Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

Thân thể và tâm trí

Các bạn yêu dấu,
Có vài câu hỏi - thực tế thì có nhiều câu hỏi. Tôi sẽ cố đưa
ra câu trả lời kết hợp cho tất cả câu hỏi. Tôi đã chia chúng
thành các nhóm.

Câu hỏi thứ nhất là:

Vị trí của tôn giáo trong thời đại khoa học là gì? Công dụng
của tôn giáo trong đời sống xã hội và quốc gia?

Khoa học là dạng kiến thức tìm kiếm sức mạnh bên trong,
tiềm ẩn trong vật chất. Tôn giáo là dạng kiến thức tìm kiếm sức
mạnh bên trong, tiềm ẩn trong tâm thức. Không có xung đột
giữa tôn giáo và khoa học; thực tế chúng bù trừ cho nhau.
Trong thời đại chỉ có khoa học thì sẽ có nhiều tiện ích hơn,
nhưng lại sẽ ít có hạnh phúc hơn. Trong thời đại chỉ có tôn giáo vài người sẽ biết tới hạnh phúc, nhưng phần lớn, mọi người sẽ
chịu đứng những thiếu thốn tiện nghi. Khoa học cung cấp tiện
nghi, tôn giáo mang tới bình an. Nếu không có tiện nghi, rất ít
người có thể biết tới bình an. Nếu không có bình an, thế thì
nhiều người có thể giành được tiện nghi nhưng sẽ không biết
làm sao để hưởng thụ chúng.
Cho tới bây giờ mọi nền văn minh mà con người tạo thành
vẫn chưa hoàn thiện, phân mảnh. Văn hóa mà phương Đông
tạo thành đào sâu một cách thuần túy tới tôn giáo. Nó không
hứng thú với khoa học. Kết quả là, phương Đông bị đánh bại;
nó trở nên bị bần cùng hóa và bị phá hủy. Văn hóa mà phương
Tây tạo thành lại ở cực khác: nó dựa vào khoa học và không
liên quan gì tới tôn giáo. Kết quả là, phương Tây đã chiến
thắng và tích lũy giàu sang, của cái và tiện nghi nhưng nó đánh
mất linh hồn của mình.
Văn hóa xuất hiện trong tương lai, nếu thực sự vì tiến hóa
của loài người thì nó sẽ là cân bằng của khoa học và tôn giáo.
Văn hóa này sẽ là tổng hợp của tôn giáo và khoa học. Nó sẽ
không chỉ là tôn giáo hay khoa học: nó sẽ hoặc là tôn giáo
mang tính khoa học hoặc khoa học mang tính tôn giáo.
Cho đến nay, cả hai thử nghiệm đều thất bại. Thử nghiệm
phương Đông đã thất bại và thử nghiệm phương Tây cũng đã
thất bại. Nhưng bây giờ chúng ta có cơ hội tạo ra thử nghiệm
toàn cầu vốn không là của phương Đông hay phương Tây, ở đó
cả tôn giáo và khoa học được tích hợp.
Vì thế tôi nói với bạn rằng không có xung đột giữa tôn giáo
và khoa học, cũng như vậy không có xung đột giữa cơ thể và
tâm hồn. Bất kỳ ai chỉ sống ở tầng của cơ thể sẽ đánh mất linh
hồn, và ai cố gắng chỉ sống ở chiều tâm linh cũng sẽ không thể sống đúng bởi người đó sẽ mất đi liên lạc với cơ thể.
Cuộc sống con người là sự cân bằng, sự tích hợp của cơ thể
và linh hồn, giống như vậy nền văn hóa hoàn chỉnh cũng là sự
cân bằng, tích hợp giữa khoa học và tôn giáo. Khoa học sẽ là
cơ thể của nó, tôn giáo là linh hồn của nó.
Nhưng nếu ai đó định hỏi tôi rằng nếu chúng ta phải lựa
chọn giữa tôn giáo và khoa học, chúng ta nên chọn gì? Thế thì
tôi sẽ nói rằng chúng ta nên sẵn sàng chọn tôn giáo. Nếu người
nào định hỏi tôi lựa chọn gì giữa khoa học và tôn giáo bởi chỉ
được chọn một trong hai, tôi sẽ nói là sẵn sàng chọn tôn giáo.
Sẽ tốt hơn khi nghèo và thiếu tiện nghi hơn là đánh mất linh
hồn của con người.
Giá trị của tiện nghi là gì mà đáng giá cả bản thân ta? Và giá
trị của giàu sang là gì mà tước đi khỏi ta thực thể của chính
mình? Thực tế, chúng ta không là tiện nghi cũng không là giàu
có.
Tôi sẽ kể bạn nghe một câu chuyện ngắn, nó đã luôn là một
trong nhưng câu chuyện hay của tôi.
Tôi nghe nói rằng ngày trước có vị vua Hy Lạp thấy ốm
mệt. Ông ấy ốm tới nỗi bác sỹ nói ông ấy sẽ không sống được,
không có hy vọng. Vì vậy quan cận thận và thần dân những
người yêu quý ông ấy trở nên rất lo lắng và nóng lòng. Cũng
ngay lúc đó có một fakir vào làng, và ai đó nói, "Mọi người nói
nếu bạn vời vị fakir tới và ông ấy ban phúc cho, người ốm sẽ
được chữa khỏi."
Họ đi tới vời vị fakir và ông ấy tới. Giây phút ông ấy tới ông
ấy nói với nhà vua, "Ông bị điên ư? Đây mà ông gọi là bệnh à?
Nó không phải là bệnh. Có một phương pháp điều trị rất đơn  giản cho nó."
Nhà vua, người vốn nằm tại giường hàng tháng, ngồi dậy và
nói, "Phương pháp điều trị gì? Tôi nghĩ tôi đã kết thúc rồi. Tôi
không còn hy vọng hồi phục nào."
Vị fakir nói, "Nó là phương pháp chữa trị rất rất dễ. Hãy
mang tới đây áo của người vừa phát đạt và an bình trong làng,
và nhà vua sẽ mặc chiếc áo này vào. Ông ấy sẽ trở nên mạnh
khỏe và hồi phục."
Các quan đại thần chạy đi... Có nhiều người phát đạt trong
làng. Họ đi từ nhà này tới nhà khác nói, "Chúng tôi muốn chiếc
áo của người vừa phát đạt vừa an bình."
Và những người phát đạt nói, "Nhưng chúng tôi bất hạnh...
Một chiếc áo ư! - chúng tôi có thể cho đi cuộc sống của mình,
cần gì nói tới chiếc áo. Nếu nhà vua có thể được cứu sống,
chúng tôi sẵn sàng cho đi mọi thứ. Nhưng áo của chúng tôi
không tác dụng đâu bởi chúng tôi phát đạt đấy, nhưng chúng
tôi không an bình."
Họ đi tới từng người một trong làng. Họ tìm cả ngày, và tới
tối họ đã mất hết hy vọng. Họ nhận ra rằng sẽ khó mà cứu được
nhà vua - phương thuốc quá xa tầm tay. Vào buổi sáng họ đã
nghĩ, "Phương thuốc sẽ rất dễ tìm," nhưng tới tối họ nhận ra,
"Phương thuốc là rất khó, thực tế, không thể tìm thấy được."
Họ tất cả đều là những người giàu có.
Tối họ trở lại, mệt mỏi và buồn rầu. Mặt trời đang lặn. Phía
ngoài làng, ven sông và ngồi bên một tảng đá là một người
đang thổi sáo. Âm thanh của nó thật du dương và nhiều làn
sóng hân hoan trỗi dậy từ nó tới nỗi một vị quan cận thần nói,
"Hãy cùng tới hỏi người cuối cùng này... có lẽ ông ấy an bình."

Họ đi tới ông ấy và hỏi, "Âm thanh tiếng sáo của ông, bài
hát của ông nghe đầy hân hoan và an bình tới nỗi chúng tôi
muốn hỏi ông đôi điều. Nhà vua đang ốm và chúng tôi cần
chiếc áo của người vừa an bình vừa phát đạt."
Người đó nói, "Tôi sẵn sàng trao đi cuộc sống của mình,
nhưng chỉ nhìn gần một chút... tôi không có áo." Họ nhìn gần
lại, trời thì tối - người đang chơi sáo không mặc quần áo.
Vì vậy nhà vua không thể được cứu bởi người bình an thì
không thịnh vượng, và người thịnh vượng thì không có bình an.
Cũng như vậy, không thể cứu được thế giới bởi nền văn hóa kế
thừa di sản của bình an thì không có thịnh vượng, và nền văn
hóa thịnh vượng thì thậm chí không cả nghĩ về bình an. Nhà
vua chết.
Loài người cũng sẽ chết. Phương thuốc mà loài người cần
cũng giống như thứ mà nhà vua cần. Chúng ta cần áo và chúng
ta cũng cần bình an. Tới nay, hệ tư tưởng của chúng ta chưa
hoàn chỉnh. Tới nay chúng ta vẫn nghĩ về con người theo một
cách rất không hoàn chỉnh, và chúng ta di chuyển thường
xuyên tới các thái cực. Căn bệnh lớn nhất của tâm trí con người
là xu hướng đi tới những thái cực.
Khổng Tử đang ngụ tại ngôi làng khi ai đó nói với ông ấy,
"Có một người rất uyên bác và thông thái, ông có muốn gặp
ông ấy không?"
Khổng Tử nói, "Trước tiên cho tôi hỏi bạn tại sao bạn gọi
ông ấy là rất thông thái, và rồi tôi sẽ chắc chắn đi tới gặp ông
ấy."
Mọi người nói, "Ông ấy thông thái bởi trước khi làm bất kỳ
việc gì ông ấy nghĩ ba lần - ba lần!"

Khổng Tử nói, "Người này không thông thái; ba lần là hơi
quá nhiều. Một là quá ít, hai là vừa đủ. Người thông minh
ngừng lại ở giữa, người ngu dốt đi tới cực đoan."
Điểm ngu dốt đầu tiên là nếu một người nghĩ bản thân mình
chỉ là cơ thể. Điểm ngu dốt thứ hai, và cũng cùng mức độ như
thế, là nếu một người nghĩ bản thân mình chỉ là linh hồn. Cá
nhân con người là tổng hợp: văn hóa của con người cũng sẽ là
tổng hợp.
Và đã tới lúc chúng ta học bài học của mình. Nghèo đói và
thất bại lịch sử của Ấn Độ, và trạng thái bị chà đạp của tất cả
các nước phương Đông không phải là không có lý do, và lý do
là chủ nghĩa cực đoan tôn giáo. Và thực tế là các nước phương
Tây đã trở nên nghèo từ bên trong cũng không phải là không có
lý do: lý do là chủ nghĩa cực đoan khoa học. Tương lai sẽ tốt
đẹp nếu khoa học và tôn giáo được tích hợp. Điều này thật rõ
ràng: trong tích hợp của tôn giáo và khoa học, tôn giáo sẽ là
trung tâm và khoa học là chu vi. Rõ ràng rằng với tích hợp của
khoa học và tôn giáo, tôn giáo cần thiết là thông minh và khoa
học đi theo. Cơ thể không thể là chủ; khoa học cũng không thể
là chủ. Tôn giáo sẽ là chủ. Và sau đó chúng ta sẽ có thể tạo nên
thế giới tốt hơn.
Vì vậy đừng hỏi về việc sử dụng tôn giáo trong thời đại
khoa học. Tôn giáo vô cùng hữu dụng trong thời đại khoa học
bởi khoa học là một cực, và là cực nguy hiểm. Tôn giáo sẽ trao
cho nó sự cân bằng, và nó sẽ có thể cứu con người khỏi nguy
hiểm của thái cực đó.
Đó là lý do tại sao thời khắc hồi sinh của tôn giáo trên toàn
thế giới là rất gần trong tầm tay. Nó là rất tự nhiên - và nó hoàn
toàn chắc chắc. Cần có sự hồi sinh của tôn giáo ở đây, nếu không khoa học sẽ chỉ dẫn tới chết chóc. Vì vậy hỏi có nhu cầu
gì với tôn giáo trong thời đại khoa học là vô nghĩa: tôn giáo
được cần tới nhiều nhất trong thời đại của khoa học.
Liên quan tới điều này, cũng có câu hỏi về công dụng của
tôn giáo trong đời sống xã hội và quốc gia.
Tôi nghĩ rằng điều tôi vừa nói có lẽ cũng đã giải đáp cho câu
hỏi này, bởi vài thứ hữu dụng cho cá nhân cũng chắc chắn sẽ
hữu dụng cho quốc gia và xã hội nói chung. Sau cùng thì, quốc
gia và xã hội là gì ngoại trừ một tập thể những cá nhân? Vì thế
đừng mang ảo ảnh rằng quốc gia có thể sống mà không có tôn
giáo.
Bất hạnh này đã xảy ra tại Ấn Độ. Chúng ta đã hiểu nhầm từ
ngữ nhất định; chúng ta đã bắt đầu nói về trạng thái phi tôn
giáo. Chúng ta hẳn nên nói tới trạng thái "phi giáo phái" nhưng
chúng ta đã bắt đầu nói về trạng thái phi tôn giáo. Một điều là
trạng thái phi giáo phái, và một điều hoàn toàn khác là trạng
thái phi tôn giáo. Bất kỳ người thông minh nào cũng sẽ yêu
thích trạng thái phi giáo phái, nhưng chỉ người ngu mới có thể
yêu thích trạng thái phi tôn giáo.
Phi giáo phái có nghĩa rằng chúng ta không bận tâm tới
Jaina giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Mohammed giáo. Điều
này ngụ ý phi giáo phái. Nhưng phi tôn giáo ngụ ý rằng chúng
ta không bận tâm tới sự thật, tới phi bạo lực, tới tình yêu hay từ
bi. Không quốc gia nào có thể phi tôn giáo theo nghĩa đó. Và
nếu là vậy, thì đấy là bất hạnh của nó. Quốc gia phải làm cho
tôn giáo thành năng lượng sống của mình. Thế nhưng, chắc
chắn cần đi tới phi giáo phái.
Người vô thần trên thế giới đã không gây hại tới tôn giáo  nhiều, nhà khoa học trên thế giới không gây hại tới tôn giáo
nhiều. Người gây hại tôn giáo nhiều nhất chính là những nhà
lãnh đạo tôn giáo. Những người mà nhấn mạnh của họ vào tôn
giáo thì ít mà vào việc là người Jaina nhiều hơn, nhấn mạnh
của họ vào tôn giáo thì ít mà vào việc là người Mohammed
nhiều hơn. Chính những người này đã tước đi thế giới của tôn
giáo. Giáo phái vốn chỉ nên là bộ phận của tôn giáo đã được
minh chứng là kẻ sát nhân của nó. Tôn giáo có giá trị to lớn,
nhưng giáo phái không có giá trị. Càng có ít giáo phái và môn
phái càng tốt.
Bất kỳ chủng tộc nào, quốc gia nào hay xã hội nào cũng sẽ
không thể tiếp tục mà không có nền tảng của tôn giáo. Làm sao
có thể? Liệu chúng ta có thể tiếp tục mà không có nền tảng của
tình yêu không? Làm sao quốc gia có thể là quốc gia khi không
có nền tảng của tình yêu hay sự thật? Hay quốc gia có thể là
quốc gia khi không có nền tảng của vị tha, của phi chiếm hữu,
của phi bạo lực và không sợ hãi không? Có những phẩm chất
cơ bản của linh hồn. Không có chúng không có quốc gia,
không có xã hội. Và nếu có những quốc gia đó, xã hội đó, thì
bất kỳ ai với dù chỉ chút ít thông minh cũng sẽ thấy rằng nó là
một đám đông của những người máy. Sẽ không thể gọi nó là
một quốc gia.
Quốc gia được hình thành thông qua mối tương quan - quan
hệ của tôi với bạn, và những quan hệ mà bạn có với hàng xóm
của bạn. Tất những tương tác này cùng nhau trở thành một
quốc gia. Những quan hệ này càng trở nên dựa vào sự thật, vào
tình yêu, vào phi bạo lực và mộ đạo, thì sẽ càng có hương thơm
trong cuộc sống của quốc gia, sẽ càng có ánh sáng trong cuộc
sống của quốc gia và càng có ít bóng tối trong cuộc sống của
quốc gia.

Vì vậy tôi nói, cuộc sống của quốc gia và xã hội chỉ có thể
tồn tại nếu nó được hình thành trên nền tảng tôn giáo. Bạn nên
cẩn thận cách bạn sử dụng khái niệm của chủ nghĩa thế tục;
toàn bộ quốc gia nên cẩn thận. Dưới lớp vỏ của từ ngữ này có
nguy hại lớn. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ này bạn có lẽ tin rằng
không cần tới tôn giáo. Nhưng tôn giáo là điều duy nhất nhân
loại cần.Mọi thứ khác là thứ cấp và có thể được bỏ đi. Tôn giáo
là cái gì đó không thể bỏ đi được.
Tôi nghĩ đều này sẽ giúp bạn giải quyết câu hỏi của mình.

§
Một bạn khác đã hỏi:

Chúng ta nên thiền về gì?
Nói chung thì, với mọi ý tưởng khắp nơi về thiền, bạn hiểu
thiền ngụ ý là suy ngẫm về điều gì đó: bạn sẽ thiền về ai đó hay
cái gì đó. Vậy nên cũng tự nhiên khi câu hỏi này nảy sinh,
thiền về gì đây? - cầu nguyện tới ai đây? Dâng hiến của bạn
chuyển tới ai đây? Yêu ai đây?

Tôi đã nói với bạn sáng nay rằng có một loại tình yêu mà
bạn sẽ hỏi bạn mình đang trong tình yêu với ai. Và có một loại
tình yêu khác mà bạn sẽ hỏi liệu có tình yêu bên trong bạn hay
không?Không có gì liên quan với nhau.
Có hai trạng thái tình yêu: một cái trong đó là mối quan hệ,
và cái kia trong đó tình yêu là trạng thái. Trong tình yêu đầu
tiên, nếu tôi nói với bạn rằng tôi cảm thấy tình yêu thế thì bạn
sẽ hỏi, "Với ai?" Và nếu tôi nói với bạn rằng không phải là vấn
đề người nào, tôi chỉ cảm thấy tình yêu, thế thì bạn sẽ thấy khó
hiểu. Nhưng chính trạng thái thứ hai mới là cái phải được hiểu Chỉ người nào đơn giản yêu mà không cần phải là vì người
nào có đó, mới thật sự yêu. Người mà yêu một người cụ thể đó
họ sẽ làm gì với tất cả những người còn lại? - người đó sẽ đổ
đầy thù ghét với những người khác. Và người mà thiền về một
người cụ thể sẽ làm gì với những người còn lại? - người đó sẽ
đổ đầy vô thức với những người khác.
Thiền tôi đang nói về không là thiền về cái gì: đúng hơn, nó
là trạng thái của thiền.Vì vậy đây là điều tôi ngụ ý khi tôi nói
với bạn về thiền như một trạng thái. Thiền không có nghĩa là
nhớ về ai đó. Thiền có nghĩa là buông bỏ mọi thứ vốn có trong
trí nhớ và đi tới trạng thái nơi chỉ có ý thức còn lại, nơi chỉ có
tỉnh thức còn lại.
Nếu bạn thắp sáng ngọn đèn và di chuyển mọi vật thể xung
quanh nó, ngọn đèn sẽ vẫn tiếp tục cho ánh sáng. Theo cùng
cách như vậy, nếu bạn di chuyển mọi đối tượng từ tâm thức của
bạn, mọi ý nghĩ, mọi tưởng tượng, điều gì sẽ xảy ra? - chỉ tâm
thức là còn đó. Trạng thái tâm thức tinh khiết là thiền. Bạn
không thiền về ai đó. Thiền là trạng thái ở đó chỉ tâm thức là
còn lại.
Khi chỉ tâm thức là còn đó mà không có đối tượng, trạng
thái đó được gọi là thiền. Tôi đang sử dụng từ thiền theo nghĩa
này.
Điều bạn thực hành không là thiền theo nghĩa thật; nó chỉ là
khái niệm. Nhưng thiền tự chính nó sẽ xảy ra thông qua điều
này. Cố hiểu rằng điều bạn thực hành vào buổi tối, những bài
tập liên quan tới luân xa, và vào buổi sáng, những bài tập liên
quan tới hơi thở, tất cả là phương pháp rèn luyện, nó không là
thiền.Thông qua kỷ luật này thời khắc khi hơi thở sẽ dường
như biến mất sẽ tới. Thông qua kỷ luật này thời khắc cơ thể dường như biến mất và ý nghĩ cũng biến mất sẽ tới. Điều sẽ
còn lại là gì khi mọi thứ đã biến mất? Điều mà còn lại đó chính
là thiền. Khi mọi thứ biến mất, cái mà còn lại phía sau đó được
gọi là thiền. Kỷ luật là vào gì đó; thiền là không vào bất kỳ cái
gì cụ thể.Vì vậy điều bạn thực tế đang làm là thực hành những
phương pháp rèn luyện về luân xa và hơi thở.
Bạn sẽ hỏi, "Sẽ tốt hơn không nếu chúng tôi thực hành một
phương pháp rèn luyện sử dụng ý tưởng về Thượng đế? Sẽ tốt
hơn không nếu chúng tôi thực hành một phương pháp rèn luyện
với một vị thần?"
Điều đó sẽ là nguy hiểm. Nó nguy hiểm bởi trong khi bạn
thực hành kỷ luật với vị thần, trạng thái mà tôi đang gọi là
thiền sẽ không xảy ra. Thực hành phương pháp rèn luyện với vị
thần, sẽ chỉ có vị thần và không gì khác. Và phương pháp rèn
luyện cùng vị thần càng sâu sắc, vị thần sẽ ở đó càng nhiều và
không gì khác cả.
Điều đã xảy ra với Ramakrishna. Anh ấy từng thiền về nữ
thần Kali; đây là phương pháp rèn luyện của anh ấy. Sau đó, từ
từ, từ từ đã xảy ra chuyện anh ấy bắt đầu tìm kiếm Kali bên
trong bản thân. Nhắm mắt lại, thần trở nên sống động và anh ấy
bắt đầu rất hân hoan, rất vui sướng. Nhưng một ngày nhà minh
triết tới gặp anh ấy. Hiền nhân nói với anh ấy, "Điều cậu đang
làm chỉ là tưởng tượng, không phải là gặp gỡ với Thượng đế."
Và Ramakrishna nói, "Không phải là gặp gỡ với Thượng đế
ư? Nhưng tôi thấy thần Kali thật sống động mà!"
Hiền nhân đáp, "Nhìn thấy thần Kali sống động không là
cuộc gặp với Thượng đế."
Vài người thấy một vị thần Kali, vài người thấy một Jesus, vài người thấy Krishna - tất cả đều là bịa đặt của tâm trí.
Thượng đế không có bất kỳ hình dạng hữu hình nào. Thiêng
liêng không có khuôn mặt, tính cách, hình dạng. Lúc ý thức trở
nên vô hình dạng, nó đi vào thiêng liêng.
Bạn không thình lình gặp thiêng liêng, bạn trở thành một với
nó. Không có cuộc gặp bất ngờ mặt đối mặt nơi bạn đứng một
bên và Thượng đế đứng bên kia. Thời khắc sẽ tới khi bạn hòa
nhập với tồn tại vô hạn, giống như giọt nước rơi vào đại dương.
Và kinh nghiệm của giây phút đó là kinh nghiệm của thiêng
liêng. Bạn không bất chợt gặp hay thấy Thượng đế, bạn kinh
nghiệm sự hòa nhập với tồn tại giống như giọt nước cảm thấy
khi nó rơi vào đại dương.
Vì vậy hiền nhân nói với anh ta, "Đây là sai lầm. Nó chỉ là
tưởng tượng." Và ông ấy nói với Ramakrishna, "Bây giờ, theo
cùng cách bạn đã tạo ra vị thần này trong bạn, hãy cắt nó thành
hai mảnh đi. Nâng thanh gươm tưởng tượng lên và chém tan vị
thần thành hai!"
Ramakrishna nói, "Gươm ư? Tôi sẽ tìm thấy thanh gươm ở
đâu?"
Hiền nhân nói, "Cách bạn tạo nên vị thần là tưởng tượng.
Bạn cũng có thể tưởng tượng nên thanh gươm và cắt vị thần
bằng nó. Để tưởng tượng phá hủy tưởng tượng. Khi vị thần đổ
xuống không gì sẽ còn lại phía sau. Thế giới vốn đã biến mất,
và giờ chỉ một vị thần còn lại - cũng để cho nó ra đi nốt. Và khi
chỉ còn lại không gian trống không bạn sẽ bất chợt gặp thiêng
liêng. Điều bạn đang nghĩ là thiêng liêng không phải là thiêng
liêng. Nó là rào chắn cuối cùng với Thượng đế. Phá hủy cả nó
đi!"

Đã rất khó cho Ramakrishna. Anh ấy đã suy niệm dựa trên
vị thần này hàng năm và nuôi dưỡng nó với nhiều tình yêu tới
mức nó đã bắt đầu có vẻ như sống động. Sẽ rất khó để phá hủy
nó. Anh ấy nhắm mắt lại lần nữa và lần nữa nhưng rồi quay lại
nói, "Tôi không thể thực hiện hành động độc ác này được!"
Nhưng hiền nhân nói, "Nếu bạn không thể làm điều này, bạn
không thể trở thành một với thiêng liêng. Thế thì tình yêu của
bạn với thiêng liêng là ít hơn tình yêu của bạn với vị thần. Bạn
chưa sẵn sàng phá hủy vị thần vì lợi ích của thiêng liêng ư?
Tình yêu của bạn với thiêng liêng là chưa đủ - bạn chưa sẵn
sàng từ bỏ tượng thần vì nó!"
Bạn cũng không có nhiều tình yêu với thiêng liêng. Bạn
cũng đang gìn giữ những hình tượng giữa bạn và thiêng liêng -
nắm giữ giáo phái, nắm giữ kinh sách tôn giáo - và bạn chưa
sẵn sàng buông chúng.
Hiền nhân nói, "Bạn ngồi trong suy tưởng, và ta sẽ dùng
mảnh kính cắt trán anh. Và khi anh cảm thấy ta cắt trán anh với
mảnh kính, tập hợp chút can đảm và cắt bỏ Kali thành hai
mảnh."
Ramakrishna tìm thấy sự can đảm, và khi ông làm như thế
tượng thần bị cắt thành hai mảnh. Khi ông trở lại ông ấy nói,
"Hôm nay, lần đầu tiên, tôi đạt tới samadhi.Hôm nay, lần đầu
tiên, tôi đi tới biết sự thật là gì. Lần đầu tiên tôi tự do khỏi
tưởng tượng và tôi đã đi vào sự thật.
Vì vậy đây là lý do tại sao tôi đang không yêu cầu bạn
tưởng tượng bất kỳ cái gì. Tôi không yêu cầu bạn tưởng tượng
gì đó vốn sẽ là chướng ngại. Và vài điều tôi đã nói về luân xa
và về hơi thở không là chướng ngại bởi bạn không trở nên mê đắm với chúng. Bạn không bị gắn liền với chúng: chúng chỉ là
phương tiện thông qua đó bạn có thể đi vào bên trong. Chúng
không thể trở thành chướng ngại.
Vì vậy tôi chỉ đang nói về việc sử dụng tưởng tượng theo
cách mà cuối cùng nó không trở thành chướng ngại cho thiền
của bạn. Đây là lý do tại sao tôi đã không yêu cầu bạn thiền về
cái gì đó, tôi đơn giản yêu cầu bạn đi vào thiền.Tôi không yêu
cầu bạn thực hiện thiền, tôi đề nghị bạn đi vào thiền.
Bạn không chuẩn bị thiền về cái gì đó. Bạn phải đạt tới thiền
trong chính bản thân bạn. Nếu bạn nhớ tới điều này, nhiều điều
sẽ trở nên rõ ràng.
Một người bạn đã hỏi:
Tại sao tâm linh bị áp đảo bởi thú vui trần tục, bất chấp bản
chất cao hơn của nó?
Cho tới bây giờ, tâm linh vẫn không bị áp đảo. Cho tới ngày
nay, tính tâm linh chưa từng bị áp đảo bởi thú vui trần tục. Bạn
sẽ nói rằng tôi sai bởi mỗi ngày bạn hẳn đang cảm thấy bị chế
ngự bên trong chính bạn. Nhưng tôi hỏi bạn, bạn có bất kỳ
quan tâm tâm linh chân thực nào chưa? Điều bạn thật sự đang
nói là cái trở nên bị áp đảo đó chưa tồn tại trong bạn; nó chỉ là
ý tưởng bạn có về tâm linh, rằng bạn nghe nói từ đâu đó. Nếu
ai đó nói với bạn rằng kim cương chiếu sáng ít là thạch anh,
bạn sẽ nói gì? Bạn sẽ nói rằng thế thì chúng không thể là kim
cương thật; kim cương phải là ảo và thạch anh phải là thật. Vì
vậy tất nhiên kim cương sẽ bị đánh bại và thạch anh sẽ thắng.
Bởi nếu kim cương là thật, thế thì làm sao chúng có thể bị đánh
bại bởi thạch anh?
Bạn hẳn nghĩ rằng trong cuộc sống phẩm chất tâm linh của bạn bị chế ngự bởi những thú vui trần tục. Nhưng những phẩm
chất tâm linh đó ở đâu? Vì vậy bất kỳ cái gì bạn nghĩ là đang bị
áp chế chỉ là tưởng tượng; phần khác đó chỉ là chưa hiện diện.
Bạn hẳn liên tục nghĩ rằng thù ghét chiến thắng và tình yêu bị
chế ngự. Nhưng tình yêu ở đâu? Bạn hẳn nghĩ rằng ham muốn
tiền bạc chiến thắng và nó áp chế ham muốn biết thiêng liêng.
Nhưng ham muốn biết thiêng liêng này ở đâu? Nếu nó thật sự ở
đó, không ham muốn nào có thể áp đảo nó. Nếu nó thật sự ở
đó, không ham muốn khác nào thậm chí có thể tồn tại. Câu hỏi
rằng nó đang bị áp chế sẽ không nảy sinh.
Nếu ai đó định nói rằng có ánh sáng nhưng nó bị áp chế bởi
bóng tối, bạn sẽ nói rằng người đó điên. Nếu có ánh sáng, thế
thì bóng tối không thể đi vào. Cho tới bây giờ không có chiến
tranh giữa ánh sáng và bóng tối. Cho tới bây giờ chưa bao giờ
là xung đột giữa ánh sáng và bóng tối bởi giờ phút có ánh sáng,
bóng tối không còn tồn tại. Đối thủ thậm chí không tồn tại, vì
vậy chiến thắng không là vấn đề. Bóng tối có thể chiến thẳng
chỉ khi ánh sáng không có chút nào, vì vậy nó chiến thắng chỉ
trong sự vắng mặt của ánh sáng. Chỉ là không có câu hỏi về
bóng tối trong sự hiện diện của ánh sáng bởi bóng tối biến mất
rồi, nó đơn giản không ở đó.
Cái bạn đang gọi là "những thú vui trần tục" sẽ biến mất nếu
thú vui tâm linh xảy ra trong bạn. Đây là lý do tại sao toàn bộ
nỗ lực của tôi là đưa tới nhấn mạnh hơn nữa cho việc tạo nên
sự thích thú tâm linh trong bạn hơn là nhấn mạnh việc từ bỏ thú
vui trần tục của bạn. Nhấn mạnh của tôi là về phía thực.
Khi thú vui tâm linh đích thực nảy sinh trong bạn, thú vui
trần tục của bạn trở nên yếu. Khi tình yêu nảy sinh trong ai đó,
thù ghét biến mất từ bên trong người đó. Chưa bao giờ có xung đột giữa tình yêu và thù ghét; cho tới bây giờ chưa từng xảy ra.
Khi sự thật nảy sinh trong ai đó, dối trá biến mất từ bên trong
người đó. Sự thật và giả dối chưa từng trong xung đột. Khi phi
bạo lực nảy sinh trong ai đó, bạo lực của anh ta biến mất. Phi
bạo lực và bạo lực chưa bao giờ trong xung đột. Không là câu
hỏi về chiến bại... không có đến cả việc giao tranh. Bạo lực yếu
tới mức giây phút phi bạo lực nổi lên, nó biến mất. Phi tâm linh
là rất yếu, thế giới là yếu, rất yếu.
Đây là lý do tại sao ở Ấn Độ thế giới được mô tả như maya,
ảo ảnh.Maya có nghĩa là cái gì đó vốn yếu tới mức bạn chỉ
chạm vào nó chút ít và nó biến mất. Nó là phép màu. Giống
như ai đó chỉ cho bạn cây xoài vốn mới vừa được làm cho đột
ngột hiện ra, và rồi khi bạn tới gần nó hơn bạn thấy rằng nó
không có đó. Hoặc trong đêm tối bạn thấy sợi dây đang lơ lửng
và nhầm là con rắn; thế rồi khi bạn tới gần hơn bạn thấy rằng
không có con rắn nào cả. Con rắn mà bạn thấy dưới hình sợi
dây là ảo ảnh: nó có vẻ ở đó nhưng không phải vậy.
Đấy là lý do tại sao ở Ấn Độ thế giới được nói là ảo ảnh, bởi
khi ai đó tới đủ gần, giây phút người đó thấy sự thật người đó
sẽ thấy rằng không có thế giới, chính là như vậy. Điều bạn
đang gọi là thế giới chưa bao giờ đụng độ sự thật.
Vì vậy, khi bạn cảm thấy rằng thú vui tâm linh của bạn đang
bị đánh bại, hãy nhận biết một điều: những thú vui đó của bạn
hẳn là ảo. Bạn hẳn đã biết tới nó qua việc đọc sách, chúng
không bên trong bạn. Có nhiều người như vậy ...
Một người đã tới tôi và hỏi, "Trong quá khứ tôi từng kinh
nghiệm Thượng đế, nhưng tôi không còn như thế nữa!"
Tôi nói với anh ấy, "Nó hẳn chưa từng xảy ra. Liệu có thể nào bạn bắt đầu kinh nghiệm thiêng liêng và rồi bạn dừng lại
không?"
Nhiều người tới tôi và nói, "Tôi từng kinh nghiệm thiền
nhưng bây giờ tôi không thể nữa."
Tôi nói với họ, "Nó chưa từng xảy ra giống thế, bởi không
thể nào từng kinh nghiệm thiền và rồi mất nó được."
Ghi nhớ điều này trong tâm trí: trong cuộc sống, trạng thái
cao hơn có thể được chạm tới nhưng chúng chưa bao giờ bị
mất đi. Bạn có thể chạm tới những trạng thái cao hơn nhưng
bạn không thể mất chúng, không có cách nào mất chúng cả.
Bạn có thể trở nên khôn ngoan, bạn có thể đạt tới hiểu biết,
nhưng bạn không thể mất nó. Nó là không thể.
Nhưng điều xảy ra là với giáo dục và với điều kiện hóa, vài
cảm giác gọi là tôn giáo nảy sinh trong bạn. Bạn tin rằng chúng
là tôn giáo, chúng không là tôn giáo, chúng chỉ là quy định hóa.
Có khác biệt giữa tính tôn giáo và điều kiện hóa. Từ thơ ấu trở
đi, bạn đã được dạy rằng có linh hồn. Bạn học nó, bạn nhồi
nhét nó, bạn ghi nhớ nó, nó trở thành một phần của hệ thống ký
ức của bạn. Và về sau bạn vẫn tiếp tục nói rằng có linh hồn và
bạn nghĩ bạn biết rằng có linh hồn.
Bạn không biết nó chút nào. Nó là ý tưởng mà bạn từng
nghe nói đâu đó, điều sai lầm những người khác đã dạy bạn.
Bạn không biết chút nào. Và rồi nếu cái được gọi là linh hồn
này bị đánh bại bởi đam mê của bạn, bạn nói, "Linh hồn yếu tới
mức nó bị đánh bại bởi những ham muốn của tôi." Bạn không
có linh hồn, bạn chỉ có ý tưởng. Và ý tưởng đó được tạo nên
bởi xã hội, nó không là của bạn. Khi năng lượng của thú vui
tâm linh thức tỉnh qua kinh nghiệm của chính bạn, thế thì thú vui trần tục biến mất. Chúng không còn có ảnh hưởng lên bạn.
Nhớ lấy điều này: nếu bạn cảm thấy rằng bạn đang bị đánh
bại, nhận ra rằng cái bạn đã tin tưởng là tôn giáo hẳn phải là cái
bạn nghĩ là tôn giáo, không là kinh nghiệm về tôn giáo của
chính bạn. Ai đó hẳn đã nói với bạn, chính bản thân bạn chưa
kinh nghiệm nó. Bạn hẳn đã nghe tới nó từ bố mẹ bạn. Bạn có
lẽ có nó từ truyền thống, nhưng nó chưa xảy ra trong bạn. Bạn
nghĩ có ánh sáng nhưng chưa có - đó là lý do tại sao bóng tối
chiến thắng. Khi có ánh sáng, hiện diện thực sự của nó đánh
bại bóng tối. Ánh sáng không chiến đấu với bóng tối: hiện diện
thật của nó, tồn tại thật của nó là thất bại của bóng tối.
Giữ điều này trong tâm trí bạn, và ném đi sự rỗng tuếch, cái
gọi là thú vui tâm linh và cảm giác tôn giáo đã bị đánh bại. Biết
chúng là rỗng tuếch, chúng không có ý nghĩa. Việc hiểu về
cách tạo ra thú vui tâm linh đích thực sẽ tới với bạn chỉ khi bạn
hiểu cách buông bỏ những thú vui giả.
Nhiều người trong các bạn tiếp tục mang theo gánh nặng
của những điều tưởng tượng hoàn toàn, điều vốn không tồn tại.
Như thể bạn là một trong những kẻ ăn xin vốn nghĩ bản thân
mình là người giàu có, cái mà bạn không là. Tại sao khi bạn đặt
tay mình vào túi của bạn và không tìm thấy ít tiền nào, bạn hỏi,
"Đây là loại giàu có gì nhỉ?" Đây không là giàu có chút nào.
Những người ăn xin có trò tiêu khiển thú vị: mơ là giàu có -
và mọi hành khất đều mơ trở nên giàu có. Vì vậy bạn càng trần
tục, bạn sẽ càng mơ về việc trở nên tôn giáo.
Có nhiều cách để mơ. Đi tới đền vào buổi sáng, quyên góp
đôi chút gì đó, thực hiện vài nghi lễ, thậm chí thỉnh thoảng đọc
đôi chút từ kinh Gita, kinh Koran hoặc kinh Thánh, do đó ảo ảnh rằng bạn mộ đạo được tạo ra. Những hành động này tạo
nên ảo ảnh rằng bạn mộ đạo. Và thế thì khi cái gọi là thú vui
tôn giáo này bị đánh bại bởi những ham muốn trần tục, bạn trở
nên rất buồn và đầy nuối tiếc, và bạn nghĩ, "Thú vui tâm linh
mới yếu làm sao và thú vui trần tục mới mạnh mẽ làm sao."
Nhưng bạn không có chút thú vui tâm linh nào. Bạn đang lừa
dối bản thân với việc nghĩ rằng bạn tôn giáo.
Vì thế bạn cần hiểu rằng thú vui tâm linh nào có thể bị đánh
bại bởi ham muốn dục là giả. Đây là tiêu chuẩn: thú vui tâm
linh nào có thể bị đánh bại bởi thú vui trần tục là giả. Cái ngày
một thú vui được sinh ra trong bạn thế thì trước hiện diện của
nó thú vui trần tục của bạn biến mất - thậm chí ở đó nếu bạn
tìm kiếm chúng bạn cũng sẽ không thể tìm thấy được - ngày
đó, cái gì đó sẽ thật sự xảy ra cho bạn. Bạn sẽ có thoáng nhìn
về tính tôn giáo.
Nếu mặt trời mọc vào buổi sáng và bóng tối còn lại như nó
là, thế thì hãy biết rằng bạn chỉ đang mơ rằng mặt trời đã mọc.
Khi mặt trời mọc, bóng tối tự nó biến mất. Mặt trời chưa từng
gặp bóng tối; mặt trời không biết rằng cái gì đó như bóng tối
tồn tại. Và nó sẽ không bao giờ có thể biết tới.
Cho tới bây giờ linh hồn chưa từng biết rằng cái gì đó giống
như ham muốn trần tục tồn tại. Khi linh hồn thức tỉnh, thế thì
ham muốn không thể tìm thấy ở đâu cả. Hai cái chưa bao giờ
gặp gỡ. Nhớ lấy tiêu chuẩn này; nó sẽ hữu ích.
Một người bạn đã hỏi:
Khổ hạnh có là cần thiết trong thiền không?
Điều tôi đang diễn tả với bạn - thanh lọc cơ thể, thanh lọc ý
nghĩ, thanh lọc cảm xúc; tính không của cơ thể, tính không của tâm trí, tính không của cảm xúc - đây là khổ hạnh.
Và mọi người nghĩ khổ hạnh là gì? Nếu ai đó đang đứng
dưới mặt trời, họ nghĩ rằng người đó đang tu tập khổ hạnh. Nếu
ai đó nằm trên nệm gai, họ nghĩ rằng người đó đang tu tập khổ
hạnh. Nếu ai đó đang ngồi trong cơn đói, điều đó nghĩa là
người đó đang tu tập khổ hạnh. Ý tưởng của chúng ta về khổ
hạnh là rất duy vật, rất thể xác. Khổ hạnh, với hầu hết mọi
người, có nghĩa là hà khắc với cơ thể. Nếu ai đó đang làm tổn
thương cơ thể mình, thế thì người đó đang thực hành khổ hạnh.
Thực tế, khổ hạnh không liên quan gì tới việc làm tổn thương
cơ thể. Khổ hạnh là gì đó hoàn toàn duy nhất; là gì đó khá khác
biệt.
Nếu ai đó đang nhịn ăn bạn nghĩ người đó đang thực hành
khổ hạnh - nhưng người đó chỉ đang chết đói. Và tôi sẽ thậm
chí đi xa tới mức nói rằng người đó đang không nhịn ăn, người
đó chỉ đang chịu đựng cơn đói. Chịu đựng cơn đói, không ăn
gì, là một điều; nhịn ăn là gì đó hoàn toàn khác.
Một upvaas, người nhịn ăn, có nghĩa là sống trong hiện diện
của thiêng liêng.Nó có nghĩa là ở gần linh hồn ai đó. Nó có
nghĩa là gần với linh hồn. Và chịu đựng cơn đói nghĩa là gì?
Chịu đựng cơn đói có nghĩa ở gần với cơ thể. Đây là hai điều để tự hào. Nếu đói là gì đó tâm linh, những nước nghèo sẽ tâm
linh. Nhưng bạn có biết rằng không nước nghèo nào có thể tâm
linh không? Ít nhật nó chưa từng xảy ra cho tới bây giờ. Một
đất nước chỉ có thể trở nên tôn giáo khi nó giàu có.
Bạn nhớ những ngày quá khứ khi các nước phương Đông là
tôn giáo, khi Ấn Độ là tôn giáo, nhưng đó là những ngày thật
sự thịnh vượng, thật sự hạnh phúc và thật sự sung túc.
Mahavira và Phật là con vua; toàn bộ hai mươi tư vị tu khổ
hạnh chứng ngộ Jaina là con vua.Điều này không là ngẫu
nhiên. Tại sao chưa bao giờ có vị tu khổ hạnh chứng ngộ được
sinh ra trong gia đình nghèo? Có lý do cho nó: khổ hạnh luôn
bắt đầu giữa sung túc. Người nghèo thì gần với cơ thể hơn.
Người giàu bắt đầu trở nên tự do khỏi cơ thể, theo nghĩa này
những nhu cầu mang tính thể xác của người đó đã được hoàn
thành và lần đầu tiên người đó trở nên ý thức về nhu cầu mới
vốn là của linh hồn.
Đây là lý do tại sao tôi không ủng hộ bạn nhịn đói, hoặc
khiến ai đó khác đi tới nhịn đói, hoặc gọi nghèo khổ là tính tâm
linh. Những người nói điều này là đang mang ảo ảnh và họ
cũng đang lừa dối những người khác. Họ chỉ đang ủng hộ cho
nghèo khó và nhận lấy những đường đi sai để cảm thấy được
bằng lòng. Ở trong cơn đói không có giá trị, tinh thực có giá trị.
Vâng, có thể trong trạng thái tịnh thực bạn quên mất thức ăn và
cứ tiếp tục mà không có nó, nhưng đó lại là chuyện hoàn toàn
khác. Mahavira đang thực hành khổ hạnh. Ông không giữ mình
đói, ông tịnh thực. Thông qua tịnh thực ông tiếp tục cố thử
chạm tới gần hơn linh hồn. Trong một vài thời khắc khi ông ấy
ở gần hơn với thượng đế, thế thì ông ấy sẽ quên mất sự hiện
diện của cơ thể. Những thời khắc đó có thể được kéo dài và
một hoặc hai ngày, thậm chí cả tháng có thể trôi qua.

Người ta nói về Mahavira rằng trong mười hai năm tu khổ
hạnh, ông ấy chỉ ăn ba trăm năm mươi ngày. Một hoặc hai
tháng trôi qua lúc ông ấy không ăn. Bạn có nghĩ rằng nếu ông
ấy đã đói, hai tháng có đơn giản trôi qua không? Người đói sẽ
chết. Nhưng Mahavira không chết bởi ông ấy không nhận biết
về cơ thể mình suốt thời gian đó. Có nhiều thân mật, gần gũi
với linh hồn tới mức ông ấy không nhận biết rằng cơ thể cũng
có đó.
Và nó là một bí ẩn kỳ diệu... nếu bạn trở nên không nhận
biết về sự hiện diện của cơ thể, nó bắt đầu vận hành theo hệ
thống khác hoàn toàn và nó không còn cần thức ăn nữa. Bây
giờ nó là một thực tế khoa học rằng nếu bạn trở nên hoàn toàn
không nhận biết về cơ thể bạn, nó sẽ bắt đầu vận hành theo hệ
thống khác hoàn toàn và nó sẽ không cần nhiều thức ăn. Và
người nào càng đi vào thế giới tâm linh, sẽ càng trở nên có thể
cho người đó tiếp nhận năng lượng tinh tế, rất tinh tế từ thức ăn
vốn không thể đối với người bình thường. Vì vậy khi Mahavira
tịnh thực, chỉ bởi vì ông ấy gần với linh hồn tới mức ông ấy
quên đi tất cả về thức ăn. Đây là cách nó có thể xảy ra.
Một lần có người mộ đạo cạnh tôi, và người đó nói với tôi,
"tôi nhịn ăn hôm nay."
Tôi nói, "Bạn phải ngụ ý bạn đang nhịn đói, mà không là
tịnh thực!"
Ông ấy nói, "Có khác biệt gì giữa nhịn đói và tịnh thực?"
Tôi nói, khi bạn nhịn đói, bạn ngừng ăn thức ăn và bạn bắt
đầu suy ngẫm về thức ăn. Tịnh thực ngụ ý rằng bạn không còn
bận tâm tới thức ăn; bạn đang trong giao tiếp với linh hồn và
thức ăn bị quên lãng."

Tịnh thực là khổ hạnh thật. Và nhịn đói là gây tổn thương
cho cơ thể, đè nén cơ thể. Người có bản ngã nhịn đói; người
phi bản ngã tịnh thực. Nhịn đói đáp ứng bản ngã, rằng "tôi đã
không ăn nhiều ngày rồi!" Bạn thấy tự hào và vui sướng khắp
xung quanh bạn. Tin tức rằng bạn rất tôn giáo lan truyền khắp
nơi. Thậm chí một vết thương nhỏ cho cơ thể cũng đáp ứng lớn
lao bản ngã, vì thế người có cái tôi lớn đồng ý làm điều này.
Tôi đang nói với bạn một cách rõ ràng rằng đây là mối bận
tâm của bản ngã. Đây không là lợi ích và bận tâm tôn giáo.
Người tôn giáo dứt khoát tịnh thực, nhưng họ không nhịn đói.
Tịnh thực có nghĩa rằng ai đó hoàn toàn bị thú hút vào nỗ lực
tới gần với linh hồn. Và khi ai đó bắt đầu đi tới gần hơn với
linh hồn, xảy ra chuyện thức ăn hoàn toàn bị quên lãng. Và tôi
nói với bạn điều này một cách dứt khoát rằng nó đúng trong
mọi thứ, không chỉ trong chuyện này mà trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống.
Hôm qua tôi đã nói với bạn về dục và tình yêu... hay có lẽ
về gì đó khác. Người bận rộn đè nén dục sẽ dường như rất tôn
giáo với bạn, nhưng thực tế người đó không là tôn giáo chút
nào. Người tôn giáo là người bị thu hút vào phát triển của tình
yêu, vì bằng cách yêu thương nhiều hơn dục tự nó sẽ biến mất.
Khi bạn tới gần hơn với thiêng liêng sẽ có nhiều thay đổi trong
cơ thể. Cách bạn nhìn cơ thể sẽ khác đi, nó sẽ thay đổi.
Khổ hạnh là khoa học thông qua đó người ta quên đi rằng
"Tôi là cơ thể" và đi tới biết rằng "Tôi là linh hồn". Khổ hạnh
là chuyện về kỹ xảo. Khổ hạnh là một kỹ xảo. Một cây cầu, con
đường qua đó người ta quên rằng mình là cơ thể, và nhận biết
hé rạng nơi người đó rằng mình là linh hồn.
Nhưng những dạng khổ hạnh giả sẽ tiếp tục khắp thế giới và chúng đã tạo nên nhiều nguy hiểm. Chúng thỏa mãn bản ngã
của vài kẻ bản ngã nhất nhưng gây nên tổn hại lớn cho hiểu
biết của số đông, bởi rồi thì số đông tin rằng đây là khổ hạnh
thật, rằng đây là thiền thật, rằng đây là yoga thật. Nhưng chúng
không là thiền cũng không là yoga.
Và tôi sẽ nói với bạn vài điều nữa: người nào quan tâm tới
đè nén cơ thể theo cách này đơn giản là loạn thần kinh. Ngoài
ra, người nào vui thích gây tổn thương cơ thể họ cũng giống
những người vui thích gây đau đớn lên cơ thể người khác.
Khác biệt duy nhất là niềm vui họ kinh nghiệm sẽ được kinh
nghiệm thông qua cách gây ra đau đớn lên cơ thể người khác
thay vì theo cách gây tổn thương lên chính cơ thể họ. Đây là
những người bạo lực. Đây là khổ dâm, nó là bạo lực lên bản
thân.
Và tôi cũng nhắc bạn rằng có hai loại bản năng trong con
người: một bản năng là sống, bản năng tồn tại; và bạn có lẽ
không nhận thức rằng có bản năng khác trong con người là
chết, bản năng chết. Nếu không có bản năng chết ở con người,
không thể có nhiều vụ tử tự đến thế trên toàn thế giới. Bản
năng chết tiềm ẩn hiện hữu trong tất cả mọi người - bởi vậy cả
hai bản năng đều có đó trong bạn.
Bản năng chết có thể kích động một người tự giết chính
mình. Người đó bắt đầu thích thú nó, phấn khởi vì nó. Vài
người tự tử trong một lần và vài người tự tử rất từ từ, theo từng
phần. Những ai thực hiện nó rất từ từ, bạn nói họ đang thực
hành khổ hạnh, và những ai thực hiện nó trong một lần được
nói là đã tự tử. Những người nào thực hiện nó từ từ dường như
đang thực hành khổ hạnh!
Khổ hạnh không là tự tử. Khổ hạnh không có gì làm với cái chết, nó liên quan tới cuộc sống vô tận. Khổ hạnh không quan
tâm tới cái chết mà là đạt tới một cuộc sống toàn bộ hơn nữa.
Vì vậy tầm nhìn của tôi về khổ hạnh bao gồm ba chìa khóa
mà tôi đã nói với bạn, và tôi sẽ trao đổi thêm về ba chìa khóa
nữa sau. Sáu chìa khóa này lý giải khổ hạnh là gì theo tầm nhìn
của tôi. Người nào đi vào sáu lời kinh này là đang thực hành
khổ hạnh. Bạn từng tự hỏi liệu có thật là khổ hạnh không khi ai
đó chạy trốn và bỏ lại vợ con phía sau chưa? Người ta gọi điều
này là khổ hạnh... họ sẽ thậm chí gọi người đấy là sannyasin!
Thế nhưng có thể người đấy chạy trốn và bỏ lại người vợ đằng
sau mà vẫn nghĩ về cô ấy. Khổ hạnh là khi người vợ vẫn đang
ngồi cạnh bạn đấy và bạn không bị sao lãng bởi cô ấy. Chạy
trốn và vẫn tiếp tục nghĩ về cô ấy không là khổ hạnh.
Và nhớ cho, người nào chạy trốn và bỏ rơi các thứ phía sau
sẽ vẫn tiếp tục nghĩ về những thứ đó. Với họ không thể không
làm như thế, bởi nếu họ là dạng người không làm thế họ sẽ
không thể nghĩ về chúng ngay cả khi chúng vẫn còn ở đấy cùng
họ.
Để tôi cũng nói với bạn điều này nữa: Khi những thứ vẫn
đang hiện diện bạn không nghĩ về chúng, thế nhưng khi chúng
không còn đó nữa bạn bắt đầu nghĩ về chúng. Bạn tự mình từng
kinh nghiệm điều này chưa? Bạn không nghĩ về điều đang ở
trước bạn, bạn nghĩ về điều không có đó. Nếu người bạn yêu ở
gần bạn, bạn quên mất họ; khi họ ở xa bạn bắt đầu nhớ họ. Họ
càng ở xa, bạn càng nhớ họ da diết. Bạn không có khái niệm gì
những cái gọi là sannyasin này chịu đựng nhiều bao nhiêu.
Nếu tất cả những người tôn giáo trên thế giới này trung
thực, thế thì ảo tưởng này của thế giới tôn giáo hiện tại của họ
sẽ biến mất. Và nếu họ sẵn sàng phơi bày một cách thật sự rối loạn bên trong của họ, điều đang xảy ra trong họ và sự đau đớn
cực độ về thể xác hoặc tinh thần họ đang trải qua, niềm khao
khát họ đang chịu đựng, ham muốn đang mang đến cho họ đau
đớn và quỷ dữ vốn dường như đang dày vò họ - nếu họ nói cho
bạn tất cả điều này, bạn sẽ nhận ra rằng địa ngục là ở ngay đây
trên trái đất này. Tôi đang nói điều này với bạn với sự đảm bảo:
địa ngục không thể ở bất kỳ đâu khác thế giới này. Cuộc sống
con người là địa ngục nếu người đó chưa chuyển đổi ham
muốn của mình mà chạy trốn khỏi chúng.
Khổ hạnh không có nghĩa là chạy trốn khỏi cái gì, nó là biến
đổi. Khổ hạnh không là từ bỏ mà là biến đổi. Khổ hạnh không
là hy sinh, nó là chuyển hóa đúng - và bất kỳ cái gì xảy ra trong
sự chuyển hóa đó đều đúng. Và bất kỳ cái gì xảy ra bằng cách
chạy trốn, bởi từ bỏ, đều không đúng. Sẽ rất hữu dụng nếu bạn
có thể hiểu điều này.
Hàng nghìn người đang đau khổ. Họ chỉ có một niềm vui: là
thỏa mãn bản ngã. Cũng chỉ vài người này có thể thỏa mãn,
không phải tất cả. Bản ngã của những ai rất thông minh, vì vài
lý do, được thỏa mãn dễ dàng hơn. Phần còn lại chỉ khốn khổ
và tiếp tục hy vọng rằng một ngày họ sẽ tới thiên đường, rằng
họ sẽ được cứu với khỏi đi tới địa ngục và có lẽ kinh nghiệm
niết bàn. Lòng tham dính kết với bạn cũng dính kết với họ. Và
tham cho bạn khả năng chịu đựng nhiều đau khổ. Ngay cả
người bình thường trong tham lam có thể chịu đựng nhiều đau
khổ hơn. Người bình thường nào tham tiền trải qua nhiều đau
đớn để tích lũy tiền, và người nào tham đi tới thiên đường cũng
chịu đựng nhiều đau đớn.
Khi mọi người mang Jesu đi đóng đinh, một trong những
môn đồ hỏi, "Chúng tôi đã từ bỏ mọi thứ cho ngài: hãy nói cho  chúng tôi, chúng tôi sẽ được đối xử như thế nào ở vương quốc
của Thượng đế?" Ông ấy hỏi, "Chúng tôi đã từ bỏ mọi thứ cho
ngài, nơi của chúng tôi ở vương quốc của Thượng đế sẽ là gì?"
Jesu hẳn đã nhìn ông ta với lòng thương hại lớn lao và có lẽ
vì thương hại hoặc một cách đùa bỡn, tôi không biết tại sao ông
ấy nói nó, ông ấy đáp, "Cũng sẽ là một nơi gần bên Thượng đế
cho ông."
Người đàn ông trở nên hạnh phúc. Ông ấy nói, "Thế thì
được rồi."
Bây giờ bạn sẽ nói rằng người đàn ông này đã từ bỏ? Thật
khó để tìm thấy người nào tham lam hơn người hỏi, "Tôi đã từ
bỏ tất cả, bây giờ tôi sẽ nhận lại cái gì?" Ai đó đang nghĩ sẽ
nhận lại gì đó là chưa từ bỏ chút nào. Đây là lý do tại sao tất cả
cuộc nói chuyện về khổ hạnh này - tất cả mọi người đang nói
về khổ hạnh - cũng đưa đến cho bạn cám dỗ thực hành một
hạnh khổ hạnh cụ thể, để bạn sẽ nhận được một phần thưởng
cụ thể.
Khổ hạnh được thực hiện với ham muốn nhận lại gì đó là
giả, bởi đấy không là khổ hạnh chút nào, nó là một dạng của
tham lam. Đây là lý do tại sao tất cả dạng tồn tại của khổ hạnh
hứa hẹn với bạn đổi lại gì đó. Họ nói với bạn rằng những ai
thực hành khổ hạnh này hoặc khổ hạnh kia trong quá khứ đã
đạt được cái này hoặc cái nọ. Đây tất cả là những dạng của
tham lam.
Khổ hạnh duy nhất là cố gắng biết tự thân. Không phải là
bạn sẽ nhận được nơi nào đó ở thiên đường thông qua điều này
hoặc điều kia - nhưng bạn sẽ kinh nghiệm vui sướng lớn lao.
Không biết tới tự thân của bản thân là không biết tới tự thân cuộc sống, và không biết tự thận của chính mình... Không thể
nào có việc mong muốn biết tự thân lại không nảy sinh trong ai
đó dù người đó chỉ có chút ít thông minh. Người đó sẽ kiên
quyết biết mình là ai và tiếp tục trở nên thân thuộc với năng
lượng cuộc sống trong mình.
Khổ hạnh là con đường đi tới biết về sự thật cuộc sống. Khổ
hạnh không là đè nén cơ thể. Nhưng, có thể nhiều điều đang
diễn ra cho thiền nhân đối với bạn dường như là đè nén cơ thể,
mặc dù người đó đang không làm như vậy chút nào.
Bạn từng thấy tượng của Mahavira chưa? Khi bạn thấy bức
tượng của ông ấy, bạn có cảm thấy rằng người đàn ông này đè
nén cơ thể không? Bạn từng nhìn thấy cơ thể nào khác giống
thế không? Và thế thì bạn từng nhìn những vị thánh đi theo
Mahavira chưa? Giờ phút bạn nhìn họ bạn biết rằng họ đã đè
nén cơ thể họ. Nguồn sinh lực của họ tất cả đều khô kiệt. Cơ
thể họ buồn và uể oải, và trạng thái ý thức của họ cũng uể oải.
Họ chỉ di chuyển dưới ảnh hưởng của lòng tham: "Hân hoan,
an bình mà bạn có thể thấy trong tượng của Mahavira ở đâu?"
Đây là đôi điều nghĩ tới. Mahavira trút bỏ quần áo. Bạn nghĩ
ông ấy trút bỏ quần áo bởi ông ấy nghĩ rằng quần áo nên được
từ bỏ. Không, ông ấy đơn giản đi tới biết niềm vui sướng của
việc ở trần truồng. Tôi muốn nói với bạn một cách rất rõ ràng
rằng Mahavira không trút bỏ quần áo vì có đôi chút vui sướng
trong việc từ bỏ chúng, ông ấy trút bỏ chúng bởi niềm vui của
việc ở trần truồng. Trần truồng là hân hoan với ông ấy tới nỗi
mặc quần áo trở nên phiền hà. Ông ấy thấy thật nhiều hân hoan
bởi việc ở trần truồng tới mức quần áo trở nên phiền hà, vì thế
ông ấy quẳng chúng đi.
Khi một nhà sư đi theo ông ấy buông bỏ quần áo của mình, người ấy không cảm thấy chút vui thích nào trong nó. Thực tế,
khó cho ông ấy trút bỏ quần áo. Và bằng cách đi qua khó khăn
đó ông ấy nghĩ rằng ông ấy đang thực hành khổ hạnh. Khi
người đó buông bỏ quần áo người đó nghĩ, "Tôi đang thực
hành khổ hạnh."
Với Mahavira đây không là khổ hạnh, nó là hành động của
niềm vui. Và nếu ai đó theo Mahavira mà không hiểu ông ấy,
không hiểu linh hồn ông ấy, người đó sẽ chỉ trút bỏ quần áo, và
bởi trút quần áo sẽ khó khăn cho người đó, nên người đó gọi
đây là một khổ hạnh.
Khổ hạnh không đau đớn. Không thể có niềm vui nào lớn
hơn khổ hạnh. Nhưng những ai thực hành nó duy nhất trên bề
mặt sẽ cảm thấy rằng nó khó khăn và đau khổ. Và đổi lấy việc
đi qua nhiều đau đớn vậy họ sẽ hy sinh bản ngã của họ trên trái
đất và sẽ hy sinh lòng tham của họ cho một thế giới khác. Tôi
không gọi cái này là khổ hạnh. Khổ hạnh là quá trình đi vào
trong bản thân mình với sự trợ giúp của tâm trí và cơ thể. Và để
đi vào trong tự thân là khó khăn và gian khổ - cần quyết tâm rất
lớn.
Nghĩ về điều này đi. Nếu tôi liên tục đứng dưới mưa và mặt
trời gay gắt: có khổ hạnh trong điều này hơn trước thực tế rằng
khi ai đó lạm dụng tôi, tôi không trở nên tức giận không? Có
khổ hạnh trong việc nằm trên giường gai hơn trước thực tế rằng
khi ai đó dùng đá đánh tôi, ngay cả ý nghĩ đến việc dùng đá
đánh lại người đó cũng không nảy sinh trong trái tim tôi
không? Cái nào chứa đựng nhiều khổ hạnh hơn?
Bất cứ ai trong rạp xiếc cũng có thể nằm trên giường gai;
đứng dưới mặt trời nóng chỉ là chuyện thực tập, và sau khi thực
tập vài ngày nó chẳng còn đáng kể gì. Nó rất đơn giản, nó hoàn toàn đơn giản. Hãy còn trần truồng là chuyện của thực hành.
Thực tế, tất cả những người nguyên thủy trên thế giới đều sống
trần truồng. Nhưng chúng ta không gọi đó là khổ hạnh, và
chúng ta không đi tới họ và quỳ xuống chân họ như thể họ
đang làm điều gì đó tuyệt vời. Chúng ta biết rằng nó là phong
tục của họ. Nó rất tự nhiên với họ, nó không khó khăn với họ.
Khổ hạnh không có nghĩa rằng bạn chỉ tiếp tục thực hành gì
đó. Nhưng một trăm người thì có tới chín mươi chín người
đang làm điều này. Bạn sẽ hiếm khi ngang qua ai đó mà khổ
hạnh của người đó là hoa trái niềm vui của người này - và khổ
hạnh chỉ là thực khi nó là hoa trái của niềm vui. Nhưng khi nó
phục vụ cho đau khổ nó không là gì hơn một dạng khổ dâm -
nó không là tôn giáo, nó là loạn thần kinh.
Và nếu hiểu biết tăng trưởng trong thế giới, chúng ta sẽ gửi
người được gọi là tôn giáo này tới bệnh viện tâm thần, không
phải là thánh đường. Thời điểm mà ai đó nhận thấy hài lòng từ
việc gây tổn thương chính cơ thể mình cần được điều trị là
không xa lắm. Và người nào chỉ hưởng thụ vui thú của cơ thể
người đó cũng ốm yếu, cũng y như người nhận lấy niềm vui từ
việc gây nên đau đớn cho cơ thể, những người này cũng ốm
yếu nhưng ở thái cực khác. Nếu ai thấy vui sướng chỉ từ việc
dùng cơ thể mình để vui đùa, nó là ốm yếu. Nó là ốm yếu của
những ai luôn tìm kiếm thú vui thể xác. Và nếu ai đó vui thích
gây tổn thương cơ thể, điều này nữa cũng là ốm yếu - nó là ốm
yếu của người tu khổ hạnh vốn đè nén mọi ham muốn thể xác
của mình.
Người nào sử dụng cơ thể của mình đúng sẽ trở nên tự do
khỏi ốm yếu. Người đó không đồng nhất với cơ thể mình,
không đắm chìm cũng không đè nén. Cơ thể đơn giản là công cụ. Chỉ người nào không đè nén cơ thể cũng không đắm chìm
trong nó, người mà niềm vui hay đau khổ không phụ thuộc vào
cơ thể, người mà niềm vui không phụ thuộc vào cơ thể mà là
linh hồn -chỉ người như vậy mới di chuyển tới tôn giáo.
Có hai loại người vốn có niềm vui phụ thuộc vào cơ thể:
một loại kinh nghiệm niềm vui qua việc ăn quá nhiều, và loại
kia thì kinh nghiệm niềm vui qua việc không ăn. Nhưng cả hai
đang nhận lấy vui sướng từ việc hành hạ cơ thể - nếu họ kinh
nghiệm bất kỳ vui sướng nào, nó gắn chặt với cơ thể. Đây là lý
do tại sao tôi gọi cả hai, loại người đắm chìm và loại người tôn
giáo này là duy vật: bản thân họ chỉ bận tâm tới cơ thể. Bởi tôn
giáo nếu là cái gì đó chỉ gắn liền với cơ thể thì sẽ rất gây hại.
Phẩm chất tinh thần của tôn giáo cần được thiết lập lại.

§

Một câu hỏi nữa về chủ đề này:

Có khác biết gì giữa rag, ham muốn; virag, chối bỏ ham
muốn; và veetrag, vượt thoát khỏi ham muốn.

Rag có nghĩa gắn kết vào gì đó, virag có nghĩa đi chống lại
gắn kết, và veetrag có nghĩa vượt thoát gắn kết.
Nếu bạn cố hiểu điều tôi đang nói ngay lúc này, thế thì rag
là gắn kết vào cái gì đó và virag là phủ nhận gắn kết đó. Nếu
một người tích lũy tiền nó là rag, và nếu một người từ bỏ tiền
và trốn chạy, đấy là virag. Nhưng tiêu điểm trong cả hai trường
hợp đều là tiền. Người nào đang tích lũy là nghĩ về tiền, và
người nào đang từ bỏ nó thì phía sau đó cũng là nghĩ về tiền.
Một là tìm kiếm vui thú từ việc tích lũy thật nhiều - người đó
có rất nhiều và cái tôi của người đó được thỏa mãn bởi việc nghĩ về nó - trong khi người khác thì hy sinh bản ngã của mình
bằng cách nghĩ về thực tế rằng mình đã từ bỏ rất nhiều.
Bạn sẽ ngạc nhiên... người có tiền sẽ giữ tài khoản xem họ
có bao nhiêu tiền, nhưng người từ bỏ tiền cũng giữ một tài
khoản xem họ đã từ bỏ bao nhiêu tiền. Thầy tu và người tôn
giáo có danh sách xem họ đã thực hiện bao nhiêu lần nhịn ăn!
Họ giữ dấu vết những loại nhịn ăn khác nhau mà họ đã thực
hiện. Nếu có bảng thống kê về từ bỏ, cũng giống vậy cũng có
bảng thống kê về ham muốn. Rag giữ một bản, và virag cũng
giữ một bản, bởi điểm tập trung của họ là như nhau; họ đều
đang nắm giữ cùng một thứ.
Veetrag, vượt thoát khỏi gắn kết, không giống như virag,
phủ nhận gắn kết. Veetrag là tự do khỏi cả gắn kết và phụ nhận
gắn kết. Veetrag là trạng thái tâm thức khi không có cả gắn kết
lẫn không-gắn kết. Người đó là trung lập. Người đó có tiền
nhưng người đó không bận tâm.
Kabir có người con trai, Kamaal. Kabir lúc đó đang có thói
quen của virag, phủ nhận gắn kết. Ông ấy không thích cách của
Kamaal, bởi nếu ai đó tặng gì đó cho Kamaal anh ta sẽ giữ lấy
nó. Kabir nói với anh ta nhiều lần, "Đừng chấp nhận quà tặng
từ bất kỳ ai. Chúng ta không cần tiền chút nào."
Nhưng Kamaal sẽ nói, "Nếu tiền là vô dụng, thế thì cần gì
phải nói ngay đến cả từ không? Nếu tiền là vô dụng, thế thì
chúng ta không cần hỏi xin nó bởi nó là vô dụng. Nhưng nếu ai
đó tới đây để tự mình gỡ bỏ gánh nặng, thì tại sao lại nói không
với anh ta? Sau rốt, nó là vô dụng cơ mà."
Kabir không thích điều này. Ông ấy nói, "Ta muốn con ở
riêng."

Virag của ông ấy, phủ nhận với gắn kết, đang bị đảo lộn bởi
nó. Vì thế ông ấy nói với Kamaal ra ở riêng, và Kamaal bắt đầu
sống trong một lều riêng.
Vua Kashi có lần tới thăm Kabir. Ông ấy nói, "Ta không
thấy Kamaal quanh đây."
Kabir nói, "Tôi không thích cách của nó, cư xử của nó là
nông cạn. Tôi đã sống riêng khỏi nó. Nó sống riêng."
Vua hỏi, "Lý do là gì vậy?"
Kabir nói, "Nó tham tiền. Ai đó dâng cúng gì đó và nó nhận
lấy.
Vua đi tới gặp Kamaal và, cúi xuống, đặt một viên kim
cương rất giá trị dưới chân anh ta. Kamaal nói, "Ngài mang gì
tới vậy? Chỉ một viên đá ư!"
Vua nghĩ, "Nhưng Kabir nói rằng Kamaal gắn kết với tiền
bạc, và anh ta nói rằng mình chỉ mang tới một viên đá!" Vì vậy
ông ấy nhặt nó lên và bắt đầu đặt nó lại vào túi mình.
Kamaal nói, "Nếu nó là một viên đá, thế thì đừng bận tâm
mang lại gánh nặng theo mình; nếu không thì ngài sẽ vẫn đang
nghĩ rằng nó là kim cương."
Vua nghĩ, "Có gì đó gian lận diễn ra đây." Nhưng ông ấy
nói, "Thế tôi nên đặt nó ở đâu?"
Kamaal trả lời, "Nếu ngài hỏi đặt nó ở đâu, thế thì ngài
không xem nó chỉ là hòn đá. Và ngài đang hỏi đặt nó ở đâu, vì
vậy ngài không nghĩ nó chỉ là hòn đá.Đơn giản quẳng nó đi!
Giữ nó để làm gì?"
Vua đặt nó vào một góc trong lớp mái rơm của căn lều. Rồi ông rời đi mà nghĩ, "Đây là lừa dối! Khi ta quay lưng nó sẽ
biến mất cho coi."
Sau sáu tháng ông ấy quay lại và nói, "Cách đây một thời
gian tôi đã tặng ngài cái gì đó."
Kamaal nói, "Nhiều người tặng vật phẩm. Và chỉ nếu tôi có
hứng thú với những thứ đó tôi mới bận tâm giữ chúng hay trả
lại chúng. Nhưng tôi không có hứng thú với những món quà
đó, vì vậy sao tôi cần theo dõi chúng làm gì? Vâng, ngài hẳn đã
tặng tôi gì đó. Bởi ngài đang nói vậy, ngài hẳn đã mang tới một
món quà."
Vua nói, "Quà của tôi rất không rẻ, nó rất có giá trị. Viên đá
mà tôi đã tặng ngài đâu?"
Kamaal nói, "Điều đấy rất khó. Ngài đã đặt nó ở đâu?"
Vua đi tới và nhìn vào góc nơi ông ấy đã nhét nó vào, và
viên đá vẫn ở đó. Ông ấy ngạc nhiên! Điều này đã mở mắt ông
ấy.
Người đàn ông Kamaal này là duy nhất: với anh ta nó chỉ là
một hòn đá. Đây là điều mà tôi gọi là veetrag, vượt thoát khỏi
gắn kết. Nó không là virag, phủ nhận gắn kết. Đây là vượt thoát
gắn kết.
Rag là mối bận tâm bám chặt cái gì đó, và virag là quan tâm
tới từ bỏ cùng điều đó. Veetrag có nghĩ là nó đã không còn chút
ý nghĩa nào. Veetrag, vượt thoát khỏi ham muốn, là mục tiêu.
Những ai đạt tới điều đó biết tới hân hoant tối thượng bởi tất
cả gắn kết của họ với bên ngoài biến mất.

Và bây giờ, câu hỏi cuối cùng:

Thiền là không thể nếu không có điều mà thầy gọi là nền
tảng cho thiền: thanh lọc của cơ thể, thanh lọc của ý nghĩ và
thanh lọc của cảm xúc?

Không, không có chúng thiền vẫn là có thể, nhưng nó chỉ có
thể với rất ít người. Nếu bạn đi vào thiền với toàn bộ quyết
tâm, thế thì ngay cả không có thanh lọc bất kỳ cái nào trong
những cái này bạn vẫn có thể đi vào thiền bởi giây phút bạn đi
vào, tất cả những cái đó sẽ trở nên tinh khiết. Nhưng nếu nó
không dễ dàng cho bạn để có được nhiều quyết tâm thế - sẽ rất
khó có nhiều quyết tâm như vậy - thế thì bạn sẽ phải thanh lọc
chúng từng cái một.
Bạn sẽ không đạt tới trạng thái thiền bằng cách khiến chúng
tinh khiết, nhưng bạn sẽ đạt tới quyết tâm lớn hơn bằng cách
làm chúng tinh khiết. Bằng cách thanh lọc chúng, năng lượng
vốn đã bị lãng phí qua uế tạp sẽ được giữ lại, và năng lượng đó
sẽ được chuyển hóa thành quyết tâm. Sau đó bạn sẽ đi vào
thiền. Thanh lọc ba mảng này hữu ích, nhưng không cần thiết.
Thanh lọc ba mảng này là thiết yếu với những ai thấy không
thể đi vào thiền một cách trực tiếp, và những ai mà không có
nó sẽ không thể đi vào thiền được. Nhưng chúng chắc chắn là
không cần thiết bởi nếu có quyết tâm toàn bộ, dù chỉ trong
chốc lát, bạn có thể đi vào thiền. Dù chỉ chốc lát, nếu ai đó tập
hợp năng lượng toàn bộ và thực hiện cú nhảy, thế thì không có
gì có thể ngăn cản người đó, không uế tạp nào có thể ngăn cản
người đó. Nhưng chỉ rất ít người có đủ diễm phúc tập hợp năng
lượng nhiều đến vậy; chỉ rất ít người có đủ diễm phúc để tập
hợp can đảm nhiều đến thế.
Chỉ loại người mà tôi sắp nói với bạn trong câu chuyện đây
mới có thể tập hợp can đảm nhiều đến thế.

Trước đây có người đàn ông nghĩ rằng thế giới phải kết thúc
ở đâu đó, vì thế ông ta bắt đầu lên đường để tìm nơi mà thế giới
kết thúc. Ông ấy đi qua hàng nghìn dặm, và tiếp tục hỏi mọi
người, "Tôi phải tìm nơi mà thế giới kết thúc."
Cuối cùng ông ấy đi tới một ngôi đền nơi có dấu hiệu trên
đó viết rằng: Nơi đây Chấm dứt Thế giới. Ông ấy trở nên rất sợ
hãi... dấu hiệu đã xuất hiện; xa hơn chút nữa và rồi thế giới sẽ
kết thúc. Và dưới dấu hiệu điều này được viết: Không Đi Xa
Hơn Nữa. Nhưng ông ấy muốn thấy kết thúc của thế giới, vì
thế ông ấy tiếp tục.
Chỉ là quãng ngắn từ đó tới nơi thế giới đi tới kết thúc. Có
một đường kẻ ngắn và dưới nó là một vực thẳm vô tận. Ông ấy
mới chỉ nhìn một cái thôi và ông ấy đã sợ chết khiếp. Ông ấy
chạy ngược lại; ông ấy không thể dù chỉ nhìn lại phía sau mình
bởi một vực thẳm đến vậy. Vực thẳm mà không quá sâu cũng
là đáng sợ rồi, nhưng chúng còn có đáy; vực thẳm này thì vô
tận - nó là kết thúc của thế giới. Vực thẳm này là kết thúc và
không có gì vượt qua vực thẳm này. Trong sợ hãi người này
chạy vào trong đền và nói với thầy tu, "Điểm cuối cùng này rất
nguy hiểm."
Vị thầy tu đáp, "Nếu anh nhảy, anh hẳn sẽ thấy kết thúc của
thế giới là khởi đầu của sự sùng đạo." Ông ấy nói, "Nếu anh
nhảy vào vực thẳm đó anh hẳn sẽ tìm thấy thiêng liêng."
Nhưng để tập hợp đủ can đảm nhảy vào vực thẳm, nếu bạn
không vốn có nó, vài chuẩn bị cho thiền là cần thiết. Chỉ người
nào sẵn sàng nhảy vào vực thẳm là không cần tới chuẩn bị. Và
làm sao có thể có chút chuẩn bị nào? Có thể không có chuẩn bị,
và đây là lý do tại sao tôi đã gọi những chuẩn bị này là kỷ luật
bên ngoài. Chúng là phương tiện bên ngoài và chúng sẽ giúp bạn vươn tới một điểm. Bất kỳ ai có can đảm có thể nhảy vào
một cách trực tiếp, và bất kỳ ai không có can đảm có thể sử
dụng những bước này, nhớ lấy điều này.
Chỉ những câu hỏi này có thể được thảo luận hôm nay. Phần
còn lại chúng ta sẽ thảo luận vào ngày mai.



















Các bạn yêu dấu,
Có vài câu hỏi - thực tế thì có nhiều câu hỏi. Tôi sẽ cố đưa
ra câu trả lời kết hợp cho tất cả câu hỏi. Tôi đã chia chúng
thành các nhóm.

Câu hỏi thứ nhất là:

Vị trí của tôn giáo trong thời đại khoa học là gì? Công dụng
của tôn giáo trong đời sống xã hội và quốc gia?

Khoa học là dạng kiến thức tìm kiếm sức mạnh bên trong,
tiềm ẩn trong vật chất. Tôn giáo là dạng kiến thức tìm kiếm sức
mạnh bên trong, tiềm ẩn trong tâm thức. Không có xung đột
giữa tôn giáo và khoa học; thực tế chúng bù trừ cho nhau.
Trong thời đại chỉ có khoa học thì sẽ có nhiều tiện ích hơn,
nhưng lại sẽ ít có hạnh phúc hơn. Trong thời đại chỉ có tôn giáo vài người sẽ biết tới hạnh phúc, nhưng phần lớn, mọi người sẽ
chịu đứng những thiếu thốn tiện nghi. Khoa học cung cấp tiện
nghi, tôn giáo mang tới bình an. Nếu không có tiện nghi, rất ít
người có thể biết tới bình an. Nếu không có bình an, thế thì
nhiều người có thể giành được tiện nghi nhưng sẽ không biết
làm sao để hưởng thụ chúng.
Cho tới bây giờ mọi nền văn minh mà con người tạo thành
vẫn chưa hoàn thiện, phân mảnh. Văn hóa mà phương Đông
tạo thành đào sâu một cách thuần túy tới tôn giáo. Nó không
hứng thú với khoa học. Kết quả là, phương Đông bị đánh bại;
nó trở nên bị bần cùng hóa và bị phá hủy. Văn hóa mà phương
Tây tạo thành lại ở cực khác: nó dựa vào khoa học và không
liên quan gì tới tôn giáo. Kết quả là, phương Tây đã chiến
thắng và tích lũy giàu sang, của cái và tiện nghi nhưng nó đánh
mất linh hồn của mình.
Văn hóa xuất hiện trong tương lai, nếu thực sự vì tiến hóa
của loài người thì nó sẽ là cân bằng của khoa học và tôn giáo.
Văn hóa này sẽ là tổng hợp của tôn giáo và khoa học. Nó sẽ
không chỉ là tôn giáo hay khoa học: nó sẽ hoặc là tôn giáo
mang tính khoa học hoặc khoa học mang tính tôn giáo.
Cho đến nay, cả hai thử nghiệm đều thất bại. Thử nghiệm
phương Đông đã thất bại và thử nghiệm phương Tây cũng đã
thất bại. Nhưng bây giờ chúng ta có cơ hội tạo ra thử nghiệm
toàn cầu vốn không là của phương Đông hay phương Tây, ở đó
cả tôn giáo và khoa học được tích hợp.
Vì thế tôi nói với bạn rằng không có xung đột giữa tôn giáo
và khoa học, cũng như vậy không có xung đột giữa cơ thể và
tâm hồn. Bất kỳ ai chỉ sống ở tầng của cơ thể sẽ đánh mất linh
hồn, và ai cố gắng chỉ sống ở chiều tâm linh cũng sẽ không thể sống đúng bởi người đó sẽ mất đi liên lạc với cơ thể.
Cuộc sống con người là sự cân bằng, sự tích hợp của cơ thể
và linh hồn, giống như vậy nền văn hóa hoàn chỉnh cũng là sự
cân bằng, tích hợp giữa khoa học và tôn giáo. Khoa học sẽ là
cơ thể của nó, tôn giáo là linh hồn của nó.
Nhưng nếu ai đó định hỏi tôi rằng nếu chúng ta phải lựa
chọn giữa tôn giáo và khoa học, chúng ta nên chọn gì? Thế thì
tôi sẽ nói rằng chúng ta nên sẵn sàng chọn tôn giáo. Nếu người
nào định hỏi tôi lựa chọn gì giữa khoa học và tôn giáo bởi chỉ
được chọn một trong hai, tôi sẽ nói là sẵn sàng chọn tôn giáo.
Sẽ tốt hơn khi nghèo và thiếu tiện nghi hơn là đánh mất linh
hồn của con người.
Giá trị của tiện nghi là gì mà đáng giá cả bản thân ta? Và giá
trị của giàu sang là gì mà tước đi khỏi ta thực thể của chính
mình? Thực tế, chúng ta không là tiện nghi cũng không là giàu
có.
Tôi sẽ kể bạn nghe một câu chuyện ngắn, nó đã luôn là một
trong nhưng câu chuyện hay của tôi.
Tôi nghe nói rằng ngày trước có vị vua Hy Lạp thấy ốm
mệt. Ông ấy ốm tới nỗi bác sỹ nói ông ấy sẽ không sống được,
không có hy vọng. Vì vậy quan cận thận và thần dân những
người yêu quý ông ấy trở nên rất lo lắng và nóng lòng. Cũng
ngay lúc đó có một fakir vào làng, và ai đó nói, "Mọi người nói
nếu bạn vời vị fakir tới và ông ấy ban phúc cho, người ốm sẽ
được chữa khỏi."
Họ đi tới vời vị fakir và ông ấy tới. Giây phút ông ấy tới ông
ấy nói với nhà vua, "Ông bị điên ư? Đây mà ông gọi là bệnh à?
Nó không phải là bệnh. Có một phương pháp điều trị rất đơn  giản cho nó."
Nhà vua, người vốn nằm tại giường hàng tháng, ngồi dậy và
nói, "Phương pháp điều trị gì? Tôi nghĩ tôi đã kết thúc rồi. Tôi
không còn hy vọng hồi phục nào."
Vị fakir nói, "Nó là phương pháp chữa trị rất rất dễ. Hãy
mang tới đây áo của người vừa phát đạt và an bình trong làng,
và nhà vua sẽ mặc chiếc áo này vào. Ông ấy sẽ trở nên mạnh
khỏe và hồi phục."
Các quan đại thần chạy đi... Có nhiều người phát đạt trong
làng. Họ đi từ nhà này tới nhà khác nói, "Chúng tôi muốn chiếc
áo của người vừa phát đạt vừa an bình."
Và những người phát đạt nói, "Nhưng chúng tôi bất hạnh...
Một chiếc áo ư! - chúng tôi có thể cho đi cuộc sống của mình,
cần gì nói tới chiếc áo. Nếu nhà vua có thể được cứu sống,
chúng tôi sẵn sàng cho đi mọi thứ. Nhưng áo của chúng tôi
không tác dụng đâu bởi chúng tôi phát đạt đấy, nhưng chúng
tôi không an bình."
Họ đi tới từng người một trong làng. Họ tìm cả ngày, và tới
tối họ đã mất hết hy vọng. Họ nhận ra rằng sẽ khó mà cứu được
nhà vua - phương thuốc quá xa tầm tay. Vào buổi sáng họ đã
nghĩ, "Phương thuốc sẽ rất dễ tìm," nhưng tới tối họ nhận ra,
"Phương thuốc là rất khó, thực tế, không thể tìm thấy được."
Họ tất cả đều là những người giàu có.
Tối họ trở lại, mệt mỏi và buồn rầu. Mặt trời đang lặn. Phía
ngoài làng, ven sông và ngồi bên một tảng đá là một người
đang thổi sáo. Âm thanh của nó thật du dương và nhiều làn
sóng hân hoan trỗi dậy từ nó tới nỗi một vị quan cận thần nói,
"Hãy cùng tới hỏi người cuối cùng này... có lẽ ông ấy an bình."

Họ đi tới ông ấy và hỏi, "Âm thanh tiếng sáo của ông, bài
hát của ông nghe đầy hân hoan và an bình tới nỗi chúng tôi
muốn hỏi ông đôi điều. Nhà vua đang ốm và chúng tôi cần
chiếc áo của người vừa an bình vừa phát đạt."
Người đó nói, "Tôi sẵn sàng trao đi cuộc sống của mình,
nhưng chỉ nhìn gần một chút... tôi không có áo." Họ nhìn gần
lại, trời thì tối - người đang chơi sáo không mặc quần áo.
Vì vậy nhà vua không thể được cứu bởi người bình an thì
không thịnh vượng, và người thịnh vượng thì không có bình an.
Cũng như vậy, không thể cứu được thế giới bởi nền văn hóa kế
thừa di sản của bình an thì không có thịnh vượng, và nền văn
hóa thịnh vượng thì thậm chí không cả nghĩ về bình an. Nhà
vua chết.
Loài người cũng sẽ chết. Phương thuốc mà loài người cần
cũng giống như thứ mà nhà vua cần. Chúng ta cần áo và chúng
ta cũng cần bình an. Tới nay, hệ tư tưởng của chúng ta chưa
hoàn chỉnh. Tới nay chúng ta vẫn nghĩ về con người theo một
cách rất không hoàn chỉnh, và chúng ta di chuyển thường
xuyên tới các thái cực. Căn bệnh lớn nhất của tâm trí con người
là xu hướng đi tới những thái cực.
Khổng Tử đang ngụ tại ngôi làng khi ai đó nói với ông ấy,
"Có một người rất uyên bác và thông thái, ông có muốn gặp
ông ấy không?"
Khổng Tử nói, "Trước tiên cho tôi hỏi bạn tại sao bạn gọi
ông ấy là rất thông thái, và rồi tôi sẽ chắc chắn đi tới gặp ông
ấy."
Mọi người nói, "Ông ấy thông thái bởi trước khi làm bất kỳ
việc gì ông ấy nghĩ ba lần - ba lần!"

Khổng Tử nói, "Người này không thông thái; ba lần là hơi
quá nhiều. Một là quá ít, hai là vừa đủ. Người thông minh
ngừng lại ở giữa, người ngu dốt đi tới cực đoan."
Điểm ngu dốt đầu tiên là nếu một người nghĩ bản thân mình
chỉ là cơ thể. Điểm ngu dốt thứ hai, và cũng cùng mức độ như
thế, là nếu một người nghĩ bản thân mình chỉ là linh hồn. Cá
nhân con người là tổng hợp: văn hóa của con người cũng sẽ là
tổng hợp.
Và đã tới lúc chúng ta học bài học của mình. Nghèo đói và
thất bại lịch sử của Ấn Độ, và trạng thái bị chà đạp của tất cả
các nước phương Đông không phải là không có lý do, và lý do
là chủ nghĩa cực đoan tôn giáo. Và thực tế là các nước phương
Tây đã trở nên nghèo từ bên trong cũng không phải là không có
lý do: lý do là chủ nghĩa cực đoan khoa học. Tương lai sẽ tốt
đẹp nếu khoa học và tôn giáo được tích hợp. Điều này thật rõ
ràng: trong tích hợp của tôn giáo và khoa học, tôn giáo sẽ là
trung tâm và khoa học là chu vi. Rõ ràng rằng với tích hợp của
khoa học và tôn giáo, tôn giáo cần thiết là thông minh và khoa
học đi theo. Cơ thể không thể là chủ; khoa học cũng không thể
là chủ. Tôn giáo sẽ là chủ. Và sau đó chúng ta sẽ có thể tạo nên
thế giới tốt hơn.
Vì vậy đừng hỏi về việc sử dụng tôn giáo trong thời đại
khoa học. Tôn giáo vô cùng hữu dụng trong thời đại khoa học
bởi khoa học là một cực, và là cực nguy hiểm. Tôn giáo sẽ trao
cho nó sự cân bằng, và nó sẽ có thể cứu con người khỏi nguy
hiểm của thái cực đó.
Đó là lý do tại sao thời khắc hồi sinh của tôn giáo trên toàn
thế giới là rất gần trong tầm tay. Nó là rất tự nhiên - và nó hoàn
toàn chắc chắc. Cần có sự hồi sinh của tôn giáo ở đây, nếu không khoa học sẽ chỉ dẫn tới chết chóc. Vì vậy hỏi có nhu cầu
gì với tôn giáo trong thời đại khoa học là vô nghĩa: tôn giáo
được cần tới nhiều nhất trong thời đại của khoa học.
Liên quan tới điều này, cũng có câu hỏi về công dụng của
tôn giáo trong đời sống xã hội và quốc gia.
Tôi nghĩ rằng điều tôi vừa nói có lẽ cũng đã giải đáp cho câu
hỏi này, bởi vài thứ hữu dụng cho cá nhân cũng chắc chắn sẽ
hữu dụng cho quốc gia và xã hội nói chung. Sau cùng thì, quốc
gia và xã hội là gì ngoại trừ một tập thể những cá nhân? Vì thế
đừng mang ảo ảnh rằng quốc gia có thể sống mà không có tôn
giáo.
Bất hạnh này đã xảy ra tại Ấn Độ. Chúng ta đã hiểu nhầm từ
ngữ nhất định; chúng ta đã bắt đầu nói về trạng thái phi tôn
giáo. Chúng ta hẳn nên nói tới trạng thái "phi giáo phái" nhưng
chúng ta đã bắt đầu nói về trạng thái phi tôn giáo. Một điều là
trạng thái phi giáo phái, và một điều hoàn toàn khác là trạng
thái phi tôn giáo. Bất kỳ người thông minh nào cũng sẽ yêu
thích trạng thái phi giáo phái, nhưng chỉ người ngu mới có thể
yêu thích trạng thái phi tôn giáo.
Phi giáo phái có nghĩa rằng chúng ta không bận tâm tới
Jaina giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Mohammed giáo. Điều
này ngụ ý phi giáo phái. Nhưng phi tôn giáo ngụ ý rằng chúng
ta không bận tâm tới sự thật, tới phi bạo lực, tới tình yêu hay từ
bi. Không quốc gia nào có thể phi tôn giáo theo nghĩa đó. Và
nếu là vậy, thì đấy là bất hạnh của nó. Quốc gia phải làm cho
tôn giáo thành năng lượng sống của mình. Thế nhưng, chắc
chắn cần đi tới phi giáo phái.
Người vô thần trên thế giới đã không gây hại tới tôn giáo  nhiều, nhà khoa học trên thế giới không gây hại tới tôn giáo
nhiều. Người gây hại tôn giáo nhiều nhất chính là những nhà
lãnh đạo tôn giáo. Những người mà nhấn mạnh của họ vào tôn
giáo thì ít mà vào việc là người Jaina nhiều hơn, nhấn mạnh
của họ vào tôn giáo thì ít mà vào việc là người Mohammed
nhiều hơn. Chính những người này đã tước đi thế giới của tôn
giáo. Giáo phái vốn chỉ nên là bộ phận của tôn giáo đã được
minh chứng là kẻ sát nhân của nó. Tôn giáo có giá trị to lớn,
nhưng giáo phái không có giá trị. Càng có ít giáo phái và môn
phái càng tốt.
Bất kỳ chủng tộc nào, quốc gia nào hay xã hội nào cũng sẽ
không thể tiếp tục mà không có nền tảng của tôn giáo. Làm sao
có thể? Liệu chúng ta có thể tiếp tục mà không có nền tảng của
tình yêu không? Làm sao quốc gia có thể là quốc gia khi không
có nền tảng của tình yêu hay sự thật? Hay quốc gia có thể là
quốc gia khi không có nền tảng của vị tha, của phi chiếm hữu,
của phi bạo lực và không sợ hãi không? Có những phẩm chất
cơ bản của linh hồn. Không có chúng không có quốc gia,
không có xã hội. Và nếu có những quốc gia đó, xã hội đó, thì
bất kỳ ai với dù chỉ chút ít thông minh cũng sẽ thấy rằng nó là
một đám đông của những người máy. Sẽ không thể gọi nó là
một quốc gia.
Quốc gia được hình thành thông qua mối tương quan - quan
hệ của tôi với bạn, và những quan hệ mà bạn có với hàng xóm
của bạn. Tất những tương tác này cùng nhau trở thành một
quốc gia. Những quan hệ này càng trở nên dựa vào sự thật, vào
tình yêu, vào phi bạo lực và mộ đạo, thì sẽ càng có hương thơm
trong cuộc sống của quốc gia, sẽ càng có ánh sáng trong cuộc
sống của quốc gia và càng có ít bóng tối trong cuộc sống của
quốc gia.

Vì vậy tôi nói, cuộc sống của quốc gia và xã hội chỉ có thể
tồn tại nếu nó được hình thành trên nền tảng tôn giáo. Bạn nên
cẩn thận cách bạn sử dụng khái niệm của chủ nghĩa thế tục;
toàn bộ quốc gia nên cẩn thận. Dưới lớp vỏ của từ ngữ này có
nguy hại lớn. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ này bạn có lẽ tin rằng
không cần tới tôn giáo. Nhưng tôn giáo là điều duy nhất nhân
loại cần.Mọi thứ khác là thứ cấp và có thể được bỏ đi. Tôn giáo
là cái gì đó không thể bỏ đi được.
Tôi nghĩ đều này sẽ giúp bạn giải quyết câu hỏi của mình.

§
Một bạn khác đã hỏi:

Chúng ta nên thiền về gì?
Nói chung thì, với mọi ý tưởng khắp nơi về thiền, bạn hiểu
thiền ngụ ý là suy ngẫm về điều gì đó: bạn sẽ thiền về ai đó hay
cái gì đó. Vậy nên cũng tự nhiên khi câu hỏi này nảy sinh,
thiền về gì đây? - cầu nguyện tới ai đây? Dâng hiến của bạn
chuyển tới ai đây? Yêu ai đây?

Tôi đã nói với bạn sáng nay rằng có một loại tình yêu mà
bạn sẽ hỏi bạn mình đang trong tình yêu với ai. Và có một loại
tình yêu khác mà bạn sẽ hỏi liệu có tình yêu bên trong bạn hay
không?Không có gì liên quan với nhau.
Có hai trạng thái tình yêu: một cái trong đó là mối quan hệ,
và cái kia trong đó tình yêu là trạng thái. Trong tình yêu đầu
tiên, nếu tôi nói với bạn rằng tôi cảm thấy tình yêu thế thì bạn
sẽ hỏi, "Với ai?" Và nếu tôi nói với bạn rằng không phải là vấn
đề người nào, tôi chỉ cảm thấy tình yêu, thế thì bạn sẽ thấy khó
hiểu. Nhưng chính trạng thái thứ hai mới là cái phải được hiểu Chỉ người nào đơn giản yêu mà không cần phải là vì người
nào có đó, mới thật sự yêu. Người mà yêu một người cụ thể đó
họ sẽ làm gì với tất cả những người còn lại? - người đó sẽ đổ
đầy thù ghét với những người khác. Và người mà thiền về một
người cụ thể sẽ làm gì với những người còn lại? - người đó sẽ
đổ đầy vô thức với những người khác.
Thiền tôi đang nói về không là thiền về cái gì: đúng hơn, nó
là trạng thái của thiền.Vì vậy đây là điều tôi ngụ ý khi tôi nói
với bạn về thiền như một trạng thái. Thiền không có nghĩa là
nhớ về ai đó. Thiền có nghĩa là buông bỏ mọi thứ vốn có trong
trí nhớ và đi tới trạng thái nơi chỉ có ý thức còn lại, nơi chỉ có
tỉnh thức còn lại.
Nếu bạn thắp sáng ngọn đèn và di chuyển mọi vật thể xung
quanh nó, ngọn đèn sẽ vẫn tiếp tục cho ánh sáng. Theo cùng
cách như vậy, nếu bạn di chuyển mọi đối tượng từ tâm thức của
bạn, mọi ý nghĩ, mọi tưởng tượng, điều gì sẽ xảy ra? - chỉ tâm
thức là còn đó. Trạng thái tâm thức tinh khiết là thiền. Bạn
không thiền về ai đó. Thiền là trạng thái ở đó chỉ tâm thức là
còn lại.
Khi chỉ tâm thức là còn đó mà không có đối tượng, trạng
thái đó được gọi là thiền. Tôi đang sử dụng từ thiền theo nghĩa
này.
Điều bạn thực hành không là thiền theo nghĩa thật; nó chỉ là
khái niệm. Nhưng thiền tự chính nó sẽ xảy ra thông qua điều
này. Cố hiểu rằng điều bạn thực hành vào buổi tối, những bài
tập liên quan tới luân xa, và vào buổi sáng, những bài tập liên
quan tới hơi thở, tất cả là phương pháp rèn luyện, nó không là
thiền.Thông qua kỷ luật này thời khắc khi hơi thở sẽ dường
như biến mất sẽ tới. Thông qua kỷ luật này thời khắc cơ thể dường như biến mất và ý nghĩ cũng biến mất sẽ tới. Điều sẽ
còn lại là gì khi mọi thứ đã biến mất? Điều mà còn lại đó chính
là thiền. Khi mọi thứ biến mất, cái mà còn lại phía sau đó được
gọi là thiền. Kỷ luật là vào gì đó; thiền là không vào bất kỳ cái
gì cụ thể.Vì vậy điều bạn thực tế đang làm là thực hành những
phương pháp rèn luyện về luân xa và hơi thở.
Bạn sẽ hỏi, "Sẽ tốt hơn không nếu chúng tôi thực hành một
phương pháp rèn luyện sử dụng ý tưởng về Thượng đế? Sẽ tốt
hơn không nếu chúng tôi thực hành một phương pháp rèn luyện
với một vị thần?"
Điều đó sẽ là nguy hiểm. Nó nguy hiểm bởi trong khi bạn
thực hành kỷ luật với vị thần, trạng thái mà tôi đang gọi là
thiền sẽ không xảy ra. Thực hành phương pháp rèn luyện với vị
thần, sẽ chỉ có vị thần và không gì khác. Và phương pháp rèn
luyện cùng vị thần càng sâu sắc, vị thần sẽ ở đó càng nhiều và
không gì khác cả.
Điều đã xảy ra với Ramakrishna. Anh ấy từng thiền về nữ
thần Kali; đây là phương pháp rèn luyện của anh ấy. Sau đó, từ
từ, từ từ đã xảy ra chuyện anh ấy bắt đầu tìm kiếm Kali bên
trong bản thân. Nhắm mắt lại, thần trở nên sống động và anh ấy
bắt đầu rất hân hoan, rất vui sướng. Nhưng một ngày nhà minh
triết tới gặp anh ấy. Hiền nhân nói với anh ấy, "Điều cậu đang
làm chỉ là tưởng tượng, không phải là gặp gỡ với Thượng đế."
Và Ramakrishna nói, "Không phải là gặp gỡ với Thượng đế
ư? Nhưng tôi thấy thần Kali thật sống động mà!"
Hiền nhân đáp, "Nhìn thấy thần Kali sống động không là
cuộc gặp với Thượng đế."
Vài người thấy một vị thần Kali, vài người thấy một Jesus, vài người thấy Krishna - tất cả đều là bịa đặt của tâm trí.
Thượng đế không có bất kỳ hình dạng hữu hình nào. Thiêng
liêng không có khuôn mặt, tính cách, hình dạng. Lúc ý thức trở
nên vô hình dạng, nó đi vào thiêng liêng.
Bạn không thình lình gặp thiêng liêng, bạn trở thành một với
nó. Không có cuộc gặp bất ngờ mặt đối mặt nơi bạn đứng một
bên và Thượng đế đứng bên kia. Thời khắc sẽ tới khi bạn hòa
nhập với tồn tại vô hạn, giống như giọt nước rơi vào đại dương.
Và kinh nghiệm của giây phút đó là kinh nghiệm của thiêng
liêng. Bạn không bất chợt gặp hay thấy Thượng đế, bạn kinh
nghiệm sự hòa nhập với tồn tại giống như giọt nước cảm thấy
khi nó rơi vào đại dương.
Vì vậy hiền nhân nói với anh ta, "Đây là sai lầm. Nó chỉ là
tưởng tượng." Và ông ấy nói với Ramakrishna, "Bây giờ, theo
cùng cách bạn đã tạo ra vị thần này trong bạn, hãy cắt nó thành
hai mảnh đi. Nâng thanh gươm tưởng tượng lên và chém tan vị
thần thành hai!"
Ramakrishna nói, "Gươm ư? Tôi sẽ tìm thấy thanh gươm ở
đâu?"
Hiền nhân nói, "Cách bạn tạo nên vị thần là tưởng tượng.
Bạn cũng có thể tưởng tượng nên thanh gươm và cắt vị thần
bằng nó. Để tưởng tượng phá hủy tưởng tượng. Khi vị thần đổ
xuống không gì sẽ còn lại phía sau. Thế giới vốn đã biến mất,
và giờ chỉ một vị thần còn lại - cũng để cho nó ra đi nốt. Và khi
chỉ còn lại không gian trống không bạn sẽ bất chợt gặp thiêng
liêng. Điều bạn đang nghĩ là thiêng liêng không phải là thiêng
liêng. Nó là rào chắn cuối cùng với Thượng đế. Phá hủy cả nó
đi!"

Đã rất khó cho Ramakrishna. Anh ấy đã suy niệm dựa trên
vị thần này hàng năm và nuôi dưỡng nó với nhiều tình yêu tới
mức nó đã bắt đầu có vẻ như sống động. Sẽ rất khó để phá hủy
nó. Anh ấy nhắm mắt lại lần nữa và lần nữa nhưng rồi quay lại
nói, "Tôi không thể thực hiện hành động độc ác này được!"
Nhưng hiền nhân nói, "Nếu bạn không thể làm điều này, bạn
không thể trở thành một với thiêng liêng. Thế thì tình yêu của
bạn với thiêng liêng là ít hơn tình yêu của bạn với vị thần. Bạn
chưa sẵn sàng phá hủy vị thần vì lợi ích của thiêng liêng ư?
Tình yêu của bạn với thiêng liêng là chưa đủ - bạn chưa sẵn
sàng từ bỏ tượng thần vì nó!"
Bạn cũng không có nhiều tình yêu với thiêng liêng. Bạn
cũng đang gìn giữ những hình tượng giữa bạn và thiêng liêng -
nắm giữ giáo phái, nắm giữ kinh sách tôn giáo - và bạn chưa
sẵn sàng buông chúng.
Hiền nhân nói, "Bạn ngồi trong suy tưởng, và ta sẽ dùng
mảnh kính cắt trán anh. Và khi anh cảm thấy ta cắt trán anh với
mảnh kính, tập hợp chút can đảm và cắt bỏ Kali thành hai
mảnh."
Ramakrishna tìm thấy sự can đảm, và khi ông làm như thế
tượng thần bị cắt thành hai mảnh. Khi ông trở lại ông ấy nói,
"Hôm nay, lần đầu tiên, tôi đạt tới samadhi.Hôm nay, lần đầu
tiên, tôi đi tới biết sự thật là gì. Lần đầu tiên tôi tự do khỏi
tưởng tượng và tôi đã đi vào sự thật.
Vì vậy đây là lý do tại sao tôi đang không yêu cầu bạn
tưởng tượng bất kỳ cái gì. Tôi không yêu cầu bạn tưởng tượng
gì đó vốn sẽ là chướng ngại. Và vài điều tôi đã nói về luân xa
và về hơi thở không là chướng ngại bởi bạn không trở nên mê đắm với chúng. Bạn không bị gắn liền với chúng: chúng chỉ là
phương tiện thông qua đó bạn có thể đi vào bên trong. Chúng
không thể trở thành chướng ngại.
Vì vậy tôi chỉ đang nói về việc sử dụng tưởng tượng theo
cách mà cuối cùng nó không trở thành chướng ngại cho thiền
của bạn. Đây là lý do tại sao tôi đã không yêu cầu bạn thiền về
cái gì đó, tôi đơn giản yêu cầu bạn đi vào thiền.Tôi không yêu
cầu bạn thực hiện thiền, tôi đề nghị bạn đi vào thiền.
Bạn không chuẩn bị thiền về cái gì đó. Bạn phải đạt tới thiền
trong chính bản thân bạn. Nếu bạn nhớ tới điều này, nhiều điều
sẽ trở nên rõ ràng.
Một người bạn đã hỏi:
Tại sao tâm linh bị áp đảo bởi thú vui trần tục, bất chấp bản
chất cao hơn của nó?
Cho tới bây giờ, tâm linh vẫn không bị áp đảo. Cho tới ngày
nay, tính tâm linh chưa từng bị áp đảo bởi thú vui trần tục. Bạn
sẽ nói rằng tôi sai bởi mỗi ngày bạn hẳn đang cảm thấy bị chế
ngự bên trong chính bạn. Nhưng tôi hỏi bạn, bạn có bất kỳ
quan tâm tâm linh chân thực nào chưa? Điều bạn thật sự đang
nói là cái trở nên bị áp đảo đó chưa tồn tại trong bạn; nó chỉ là
ý tưởng bạn có về tâm linh, rằng bạn nghe nói từ đâu đó. Nếu
ai đó nói với bạn rằng kim cương chiếu sáng ít là thạch anh,
bạn sẽ nói gì? Bạn sẽ nói rằng thế thì chúng không thể là kim
cương thật; kim cương phải là ảo và thạch anh phải là thật. Vì
vậy tất nhiên kim cương sẽ bị đánh bại và thạch anh sẽ thắng.
Bởi nếu kim cương là thật, thế thì làm sao chúng có thể bị đánh
bại bởi thạch anh?
Bạn hẳn nghĩ rằng trong cuộc sống phẩm chất tâm linh của bạn bị chế ngự bởi những thú vui trần tục. Nhưng những phẩm
chất tâm linh đó ở đâu? Vì vậy bất kỳ cái gì bạn nghĩ là đang bị
áp chế chỉ là tưởng tượng; phần khác đó chỉ là chưa hiện diện.
Bạn hẳn liên tục nghĩ rằng thù ghét chiến thắng và tình yêu bị
chế ngự. Nhưng tình yêu ở đâu? Bạn hẳn nghĩ rằng ham muốn
tiền bạc chiến thắng và nó áp chế ham muốn biết thiêng liêng.
Nhưng ham muốn biết thiêng liêng này ở đâu? Nếu nó thật sự ở
đó, không ham muốn nào có thể áp đảo nó. Nếu nó thật sự ở
đó, không ham muốn khác nào thậm chí có thể tồn tại. Câu hỏi
rằng nó đang bị áp chế sẽ không nảy sinh.
Nếu ai đó định nói rằng có ánh sáng nhưng nó bị áp chế bởi
bóng tối, bạn sẽ nói rằng người đó điên. Nếu có ánh sáng, thế
thì bóng tối không thể đi vào. Cho tới bây giờ không có chiến
tranh giữa ánh sáng và bóng tối. Cho tới bây giờ chưa bao giờ
là xung đột giữa ánh sáng và bóng tối bởi giờ phút có ánh sáng,
bóng tối không còn tồn tại. Đối thủ thậm chí không tồn tại, vì
vậy chiến thắng không là vấn đề. Bóng tối có thể chiến thẳng
chỉ khi ánh sáng không có chút nào, vì vậy nó chiến thắng chỉ
trong sự vắng mặt của ánh sáng. Chỉ là không có câu hỏi về
bóng tối trong sự hiện diện của ánh sáng bởi bóng tối biến mất
rồi, nó đơn giản không ở đó.
Cái bạn đang gọi là "những thú vui trần tục" sẽ biến mất nếu
thú vui tâm linh xảy ra trong bạn. Đây là lý do tại sao toàn bộ
nỗ lực của tôi là đưa tới nhấn mạnh hơn nữa cho việc tạo nên
sự thích thú tâm linh trong bạn hơn là nhấn mạnh việc từ bỏ thú
vui trần tục của bạn. Nhấn mạnh của tôi là về phía thực.
Khi thú vui tâm linh đích thực nảy sinh trong bạn, thú vui
trần tục của bạn trở nên yếu. Khi tình yêu nảy sinh trong ai đó,
thù ghét biến mất từ bên trong người đó. Chưa bao giờ có xung đột giữa tình yêu và thù ghét; cho tới bây giờ chưa từng xảy ra.
Khi sự thật nảy sinh trong ai đó, dối trá biến mất từ bên trong
người đó. Sự thật và giả dối chưa từng trong xung đột. Khi phi
bạo lực nảy sinh trong ai đó, bạo lực của anh ta biến mất. Phi
bạo lực và bạo lực chưa bao giờ trong xung đột. Không là câu
hỏi về chiến bại... không có đến cả việc giao tranh. Bạo lực yếu
tới mức giây phút phi bạo lực nổi lên, nó biến mất. Phi tâm linh
là rất yếu, thế giới là yếu, rất yếu.
Đây là lý do tại sao ở Ấn Độ thế giới được mô tả như maya,
ảo ảnh.Maya có nghĩa là cái gì đó vốn yếu tới mức bạn chỉ
chạm vào nó chút ít và nó biến mất. Nó là phép màu. Giống
như ai đó chỉ cho bạn cây xoài vốn mới vừa được làm cho đột
ngột hiện ra, và rồi khi bạn tới gần nó hơn bạn thấy rằng nó
không có đó. Hoặc trong đêm tối bạn thấy sợi dây đang lơ lửng
và nhầm là con rắn; thế rồi khi bạn tới gần hơn bạn thấy rằng
không có con rắn nào cả. Con rắn mà bạn thấy dưới hình sợi
dây là ảo ảnh: nó có vẻ ở đó nhưng không phải vậy.
Đấy là lý do tại sao ở Ấn Độ thế giới được nói là ảo ảnh, bởi
khi ai đó tới đủ gần, giây phút người đó thấy sự thật người đó
sẽ thấy rằng không có thế giới, chính là như vậy. Điều bạn
đang gọi là thế giới chưa bao giờ đụng độ sự thật.
Vì vậy, khi bạn cảm thấy rằng thú vui tâm linh của bạn đang
bị đánh bại, hãy nhận biết một điều: những thú vui đó của bạn
hẳn là ảo. Bạn hẳn đã biết tới nó qua việc đọc sách, chúng
không bên trong bạn. Có nhiều người như vậy ...
Một người đã tới tôi và hỏi, "Trong quá khứ tôi từng kinh
nghiệm Thượng đế, nhưng tôi không còn như thế nữa!"
Tôi nói với anh ấy, "Nó hẳn chưa từng xảy ra. Liệu có thể nào bạn bắt đầu kinh nghiệm thiêng liêng và rồi bạn dừng lại
không?"
Nhiều người tới tôi và nói, "Tôi từng kinh nghiệm thiền
nhưng bây giờ tôi không thể nữa."
Tôi nói với họ, "Nó chưa từng xảy ra giống thế, bởi không
thể nào từng kinh nghiệm thiền và rồi mất nó được."
Ghi nhớ điều này trong tâm trí: trong cuộc sống, trạng thái
cao hơn có thể được chạm tới nhưng chúng chưa bao giờ bị
mất đi. Bạn có thể chạm tới những trạng thái cao hơn nhưng
bạn không thể mất chúng, không có cách nào mất chúng cả.
Bạn có thể trở nên khôn ngoan, bạn có thể đạt tới hiểu biết,
nhưng bạn không thể mất nó. Nó là không thể.
Nhưng điều xảy ra là với giáo dục và với điều kiện hóa, vài
cảm giác gọi là tôn giáo nảy sinh trong bạn. Bạn tin rằng chúng
là tôn giáo, chúng không là tôn giáo, chúng chỉ là quy định hóa.
Có khác biệt giữa tính tôn giáo và điều kiện hóa. Từ thơ ấu trở
đi, bạn đã được dạy rằng có linh hồn. Bạn học nó, bạn nhồi
nhét nó, bạn ghi nhớ nó, nó trở thành một phần của hệ thống ký
ức của bạn. Và về sau bạn vẫn tiếp tục nói rằng có linh hồn và
bạn nghĩ bạn biết rằng có linh hồn.
Bạn không biết nó chút nào. Nó là ý tưởng mà bạn từng
nghe nói đâu đó, điều sai lầm những người khác đã dạy bạn.
Bạn không biết chút nào. Và rồi nếu cái được gọi là linh hồn
này bị đánh bại bởi đam mê của bạn, bạn nói, "Linh hồn yếu tới
mức nó bị đánh bại bởi những ham muốn của tôi." Bạn không
có linh hồn, bạn chỉ có ý tưởng. Và ý tưởng đó được tạo nên
bởi xã hội, nó không là của bạn. Khi năng lượng của thú vui
tâm linh thức tỉnh qua kinh nghiệm của chính bạn, thế thì thú vui trần tục biến mất. Chúng không còn có ảnh hưởng lên bạn.
Nhớ lấy điều này: nếu bạn cảm thấy rằng bạn đang bị đánh
bại, nhận ra rằng cái bạn đã tin tưởng là tôn giáo hẳn phải là cái
bạn nghĩ là tôn giáo, không là kinh nghiệm về tôn giáo của
chính bạn. Ai đó hẳn đã nói với bạn, chính bản thân bạn chưa
kinh nghiệm nó. Bạn hẳn đã nghe tới nó từ bố mẹ bạn. Bạn có
lẽ có nó từ truyền thống, nhưng nó chưa xảy ra trong bạn. Bạn
nghĩ có ánh sáng nhưng chưa có - đó là lý do tại sao bóng tối
chiến thắng. Khi có ánh sáng, hiện diện thực sự của nó đánh
bại bóng tối. Ánh sáng không chiến đấu với bóng tối: hiện diện
thật của nó, tồn tại thật của nó là thất bại của bóng tối.
Giữ điều này trong tâm trí bạn, và ném đi sự rỗng tuếch, cái
gọi là thú vui tâm linh và cảm giác tôn giáo đã bị đánh bại. Biết
chúng là rỗng tuếch, chúng không có ý nghĩa. Việc hiểu về
cách tạo ra thú vui tâm linh đích thực sẽ tới với bạn chỉ khi bạn
hiểu cách buông bỏ những thú vui giả.
Nhiều người trong các bạn tiếp tục mang theo gánh nặng
của những điều tưởng tượng hoàn toàn, điều vốn không tồn tại.
Như thể bạn là một trong những kẻ ăn xin vốn nghĩ bản thân
mình là người giàu có, cái mà bạn không là. Tại sao khi bạn đặt
tay mình vào túi của bạn và không tìm thấy ít tiền nào, bạn hỏi,
"Đây là loại giàu có gì nhỉ?" Đây không là giàu có chút nào.
Những người ăn xin có trò tiêu khiển thú vị: mơ là giàu có -
và mọi hành khất đều mơ trở nên giàu có. Vì vậy bạn càng trần
tục, bạn sẽ càng mơ về việc trở nên tôn giáo.
Có nhiều cách để mơ. Đi tới đền vào buổi sáng, quyên góp
đôi chút gì đó, thực hiện vài nghi lễ, thậm chí thỉnh thoảng đọc
đôi chút từ kinh Gita, kinh Koran hoặc kinh Thánh, do đó ảo ảnh rằng bạn mộ đạo được tạo ra. Những hành động này tạo
nên ảo ảnh rằng bạn mộ đạo. Và thế thì khi cái gọi là thú vui
tôn giáo này bị đánh bại bởi những ham muốn trần tục, bạn trở
nên rất buồn và đầy nuối tiếc, và bạn nghĩ, "Thú vui tâm linh
mới yếu làm sao và thú vui trần tục mới mạnh mẽ làm sao."
Nhưng bạn không có chút thú vui tâm linh nào. Bạn đang lừa
dối bản thân với việc nghĩ rằng bạn tôn giáo.
Vì thế bạn cần hiểu rằng thú vui tâm linh nào có thể bị đánh
bại bởi ham muốn dục là giả. Đây là tiêu chuẩn: thú vui tâm
linh nào có thể bị đánh bại bởi thú vui trần tục là giả. Cái ngày
một thú vui được sinh ra trong bạn thế thì trước hiện diện của
nó thú vui trần tục của bạn biến mất - thậm chí ở đó nếu bạn
tìm kiếm chúng bạn cũng sẽ không thể tìm thấy được - ngày
đó, cái gì đó sẽ thật sự xảy ra cho bạn. Bạn sẽ có thoáng nhìn
về tính tôn giáo.
Nếu mặt trời mọc vào buổi sáng và bóng tối còn lại như nó
là, thế thì hãy biết rằng bạn chỉ đang mơ rằng mặt trời đã mọc.
Khi mặt trời mọc, bóng tối tự nó biến mất. Mặt trời chưa từng
gặp bóng tối; mặt trời không biết rằng cái gì đó như bóng tối
tồn tại. Và nó sẽ không bao giờ có thể biết tới.
Cho tới bây giờ linh hồn chưa từng biết rằng cái gì đó giống
như ham muốn trần tục tồn tại. Khi linh hồn thức tỉnh, thế thì
ham muốn không thể tìm thấy ở đâu cả. Hai cái chưa bao giờ
gặp gỡ. Nhớ lấy tiêu chuẩn này; nó sẽ hữu ích.
Một người bạn đã hỏi:
Khổ hạnh có là cần thiết trong thiền không?
Điều tôi đang diễn tả với bạn - thanh lọc cơ thể, thanh lọc ý
nghĩ, thanh lọc cảm xúc; tính không của cơ thể, tính không của tâm trí, tính không của cảm xúc - đây là khổ hạnh.
Và mọi người nghĩ khổ hạnh là gì? Nếu ai đó đang đứng
dưới mặt trời, họ nghĩ rằng người đó đang tu tập khổ hạnh. Nếu
ai đó nằm trên nệm gai, họ nghĩ rằng người đó đang tu tập khổ
hạnh. Nếu ai đó đang ngồi trong cơn đói, điều đó nghĩa là
người đó đang tu tập khổ hạnh. Ý tưởng của chúng ta về khổ
hạnh là rất duy vật, rất thể xác. Khổ hạnh, với hầu hết mọi
người, có nghĩa là hà khắc với cơ thể. Nếu ai đó đang làm tổn
thương cơ thể mình, thế thì người đó đang thực hành khổ hạnh.
Thực tế, khổ hạnh không liên quan gì tới việc làm tổn thương
cơ thể. Khổ hạnh là gì đó hoàn toàn duy nhất; là gì đó khá khác
biệt.
Nếu ai đó đang nhịn ăn bạn nghĩ người đó đang thực hành
khổ hạnh - nhưng người đó chỉ đang chết đói. Và tôi sẽ thậm
chí đi xa tới mức nói rằng người đó đang không nhịn ăn, người
đó chỉ đang chịu đựng cơn đói. Chịu đựng cơn đói, không ăn
gì, là một điều; nhịn ăn là gì đó hoàn toàn khác.
Một upvaas, người nhịn ăn, có nghĩa là sống trong hiện diện
của thiêng liêng.Nó có nghĩa là ở gần linh hồn ai đó. Nó có
nghĩa là gần với linh hồn. Và chịu đựng cơn đói nghĩa là gì?
Chịu đựng cơn đói có nghĩa ở gần với cơ thể. Đây là hai điều để tự hào. Nếu đói là gì đó tâm linh, những nước nghèo sẽ tâm
linh. Nhưng bạn có biết rằng không nước nghèo nào có thể tâm
linh không? Ít nhật nó chưa từng xảy ra cho tới bây giờ. Một
đất nước chỉ có thể trở nên tôn giáo khi nó giàu có.
Bạn nhớ những ngày quá khứ khi các nước phương Đông là
tôn giáo, khi Ấn Độ là tôn giáo, nhưng đó là những ngày thật
sự thịnh vượng, thật sự hạnh phúc và thật sự sung túc.
Mahavira và Phật là con vua; toàn bộ hai mươi tư vị tu khổ
hạnh chứng ngộ Jaina là con vua.Điều này không là ngẫu
nhiên. Tại sao chưa bao giờ có vị tu khổ hạnh chứng ngộ được
sinh ra trong gia đình nghèo? Có lý do cho nó: khổ hạnh luôn
bắt đầu giữa sung túc. Người nghèo thì gần với cơ thể hơn.
Người giàu bắt đầu trở nên tự do khỏi cơ thể, theo nghĩa này
những nhu cầu mang tính thể xác của người đó đã được hoàn
thành và lần đầu tiên người đó trở nên ý thức về nhu cầu mới
vốn là của linh hồn.
Đây là lý do tại sao tôi không ủng hộ bạn nhịn đói, hoặc
khiến ai đó khác đi tới nhịn đói, hoặc gọi nghèo khổ là tính tâm
linh. Những người nói điều này là đang mang ảo ảnh và họ
cũng đang lừa dối những người khác. Họ chỉ đang ủng hộ cho
nghèo khó và nhận lấy những đường đi sai để cảm thấy được
bằng lòng. Ở trong cơn đói không có giá trị, tinh thực có giá trị.
Vâng, có thể trong trạng thái tịnh thực bạn quên mất thức ăn và
cứ tiếp tục mà không có nó, nhưng đó lại là chuyện hoàn toàn
khác. Mahavira đang thực hành khổ hạnh. Ông không giữ mình
đói, ông tịnh thực. Thông qua tịnh thực ông tiếp tục cố thử
chạm tới gần hơn linh hồn. Trong một vài thời khắc khi ông ấy
ở gần hơn với thượng đế, thế thì ông ấy sẽ quên mất sự hiện
diện của cơ thể. Những thời khắc đó có thể được kéo dài và
một hoặc hai ngày, thậm chí cả tháng có thể trôi qua.

Người ta nói về Mahavira rằng trong mười hai năm tu khổ
hạnh, ông ấy chỉ ăn ba trăm năm mươi ngày. Một hoặc hai
tháng trôi qua lúc ông ấy không ăn. Bạn có nghĩ rằng nếu ông
ấy đã đói, hai tháng có đơn giản trôi qua không? Người đói sẽ
chết. Nhưng Mahavira không chết bởi ông ấy không nhận biết
về cơ thể mình suốt thời gian đó. Có nhiều thân mật, gần gũi
với linh hồn tới mức ông ấy không nhận biết rằng cơ thể cũng
có đó.
Và nó là một bí ẩn kỳ diệu... nếu bạn trở nên không nhận
biết về sự hiện diện của cơ thể, nó bắt đầu vận hành theo hệ
thống khác hoàn toàn và nó không còn cần thức ăn nữa. Bây
giờ nó là một thực tế khoa học rằng nếu bạn trở nên hoàn toàn
không nhận biết về cơ thể bạn, nó sẽ bắt đầu vận hành theo hệ
thống khác hoàn toàn và nó sẽ không cần nhiều thức ăn. Và
người nào càng đi vào thế giới tâm linh, sẽ càng trở nên có thể
cho người đó tiếp nhận năng lượng tinh tế, rất tinh tế từ thức ăn
vốn không thể đối với người bình thường. Vì vậy khi Mahavira
tịnh thực, chỉ bởi vì ông ấy gần với linh hồn tới mức ông ấy
quên đi tất cả về thức ăn. Đây là cách nó có thể xảy ra.
Một lần có người mộ đạo cạnh tôi, và người đó nói với tôi,
"tôi nhịn ăn hôm nay."
Tôi nói, "Bạn phải ngụ ý bạn đang nhịn đói, mà không là
tịnh thực!"
Ông ấy nói, "Có khác biệt gì giữa nhịn đói và tịnh thực?"
Tôi nói, khi bạn nhịn đói, bạn ngừng ăn thức ăn và bạn bắt
đầu suy ngẫm về thức ăn. Tịnh thực ngụ ý rằng bạn không còn
bận tâm tới thức ăn; bạn đang trong giao tiếp với linh hồn và
thức ăn bị quên lãng."

Tịnh thực là khổ hạnh thật. Và nhịn đói là gây tổn thương
cho cơ thể, đè nén cơ thể. Người có bản ngã nhịn đói; người
phi bản ngã tịnh thực. Nhịn đói đáp ứng bản ngã, rằng "tôi đã
không ăn nhiều ngày rồi!" Bạn thấy tự hào và vui sướng khắp
xung quanh bạn. Tin tức rằng bạn rất tôn giáo lan truyền khắp
nơi. Thậm chí một vết thương nhỏ cho cơ thể cũng đáp ứng lớn
lao bản ngã, vì thế người có cái tôi lớn đồng ý làm điều này.
Tôi đang nói với bạn một cách rõ ràng rằng đây là mối bận
tâm của bản ngã. Đây không là lợi ích và bận tâm tôn giáo.
Người tôn giáo dứt khoát tịnh thực, nhưng họ không nhịn đói.
Tịnh thực có nghĩa rằng ai đó hoàn toàn bị thú hút vào nỗ lực
tới gần với linh hồn. Và khi ai đó bắt đầu đi tới gần hơn với
linh hồn, xảy ra chuyện thức ăn hoàn toàn bị quên lãng. Và tôi
nói với bạn điều này một cách dứt khoát rằng nó đúng trong
mọi thứ, không chỉ trong chuyện này mà trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống.
Hôm qua tôi đã nói với bạn về dục và tình yêu... hay có lẽ
về gì đó khác. Người bận rộn đè nén dục sẽ dường như rất tôn
giáo với bạn, nhưng thực tế người đó không là tôn giáo chút
nào. Người tôn giáo là người bị thu hút vào phát triển của tình
yêu, vì bằng cách yêu thương nhiều hơn dục tự nó sẽ biến mất.
Khi bạn tới gần hơn với thiêng liêng sẽ có nhiều thay đổi trong
cơ thể. Cách bạn nhìn cơ thể sẽ khác đi, nó sẽ thay đổi.
Khổ hạnh là khoa học thông qua đó người ta quên đi rằng
"Tôi là cơ thể" và đi tới biết rằng "Tôi là linh hồn". Khổ hạnh
là chuyện về kỹ xảo. Khổ hạnh là một kỹ xảo. Một cây cầu, con
đường qua đó người ta quên rằng mình là cơ thể, và nhận biết
hé rạng nơi người đó rằng mình là linh hồn.
Nhưng những dạng khổ hạnh giả sẽ tiếp tục khắp thế giới và chúng đã tạo nên nhiều nguy hiểm. Chúng thỏa mãn bản ngã
của vài kẻ bản ngã nhất nhưng gây nên tổn hại lớn cho hiểu
biết của số đông, bởi rồi thì số đông tin rằng đây là khổ hạnh
thật, rằng đây là thiền thật, rằng đây là yoga thật. Nhưng chúng
không là thiền cũng không là yoga.
Và tôi sẽ nói với bạn vài điều nữa: người nào quan tâm tới
đè nén cơ thể theo cách này đơn giản là loạn thần kinh. Ngoài
ra, người nào vui thích gây tổn thương cơ thể họ cũng giống
những người vui thích gây đau đớn lên cơ thể người khác.
Khác biệt duy nhất là niềm vui họ kinh nghiệm sẽ được kinh
nghiệm thông qua cách gây ra đau đớn lên cơ thể người khác
thay vì theo cách gây tổn thương lên chính cơ thể họ. Đây là
những người bạo lực. Đây là khổ dâm, nó là bạo lực lên bản
thân.
Và tôi cũng nhắc bạn rằng có hai loại bản năng trong con
người: một bản năng là sống, bản năng tồn tại; và bạn có lẽ
không nhận thức rằng có bản năng khác trong con người là
chết, bản năng chết. Nếu không có bản năng chết ở con người,
không thể có nhiều vụ tử tự đến thế trên toàn thế giới. Bản
năng chết tiềm ẩn hiện hữu trong tất cả mọi người - bởi vậy cả
hai bản năng đều có đó trong bạn.
Bản năng chết có thể kích động một người tự giết chính
mình. Người đó bắt đầu thích thú nó, phấn khởi vì nó. Vài
người tự tử trong một lần và vài người tự tử rất từ từ, theo từng
phần. Những ai thực hiện nó rất từ từ, bạn nói họ đang thực
hành khổ hạnh, và những ai thực hiện nó trong một lần được
nói là đã tự tử. Những người nào thực hiện nó từ từ dường như
đang thực hành khổ hạnh!
Khổ hạnh không là tự tử. Khổ hạnh không có gì làm với cái chết, nó liên quan tới cuộc sống vô tận. Khổ hạnh không quan
tâm tới cái chết mà là đạt tới một cuộc sống toàn bộ hơn nữa.
Vì vậy tầm nhìn của tôi về khổ hạnh bao gồm ba chìa khóa
mà tôi đã nói với bạn, và tôi sẽ trao đổi thêm về ba chìa khóa
nữa sau. Sáu chìa khóa này lý giải khổ hạnh là gì theo tầm nhìn
của tôi. Người nào đi vào sáu lời kinh này là đang thực hành
khổ hạnh. Bạn từng tự hỏi liệu có thật là khổ hạnh không khi ai
đó chạy trốn và bỏ lại vợ con phía sau chưa? Người ta gọi điều
này là khổ hạnh... họ sẽ thậm chí gọi người đấy là sannyasin!
Thế nhưng có thể người đấy chạy trốn và bỏ lại người vợ đằng
sau mà vẫn nghĩ về cô ấy. Khổ hạnh là khi người vợ vẫn đang
ngồi cạnh bạn đấy và bạn không bị sao lãng bởi cô ấy. Chạy
trốn và vẫn tiếp tục nghĩ về cô ấy không là khổ hạnh.
Và nhớ cho, người nào chạy trốn và bỏ rơi các thứ phía sau
sẽ vẫn tiếp tục nghĩ về những thứ đó. Với họ không thể không
làm như thế, bởi nếu họ là dạng người không làm thế họ sẽ
không thể nghĩ về chúng ngay cả khi chúng vẫn còn ở đấy cùng
họ.
Để tôi cũng nói với bạn điều này nữa: Khi những thứ vẫn
đang hiện diện bạn không nghĩ về chúng, thế nhưng khi chúng
không còn đó nữa bạn bắt đầu nghĩ về chúng. Bạn tự mình từng
kinh nghiệm điều này chưa? Bạn không nghĩ về điều đang ở
trước bạn, bạn nghĩ về điều không có đó. Nếu người bạn yêu ở
gần bạn, bạn quên mất họ; khi họ ở xa bạn bắt đầu nhớ họ. Họ
càng ở xa, bạn càng nhớ họ da diết. Bạn không có khái niệm gì
những cái gọi là sannyasin này chịu đựng nhiều bao nhiêu.
Nếu tất cả những người tôn giáo trên thế giới này trung
thực, thế thì ảo tưởng này của thế giới tôn giáo hiện tại của họ
sẽ biến mất. Và nếu họ sẵn sàng phơi bày một cách thật sự rối loạn bên trong của họ, điều đang xảy ra trong họ và sự đau đớn
cực độ về thể xác hoặc tinh thần họ đang trải qua, niềm khao
khát họ đang chịu đựng, ham muốn đang mang đến cho họ đau
đớn và quỷ dữ vốn dường như đang dày vò họ - nếu họ nói cho
bạn tất cả điều này, bạn sẽ nhận ra rằng địa ngục là ở ngay đây
trên trái đất này. Tôi đang nói điều này với bạn với sự đảm bảo:
địa ngục không thể ở bất kỳ đâu khác thế giới này. Cuộc sống
con người là địa ngục nếu người đó chưa chuyển đổi ham
muốn của mình mà chạy trốn khỏi chúng.
Khổ hạnh không có nghĩa là chạy trốn khỏi cái gì, nó là biến
đổi. Khổ hạnh không là từ bỏ mà là biến đổi. Khổ hạnh không
là hy sinh, nó là chuyển hóa đúng - và bất kỳ cái gì xảy ra trong
sự chuyển hóa đó đều đúng. Và bất kỳ cái gì xảy ra bằng cách
chạy trốn, bởi từ bỏ, đều không đúng. Sẽ rất hữu dụng nếu bạn
có thể hiểu điều này.
Hàng nghìn người đang đau khổ. Họ chỉ có một niềm vui: là
thỏa mãn bản ngã. Cũng chỉ vài người này có thể thỏa mãn,
không phải tất cả. Bản ngã của những ai rất thông minh, vì vài
lý do, được thỏa mãn dễ dàng hơn. Phần còn lại chỉ khốn khổ
và tiếp tục hy vọng rằng một ngày họ sẽ tới thiên đường, rằng
họ sẽ được cứu với khỏi đi tới địa ngục và có lẽ kinh nghiệm
niết bàn. Lòng tham dính kết với bạn cũng dính kết với họ. Và
tham cho bạn khả năng chịu đựng nhiều đau khổ. Ngay cả
người bình thường trong tham lam có thể chịu đựng nhiều đau
khổ hơn. Người bình thường nào tham tiền trải qua nhiều đau
đớn để tích lũy tiền, và người nào tham đi tới thiên đường cũng
chịu đựng nhiều đau đớn.
Khi mọi người mang Jesu đi đóng đinh, một trong những
môn đồ hỏi, "Chúng tôi đã từ bỏ mọi thứ cho ngài: hãy nói cho  chúng tôi, chúng tôi sẽ được đối xử như thế nào ở vương quốc
của Thượng đế?" Ông ấy hỏi, "Chúng tôi đã từ bỏ mọi thứ cho
ngài, nơi của chúng tôi ở vương quốc của Thượng đế sẽ là gì?"
Jesu hẳn đã nhìn ông ta với lòng thương hại lớn lao và có lẽ
vì thương hại hoặc một cách đùa bỡn, tôi không biết tại sao ông
ấy nói nó, ông ấy đáp, "Cũng sẽ là một nơi gần bên Thượng đế
cho ông."
Người đàn ông trở nên hạnh phúc. Ông ấy nói, "Thế thì
được rồi."
Bây giờ bạn sẽ nói rằng người đàn ông này đã từ bỏ? Thật
khó để tìm thấy người nào tham lam hơn người hỏi, "Tôi đã từ
bỏ tất cả, bây giờ tôi sẽ nhận lại cái gì?" Ai đó đang nghĩ sẽ
nhận lại gì đó là chưa từ bỏ chút nào. Đây là lý do tại sao tất cả
cuộc nói chuyện về khổ hạnh này - tất cả mọi người đang nói
về khổ hạnh - cũng đưa đến cho bạn cám dỗ thực hành một
hạnh khổ hạnh cụ thể, để bạn sẽ nhận được một phần thưởng
cụ thể.
Khổ hạnh được thực hiện với ham muốn nhận lại gì đó là
giả, bởi đấy không là khổ hạnh chút nào, nó là một dạng của
tham lam. Đây là lý do tại sao tất cả dạng tồn tại của khổ hạnh
hứa hẹn với bạn đổi lại gì đó. Họ nói với bạn rằng những ai
thực hành khổ hạnh này hoặc khổ hạnh kia trong quá khứ đã
đạt được cái này hoặc cái nọ. Đây tất cả là những dạng của
tham lam.
Khổ hạnh duy nhất là cố gắng biết tự thân. Không phải là
bạn sẽ nhận được nơi nào đó ở thiên đường thông qua điều này
hoặc điều kia - nhưng bạn sẽ kinh nghiệm vui sướng lớn lao.
Không biết tới tự thân của bản thân là không biết tới tự thân cuộc sống, và không biết tự thận của chính mình... Không thể
nào có việc mong muốn biết tự thân lại không nảy sinh trong ai
đó dù người đó chỉ có chút ít thông minh. Người đó sẽ kiên
quyết biết mình là ai và tiếp tục trở nên thân thuộc với năng
lượng cuộc sống trong mình.
Khổ hạnh là con đường đi tới biết về sự thật cuộc sống. Khổ
hạnh không là đè nén cơ thể. Nhưng, có thể nhiều điều đang
diễn ra cho thiền nhân đối với bạn dường như là đè nén cơ thể,
mặc dù người đó đang không làm như vậy chút nào.
Bạn từng thấy tượng của Mahavira chưa? Khi bạn thấy bức
tượng của ông ấy, bạn có cảm thấy rằng người đàn ông này đè
nén cơ thể không? Bạn từng nhìn thấy cơ thể nào khác giống
thế không? Và thế thì bạn từng nhìn những vị thánh đi theo
Mahavira chưa? Giờ phút bạn nhìn họ bạn biết rằng họ đã đè
nén cơ thể họ. Nguồn sinh lực của họ tất cả đều khô kiệt. Cơ
thể họ buồn và uể oải, và trạng thái ý thức của họ cũng uể oải.
Họ chỉ di chuyển dưới ảnh hưởng của lòng tham: "Hân hoan,
an bình mà bạn có thể thấy trong tượng của Mahavira ở đâu?"
Đây là đôi điều nghĩ tới. Mahavira trút bỏ quần áo. Bạn nghĩ
ông ấy trút bỏ quần áo bởi ông ấy nghĩ rằng quần áo nên được
từ bỏ. Không, ông ấy đơn giản đi tới biết niềm vui sướng của
việc ở trần truồng. Tôi muốn nói với bạn một cách rất rõ ràng
rằng Mahavira không trút bỏ quần áo vì có đôi chút vui sướng
trong việc từ bỏ chúng, ông ấy trút bỏ chúng bởi niềm vui của
việc ở trần truồng. Trần truồng là hân hoan với ông ấy tới nỗi
mặc quần áo trở nên phiền hà. Ông ấy thấy thật nhiều hân hoan
bởi việc ở trần truồng tới mức quần áo trở nên phiền hà, vì thế
ông ấy quẳng chúng đi.
Khi một nhà sư đi theo ông ấy buông bỏ quần áo của mình, người ấy không cảm thấy chút vui thích nào trong nó. Thực tế,
khó cho ông ấy trút bỏ quần áo. Và bằng cách đi qua khó khăn
đó ông ấy nghĩ rằng ông ấy đang thực hành khổ hạnh. Khi
người đó buông bỏ quần áo người đó nghĩ, "Tôi đang thực
hành khổ hạnh."
Với Mahavira đây không là khổ hạnh, nó là hành động của
niềm vui. Và nếu ai đó theo Mahavira mà không hiểu ông ấy,
không hiểu linh hồn ông ấy, người đó sẽ chỉ trút bỏ quần áo, và
bởi trút quần áo sẽ khó khăn cho người đó, nên người đó gọi
đây là một khổ hạnh.
Khổ hạnh không đau đớn. Không thể có niềm vui nào lớn
hơn khổ hạnh. Nhưng những ai thực hành nó duy nhất trên bề
mặt sẽ cảm thấy rằng nó khó khăn và đau khổ. Và đổi lấy việc
đi qua nhiều đau đớn vậy họ sẽ hy sinh bản ngã của họ trên trái
đất và sẽ hy sinh lòng tham của họ cho một thế giới khác. Tôi
không gọi cái này là khổ hạnh. Khổ hạnh là quá trình đi vào
trong bản thân mình với sự trợ giúp của tâm trí và cơ thể. Và để
đi vào trong tự thân là khó khăn và gian khổ - cần quyết tâm rất
lớn.
Nghĩ về điều này đi. Nếu tôi liên tục đứng dưới mưa và mặt
trời gay gắt: có khổ hạnh trong điều này hơn trước thực tế rằng
khi ai đó lạm dụng tôi, tôi không trở nên tức giận không? Có
khổ hạnh trong việc nằm trên giường gai hơn trước thực tế rằng
khi ai đó dùng đá đánh tôi, ngay cả ý nghĩ đến việc dùng đá
đánh lại người đó cũng không nảy sinh trong trái tim tôi
không? Cái nào chứa đựng nhiều khổ hạnh hơn?
Bất cứ ai trong rạp xiếc cũng có thể nằm trên giường gai;
đứng dưới mặt trời nóng chỉ là chuyện thực tập, và sau khi thực
tập vài ngày nó chẳng còn đáng kể gì. Nó rất đơn giản, nó hoàn toàn đơn giản. Hãy còn trần truồng là chuyện của thực hành.
Thực tế, tất cả những người nguyên thủy trên thế giới đều sống
trần truồng. Nhưng chúng ta không gọi đó là khổ hạnh, và
chúng ta không đi tới họ và quỳ xuống chân họ như thể họ
đang làm điều gì đó tuyệt vời. Chúng ta biết rằng nó là phong
tục của họ. Nó rất tự nhiên với họ, nó không khó khăn với họ.
Khổ hạnh không có nghĩa rằng bạn chỉ tiếp tục thực hành gì
đó. Nhưng một trăm người thì có tới chín mươi chín người
đang làm điều này. Bạn sẽ hiếm khi ngang qua ai đó mà khổ
hạnh của người đó là hoa trái niềm vui của người này - và khổ
hạnh chỉ là thực khi nó là hoa trái của niềm vui. Nhưng khi nó
phục vụ cho đau khổ nó không là gì hơn một dạng khổ dâm -
nó không là tôn giáo, nó là loạn thần kinh.
Và nếu hiểu biết tăng trưởng trong thế giới, chúng ta sẽ gửi
người được gọi là tôn giáo này tới bệnh viện tâm thần, không
phải là thánh đường. Thời điểm mà ai đó nhận thấy hài lòng từ
việc gây tổn thương chính cơ thể mình cần được điều trị là
không xa lắm. Và người nào chỉ hưởng thụ vui thú của cơ thể
người đó cũng ốm yếu, cũng y như người nhận lấy niềm vui từ
việc gây nên đau đớn cho cơ thể, những người này cũng ốm
yếu nhưng ở thái cực khác. Nếu ai thấy vui sướng chỉ từ việc
dùng cơ thể mình để vui đùa, nó là ốm yếu. Nó là ốm yếu của
những ai luôn tìm kiếm thú vui thể xác. Và nếu ai đó vui thích
gây tổn thương cơ thể, điều này nữa cũng là ốm yếu - nó là ốm
yếu của người tu khổ hạnh vốn đè nén mọi ham muốn thể xác
của mình.
Người nào sử dụng cơ thể của mình đúng sẽ trở nên tự do
khỏi ốm yếu. Người đó không đồng nhất với cơ thể mình,
không đắm chìm cũng không đè nén. Cơ thể đơn giản là công cụ. Chỉ người nào không đè nén cơ thể cũng không đắm chìm
trong nó, người mà niềm vui hay đau khổ không phụ thuộc vào
cơ thể, người mà niềm vui không phụ thuộc vào cơ thể mà là
linh hồn -chỉ người như vậy mới di chuyển tới tôn giáo.
Có hai loại người vốn có niềm vui phụ thuộc vào cơ thể:
một loại kinh nghiệm niềm vui qua việc ăn quá nhiều, và loại
kia thì kinh nghiệm niềm vui qua việc không ăn. Nhưng cả hai
đang nhận lấy vui sướng từ việc hành hạ cơ thể - nếu họ kinh
nghiệm bất kỳ vui sướng nào, nó gắn chặt với cơ thể. Đây là lý
do tại sao tôi gọi cả hai, loại người đắm chìm và loại người tôn
giáo này là duy vật: bản thân họ chỉ bận tâm tới cơ thể. Bởi tôn
giáo nếu là cái gì đó chỉ gắn liền với cơ thể thì sẽ rất gây hại.
Phẩm chất tinh thần của tôn giáo cần được thiết lập lại.

§

Một câu hỏi nữa về chủ đề này:

Có khác biết gì giữa rag, ham muốn; virag, chối bỏ ham
muốn; và veetrag, vượt thoát khỏi ham muốn.

Rag có nghĩa gắn kết vào gì đó, virag có nghĩa đi chống lại
gắn kết, và veetrag có nghĩa vượt thoát gắn kết.
Nếu bạn cố hiểu điều tôi đang nói ngay lúc này, thế thì rag
là gắn kết vào cái gì đó và virag là phủ nhận gắn kết đó. Nếu
một người tích lũy tiền nó là rag, và nếu một người từ bỏ tiền
và trốn chạy, đấy là virag. Nhưng tiêu điểm trong cả hai trường
hợp đều là tiền. Người nào đang tích lũy là nghĩ về tiền, và
người nào đang từ bỏ nó thì phía sau đó cũng là nghĩ về tiền.
Một là tìm kiếm vui thú từ việc tích lũy thật nhiều - người đó
có rất nhiều và cái tôi của người đó được thỏa mãn bởi việc nghĩ về nó - trong khi người khác thì hy sinh bản ngã của mình
bằng cách nghĩ về thực tế rằng mình đã từ bỏ rất nhiều.
Bạn sẽ ngạc nhiên... người có tiền sẽ giữ tài khoản xem họ
có bao nhiêu tiền, nhưng người từ bỏ tiền cũng giữ một tài
khoản xem họ đã từ bỏ bao nhiêu tiền. Thầy tu và người tôn
giáo có danh sách xem họ đã thực hiện bao nhiêu lần nhịn ăn!
Họ giữ dấu vết những loại nhịn ăn khác nhau mà họ đã thực
hiện. Nếu có bảng thống kê về từ bỏ, cũng giống vậy cũng có
bảng thống kê về ham muốn. Rag giữ một bản, và virag cũng
giữ một bản, bởi điểm tập trung của họ là như nhau; họ đều
đang nắm giữ cùng một thứ.
Veetrag, vượt thoát khỏi gắn kết, không giống như virag,
phủ nhận gắn kết. Veetrag là tự do khỏi cả gắn kết và phụ nhận
gắn kết. Veetrag là trạng thái tâm thức khi không có cả gắn kết
lẫn không-gắn kết. Người đó là trung lập. Người đó có tiền
nhưng người đó không bận tâm.
Kabir có người con trai, Kamaal. Kabir lúc đó đang có thói
quen của virag, phủ nhận gắn kết. Ông ấy không thích cách của
Kamaal, bởi nếu ai đó tặng gì đó cho Kamaal anh ta sẽ giữ lấy
nó. Kabir nói với anh ta nhiều lần, "Đừng chấp nhận quà tặng
từ bất kỳ ai. Chúng ta không cần tiền chút nào."
Nhưng Kamaal sẽ nói, "Nếu tiền là vô dụng, thế thì cần gì
phải nói ngay đến cả từ không? Nếu tiền là vô dụng, thế thì
chúng ta không cần hỏi xin nó bởi nó là vô dụng. Nhưng nếu ai
đó tới đây để tự mình gỡ bỏ gánh nặng, thì tại sao lại nói không
với anh ta? Sau rốt, nó là vô dụng cơ mà."
Kabir không thích điều này. Ông ấy nói, "Ta muốn con ở
riêng."

Virag của ông ấy, phủ nhận với gắn kết, đang bị đảo lộn bởi
nó. Vì thế ông ấy nói với Kamaal ra ở riêng, và Kamaal bắt đầu
sống trong một lều riêng.
Vua Kashi có lần tới thăm Kabir. Ông ấy nói, "Ta không
thấy Kamaal quanh đây."
Kabir nói, "Tôi không thích cách của nó, cư xử của nó là
nông cạn. Tôi đã sống riêng khỏi nó. Nó sống riêng."
Vua hỏi, "Lý do là gì vậy?"
Kabir nói, "Nó tham tiền. Ai đó dâng cúng gì đó và nó nhận
lấy.
Vua đi tới gặp Kamaal và, cúi xuống, đặt một viên kim
cương rất giá trị dưới chân anh ta. Kamaal nói, "Ngài mang gì
tới vậy? Chỉ một viên đá ư!"
Vua nghĩ, "Nhưng Kabir nói rằng Kamaal gắn kết với tiền
bạc, và anh ta nói rằng mình chỉ mang tới một viên đá!" Vì vậy
ông ấy nhặt nó lên và bắt đầu đặt nó lại vào túi mình.
Kamaal nói, "Nếu nó là một viên đá, thế thì đừng bận tâm
mang lại gánh nặng theo mình; nếu không thì ngài sẽ vẫn đang
nghĩ rằng nó là kim cương."
Vua nghĩ, "Có gì đó gian lận diễn ra đây." Nhưng ông ấy
nói, "Thế tôi nên đặt nó ở đâu?"
Kamaal trả lời, "Nếu ngài hỏi đặt nó ở đâu, thế thì ngài
không xem nó chỉ là hòn đá. Và ngài đang hỏi đặt nó ở đâu, vì
vậy ngài không nghĩ nó chỉ là hòn đá.Đơn giản quẳng nó đi!
Giữ nó để làm gì?"
Vua đặt nó vào một góc trong lớp mái rơm của căn lều. Rồi ông rời đi mà nghĩ, "Đây là lừa dối! Khi ta quay lưng nó sẽ
biến mất cho coi."
Sau sáu tháng ông ấy quay lại và nói, "Cách đây một thời
gian tôi đã tặng ngài cái gì đó."
Kamaal nói, "Nhiều người tặng vật phẩm. Và chỉ nếu tôi có
hứng thú với những thứ đó tôi mới bận tâm giữ chúng hay trả
lại chúng. Nhưng tôi không có hứng thú với những món quà
đó, vì vậy sao tôi cần theo dõi chúng làm gì? Vâng, ngài hẳn đã
tặng tôi gì đó. Bởi ngài đang nói vậy, ngài hẳn đã mang tới một
món quà."
Vua nói, "Quà của tôi rất không rẻ, nó rất có giá trị. Viên đá
mà tôi đã tặng ngài đâu?"
Kamaal nói, "Điều đấy rất khó. Ngài đã đặt nó ở đâu?"
Vua đi tới và nhìn vào góc nơi ông ấy đã nhét nó vào, và
viên đá vẫn ở đó. Ông ấy ngạc nhiên! Điều này đã mở mắt ông
ấy.
Người đàn ông Kamaal này là duy nhất: với anh ta nó chỉ là
một hòn đá. Đây là điều mà tôi gọi là veetrag, vượt thoát khỏi
gắn kết. Nó không là virag, phủ nhận gắn kết. Đây là vượt thoát
gắn kết.
Rag là mối bận tâm bám chặt cái gì đó, và virag là quan tâm
tới từ bỏ cùng điều đó. Veetrag có nghĩ là nó đã không còn chút
ý nghĩa nào. Veetrag, vượt thoát khỏi ham muốn, là mục tiêu.
Những ai đạt tới điều đó biết tới hân hoant tối thượng bởi tất
cả gắn kết của họ với bên ngoài biến mất.

Và bây giờ, câu hỏi cuối cùng:

Thiền là không thể nếu không có điều mà thầy gọi là nền
tảng cho thiền: thanh lọc của cơ thể, thanh lọc của ý nghĩ và
thanh lọc của cảm xúc?

Không, không có chúng thiền vẫn là có thể, nhưng nó chỉ có
thể với rất ít người. Nếu bạn đi vào thiền với toàn bộ quyết
tâm, thế thì ngay cả không có thanh lọc bất kỳ cái nào trong
những cái này bạn vẫn có thể đi vào thiền bởi giây phút bạn đi
vào, tất cả những cái đó sẽ trở nên tinh khiết. Nhưng nếu nó
không dễ dàng cho bạn để có được nhiều quyết tâm thế - sẽ rất
khó có nhiều quyết tâm như vậy - thế thì bạn sẽ phải thanh lọc
chúng từng cái một.
Bạn sẽ không đạt tới trạng thái thiền bằng cách khiến chúng
tinh khiết, nhưng bạn sẽ đạt tới quyết tâm lớn hơn bằng cách
làm chúng tinh khiết. Bằng cách thanh lọc chúng, năng lượng
vốn đã bị lãng phí qua uế tạp sẽ được giữ lại, và năng lượng đó
sẽ được chuyển hóa thành quyết tâm. Sau đó bạn sẽ đi vào
thiền. Thanh lọc ba mảng này hữu ích, nhưng không cần thiết.
Thanh lọc ba mảng này là thiết yếu với những ai thấy không
thể đi vào thiền một cách trực tiếp, và những ai mà không có
nó sẽ không thể đi vào thiền được. Nhưng chúng chắc chắn là
không cần thiết bởi nếu có quyết tâm toàn bộ, dù chỉ trong
chốc lát, bạn có thể đi vào thiền. Dù chỉ chốc lát, nếu ai đó tập
hợp năng lượng toàn bộ và thực hiện cú nhảy, thế thì không có
gì có thể ngăn cản người đó, không uế tạp nào có thể ngăn cản
người đó. Nhưng chỉ rất ít người có đủ diễm phúc tập hợp năng
lượng nhiều đến vậy; chỉ rất ít người có đủ diễm phúc để tập
hợp can đảm nhiều đến thế.
Chỉ loại người mà tôi sắp nói với bạn trong câu chuyện đây
mới có thể tập hợp can đảm nhiều đến thế.

Trước đây có người đàn ông nghĩ rằng thế giới phải kết thúc
ở đâu đó, vì thế ông ta bắt đầu lên đường để tìm nơi mà thế giới
kết thúc. Ông ấy đi qua hàng nghìn dặm, và tiếp tục hỏi mọi
người, "Tôi phải tìm nơi mà thế giới kết thúc."
Cuối cùng ông ấy đi tới một ngôi đền nơi có dấu hiệu trên
đó viết rằng: Nơi đây Chấm dứt Thế giới. Ông ấy trở nên rất sợ
hãi... dấu hiệu đã xuất hiện; xa hơn chút nữa và rồi thế giới sẽ
kết thúc. Và dưới dấu hiệu điều này được viết: Không Đi Xa
Hơn Nữa. Nhưng ông ấy muốn thấy kết thúc của thế giới, vì
thế ông ấy tiếp tục.
Chỉ là quãng ngắn từ đó tới nơi thế giới đi tới kết thúc. Có
một đường kẻ ngắn và dưới nó là một vực thẳm vô tận. Ông ấy
mới chỉ nhìn một cái thôi và ông ấy đã sợ chết khiếp. Ông ấy
chạy ngược lại; ông ấy không thể dù chỉ nhìn lại phía sau mình
bởi một vực thẳm đến vậy. Vực thẳm mà không quá sâu cũng
là đáng sợ rồi, nhưng chúng còn có đáy; vực thẳm này thì vô
tận - nó là kết thúc của thế giới. Vực thẳm này là kết thúc và
không có gì vượt qua vực thẳm này. Trong sợ hãi người này
chạy vào trong đền và nói với thầy tu, "Điểm cuối cùng này rất
nguy hiểm."
Vị thầy tu đáp, "Nếu anh nhảy, anh hẳn sẽ thấy kết thúc của
thế giới là khởi đầu của sự sùng đạo." Ông ấy nói, "Nếu anh
nhảy vào vực thẳm đó anh hẳn sẽ tìm thấy thiêng liêng."
Nhưng để tập hợp đủ can đảm nhảy vào vực thẳm, nếu bạn
không vốn có nó, vài chuẩn bị cho thiền là cần thiết. Chỉ người
nào sẵn sàng nhảy vào vực thẳm là không cần tới chuẩn bị. Và
làm sao có thể có chút chuẩn bị nào? Có thể không có chuẩn bị,
và đây là lý do tại sao tôi đã gọi những chuẩn bị này là kỷ luật
bên ngoài. Chúng là phương tiện bên ngoài và chúng sẽ giúp bạn vươn tới một điểm. Bất kỳ ai có can đảm có thể nhảy vào
một cách trực tiếp, và bất kỳ ai không có can đảm có thể sử
dụng những bước này, nhớ lấy điều này.
Chỉ những câu hỏi này có thể được thảo luận hôm nay. Phần
còn lại chúng ta sẽ thảo luận vào ngày mai.



















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog