và bất kì cái gì, ngay cả một cơn gió thoảng, một
cơn gió mát, cũng làm đau bạn. Ai đó mỉm cười và
điều đó gây đau, ai đó cười to và điều đó gây đau, ai
đó đang đi theo cách của mình, có thể bị lạc trong ý
nghĩ riêng của người đó, không nhìn vào bạn, và thế
thì điều đó gây đau.
Mulla Nasruddin nói với vợ mình, 'Đừng làm anh
bực mình thêm nữa! Em đang chọc giận anh đấy!' Và
anh ta thực sự phát điên. 

Chị vợ nói, 'Nhưng em có nói gì đâu. Em làm việc
của em mà.'
Mulla nói, 'Đấy là lí do tại sao. Em cứ im lặng
thế, điều đó gây bực mình. Vì Chúa, em nói điều gì đó
đi!'
Bây giờ, nếu bạn giữ im lặng, thế nữa ai đó cũng
có thể bị bực mình. Nếu bạn nói, thế thì có rắc rối.
Bản ngã sẵn sàng bị tổn thương; nó sẽ tìm cách thức
và phương tiện để bị tổn thương. Cho nên người sống
với bản ngã, với cái ngã, không thực sự là người vị kỉ
đâu, người đó là người ngu. Bởi vì người đó chỉ đau
khổ. Đây là cái kiểu vị kỉ phi vị kỉ gì vậy, nếu bạn chỉ
đau khổ?
Tôi chỉ cho bạn cách thức: vứt bỏ bản ngã đi.
Quên hết về bản ngã đi. Hiện hữu dường như bạn
không có, tồn tại như cái trống rỗng, và nhìn xem -
hàng triệu kinh nghiệm đẹp trở thành sẵn có cho bạn.
Mọi thứ đều trở thành kinh nghiệm sâu sắc, thoả mãn.
Mọi thứ đều đem tới món quà, ân huệ. Mọi thứ đều
trở thành phúc lành.
Bản ngã bao giờ cũng mong đợi và do đó bao giờ
cũng bị thất vọng. Người không bản ngã không mong
đợi điều gì, do đó mọi thứ đều đáp ứng; bất kì cái gì
xảy ra đều rất tốt, bất kì cái gì xảy ra đều vô cùng
trọng đại. Ngay cả người đó bắt gặp một bông hoa cỏ
nhỏ, người đó cũng bị thôi miên bởi nó. 'Bông hoa
đẹp thế! Mà mình chưa làm được gì cả, mình không
xứng với nó, và nó có đó chỉ để chờ đợi mình.' Chỉ
nhìn lên trời thôi, và người đó được đáp ứng. Chỉ
nghe chim chóc thôi, và bài ca vĩ đại nảy sinh trong
tim người đó. Thế thì mọi thứ đều đáp ứng cho người
đó.
Nhớ lấy, thất vọng bắt nguồn từ mong đợi, và bản
ngã bao giờ cũng mong đợi. Bản ngã là kẻ ăn xin.
Tôi đã nghe một câu chuyện Sufi hay.
Một người ăn xin tới gặp hoàng đế và người ăn
xin nói, 'Nếu bệ hạ định cho ta bất kì cái gì thì có một
điều kiện đấy.' Hoàng đế đã gặp nhiều người ăn xin -
nhưng người ăn xin với điều kiện sao? Và người ăn
xin này mới thực sự kì lạ, một người rất mạnh mẽ.
Ông ta là nhà huyền môn Sufi. Ông ta có duyên dáng,
sức lôi cuốn, cá tính của ông ta có hào quang. Ngay
cả hoàng đế cũng cảm thấy chút ít ghen tị. Và điều
kiện sao?!
Hoàng đế nói, 'Ông ngụ ý gì? Ông ngụ ý gì bởi
điều kiện của ông?'
Người ăn xin nói, 'Đây là điều kiện của ta: ta chỉ
chấp nhận nếu bệ hạ có thể rót đầy bình bát ăn xin của
ta một cách tuyệt đối.'
Đó là cái bình bát ăn xin nhỏ. Nhà vua nói, 'Ông
cho ta là cái gì vậy? Ta là kẻ ăn xin sao? Ta không thể
rót đầy cái bình bát ăn xin nhỏ bé bẩn thỉu này sao?'
Người ăn xin nói, 'Cứ phải nói trước với bệ hạ thì
tốt hơn, bởi vì về sau bệ hạ có thể lâm vào rắc rối.
Nếu bệ hạ cho rằng bệ hạ có thể rót đầy, thì rót đi.' 

Nhà vua gọi viên tể tướng tới và bảo ông ta rót
đầy nó bằng đá quí: bằng kim cương và ngọc bích,
ngọc lục. Để cho người ăn xin này biết anh ta đang
nói với ai! Nhưng thế rồi có khó khăn. Bình bát được
rót vào nhưng nhà vua ngạc nhiên - khi viên đá quí rơi
vào trong nó, đá biến mất. Nó được đổ vào nhiều lần
và lần nào nó cũng lại thành trống rỗng. Bây giờ nhà
vua bắt đầu khùng, nhưng ông ta bảo tể tướng, 'Cho
dù toàn thể vương quốc của ta có mất đi, nếu tất cả
các kho bạc của ta có bị trống rỗng, thì cứ để chúng
như vậy đi - nhưng ta không thể cho phép kẻ ăn xin
này đánh bại ta. Điều này là quá đáng.'
Và tất cả các kho bạc, chuyện kể rằng, đều biến
mất. Dần dần nhà vua trở thành kẻ ăn xin. Điều đó
phải mất nhiều tháng. Và người ăn xin vẫn có đó và
nhà vua có đó và toàn thể kinh đô có đó và mọi người
đều tự hỏi cái gì đã xảy ra, cái gì sẽ xảy ra vào lúc
cuối. Mọi thứ đơn giản biến mất.
Cuối cùng nhà vua phải sụp xuống dưới chân
người ăn xin và nhà vua nói, 'Tha thứ cho ta, nhưng
trước khi ông ra đi, nói cho ta một điều. Bí mật của
chiếc bình bát này là gì? Tất cả đều biến mất trong
nó.'
Người ăn xin bắt đầu cười to. Ông ta nói, 'Nó
được làm bằng bản ngã con người đấy. Ta đã làm ra
bình bát ăn xin này bằng bản ngã của con người: mọi
thứ đều biến mất trong nó, chẳng cái gì đã bao giờ
hoàn thành nó cả.'
Đó là câu chuyện cực kì hay. Đó là điều đang xảy
ra cho bạn. Nó không phải là câu chuyện, nó là cuộc
sống của bạn. Bạn cứ cho vào trong bình bát ăn xin
của mình nào nhà cửa, xe cộ, số dư ngân hàng - mọi
thứ đều biến mất. Bạn lại trống rỗng. Chẳng bao giờ
có thoả mãn nào, chẳng bao giờ có mãn nguyện nào.
Bạn lại ăn xin. Bạn đã từng làm điều đó trong nhiều
kiếp. Đó là câu chuyện của bạn. Nó đúng về từng câu
chữ, nó không chỉ là đúng về mặt biểu tượng đâu. Nó
là chân lí trong cuộc sống của mọi người, trong cuộc
sống của mọi con người.
Chúng ta vẫn còn là kẻ ăn xin. Bình bắt ăn xin
vẫn còn trống rỗng. Dường như nó là cái bình không
đáy. Bạn thả vào trong nó bất kì cái gì, cái đó đơn
giản biến mất.
Bản ngã không bao giờ được thoả mãn. Cho nên
người bản ngã là người rất không vị kỉ. Nhớ lấy điều
ngược đời này: người bản ngã là người rất không vị
kỉ, bởi vì người đó không bao giờ được thoả mãn.
Người vô bản ngã là người rất vị kỉ bởi vì người đó
được thoả mãn. Người đó đạt tới phúc lạc.

Câu hỏi thứ ba
Hàng ngày thầy đều tới với tay khoanh lại, mỉm
cười, và cùng cách đó thầy quay về sau bài nói. Ý
nghĩa của cử chỉ này là gì vậy? 

Tôi nói, tới mỉm cười, đi mỉm cười. Đó là ý nghĩa
của như lai - tathagata: vậy tới, vậy đi. Để việc tới và
đi này chỉ là nụ cười, không gì bản chất hơn nụ cười.
Nụ cười là điều phi bản chất nhất trên thế giới. Bạn
không thể bắt giữ được nó; nó tuột đi, nó lảng tránh,
không thể nói ra được. Để cuộc sống của bạn chỉ là nụ
cười. Tới mỉm cười, đi mỉm cười.
Và, tất nhiên, khoanh tay, bằng không thì ai đó có
thể bị tổn thương. Nếu bạn mỉm cười mà tay không
khoanh lại, bản ngã của ai đó có thể bị tổn thương.
Người đó có thể nói, 'Anh ngụ ý gì vậy? Cười tôi
sao?' Cho nên chỉ để bảo vệ để khỏi có bất kì hiểu lầm
nào...
Nhưng đừng cố gắng làm cho nó thành cử chỉ
trống rỗng, bởi vì nụ cười giả dối là một trong những
điều nguy hiểm nhất để học. Đừng bao giờ cười giả
dối, bởi vì một khi bạn bắt đầu mỉm cười giả dối, bạn
sẽ quên mất cách mỉm cười chân thực. Đừng bao giờ
làm biến chất nụ cười của bạn. Bằng không nó chỉ là
việc giả vờ, và là việc giả vờ rất nguy hiểm; không chỉ
bạn đang lừa dối người khác, bạn có thể tự lừa chính
bản thân mình.
Để nụ cười của bạn bắt nguồn từ trống rỗng bên
trong của bạn, để cho nó tới từ chính cốt lõi của cái vô
ngã của bạn và lan toả khắp xung quanh bạn. Để cho
nó giống như bông hoa tới từ chính gốc rễ, nhựa cây
chạy từ rễ tới chính đỉnh và hoa. Để cho nụ cười của
bạn tới từ chính cốt lõi tồn tại đích thực của bạn. Nó
không nên được tô vẽ.
Tôi đã nghe:
Mới đây một người Do Thái mộ đạo và cao tuổi
đã làm cho con mình ngạc nhiên. Họ nghĩ ông ấy đã
cải đạo sang Ki tô giáo, bởi vì ông ấy dường như làm
dấu chữ thập trên mình mọi lúc ông ấy rời khỏi nhà.
'Vớ vẩn!' ông ấy nói khi họ giáp mặt ông ấy. 'Tao
chạm bên phải để chắc tao vẫn có kính, và chạm bên
trái để chắc tao vẫn có khăn mùi soa. Tao đưa tay lên
đầu để chắc mũ tao vẫn trên đầu, và tao chạm cúc áo
để chắc nó đã được cài.'
Dấu chữ thập của bạn có thể giống như điều đó.
Nụ cười của bạn cũng có thể giống như điều đó. Đừng
bao giờ làm những cử chỉ vô tích sự. Chân thực vào.
Ngay cả nỗi buồn chân thực cũng còn tốt hơn nụ cười
giả dối - ít nhất nó cũng còn thực. Nước mắt thực còn
tốt hơn tiếng cười không thực - ít nhất nó cũng thực,
chân thực, nó giúp bạn trưởng thành. Người ta trưởng
thành qua chân thực.
Cho nên tôi không nói học mỉm cười, tôi nói đạt
tới mỉm cười. Tôi không nói học, tôi nói đạt tới, vươn
tới mỉm cười.
Câu hỏi thứ tư
Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu, đôi lúc giống
như cáo, thỉnh thoảng lại giống đệ tử hơn. Có ải yêu hay hiểu biết làm biến đổi người ta
thành đệ tử không?
Đó là một quan sát đúng. Đó là cách mọi người
đang vậy. Câu hỏi này là từ Prem Asheesh. Đó là một
quan sát đích thực. Đó là cách mọi sự đang vậy.
'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu...' Và nếu bạn
giống như cừu, bạn không thể là đệ tử được. Tất nhiên
nhiều cừu nghĩ rằng họ là đệ tử. Nếu điều đó chỉ là vì
nỗi sợ rằng bạn theo tôi, thì bạn theo nỗi sợ của mình
đó, bạn không theo tôi đâu. Tôi không ở đây để làm ra
cừu từ bạn. Xã hội, các chính khách, các tu sĩ đã gây
đủ tai hại rồi - không cần thêm nữa. Bạn đã bị rút gọn
thành kẻ hèn nhát từ nhiều thế kỉ; mọi người đều đã
có đó ép buộc bạn phải là kẻ hèn nhát. Mọi người đều
buộc bạn đi vào sự tồn tại đáng sợ; bạn bao giờ cũng
run rẩy.
Tôi ở đây để giúp bạn vứt bỏ run rẩy này. Không
có gì phải sợ cả bởi vì không có gì để mất cả. Không
có gì phải sợ ngay cả với cái chết, bởi vì không có ai
để chết. Không thiệt hại nào có thể bị gây cho bạn
được. Một khi bạn hiểu điều này, cừu biến mất. Cừu
có thể là tín đồ nhưng không thể là đệ tử được.
Và tín đồ thì không nhất thiết là đệ tử. Tín đồ chỉ
đang tìm cách thức và phương tiện để bảo vệ bản thân
mình, để được an toàn. Tín đồ đang cố gắng đổ trách
nhiệm lên vai ai đó khác. Tín đồ đơn giản cố gắng tìm
ra một nhóm mà người đó có thể bị mất hút và nỗi sợ
riêng của người đó không còn đó nữa, nơi người đó
không một mình. Người đó đơn giản tìm kiếm bạn
đồng hành. Người đó không thể một mình được,
người đó sợ một mình. Người đó không thể tin cậy
được vào bản thân mình. Tín đồ là người không thể
tin cậy được vào bản thân mình.
Đệ tử là người tin cậy vào bản thân mình. Từ tin
cậy của mình người đó đi tới học từ ai đó, người đã đi
xa hơn bản thân người này chút ít. Người đó không
phải là tín đồ, người đó không phải là kẻ bắt chước và
người đó không tìm kiếm an ninh - người đó tìm kiếm
hiểu biết. Cho dù hiểu biết đó đem tới nhiều bất an
hơn, người đó vẫn sẵn sàng cho nó.
Tín đồ không bao giờ sẵn sàng cho bất an cả;
người đó tới guru, tới thầy, để tìm sự bảo vệ, chỗ trú
ngụ, để ẩn nấp đằng sau thầy. Người đó đi tìm kiếm
hình ảnh người bố.
Đệ tử đi tìm thầy, không phải hình ảnh người bố.
Đệ tử muốn học cuộc sống là gì. Cho dù cuộc sống là
bất an, người đó vẫn sẵn sàng học. Cho dù cuộc sống
hàm ý cái chết, người đó vẫn sẵn sàng học.
Tín đồ chỉ muốn có bản đồ. Đệ tử muốn đi tiếp
cuộc phiêu lưu. Đệ tử không lo nghĩ về bản đồ, người
đó đơn giản muốn thách thức. 'Thách thức tôi đi!' đệ
tử nói. 'Kéo tôi ra khỏi trạng thái ngẩn ngơ,' đệ tử nói.
'Đưa tôi vào cuộc mạo hiểm,' đệ tử nói. Tín đồ nói,
'Bảo vệ con, đừng bao giờ để con một mình. Không
có thầy con bị lạc. Đừng bảo con đi đâu! Để con nấp
sau lưng thầy.'
Nhớ lấy, đệ tử là người tìm kiếm, tín đồ đơn giản
ốm yếu với sợ hãi. 

'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu...'
Đấy là những lúc bạn không thể là đệ tử được, ít
nhất cũng không đối với tôi.
'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cáo.' Vâng, cáo
cũng không thể là đệ tử được. Cáo là anh chàng rất
tinh ranh, tính toán, hợp lí hoá. Tâm trí cáo bao giờ
cũng trong tìm kiếm nhiều thông tin hơn, nhiều tri
thức hơn - không nhiều hiểu biết hơn. Tâm trí cáo tóm
giữ bất kì cái gì có thể được bắt giữ từ mọi nguồn để
cho nó trở nên thông thái hơn. Bởi vì tri thức đem tới
sức mạnh.
Cáo đang tìm kiếm quyền lực. Cừu đang tìm kiếm
người mạnh mẽ người có thể bảo vệ, còn cáo đang tìm
kiếm quyền lực. Cáo giả vờ là cừu nhiều lần chỉ để
tóm bắt thêm chút ít từ ai đó, nhưng sâu bên dưới cáo
đang học chỉ mỗi việc trở nên ngày một bản ngã hơn.
Có những người đi tới thầy chỉ để trở thành thầy
chẳng chóng thì chầy - đó là mục đích duy nhất của
họ. Họ không đi tới để học; thực tế, sâu bên dưới họ
đã tới để dạy. Họ học một cách miễn cưỡng, bởi vì
khó mà dạy nếu không học.
Cáo là quá tinh ranh đến mức không khiêm tốn
được. Cáo quá tinh ranh và thông thái và tính toán để
đi vào mối quan hệ sâu hơn với thầy, để đi vào trong
tình yêu. Cừu không thể là đệ tử được bởi vì cừu sợ
hãi quá nhiều; cáo không thể là đệ tử được bởi vì cáo
sâu bên dưới là đang trong cuộc hành trình quyền lực.
Nhưng cả hai điều này đều có đó. Và Asheesh đã
thực sự quan sát nó một cách đúng đắn, đích xác đúng
đắn.
'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu, đôi lúc giống
như cáo, thỉnh thoảng lại giống đệ tử hơn.'
Kì diệu là những khoảnh khắc bạn cảm thấy giống
đệ tử. Nuôi dưỡng chúng. Những khoảnh khắc đó
phải được nuôi dưỡng ngày một nhiều hơn, để cho
dần dần chúng tới với bạn ngày một nhiều hơn, chúng
xảy ra cho bạn ngày một nhiều hơn. Buông xuôi cả
cừu lẫn cáo của bạn cho những khoảnh khắc hiếm hoi
khi bạn là đệ tử.
Đệ tử không sợ hãi, không tìm kiếm quyền lực.
Đệ tử đi tìm việc biết cuộc sống này là gì. Người đó
không muốn chinh phục, người đó không muốn
chứng minh bản thân mình trong thế giới rằng mình là
ai đó, người đó đơn giản muốn biết, 'Tôi là ai?' Người
đó không quan tâm theo bất kì cách nào vào việc
chứng minh, người đó đơn giản muốn biết, 'Bí ẩn này
đang xảy ra quanh tôi là cái gì vậy?' Người đó hỏi
trong khiêm tốn sâu sắc.
Chất vấn của người đó không từ tò mò, chất vấn
của người đó không chỉ là truy tìm, chất vấn của
người đó là chất vấn của người tìm kiếm đích thực,
một mumukshu. Chất vấn của người đó là mumuksha -
ham muốn đam mê để biết cuộc sống là gì. Đệ tử là
người trong tình yêu đam mê với cuộc sống và muốn
biết cuộc sống này là gì, muốn đi vào trong bí ẩn này.
'Có phải tình yêu hay hiểu biết làm biến đổi người
ta thành đệ tử không?' Một mình tình yêu sẽ không
làm bạn thành đệ tử đâu. Hiểu biết một mình cũng sẽ
không làm bạn thành đệ tử. Chính yêu hiểu mới làm cho bạn thành đệ tử. Nếu bạn đơn giản hiểu tôi, bạn sẽ
vẫn còn xa xăm; sẽ có khoảng cách, bởi vì sẽ không
có cây cầu nào. Không có tình yêu thì không có cây
cầu. Bạn sẽ hiểu, nhưng việc hiểu của bạn sẽ vẫn còn
khô khan. Bạn sẽ không được nối với tôi; tôi sẽ không
tuôn chảy trong bạn, bạn sẽ không cho phép tuôn chảy
của tôi, bạn sẽ không cho phép tôi làm ngập lụt bạn,
biến đổi bạn. Bạn sẽ vẫn còn tách rời, toán học.
Và chỉ tình yêu một mình sẽ không ích gì, bởi vì
tình yêu hạnh phúc tới mức nó quên mất hiểu biết.
Tình yêu mở hội vui thế, nó quên mất hiểu biết. Nó
tham gia vào tình yêu nhiều tới mức không có tách rời
để hiểu biết.
Hiểu biết với thầy xảy ra chỉ khi bạn đủ tách rời
để hiểu biết, và vậy mà vẫn đủ quan hệ để hiểu. Cây
cầu tồn tại: tôi gọi nó là yêu hiểu. Thế thì bạn tham
gia cùng tôi, thế thì bạn xúc động cùng tôi - nhưng
xúc động đó không nhấn chìm bạn, xúc động đó
không làm cho bạn thành người say. Bạn uống tôi thật
nhiều như bạn có thể, nhưng dầu vậy bạn vẫn còn tỉnh
táo, nhận biết; bạn không bị mất hút trong nó.
Đó là trạng thái rất ngược đời - yêu hiểu. Thế thì
bạn trong tham gia sâu sắc cùng tôi, và vậy mà bạn
vẫn còn tách biệt; bạn là một với tôi và vậy mà bạn
vẫn còn tách biệt. Chỉ thế, và chỉ thế bạn mới trở
thành đệ tử.
Câu hỏi thứ năm
Khác biệt giữa mẹ đẻ, người mẹ và Ma là gì?
Tôi không biết nhiều, nhưng tôi sẽ cố gắng tối đa
theo mức của mình. Mẹ đẻ là người giả vờ là người
mẹ, nhưng không phải vậy; người cho là người mẹ,
nhưng không phải vậy. Bởi vì là người mẹ là rất, rất
khó. Là mẹ đẻ lại rất dễ dàng. Chỉ sinh đẻ là đủ là mẹ
đẻ rồi. Không cần hiểu biết gì cả.
Toàn thế giới đầy những mẹ đẻ, nhưng tìm ra
người mẹ lại rất khó. Người mẹ là người giúp bạn là
bản thân mình. Mẹ đẻ là người nghĩ, người tin rằng bà
ấy yêu bạn, nhưng thực sự yêu bản thân bà ấy thôi, và
muốn bạn trở thành sự phóng chiếu của tham vọng
của bà ấy. Đó là điều bố đẻ cũng là gì.
Mẹ đẻ và bố đẻ bạn có thể tìm thấy ở mọi nơi; họ
đã làm biến chất toàn thế giới - mẹ đẻ và bố đẻ. Freud
nói nếu bạn đi sâu vào loạn thần kinh chức năng bạn
bao giờ cũng thấy mẹ đẻ ở chỗ cuối cùng. Tất cả phân
tâm học chung cuộc đều nghiêng về vấn đề nào đó mà
người mẹ - mẹ đẻ - đã tạo ra. Cho nên mẹ đẻ là giả vờ
làm người mẹ - bản sao vật lí của người mẹ tâm linh.
Là người mẹ là rất khó. Chỉ người đã về tới nhà
mới có thể là người mẹ được. Cho sinh nở rất dễ
dàng, nó là tự nhiên, sinh học; nhưng là người mẹ là
cái gì đó tâm linh. 

Mẹ đẻ muốn bạn theo bà ấy, bà ấy muốn sở hữu
bạn - làm cho bạn trở thành một phần, một tài sản quí
giá với bà ấy. Bà ấy sẽ níu bám quanh bạn.
Người mẹ sẽ giúp bạn trở nên độc lập. Bà ấy sẽ
giúp bạn trở thành cá nhân. Bà ấy sẽ yêu bạn, nhưng
bà ấy sẽ không cố gắng ép buộc cái gì lên bạn. Bà ấy
sẽ đem tình yêu của mình tới cho bạn, nhưng sẽ
không đem tri thức của bà ấy cho bạn. Bà ấy sẽ gửi
bạn vào thế giới để tìm ra chân lí riêng của bạn, để
tìm ra cuộc sống riêng của bạn. Bà ấy sẽ không cho
bạn hình mẫu hay khuôn mẫu. Bà ấy sẽ không cấu
trúc bạn, bà ấy đơn giản sẽ giúp bạn, dù bạn có thể là
bất kì điều gì.
Người mẹ chỉ là lí tưởng, điều đó hiếm khi xảy ra.
Mẹ đẻ bạn có thể tìm thấy ở bất kì đâu. Người mẹ chỉ
là ý tưởng, ý tưởng không tưởng - người có thể cho
việc sinh thành linh hồn bạn. Chỉ vị Phật mới có thể là
người mẹ, hay một Meera mới có thể là người mẹ,
hay một Krishna, hay một Mohammed mới có thể là
người mẹ - người duy nhất có thể cho bạn linh hồn
của mình, định mệnh của mình.
Mẹ đẻ chỉ mang tính sinh học. Khái niệm về
người mẹ là mang tính tâm linh. Còn Ma lại rất đơn
giản để hiểu. Ma là người đàn bà đang chịu chứng
bệnh có tên là Osho!
Câu hỏi thứ nhất từ Anand Nirgrantha.
Câu hỏi thứ nhất
Thầy nói rằng Phật sẽ không nói về thượng đế bởi
vì điều đó không thể chứng minh được. Vậy mà
trong lời nói tiếp ông ấy lại nói về các kiếp sống
khác, và hoá thân. Làm sao điều này khớp được
với các sự kiện khoa học?

Phật nói không có linh hồn. Cái gì là cái còn lại
sau cái chết? Hoá thân là gì? Tôi hiểu mông lung
rằng có thể cái vô hình dạng vẫn còn, nhưng cái
đó có một thực thể cá nhân không? Cùng con
sóng đó không được tái sinh.
Câu hỏi này rất có ý nghĩa. Đó là một trong
những đóng góp nền tảng nhất của Phật cho tâm thức
con người - ý tưởng về vô ngã. Nó rất phức tạp. Bạn
sẽ phải rất tỉnh táo im lặng để hiểu nó, bởi vì nó đi
ngược lại mọi hình mẫu mà bạn đã được ước định.
Trước hết là vài điều tương tự, để cho bạn có ý
tưởng nào đó về điều ông ấy ngụ ý bởi vô ngã. Thân
thể bạn là cái túi da. Lớp da xác định ra thân thể bạn;
nó xác định chỗ bạn và thế giới bắt đầu. Nó là ranh
giới quanh bạn. Nó bảo vệ bạn với thế giới, nó phân
chia bạn khỏi thế giới, và nó cho phép bạn chỉ có vài
lỗ hổng để đi vào thế giới hay để thế giới đi vào bạn.
Nếu không có da, bạn sẽ không thể nào tồn tại được.
Bạn sẽ mất biên giới của mình với tất cả mọi thứ xung
quanh bạn. Nhưng bạn không phải là da của mình. Da
cứ thay đổi hoài.
Điều đó cũng giống như con rắn cứ lột lớp da cũ
lặp đi lặp lại. Bạn cũng thoát ra khỏi da của mình lặp
đi lặp lại nhiều lần. Nếu bạn hỏi các nhà sinh lí học,
họ sẽ nói, 'Nếu một người sống bẩy mươi tuổi, thế thì
gần mười lần người đó sẽ đổi da hoàn toàn.' Nhưng
quá trình này rất chậm, cho nên bạn chẳng bao giờ trở
nên nhận biết. Một phần tí xíu thay đổi mọi khoảnh
khắc đến mức bạn không thể cảm thấy điều đó được;
cảm giác của bạn không tinh tế thế. Thay đổi là rất
tinh tế. Da cứ thay đổi dầu vậy bạn cứ nghĩ về bản
thân mình rằng đây là thân thể bạn, vẫn cùng thân thể
ấy. Nó không phải là cùng thân thể đó đâu, nó là sự
liên tục.
Khi bạn còn trong bụng mẹ, ngày đầu tiên bạn chỉ
là một tế bào nhỏ, vô hình với mắt trần. Đó là da của
bạn vào lúc đó, đó là thân thể bạn. Thế rồi bạn bắt đầu
lớn lên. Sau chín tháng bạn được sinh ra - thế thì bạn có một thân thể hoàn hoàn khác. Nếu bỗng nhiên bạn
bắt gặp bản thân mình mới một ngày tuổi, vừa mới
được sinh ra, bạn sẽ không thể nào nhận ra được rằng
đây là bạn. Bạn đã thay đổi nhiều thế. Nhưng dầu vậy
bạn vẫn nghĩ mình như cũ. Theo một cách nào đó thì
bạn vẫn như cũ bởi vì bạn là cùng sự liên tục. Theo
một cách nào đó bạn lại không như cũ bởi vì bạn vẫn
đang thay đổi liên tục.
Theo cùng cách đó, cũng giống như da, là bản
ngã. Da giữ thân thể bạn trong một hình mẫu, trong
một định nghĩa, trong một giới hạn. Bản ngã giữ nội
dung của tâm trí bạn trong một giới hạn. Bản ngã là
lớp da bên trong để cho bạn biết mình là ai; bằng
không bạn sẽ bị lạc - bạn sẽ không biết ai là ai; ai là
mình và ai là người khác.
Ý tưởng về cái ta, cái tôi, bản ngã, cho bạn một
định nghĩa, một định nghĩa tiện dụng. Nó làm cho bạn
tách biệt rõ ràng với người khác. Nhưng điều đó nữa
cũng là da, lớp da rất tinh tế, cái giữ lại tất cả nội
dung của tâm trí bạn - kí ức của bạn, quá khứ của bạn,
ham muốn của bạn, kế hoạch của bạn, tương lai của
bạn, hiện tại của bạn, yêu của bạn, ghét của bạn, giận
dữ, buồn rầu, sung sướng - nó giữ tất cả những cái đó
trong một cái túi. Nhưng bạn lại không là bản ngã đó.
Bởi vì cái đó nữa lại cũng cứ thay đổi và cái đó thay
đổi còn nhiều hơn da thân thể. Từng khoảnh khắc nó
đều đang thay đổi.
Phật dùng sự tương tự với ngọn lửa. Chiếc đèn
được thắp sáng: bạn thấy ngọn lửa, nhưng nó liên tục
thay đổi, nó chưa bao giờ như cũ cả. Đến sáng khi bạn
tắt đèn đi, bạn không tắt cùng ngọn lửa đó đâu. Nó đã
liên tục thay đổi cả đêm rồi.
Từng khoảnh khắc ngọn lửa đều biến mất thành
khói và ngọn lửa mới đang thay thế nó. Nhưng việc
thay thế lại nhanh tới mức bạn không thể thấy được
sự vắng mặt - rằng ngọn lửa này đã qua, ngọn lửa
khác đã tới. Cái này qua đi, cái khác tới liền. Khoảnh
khắc này nhanh tới mức bạn không thể thấy được lỗ
hổng giữa cả hai. Bằng không thì chỉ có sự liên tục;
nó không phải là cùng ngọn lửa. Nhưng dầu vậy, theo
một cách nào đó, nó là cùng ngọn lửa bởi vì nó là sự
liên tục của cùng ngọn lửa. Nó được sinh ra từ cùng
một ngọn lửa.
Cũng hệt như bạn được sinh ra từ cha mẹ mình -
bạn là sự liên tục. Bạn không là một. Bạn không phải
là bố bạn, bạn không phải là mẹ bạn - nhưng dầu vậy
bạn vẫn là bố bạn và mẹ bạn, bởi vì bạn liên tục cùng
một truyền thống, cùng một dòng họ, cùng một kế
thừa.
Phật nói bản ngã là sự liên tục, nó không phải là
cái căn bản - liên tục giống như ngọn lửa, liên tục
giống như dòng sông, liên tục giống như thân thể.
Vấn đề nảy sinh... chúng ta có thể nhân nhượng
về điều đó rằng thôi được, nó có thể là như vậy: nếu
một người chết vào lúc chết và mọi thứ biến mất, thế
thì hoàn toàn đúng - có thể đó chỉ là ngọn lửa. Nhưng
Phật nói người ta được tái sinh - thế thì vấn đề nảy
sinh. Thế thì ai được tái sinh?
Thế thì lần nữa, lại cần vài sự tương tự. Bạn đã
bao giờ thấy ngôi nhà to bị cháy, hay một khu rừng bốc cháy chưa? Nếu bạn quan sát bạn sẽ đi tới thấy
một hiện tượng. Đơn giản ngọn lửa nhảy từ cây nọ
sang cây kia. Chẳng có chất liệu nào trong nó, nó chỉ
là ngọn lửa thôi. Nó không có vật chất trong nó, nó
chỉ là năng lượng thuần khiết, một lượng năng lượng,
một số lượng năng lượng nào đó - nó nhảy từ cây nọ
và lan tới cây kia và cây kia bốc cháy.
Hay, bạn có thể mang một ngọn đuốc chưa cháy
lại gần ngọn đuốc đã thắp cháy. Điều gì xảy ra? Ngọn
lửa từ đuốc đã cháy nhảy lên ngọn đuốc chưa cháy.
Nó là bước nhảy lượng tử, nó là cú nhảy. Ngọn lửa
thuần khiết nhảy tới ngọn đuốc khác và bắt đầu sự
liên tục khác.
Hay, ngay bây giờ bạn đang nghe tôi. Nếu bạn bật
radio lên, bỗng nhiên bạn sẽ bắt đầu nghe một buổi
phát thanh nào đó từ trạm phát nào đó đang truyền
ngay bây giờ. Chỉ cần mỗi máy thu thôi. Một khi máy
thu có đó, cái gì đó đang trong buổi phát thanh từ
London hay từ Moscow hay từ Bắc Kinh, bạn có thể
bắt được nó.
Chẳng chất liệu nào tới cả, chỉ thuần sóng ý nghĩ
thuần tuý nhảy từ Bắc Kinh tới Pune... chỉ sóng ý
nghĩ, không cái gì chất liệu. Bạn không thể bắt giữ
chúng trong tay được, bạn không thể thấy được
chúng, nhưng chúng có đó bởi vì chiếc máy thu radio
của bạn bắt lấy chúng, hay chiếc máy thu hình của
bạn bắt lấy chúng.
Phật nói khi một người chết, toàn thể những ham
muốn tích luỹ của cả đời người đó, toàn thể những kí
ức được tích luỹ của cả đời người đó, toàn thể
sanskaras, nghiệp của người đó, nhảy tựa sóng năng
lượng vào bụng mẹ mới. Đó là cú nhảy. Từ đích xác
là trong vật lí: họ gọi nó là 'bước nhảy lượng tử' -
'bước nhảy của năng lượng thuần khiết mà không có
chất liệu nào trong nó'.
Phật là nhà vật lí lượng tử đầu tiên. Einstein tới
sau ông ấy hai mươi nhăm thế kỉ, nhưng họ cả hai nói
cùng một ngôn ngữ. Và tôi vẫn nói rằng Phật mang
tính khoa học. Ngôn ngữ của ông ấy là ngôn ngữ của
vật lí hiện đại; ông ấy tới từ hai mươi nhăm thế kỉ
trước thời thời đại của Einstein.
Khi một người chết đi, thân thể biến mất, phần vật
chất biến mất, nhưng phần phi vật chất, phần tâm trí,
là rung động. Rung động đó được thoát ra, phát ra.
Bây giờ, bất kì chỗ nào một bụng mẹ đúng sẵn sàng
cho rung động này, nó sẽ đi vào trong bụng mẹ đó.
Không có cái ta đi, không có ai đi cả, không có
bản ngã nào đi cả. Không có nhu cầu cho bất kì cái gì
mang tính chất liệu di chuyển, đó chỉ là sự thúc đẩy
của năng lượng. Nhấn mạnh là ở chỗ nó lại là cùng
cái túi của bản ngã nhảy. Ngôi nhà này đã trở thành
không thể sống được, thân thể này không còn có thể
để sống nữa. Ham muốn cũ, niềm khao khát về cuộc
sống - thuật ngữ của Phật là tanha, thèm khát về cuộc
sống - vẫn còn sống, đang cháy. Chính ham muốn đó
lấy cú nhảy.
Bây giờ, nghe vật lí hiện đại. Họ nói rằng không
có vật chất. Bạn có thấy bức tường rất vật chất này
đằng sau tôi không? Bạn không thể đi qua nó được;
nếu bạn thử bạn sẽ bị thương. Nhưng vật lí hiện đại
nói nó là cái không, chẳng cái gì có chất liệu cả. Nó
đơn giản là việc chuyển năng lượng thuần khiết với tốc độ lớn vô cùng tới mức mọi khoảnh khắc nó đều
tạo ra sự giả dối, ảo tưởng, dáng vẻ của chất liệu.
Thỉnh thoảng bạn quan sát chiếc quạt quay nhanh
- thế thì bạn không thể thấy được cánh. Chỉ có ba
cánh thôi, nhưng chúng chuyển động nhanh thế trông
giống như một vòng tròn, như cái đĩa; bạn không thể
thấy được lỗ hổng giữa hai cánh. Nếu cái quạt chuyển
động với cùng tốc độ như điện tử đang chuyển động -
tốc độ cao vô cùng - thế thì bạn có thể ngồi lên chiếc
quạt và bạn sẽ không bị rơi khỏi nó. Bạn có thể ngồi
như tôi đang ngồi trên chiếc ghế và bạn sẽ không cảm
thấy chuyển động nào cả, bởi vì chuyển động này
nhanh thế.
Đích xác cùng điều đó xảy ra trong chiếc ghế này
và cùng điều đó đang xảy ra dưới bạn trên sàn. Nó
không phải là sàn đá đâu, đấy chỉ là dáng vẻ, nhưng
các hạt năng lượng đang chuyển động nhanh tới mức
chính sự chuyển động của chúng, tính nhanh của
chúng, tạo ra ảo tưởng về chất liệu. Chất liệu không
tồn tại, chỉ năng lượng thuần khiết tồn tại. Khoa học
hiện đại nói vật chất không tồn tại, chỉ năng lượng phi
vật chất là tồn tại.
Do đó tôi nói Phật rất khoa học. Ông ấy không
nói về thượng đế, nhưng ông ấy nói về vô ngã phi vật
chất. Cũng như khoa học hiện đại đã lấy ý tưởng về
chất liệu ra khỏi siêu hình của nó, Phật đã lấy ý tưởng
về cái ta ra khỏi siêu hình của ông ấy. Cái ta và chất
liệu là có tương quan với nhau. Khó mà tin được rằng
bức tường lại là phi chất liệu và theo cùng cách đó
khó mà tin được rằng không có cái ta nào tồn tại trong
bạn.
Bây giờ, vài điều thêm nữa sẽ làm cho điều đó rõ
ràng hơn. Tôi không thể nói rằng bạn sẽ hiểu điều đó,
nhưng nó sẽ làm cho điều đó rõ ràng hơn.
Bạn bước đi, bạn đang bước, bạn đã đi dạo buổi
sáng. Chính ngôn ngữ này - cái chúng ta nói 'bạn đang
bước' - tạo ra vấn đề; vấn đề ở trong chính ngôn ngữ
của chúng ta. Khoảnh khắc chúng ta nói ai đó đang
bước, chúng ta giả thiết rằng ai đó có đó người đang
bước - người bước. Chúng ta hỏi, làm sao có được
việc bước nếu không có người bước?
Phật nói không có người bước, chỉ có việc bước.
Cuộc sống không chứa các sự vật. Phật nói cuộc sống
bao gồm các biến cố. Và đó là đích xác là điều khoa
học hiện đại nói: chỉ có các tiến trình, không có vật -
các biến cố.
Ngay cả nói rằng cuộc sống tồn tại cũng không
đúng. Chỉ hàng nghìn và hàng nghìn quá trình sống
tồn tại. Cuộc sống chỉ là ý tưởng. Không có gì giống
như cuộc sống cả.
Trên trời một ngày nào đó bạn thấy mây đen tụ
tập và có sấm sét. Khi có sét bạn có hỏi, 'Có cái gì
đằng sau sét không? Ai đang làm sét? Sét là gì?' Bạn
sẽ nói, 'Sét đơn giản là sét - không có ai đằng sau nó;
đấy chỉ là một quá trình. Không phải là có cái gì đó là
sét. Nó đơn giản là sét.'
Nhị nguyên được ngôn ngữ mang vào. Bạn đang
bước - Phật nói chỉ có việc bước. Bạn đang nghĩ -
Phật nói chỉ có việc nghĩ, không có người nghĩ.
Người nghĩ được tạo ra bởi ngôn ngữ. Bởi vì chúng ta dùng ngôn ngữ dựa trên nhị nguyên, nó phân chia mọi
thứ thành hai mặt.
Khi bạn nghĩ, có một chùm ý nghĩ, được thôi -
nhưng không có người nghĩ. Nếu bạn thực sự muốn
hiểu nó bạn sẽ phải thiền sâu và đi tới điểm mà suy
nghĩ biến mất. Khoảnh khắc suy nghĩ biến mất bạn sẽ
ngạc nhiên - người nghĩ cũng mất rồi. Với suy nghĩ,
người nghĩ cũng biến mất. Đó chỉ là sự xuất hiện của
ý nghĩ chuyển động.
Bạn nhìn dòng sông. Dòng sông có thực sự tồn tại
không, hay đấy chỉ là chuyển động? Nếu bạn rút
chuyển động ra, liệu sẽ còn dòng sông không? Một
khi chuyển động bị lấy ra thì dòng sông sẽ biến mất.
Không phải là dòng sông chuyển động; dòng sông
không là gì ngoài việc chảy.
Ngôn ngữ tạo ra khó khăn. Có thể bởi vì cấu trúc
đặc biệt này trong một số ngôn ngữ, Phật đã trở thành
quan trọng và có ý nghĩa và trở nên được bắt rễ chỉ ở
Nhật Bản, Trung Quốc, Miến Điện - bởi vì họ có
ngôn ngữ khác hoàn toàn. Điều rất có ý nghĩa là hiểu
tại sao ông ấy đã trở nên quan trọng thế trong tâm trí
người Trung Quốc, tại sao Trung Quốc có thể hiểu
được ông ấy mà Ấn Độ lại không thể hiểu được.
Trung Quốc có một ngôn ngữ khác mà lại hợp với ý
thức hệ Phật giáo tuyệt đối. Tiếng Trung Quốc không
phân chia thành hai. Trong tiến Trung Quốc, hay tiếng
Hàn Quốc, hay tiếng Nhật Bản hay tiếng Miến Điện
tồn tại một cấu trúc hoàn toàn khác với tiếng Phạn,
tiếng Hindi, tiếng Anh, tiếng Hi Lạp, tiếng Latin,
tiếng Pháp, tiếng Đức - một cấu trúc khác toàn bộ.
Khi lần đầu tiên Kinh Thánh được dịch sang tiếng
Miến Điện đã có nhiều khó khăn, bởi vì vài câu không
thể dịch được chút nào. Khoảnh khắc bạn dịch, toàn
thể nghĩa bị mất. Chẳng hạn, một câu đơn giản,
'Thượng đế hiện hữu'; bạn không thể dịch nó sang
tiếng Miến Điện được. Nếu bạn dịch nó, nó sẽ thành
'Thượng đế trở thành'. 'Thượng đế hiện hữu' không
thể được dịch bởi vì không có thuật ngữ tương đương
cho 'hiện hữu', bởi vì 'hiện hữu' chỉ ra sự tĩnh tại.
Chúng ta có thể nói 'cây hiện hữu', nhưng trong
tiếng Miến Điện bạn phải nói 'cây đang trở thành', chứ
không 'hiện hữu'. Không có chữ tương đương cho
'hiện hữu'. Cây 'trở thành'. Vào lúc bạn nói 'cây hiện
hữu', nó không còn là cùng cái cây đó, cho nên tại sao
bạn lại nói 'hiện hữu'? 'Hiện hữu' cho sự tĩnh tại. Đó là
hiện tượng giống như dòng sông vậy - 'cây đang trở
thành'. Tôi phải nói 'cây đang trở thành' nhưng trong
tiếng Miến Điện nó sẽ đơn giản 'cây trở thành', chữ
'đang' sẽ không có đó. 'Dòng sông hiện hữu' - nếu bạn
muốn dịch - sẽ là 'dòng sông chuyển động'. 'Dòng
sông chảy' sẽ là việc dịch chính xác trong tiếng Miến
Điện.
Nhưng nói 'Thượng đế trở thành' là rất khó, bởi vì
người Ki tô giáo không thể nói được điều đó. Thượng
đế là hoàn hảo, ông ấy không thể trở thành được. Ông
ấy không phải là quá trình, ông ấy không có khả năng
phát triển - ông ấy đã đạt tới rồi. Ông ấy là cái tuyệt
đối - bạn ngụ ý gì bởi việc 'trở thành'? Trở thành là có
thể nếu ai đó còn chưa hoàn hảo. Thượng đế là hoàn
hảo rồi, ông ấy không thể trở thành được. Cho nên
làm sao dịch được điều đó? Rất khó. 

Nhưng Phật xuyên thấu lập tức vào tâm trí Miến
Điện, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc; xuyên thấu
lập tức. Chính cấu trúc của ngôn ngữ làm cho điều đó
thành có thể; họ có thể hiểu Phật rất dễ dàng.
Trong cuộc sống chỉ có các biến cố. Việc ăn có đó
nhưng không có người ăn. Quan sát việc ăn. Thực sự
có người ăn không? Bạn cảm thấy đói, đúng - cơn đói
có đó, nhưng không có ai đói cả. Thế rồi bạn ăn - việc
ăn có đó, nhưng không có ai là người ăn. Thế rồi cơn
đói được thoả mãn, thế rồi bạn cảm thấy thoả mãn -
sự thoả mãn này có đó nhưng không có ai được thoả
mãn cả.
Phật nói cuộc sống bao gồm các biến cố. Cuộc
sống nghĩa là việc sống. Cuộc sống không phải là
danh từ, nó là động từ. Và mọi thứ đều là động từ.
Quan sát và bạn sẽ có khả năng thấy: mọi thứ đều
đang trưởng thành, không cái gì tĩnh tại cả.
Eddington đã nói rằng trong tiếng Anh có vài từ
tuyệt đối giả: chẳng hạn, nghỉ ngơi. Chẳng cái gì đã
bao giờ trong nghỉ ngơi cả, chính từ này là sai, bởi vì
không có tương đương trong thực tế. Bạn đã bao giờ
thấy cái gì nghỉ ngơi chưa? Ngay cả khi bạn nghỉ
ngơi, đấy là việc nghỉ, nó không phải là nghỉ ngơi. Đó
là một quá trình: cái gì đó đang xảy ra, bạn vẫn thở.
Nằm dài ra, thảnh thơi - nhưng đấy không phải là
nghỉ ngơi; nhiều điều, cả nghìn thứ đang xảy ra. Bạn
đã bao giờ thấy cái gì nghỉ ngơi chưa? Điều đó là
không thể được, nghỉ ngơi không tồn tại. Ngay cả khi
một người chết, thế thì thân thể vẫn liên tục các quá
trình của nó.
Bạn có thể chưa nghe nói - đôi khi điều đó xảy ra:
người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, nhưng người
đi chôn người chết dưới đất, đôi khi đi tới biết rằng
người chết đó nhưng râu anh ta vẫn mọc ra, tóc anh ta
trở nên dài hơn, móng tay anh ta vẫn mọc. Người này
chết rồi!
Bây giờ điều này là rất kì quái. Nếu bạn cạo trọc
một người chết rồi đưa anh ta vào nấm mồ và sau sáu
tháng bạn mở nấm mồ ra và anh ta có râu... bây giờ
phải nói gì đây, liệu anh ta sống hay chết? Và bạn sẽ
rất sợ; bạn sẽ trốn khỏi nhà, và khuôn mặt đó sẽ ám
ảnh bạn trong đêm. Điều gì đã xảy ra? Nếu người này
chết thế thì làm sao râu người đó lại mọc được? Còn
nếu râu người đó có thể mọc được, thì người đó thực
sự chết hay không - chỉ giả vờ sao?
Cuộc sống là hàng triệu quá trình. Ngay cả khi
bản ngã của bạn biến mất từ căn cứ này, cất cánh từ
sân bay này và hạ cánh trong bụng mẹ nào đó khác,
nhiều quá trình vẫn tiếp tục. Tất cả các quá trình đều
không dừng lại, bởi vì có nhiều quá trình chẳng có gì
liên quan tới bản ngã của bạn; chẳng liên quan gì tới
bản ngã của bạn - bản ngã của bạn có thể đi và chúng
sẽ tiếp tục. Tóc mọc, móng tay mọc, chẳng có liên
quan gì...
Và, ngay lập tức, khoảnh khắc bản ngã bạn rời đi,
hàng triệu vi khuẩn nhỏ bé sẽ trở nên sống động và
chúng sẽ bắt đầu làm việc và vận hành. Bạn sẽ gần
như cái bãi chợ. Bạn sẽ sống động tràn đầy theo cách
đó. Nhiều điều sẽ xảy ra: nhiều vi khuẩn chạy đi chạy
lại đây đó, làm tình, hôn nhân, chết đi và mọi thứ sẽ
xảy ra. Khoảnh khắc bạn rời bỏ thân thể, thân thể bạn trở thành mảnh đất cho nhiều người khác đang chờ
đợi và những người sẽ nói, 'Xin ông đi cho! Để chúng
tôi vào chứ.'
Cuộc sống là quá trình liên tục - không chỉ một
quá trình mà nhiều quá trình, sự liên tục.
Phật nói chính ý tưởng về cái ta là bởi vì ngôn
ngữ. Bạn cảm thấy đói: trong ngôn ngữ chúng ta nói
'tôi đói'. Ngôn ngữ tạo ra ý tưởng về tôi. Làm sao để
nói nó? Để đích xác đúng bạn chỉ có thể nói 'cơn đói'.
'Tôi đói' đang đem cái gì đó tuyệt đối sai vào trong
nó. 'Cơn đói' - thế là đủ.
Quan sát các quá trình của bạn và bạn sẽ cảm thấy
điều đó. Khi bạn cảm thấy đói hôm nay, quan sát nó.
Có thực sự có ai đó đang đói hay chỉ có cơn đói thôi?
Và phải chăng hình mẫu ngôn ngữ cho nó sự xoắn
xuýt và phân chia nó ra làm đôi, và bạn bắt đầu cảm
thấy 'tôi đói'?
Phật giáo là tôn giáo đầu tiên đã đem thông điệp
này vào thế giới - rằng tôn giáo của bạn, triết lí của
bạn, được đặt nền móng trong các hình mẫu ngôn ngữ
của bạn còn hơn ở trong bất kì cái gì khác. Và nếu
bạn có thể hiểu ngôn ngữ của mình tốt hơn, bạn sẽ có
khả năng hiểu các quá trình bên trong của mình tốt
hơn. Phật là nhà ngôn ngữ học đầu tiên, và sáng suốt
của ông ấy là có ý nghĩa vô cùng.
Bạn nói: "Phật sẽ không nói về thượng đế bởi vì
điều đó không thể được chứng minh.' Vâng, ông ấy sẽ
không nói về thượng đế đâu bởi vì điều đó không thể
nào được chứng minh và ông ấy sẽ không nói về
thượng đế bởi vì thượng đế mà bạn nghĩ là tồn tại, thì
lại không tồn tại. Thượng đế của bạn lại là cùng cái
giả dối cũ của cái ta. Bạn nghĩ bạn có cái ta, cho nên
toàn thể vũ trụ phải có cái ta. Bởi vì bạn có cái ta,
toàn thể vũ trụ phải có cái siêu ta. Cái siêu ta đó là
thượng đế.
Phật nói bạn không có cái ta nào cả. Vũ trụ hiện
hữu, nhưng không có cái siêu ta trong nó... Hàng triệu
quá trình, nhưng không có cái siêu ta. Không có trung
tâm cho nó; nó tất cả đều là chu vi.
Rất khó thấu hiểu được điều đó - chừng nào bạn
còn chưa thiền. Đó là lí do tại sao Phật chưa bao giờ
đi vào thảo luận siêu hình; ông ấy nói, 'Thiền đi.' Bởi
vì trong thiền những điều này sẽ trở nên rõ ràng thế.
Khi suy nghĩ dừng lại, bỗng nhiên bạn thấy người
nghĩ đã biến mất. Nó là cái bóng. Và khi người nghĩ
biến mất, làm sao bạn có thể nói, làm sao bạn có thể
cảm thấy 'tôi đây'? Không có cái 'tôi' còn lại, bạn là
không gian thuần khiết. Đó là điều Phật gọi là anatta,
không gian thuần khiết của cái vô ngã. Đó là kinh
nghiệm vô cùng.
...'Vậy mà trong lời nói tiếp ông ấy lại nói về các
kiếp sống khác, và hoá thân.' Ông ấy nói, và các Phật
tử bao giờ cũng gặp rắc rối bởi vì điều đó. Phật khoa
học tới mức ông ấy không thể thêu dệt sự kiện được.
Nếu ông ấy không phải là con người khoa học như
vậy, nếu ông ấy chỉ là nhà siêu hình, thì hoặc ông ấy
đã chấp nhận cái ta để làm cho toàn thể triết lí của ông
ấy có vẻ nhất quán, hoặc ông ấy sẽ vứt bỏ ý tưởng về
hoá thân, bởi vì cả hai điều này có vẻ mâu thuẫn. 

Nhưng ông ấy là nhà khoa học tới mức ông ấy sẽ
không ép buộc cái gì từ tâm trí mình lên thực tại. Ông
ấy đơn giản phát biểu sự kiện. Nếu nó mâu thuẫn, ông
ấy nói, 'Có thể nó là mâu thuẫn đấy, nhưng nó là thế.'
Đây là điều đang xảy ra trong khoa học hiện đại.
Mới năm mươi năm trước, khi các nhà khoa học đi
vào cốt lõi bên trong nhất của vật chất, họ đã rất phân
vân, bởi vì điện tử hành xử theo cách rất phi logic.
Bây giờ bạn không thể nào buộc các điện tử phải
logic được, bạn không thể gửi chúng tới đại học để
học Aristotle và bạn không thể bảo chúng, 'Các cậu
hành xử phi logic lắm, hành xử như thế à! điều này là
không đúng.' Bạn không thể nói được điều đó. Nếu
chúng hành xử phi logic, thì chúng đang hành xử phi
logic đấy! - bạn phải hiểu nó, có thế thôi; chẳng thể
làm được gì cả.
Và cái phi logic mới thực sự lớn lao, nó không
phải là vấn đề bình thường. Đôi khi cùng điện tử đó
sẽ hành xử giống như sóng và đôi khi nó sẽ hành xử
như một lượng, như một hạt. Bây giờ hai điều này là
không thể được, chúng là phi Euclid và phi Aristotle -
cứ dường như những điện tử này không tin vào Euclid
và Aristotle. Chúng đang làm gì? Chúng chưa bao giờ
biết tới Euclid sao?
Đó là hình học đơn giản, chúng ta tất cả đều đã
học ở trong trường phổ thông - rằng điểm không thể
là đường thẳng và đường thẳng không thể là điểm
được. Đường thẳng là nhiều điểm được đặt cùng nhau
theo trình tự, cho nên một điểm không thể hành xử
như một đường được, bằng không thì toàn thể hình
học sẽ bị rối loạn. Bạn đặt một điểm và bạn đi vào
buồng tắm, bạn quay lại và nó đã trở thành một
đường! Thế thì bạn sẽ làm gì?
Nhưng điều này đích xác là điều đang xảy ra
trong cốt lõi bên trong nhất của vật chất đấy. Bạn cứ
quan sát và nó trông giống như một điểm rồi bất thần
nó là đường thẳng. Và cú nhảy lại tới mức bạn chẳng
thấy nó phát triển thành đường.
Trong khoảng thời gian này nó là điểm, trong
khoảng thời gian khác nó là đường - thậm chí không
lớn lên thành đường, chỉ một cú nhảy... bất thần thế,
phi logic thế. Nếu nó phát triển dần, chúng ta có thể
hiểu điều đó nữa: có thể nó giống như hạt mầm, đâm
chồi và trở thành cái cây. Được đấy, chúng ta có thể
hiểu. Trong khoảnh khắc thời gian này nó là hạt mầm
trong khoảnh khắc thời gian khác nó phát triển, dần
dần và dần dần, tuần tự, và trở thành cái cây. Chúng
ta có thể hiểu được.
Nếu một điểm dần dần trở thành đường, chúng ta
sẽ có khả năng hiểu. Nhưng bất thần sao? Và không
chỉ bất thần, thậm chí điều phi logic hơn là thế này:
rằng hai người quan sát trong cùng một khoảnh khắc
thời gian, đồng thời có thể quan sát - người này có thể
quan sát nó là điểm còn người kia có thể quan sát nó
là đường. Bây giờ phải làm gì? Người quan sát này
thấy nó như hạt mầm và người quan sát khác thấy nó
như cái cây? Trong một khoảnh khắc thời gian.
Toàn thể khoa học phương tây đã phát triển lên từ
logic Hi Lạp. Những điện tử này đang nổi loạn chống
lại Aristotle, và không có cách nào đưa chúng về lẽ
phải. Các nhà khoa học đã cố gắng theo nhiều cách,
bởi vì tâm trí có khuynh hướng níu bám lấy các khái niệm, hình mẫu của riêng nó. Không dễ dàng thế để
thảnh thơi và buông xuôi theo những điện tử ngu xuẩn
này.
Trong gần hai, ba thập kỉ, các nhà khoa học đã
phân vân và họ đã cố gắng tìm ra cách nào đó để giải
thích điều đó, hay ít nhất để thanh minh điều đó, tại
sao nó lại xảy ra. Nhưng cuối cùng họ phải nhường
bước cho sự kiện và họ chấp nhận nó. Do đó mới có lí
thuyết về vật lí lượng tử.
Lượng tử: chính từ này đã được phát minh ra; nó
chưa bao giờ tồn tại trước đây bởi vì con người chưa
bao giờ bắt gặp một hiện tượng phi lí như vậy. Lượng
tử nghĩa là điểm và đường cùng nhau, đồng thời.
Lượng tử nghĩa là hạt và sóng cùng nhau, đồng thời.
Chúng ta phải tìm ra cái tên cho điều gì đó tuyệt đối
phi logic và chúng ta không có kí hiệu cho nó.
Và khi mọi người hỏi nhà khoa học, 'Các ông giải
thích điều đó thế nào? - nó là phi logic,' họ nói, ‘Nó
phi logic đấy nhưng nó là thế và chúng tôi không thể
làm được gì cả. Chúng tôi phải nghe theo thực tại.
Nếu thực tại là phi logic, thế thì cái gì đó phải sai với
logic của chúng ta, có vậy thôi. Chúng ta có thể thay
đổi logic, nhưng chúng ta không thể thay đổi được
thực tại.'
Đó là điều đã xảy ra khi Phật vào thế giới này.
Ông ấy đã đi vào cốt lõi bên trong nhất của cái gọi là
cái ta, cả bạn và ông ấy cũng phân vân - phải làm gì
đây? Không có cái ta, và có hoá thân. Bây giờ nếu
ông ấy mà không thực là khoa học vĩ đại như vậy, và
nếu ông ấy chỉ là một triết gia bình thường, thế thì
ông ấy chắc đã quên rồi; ông ấy chắc đã không nói về
sự kiện này chút nào - ông ấy chắc đã chọn lựa. Việc
chọn lựa là đơn giản: hoặc bạn nói không có hoá thân
bởi vì không có cái ta...
Đó là điều những người không tin vào linh hồn
bao giờ cũng nói. Những người vô thần, charvakas,
họ bao giờ cũng nói rằng không có cái ta - khi bạn
chết bạn đơn giản chết, chẳng cái gì còn sống, và
không có tái sinh. Điều đó là đơn giản, logic. Hay có
những người theo điều vĩnh hằng, những người hữu
thần, những người tin vào cái ta. Họ nói rằng bạn chết
nhưng chỉ thân thể chết thôi; cái ta của bạn, trung tâm
của bạn vẫn tồn tại. Linh hồn của bạn, atma của bạn
vẫn còn tồn tại; nó là vĩnh hằng. Điều đó nữa cũng
mang tính logic.
Phật rất phi logic và ông ấy là phi logic bởi vì sự
khẳng định của ông ấy không đi ngược lại thực tại là
tuyệt đối. Nhấn mạnh của ông ấy là thế này: rằng bất
kì cái gì thực tại để lộ ra thì chúng ta đều phải nghe
theo nó. Chúng ta không ở đây để áp đặt mộng tưởng
riêng của mình lên nó. Chúng ta là ai?
Nếu đây là sự kiện, thế thì cái gì đó sai trong logic
của chúng ta, trong ngôn ngữ của chúng ta, trong
chính cách nghĩ của chúng ta. Chúng ta phải thay đổi
điều đó chứ không phải là tránh né thực tại, trốn chạy
khỏi thực tại. Cho nên ông ấy dường như là nhà tư
tưởng ngớ ngẩn nhất trên thế giới, bởi vì đây là một
trong những phát biểu ngớ ngẩn nhất - rằng bạn
không tồn tại nhưng bạn được tái sinh.
Bạn có thể thấy điều đó một cách rõ ràng, nó là
ngớ ngẩn. Nếu bạn không tồn tại, làm sao bạn có thể
được tái sinh? Và ông ấy nói, 'Điều đó ta không biết. 

Ông không tồn tại và ông được tái sinh - điều đó thì ta
biết, điều đó ta đã đi tới biết, điều đó ta đã thấy. Và
nếu ông muốn thấy điều đó, thiền đi. Đi sâu hơn vào
trong bản thể mình như ta đã đi vào bản thể ta và ông
cũng sẽ bị phân vân, lẫn lộn rất nhiều. Nhưng dần dần
ông sẽ lắng đọng với thực tại. Và thế rồi ông sẽ thay
đổi toàn thể ngôn ngữ của mình.'
Phật đã thay đổi toàn thể ngôn ngữ, toàn thể
phong cách triết lí. Chưa bao giờ có một con người
độc đáo đến như vậy trước đây. Gần như không thể
nào hiểu nổi ông ấy bởi vì ông ấy không nói theo
cùng ngôn ngữ như bạn nói, và ông ấy đã đem tới
những tầm nhìn mới nào đó vào trong thế giới này.
Người không tin vào linh hồn là rất cổ, chẳng có
gì mới trong điều đó. Marx chẳng nói điều gì mới cả.
Trong hàng nghìn năm đã từng có những người vô
thần, người phủ nhận linh hồn, người phủ nhận tái
sinh. Cả Mahavira lẫn Patanjali đều không nói điều gì
mới, bởi vì bao giờ cũng có những người đã tin vào
linh hồn và hoá thân.
Phật đang đem tới một tầm nhìn mới, rất độc đáo.
Ông ấy nói: không có linh hồn và vậy mà vẫn có hoá
thân. Đó là bước nhảy lượng tử.
Cho nên khi tôi nói rằng ông ấy là nhà khoa học,
tôi ngụ ý điều đó. Và nếu bạn hiểu ngôn ngữ của vật lí
hiện đại, bạn sẽ có khả năng hiểu Phật. Thực tế, hiểu
Phật mà không hiểu vật lí hiện đại là không thể được.
Lần đầu tiên, vật lí hiện đại đã đưa ra điều tương
đương. Heisenberg, Planck, và Einstein, họ đã đưa ra
điều tương đương. Vật chất đã biến mất; chỉ có năng
lượng, không có cái ta trong nó, không có chất liệu
trong nó. Và điều Phật nói là hệt như vậy: anatta, vô
ngã.
'Làm sao điều này khớp được với sự kiện khoa
học?' Nó khớp hoàn hảo đấy chứ. Thực tế, khi
Nirgrantha hỏi làm sao nó khớp với sự kiện khoa học,
ý của anh ấy về khoa học là khoa học thế kỉ thứ mười
chín; anh ấy không nhận biết về khoa học hiện đại,
anh ấy không nhận biết về những phát triển mới nhất.
Ý của anh ấy về khoa học là rất chính thống, rất cổ
hủ, lạc hậu rồi. Khoa học đã thay đổi nhiều lắm rồi.
Nếu Newton quay lại, ông ấy sẽ không có khả
năng hiểu được khoa học chút nào, bởi vì khoa học đã
thay đổi nhanh thế, và sáng suốt của nó đã trở thành
thách đố tới mức các nhà khoa học đang nói như các
nhà siêu hình, các nhà huyền môn. Bây giờ họ không
nói như các nhà toán học, họ đang nói như các nhà
huyền môn và nhà thơ.
'Tôi hiểu mông lung rằng có thể cái vô hình dạng
vẫn còn.' Không, bạn sẽ không có khả năng hiểu được
nó về mặt trí tuệ, bởi vì cái vô hình dạng của bạn sẽ
lại có hình dạng nào đó. Làm sao bạn có thể quan
niệm được về cái vô hình dạng? Từ này thì được,
nhưng khoảnh khắc bạn cố gắng quan niệm cái vô
hình dạng, lập tức nó bắt đầu lấy một hình dạng - bởi
vì chỉ hình dạng mới có thể được quan niệm; cái vô
hình dạng không thể được quan niệm. Nó là từ trống
rỗng.
Bạn có thể cứ gọi thượng đế là vô hình dạng,
nhưng bạn không thể quan niệm được điều đó. Và bất
kì khi nào những người như Shankara, người nói về
thượng đế vô hình dạng, đi tôn thờ, họ đều đi tôn thờ trước một hình dạng. Thế rồi họ bắt đầu ca bài Bhaj
Govindam Moodhamate. Thế rồi lại có tượng, nghi lễ,
thượng đế nam, thượng đế nữ, một hình dạng.
Ngay cả một người như Shankara cũng cứ nói mãi
về cái vô hình dạng, vô thuộc tính - nirgun - nhưng
việc tôn thờ của ông ấy, lời nguyện của ông ấy, là về
sagun - có thuộc tính, có hình dạng - bởi vì không thể
nào quan niệm nổi cái vô hình dạng. Việc quan niệm
chỉ là về hình dạng thôi; hay về bất kì cái gì bạn có
thể quan niệm, bằng chính khả năng của việc được
quan niệm của nó, nó sẽ lấy một hình dạng. Cho nên
đấy chỉ là một ý tưởng mông lung.
Nirgrantha nói, 'Tôi hiểu mông lung rằng có thể
cái vô hình dạng vẫn còn.'
Không, đấy không phải là vấn đề hiểu mông lung
đâu. Về mặt trí tuệ thì không có cách nào cả. Cách
duy nhất chỉ là mang tính thiền, tính tồn tại. Bạn
không hình dung ra nó qua trí tuệ, bạn đơn giản đi
nhiều hơn vào thiền, mở ra chiều hướng mới cho tầm
nhìn. Không ai đã nhấn mạnh vào thiền nhiều như
Phật. Toàn thể phương pháp của ông ấy là thiền.
Và thiền là gì? Thiền là dần dần trở nên vô ý nghĩ;
không rơi vào giấc ngủ - vẫn còn tỉnh táo và vậy mà
trở nên vô ý nghĩ. Một khi ý nghĩ biến mất, mọi thứ
đều trong như pha lê - rằng người nghĩ chỉ là sản
phẩm phụ của các ý nghĩ di chuyển. Nó là một đống
các ý nghĩ và không gì khác. Nó không có sự tồn tại
tách biệt.
Thế rồi bạn bước đi, nhưng người bước lại không
có đó nữa; thế rồi bạn ăn, nhưng người ăn không còn
có đó nữa; thế rồi bạn ngủ, nhưng người ngủ không
còn có đó nữa; thế rồi bạn sống, nhưng không có ai
đang sống cả; thế rồi bạn chết, và không có ai đang
chết cả.
Bạn chỉ là không gian thuần khiết trong đó hàng
triệu quá trình tồn tại, trong đó cuộc sống tuôn chảy
với tất cả những quá trình của nó và bạn vẫn còn
không bị biến chất bởi nó. Bạn giống như bầu trời
mở... mây tới và đi.
Một trong những cái tên hay nhất được đặt cho
Phật là Như Lai - Tathagata. Nó có nghĩa là 'tới vậy,
đi vậy'. Không có người nào tới và không có người
nào đi cả - chỉ việc tới và việc đi thôi. Đó là nghĩa của
Tathagata - chỉ là quá trình tới và quá trình đi; không
có người nào đã tới và không có người nào đã đi.
Các Thiền sư bao giờ cũng nói rằng người này
chưa bao giờ tồn tại cả, người có tên là Phật Gautam
chưa bao giờ tồn tại cả. Vâng, ông ấy chắc chắn đã
tới, và ông ấy cũng đã đi, nhưng ông ấy chưa bao giờ
tồn tại. Điều đó cũng giống như quá trình mơ. Giấc
mơ tới và đi và đến sáng bạn biết nó chưa bao giờ tồn
tại cả.
Một khi bạn hiểu bản thân mình như không gian
thuần khiết và nhiều điều xảy ra, bạn trở thành tách
rời. Thế thì bạn trở thành vô sợ hãi, bởi vì không có gì
để mất cả, không có ai để mất cái gì cả. Thế thì bạn
không còn đầy những thèm khát cuộc sống, bởi vì bạn
không quan niệm về cái ta nào. Thế thì bạn không sợ
chết và bạn không trong thèm khát cuộc sống. Thế thì
bạn không nghĩ về quá khứ và thế thì bạn không
phóng chiếu tương lai. Thế thì bạn đơn giản hiện hữu - thuần khiết như bầu trời bao la bên ngoài; bạn cũng
trở thành bầu trời thuần khiết bên trong. Và sự gặp gỡ
của hai bầu trời này, cái bên trong và cái bên ngoài, là
điều Phật gọi là niết bàn.
'Tôi hiểu mông lung rằng có thể cái vô hình dạng
vẫn còn, nhưng cái đó có một thực thể cá nhân
không?'
Không, nó không có thực thể cá nhân nào cả.
'Cùng con sóng đó không được tái sinh.' Đúng.
Thực tế, nếu bạn quan sát kĩ hơn - đi tới dòng sông
hay đại dương và quan sát sóng; bạn sẽ ngạc nhiên
khi thấy cái gì đó mới mẻ mà bạn chưa bao giờ nghĩ
tới trước đây. Khi bạn thấy một con sóng xô tới mình,
chẳng cái gì tới cả, sóng chưa bao giờ đi tới bạn. Bạn
thấy nó chuyển động về phía bạn; nó không chuyển
động đâu. Con sóng này đơn giản giúp con sóng kia
dâng lên bên cạnh. Con sóng kia giúp con sóng khác
dâng lên. Nhưng điều đó xảy ra nhanh tới mức nó tạo
ra ảo giác, ảo tưởng - bạn nghĩ cùng con sóng đang đi
tới bạn. Chẳng cái gì đi tới bạn cả.
Khi con sóng này nảy sinh, bởi tác động của con
sóng đó mà con sóng khác nảy sinh; chỉ trong lân cận
gần gũi, là con sóng khác. Bởi lực của con sóng thứ
nhất, có con sóng thứ hai; bởi lực của con sóng thứ
hai, có con sóng thứ ba; bởi lực của con sóng thứ ba,
có con sóng thứ tư - đó là cách thức sóng nảy sinh.
Nhưng chúng cho ảo tưởng cứ dường như cùng một
con sóng đang đi tới bạn. Chúng chưa bao giờ tới cả.
Khi bạn thấy một con sóng nảy sinh ở phía xa trên
đường chân trời, nó vẫn còn ở đó; nó chưa bao giờ tới
bạn cả.
Điều đó có thể xảy ra: bạn có thể thả một mẩu gỗ
ở ngay giữa dòng sông: mẩu gỗ đó sẽ đi tới bạn,
nhưng đừng bị lừa dối bởi điều đó - sóng không tới
đâu. Khi con sóng này đi lên cao, mẩu gỗ đó chuyển
sang con sóng khác; con sóng khác đi lên cao, nó đi
cùng con sóng thứ ba. Với các con sóng lên cao và
xuống thấp mẩu gỗ đi tới bờ, nhưng sóng chẳng bao
giờ tới. Đây là sự kiện khoa học. Chúng chỉ có vẻ là
đang tới thôi.
Đúng, chính xác, đó là điều Phật đang nói. 'Cùng
con sóng đó không được tái sinh.' Ông ấy không nói
bạn sẽ được tái sinh, ông ấy đơn giản nói có việc tái
sinh.
Nhưng theo một cách nào đó chúng ta có thể nói
bạn sẽ được sinh ra, bởi vì nó sẽ là sự liên tục. Cùng
con sóng đó: sóng A tạo ra sóng B, sóng B tạo ra sóng
C - nó là sự liên tục; sự liên tục là từ đúng. Điều đó
nữa cũng tới từ vật lí hiện đại: sự liên tục.
Phật gọi nó là santati. Cũng như đứa trẻ được sinh
ra cho bạn: nó là bạn theo cách nào đó, và vậy mà lại
không phải là bạn, không toàn bộ là bạn. Nó sẽ có cá
tính riêng của mình, nhưng bạn tạo ra con sóng.
Chính năng lượng của người cha và người mẹ tạo ra
con sóng mới. Con sóng này sẽ đi - người cha có thể
chết, người mẹ có thể chết - con sóng này sẽ tiếp tục,
và con sóng này sẽ tạo ra con sóng khác theo cách
riêng của nó, vào thời riêng của nó.
Santati, sự liên tục. Bạn không được sinh ra, chỉ
ham muốn của bạn là lại được sinh ra lần nữa; bởi vì
bạn không hiện hữu, cho nên bạn không thể được sinh
ra. Do đó, Phật nói, nếu bạn vứt bỏ việc ham muốn bạn sẽ không bao giờ được sinh ra nữa. Do đó, nếu
bạn hiểu toàn thể cái vô tích sự của ham muốn và bạn
dừng việc ham muốn, bạn vứt bỏ việc ham muốn, thế
thì sẽ không có việc sinh cho bạn.
Thế thì, đầu tiên bạn trở thành một dự lưu, bạn đi
vào trong dòng chảy, bạn bắt đầu hiểu cách mọi sự
đang đấy, mọi thứ là gì: cuộc sống diễn ra mà không
có cái ta. Đây là điều ông ấy ngụ ý bởi việc trở thành
một dự lưu, đi vào dòng chảy: đi vào trong ý tưởng về
dòng chảy - rằng cuộc sống cũng tựa như dòng sông,
không tĩnh tại mà năng động; không có vật mà chỉ có
các biến cố; thuyết động lực học, một hiện tượng năng
lượng.
Thế rồi, dần dần, khi bạn đi sâu hơn vào trong
luồng chảy này bạn trở thành một nhất hoàn - bạn sẽ
được sinh ra chỉ một lần nữa thôi. Bạn hiểu, nhưng
dầu vậy việc hiểu của bạn là không toàn bộ. Thế thì
bạn trở thành một bất hoàn - bạn sẽ không được sinh
ra lần nữa. Bạn đã hiểu toàn thể hiện tượng này.
Trong chính việc hiểu đó bạn được giải thoát.
Bằng việc trở nên có khả năng không được sinh ra
nữa, bạn trở thành một a la hán - người đã đạt tới,
người đã về tới. Bây giờ tôi đang dùng ngôn ngữ
không phải của Phật giáo, cho nên hãy nhận biết. Tôi
phải dùng ngôn ngữ không phải của Phật giáo, cho
nên tôi dùng các thuật ngữ - tôi nói, 'người đã đạt tới'.
Bây giờ, không có cách nào khác để nói điều đó,
nhưng bạn phải hiểu: khi tôi nói 'người đã đạt tới', thì
không có 'người', chỉ có 'đạt tới'... chỉ có 'việc đạt tới',
thậm chí không có 'sự đạt tới'.
Tầm nhìn của Phật là rất mang tính tồn tại và
không có gì mang tính giải thoát như tầm nhìn của
Phật. Bởi vì nếu bạn tin vào linh hồn thì bạn có thể bỏ
lại thế giới này, nhưng thế thì bạn sẽ ham muốn thiên
đường - bởi vì bạn không bỏ lại cái ta của mình. Ham
muốn dịch chuyển vào chiều hướng mới. Bạn vứt bỏ
tham lam, nhưng thực sự bạn không vứt bỏ nó - tham
lam tinh vi nảy sinh.
Nhìn thiên đường của người Mô ha mét giáo hay
người Ki tô giáo hay người Hindu giáo mà xem. Nó
trông trần tục thế, báng bổ thế. Bởi vì bất kì cái gì
những tôn giáo này đang bảo bạn vứt bỏ ở đây, thì lại
được cung cấp ở đó, và với khối lượng dồi dào. Họ
nói, 'Đừng uống rượu!' và trong thiên đường của
người Mô ha mét giáo, firdaus, sông rượu lại có đó.
Không có nhu cầu mua hay tậu, không có nhu cầu
mang giấy phép; bạn chỉ có việc nhảy vào thôi. Bạn
có thể tắm, bạn có thể bơi. Bây giờ, đây là cái gì?
Trong các quốc gia Hồi giáo, đồng dục đã từng rất
phổ biến, cho nên ngay cả điều đó cũng được chu cấp.
Không chỉ đàn bà đẹp có đó, mà cả con trai đẹp cũng
được cung cấp. Bây giờ điều này có vẻ xấu, nhưng
đấy là tâm trí người thường mà...
Bầt kì cái gì bạn đang vứt bỏ ở đây, bạn đang vứt
bỏ chỉ để được nhiều hơn - đây là logic đó.
Đàn bà đẹp - apsaras người Hindus gọi họ vậy,
hoors người Hồi giáo gọi họ vậy... và không chỉ hoors
mà còn gilmes, con trai đẹp, con trai điển trai cũng có
sẵn, bởi vì vài người đồng dục sẽ tới; họ sẽ làm gì? 

Phật nói chừng nào bạn còn chưa vứt bỏ cái ta,
bạn sẽ cứ duy trì mãi cùng cái điều vô nghĩa lặp đi lặp
lại. Cõi trời của bạn sẽ chẳng là gì ngoài thế giới này
được phóng chiếu - vẫn cùng thế giới này nhưng được
sửa đổi đi, được làm cho đẹp hơn, được trang trí hơn.
Ở đây trên trái đất này đàn bà đều phải già đi, trở nên
già đi. Trong thiên đường, trong thiên đường của
người Hindu, họ chẳng bao giờ trở nên già; họ bị kẹt
lại ở tuổi mười sáu. Họ phải cảm thấy rất chán ngán -
ở tuổi mười sáu; họ chẳng bao giờ lớn lên ra ngoài
điều đó.
Thực tế, đó là ham muốn của mọi đàn bà - được
kẹt lại ở tuổi mười sáu. Điều đó chẳng bao giờ xảy ra
ở đây cả, nhưng ở kia... Sau mười sáu tuổi đàn bà lớn
lên rất miễn cưỡng: trong ba, bốn năm, chỉ một lần
ngày sinh của họ tới. Rất miễn cưỡng... Nhưng đó đã
là ham muốn đấy - làm cho cái đẹp thành vĩnh viễn.
Ở đây điều đó là không thể được. Ngay cả với
mọi thứ đồ vật khoa học, dụng cụ, phương pháp làm
đẹp, phẫu thuật tạo hình, thế này thế nọ, ngay cả thế
thì điều đó vẫn không thể được. Người ta phải già đi.
Trong thiên đường - Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki
tô giáo, Do Thái giáo - phép màu đó đã xảy ra:
thượng đế đã chuẩn bị vườn cõi trời có tường bao cho
bạn rồi. Ông ấy đang đợi. Nếu bạn đức hạnh, nếu bạn
vâng lời ông ấy, bạn sẽ được thưởng nhiều vô cùng;
nếu bạn không vâng lời, thế thì có địa ngục.
Cho nên cái ta tồn tại ở đây như trung tâm của
ham muốn và thượng đế tồn tại như trung tâm của
việc đáp ứng cho ham muốn đó. Phật nói cả hai đều
không có, bỏ cả hai đi; thượng đế không có mà cái ta
cũng không có. Nhìn vào thực tại, đừng đi vào trong
ham muốn. Vứt những tưởng tượng đi, chấm dứt việc
mơ và nhìn vào cái đang đấy. Và ông ấy nói chỉ có thế
giới vô thường này của các quá trình mà thôi - thế
giới tựa như luồng chảy này, cơn lốc xoáy của thực
tại... mọi thứ đều vô thường và thay đổi, chẳng cái gì
thường hằng cả.
Đó là nghĩa của nhấn mạnh của ông ấy rằng
không có cái ta, bởi vì bạn đang cố gắng làm cho cái
gì đó trong bạn thành thường hằng. Bạn nói, thân thể
thay đổi, được; thế giới này thay đổi, được. Mối quan
hệ thay đổi, trở nên mục ruỗng, được thôi - nhưng cái
ta, cái ta là vĩnh hằng. Vâng, thế giới thấy được này
thay đổi - nhưng thượng đế vô hình, ông ấy là vĩnh
hằng. Bạn muốn cái gì đó vĩnh hằng một cách liều
lĩnh tới mức bạn bắt đầu tin vào nó. Chính ham muốn
của bạn là cái vĩnh hằng phải có đó.
Phật nói không có gì vĩnh hằng cả. Mọi thứ đều
vô thường, mọi thứ đều trong luồng chảy. Hiểu điều
này, và chính hiểu biết này sẽ giải thoát bạn.
Nhớ lấy, khi người khác nói về giải thoát, họ nói
về giải thoát vì cái ta. Khi Phật nói về giải thoát, ông
ấy nói về giải thoát khỏi cái ta. Và đó là quan điểm
triệt để vô cùng. Không phải là bạn sẽ được giải thoát,
mà bạn được giải thoát khỏi bạn.
Tự do duy nhất mà Phật nói là tự do thực khỏi
bạn. Bằng không tâm trí bạn sẽ cứ chơi trò chơi. Nó
sẽ cứ vẽ ra những ham muốn mới trên vải vẽ mới.
Chẳng cái gì sẽ thay đổi cả. Vải vẽ bạn có thể thay đổi
được. Bạn có thể trốn khỏi bãi chợ và ngồi trong đền
chùa - chẳng cái gì sẽ thay đổi, tâm trí bạn sẽ phóng chiếu cùng những ham muốn đó lên trời và thiên
đường.
Nhìn vào tâm trí này. Nhìn vào ham muốn của nó.
Quan sát, trở nên nhận biết đi. Tôi sẽ phải nhắc nhở
bạn lặp đi lặp lại, bởi vì tôi đang nói trong ngôn ngữ
phi Phật giáo. Cho nên khi Phật nói trở nên nhận biết,
ông ấy ngụ ý: là việc nhận biết. Không có ai để trở
nên nhận biết cả, chỉ có việc nhận biết.
Vâng, bạn sẽ không bao giờ được sinh ra lần nữa
đâu, nhưng nếu bạn còn mang ý tưởng rằng bạn có,
thế thì bạn sẽ vẫn còn trong sự liên tục đấy. Nếu bạn
vứt bỏ ý tưởng về cái ta, sự liên tục biến mất; bạn bay
hơi.
Đó chính là niết bàn là gì. Cũng như bạn thổi tắt
đèn và ánh sáng dừng lại, biến mất, bạn tắt tâm trí
ham muốn của mình đi và tất cả mọi khổ, và tất cả
mọi luân hồi, và mọi đau khổ, đều dừng lại. Bỗng
nhiên, bạn không có đó.
Nhưng điều đó không có nghĩa là không có gì cả,
bằng không thì sẽ chẳng có gì khác biệt giữa một
charvak và một Phật tử, thế thì sẽ không có gì khác
biệt giữa người vô thần và Phật. Có khác biệt vô cùng
đấy. Ông ấy nói bạn dừng lại và lần đầu tiên thực tại
tiếp quản. Nhưng ông ấy không bao giờ cho nó cái tên
nào, bởi vì việc đặt tên là không thể được - đặt tên
cho nó là làm sai nó đi. Nói nó ra là làm không thật nó
rồi. Ông ấy giữ im lặng, tuyệt đối im lặng về điều đó.
Ông ấy chỉ ra cách thức để kinh nghiệm nó. Ông ấy
không thêu và dệt triết lí quanh nó.
Câu hỏi thứ hai
Thầy đã nói cho chúng tôi nhiều lần: vị kỉ đi. Vị kỉ
là gì vậy?
Vứt bỏ cái ngã đi. Bởi vì đó là điều đẹp nhất có
thể xảy ra cho bạn. Đó sẽ là hài lòng lớn lao nhất có
thể tới với bạn.
Vứt bỏ cái ngã đi, nếu bạn thực sự vị kỉ. Nếu bạn
thực sự muốn là phúc lạc, vứt bỏ cái ngã đi - bởi vì
cái ngã đang tạo ra đủ mọi khổ của bạn và mọi địa
ngục của bạn.
Khó đấy, bởi vì điều đó cũng tựa như điều ngược
đời. Nhưng bạn có quan sát không? Mọi khổ tới bạn
bởi vì cái ngã của bạn, bởi vì bản ngã của bạn. Bạn cứ
bị tổn thương lặp đi lặp lại, bạn đau khổ nhiều bởi vì
bản ngã. Nó giống như vết thương bao giờ cũng còn
đau, và bất kì cái gì, ngay cả một cơn gió thoảng, một
cơn gió mát, cũng làm đau bạn. Ai đó mỉm cười và
điều đó gây đau, ai đó cười to và điều đó gây đau, ai
đó đang đi theo cách của mình, có thể bị lạc trong ý
nghĩ riêng của người đó, không nhìn vào bạn, và thế
thì điều đó gây đau.
Mulla Nasruddin nói với vợ mình, 'Đừng làm anh
bực mình thêm nữa! Em đang chọc giận anh đấy!' Và
anh ta thực sự phát điên. 

Chị vợ nói, 'Nhưng em có nói gì đâu. Em làm việc
của em mà.'
Mulla nói, 'Đấy là lí do tại sao. Em cứ im lặng
thế, điều đó gây bực mình. Vì Chúa, em nói điều gì đó
đi!'
Bây giờ, nếu bạn giữ im lặng, thế nữa ai đó cũng
có thể bị bực mình. Nếu bạn nói, thế thì có rắc rối.
Bản ngã sẵn sàng bị tổn thương; nó sẽ tìm cách thức
và phương tiện để bị tổn thương. Cho nên người sống
với bản ngã, với cái ngã, không thực sự là người vị kỉ
đâu, người đó là người ngu. Bởi vì người đó chỉ đau
khổ. Đây là cái kiểu vị kỉ phi vị kỉ gì vậy, nếu bạn chỉ
đau khổ?
Tôi chỉ cho bạn cách thức: vứt bỏ bản ngã đi.
Quên hết về bản ngã đi. Hiện hữu dường như bạn
không có, tồn tại như cái trống rỗng, và nhìn xem -
hàng triệu kinh nghiệm đẹp trở thành sẵn có cho bạn.
Mọi thứ đều trở thành kinh nghiệm sâu sắc, thoả mãn.
Mọi thứ đều đem tới món quà, ân huệ. Mọi thứ đều
trở thành phúc lành.
Bản ngã bao giờ cũng mong đợi và do đó bao giờ
cũng bị thất vọng. Người không bản ngã không mong
đợi điều gì, do đó mọi thứ đều đáp ứng; bất kì cái gì
xảy ra đều rất tốt, bất kì cái gì xảy ra đều vô cùng
trọng đại. Ngay cả người đó bắt gặp một bông hoa cỏ
nhỏ, người đó cũng bị thôi miên bởi nó. 'Bông hoa
đẹp thế! Mà mình chưa làm được gì cả, mình không
xứng với nó, và nó có đó chỉ để chờ đợi mình.' Chỉ
nhìn lên trời thôi, và người đó được đáp ứng. Chỉ
nghe chim chóc thôi, và bài ca vĩ đại nảy sinh trong
tim người đó. Thế thì mọi thứ đều đáp ứng cho người
đó.
Nhớ lấy, thất vọng bắt nguồn từ mong đợi, và bản
ngã bao giờ cũng mong đợi. Bản ngã là kẻ ăn xin.
Tôi đã nghe một câu chuyện Sufi hay.
Một người ăn xin tới gặp hoàng đế và người ăn
xin nói, 'Nếu bệ hạ định cho ta bất kì cái gì thì có một
điều kiện đấy.' Hoàng đế đã gặp nhiều người ăn xin -
nhưng người ăn xin với điều kiện sao? Và người ăn
xin này mới thực sự kì lạ, một người rất mạnh mẽ.
Ông ta là nhà huyền môn Sufi. Ông ta có duyên dáng,
sức lôi cuốn, cá tính của ông ta có hào quang. Ngay
cả hoàng đế cũng cảm thấy chút ít ghen tị. Và điều
kiện sao?!
Hoàng đế nói, 'Ông ngụ ý gì? Ông ngụ ý gì bởi
điều kiện của ông?'
Người ăn xin nói, 'Đây là điều kiện của ta: ta chỉ
chấp nhận nếu bệ hạ có thể rót đầy bình bát ăn xin của
ta một cách tuyệt đối.'
Đó là cái bình bát ăn xin nhỏ. Nhà vua nói, 'Ông
cho ta là cái gì vậy? Ta là kẻ ăn xin sao? Ta không thể
rót đầy cái bình bát ăn xin nhỏ bé bẩn thỉu này sao?'
Người ăn xin nói, 'Cứ phải nói trước với bệ hạ thì
tốt hơn, bởi vì về sau bệ hạ có thể lâm vào rắc rối.
Nếu bệ hạ cho rằng bệ hạ có thể rót đầy, thì rót đi.' 

Nhà vua gọi viên tể tướng tới và bảo ông ta rót
đầy nó bằng đá quí: bằng kim cương và ngọc bích,
ngọc lục. Để cho người ăn xin này biết anh ta đang
nói với ai! Nhưng thế rồi có khó khăn. Bình bát được
rót vào nhưng nhà vua ngạc nhiên - khi viên đá quí rơi
vào trong nó, đá biến mất. Nó được đổ vào nhiều lần
và lần nào nó cũng lại thành trống rỗng. Bây giờ nhà
vua bắt đầu khùng, nhưng ông ta bảo tể tướng, 'Cho
dù toàn thể vương quốc của ta có mất đi, nếu tất cả
các kho bạc của ta có bị trống rỗng, thì cứ để chúng
như vậy đi - nhưng ta không thể cho phép kẻ ăn xin
này đánh bại ta. Điều này là quá đáng.'
Và tất cả các kho bạc, chuyện kể rằng, đều biến
mất. Dần dần nhà vua trở thành kẻ ăn xin. Điều đó
phải mất nhiều tháng. Và người ăn xin vẫn có đó và
nhà vua có đó và toàn thể kinh đô có đó và mọi người
đều tự hỏi cái gì đã xảy ra, cái gì sẽ xảy ra vào lúc
cuối. Mọi thứ đơn giản biến mất.
Cuối cùng nhà vua phải sụp xuống dưới chân
người ăn xin và nhà vua nói, 'Tha thứ cho ta, nhưng
trước khi ông ra đi, nói cho ta một điều. Bí mật của
chiếc bình bát này là gì? Tất cả đều biến mất trong
nó.'
Người ăn xin bắt đầu cười to. Ông ta nói, 'Nó
được làm bằng bản ngã con người đấy. Ta đã làm ra
bình bát ăn xin này bằng bản ngã của con người: mọi
thứ đều biến mất trong nó, chẳng cái gì đã bao giờ
hoàn thành nó cả.'
Đó là câu chuyện cực kì hay. Đó là điều đang xảy
ra cho bạn. Nó không phải là câu chuyện, nó là cuộc
sống của bạn. Bạn cứ cho vào trong bình bát ăn xin
của mình nào nhà cửa, xe cộ, số dư ngân hàng - mọi
thứ đều biến mất. Bạn lại trống rỗng. Chẳng bao giờ
có thoả mãn nào, chẳng bao giờ có mãn nguyện nào.
Bạn lại ăn xin. Bạn đã từng làm điều đó trong nhiều
kiếp. Đó là câu chuyện của bạn. Nó đúng về từng câu
chữ, nó không chỉ là đúng về mặt biểu tượng đâu. Nó
là chân lí trong cuộc sống của mọi người, trong cuộc
sống của mọi con người.
Chúng ta vẫn còn là kẻ ăn xin. Bình bắt ăn xin
vẫn còn trống rỗng. Dường như nó là cái bình không
đáy. Bạn thả vào trong nó bất kì cái gì, cái đó đơn
giản biến mất.
Bản ngã không bao giờ được thoả mãn. Cho nên
người bản ngã là người rất không vị kỉ. Nhớ lấy điều
ngược đời này: người bản ngã là người rất không vị
kỉ, bởi vì người đó không bao giờ được thoả mãn.
Người vô bản ngã là người rất vị kỉ bởi vì người đó
được thoả mãn. Người đó đạt tới phúc lạc.

Câu hỏi thứ ba
Hàng ngày thầy đều tới với tay khoanh lại, mỉm
cười, và cùng cách đó thầy quay về sau bài nói. Ý
nghĩa của cử chỉ này là gì vậy? 

Tôi nói, tới mỉm cười, đi mỉm cười. Đó là ý nghĩa
của như lai - tathagata: vậy tới, vậy đi. Để việc tới và
đi này chỉ là nụ cười, không gì bản chất hơn nụ cười.
Nụ cười là điều phi bản chất nhất trên thế giới. Bạn
không thể bắt giữ được nó; nó tuột đi, nó lảng tránh,
không thể nói ra được. Để cuộc sống của bạn chỉ là nụ
cười. Tới mỉm cười, đi mỉm cười.
Và, tất nhiên, khoanh tay, bằng không thì ai đó có
thể bị tổn thương. Nếu bạn mỉm cười mà tay không
khoanh lại, bản ngã của ai đó có thể bị tổn thương.
Người đó có thể nói, 'Anh ngụ ý gì vậy? Cười tôi
sao?' Cho nên chỉ để bảo vệ để khỏi có bất kì hiểu lầm
nào...
Nhưng đừng cố gắng làm cho nó thành cử chỉ
trống rỗng, bởi vì nụ cười giả dối là một trong những
điều nguy hiểm nhất để học. Đừng bao giờ cười giả
dối, bởi vì một khi bạn bắt đầu mỉm cười giả dối, bạn
sẽ quên mất cách mỉm cười chân thực. Đừng bao giờ
làm biến chất nụ cười của bạn. Bằng không nó chỉ là
việc giả vờ, và là việc giả vờ rất nguy hiểm; không chỉ
bạn đang lừa dối người khác, bạn có thể tự lừa chính
bản thân mình.
Để nụ cười của bạn bắt nguồn từ trống rỗng bên
trong của bạn, để cho nó tới từ chính cốt lõi của cái vô
ngã của bạn và lan toả khắp xung quanh bạn. Để cho
nó giống như bông hoa tới từ chính gốc rễ, nhựa cây
chạy từ rễ tới chính đỉnh và hoa. Để cho nụ cười của
bạn tới từ chính cốt lõi tồn tại đích thực của bạn. Nó
không nên được tô vẽ.
Tôi đã nghe:
Mới đây một người Do Thái mộ đạo và cao tuổi
đã làm cho con mình ngạc nhiên. Họ nghĩ ông ấy đã
cải đạo sang Ki tô giáo, bởi vì ông ấy dường như làm
dấu chữ thập trên mình mọi lúc ông ấy rời khỏi nhà.
'Vớ vẩn!' ông ấy nói khi họ giáp mặt ông ấy. 'Tao
chạm bên phải để chắc tao vẫn có kính, và chạm bên
trái để chắc tao vẫn có khăn mùi soa. Tao đưa tay lên
đầu để chắc mũ tao vẫn trên đầu, và tao chạm cúc áo
để chắc nó đã được cài.'
Dấu chữ thập của bạn có thể giống như điều đó.
Nụ cười của bạn cũng có thể giống như điều đó. Đừng
bao giờ làm những cử chỉ vô tích sự. Chân thực vào.
Ngay cả nỗi buồn chân thực cũng còn tốt hơn nụ cười
giả dối - ít nhất nó cũng còn thực. Nước mắt thực còn
tốt hơn tiếng cười không thực - ít nhất nó cũng thực,
chân thực, nó giúp bạn trưởng thành. Người ta trưởng
thành qua chân thực.
Cho nên tôi không nói học mỉm cười, tôi nói đạt
tới mỉm cười. Tôi không nói học, tôi nói đạt tới, vươn
tới mỉm cười.
Câu hỏi thứ tư
Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu, đôi lúc giống
như cáo, thỉnh thoảng lại giống đệ tử hơn. Có ải yêu hay hiểu biết làm biến đổi người ta
thành đệ tử không?
Đó là một quan sát đúng. Đó là cách mọi người
đang vậy. Câu hỏi này là từ Prem Asheesh. Đó là một
quan sát đích thực. Đó là cách mọi sự đang vậy.
'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu...' Và nếu bạn
giống như cừu, bạn không thể là đệ tử được. Tất nhiên
nhiều cừu nghĩ rằng họ là đệ tử. Nếu điều đó chỉ là vì
nỗi sợ rằng bạn theo tôi, thì bạn theo nỗi sợ của mình
đó, bạn không theo tôi đâu. Tôi không ở đây để làm ra
cừu từ bạn. Xã hội, các chính khách, các tu sĩ đã gây
đủ tai hại rồi - không cần thêm nữa. Bạn đã bị rút gọn
thành kẻ hèn nhát từ nhiều thế kỉ; mọi người đều đã
có đó ép buộc bạn phải là kẻ hèn nhát. Mọi người đều
buộc bạn đi vào sự tồn tại đáng sợ; bạn bao giờ cũng
run rẩy.
Tôi ở đây để giúp bạn vứt bỏ run rẩy này. Không
có gì phải sợ cả bởi vì không có gì để mất cả. Không
có gì phải sợ ngay cả với cái chết, bởi vì không có ai
để chết. Không thiệt hại nào có thể bị gây cho bạn
được. Một khi bạn hiểu điều này, cừu biến mất. Cừu
có thể là tín đồ nhưng không thể là đệ tử được.
Và tín đồ thì không nhất thiết là đệ tử. Tín đồ chỉ
đang tìm cách thức và phương tiện để bảo vệ bản thân
mình, để được an toàn. Tín đồ đang cố gắng đổ trách
nhiệm lên vai ai đó khác. Tín đồ đơn giản cố gắng tìm
ra một nhóm mà người đó có thể bị mất hút và nỗi sợ
riêng của người đó không còn đó nữa, nơi người đó
không một mình. Người đó đơn giản tìm kiếm bạn
đồng hành. Người đó không thể một mình được,
người đó sợ một mình. Người đó không thể tin cậy
được vào bản thân mình. Tín đồ là người không thể
tin cậy được vào bản thân mình.
Đệ tử là người tin cậy vào bản thân mình. Từ tin
cậy của mình người đó đi tới học từ ai đó, người đã đi
xa hơn bản thân người này chút ít. Người đó không
phải là tín đồ, người đó không phải là kẻ bắt chước và
người đó không tìm kiếm an ninh - người đó tìm kiếm
hiểu biết. Cho dù hiểu biết đó đem tới nhiều bất an
hơn, người đó vẫn sẵn sàng cho nó.
Tín đồ không bao giờ sẵn sàng cho bất an cả;
người đó tới guru, tới thầy, để tìm sự bảo vệ, chỗ trú
ngụ, để ẩn nấp đằng sau thầy. Người đó đi tìm kiếm
hình ảnh người bố.
Đệ tử đi tìm thầy, không phải hình ảnh người bố.
Đệ tử muốn học cuộc sống là gì. Cho dù cuộc sống là
bất an, người đó vẫn sẵn sàng học. Cho dù cuộc sống
hàm ý cái chết, người đó vẫn sẵn sàng học.
Tín đồ chỉ muốn có bản đồ. Đệ tử muốn đi tiếp
cuộc phiêu lưu. Đệ tử không lo nghĩ về bản đồ, người
đó đơn giản muốn thách thức. 'Thách thức tôi đi!' đệ
tử nói. 'Kéo tôi ra khỏi trạng thái ngẩn ngơ,' đệ tử nói.
'Đưa tôi vào cuộc mạo hiểm,' đệ tử nói. Tín đồ nói,
'Bảo vệ con, đừng bao giờ để con một mình. Không
có thầy con bị lạc. Đừng bảo con đi đâu! Để con nấp
sau lưng thầy.'
Nhớ lấy, đệ tử là người tìm kiếm, tín đồ đơn giản
ốm yếu với sợ hãi. 

'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu...'
Đấy là những lúc bạn không thể là đệ tử được, ít
nhất cũng không đối với tôi.
'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cáo.' Vâng, cáo
cũng không thể là đệ tử được. Cáo là anh chàng rất
tinh ranh, tính toán, hợp lí hoá. Tâm trí cáo bao giờ
cũng trong tìm kiếm nhiều thông tin hơn, nhiều tri
thức hơn - không nhiều hiểu biết hơn. Tâm trí cáo tóm
giữ bất kì cái gì có thể được bắt giữ từ mọi nguồn để
cho nó trở nên thông thái hơn. Bởi vì tri thức đem tới
sức mạnh.
Cáo đang tìm kiếm quyền lực. Cừu đang tìm kiếm
người mạnh mẽ người có thể bảo vệ, còn cáo đang tìm
kiếm quyền lực. Cáo giả vờ là cừu nhiều lần chỉ để
tóm bắt thêm chút ít từ ai đó, nhưng sâu bên dưới cáo
đang học chỉ mỗi việc trở nên ngày một bản ngã hơn.
Có những người đi tới thầy chỉ để trở thành thầy
chẳng chóng thì chầy - đó là mục đích duy nhất của
họ. Họ không đi tới để học; thực tế, sâu bên dưới họ
đã tới để dạy. Họ học một cách miễn cưỡng, bởi vì
khó mà dạy nếu không học.
Cáo là quá tinh ranh đến mức không khiêm tốn
được. Cáo quá tinh ranh và thông thái và tính toán để
đi vào mối quan hệ sâu hơn với thầy, để đi vào trong
tình yêu. Cừu không thể là đệ tử được bởi vì cừu sợ
hãi quá nhiều; cáo không thể là đệ tử được bởi vì cáo
sâu bên dưới là đang trong cuộc hành trình quyền lực.
Nhưng cả hai điều này đều có đó. Và Asheesh đã
thực sự quan sát nó một cách đúng đắn, đích xác đúng
đắn.
'Đôi lúc tôi cảm thấy giống như cừu, đôi lúc giống
như cáo, thỉnh thoảng lại giống đệ tử hơn.'
Kì diệu là những khoảnh khắc bạn cảm thấy giống
đệ tử. Nuôi dưỡng chúng. Những khoảnh khắc đó
phải được nuôi dưỡng ngày một nhiều hơn, để cho
dần dần chúng tới với bạn ngày một nhiều hơn, chúng
xảy ra cho bạn ngày một nhiều hơn. Buông xuôi cả
cừu lẫn cáo của bạn cho những khoảnh khắc hiếm hoi
khi bạn là đệ tử.
Đệ tử không sợ hãi, không tìm kiếm quyền lực.
Đệ tử đi tìm việc biết cuộc sống này là gì. Người đó
không muốn chinh phục, người đó không muốn
chứng minh bản thân mình trong thế giới rằng mình là
ai đó, người đó đơn giản muốn biết, 'Tôi là ai?' Người
đó không quan tâm theo bất kì cách nào vào việc
chứng minh, người đó đơn giản muốn biết, 'Bí ẩn này
đang xảy ra quanh tôi là cái gì vậy?' Người đó hỏi
trong khiêm tốn sâu sắc.
Chất vấn của người đó không từ tò mò, chất vấn
của người đó không chỉ là truy tìm, chất vấn của
người đó là chất vấn của người tìm kiếm đích thực,
một mumukshu. Chất vấn của người đó là mumuksha -
ham muốn đam mê để biết cuộc sống là gì. Đệ tử là
người trong tình yêu đam mê với cuộc sống và muốn
biết cuộc sống này là gì, muốn đi vào trong bí ẩn này.
'Có phải tình yêu hay hiểu biết làm biến đổi người
ta thành đệ tử không?' Một mình tình yêu sẽ không
làm bạn thành đệ tử đâu. Hiểu biết một mình cũng sẽ
không làm bạn thành đệ tử. Chính yêu hiểu mới làm cho bạn thành đệ tử. Nếu bạn đơn giản hiểu tôi, bạn sẽ
vẫn còn xa xăm; sẽ có khoảng cách, bởi vì sẽ không
có cây cầu nào. Không có tình yêu thì không có cây
cầu. Bạn sẽ hiểu, nhưng việc hiểu của bạn sẽ vẫn còn
khô khan. Bạn sẽ không được nối với tôi; tôi sẽ không
tuôn chảy trong bạn, bạn sẽ không cho phép tuôn chảy
của tôi, bạn sẽ không cho phép tôi làm ngập lụt bạn,
biến đổi bạn. Bạn sẽ vẫn còn tách rời, toán học.
Và chỉ tình yêu một mình sẽ không ích gì, bởi vì
tình yêu hạnh phúc tới mức nó quên mất hiểu biết.
Tình yêu mở hội vui thế, nó quên mất hiểu biết. Nó
tham gia vào tình yêu nhiều tới mức không có tách rời
để hiểu biết.
Hiểu biết với thầy xảy ra chỉ khi bạn đủ tách rời
để hiểu biết, và vậy mà vẫn đủ quan hệ để hiểu. Cây
cầu tồn tại: tôi gọi nó là yêu hiểu. Thế thì bạn tham
gia cùng tôi, thế thì bạn xúc động cùng tôi - nhưng
xúc động đó không nhấn chìm bạn, xúc động đó
không làm cho bạn thành người say. Bạn uống tôi thật
nhiều như bạn có thể, nhưng dầu vậy bạn vẫn còn tỉnh
táo, nhận biết; bạn không bị mất hút trong nó.
Đó là trạng thái rất ngược đời - yêu hiểu. Thế thì
bạn trong tham gia sâu sắc cùng tôi, và vậy mà bạn
vẫn còn tách biệt; bạn là một với tôi và vậy mà bạn
vẫn còn tách biệt. Chỉ thế, và chỉ thế bạn mới trở
thành đệ tử.
Câu hỏi thứ năm
Khác biệt giữa mẹ đẻ, người mẹ và Ma là gì?
Tôi không biết nhiều, nhưng tôi sẽ cố gắng tối đa
theo mức của mình. Mẹ đẻ là người giả vờ là người
mẹ, nhưng không phải vậy; người cho là người mẹ,
nhưng không phải vậy. Bởi vì là người mẹ là rất, rất
khó. Là mẹ đẻ lại rất dễ dàng. Chỉ sinh đẻ là đủ là mẹ
đẻ rồi. Không cần hiểu biết gì cả.
Toàn thế giới đầy những mẹ đẻ, nhưng tìm ra
người mẹ lại rất khó. Người mẹ là người giúp bạn là
bản thân mình. Mẹ đẻ là người nghĩ, người tin rằng bà
ấy yêu bạn, nhưng thực sự yêu bản thân bà ấy thôi, và
muốn bạn trở thành sự phóng chiếu của tham vọng
của bà ấy. Đó là điều bố đẻ cũng là gì.
Mẹ đẻ và bố đẻ bạn có thể tìm thấy ở mọi nơi; họ
đã làm biến chất toàn thế giới - mẹ đẻ và bố đẻ. Freud
nói nếu bạn đi sâu vào loạn thần kinh chức năng bạn
bao giờ cũng thấy mẹ đẻ ở chỗ cuối cùng. Tất cả phân
tâm học chung cuộc đều nghiêng về vấn đề nào đó mà
người mẹ - mẹ đẻ - đã tạo ra. Cho nên mẹ đẻ là giả vờ
làm người mẹ - bản sao vật lí của người mẹ tâm linh.
Là người mẹ là rất khó. Chỉ người đã về tới nhà
mới có thể là người mẹ được. Cho sinh nở rất dễ
dàng, nó là tự nhiên, sinh học; nhưng là người mẹ là
cái gì đó tâm linh. 

Mẹ đẻ muốn bạn theo bà ấy, bà ấy muốn sở hữu
bạn - làm cho bạn trở thành một phần, một tài sản quí
giá với bà ấy. Bà ấy sẽ níu bám quanh bạn.
Người mẹ sẽ giúp bạn trở nên độc lập. Bà ấy sẽ
giúp bạn trở thành cá nhân. Bà ấy sẽ yêu bạn, nhưng
bà ấy sẽ không cố gắng ép buộc cái gì lên bạn. Bà ấy
sẽ đem tình yêu của mình tới cho bạn, nhưng sẽ
không đem tri thức của bà ấy cho bạn. Bà ấy sẽ gửi
bạn vào thế giới để tìm ra chân lí riêng của bạn, để
tìm ra cuộc sống riêng của bạn. Bà ấy sẽ không cho
bạn hình mẫu hay khuôn mẫu. Bà ấy sẽ không cấu
trúc bạn, bà ấy đơn giản sẽ giúp bạn, dù bạn có thể là
bất kì điều gì.
Người mẹ chỉ là lí tưởng, điều đó hiếm khi xảy ra.
Mẹ đẻ bạn có thể tìm thấy ở bất kì đâu. Người mẹ chỉ
là ý tưởng, ý tưởng không tưởng - người có thể cho
việc sinh thành linh hồn bạn. Chỉ vị Phật mới có thể là
người mẹ, hay một Meera mới có thể là người mẹ,
hay một Krishna, hay một Mohammed mới có thể là
người mẹ - người duy nhất có thể cho bạn linh hồn
của mình, định mệnh của mình.
Mẹ đẻ chỉ mang tính sinh học. Khái niệm về
người mẹ là mang tính tâm linh. Còn Ma lại rất đơn
giản để hiểu. Ma là người đàn bà đang chịu chứng
bệnh có tên là Osho!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến