Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Đạo tám làn


Phật nói:

Những người theo đạo giống như các chiến binh
tranh đấu đơn độc với vô số kẻ thù. Họ tất cả có
thể ra ngoài công sự với áo giáp đầy đủ; nhưng
trong số họ có một số người nhát gan, một số
người nửa vời và trốn chạy rút lui, và một số bị
giết trong cuộc ẩu đả và một số về nhà thắng lợi.
Này các sư, nếu các ông muốn đạt tới chứng ngộ,
các ông phải bước đi vững chắc theo cách của
mình, với tấm lòng cương quyết, với lòng dũng
cảm, và phải bạo dạn trong bất kì môi trường nào
có thể xảy tới cho các ông, và phá huỷ mọi ảnh
hưởng tai ác mà các ông có thể bắt gặp; với điều
như vậy các công sẽ đạt tới đích.
Phật Gautama không nghiêng về trừu tượng hoá,
triết lí hay siêu hình. Ông ấy rất thực tiễn, thực tế,
không viển vông. Ông ấy rất khoa học. Cách tiếp cận
của ông ấy không phải là cách tiếp cận của nhà tư
tưởng; cách tiếp cận của ông ấy mang tính tồn tại. Khi
ông ấy đạt tới và trở thành vị phật, tương truyền rằng
Thần của các Thần, Brahma, đã tới ông ấy và hỏi ông
ấy, "Ai là nhân chứng cho ông? Ông tuyên bố rằng
ông đã trở thành phật, nhưng ai là nhân chứng cho
ông?" Phật cười to, chạm đất bằng hai tay và nói, "Đất
này, đất cứng này là nhân chứng của ta."
Ông ấy rất trần tục; ông ấy đã làm cho đất thành
nhân chứng của mình. Ông ấy có thể đã nói như vậy
về trời, nhưng không; ông ấy có thể đã nói về mặt trời
hay mặt trăng, nhưng không. Ông ấy đã chạm đất và
nói, "Đất cứng này là nhân chứng của ta." Toàn thể
cách tiếp cận của ông ấy giống như thế đấy.
Trước khi chúng ta đi vào trong những lời kinh
này, cần phải hiểu các bước cơ sở của ông ấy.
Đạo của Phật có tên là 'Bát chính đạo' - con
đường tám làn. Ông ấy đã chia nó thành tám phần.
Nhưng phân chia đó là tuỳ tiện, chỉ là tiện dụng; Đạo
là một. Nó thực sự không bị phân chia, nó được phân
chia để cho bạn có thể hiểu nó dễ dàng. Và đây là
chính điều nền tảng: nếu bạn có thể hiểu tám bước
này hay tám phân chia này của Đạo, Đạo sẽ mở ra
ngay trước bạn. Bạn đang đứng trên nó đấy, nhưng
không nhận biết thôi; tâm trí bạn đang vẩn vơ ở đâu
đó. Đạo đang ở ngay trước bạn. Cho nên cố gắng hiểu
tám bước này sâu sắc nhất có thể được đi.
Thứ nhất là: chính kiến (nhìn đúng).
Và tất cả tám bước này đều liên quan tới tính
chính, tính đúng - chính kiến, chính ý, chính ngữ,
chính hạnh, chính nghề nghiệp, chính tinh tiến, chính
niệm, và cái thứ tám, cái tối thượng, chính định. Từ
'chính' phải được hiểu trước hết bởi vì từ tiếng Phạn
samyak có ý nghĩa, hàm chứa với nghĩa nhiều tới mức
nó không thể nào được dịch nổi. 'Right-Chính' là từ
việc dịch rất nghèo nàn cho nó bởi nhiều nguyên
nhân.
Thứ nhất, từ 'chính' lập tức cho ý tưởng cứ dường
như nó đối lại cái tà. samyak không bao giờ cho ý
tưởng đó; samyak không đối lại tà. Chính của Phật
không chống lại tà, bởi vì Phật nói, 'Tà có nhiều,
chính có một - cho nên làm sao chính có thể đối lại tà
được?" Mạnh khoẻ có một thôi, bệnh tật có nhiều.
Không có nhiều mạnh khoẻ như có nhiều bệnh tật
đâu, cho nên mạnh khoẻ không thể đối lại bệnh tật
được - bằng không thì sẽ có nhiều mạnh khoẻ thế. Ai
đó đang bị lao - TB và thế rồi người đó trở nên mạnh
khoẻ, ai đó bị ung thư và người đó trở nên mạnh
khoẻ, và ai đó bị cảm cúm rồi người đó trở nên mạnh
khoẻ. Ba mạnh khoẻ này không phải là ba mạnh khoẻ.
Bệnh tật khác nhau, nhưng mạnh khoẻ là một, và một
không thể nào đối lại nhiều.
Đích xác cùng điều đó là đúng với chính và tà.
Chính có một thôi. Tà có hàng triệu; bạn có thể cứ bịa
ra những cái tà. Chính thì không thể bịa ra được; nó
không phụ thuộc vào bạn. Chính là trạng thái của việc
bạn đang trong hoà nhịp với cái toàn thể. Đó là nghĩa
của mạnh khoẻ nữa: khi bạn đang hoà nhịp với cái
toàn thể thì bạn mạnh khoẻ. Âm nhạc tuôn chảy giữa
bạn và cái toàn thể, không có cản trở. Bạn cảm thấy
khoẻ mạnh. Không có tiếng ồn, mọi thứ đều trong hài
hoà. Khi cá nhân trong hoà nhịp với vũ trụ, cái chính
tồn tại, mạnh khoẻ tồn tại. Khi bạn rơi ra ngoài sự hoà
nhịp thế thì nhiều cái tà phát sinh - không có giới hạn
cho chúng, chúng là vô hạn. Và bạn có thể bịa ra
nhiều cái tà mới.
Nhân loại đã bịa ra nhiều bệnh tật mới mà trước
đây chưa phổ biến. Trong kinh sách ngày xưa, kinh
sách ayurvedic, nhiều bệnh không được nhắc tới. Mọi
người nghĩ chúng không được nhắc tới bởi vì
ayurveda đã không đủ khoa học, cho nên họ không
thể chẩn đoán được các bệnh đó. Điều đó không
đúng; ayurveda đã trở thành khoa học hoàn hảo.
Nhưng các bệnh đó đã không có trong sự tồn tại, cho
nên làm sao bạn có thể chẩn đoán được cái không tồn
tại? Chúng là phi tồn tại. Đã có vài bệnh tồn tại chỉ
cho người giầu, người rất giầu. Chúng được gọi là
bệnh hoàng gia. Bệnh lao đã được gọi là bệnh 'hoàng
gia'. Nó không phải là bệnh thường. Bây giờ toàn thế
giới đã trở thành hoàng gia rồi; bây giờ toàn thế giới
đang chịu bệnh giầu, của sự giầu có. Nhàn rỗi đã làm
cho nhiều thứ thành sẵn có, nhiều bệnh mới thành sẵn
có.
Ung thư là bệnh rất mới. Nó mới chỉ tồn tại khi
tâm trí rất lo nghĩ, khi lo âu trở thành giống như vết
thương. Và quanh vết thương tinh tế đó trong tâm lí
phát sinh bệnh tật trong thân thể tương ứng với nó.
Đó chính là ung thư là gì: Đó là lí do tại sao ung thư
lại dường như không thể chữa khỏi. Không có cách
nào chữa được nó từ phía thân thể. Nó có thể được
chữa chỉ từ phía tâm trí bởi vì về căn bản nó phát sinh
ở đó.
Mỗi thời đại lại có bệnh tật riêng của nó, mỗi thời
đại đều có chứng tật riêng của nó, và mỗi thời đại đều
tạo ra tội lỗi riêng của nó. Nhưng đức hạnh là vô thời
đại, vô thời gian. Tính thượng đế chẳng có liên quan
gì tới bất kì thời đại nào, thời kì nào. Nó không mang
tính lịch sử, nó mang tính tồn tại.
Phật nói: Chính là cái không phải do ông tạo ra.
Nó đã có đó rồi. Nếu ông đi xa khỏi nó thì ông là tà,
nếu ông lại gần nó thì ông là chính. Ông càng tới gần,
ông càng chính hơn. Một ngày nào đó, khi ông đích
xác ở nhà, ông là chính hoàn hảo. Samyak (chính) và
samadhi (định) cả hai có cùng một gốc sam. Samyak
là bước đi tới samadhi. Nếu ông không hiểu samyak,
ông sẽ không có khả năng hiểu samadhi.
Cho nên bẩy bước chung cuộc đưa tới bước cuối
cùng. 'Samadhi' nghĩa là: bây giờ mọi thứ đã rơi vào
hoà nhịp với sự tồn tại. Không thiếu sót nào tồn tại;
âm nhạc hoàn toàn hoàn hảo. Nhưng không có từ hay
hơn trong tiếng Anh so với từ 'chính', cho nên bạn
phải hiểu nó. 'Chính' theo nghĩa phật giáo của thuật
ngữ này nghĩa là: được cân bằng, được định tâm,
được tiếp đất, hài hoà, yên bình - tất cả những điều
này. Nhưng điều cơ bản vẫn có thể được hiểu cho dù
không có thuật ngữ đồng nghĩa trong tiếng Anh để
dịch nó.
Nhưng nhớ, nó chẳng liên quan gì tới tà cả. Tà là
bịa đặt của con người, chính là thiêng liêng. Chính
không phải là cái gì đó bạn phải làm - bạn được sinh
ra đã chính rồi. Tà là cái gì đó bạn phải làm; bạn đã
không được sinh ra mà tà. Mọi đứa trẻ đều được sinh
ra trong hài hoà. Đó là lí do tại sao trẻ con lại đẹp thế.
Bạn đã bao giờ thấy đứa bé mới sinh ra xấu không?
Điều đó không xảy ra. Mọi đứa trẻ mới sinh đều đẹp,
nhưng tất cả người lớn lại không đẹp. Cho nên cái gì
đó ở đâu đó phải đã đi sai - bởi vì mọi đứa trẻ mới
sinh đều đẹp. Chúng có duyên dáng, thanh thoát vô
cùng mà chẳng liên quan gì tới thực tế nào, bởi vì
chúng không có thời gian để thực hành bất kì cái gì.
Chúng tới thế giới này mà không có diễn tập nào.
Chúng chỉ có đó; hạnh phúc thế, im lặng thế, hài hoà
thế. Duyên dáng thế bao quanh chúng - cứ dường như
toàn thể sự tồn tại đang bảo vệ chúng. Thế rồi, dần
dần, chúng học cách thức của con người và trở thành
tà. Thế thì xấu xí xuất hiện. Thế thì những đôi mắt
đẹp trở thành khủng khiếp; thế thì khuôn mặt đẹp có
thể trở thành mang tính tội phạm; thế thì thân thể đẹp
có thể mất đi mọi duyên dáng. Thế thì thông minh
đẹp... Mọi đứa trẻ sinh ra đều thông minh; đó là cách
mọi sự đang thế. Đứa trẻ thông minh có thể trở thành
ngu xuẩn, tầm thường. Đây là thành tựu của con
người.
Cái tà là thành tựu của con người, cái chính là
thiêng liêng. Bạn không làm cái gì vì nó cả. Bạn chỉ
phải dừng tất cả mọi thứ bạn đã từng làm để tạo ra cái
tà. Và khi có cái chính, bạn không cảm thấy mình là
chính. Đó là lí do tại sao, tôi nhắc lại: Nó không đối
lại cái tà. Khi bạn đang trong cái chính bạn đơn giản
tự nhiên. Bạn không có cảm giác gì về tính chính cả.
Bạn không có cảm giác nào rằng bạn là thánh nhân vĩ
đại. Nếu bạn có cảm giác đó thế thì bạn vẫn còn tà ở
đâu đó - bởi vì cái không là một nốt chói tai. Nó
không cho phép âm nhạc tuôn chảy.
'Chính' nghĩa là được cân bằng, không căng
thẳng, định tâm; bạn không là người lạ trong sự tồn
tại. Đây là nghĩa của 'chính': bạn ở nhà. Sự tồn tại này
là gia đình bạn. Bạn không phải là người xa lạ. Ở
phương Tây, và ở phương Đông nữa, tâm trí hiện đại
liên tục nói và nghĩ về điều xa lạ, rằng con người đã
trở thành người ngoài, rằng con người đã trở thành
người lạ, rằng chúng ta dường như chỉ giống như điều
ngẫu nhiên trên trái đất. Các nhà hiện sinh có từ đúng
cho nó: họ nói chúng ta đã bị tống xuống đây. Tống
sao? Bị gạt bỏ! Bị đuổi đi! Bị trừng phạt! Và sự tồn
tại này đang chống lại chúng ta. Và bạn có thể chứng
minh được điều đó: biết bao nhiêu bệnh tật - cái chết
có đó; biết bao nhiêu thất vọng, thất bại. Mọi người
cứ nói con người đề nghị và Thượng đế quyết định.
Cho nên tất nhiên con người mang định mệnh,
mang định mệnh từ chính lúc ban đầu, là được sinh ra
với ham muốn lớn lao và không có khả năng nào cho
bất kì sự hoàn thành nào. Làm sao sự tồn tại này có
thể là nhà của bạn được? Nó không thể là gia đình của
bạn.
Cái chính là khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn ở
nhà. Không cái gì xa lạ, không cái gì lạ cả.
Phật nói: Nếu ông có, ông là tà - bởi vì bất kì khi
nào bạn có, bạn đều tách rời khỏi sự tồn tại. Khi bạn
không có thì bạn là chính. Nghe điều ngược đời này;
đó là một trong những ngược đời tuyệt vời nhất. Phật
nói: Khi ông có, ông là tà. Sự hiện hữu của bạn là tà.
Chính sự tách bạch, cái 'tôi đây', tạo ra rào chắn. Thế
thì bạn không tan chảy, thế thì bạn trở thành đông
cứng, thế thì bạn giống như khối băng. Chết. Khép
kín. Thế thì bạn có biên giới.
Khi bạn bắt đầu tan chảy, và bạn bắt đầu cảm
thấy, "Sự tồn tại có đó, và mình chỉ là một phần
thôi"... và bạn thảnh thơi, và có buông bỏ; bạn biến
mất. Thế thì bạn là chính. Khi bạn không có thì bạn là
chính.
Tám bước này chỉ là những chỉ báo, dần dần, về
cách đi tới dũng cảm vô cùng đó, dũng cảm tối
thượng đó nơi bạn lấy bước nhảy lượng tử và bạn đơn
giản biến mất. Khi cái ngã biến mất, Cái Ta Vũ Trụ
phát sinh.
Điều đầu tiên là chính kiến, nhìn đúng.
Phật nói: Nhìn vào mọi sự mà không có ý kiến
nào, bằng không ông chẳng bao giờ nhìn vào thực tại
cả. Nhìn vào mọi thứ mà không có triết lí nào, không
có định kiến nào, không có giáo điều, tín điều, kinh
sách nào. Nhìn đi. Nhìn vào mọi sự như chúng đang
đấy. Mang tính sự kiện; đừng tạo ra hư cấu. Nếu bạn
đang tìm cái gì đó với định kiến, bạn sẽ tìm thấy nó -
đó là rắc rối đấy. Nếu bạn đã đầy đức tin thì bạn sẽ
thấy nó bởi vì tâm trí mang tính sáng tạo, tưởng
tượng, có khả năng tự thôi miên tới mức bất kì cái gì
nó tin nó đều có thể tạo ra. Phật nói: đi tới thực tại mà
không có đức tin nào. Đức tin là rào chắn.
Bạn phải đã quan sát điều đó.
Nếu bạn được sinh ra là người Hindu - điều đó
nghĩa là nếu bạn được huấn luyện từ thời thơ ấu bởi những người Hindu -
điều đó nghĩa là bạn là nạn nhân
của Hindu giáo. Và cùng điều đó áp dụng cho người
Mô ha mét giáo và Ki tô giáo, người Do Thái, người
Jaina, người cộng sản: toàn thể nhân loại là nạn nhân
của trường phái này nọ, của định kiến này nọ, của đức
tin này nọ. Nếu bạn được sinh ra là người Hindu, đã
được huấn luyện theo những giáo điều nào đó, và bạn
bắt đầu thiền, bạn sẽ bắt đầu thấy linh ảnh của
Krishna, Rama - điều đó tuỳ vào điều bạn đã được
dạy, người đã được áp đặt và khắc ghi vào tâm trí bạn
- nhưng Christ sẽ không bao giờ tới với bạn. Christ tới
với người Ki tô giáo, Phật tới với Phật tử, Mahavira
tới với người Jaina. Với người Jaina, Mohammed
không bao giờ có thể tới; điều đó là không thể được.
Ngay cả quan niệm về ý tưởng này cũng là không thể
được. Ngay cả trong mơ, Mohammed cũng sẽ không
tới cho người Jaina. Điều gì xảy ra? Nhưng Phật,
Mahaviras, Christs, có thực sự tới không? hay đức tin
riêng của bạn đang tạo ra họ? Đức tin riêng của bạn
đang tạo ra họ đấy.
Với người cộng sản thì chẳng ai tới cả. Đức tin
của người đó là ở chỗ tất cả các tôn giáo đều vô
nghĩa, một loại thuốc phiện cho mọi người, một chất
độc nguy hiểm cần loại bỏ nhanh nhất có thể được -
thế thì chẳng ai tới cả. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn.
Nếu bạn có niềm tin, chính niềm tin đó trở thành giấc
mơ; và nếu bạn lại là người rất, rất nhạy cảm, cảm
nhận, thì giấc mơ đó có thể trông còn thực hơn là thực
tại. Thực tế, điều này xảy ra mọi ngày, ngay cả trong
những người không tôn giáo. Bạn mơ trong đêm và
khi bạn mơ thì mơ có vẻ thực thế. Bạn đã mơ cả đời
mình và mọi sáng bạn đều xoá bỏ nó như thứ không
thật. Nhưng rồi đêm hôm sau bạn lại mơ, và trong
giấc mơ nó lại dường như thật.
Khả năng mơ sống nhờ vào niềm tin. Nếu bạn có
niềm tin mạnh mẽ thế thì khả năng mơ gắn với niềm
tin này, đổ năng lượng của nó vào niềm tin này, làm
cho niềm tin này thành thực tại, và bạn bắt đầu có linh
ảnh. Phật không ủng hộ linh ảnh nào cả - bởi vì ông
ấy nói: "Cái đang đó không cần linh ảnh nào. Điều
cần thiết đơn giản là sự sáng tỏ để thấy." Tâm trí bạn
không cần có giấc mơ nào, giấc mơ lớn lao về các
thánh nhân vĩ đại, cõi trời và địa ngục; đây tất cả đều
là sáng tạo của bạn.
Chính kiến là: không có định kiến nào, không có
niềm tin nào, không có ý kiến về bất kì cái gì. Khó
đấy... con đường của Phật là gian nan; ông ấy yêu cầu
quá nhiều. Điều đó gần như là kì công siêu nhân.
Nhưng điều đó là có thể - và đó là cách duy nhất
hướng tới chân lí.
Nếu bạn có ý kiến nào đó bạn sẽ áp đặt ý kiến của
mình lên chân lí. Bạn vẫn làm điều đó hàng ngày đấy
thôi. Nếu bạn tới tôi với ý kiến rằng người này là tốt,
bạn sẽ bị thuyết phục rằng người này là tốt thật; nếu
bạn đến với ý kiến rằng người này là xấu, bạn sẽ bị
thuyết phục rằng người này là xấu thật. Niềm tin của
bạn bao giờ cũng tìm ra cái mà nó muốn tìm. Niềm tin
rất mang tính chọn lọc. Tôi đã nghe...
Đứa bé được đem ra toà lần nữa bị buộc tội đánh
cắp nắp trục bánh xe ô tô. Quan toà quyết định gọi bố
nó tới: "Trông đây," quan toà nói. “Con ông đã ra toà nhiều lần vì bị
buộc tội ăn cắp, và tôi phát mệt khi
thấy nó ở đây."
"Tôi không trách ông đâu, thưa quan toà," người
bố nói. "Và tôi cũng phát mệt khi thấy nó ở đây như
ông."
"Thế thì sao ông không dạy nó cách hành động?
Chỉ cho nó con đường chính và nó sẽ không tới đây
nữa."
"Tôi đã chỉ cho nó con đường chính rồi đấy chứ,"
người bố nói, "nhưng nó lại dường như không có tài
năng nào để học. Nó bao giờ cũng bị bắt!"
Bây giờ, chính đạo là khác cho quan toà và cho
người bố. Bản thân người bố là kẻ cắp. Ông ta cũng
muốn đứa con học 'chính đạo' để cho nó không bao
giờ bị bắt lần nữa. Nhưng chính đạo của ông ta là
chính đạo của ông ta.
Với kì nghỉ, Mullevy quyết định đi tới Thuỵ Sĩ để
hoàn thành giấc mơ cả đời và trèo lên núi Matterhorn.
Anh ta thuê một người hướng dẫn, và ngay khi họ sắp
lên tới đỉnh thì họ bị tuyết lở dập xuống.
Ba giờ sau Thánh Bernard đào xới tới họ, một
chai rượu vang được buộc dưới cằm ông ta.
"Hoan hô!" người hướng dẫn kêu lên. "Người bạn
tốt nhất của con người tới rồi."
"A," Mullevy nói. "Và nhìn vào kích cỡ của thằng
cha đang mang nó!"
Bây giờ, với người này anh chàng đó là người bạn
vĩ đại nhất của nhân loại, với người kia đó là cái chai
mà người đó đang mang.
"A," Mullevy nói. "Và nhìn vào kích cỡ của thằng
cha đang mang nó!"
Điều đó tuỳ thuộc vào cách bạn nhìn mọi sự. Bạn
có thể nhìn vào cùng một thứ, và bạn có thể không
thấy cùng một thứ. Nếu bạn nghe tôi trong tin cậy,
bạn nghe kiểu khác. Nếu bạn nghe tôi mà không tin,
bạn nghe tôi kiểu khác. Nếu bạn nghe như một đệ tử,
bạn nghe kiểu khác. Nếu bạn nghe chỉ như người
ngoài, khách thăm - chỉ nhân tiện thôi, bạn đã tới
cùng người bạn - bạn nghe kiểu khác. Điều tôi đang
nói vẫn thế, nhưng cách bạn diễn giải nó sẽ tuỳ thuộc
vào bạn. Nghe đúng sẽ là ở chỗ bạn nghe như không
ai cả: không chống đối không ủng hộ, không có định
kiến - chỉ là việc nghe. Nếu bạn có thể thấy mọi sự
mà không có ý tưởng gì trong tâm trí, thế thì Phật nói
đó là chính kiến.
Chính kiến không cần quan niệm hoá. Đó là lí do
tại sao Phật lại nói: Đừng hỏi ta câu hỏi lí thuyết nào.
Ông ấy không nói gì về Thượng đế cả - không phải vì
Thượng đế không có. Ông ấy không nói gì về điều đó
bởi vì việc tạo ra lí thuyết là vô dụng. Ông ấy cố gắng
mở mắt bạn ra với điều đó. Ông ấy nói: Để biết chân
lí bạn cần đôi mắt - cũng như bạn không thể nào dạy
được người mù ánh sáng giống cái gì, dù bạn có cố
gắng tới đâu. Bạn không thể dạy người mù bất kì cái
gì về ánh sáng được. Tất nhiên, bạn có thể dạy bao
nhiêu tuỳ ý và người đó có thể học tất cả những thong tin bạn đã chuyển
giao cho người đó, nhưng dầu vậy
thì trong thực tế, người đó vẫn không có khả năng
quan niệm nổi ánh sáng là gì. Người đó không thể
quan niệm được.
Chuyện xảy ra:
Một người mù được đưa tới Phật. Ông ấy vừa đi
qua làng này, và mọi người trong làng đều mệt mỏi vì
người mù này bởi vì anh ta là người rất logic và rất
triết lí. Anh ta nhiều biện luận tới mức anh ta thường
hay chứng minh rằng ánh sáng không tồn tại. Anh ta
sẽ nói, "Ông cứ đem nó lại đây, tôi sẽ sờ vào nó"; hay
"Ông cứ đem nó tới đi để tôi có thể nếm nó"; hay
"Ông đem nó tới đi, ít nhất để tôi ngửi nó"; hay "Ông
đem nó tới đi và đánh nó như cái trống để cho tôi có
thể nghe thấy nó."
Tất nhiên, bạn không thể đánh ánh sáng như cái
trống được, và bạn không thể nếm được nó, và bạn
không thể ngửi được nó, và bạn không thể sờ được
nó.
Người mù này sẽ cười, cười đắc thắng, và anh ta
sẽ nói, "Các ông ngu lắm! Các ông đang cố gắng
chứng minh cái gì đó cho tôi mà nó lại không có. Tôi
có bốn giác quan. Chứng minh nó đi! Tôi sẵn sàng
đây, tôi cởi mở."
Họ không thể chứng minh được điều đó, cho nên
người mù này bắt đầu cho rằng họ chỉ đang cố gắng
lừa mình về ánh sáng này: "Toàn thể trò này chỉ là lừa
dối, giả dối. Thực tế, họ muốn chứng minh rằng mình
mù. Họ đang sỉ nhục mình. Mình đâu có mù, bởi vì
ánh sáng không tồn tại. Cho nên phỏng có ích gì? Nếu
ánh sáng mà không tồn tại, chẳng cần mắt đó làm gì.
Mắt chỉ là hư cấu."
Ông ta sẽ nói, "Các ông tất cả đều mù, nhưng các
ông đang mơ về cái gì đó không tồn tại."
Họ mang người đó tới Phật, và Phật nói, "Đừng
đem người đó tới ta. Ta biết một thầy thuốc - bởi vì
người đó không cần thuyết phục, người đó cần cái
nhìn về ánh sáng. Người đó cần mắt. Người đó cần trị
liệu, người đó không cần lí thuyết về nó. Nhưng ta
biết một thầy thuốc."
Phật có một thầy thuốc giỏi, rất có học. Thầy
thuốc này được một nhà vua phái tới cho ông ấy, để
chăm sóc thân thể Phật. Người mù này đã được đưa
tới thầy thuốc đó. Ông ta điều trị cho người này, và
trong vòng sáu tháng người này đã có thể nhìn được.
Vào lúc đó Phật đã đi sang thị trấn khác. Người
này chạy và nhảy múa; anh ta cực lạc. Anh quì xuống
dưới chân Phật và anh ta nói, "Thầy đã thuyết phục
được tôi."
Phật nói, "Đừng nói điều vô nghĩa. Ta đã chẳng
làm gì cả. Mắt ông đã thuyết phục ông, và không có
cách khác."
Phật thường nói: ta không phải là triết gia, ta là
thầy chữa. Ta muốn chữa trị mắt bên trong của các
ông, và bước đầu tiên là nhìn đúng - chính kiến.
'Chính kiến' thực sự nghĩa là: một tâm trí không có
quan điểm. Nếu bạn có quan điểm nào đó, đó là quan
điểm tà. Nếu bạn không có quan điểm nào, thế thì bạn
đơn giản cởi mở, sáng tỏ. Thế thì cửa sổ của bạn hoàn toàn mở, bạn không
có cản trở nào; bất kì cái gì sẵn
có bạn đều có khả năng thấy. Phật không bao giờ nói
điều gì về cái bạn sẽ thấy; ông ấy chỉ nói về cách chữa
trị chứng mù của bạn, cách thoát ra khỏi chứng mù
của bạn.
Con trai của Mulla Nasruddin, đang học khoa học
chính trị, hỏi bố nó, "Bố ơi, kẻ phản bội trong chính
trị là gì?"
"Bất kì người nào rời bỏ đảng của mình," Mulla
nói, "và đi sang phía bên kia, đều là kẻ phản bội."
"Rồi, thế nói gì về người rời bỏ đảng của họ để đi
theo đảng của bố?" cậu thanh niên hỏi.
"Người đó là người cải đạo con ạ," Nasruddin nói,
"một người cải đạo thực sự."
Bây giờ, khi ai đó chuyển từ đảng này sang đảng
khác thì người đó là kẻ phản bội, và khi ai đó gia nhập
đảng của bạn từ các đảng khác thì anh ta là người cải
đạo. Khi người Hindu trở thành người Ki tô giáo, với
người Hindu anh ta là kẻ phản bội, với người Ki tô
giáo anh ta là người cải đạo; và khi người Ki tô giáo
trở thành người Hindu, họ đón chào anh ta: hiểu biết
của anh ta trở lại, anh ta đã nhận ra chân lí là gì.
Nhưng với người Ki tô giáo, anh ta là kẻ phản bội.
Nếu bạn sống với các quan điểm bạn không thể
thấy được chân lí của bất kì cái gì. Quan điểm của bạn
bao giờ cũng tới như rào chắn. Nó cản trở, nó bóp
méo, nó không cho phép bạn thấy mọi vật như nó
đang đấy. Và Thượng đế là cái đang đấy. Để biết thực
tế bạn không cần có bất kì quan điểm nào. Thực tế,
nếu bạn thực sự muốn biết cái thực, bạn phải vứt bỏ
các quan điểm. Đó là từ bỏ đầu tiên Phật dạy: Vứt bỏ
mọi quan điểm, và chính kiến sẽ nảy sinh. Mọi quan
điểm đều là tà. Hindu giáo, Ki tô giáo, Phật giáo: mọi
quan điểm đều là quan điểm tà.
Người không có quan điểm, người không có ý
kiến, người không một ý nghĩ níu bám vào, người chỉ
là tấm gương, mới phản chiếu thực tại.
Người đàn bà nghe nhà truyền giáo nói qua các
lời răn, và sau mọi lời răn bà ta lại tham gia cùng các
thính giả khác mà kêu lên, "Amen!"
Khi ông ta nói tới lời răn: Các ngươi không được
phạm tội ngoại tình, bà ta nói, "Bây giờ ông ấy bắt
đầu xen vào đây."
Cái gì đó vẫn có vẻ tuyệt đối đúng chừng nào nó
vẫn còn khớp với bạn - cứ dường như bạn là tiêu
chuẩn của chân lí. Khoảnh khắc nó không khớp với
bạn thì nó sai. Đây là cách tiếp cận sai, và nếu bạn giữ
cách tiếp cận này, bạn sẽ không bao giờ đạt tới cái
thực. Nếu cái gì đó không khớp với bạn, thế thì đừng
vội vàng mà quyết định vấn đề - rằng nó phải sai bởi
vì nó không khớp với bạn. Nó không cần phải khớp
với bạn. Thượng đế không có nghĩa vụ gì phải khớp
với bạn. Thực tại không có nghĩa vụ gì phải khớp với
bạn. Nếu nó không khớp với bạn, thế thì con người của hiểu biết đúng sẽ
tự thay đổi mình chứ không phủ
nhận thực tại.
Cho nên bất kì khi nào điều đó gây tổn thương,
bất kì khi nào thực tại gây tổn thương, và bất kì khi
nào bạn cảm thấy rằng bạn không khớp, thì chính bạn
mới là người không khớp chứ không phải là thực tại.
Và người không có quan điểm nào sẽ không bao giờ
thấy rằng có xung đột gì giữa mình và thực tại. Người
đó bao giờ cũng sẽ khớp với thực tại và thực tại sẽ
khớp với người đó - cũng hệt như găng tay khớp với
bàn tay. Đây là chính kiến.
Bước thứ hai là: chính ý.
Chúng ta sống hướng theo kết quả, chúng ta sống
hướng theo mục đích, chúng ta sống với ý định, với
ham muốn: "Mọi sự phải như thế này, thế thì mình sẽ
hạnh phúc. Nếu chúng không giống thế này thế thì
mình sẽ bất hạnh." Đó là lí do tại sao họ thất vọng thế.
Phật nói: Thất vọng của ông tới từ ý định của ông. Ý
định của bạn dường như đi ngược lại thực tại; thế thì
bạn thất vọng.
Vứt bỏ ý định, vứt bỏ ham muốn đi, và chỉ đi từ
khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia với thực tại, dù
nó dẫn tới đâu. Trở thành mẩu gỗ trôi giạt; chỉ nổi với
dòng chảy và bạn sẽ không bao giờ bị thất vọng. Thất
vọng tới bất kì khi nào có xung đột giữa bạn và thực
tế. Và nhớ, thực tại sẽ thắng; bạn không thể thắng
đươc thực tại. Không ai có thể thắng được Thượng đế;
điều đó là không thể được, điều đó không xảy ra. Bạn
có thể thắng chỉ cùng với Ngài thôi. Bất kì khi nào
bạn thành công, nhớ lấy, một cách ngẫu nhiên bạn
phải đã cùng với Ngài rồi. Mọi thành công đơn giản
ngụ ý điều này: rằng một cách vô tình bạn phải đã
bước đi cùng Ngài, và đó là lí do tại sao bạn đã thành
công. Thất bại ngụ ý rằng một cách vô tình bạn phải
đã bước đi ngược với Ngài. Thất bại là chỉ dẫn, thành
công là chỉ dẫn.
Người đã học được điều này bỏ đi mọi ý định của
mình. Người đó không có ham muốn riêng tư. Người
đó nói đích xác điều Jesus đã nói trên cây thánh giá:
Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực
hiện. Người đó buông xuôi. Phật không có khái niệm
về Thượng đế. Cách tiếp cận của ông ấy còn khoa học
hơn cách tiếp cận của Jesus. Jesus mang tính thơ ca
hơn. Thượng đế là thơ ca, thơ ca hay. Phật không phải
là nhà thơ, ông ấy mang tính rất toán học. Ông ấy nói:
Không có nhu cầu nói về Thượng đế. Duy nhất một
điều có thể được hiểu: bạn vứt bỏ ý định. Khi bạn
không có ý định nào, bạn có chính ý. Và bạn phải nhớ
nghịch lí này trong tất cả tám bước.
'Chính ý' nghĩa là không có ý định nào về phần
bạn. Thế thì vũ trụ tuôn chảy qua bạn. Thế thì vũ trụ
cứ hoàn thành ý định của nó qua bạn. Bạn trở thành
phương tiện.
"Cầu xin ngài," con người nhỏ bé cầu nguyện,
"ngài biết con. Con bao giờ cũng cầu nguyện ngài và
vậy mà con lại chẳng được cái gì ngoài vận rủi, khổ,
ốm đau và thất vọng trong cả đời con. Và xin ngài
nhìn kẻ hàng thịt bên cạnh. Hắn ta chưa bao giờ cầu
nguyện trong đời, thế mà hắn chẳng có gì khác hơn phát đạt, mạnh khoẻ và
vui vẻ. Làm sao một người tin
tưởng như con lại cứ luôn trong rắc rối còn hắn ta thì
bao giờ cũng làm ngon lành thế?"
Bỗng nhiên một tiếng nói ầm ầm vang tới tai anh
ta, "Bởi vì anh hàng thịt không luôn làm ta khó chịu,
đó là lí do tại sao!"
Bây giờ, lời cầu nguyện của bạn có thể là 'điều
làm khó chịu'. Lời cầu nguyện của bạn là gì? - lời cầu
nguyện của bạn là ý định của bạn, là ham muốn mà
bạn muốn được đáp ứng. Lời cầu nguyện của bạn là
gì? - lời cầu nguyện của bạn bao giờ cũng đi ngược lại
Thượng đế. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn của nó: bạn
đang cầu nguyện Thượng đế, và lời cầu nguyện về cơ
bản đi ngược lại Thượng đế - bởi vì nếu nó không đi
ngược lại Thượng đế thế thì phỏng có ích gì mà cầu
nguyện. Bạn ốm: nếu bạn tin cậy vào Thượng đế điều
đó nghĩa là bạn biết rằng Thượng đế muốn bạn ốm.
Đây là cách bạn đang thế vào lúc này, đây chính là ý
chí của Thượng đế. Bạn chấp nhận nó. Thế thì lời cầu
nguyện của bạn là lòng biết ơn duy nhất. Bạn không
cầu xin điều gì cả, bạn đơn giản cảm ơn Ngài: "Cảm
ơn ngài vì đã làm cho con ốm. Cảm ơn ngài, bởi vì
con biết điều đó phải là cần thiết. Con có thể không
hiểu, nhưng con biết ngài cho con bất kì cái gì được
cần tới, bất kì khi nào điều đó được cần tới." Bạn
không đi tới đền chùa hay nhà thờ hay thánh đường
và hỏi xin giúp đỡ. Nếu bạn hỏi, bạn đang đi ngược
lại Thượng đế đấy. Điều đã xảy ra không thể xảy ra
ngược lại với ý chí của cái toàn thể được, dù nó là bất
kì cái gì. Nếu đó là đêm tối, thế thì bạn phải đang cần
tới đêm tối đấy.
Một nhà huyền môn Sufi hay nói trong lời cầu
nguyện hàng ngày của mình, "Xin cảm ơn ngài, Chúa
Trời - ngài bao giờ cũng cho con bất kì cái gì được
cần tới." Đệ tử của ông ấy rất bực mình bởi điều này,
bởi vì họ đã thấy ông ấy nhiều lần như thế khi nghèo
khó, đói khát, chẳng nơi nghỉ lại trong đêm. Và dầu
vậy, ông ấy vẫn cầu nguyện Thượng đế năm lần một
ngày, và ông ấy sẽ nói, "Cảm ơn ngài. Con biết ơn
làm sao - bất kì điều gì con cần ngài bao giờ cũng cho
con."
Một hôm điều đó thành quá thể. Trong ba ngày họ
đã đói; không ai cúng dường thức ăn cho họ. Trong ba
ngày họ đã ngủ dưới gốc cây, ngoài thị trấn. Và thị
trấn này rất đối kháng với họ và sẵn sàng giết chết họ.
Và buổi sáng ngày thứ tư nhà huyền môn này lại cầu
nguyện và ông ấy nói, "Cảm ơn ngài. Bất kì điều gì
con cần ngài bao giờ cũng cho con."
Một đệ tử không thể nào kìm được mình. Anh ta
nói, "Thôi mọi điều vô nghĩa này đi! Phải có giới hạn
cho mọi thứ chứ. Thầy đang cám ơn Thượng đế vì cái
gì nào? Trong ba ngày chúng ta đã bị đói, khát, không
chỗ trú ngụ. Đêm lạnh và chúng ta bị rét cứng người
còn thầy lại cảm ơn! Vì cái gì! Ngài đã cho thầy cái
gì!"
Nhà huyền môn cười và nói, "Trong ba ngày này
ta cần bị đói, cần ở mà không có chỗ trú ngụ nào. Đó
là một phần của sự trưởng thành của ta. Ba ngày này
đã làm cho ta cực kì tốt lành, chúng đã là ân huệ lớn lao. Đó là điều
được cần tới, và ngài bao giờ cũng cho
bất kì cái gì được cần tới."
Trong thực tế, bất kì cái gì Ngài cho đều là bất kì
cái gì được cần tới.
Nhưng khi bạn cầu nguyện, lời cầu nguyện của
bạn bao giờ cũng 'làm khó chịu'. Bạn phàn nàn, bạn
càu nhàu, cáu kỉnh. Bạn đang nói, "Chẳng cái gì đúng
cả, mọi thứ đều sai. Xin đưa nó vào chỗ đúng đi!
Bằng không thì con sẽ bắt đầu không tin ngài nữa;
bằng không thì con sẽ trở thành kẻ vô thần đấy. Nếu
ngài có, thì làm những điều này đi. Nếu ngài không
có, thế thì con kết thúc đây, con không định cầu
nguyện thêm nữa đâu."
Lời cầu nguyện của bạn có phải là một loại hối lộ
không đấy? Bạn thờ phụng Ngài chỉ để thuyết phục
Ngài hoàn thành các ham muốn của bạn sao? Phật
nói: Người tôn giáo thực không có quan điểm của
riêng mình - và đó là quan điểm đúng của người đó.
Người đó không sống cuộc sống riêng tư, người đó
không sống cuộc sống tách rời. Người đó đi cùng vũ
trụ, người đó là một với vũ trụ. Người đó không có
mục đích tách rời, không có định mệnh tách rời. Định
mệnh của cái toàn thể là định mệnh của người đó. Thế
thì người đó trở thành linh thiêng.
Người không có ý định tất nhiên sống từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc. Người đó không thể phóng
chiếu vào tương lai. Với bất kì cái gì được cần tới
trong khoảnh khắc này, người đó đều đáp ứng tương
ứng. Người đó mang tính tự phát và người đó mang
tính đáp ứng. Khi tôi dùng từ 'đáp ứng' tôi dùng nghĩa
nguyên thuỷ của nó. Người đó có khả năng đáp ứng;
người đó có thể đáp ứng, và người đó có thể đáp ứng
một cách toàn bộ, bởi vì người đó không có ý định
riêng của mình. Người đó có thể đơn giản nói,
"Vâng," và người đó có thể nói điều đó một cách toàn
bộ. Người đó sẽ không giữ lại điều gì cả. Cái có của
người đó sẽ không phải là cái có ngần ngại. Nó sẽ
giống như đoá hoa... nở ra, toả hương thơm của nó
cho sự tồn tại.
Con người của chính ý thì sống cuộc sống không
có căng thẳng nào. Nhìn vào từ 'ý định - intension'; nó
được tạo ra từ căng thẳng. Mọi ý định đều sẽ tạo ra
căng thẳng. Từ này được tạo nên từ hai từ, 'in', và
'tension'. Khi thực tại bên trong của bạn mà căng
thẳng, nó là trong căng thẳng. Khi thực tại bên trong
của bạn được thảnh thơi và không có căng thẳng - bạn
không định đi đâu cả, bạn không săn đuổi cái gì cả,
bạn không đi theo cái gì cả, bạn chỉ ở đây và bây giờ,
được thảnh thơi - trạng thái của không căng thẳng hay
không ý định đó chính là điều Phật gọi là chính ý. Bởi
vì thế thì bỗng nhiên vũ trụ bắt đầu tuôn chảy qua
bạn. Bạn trở thành giống như cây trúc hổng. Bạn trở
thành cây sáo.
Bước thứ ba là chính ngữ.
Phật nói: Chỉ nói cái đang đó. Đừng bao giờ đi
vào trong hư cấu. Chỉ nói cái đúng và thực. Chỉ nói
cái bạn đã kinh nghiệm. Đừng bao giờ nói về kinh
nghiệm của người khác. Nếu bạn còn chưa biết
Thượng đế, xin đừng nói gì về Thượng đế cả - bởi vì
bất kì điều gì bạn nói đều sẽ là sai lệch, sẽ là báng bổ,
sẽ là tội lỗi. Bởi vì bất kì điều gì bạn nói cũng đều sẽ sai. Nếu bạn đã
biết tới Thượng đế, chỉ thế nói; bằng
không thì đừng. Thế giới này sẽ đẹp hơn, ít lẫn lộn
hơn, nếu câu châm ngôn của Phật mà được nghe theo:
chính ngữ. Ông ấy nói: chỉ nói cái bạn đã kinh
nghiệm, cái được dựa vào kinh nghiệm của bạn, được
bắt rễ trong kinh nghiệm của bạn. Đừng bao giờ nói
cái gì khác.
Nghĩ về điều đó đi... biết bao nhiêu điều chúng ta
cứ nói mà chúng ta lại chưa bao giờ kinh nghiệm qua,
điều chúng ta chẳng biết gì về nó cả. Chúng ta đã
nghe nói, chúng ta có thể đã đọc, nhưng điều đó
không làm cho bạn có khả năng thốt ra được cái gì.
Nó tất cả đều được vay mượn, và cái được vay mượn
không bao giờ là chân lí cả. Chỉ nói cái đang đó.
Mang tính sự kiện, không hư cấu.
Phật đã không tạo ra huyền môn nào. Phát biểu
của ông ấy đều trần trụi không có thơ ca hay hư cấu gì
cả, không có trang trí. Ông ấy chưa bao giờ trang
điểm cho phát biểu của mình; chúng trần trụi, chúng
không có trang phục nào. Ông ấy nói: Nếu ông bắt
đầu chơi đùa với hư cấu, thì không có chấm dứt. Và
nhiều tôn giáo trên thế giới có đến chín mươi chín
phần trăm là hư cấu. Người Hindu nói: có một địa
ngục, một cõi trời. Người Jaina nói: có bẩy địa ngục
và bẩy cõi trời. Và có một thầy giáo, Gosal, vào thời
của Mahavira. Ai đó hỏi ông ấy, "Ông nói gì vậy? Vì
người Hindu tin vào chỉ một cõi trời, một địa ngục.
Và các đệ tử của Mahavira nói rằng họ đã không đi đủ
sâu, nhưng thầy của họ đã đi sâu hơn và ông ấy nói có
bẩy địa ngục và bẩy cõi trời."
Gosal cười. Ông ấy nói, "Không là gì nhé! Tôi
biết có bẩy trăm địa ngục và bẩy trăm cõi trời."
Bây giờ, bạn có thể cứ chơi tiếp; không có chấm
dứt cho nó, và không có nhu cầu để chứng minh nó.
Nhân danh tôn giáo hư cấu có thể tiếp tục. Đủ mọi thứ
ngu xuẩn có thể được nói nhân danh tôn giáo. Không
có cách nào đánh giá xem liệu chúng là đúng hay
không. Không có cách nào làm cho chúng hợp thức
hay không hợp thức; bạn không thể chứng minh được,
bạn không thể bác bỏ được. Đó là lí do tại sao đủ mọi
loại vô nghĩa vẫn tiếp diễn. Có ba trăm tôn giáo trên
trái đất và mọi tôn giáo đều có hư cấu riêng của nó.
Chúng tất cả đều hư cấu. Nếu chúng chỉ hư cấu thôi
thì đã không có vấn đề gì. Nếu điều đó được hiểu, nếu
bạn muốn tận hưởng hư cấu, thì bạn tận hưởng.
Bạn có biết rằng Krishnamurti đọc mãi tiểu thuyết
trinh thám không? Ông ấy chưa bao giờ đọc Gita, ông
ấy chưa bao giờ đọc Koran, ông ấy chưa bao giờ đọc
Kinh Thánh. Ông ấy cứ đọc tiểu thuyết trinh thám.
Chẳng ai đã hỏi ông ấy tại sao, và ông ấy chưa bao
giờ trả lời, nhưng tôi biết tại sao - bởi vì điều đó là
như nhau cả thôi. Dù bạn đọc tiểu thuyết trinh thám,
hay bạn đọc Kinh Thánh hay Koran, cũng chẳng tạo
ra khác biệt gì. Chúng là các tiểu thuyết trinh thám
tôn giáo, chúng là các tiểu thuyết trinh thám cám dỗ.
Bạn có thể ngạc nhiên rằng một người với phẩm chất
của Krishnamurti mà lại đọc tiểu thuyết trinh thám,
nhưng điều đó mang tính rất chỉ dẫn. Ông ấy đơn giản
nói rằng mọi thứ đều là hư cấu, và nếu bạn muốn đọc
tiểu thuyết trinh thám thế thì sao lại không đọc tiểu
thuyết trinh thám thế kỉ hai mươi? Sao lại phải đi ngược lại và đọc
những thứ cũ rích, nguyên thuỷ? Sao
không đọc thứ mới, mô đen mới nhất?
Phật nói: Chính ngữ nghĩa là: không mang tính hư
cấu, không mang tính bí truyền. Chỉ tuyệt đối chân
thành và đích thực. Đã có nhiều lần khi các câu hỏi
được hỏi với Phật và ông ấy sẽ vẫn còn im lặng, ông
ấy sẽ không trả lời. Ông ấy sẽ nói, "Điều này không
cần cho sự trưởng thành tâm linh của các ông. Điều
này là không cần thiết." Ai đó hỏi, "Ai đã tạo ra thế
giới này?" Và ông ấy sẽ nói, "Đừng hỏi - bởi vì nếu A
tạo ra hay B tạo ra hay C tạo ra, điều đó có tạo nên
khác biệt gì cho ông không? Hay nếu không ai đã tạo
ra nó và nó đã có đó mà chẳng có ai làm ra nó, tạo ra
nó, điều đó có tạo ra khác biệt gì không? Ông hỏi điều
gì đó thực, mang tính kinh nghiệm đi. Ông hỏi điều gì
đó có thể có ích nào đó cho ông. Đừng hỏi các câu hỏi
ngu xuẩn."
Bây giờ thấy đấy: ông ấy nói, "Những câu hỏi này
- ngu xuẩn!" bởi vì câu trả lời sẽ không giúp ích gì
cho bạn theo bất kì cách nào để trưởng thành. Và có
những người cứ tranh đấu về những điều này. Ai đó
nói Thượng đế đã tạo ra nó; ai đó nói trong sáu ngày;
ai đó nói ngài vẫn đang tạo ra, sự sáng tạo vẫn tiếp
tục, nó chưa bao giờ được kết thúc, dấu chấm hết vẫn
còn chưa tới - và họ cứ tranh đấu và cãi lộn. Dường
như họ muốn đánh nhau, cho nên bất kì cái cớ gì cũng
có tác dụng. Và đây lại là những cái cớ hay bởi vì
không có cách nào để chấm dứt chúng. Bạn có thể cứ
tiếp diễn mãi và mãi và mãi, đến vô hạn. Thế rồi có
những người hỏi, "Ai đã tạo ra Thượng đế?" Bây giờ
họ cũng đang hỏi câu hỏi thẳng vào vấn đề.
Những câu hỏi này là không liên quan, và Phật
nói: Chỉ nói điều ông biết thôi, và chỉ nói điều có ích,
và chỉ nói điều có ích lợi. Đừng phù phiếm, đừng hư
cấu. Chân thành trong việc thốt ra lời của ông.
Chuyện xảy ra:
Nhà lãnh đạo chính trị địa phương được mời tới
nói chuyện cho những người bị giam giữ trong bệnh
viện tâm thần. Vị chính khách bắt đầu bài nói của
mình và đã nói được quãng mười phút thì một anh
chàng ở đằng sau đứng dậy và kêu lên, "Ô, ông không
biết ông đang nói gì à! Thêm vào đó, ông lại nói quá
nhiều. Sao ông không im đi và ngồi xuống!"
"Tôi sẽ đợi một lúc cho tới khi nào các anh đuổi
người kia ra," viên chính khách nói với người giám
thị.
"Đuổi anh ta ra sao?" viên giám thị hỏi. "Chắc
chắn là không rồi! Anh chàng đáng thương đó đã ở
đây tám năm và đây là lần đầu tiên anh ta nói ra điều
gì đó có nghĩa đấy, thưa ông."
Bạn đã bao giờ nghe diễn văn của chính trị gia
chưa? Họ cứ nói và nói - và chẳng nói lên một điều gì
cả. Đó chính là ngoại giao là gì đấy: cứ nói về mọi sự
mà chẳng nói cái gì cả, bằng không thì bạn sẽ bị nhận
ra. Cho nên, cứ vòng vo tam quốc, mọi người cứ thế
mãi. Đến cuối bạn không thể có được kết luận gì;
không có kết luận. Họ đơn giản chơi với từ ngữ. Từ
ngữ có sức quyến rũ riêng của chúng, và nếu bạn quan sát bạn sẽ có khả
năng thấy. Đôi khi bạn nói một từ,
thế rồi từ đó dẫn tới từ khác - từ có sức quyến rũ riêng
của chúng - thế rồi bạn đi sang từ khác mà nó lại dẫn
bạn vào từ khác nữa, và chung cuộc bạn chấm dứt ở
đâu đó nơi bạn chưa bao giờ muốn tới. Từ có sức
quyến rũ riêng của chúng, có ma thuật riêng của
chúng. Cứ hỏi các tiểu thuyết gia, nhà thơ mà xem; họ
biết về điều đó đấy. Các tiểu thuyết gia bắt đầu một
câu chuyện, nhưng nó chẳng bao giờ chấm dứt theo
ông ấy. Dần dần, các nhân vật bắt đầu khẳng định cá
tính riêng của họ. Dần dần, từ đan dệt lại theo cách
nào đó và đi vào các hướng nào đó. Tất cả các tiểu
thuyết gia lớn đều biết về điều đó và nói. "Nó là thế
đấy - tức là chúng tôi bắt đầu cuốn tiểu thuyết nhưng
chúng tôi chẳng bao giờ chấm dứt được nó. Nó chấm
dứt theo cách riêng của nó."
Bạn cứ thử viết một câu chuyện mà xem. Đầu tiên
bạn lập kế hoạch trong đầu óc, bạn có bản kế hoạch
tổng thể trần trụi khi bạn mới bắt đầu. Khoảnh khắc
bạn bắt đầu, mọi sự bắt đầu xảy ra mà bạn chưa bao
giờ chủ định vậy. Thế rồi bạn bị dẫn đi ngày một lạc
lối hơn, và cuốn tiểu thuyết hay câu chuyện chấm dứt
ở đâu đó mà bạn thậm chí chưa bao giờ mơ tới. Điều
gì xảy ra? Từ ngữ có ma thuật của riêng nó. Từ này
dẫn tới từ khác, và người ta cứ đi mãi đi mãi.
Phật nói: Lưu tâm. Đừng bị đưa đi lạc lối bởi từ
ngữ. Nói điều ông thực sự muốn nói, đừng phù
phiếm.
Mới đêm hôm nọ bà Mulla Nasruddin tới tôi. Bà
ấy nói, "Thầy biết không? Tôi có thể đứng ở cửa và
chỉ bằng việc nhìn vào khuôn mặt chồng là tôi có thể
biết liệu ông ấy có đang nói dối hay không."
Tôi ngạc nhiên. Tôi nói, "Làm sao mà bà có thể
làm được điều đó?"
Bà ấy nói, "Nếu môi ông ấy mà chuyển động, ông
ấy nói dối đấy."
Mulla Nasruddin là một chính khách. Nếu môi
ông ấy chuyển động... thế là đủ! Thế thì ông ấy phải
đang nói dối rồi. Ông ấy còn có thể làm cái gì khác
được?
Nhớ một điều: bạn phải cẩn thận về điều bạn nhận
vào, và bạn phải cẩn thận về điều bạn đem ra. Chỉ thế
thì bạn mới có thể có cuộc sống được định tâm. Mọi
người đều bất cẩn: họ cứ tọng vào mình bất kì cái gì
họ tìm thấy. Bất kì cái gì! Họ cứ tọng vào - trong thân
thể, và trong tâm trí nữa. Cẩn thận vào.
Nếu hàng xóm của bạn tới và bắt đầu buôn
chuyện, bạn nghe rất chăm chú. Nếu hàng xóm ném
rác rưởi nào đó sang vườn của bạn, bạn sẽ bắt đầu
đánh nhau, nhưng nếu người đó ném rác rưởi nào đó
vào đầu bạn, bạn hoan nghênh nhiệt liệt. Bạn không
thấy điều đó: một khi ai đó đã được phép vứt rác rưởi
vào đầu bạn, bạn sẽ làm gì với nó? Chẳng chóng thì
chầy nó sẽ đi qua mồm bạn và đi vào đầu ai đó khác.
Bạn không thể giữ nó ở bên trong được. Đó là lí do tại
sao mọi người lại gặp khó khăn thế trong giữ bí mật.
Bảo ai đó đừng nói cho bất kì ai khác bất kì điều gì,
và bạn có thể chắc chắn người đó sẽ nói. Bảo vợ bạn,
"Điều này rất bí mật... em đừng nói cho ai nhé," và bạn có thể chắc chắn
rằng trong vòng hai mươi bốn
giờ cả thị trấn sẽ biết. Tất nhiên cô ấy cũng sẽ nói
cùng điều đó khi cô ấy kể câu chuyện này cho người
phục vụ: "Đừng nói điều này cho bất kì ai, nó là rất bí
mật." Và anh ta sẽ nói cùng điều đó cho vợ mình, và
chuyện đó cứ tiếp diễn mãi. Trong vòng hai mươi bốn
giờ bạn sẽ thấy cả thị trấn đều biết về nó. Không có
cách nào tốt hơn để lan truyền một điều: cứ bảo mọi
người, "Chớ nói điều đó cho ai cả." Chắc chắn đấy -
họ sẽ phải nói điều đó. Bởi vì bất kì khi nào có bí mật
thì đều khó giữ được nó bên trong. Nó muốn đi ra
ngoài.
Đừng cứ nhận bất kì điều gì vào, và đừng cứ ném
bất kì cái gì lên mọi người. Nếu bạn quá đầy những
rác rưởi, đi ra bờ sông, đi vào rừng, và nói với cây
cối. Chẳng hại gì cả, bởi vì chúng không nghe. Bạn có
thể nói, bạn có thể làm mình nhẹ gánh, bạn có thể
nghỉ ngơi thư dãn rồi quay về. Nhưng đừng làm điều
đó cho con người - họ cũng đã quá nặng gánh rồi.
Phật nói: Chính ngữ nghĩa là lời nói rất chân
thành.
Kinh Thánh nói: Lúc ban đầu là lời... và thế rồi
mọi thứ đi vào. Phật nói: Nếu ông vứt bỏ lời, sẽ có
thực tại, cái bắt đầu. Nếu ông trở nên im lặng, thế thì
bất kì điều gì ông nói đều sẽ có ý nghĩa.
Bạn đã quan sát điều đó chưa? Nếu bạn nhịn ăn
một ngày, ngày hôm sau cơn đói của bạn có niềm đam
mê khác cho nó. Nếu bạn nhịn ăn thế thì bạn có cơn
đói tươi tắn nảy sinh trong mình. Nếu bạn cứ tọng vào
mình hàng ngày, liên tục, và không bao giờ nhịn ăn,
bạn hoàn toàn quên mất ngôn ngữ của đói, cái tươi
mới, cái đẹp, cái sống động của cơn đói. Nhịn ăn một
ngày và ngày hôm sau bạn sẽ có cơn đói tươi mới nảy
sinh, và ngày hôm sau bạn sẽ có khẩu vị khác. Thức
ăn có thể vẫn thế thôi, nhưng nó sẽ trở nên có hương
vị - bởi vì chính cơn đói làm cho nó thành có hương
vị.
Và cùng điều đó xảy ra với từ ngữ. Giữ im lặng,
và thế rồi nói điều gì đó, và bạn sẽ thấy: điều gì đó ấy
có sức mạnh trong nó. Im lặng giống như nhịn ăn: nó
đem cuộc sống vào trong lời của bạn. Và trong thế
giới này chỉ những người đã giữ cho mình ở trong im
lặng sâu sắc, mới có tầm quan trọng mênh mông, và
lời của họ mang giá trị kéo dài vĩnh hằng.
Phật đã im lặng trong nhiều tháng, Mahavira đã
im lặng trong mười hai năm. Bất kì khi nào Jesus cảm
thấy rằng ông ấy mệt mỏi, ông ấy đều đi vào rừng và
ông ấy sẽ nói với các đệ tử của mình, "Bỏ ta đấy. Để
ta một mình." Ông ấy sẽ trong im lặng trong bốn
mươi ngày, và thế rồi ông ấy sẽ quay lại. Và thế thì
lời của ông ấy có giá trị với họ: từng lời đều giống
như kim cương.
Nếu bạn thực sự muốn rằng lời của mình phải có
giá trị, thế thì học im lặng. Giữ im lặng ngày một
nhiều; thế thì một ngày nào đó bạn sẽ biết chính ngữ
là gì.
Bước thứ tư là: chính hạnh.
Phật nói: đức hạnh tới từ bên ngoài không phải là
chính hạnh. Đức hạnh tới từ bên trong mới là chính
hạnh.
Mọi điều chúng ta nghĩ là đức hạnh thì không
thực sự là đức hạnh đâu. Đó chỉ là điều được xã hội
huấn luyện thôi. Bạn đã được dạy phải cư xử theo
cách nào đó và bạn cư xử theo cách nào đó - nhưng
hành vi đó là hành vi của kẻ nô lệ. Nó không phải là
hành vi của người tự do, nó không bắt nguồn từ tự do.
Và làm sao đức hạnh lại có thể bắt nguồn từ việc nô lệ
được?
Phật nói: Đức hạnh là có thể chỉ khi ông tự do
toàn bộ, không ước định nào. Không phải là bạn phải
làm điều gì đó, không phải là đó là nghĩa vụ của bạn,
không phải là bạn phải tuân theo qui tắc nào đó;
nhưng mà bạn đã trở nên có ý thức, bạn đã trở nên
nhận biết. Và từ nhận biết đó bạn cư xử theo cách nào
đó. Nhận biết là chính hạnh; vô nhận biết là tà hạnh.
Bạn có thể chân thực. Bạn có thể không phải là
tên trộm, và bạn có thể không phải là người ngu bâu
quanh vợ người khác, và bạn có thể không phải là kẻ
lừa dối, nhưng nếu đấy chỉ là vì xã hội đã áp đặt
những điều này lên bạn, thì bạn vẫn không phải là đức
hạnh. Bạn có thể là công dân tốt nhưng đức hạnh lại
là điều lớn lao hơn: nó không rẻ thế. Bạn có thể là tốt
với xã hội; xã hội không muốn cái gì nhiều hơn thế.
Nếu bạn không tạo ra rắc rối nào - thế là đủ; nếu bạn
không tạo ra mối nguy hại nào - thế là đủ - bạn là
công dân tốt. Nhưng là đức hạnh còn ngụ ý cái gì đó
nhiều hơn là công dân tốt. Nó ngụ ý... người tốt; nó
chẳng liên quan gì tới xã hội cả. Nó có cái gì đó liên
quan tới tính toàn vẹn bên trong của bạn.
Phật nói: Trở nên có ý thức hơn. Sống qua ý thức
hơn là sống qua lương tâm.
Lương tâm được xã hội tạo ra. Nếu bạn được sinh
ra trong gia đình người Jaina thì bạn sẽ không ăn thịt,
nhưng điều đó không có nghĩa là bạn không bạo hành.
Làm sao bạn có thể không bạo hành chỉ bởi việc
không ăn thịt? - bởi vì từ chính thời thơ ấu của mình
bạn đã được dạy không ăn thịt và ăn thịt đã trở thành
buồn nôn. Người Jaina thậm chí không thể nhìn vào
miếng thịt được: ngay cả nhìn miếng thịt người đó
cũng bắt đầu cảm thấy buồn nôn, người đó bắt đầu
cảm thấy nôn nao.
Khi tôi còn là đứa trẻ, trong gia đình tôi ngay cả
cà chua cũng không được phép. Tôi đã hỏi mẹ tôi,
"Sao cà chua lại không được phép?" Bà ấy nói,
"Chúng trông giống thịt. Người ta cảm thấy nôn nao
nếu người ta nhìn vào cà chua.'
Cà chua, cà chua đáng thương... bạn không thể
tìm được người hồn nhiên hơn cà chua đâu!
Nhưng tôi đã không nếm cà chua trong một thời
gian dài hồi thơ ấu. Khi tôi tới kí túc xá, chỉ thế thì tôi
mới thu được dũng cảm để ăn cà chua. Và ngày đầu
tiên, khi tôi ăn chúng, tôi đã không thể nào ngủ nổi cả
đêm. Dạ dầy tôi sôi òng ọc, và tôi sợ là tôi đã phạm
phải tội lỗi lớn. Đến sáng tôi nôn ra - chỉ là ước định.
Tiếng Pháp chỉ có một từ cho cả ý thức và lương
tâm. Điều đó là đúng; Phật sẽ đồng ý với điều đó. Nó
chỉ có một từ cho cả lương tâm và ý thức. Phật cũng
nói: ý thức của bạn nên là lương tâm bạn. Bạn nên
nhận biết hơn. Bạn nên bắt đầu thấy nhiều điều như
chúng đấy, và thế rồi phi bạo hành sẽ nảy sinh. Điều
ngu xuẩn là đi giết con vật chỉ vì thức ăn của bạn.
Điều đó không phải là tội lỗi, nó là ngu xuẩn. Nó chẳng liên quan gì tới
tội lỗi cả. Bạn sẽ không bị ném
vào ngọn lửa địa ngục đâu.
Tôi đã nghe...
Một người giầu chết đi, một kẻ keo kiệt - ông ta
phải đã là một marwari. Họ là những người Do Thái
Ấn Độ. Ông ta chết. Ông ta bảo vợ mình, "Không cần
mặc quần áo gì cho tôi, bởi vì tôi biết nơi tôi sẽ đi.
Tôi sẽ đi tới chỗ nóng nực đấy. Tôi đã phạm phải bao
nhiêu là tội lỗi, cho nên tôi sẽ xuống địa ngục. Không
có nhu cầu quần áo, và quần áo thì đắt đỏ, mà giá cả
đang lên mỗi ngày một cao hơn. Bà giữ lấy chúng.
Chúng sẽ có ích cho con cái chúng ta." Thế là bà vợ
đem thiêu ông ấy mà không có quần áo.
Nhưng đêm hôm sau, vào giữa đêm ai đó gõ cửa.
Thế là bà ấy ra mở cửa. Con ma chồng bà ấy đứng đó,
và ông ta nói, "Đưa cho tôi bộ quần áo len!"
"Có chuyện gì với ông thế?"
Ông ta nói, "Bây giờ những ngày xưa đó qua rồi.
Họ có địa ngục với điều hoà nhiệt độ. Tôi rét run
người!"
Quên mọi thứ vô nghĩa đi - rằng trong địa ngục
bạn sẽ khổ sở. Biết bao nhiêu chính khách có đó, biết
bao nhiêu nhà khoa học có đó. Tự nhiên là họ sẽ sẽ
phải làm điều hoà không khí cho nó bây giờ.
Phật nói: Không phải bởi vì sợ hãi mà các ông
phải đức hạnh, mà bởi vì hiểu biết; và không phải bởi
vì tham lam mà các ông phải đức hạnh - bởi vì tôn
giáo bình thường của bạn dựa trên sợ hãi và tham lam,
chỉ toàn mẹo vặt về thưởng phạt. Cũng như bạn vẫn
làm với con cái mình, các tôn giáo đã làm với bạn:
nếu bạn làm điều này thì bạn sẽ lên trời, nếu bạn làm
điều này bạn sẽ xuống địa ngục - sợ hãi và tham lam.
Họ đang chơi đùa trên sợ và tham của con người, và
họ nói rằng người ta không nên sợ hãi, và người ta
không nên tham lam, và toàn thể cấu trúc của họ lại
dựa trên cùng sợ hãi và tham lam.
Phật nói: Không sợ và không tham. Nhìn vào mọi
sự, và từ nhận biết riêng của bạn tính đáp ứng nảy
sinh. Bạn bắt đầu cư xử một cách duyên dáng. Bạn
không làm những điều ngu xuẩn, có thế thôi.
Nếu bạn làm mọi sự từ sợ hãi, bạn sẽ không bao
giờ có khả năng đức hạnh toàn bộ - bởi vì sâu bên
dưới, bên ngoài sợ, bạn sẽ biết... Và ham muốn làm
điều đối lập, là cái đối lập, sẽ vẫn còn đó.
Chuyện xảy ra:
Trong một cuộc họp tôn giáo một quả phụ trẻ hấp
dẫn nghiêng người quá xa ngoài ban công và bị ngã.
Nhưng bộ quần áo của cô ấy lại mắc vào ngọn đèn
treo và giữ cô ấy lơ lửng trong không trung. Người
thuyết giáo, tất nhiên, lập tức để ý tới tình huống khó
khăn của người đàn bà này và kêu gọi toàn thể giáo
đoàn, "Người đầu tiên nhìn lên đó bị nguy cơ trừng
phạt mù mắt."
Mulla Nasruddin, đang ở trong giáo đoàn, thì
thầm vào tai người đứng bên cạnh mình, "Tôi nghĩ tôi
sẽ liều với một mắt."
Đức hạnh bị áp đặt không thể mang tính toàn bộ;
người ta bao giờ cũng sẵn lòng liều với một mắt, ít
nhất. Ai mà biết được? Điều đó có thể đúng, điều đó
có thể không đúng...
Và cái gọi là người đạo đức bao giờ cũng sẽ cần
ngày nghỉ, bởi vì điều đó sẽ làm mệt mỏi. Nó dựa trên
xung đột: một phần của con người bạn nói điều gì đó
và đức hạnh nói điều gì đó khác. Bạn bị phân chia,
bạn bị chia chẻ. Bởi vì chia chẻ này mà toàn thể nhân
loại có chút ít tinh thần phân liệt - một phần đi
phương nam, một phần đi phương bắc. Và bạn bao
giờ cũng trong mơ hồ, và bạn bao giờ cũng lưỡng lự,
vẩn vơ - đi đâu? làm gì? Bản năng của bạn nói điều gì
đó và ước định của bạn nói chính điều đối lập. Bạn có
thể ép buộc bất kì cái gì lên bản thân mình, nhưng
thực tế, nó sẽ không bao giờ là một phần của bạn.
Người bản ngã có thể được xã hội gọi là khiêm
tốn, và người đó có thể cố gắng trở thành khiêm tốn.
Nhưng người bản ngã là người bản ngã: bây giờ
khiêm tốn sẽ che giấu bản ngã.
Tôi đã nghe...
Một giáo sĩ phát biểu với giáo đoàn của mình. Họ
rất xúc động bởi buổi lễ và một người đứng dậy và
nói, "Tôi là Joe Smith. Tôi tới mảnh đất này không
một xu. Bây giờ tôi đáng giá năm triệu, nhưng khi tôi
nghe lời của ông, tôi chẳng là gì cả."
Một người khác đứng dậy và nói, "Tôi đã bắt đầu
không có xu nào, thế nữa. Bây giờ tôi đáng giá mười
triệu, nhưng khi tôi nghe lời của ông, thưa giáo sĩ, tôi
không là gì cả, tuyệt đối không gì cả."
Thế rồi người khác đứng dậy và nói, "Tôi làm
việc cho cơ quan bưu điện. Tôi làm tám mươi đô la
một tuần, nhưng khi tôi nghe lời của ông tôi chẳng là
gì cả, hoàn toàn không là gì cả." Và nhà triệu phú thứ
nhất nói với người thứ hai, "Nhìn xem ai muốn là
không gì cả."
Chỉ là nhân viên bưu điện thôi, mà cố gắng trở
thành không gì cả sao? Thế thì không gì cả cần rằng
trước hết bạn phải trở thành triệu phú. Đó là lí do tại
sao ở Ấn Độ, một nước tôn giáo thế, mà thậm chí
không thời đại nào lại không có một người đơn giản
đã từng tuyên bố là thiên thần giáng thế, một
tirthankara. Không, chưa đâu; điều đó chưa xảy ra đâu
- bởi vì nếu bạn mà nghèo, bạn sẽ từ bỏ cái gì? Tất cả
hai mươi bốn tirthankaras của người Jaina đều bắt
nguồn từ gia đình hoàng gia, con vua. Bản thân Phật
cũng bắt nguồn từ một gia đình hoàng gia; Rama,
Krishna - mọi người đều bắt nguồn từ gia đình hoàng
gia.
Tại sao? Tại sao Kabir lại không thế? Tại sao
Farid lại không thế? Tại sao Dadu lại không thế?
Chẳng cái gì thiếu cả. Chỉ một điều đang bị bỏ lỡ: họ
không có gì để từ bỏ cả. Nhìn xem ai đang cố gắng là
không gì cả! Trước hết bạn phải có đã; để từ bỏ bạn
phải có nhiều, bạn cần nhiều; bạn phải có đã. Người
đơn giản không thực sự là người khiêm tốn, duy nhất người bản ngã mới là
người khiêm tốn. Và thế thì
người đó cố gắng, qua khiêm tốn của mình, để nói
rằng mình là người khiêm tốn nhất trên thế giới.
Nhưng cùng điều đó trong cách ăn mặc khác vẫn tiếp
tục. Đức hạnh của bạn chưa bao giờ làm biến đổi bạn.
Cho nên Phật nói: Chính hạnh là từ bên trong, từ
nhận biết - không từ sợ hãi, không từ tham lam.
Bước thứ năm là: chính nghề nghiệp.
Phật nói: Cuộc sống nên đơn giản, không phức
tạp. Cuộc sống nên dựa trên nhu cầu, không dựa trên
ham muốn. Nhu cầu là hoàn toàn được: bạn cần thức
ăn, bạn cần quần áo, bạn cần chỗ trú ngụ, bạn cần tình
yêu, bạn cần quan hệ. Hoàn toàn tốt, chẳng có gì sai
trong nó cả. Nhu cầu có thể được đáp ứng; ham muốn
về cơ bản là không thể đáp ứng được. Ham muốn tạo
ra phức cảm. Chúng tạo ra phức cảm bởi vì chúng
không bao giờ có thể được hoàn thành. Bạn cứ làm
việc vất vả vì chúng, và chúng vẫn còn không được
hoàn thành, và bạn vẫn còn trống rỗng.
Điều thứ nhất về nghề nghiệp là: nó nên dựa trên
nhu cầu, không dựa trên ham muốn. Thế thì một
lượng rất nhỏ các thứ cũng là đủ.
Thứ hai là: nó không nên mang tính bạo hành.
Bạn không nên làm cái gì đó chỉ bởi vì bạn có thể
kiếm được tiền nào đó từ nó. Bạn có thể giết ai đó và
kiếm tiền nào đó, bạn có thể là đồ tể và bạn có thể lấy
đó làm nghề nghiệp của mình, nhưng điều đó là vô
nhân đạo... và rất vô ý thức. Những cách tốt hơn là có
thể. Người ta nên mang tính sáng tạo trong nghề
nghiệp của mình, người ta không nên mang tính phá
huỷ.
Một doanh nhân thảo luận với người đồng bào.
"Anh ta thường làm việc cho tôi," người thứ nhất
nói. "Tôi sẽ không tin cậy anh ta với tiền của tôi. Anh
ta sẽ nói dối, ăn cắp, lừa bịp; bất kì cái gì vì một đồng
đô la."
"Làm sao ông biết anh ta rõ thế?"
"Làm sao á?" người thứ nhất nói. "Tôi đã dạy cho
anh ta mọi thứ mà anh ta biết."
Người ta nên tỉnh táo hơn chút ít. Tiền không phải
là tất cả, và người ta không nên phá huỷ cuộc sống
riêng của mình chỉ vào việc tích luỹ tiền bạc. Nghèo
có thể cực kì hay. Nếu bạn chỉ sống theo nhu cầu của
mình, nghèo có thể là mãn nguyện vô cùng. Thực tế,
bạn sẽ không bao giờ tìm ra người giầu được mãn
nguyện đâu. Đôi khi bạn có thể bắt gặp người ăn xin
với khuôn mặt mãn nguyện, nhưng chẳng bao giờ bắt
gặp nhà triệu phú như vậy.
Bạn càng săn đuổi, bạn càng cảm thấy đường
chân trời ở xa xăm. Bạn càng chạy nhanh, bạn càng
tới gần cái chết của mình hơn, nhưng chẳng bao giờ
tới sự hoàn thành nào cả. Cái bóng của cái chết, nỗi
sợ cái chết, nỗi sợ rằng bạn lại sắp bỏ lỡ, phá huỷ đi
mọi sự mãn nguyện.
Bước thứ sáu là: chính tinh tiến.
Phật nói: Đừng bao giờ căng thẳng và đừng bao
giờ lười biếng. Người ta phải cân bằng giữa hai điều
này. Thế thì có chính tinh tiến; nỗ lực về cơ bản là vô
nỗ lực.
Bạn có thấy trẻ con chơi đùa không? Chúng chơi,
nhưng không có nỗ lực, không có căng thẳng. Chúng
tận hưởng nó. Bạn có thấy hoạ sĩ vẽ, nhà thơ làm thơ,
nhạc sĩ chơi nhạc cụ không? hay vũ công? Không có
nỗ lực. Nếu có nỗ lực thế thì vũ công không phải là vũ
công thực. Thế thì vũ công chỉ đang cố gắng kiếm cái
gì đó từ nó. Thế thì người đó đang hướng kết quả,
hướng đích. Thế thì bản thân hoạt động, bản thân điệu
vũ, không phải là vui vẻ của người đó.
Khi Phật nói 'chính tinh tiến' điều đó ngụ ý: mọi
thứ mà bạn làm nên là vui vẻ lên chính nó. Nó nên
mang giá trị bản chất. Nó nên mang tính chơi đùa.
Và chính tâm là bước thứ bẩy.
'Lưu tâm' là từ của phật dành cho thiền. Với lưu
tâm ông ấy ngụ ý: bạn bao giờ cũng nên vẫn còn tỉnh
táo, quan sát. Bạn bao giờ cũng nên vẫn còn trong
hiện tại. Không một điều nào nên được thực hiện
trong một loại trạng thái ngủ của tâm trí. Bạn không
nên di chuyển như người mộng du, bạn nên di chuyển
với ý thức sắc bén.
Phật hay nói: Thậm chí tới hơi thở của mình cũng
không nên được phép đi vào và đi ra mà không có ý
thức của ông. Ông ấy nói với các sư: Bao giờ cũng đi
vừa quan sát hơi thở đi vào, hơi thở đi ra. Nếu ông di
chuyển, quan sát việc chuyển động chân. Nếu ông
nói, mang tính quan sát. Nếu ông đang nghe, mang
tính quan sát. Nếu ông đang ăn, mang tính quan sát.
Đừng bao giờ cho phép bất kì hành động nào được
thực hiện mà không có nhận biết, và thế thì không cái
gì khác được cần tới cả. Nhận biết này sẽ lan toả khắp
cuộc sống của ông; nó sẽ là một thứ suốt hai mươi
bốn tiếng. Không có nhu cầu dành giờ riêng biệt cho
thiền. Và Phật nói việc thiền đó không thể tách rời
khỏi cuộc sống; nó phải lan toả và trộn lẫn với cuộc
sống, nó phải là một với cuộc sống.
Và bước thứ tám, bước cuối cùng là: chính định -
khi bạn đã được hấp thu toàn bộ vào trung tâm của sự
tồn tại...
Bẩy bước này sẽ đem bạn tới nó, nhưng dầu vậy
ông ấy nói: chính định. Điều đó nghĩa là có một khả
năng của tà định nữa chăng? Vâng, có một khả năng
đấy.
Nếu bạn rơi vào trong vô thức, nếu bạn rơi vào
trong cơn mê, đó là tà định; nó không phải là chính.
Định là phải đem bạn tới nhận biết toàn thể, tới nhận
biết hoàn hảo. Bạn phải không rơi vào cơn mê, bạn
phải không trở thành vô ý thức.
Người ta có thể trở nên vô ý thức. Người ta có thể
đi vào bên trong sâu tới mức người ta có thể quên mất
cái bên ngoài. Bây giờ nhìn xem - chúng ta thông
thường sống ở bên ngoài, chúng ta đã quên mất cái
bên trong. Bên trong chúng ta là vô ý thức; bên ngoài
có chút ít ý thức. Chúng ta chuyển ra ngoài, đi ra
ngoài. Thế rồi một ngày nào đó bạn lộn ngược lại, bạn thay đổi toàn bộ
quá trình: bạn bắt đầu quên cái bên
ngoài và bạn bắt đầu trở nên nhận biết bên trong. Một
khoảnh khắc tới khi bạn ở bên trong toàn bộ và bạn đã
quên mất cái bên ngoài. Phật nói rằng đây là tà định.
Vẫn cùng con người đó chỉ đứng theo tư thế lộn
ngược.
Phật nói: Chính định là khi, cả trong và ngoài,
ông đều nhận biết toàn bộ; không phải với cái giá của
bên ngoài. Trong hay ngoài, bạn đều nhận biết. Ánh
sáng tâm thức của bạn đang bùng cháy rực rỡ thế, nó
rót đầy bạn bằng ánh sáng, nó rót đầy bên ngoài bạn
cũng bằng ánh sáng. Thực tế, trong chính định thì cái
bên trong và cái bên ngoài biến mất; chỉ có ánh sáng.
Chính định không phải là bên trong. Chính định là
siêu việt lên trên cả bên trong và bên ngoài. Chính
định là siêu việt lên nhị nguyên, lên sự phân chia.
Bây giờ đến lời kinh. Lời kinh này đơn giản nói
cách một sannyasin nên là vậy.
Phật nói:
Những người theo đạo giống như các chiến binh
tranh đấu đơn độc với vô số kẻ thù. Họ tất cả có
thể ra ngoài công sự với áo giáp đầy đủ; nhưng
trong số họ có một số người nhát gan, một số
người nửa vời và trốn chạy rút lui, và một số bị
giết trong cuộc ẩu đả và một số về nhà thắng lợi.
Này các sư, nếu các ông muốn đạt tới chứng ngộ,
các ông phải bước đi vững chắc theo cách của
mình, với tấm lòng cương quyết, với lòng dũng
cảm, và phải bạo dạn trong bất kì môi trường nào
có thể xảy tới cho các ông, và phá huỷ mọi ảnh
hưởng tai ác mà các ông có thể bắt gặp; với điều
như vậy các công sẽ đạt tới đích.
Tám bước này là công việc.
Và Phật nói: Có nhiều kiểu người: vài người là kẻ
hèn nhát chưa bao giờ đi theo Đạo; vài người đi với
giáp trụ đầy đủ nhưng quay lại khi họ bắt đầu cảm
thấy khó khăn nảy sinh; vài người đi nửa chừng con
đường một cách nửa vời, rồi quay lại; vài người đi xa
thêm chút ít nhưng lại bị giết. Bởi vì họ không bao
giờ có thể huy động được năng lượng của mình, họ
không bao giờ có thể trở nên được hoà nhập, họ có
thể dễ dàng bị phá huỷ. Họ đã không đủ sẵn sàng để
đi vào trận chiến - có thể ở bên ngoài họ có giáp trụ
đầy đủ, có thể ở bên ngoài trông thì rất mạnh, nhưng
bên trong lại hổng hoác, trống rỗng. Chỉ có rất ít
người mới đi vào trận chiến, thắng trận chiến, và quay
về nhà.
Việc quay về nhà đó là chính định, và bẩy bước
này trước samadhi là trận chiến, là Đạo. Đi chậm thôi,
bằng không bạn có thể bị giết chết.
Chẳng hạn: nếu một người mang đức hạnh giả mà
đi vào trận chiến thì người đó sẽ bị giết. Bạn phải
mang đức hạnh đích thực. 'Đức hạnh đích thực' nghĩa
là bạn phải có đức hạnh từ bên trong. Những khuôn
mặt giả kia được học từ bên ngoài sẽ không ích gì cả.
Bạn sẽ vẫn còn hổng hoác bên trong. Và bạn phải đi
từng bước một. Bạn không thể nhảy qua các bước, bằng không thì những lỗ
hổng kia sẽ trở thành nguy
hiểm.
Đó là lí do tại sao tôi nói về tám bước này, con
đường tám làn này. Lời kinh này có nghĩa chỉ nếu bạn
hiểu tám bước này. 'Về nhà' nghĩa là samadhi - định.
Điều đó ngụ ý bạn đã đi tới chính trung tâm của sự
tồn tại. Để tôi đọc lại nó lần nữa.
Những người theo đạo giống như các chiến binh
tranh đấu đơn độc với vô số kẻ thù.
Kẻ thù có nhiều, và bạn lại một mình. Cho nên
bạn phải hoàn toàn sẵn sàng, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ
mục đích này.
Họ tất cả có thể ra ngoài công sự với áo giáp đầy
đủ; nhưng trong số họ có một số người nhát gan...
Nếu bạn còn chưa sống chính kiến, chính ý, chính
ngữ, thì bạn sẽ vẫn còn nhát gan. Bạn sẽ vẫn còn rất
yếu đuối, yếu ớt. Bạn sẽ vẫn còn bất lực.
... và một số người nửa vời và trốn chạy rút lui...
Nếu bạn không thực hành chính hạnh và chính
nghề nghiệp, điều này sẽ xảy ra: bạn sẽ đi nửa đường
thôi. Bạn sẽ là người chạy trốn, người trốn thoát.
...và một số bị giết trong cuộc ẩu đả...
Một số đi toàn tâm nhưng bị giết. Nếu bạn không
thực hành chính tinh tiến và chính tâm, điều này sẽ
xảy ra. Nhưng chỉ có vài người...
...một số về nhà thắng lợi.
Nếu bạn đã thực hành tất cả bẩy bước này bạn sẽ
về nhà thắng lợi, bạn sẽ đạt tới samadhi.
... các ông phải bước đi vững chắc theo cách của
mình, với tấm lòng cương quyết, với lòng dũng
cảm, và phải bạo dạn trong bất kì môi trường nào
có thể xảy tới cho các ông, và phá huỷ mọi ảnh
hưởng tai ác mà các ông có thể bắt gặp; với điều
như vậy các công sẽ đạt tới đích.

Phật nói:

Những người theo đạo giống như các chiến binh
tranh đấu đơn độc với vô số kẻ thù. Họ tất cả có
thể ra ngoài công sự với áo giáp đầy đủ; nhưng
trong số họ có một số người nhát gan, một số
người nửa vời và trốn chạy rút lui, và một số bị
giết trong cuộc ẩu đả và một số về nhà thắng lợi.
Này các sư, nếu các ông muốn đạt tới chứng ngộ,
các ông phải bước đi vững chắc theo cách của
mình, với tấm lòng cương quyết, với lòng dũng
cảm, và phải bạo dạn trong bất kì môi trường nào
có thể xảy tới cho các ông, và phá huỷ mọi ảnh
hưởng tai ác mà các ông có thể bắt gặp; với điều
như vậy các công sẽ đạt tới đích.
Phật Gautama không nghiêng về trừu tượng hoá,
triết lí hay siêu hình. Ông ấy rất thực tiễn, thực tế,
không viển vông. Ông ấy rất khoa học. Cách tiếp cận
của ông ấy không phải là cách tiếp cận của nhà tư
tưởng; cách tiếp cận của ông ấy mang tính tồn tại. Khi
ông ấy đạt tới và trở thành vị phật, tương truyền rằng
Thần của các Thần, Brahma, đã tới ông ấy và hỏi ông
ấy, "Ai là nhân chứng cho ông? Ông tuyên bố rằng
ông đã trở thành phật, nhưng ai là nhân chứng cho
ông?" Phật cười to, chạm đất bằng hai tay và nói, "Đất
này, đất cứng này là nhân chứng của ta."
Ông ấy rất trần tục; ông ấy đã làm cho đất thành
nhân chứng của mình. Ông ấy có thể đã nói như vậy
về trời, nhưng không; ông ấy có thể đã nói về mặt trời
hay mặt trăng, nhưng không. Ông ấy đã chạm đất và
nói, "Đất cứng này là nhân chứng của ta." Toàn thể
cách tiếp cận của ông ấy giống như thế đấy.
Trước khi chúng ta đi vào trong những lời kinh
này, cần phải hiểu các bước cơ sở của ông ấy.
Đạo của Phật có tên là 'Bát chính đạo' - con
đường tám làn. Ông ấy đã chia nó thành tám phần.
Nhưng phân chia đó là tuỳ tiện, chỉ là tiện dụng; Đạo
là một. Nó thực sự không bị phân chia, nó được phân
chia để cho bạn có thể hiểu nó dễ dàng. Và đây là
chính điều nền tảng: nếu bạn có thể hiểu tám bước
này hay tám phân chia này của Đạo, Đạo sẽ mở ra
ngay trước bạn. Bạn đang đứng trên nó đấy, nhưng
không nhận biết thôi; tâm trí bạn đang vẩn vơ ở đâu
đó. Đạo đang ở ngay trước bạn. Cho nên cố gắng hiểu
tám bước này sâu sắc nhất có thể được đi.
Thứ nhất là: chính kiến (nhìn đúng).
Và tất cả tám bước này đều liên quan tới tính
chính, tính đúng - chính kiến, chính ý, chính ngữ,
chính hạnh, chính nghề nghiệp, chính tinh tiến, chính
niệm, và cái thứ tám, cái tối thượng, chính định. Từ
'chính' phải được hiểu trước hết bởi vì từ tiếng Phạn
samyak có ý nghĩa, hàm chứa với nghĩa nhiều tới mức
nó không thể nào được dịch nổi. 'Right-Chính' là từ
việc dịch rất nghèo nàn cho nó bởi nhiều nguyên
nhân.
Thứ nhất, từ 'chính' lập tức cho ý tưởng cứ dường
như nó đối lại cái tà. samyak không bao giờ cho ý
tưởng đó; samyak không đối lại tà. Chính của Phật
không chống lại tà, bởi vì Phật nói, 'Tà có nhiều,
chính có một - cho nên làm sao chính có thể đối lại tà
được?" Mạnh khoẻ có một thôi, bệnh tật có nhiều.
Không có nhiều mạnh khoẻ như có nhiều bệnh tật
đâu, cho nên mạnh khoẻ không thể đối lại bệnh tật
được - bằng không thì sẽ có nhiều mạnh khoẻ thế. Ai
đó đang bị lao - TB và thế rồi người đó trở nên mạnh
khoẻ, ai đó bị ung thư và người đó trở nên mạnh
khoẻ, và ai đó bị cảm cúm rồi người đó trở nên mạnh
khoẻ. Ba mạnh khoẻ này không phải là ba mạnh khoẻ.
Bệnh tật khác nhau, nhưng mạnh khoẻ là một, và một
không thể nào đối lại nhiều.
Đích xác cùng điều đó là đúng với chính và tà.
Chính có một thôi. Tà có hàng triệu; bạn có thể cứ bịa
ra những cái tà. Chính thì không thể bịa ra được; nó
không phụ thuộc vào bạn. Chính là trạng thái của việc
bạn đang trong hoà nhịp với cái toàn thể. Đó là nghĩa
của mạnh khoẻ nữa: khi bạn đang hoà nhịp với cái
toàn thể thì bạn mạnh khoẻ. Âm nhạc tuôn chảy giữa
bạn và cái toàn thể, không có cản trở. Bạn cảm thấy
khoẻ mạnh. Không có tiếng ồn, mọi thứ đều trong hài
hoà. Khi cá nhân trong hoà nhịp với vũ trụ, cái chính
tồn tại, mạnh khoẻ tồn tại. Khi bạn rơi ra ngoài sự hoà
nhịp thế thì nhiều cái tà phát sinh - không có giới hạn
cho chúng, chúng là vô hạn. Và bạn có thể bịa ra
nhiều cái tà mới.
Nhân loại đã bịa ra nhiều bệnh tật mới mà trước
đây chưa phổ biến. Trong kinh sách ngày xưa, kinh
sách ayurvedic, nhiều bệnh không được nhắc tới. Mọi
người nghĩ chúng không được nhắc tới bởi vì
ayurveda đã không đủ khoa học, cho nên họ không
thể chẩn đoán được các bệnh đó. Điều đó không
đúng; ayurveda đã trở thành khoa học hoàn hảo.
Nhưng các bệnh đó đã không có trong sự tồn tại, cho
nên làm sao bạn có thể chẩn đoán được cái không tồn
tại? Chúng là phi tồn tại. Đã có vài bệnh tồn tại chỉ
cho người giầu, người rất giầu. Chúng được gọi là
bệnh hoàng gia. Bệnh lao đã được gọi là bệnh 'hoàng
gia'. Nó không phải là bệnh thường. Bây giờ toàn thế
giới đã trở thành hoàng gia rồi; bây giờ toàn thế giới
đang chịu bệnh giầu, của sự giầu có. Nhàn rỗi đã làm
cho nhiều thứ thành sẵn có, nhiều bệnh mới thành sẵn
có.
Ung thư là bệnh rất mới. Nó mới chỉ tồn tại khi
tâm trí rất lo nghĩ, khi lo âu trở thành giống như vết
thương. Và quanh vết thương tinh tế đó trong tâm lí
phát sinh bệnh tật trong thân thể tương ứng với nó.
Đó chính là ung thư là gì: Đó là lí do tại sao ung thư
lại dường như không thể chữa khỏi. Không có cách
nào chữa được nó từ phía thân thể. Nó có thể được
chữa chỉ từ phía tâm trí bởi vì về căn bản nó phát sinh
ở đó.
Mỗi thời đại lại có bệnh tật riêng của nó, mỗi thời
đại đều có chứng tật riêng của nó, và mỗi thời đại đều
tạo ra tội lỗi riêng của nó. Nhưng đức hạnh là vô thời
đại, vô thời gian. Tính thượng đế chẳng có liên quan
gì tới bất kì thời đại nào, thời kì nào. Nó không mang
tính lịch sử, nó mang tính tồn tại.
Phật nói: Chính là cái không phải do ông tạo ra.
Nó đã có đó rồi. Nếu ông đi xa khỏi nó thì ông là tà,
nếu ông lại gần nó thì ông là chính. Ông càng tới gần,
ông càng chính hơn. Một ngày nào đó, khi ông đích
xác ở nhà, ông là chính hoàn hảo. Samyak (chính) và
samadhi (định) cả hai có cùng một gốc sam. Samyak
là bước đi tới samadhi. Nếu ông không hiểu samyak,
ông sẽ không có khả năng hiểu samadhi.
Cho nên bẩy bước chung cuộc đưa tới bước cuối
cùng. 'Samadhi' nghĩa là: bây giờ mọi thứ đã rơi vào
hoà nhịp với sự tồn tại. Không thiếu sót nào tồn tại;
âm nhạc hoàn toàn hoàn hảo. Nhưng không có từ hay
hơn trong tiếng Anh so với từ 'chính', cho nên bạn
phải hiểu nó. 'Chính' theo nghĩa phật giáo của thuật
ngữ này nghĩa là: được cân bằng, được định tâm,
được tiếp đất, hài hoà, yên bình - tất cả những điều
này. Nhưng điều cơ bản vẫn có thể được hiểu cho dù
không có thuật ngữ đồng nghĩa trong tiếng Anh để
dịch nó.
Nhưng nhớ, nó chẳng liên quan gì tới tà cả. Tà là
bịa đặt của con người, chính là thiêng liêng. Chính
không phải là cái gì đó bạn phải làm - bạn được sinh
ra đã chính rồi. Tà là cái gì đó bạn phải làm; bạn đã
không được sinh ra mà tà. Mọi đứa trẻ đều được sinh
ra trong hài hoà. Đó là lí do tại sao trẻ con lại đẹp thế.
Bạn đã bao giờ thấy đứa bé mới sinh ra xấu không?
Điều đó không xảy ra. Mọi đứa trẻ mới sinh đều đẹp,
nhưng tất cả người lớn lại không đẹp. Cho nên cái gì
đó ở đâu đó phải đã đi sai - bởi vì mọi đứa trẻ mới
sinh đều đẹp. Chúng có duyên dáng, thanh thoát vô
cùng mà chẳng liên quan gì tới thực tế nào, bởi vì
chúng không có thời gian để thực hành bất kì cái gì.
Chúng tới thế giới này mà không có diễn tập nào.
Chúng chỉ có đó; hạnh phúc thế, im lặng thế, hài hoà
thế. Duyên dáng thế bao quanh chúng - cứ dường như
toàn thể sự tồn tại đang bảo vệ chúng. Thế rồi, dần
dần, chúng học cách thức của con người và trở thành
tà. Thế thì xấu xí xuất hiện. Thế thì những đôi mắt
đẹp trở thành khủng khiếp; thế thì khuôn mặt đẹp có
thể trở thành mang tính tội phạm; thế thì thân thể đẹp
có thể mất đi mọi duyên dáng. Thế thì thông minh
đẹp... Mọi đứa trẻ sinh ra đều thông minh; đó là cách
mọi sự đang thế. Đứa trẻ thông minh có thể trở thành
ngu xuẩn, tầm thường. Đây là thành tựu của con
người.
Cái tà là thành tựu của con người, cái chính là
thiêng liêng. Bạn không làm cái gì vì nó cả. Bạn chỉ
phải dừng tất cả mọi thứ bạn đã từng làm để tạo ra cái
tà. Và khi có cái chính, bạn không cảm thấy mình là
chính. Đó là lí do tại sao, tôi nhắc lại: Nó không đối
lại cái tà. Khi bạn đang trong cái chính bạn đơn giản
tự nhiên. Bạn không có cảm giác gì về tính chính cả.
Bạn không có cảm giác nào rằng bạn là thánh nhân vĩ
đại. Nếu bạn có cảm giác đó thế thì bạn vẫn còn tà ở
đâu đó - bởi vì cái không là một nốt chói tai. Nó
không cho phép âm nhạc tuôn chảy.
'Chính' nghĩa là được cân bằng, không căng
thẳng, định tâm; bạn không là người lạ trong sự tồn
tại. Đây là nghĩa của 'chính': bạn ở nhà. Sự tồn tại này
là gia đình bạn. Bạn không phải là người xa lạ. Ở
phương Tây, và ở phương Đông nữa, tâm trí hiện đại
liên tục nói và nghĩ về điều xa lạ, rằng con người đã
trở thành người ngoài, rằng con người đã trở thành
người lạ, rằng chúng ta dường như chỉ giống như điều
ngẫu nhiên trên trái đất. Các nhà hiện sinh có từ đúng
cho nó: họ nói chúng ta đã bị tống xuống đây. Tống
sao? Bị gạt bỏ! Bị đuổi đi! Bị trừng phạt! Và sự tồn
tại này đang chống lại chúng ta. Và bạn có thể chứng
minh được điều đó: biết bao nhiêu bệnh tật - cái chết
có đó; biết bao nhiêu thất vọng, thất bại. Mọi người
cứ nói con người đề nghị và Thượng đế quyết định.
Cho nên tất nhiên con người mang định mệnh,
mang định mệnh từ chính lúc ban đầu, là được sinh ra
với ham muốn lớn lao và không có khả năng nào cho
bất kì sự hoàn thành nào. Làm sao sự tồn tại này có
thể là nhà của bạn được? Nó không thể là gia đình của
bạn.
Cái chính là khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn ở
nhà. Không cái gì xa lạ, không cái gì lạ cả.
Phật nói: Nếu ông có, ông là tà - bởi vì bất kì khi
nào bạn có, bạn đều tách rời khỏi sự tồn tại. Khi bạn
không có thì bạn là chính. Nghe điều ngược đời này;
đó là một trong những ngược đời tuyệt vời nhất. Phật
nói: Khi ông có, ông là tà. Sự hiện hữu của bạn là tà.
Chính sự tách bạch, cái 'tôi đây', tạo ra rào chắn. Thế
thì bạn không tan chảy, thế thì bạn trở thành đông
cứng, thế thì bạn giống như khối băng. Chết. Khép
kín. Thế thì bạn có biên giới.
Khi bạn bắt đầu tan chảy, và bạn bắt đầu cảm
thấy, "Sự tồn tại có đó, và mình chỉ là một phần
thôi"... và bạn thảnh thơi, và có buông bỏ; bạn biến
mất. Thế thì bạn là chính. Khi bạn không có thì bạn là
chính.
Tám bước này chỉ là những chỉ báo, dần dần, về
cách đi tới dũng cảm vô cùng đó, dũng cảm tối
thượng đó nơi bạn lấy bước nhảy lượng tử và bạn đơn
giản biến mất. Khi cái ngã biến mất, Cái Ta Vũ Trụ
phát sinh.
Điều đầu tiên là chính kiến, nhìn đúng.
Phật nói: Nhìn vào mọi sự mà không có ý kiến
nào, bằng không ông chẳng bao giờ nhìn vào thực tại
cả. Nhìn vào mọi thứ mà không có triết lí nào, không
có định kiến nào, không có giáo điều, tín điều, kinh
sách nào. Nhìn đi. Nhìn vào mọi sự như chúng đang
đấy. Mang tính sự kiện; đừng tạo ra hư cấu. Nếu bạn
đang tìm cái gì đó với định kiến, bạn sẽ tìm thấy nó -
đó là rắc rối đấy. Nếu bạn đã đầy đức tin thì bạn sẽ
thấy nó bởi vì tâm trí mang tính sáng tạo, tưởng
tượng, có khả năng tự thôi miên tới mức bất kì cái gì
nó tin nó đều có thể tạo ra. Phật nói: đi tới thực tại mà
không có đức tin nào. Đức tin là rào chắn.
Bạn phải đã quan sát điều đó.
Nếu bạn được sinh ra là người Hindu - điều đó
nghĩa là nếu bạn được huấn luyện từ thời thơ ấu bởi những người Hindu -
điều đó nghĩa là bạn là nạn nhân
của Hindu giáo. Và cùng điều đó áp dụng cho người
Mô ha mét giáo và Ki tô giáo, người Do Thái, người
Jaina, người cộng sản: toàn thể nhân loại là nạn nhân
của trường phái này nọ, của định kiến này nọ, của đức
tin này nọ. Nếu bạn được sinh ra là người Hindu, đã
được huấn luyện theo những giáo điều nào đó, và bạn
bắt đầu thiền, bạn sẽ bắt đầu thấy linh ảnh của
Krishna, Rama - điều đó tuỳ vào điều bạn đã được
dạy, người đã được áp đặt và khắc ghi vào tâm trí bạn
- nhưng Christ sẽ không bao giờ tới với bạn. Christ tới
với người Ki tô giáo, Phật tới với Phật tử, Mahavira
tới với người Jaina. Với người Jaina, Mohammed
không bao giờ có thể tới; điều đó là không thể được.
Ngay cả quan niệm về ý tưởng này cũng là không thể
được. Ngay cả trong mơ, Mohammed cũng sẽ không
tới cho người Jaina. Điều gì xảy ra? Nhưng Phật,
Mahaviras, Christs, có thực sự tới không? hay đức tin
riêng của bạn đang tạo ra họ? Đức tin riêng của bạn
đang tạo ra họ đấy.
Với người cộng sản thì chẳng ai tới cả. Đức tin
của người đó là ở chỗ tất cả các tôn giáo đều vô
nghĩa, một loại thuốc phiện cho mọi người, một chất
độc nguy hiểm cần loại bỏ nhanh nhất có thể được -
thế thì chẳng ai tới cả. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn.
Nếu bạn có niềm tin, chính niềm tin đó trở thành giấc
mơ; và nếu bạn lại là người rất, rất nhạy cảm, cảm
nhận, thì giấc mơ đó có thể trông còn thực hơn là thực
tại. Thực tế, điều này xảy ra mọi ngày, ngay cả trong
những người không tôn giáo. Bạn mơ trong đêm và
khi bạn mơ thì mơ có vẻ thực thế. Bạn đã mơ cả đời
mình và mọi sáng bạn đều xoá bỏ nó như thứ không
thật. Nhưng rồi đêm hôm sau bạn lại mơ, và trong
giấc mơ nó lại dường như thật.
Khả năng mơ sống nhờ vào niềm tin. Nếu bạn có
niềm tin mạnh mẽ thế thì khả năng mơ gắn với niềm
tin này, đổ năng lượng của nó vào niềm tin này, làm
cho niềm tin này thành thực tại, và bạn bắt đầu có linh
ảnh. Phật không ủng hộ linh ảnh nào cả - bởi vì ông
ấy nói: "Cái đang đó không cần linh ảnh nào. Điều
cần thiết đơn giản là sự sáng tỏ để thấy." Tâm trí bạn
không cần có giấc mơ nào, giấc mơ lớn lao về các
thánh nhân vĩ đại, cõi trời và địa ngục; đây tất cả đều
là sáng tạo của bạn.
Chính kiến là: không có định kiến nào, không có
niềm tin nào, không có ý kiến về bất kì cái gì. Khó
đấy... con đường của Phật là gian nan; ông ấy yêu cầu
quá nhiều. Điều đó gần như là kì công siêu nhân.
Nhưng điều đó là có thể - và đó là cách duy nhất
hướng tới chân lí.
Nếu bạn có ý kiến nào đó bạn sẽ áp đặt ý kiến của
mình lên chân lí. Bạn vẫn làm điều đó hàng ngày đấy
thôi. Nếu bạn tới tôi với ý kiến rằng người này là tốt,
bạn sẽ bị thuyết phục rằng người này là tốt thật; nếu
bạn đến với ý kiến rằng người này là xấu, bạn sẽ bị
thuyết phục rằng người này là xấu thật. Niềm tin của
bạn bao giờ cũng tìm ra cái mà nó muốn tìm. Niềm tin
rất mang tính chọn lọc. Tôi đã nghe...
Đứa bé được đem ra toà lần nữa bị buộc tội đánh
cắp nắp trục bánh xe ô tô. Quan toà quyết định gọi bố
nó tới: "Trông đây," quan toà nói. “Con ông đã ra toà nhiều lần vì bị
buộc tội ăn cắp, và tôi phát mệt khi
thấy nó ở đây."
"Tôi không trách ông đâu, thưa quan toà," người
bố nói. "Và tôi cũng phát mệt khi thấy nó ở đây như
ông."
"Thế thì sao ông không dạy nó cách hành động?
Chỉ cho nó con đường chính và nó sẽ không tới đây
nữa."
"Tôi đã chỉ cho nó con đường chính rồi đấy chứ,"
người bố nói, "nhưng nó lại dường như không có tài
năng nào để học. Nó bao giờ cũng bị bắt!"
Bây giờ, chính đạo là khác cho quan toà và cho
người bố. Bản thân người bố là kẻ cắp. Ông ta cũng
muốn đứa con học 'chính đạo' để cho nó không bao
giờ bị bắt lần nữa. Nhưng chính đạo của ông ta là
chính đạo của ông ta.
Với kì nghỉ, Mullevy quyết định đi tới Thuỵ Sĩ để
hoàn thành giấc mơ cả đời và trèo lên núi Matterhorn.
Anh ta thuê một người hướng dẫn, và ngay khi họ sắp
lên tới đỉnh thì họ bị tuyết lở dập xuống.
Ba giờ sau Thánh Bernard đào xới tới họ, một
chai rượu vang được buộc dưới cằm ông ta.
"Hoan hô!" người hướng dẫn kêu lên. "Người bạn
tốt nhất của con người tới rồi."
"A," Mullevy nói. "Và nhìn vào kích cỡ của thằng
cha đang mang nó!"
Bây giờ, với người này anh chàng đó là người bạn
vĩ đại nhất của nhân loại, với người kia đó là cái chai
mà người đó đang mang.
"A," Mullevy nói. "Và nhìn vào kích cỡ của thằng
cha đang mang nó!"
Điều đó tuỳ thuộc vào cách bạn nhìn mọi sự. Bạn
có thể nhìn vào cùng một thứ, và bạn có thể không
thấy cùng một thứ. Nếu bạn nghe tôi trong tin cậy,
bạn nghe kiểu khác. Nếu bạn nghe tôi mà không tin,
bạn nghe tôi kiểu khác. Nếu bạn nghe như một đệ tử,
bạn nghe kiểu khác. Nếu bạn nghe chỉ như người
ngoài, khách thăm - chỉ nhân tiện thôi, bạn đã tới
cùng người bạn - bạn nghe kiểu khác. Điều tôi đang
nói vẫn thế, nhưng cách bạn diễn giải nó sẽ tuỳ thuộc
vào bạn. Nghe đúng sẽ là ở chỗ bạn nghe như không
ai cả: không chống đối không ủng hộ, không có định
kiến - chỉ là việc nghe. Nếu bạn có thể thấy mọi sự
mà không có ý tưởng gì trong tâm trí, thế thì Phật nói
đó là chính kiến.
Chính kiến không cần quan niệm hoá. Đó là lí do
tại sao Phật lại nói: Đừng hỏi ta câu hỏi lí thuyết nào.
Ông ấy không nói gì về Thượng đế cả - không phải vì
Thượng đế không có. Ông ấy không nói gì về điều đó
bởi vì việc tạo ra lí thuyết là vô dụng. Ông ấy cố gắng
mở mắt bạn ra với điều đó. Ông ấy nói: Để biết chân
lí bạn cần đôi mắt - cũng như bạn không thể nào dạy
được người mù ánh sáng giống cái gì, dù bạn có cố
gắng tới đâu. Bạn không thể dạy người mù bất kì cái
gì về ánh sáng được. Tất nhiên, bạn có thể dạy bao
nhiêu tuỳ ý và người đó có thể học tất cả những thong tin bạn đã chuyển
giao cho người đó, nhưng dầu vậy
thì trong thực tế, người đó vẫn không có khả năng
quan niệm nổi ánh sáng là gì. Người đó không thể
quan niệm được.
Chuyện xảy ra:
Một người mù được đưa tới Phật. Ông ấy vừa đi
qua làng này, và mọi người trong làng đều mệt mỏi vì
người mù này bởi vì anh ta là người rất logic và rất
triết lí. Anh ta nhiều biện luận tới mức anh ta thường
hay chứng minh rằng ánh sáng không tồn tại. Anh ta
sẽ nói, "Ông cứ đem nó lại đây, tôi sẽ sờ vào nó"; hay
"Ông cứ đem nó tới đi để tôi có thể nếm nó"; hay
"Ông đem nó tới đi, ít nhất để tôi ngửi nó"; hay "Ông
đem nó tới đi và đánh nó như cái trống để cho tôi có
thể nghe thấy nó."
Tất nhiên, bạn không thể đánh ánh sáng như cái
trống được, và bạn không thể nếm được nó, và bạn
không thể ngửi được nó, và bạn không thể sờ được
nó.
Người mù này sẽ cười, cười đắc thắng, và anh ta
sẽ nói, "Các ông ngu lắm! Các ông đang cố gắng
chứng minh cái gì đó cho tôi mà nó lại không có. Tôi
có bốn giác quan. Chứng minh nó đi! Tôi sẵn sàng
đây, tôi cởi mở."
Họ không thể chứng minh được điều đó, cho nên
người mù này bắt đầu cho rằng họ chỉ đang cố gắng
lừa mình về ánh sáng này: "Toàn thể trò này chỉ là lừa
dối, giả dối. Thực tế, họ muốn chứng minh rằng mình
mù. Họ đang sỉ nhục mình. Mình đâu có mù, bởi vì
ánh sáng không tồn tại. Cho nên phỏng có ích gì? Nếu
ánh sáng mà không tồn tại, chẳng cần mắt đó làm gì.
Mắt chỉ là hư cấu."
Ông ta sẽ nói, "Các ông tất cả đều mù, nhưng các
ông đang mơ về cái gì đó không tồn tại."
Họ mang người đó tới Phật, và Phật nói, "Đừng
đem người đó tới ta. Ta biết một thầy thuốc - bởi vì
người đó không cần thuyết phục, người đó cần cái
nhìn về ánh sáng. Người đó cần mắt. Người đó cần trị
liệu, người đó không cần lí thuyết về nó. Nhưng ta
biết một thầy thuốc."
Phật có một thầy thuốc giỏi, rất có học. Thầy
thuốc này được một nhà vua phái tới cho ông ấy, để
chăm sóc thân thể Phật. Người mù này đã được đưa
tới thầy thuốc đó. Ông ta điều trị cho người này, và
trong vòng sáu tháng người này đã có thể nhìn được.
Vào lúc đó Phật đã đi sang thị trấn khác. Người
này chạy và nhảy múa; anh ta cực lạc. Anh quì xuống
dưới chân Phật và anh ta nói, "Thầy đã thuyết phục
được tôi."
Phật nói, "Đừng nói điều vô nghĩa. Ta đã chẳng
làm gì cả. Mắt ông đã thuyết phục ông, và không có
cách khác."
Phật thường nói: ta không phải là triết gia, ta là
thầy chữa. Ta muốn chữa trị mắt bên trong của các
ông, và bước đầu tiên là nhìn đúng - chính kiến.
'Chính kiến' thực sự nghĩa là: một tâm trí không có
quan điểm. Nếu bạn có quan điểm nào đó, đó là quan
điểm tà. Nếu bạn không có quan điểm nào, thế thì bạn
đơn giản cởi mở, sáng tỏ. Thế thì cửa sổ của bạn hoàn toàn mở, bạn không
có cản trở nào; bất kì cái gì sẵn
có bạn đều có khả năng thấy. Phật không bao giờ nói
điều gì về cái bạn sẽ thấy; ông ấy chỉ nói về cách chữa
trị chứng mù của bạn, cách thoát ra khỏi chứng mù
của bạn.
Con trai của Mulla Nasruddin, đang học khoa học
chính trị, hỏi bố nó, "Bố ơi, kẻ phản bội trong chính
trị là gì?"
"Bất kì người nào rời bỏ đảng của mình," Mulla
nói, "và đi sang phía bên kia, đều là kẻ phản bội."
"Rồi, thế nói gì về người rời bỏ đảng của họ để đi
theo đảng của bố?" cậu thanh niên hỏi.
"Người đó là người cải đạo con ạ," Nasruddin nói,
"một người cải đạo thực sự."
Bây giờ, khi ai đó chuyển từ đảng này sang đảng
khác thì người đó là kẻ phản bội, và khi ai đó gia nhập
đảng của bạn từ các đảng khác thì anh ta là người cải
đạo. Khi người Hindu trở thành người Ki tô giáo, với
người Hindu anh ta là kẻ phản bội, với người Ki tô
giáo anh ta là người cải đạo; và khi người Ki tô giáo
trở thành người Hindu, họ đón chào anh ta: hiểu biết
của anh ta trở lại, anh ta đã nhận ra chân lí là gì.
Nhưng với người Ki tô giáo, anh ta là kẻ phản bội.
Nếu bạn sống với các quan điểm bạn không thể
thấy được chân lí của bất kì cái gì. Quan điểm của bạn
bao giờ cũng tới như rào chắn. Nó cản trở, nó bóp
méo, nó không cho phép bạn thấy mọi vật như nó
đang đấy. Và Thượng đế là cái đang đấy. Để biết thực
tế bạn không cần có bất kì quan điểm nào. Thực tế,
nếu bạn thực sự muốn biết cái thực, bạn phải vứt bỏ
các quan điểm. Đó là từ bỏ đầu tiên Phật dạy: Vứt bỏ
mọi quan điểm, và chính kiến sẽ nảy sinh. Mọi quan
điểm đều là tà. Hindu giáo, Ki tô giáo, Phật giáo: mọi
quan điểm đều là quan điểm tà.
Người không có quan điểm, người không có ý
kiến, người không một ý nghĩ níu bám vào, người chỉ
là tấm gương, mới phản chiếu thực tại.
Người đàn bà nghe nhà truyền giáo nói qua các
lời răn, và sau mọi lời răn bà ta lại tham gia cùng các
thính giả khác mà kêu lên, "Amen!"
Khi ông ta nói tới lời răn: Các ngươi không được
phạm tội ngoại tình, bà ta nói, "Bây giờ ông ấy bắt
đầu xen vào đây."
Cái gì đó vẫn có vẻ tuyệt đối đúng chừng nào nó
vẫn còn khớp với bạn - cứ dường như bạn là tiêu
chuẩn của chân lí. Khoảnh khắc nó không khớp với
bạn thì nó sai. Đây là cách tiếp cận sai, và nếu bạn giữ
cách tiếp cận này, bạn sẽ không bao giờ đạt tới cái
thực. Nếu cái gì đó không khớp với bạn, thế thì đừng
vội vàng mà quyết định vấn đề - rằng nó phải sai bởi
vì nó không khớp với bạn. Nó không cần phải khớp
với bạn. Thượng đế không có nghĩa vụ gì phải khớp
với bạn. Thực tại không có nghĩa vụ gì phải khớp với
bạn. Nếu nó không khớp với bạn, thế thì con người của hiểu biết đúng sẽ
tự thay đổi mình chứ không phủ
nhận thực tại.
Cho nên bất kì khi nào điều đó gây tổn thương,
bất kì khi nào thực tại gây tổn thương, và bất kì khi
nào bạn cảm thấy rằng bạn không khớp, thì chính bạn
mới là người không khớp chứ không phải là thực tại.
Và người không có quan điểm nào sẽ không bao giờ
thấy rằng có xung đột gì giữa mình và thực tại. Người
đó bao giờ cũng sẽ khớp với thực tại và thực tại sẽ
khớp với người đó - cũng hệt như găng tay khớp với
bàn tay. Đây là chính kiến.
Bước thứ hai là: chính ý.
Chúng ta sống hướng theo kết quả, chúng ta sống
hướng theo mục đích, chúng ta sống với ý định, với
ham muốn: "Mọi sự phải như thế này, thế thì mình sẽ
hạnh phúc. Nếu chúng không giống thế này thế thì
mình sẽ bất hạnh." Đó là lí do tại sao họ thất vọng thế.
Phật nói: Thất vọng của ông tới từ ý định của ông. Ý
định của bạn dường như đi ngược lại thực tại; thế thì
bạn thất vọng.
Vứt bỏ ý định, vứt bỏ ham muốn đi, và chỉ đi từ
khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia với thực tại, dù
nó dẫn tới đâu. Trở thành mẩu gỗ trôi giạt; chỉ nổi với
dòng chảy và bạn sẽ không bao giờ bị thất vọng. Thất
vọng tới bất kì khi nào có xung đột giữa bạn và thực
tế. Và nhớ, thực tại sẽ thắng; bạn không thể thắng
đươc thực tại. Không ai có thể thắng được Thượng đế;
điều đó là không thể được, điều đó không xảy ra. Bạn
có thể thắng chỉ cùng với Ngài thôi. Bất kì khi nào
bạn thành công, nhớ lấy, một cách ngẫu nhiên bạn
phải đã cùng với Ngài rồi. Mọi thành công đơn giản
ngụ ý điều này: rằng một cách vô tình bạn phải đã
bước đi cùng Ngài, và đó là lí do tại sao bạn đã thành
công. Thất bại ngụ ý rằng một cách vô tình bạn phải
đã bước đi ngược với Ngài. Thất bại là chỉ dẫn, thành
công là chỉ dẫn.
Người đã học được điều này bỏ đi mọi ý định của
mình. Người đó không có ham muốn riêng tư. Người
đó nói đích xác điều Jesus đã nói trên cây thánh giá:
Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực
hiện. Người đó buông xuôi. Phật không có khái niệm
về Thượng đế. Cách tiếp cận của ông ấy còn khoa học
hơn cách tiếp cận của Jesus. Jesus mang tính thơ ca
hơn. Thượng đế là thơ ca, thơ ca hay. Phật không phải
là nhà thơ, ông ấy mang tính rất toán học. Ông ấy nói:
Không có nhu cầu nói về Thượng đế. Duy nhất một
điều có thể được hiểu: bạn vứt bỏ ý định. Khi bạn
không có ý định nào, bạn có chính ý. Và bạn phải nhớ
nghịch lí này trong tất cả tám bước.
'Chính ý' nghĩa là không có ý định nào về phần
bạn. Thế thì vũ trụ tuôn chảy qua bạn. Thế thì vũ trụ
cứ hoàn thành ý định của nó qua bạn. Bạn trở thành
phương tiện.
"Cầu xin ngài," con người nhỏ bé cầu nguyện,
"ngài biết con. Con bao giờ cũng cầu nguyện ngài và
vậy mà con lại chẳng được cái gì ngoài vận rủi, khổ,
ốm đau và thất vọng trong cả đời con. Và xin ngài
nhìn kẻ hàng thịt bên cạnh. Hắn ta chưa bao giờ cầu
nguyện trong đời, thế mà hắn chẳng có gì khác hơn phát đạt, mạnh khoẻ và
vui vẻ. Làm sao một người tin
tưởng như con lại cứ luôn trong rắc rối còn hắn ta thì
bao giờ cũng làm ngon lành thế?"
Bỗng nhiên một tiếng nói ầm ầm vang tới tai anh
ta, "Bởi vì anh hàng thịt không luôn làm ta khó chịu,
đó là lí do tại sao!"
Bây giờ, lời cầu nguyện của bạn có thể là 'điều
làm khó chịu'. Lời cầu nguyện của bạn là gì? - lời cầu
nguyện của bạn là ý định của bạn, là ham muốn mà
bạn muốn được đáp ứng. Lời cầu nguyện của bạn là
gì? - lời cầu nguyện của bạn bao giờ cũng đi ngược lại
Thượng đế. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn của nó: bạn
đang cầu nguyện Thượng đế, và lời cầu nguyện về cơ
bản đi ngược lại Thượng đế - bởi vì nếu nó không đi
ngược lại Thượng đế thế thì phỏng có ích gì mà cầu
nguyện. Bạn ốm: nếu bạn tin cậy vào Thượng đế điều
đó nghĩa là bạn biết rằng Thượng đế muốn bạn ốm.
Đây là cách bạn đang thế vào lúc này, đây chính là ý
chí của Thượng đế. Bạn chấp nhận nó. Thế thì lời cầu
nguyện của bạn là lòng biết ơn duy nhất. Bạn không
cầu xin điều gì cả, bạn đơn giản cảm ơn Ngài: "Cảm
ơn ngài vì đã làm cho con ốm. Cảm ơn ngài, bởi vì
con biết điều đó phải là cần thiết. Con có thể không
hiểu, nhưng con biết ngài cho con bất kì cái gì được
cần tới, bất kì khi nào điều đó được cần tới." Bạn
không đi tới đền chùa hay nhà thờ hay thánh đường
và hỏi xin giúp đỡ. Nếu bạn hỏi, bạn đang đi ngược
lại Thượng đế đấy. Điều đã xảy ra không thể xảy ra
ngược lại với ý chí của cái toàn thể được, dù nó là bất
kì cái gì. Nếu đó là đêm tối, thế thì bạn phải đang cần
tới đêm tối đấy.
Một nhà huyền môn Sufi hay nói trong lời cầu
nguyện hàng ngày của mình, "Xin cảm ơn ngài, Chúa
Trời - ngài bao giờ cũng cho con bất kì cái gì được
cần tới." Đệ tử của ông ấy rất bực mình bởi điều này,
bởi vì họ đã thấy ông ấy nhiều lần như thế khi nghèo
khó, đói khát, chẳng nơi nghỉ lại trong đêm. Và dầu
vậy, ông ấy vẫn cầu nguyện Thượng đế năm lần một
ngày, và ông ấy sẽ nói, "Cảm ơn ngài. Con biết ơn
làm sao - bất kì điều gì con cần ngài bao giờ cũng cho
con."
Một hôm điều đó thành quá thể. Trong ba ngày họ
đã đói; không ai cúng dường thức ăn cho họ. Trong ba
ngày họ đã ngủ dưới gốc cây, ngoài thị trấn. Và thị
trấn này rất đối kháng với họ và sẵn sàng giết chết họ.
Và buổi sáng ngày thứ tư nhà huyền môn này lại cầu
nguyện và ông ấy nói, "Cảm ơn ngài. Bất kì điều gì
con cần ngài bao giờ cũng cho con."
Một đệ tử không thể nào kìm được mình. Anh ta
nói, "Thôi mọi điều vô nghĩa này đi! Phải có giới hạn
cho mọi thứ chứ. Thầy đang cám ơn Thượng đế vì cái
gì nào? Trong ba ngày chúng ta đã bị đói, khát, không
chỗ trú ngụ. Đêm lạnh và chúng ta bị rét cứng người
còn thầy lại cảm ơn! Vì cái gì! Ngài đã cho thầy cái
gì!"
Nhà huyền môn cười và nói, "Trong ba ngày này
ta cần bị đói, cần ở mà không có chỗ trú ngụ nào. Đó
là một phần của sự trưởng thành của ta. Ba ngày này
đã làm cho ta cực kì tốt lành, chúng đã là ân huệ lớn lao. Đó là điều
được cần tới, và ngài bao giờ cũng cho
bất kì cái gì được cần tới."
Trong thực tế, bất kì cái gì Ngài cho đều là bất kì
cái gì được cần tới.
Nhưng khi bạn cầu nguyện, lời cầu nguyện của
bạn bao giờ cũng 'làm khó chịu'. Bạn phàn nàn, bạn
càu nhàu, cáu kỉnh. Bạn đang nói, "Chẳng cái gì đúng
cả, mọi thứ đều sai. Xin đưa nó vào chỗ đúng đi!
Bằng không thì con sẽ bắt đầu không tin ngài nữa;
bằng không thì con sẽ trở thành kẻ vô thần đấy. Nếu
ngài có, thì làm những điều này đi. Nếu ngài không
có, thế thì con kết thúc đây, con không định cầu
nguyện thêm nữa đâu."
Lời cầu nguyện của bạn có phải là một loại hối lộ
không đấy? Bạn thờ phụng Ngài chỉ để thuyết phục
Ngài hoàn thành các ham muốn của bạn sao? Phật
nói: Người tôn giáo thực không có quan điểm của
riêng mình - và đó là quan điểm đúng của người đó.
Người đó không sống cuộc sống riêng tư, người đó
không sống cuộc sống tách rời. Người đó đi cùng vũ
trụ, người đó là một với vũ trụ. Người đó không có
mục đích tách rời, không có định mệnh tách rời. Định
mệnh của cái toàn thể là định mệnh của người đó. Thế
thì người đó trở thành linh thiêng.
Người không có ý định tất nhiên sống từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc. Người đó không thể phóng
chiếu vào tương lai. Với bất kì cái gì được cần tới
trong khoảnh khắc này, người đó đều đáp ứng tương
ứng. Người đó mang tính tự phát và người đó mang
tính đáp ứng. Khi tôi dùng từ 'đáp ứng' tôi dùng nghĩa
nguyên thuỷ của nó. Người đó có khả năng đáp ứng;
người đó có thể đáp ứng, và người đó có thể đáp ứng
một cách toàn bộ, bởi vì người đó không có ý định
riêng của mình. Người đó có thể đơn giản nói,
"Vâng," và người đó có thể nói điều đó một cách toàn
bộ. Người đó sẽ không giữ lại điều gì cả. Cái có của
người đó sẽ không phải là cái có ngần ngại. Nó sẽ
giống như đoá hoa... nở ra, toả hương thơm của nó
cho sự tồn tại.
Con người của chính ý thì sống cuộc sống không
có căng thẳng nào. Nhìn vào từ 'ý định - intension'; nó
được tạo ra từ căng thẳng. Mọi ý định đều sẽ tạo ra
căng thẳng. Từ này được tạo nên từ hai từ, 'in', và
'tension'. Khi thực tại bên trong của bạn mà căng
thẳng, nó là trong căng thẳng. Khi thực tại bên trong
của bạn được thảnh thơi và không có căng thẳng - bạn
không định đi đâu cả, bạn không săn đuổi cái gì cả,
bạn không đi theo cái gì cả, bạn chỉ ở đây và bây giờ,
được thảnh thơi - trạng thái của không căng thẳng hay
không ý định đó chính là điều Phật gọi là chính ý. Bởi
vì thế thì bỗng nhiên vũ trụ bắt đầu tuôn chảy qua
bạn. Bạn trở thành giống như cây trúc hổng. Bạn trở
thành cây sáo.
Bước thứ ba là chính ngữ.
Phật nói: Chỉ nói cái đang đó. Đừng bao giờ đi
vào trong hư cấu. Chỉ nói cái đúng và thực. Chỉ nói
cái bạn đã kinh nghiệm. Đừng bao giờ nói về kinh
nghiệm của người khác. Nếu bạn còn chưa biết
Thượng đế, xin đừng nói gì về Thượng đế cả - bởi vì
bất kì điều gì bạn nói đều sẽ là sai lệch, sẽ là báng bổ,
sẽ là tội lỗi. Bởi vì bất kì điều gì bạn nói cũng đều sẽ sai. Nếu bạn đã
biết tới Thượng đế, chỉ thế nói; bằng
không thì đừng. Thế giới này sẽ đẹp hơn, ít lẫn lộn
hơn, nếu câu châm ngôn của Phật mà được nghe theo:
chính ngữ. Ông ấy nói: chỉ nói cái bạn đã kinh
nghiệm, cái được dựa vào kinh nghiệm của bạn, được
bắt rễ trong kinh nghiệm của bạn. Đừng bao giờ nói
cái gì khác.
Nghĩ về điều đó đi... biết bao nhiêu điều chúng ta
cứ nói mà chúng ta lại chưa bao giờ kinh nghiệm qua,
điều chúng ta chẳng biết gì về nó cả. Chúng ta đã
nghe nói, chúng ta có thể đã đọc, nhưng điều đó
không làm cho bạn có khả năng thốt ra được cái gì.
Nó tất cả đều được vay mượn, và cái được vay mượn
không bao giờ là chân lí cả. Chỉ nói cái đang đó.
Mang tính sự kiện, không hư cấu.
Phật đã không tạo ra huyền môn nào. Phát biểu
của ông ấy đều trần trụi không có thơ ca hay hư cấu gì
cả, không có trang trí. Ông ấy chưa bao giờ trang
điểm cho phát biểu của mình; chúng trần trụi, chúng
không có trang phục nào. Ông ấy nói: Nếu ông bắt
đầu chơi đùa với hư cấu, thì không có chấm dứt. Và
nhiều tôn giáo trên thế giới có đến chín mươi chín
phần trăm là hư cấu. Người Hindu nói: có một địa
ngục, một cõi trời. Người Jaina nói: có bẩy địa ngục
và bẩy cõi trời. Và có một thầy giáo, Gosal, vào thời
của Mahavira. Ai đó hỏi ông ấy, "Ông nói gì vậy? Vì
người Hindu tin vào chỉ một cõi trời, một địa ngục.
Và các đệ tử của Mahavira nói rằng họ đã không đi đủ
sâu, nhưng thầy của họ đã đi sâu hơn và ông ấy nói có
bẩy địa ngục và bẩy cõi trời."
Gosal cười. Ông ấy nói, "Không là gì nhé! Tôi
biết có bẩy trăm địa ngục và bẩy trăm cõi trời."
Bây giờ, bạn có thể cứ chơi tiếp; không có chấm
dứt cho nó, và không có nhu cầu để chứng minh nó.
Nhân danh tôn giáo hư cấu có thể tiếp tục. Đủ mọi thứ
ngu xuẩn có thể được nói nhân danh tôn giáo. Không
có cách nào đánh giá xem liệu chúng là đúng hay
không. Không có cách nào làm cho chúng hợp thức
hay không hợp thức; bạn không thể chứng minh được,
bạn không thể bác bỏ được. Đó là lí do tại sao đủ mọi
loại vô nghĩa vẫn tiếp diễn. Có ba trăm tôn giáo trên
trái đất và mọi tôn giáo đều có hư cấu riêng của nó.
Chúng tất cả đều hư cấu. Nếu chúng chỉ hư cấu thôi
thì đã không có vấn đề gì. Nếu điều đó được hiểu, nếu
bạn muốn tận hưởng hư cấu, thì bạn tận hưởng.
Bạn có biết rằng Krishnamurti đọc mãi tiểu thuyết
trinh thám không? Ông ấy chưa bao giờ đọc Gita, ông
ấy chưa bao giờ đọc Koran, ông ấy chưa bao giờ đọc
Kinh Thánh. Ông ấy cứ đọc tiểu thuyết trinh thám.
Chẳng ai đã hỏi ông ấy tại sao, và ông ấy chưa bao
giờ trả lời, nhưng tôi biết tại sao - bởi vì điều đó là
như nhau cả thôi. Dù bạn đọc tiểu thuyết trinh thám,
hay bạn đọc Kinh Thánh hay Koran, cũng chẳng tạo
ra khác biệt gì. Chúng là các tiểu thuyết trinh thám
tôn giáo, chúng là các tiểu thuyết trinh thám cám dỗ.
Bạn có thể ngạc nhiên rằng một người với phẩm chất
của Krishnamurti mà lại đọc tiểu thuyết trinh thám,
nhưng điều đó mang tính rất chỉ dẫn. Ông ấy đơn giản
nói rằng mọi thứ đều là hư cấu, và nếu bạn muốn đọc
tiểu thuyết trinh thám thế thì sao lại không đọc tiểu
thuyết trinh thám thế kỉ hai mươi? Sao lại phải đi ngược lại và đọc
những thứ cũ rích, nguyên thuỷ? Sao
không đọc thứ mới, mô đen mới nhất?
Phật nói: Chính ngữ nghĩa là: không mang tính hư
cấu, không mang tính bí truyền. Chỉ tuyệt đối chân
thành và đích thực. Đã có nhiều lần khi các câu hỏi
được hỏi với Phật và ông ấy sẽ vẫn còn im lặng, ông
ấy sẽ không trả lời. Ông ấy sẽ nói, "Điều này không
cần cho sự trưởng thành tâm linh của các ông. Điều
này là không cần thiết." Ai đó hỏi, "Ai đã tạo ra thế
giới này?" Và ông ấy sẽ nói, "Đừng hỏi - bởi vì nếu A
tạo ra hay B tạo ra hay C tạo ra, điều đó có tạo nên
khác biệt gì cho ông không? Hay nếu không ai đã tạo
ra nó và nó đã có đó mà chẳng có ai làm ra nó, tạo ra
nó, điều đó có tạo ra khác biệt gì không? Ông hỏi điều
gì đó thực, mang tính kinh nghiệm đi. Ông hỏi điều gì
đó có thể có ích nào đó cho ông. Đừng hỏi các câu hỏi
ngu xuẩn."
Bây giờ thấy đấy: ông ấy nói, "Những câu hỏi này
- ngu xuẩn!" bởi vì câu trả lời sẽ không giúp ích gì
cho bạn theo bất kì cách nào để trưởng thành. Và có
những người cứ tranh đấu về những điều này. Ai đó
nói Thượng đế đã tạo ra nó; ai đó nói trong sáu ngày;
ai đó nói ngài vẫn đang tạo ra, sự sáng tạo vẫn tiếp
tục, nó chưa bao giờ được kết thúc, dấu chấm hết vẫn
còn chưa tới - và họ cứ tranh đấu và cãi lộn. Dường
như họ muốn đánh nhau, cho nên bất kì cái cớ gì cũng
có tác dụng. Và đây lại là những cái cớ hay bởi vì
không có cách nào để chấm dứt chúng. Bạn có thể cứ
tiếp diễn mãi và mãi và mãi, đến vô hạn. Thế rồi có
những người hỏi, "Ai đã tạo ra Thượng đế?" Bây giờ
họ cũng đang hỏi câu hỏi thẳng vào vấn đề.
Những câu hỏi này là không liên quan, và Phật
nói: Chỉ nói điều ông biết thôi, và chỉ nói điều có ích,
và chỉ nói điều có ích lợi. Đừng phù phiếm, đừng hư
cấu. Chân thành trong việc thốt ra lời của ông.
Chuyện xảy ra:
Nhà lãnh đạo chính trị địa phương được mời tới
nói chuyện cho những người bị giam giữ trong bệnh
viện tâm thần. Vị chính khách bắt đầu bài nói của
mình và đã nói được quãng mười phút thì một anh
chàng ở đằng sau đứng dậy và kêu lên, "Ô, ông không
biết ông đang nói gì à! Thêm vào đó, ông lại nói quá
nhiều. Sao ông không im đi và ngồi xuống!"
"Tôi sẽ đợi một lúc cho tới khi nào các anh đuổi
người kia ra," viên chính khách nói với người giám
thị.
"Đuổi anh ta ra sao?" viên giám thị hỏi. "Chắc
chắn là không rồi! Anh chàng đáng thương đó đã ở
đây tám năm và đây là lần đầu tiên anh ta nói ra điều
gì đó có nghĩa đấy, thưa ông."
Bạn đã bao giờ nghe diễn văn của chính trị gia
chưa? Họ cứ nói và nói - và chẳng nói lên một điều gì
cả. Đó chính là ngoại giao là gì đấy: cứ nói về mọi sự
mà chẳng nói cái gì cả, bằng không thì bạn sẽ bị nhận
ra. Cho nên, cứ vòng vo tam quốc, mọi người cứ thế
mãi. Đến cuối bạn không thể có được kết luận gì;
không có kết luận. Họ đơn giản chơi với từ ngữ. Từ
ngữ có sức quyến rũ riêng của chúng, và nếu bạn quan sát bạn sẽ có khả
năng thấy. Đôi khi bạn nói một từ,
thế rồi từ đó dẫn tới từ khác - từ có sức quyến rũ riêng
của chúng - thế rồi bạn đi sang từ khác mà nó lại dẫn
bạn vào từ khác nữa, và chung cuộc bạn chấm dứt ở
đâu đó nơi bạn chưa bao giờ muốn tới. Từ có sức
quyến rũ riêng của chúng, có ma thuật riêng của
chúng. Cứ hỏi các tiểu thuyết gia, nhà thơ mà xem; họ
biết về điều đó đấy. Các tiểu thuyết gia bắt đầu một
câu chuyện, nhưng nó chẳng bao giờ chấm dứt theo
ông ấy. Dần dần, các nhân vật bắt đầu khẳng định cá
tính riêng của họ. Dần dần, từ đan dệt lại theo cách
nào đó và đi vào các hướng nào đó. Tất cả các tiểu
thuyết gia lớn đều biết về điều đó và nói. "Nó là thế
đấy - tức là chúng tôi bắt đầu cuốn tiểu thuyết nhưng
chúng tôi chẳng bao giờ chấm dứt được nó. Nó chấm
dứt theo cách riêng của nó."
Bạn cứ thử viết một câu chuyện mà xem. Đầu tiên
bạn lập kế hoạch trong đầu óc, bạn có bản kế hoạch
tổng thể trần trụi khi bạn mới bắt đầu. Khoảnh khắc
bạn bắt đầu, mọi sự bắt đầu xảy ra mà bạn chưa bao
giờ chủ định vậy. Thế rồi bạn bị dẫn đi ngày một lạc
lối hơn, và cuốn tiểu thuyết hay câu chuyện chấm dứt
ở đâu đó mà bạn thậm chí chưa bao giờ mơ tới. Điều
gì xảy ra? Từ ngữ có ma thuật của riêng nó. Từ này
dẫn tới từ khác, và người ta cứ đi mãi đi mãi.
Phật nói: Lưu tâm. Đừng bị đưa đi lạc lối bởi từ
ngữ. Nói điều ông thực sự muốn nói, đừng phù
phiếm.
Mới đêm hôm nọ bà Mulla Nasruddin tới tôi. Bà
ấy nói, "Thầy biết không? Tôi có thể đứng ở cửa và
chỉ bằng việc nhìn vào khuôn mặt chồng là tôi có thể
biết liệu ông ấy có đang nói dối hay không."
Tôi ngạc nhiên. Tôi nói, "Làm sao mà bà có thể
làm được điều đó?"
Bà ấy nói, "Nếu môi ông ấy mà chuyển động, ông
ấy nói dối đấy."
Mulla Nasruddin là một chính khách. Nếu môi
ông ấy chuyển động... thế là đủ! Thế thì ông ấy phải
đang nói dối rồi. Ông ấy còn có thể làm cái gì khác
được?
Nhớ một điều: bạn phải cẩn thận về điều bạn nhận
vào, và bạn phải cẩn thận về điều bạn đem ra. Chỉ thế
thì bạn mới có thể có cuộc sống được định tâm. Mọi
người đều bất cẩn: họ cứ tọng vào mình bất kì cái gì
họ tìm thấy. Bất kì cái gì! Họ cứ tọng vào - trong thân
thể, và trong tâm trí nữa. Cẩn thận vào.
Nếu hàng xóm của bạn tới và bắt đầu buôn
chuyện, bạn nghe rất chăm chú. Nếu hàng xóm ném
rác rưởi nào đó sang vườn của bạn, bạn sẽ bắt đầu
đánh nhau, nhưng nếu người đó ném rác rưởi nào đó
vào đầu bạn, bạn hoan nghênh nhiệt liệt. Bạn không
thấy điều đó: một khi ai đó đã được phép vứt rác rưởi
vào đầu bạn, bạn sẽ làm gì với nó? Chẳng chóng thì
chầy nó sẽ đi qua mồm bạn và đi vào đầu ai đó khác.
Bạn không thể giữ nó ở bên trong được. Đó là lí do tại
sao mọi người lại gặp khó khăn thế trong giữ bí mật.
Bảo ai đó đừng nói cho bất kì ai khác bất kì điều gì,
và bạn có thể chắc chắn người đó sẽ nói. Bảo vợ bạn,
"Điều này rất bí mật... em đừng nói cho ai nhé," và bạn có thể chắc chắn
rằng trong vòng hai mươi bốn
giờ cả thị trấn sẽ biết. Tất nhiên cô ấy cũng sẽ nói
cùng điều đó khi cô ấy kể câu chuyện này cho người
phục vụ: "Đừng nói điều này cho bất kì ai, nó là rất bí
mật." Và anh ta sẽ nói cùng điều đó cho vợ mình, và
chuyện đó cứ tiếp diễn mãi. Trong vòng hai mươi bốn
giờ bạn sẽ thấy cả thị trấn đều biết về nó. Không có
cách nào tốt hơn để lan truyền một điều: cứ bảo mọi
người, "Chớ nói điều đó cho ai cả." Chắc chắn đấy -
họ sẽ phải nói điều đó. Bởi vì bất kì khi nào có bí mật
thì đều khó giữ được nó bên trong. Nó muốn đi ra
ngoài.
Đừng cứ nhận bất kì điều gì vào, và đừng cứ ném
bất kì cái gì lên mọi người. Nếu bạn quá đầy những
rác rưởi, đi ra bờ sông, đi vào rừng, và nói với cây
cối. Chẳng hại gì cả, bởi vì chúng không nghe. Bạn có
thể nói, bạn có thể làm mình nhẹ gánh, bạn có thể
nghỉ ngơi thư dãn rồi quay về. Nhưng đừng làm điều
đó cho con người - họ cũng đã quá nặng gánh rồi.
Phật nói: Chính ngữ nghĩa là lời nói rất chân
thành.
Kinh Thánh nói: Lúc ban đầu là lời... và thế rồi
mọi thứ đi vào. Phật nói: Nếu ông vứt bỏ lời, sẽ có
thực tại, cái bắt đầu. Nếu ông trở nên im lặng, thế thì
bất kì điều gì ông nói đều sẽ có ý nghĩa.
Bạn đã quan sát điều đó chưa? Nếu bạn nhịn ăn
một ngày, ngày hôm sau cơn đói của bạn có niềm đam
mê khác cho nó. Nếu bạn nhịn ăn thế thì bạn có cơn
đói tươi tắn nảy sinh trong mình. Nếu bạn cứ tọng vào
mình hàng ngày, liên tục, và không bao giờ nhịn ăn,
bạn hoàn toàn quên mất ngôn ngữ của đói, cái tươi
mới, cái đẹp, cái sống động của cơn đói. Nhịn ăn một
ngày và ngày hôm sau bạn sẽ có cơn đói tươi mới nảy
sinh, và ngày hôm sau bạn sẽ có khẩu vị khác. Thức
ăn có thể vẫn thế thôi, nhưng nó sẽ trở nên có hương
vị - bởi vì chính cơn đói làm cho nó thành có hương
vị.
Và cùng điều đó xảy ra với từ ngữ. Giữ im lặng,
và thế rồi nói điều gì đó, và bạn sẽ thấy: điều gì đó ấy
có sức mạnh trong nó. Im lặng giống như nhịn ăn: nó
đem cuộc sống vào trong lời của bạn. Và trong thế
giới này chỉ những người đã giữ cho mình ở trong im
lặng sâu sắc, mới có tầm quan trọng mênh mông, và
lời của họ mang giá trị kéo dài vĩnh hằng.
Phật đã im lặng trong nhiều tháng, Mahavira đã
im lặng trong mười hai năm. Bất kì khi nào Jesus cảm
thấy rằng ông ấy mệt mỏi, ông ấy đều đi vào rừng và
ông ấy sẽ nói với các đệ tử của mình, "Bỏ ta đấy. Để
ta một mình." Ông ấy sẽ trong im lặng trong bốn
mươi ngày, và thế rồi ông ấy sẽ quay lại. Và thế thì
lời của ông ấy có giá trị với họ: từng lời đều giống
như kim cương.
Nếu bạn thực sự muốn rằng lời của mình phải có
giá trị, thế thì học im lặng. Giữ im lặng ngày một
nhiều; thế thì một ngày nào đó bạn sẽ biết chính ngữ
là gì.
Bước thứ tư là: chính hạnh.
Phật nói: đức hạnh tới từ bên ngoài không phải là
chính hạnh. Đức hạnh tới từ bên trong mới là chính
hạnh.
Mọi điều chúng ta nghĩ là đức hạnh thì không
thực sự là đức hạnh đâu. Đó chỉ là điều được xã hội
huấn luyện thôi. Bạn đã được dạy phải cư xử theo
cách nào đó và bạn cư xử theo cách nào đó - nhưng
hành vi đó là hành vi của kẻ nô lệ. Nó không phải là
hành vi của người tự do, nó không bắt nguồn từ tự do.
Và làm sao đức hạnh lại có thể bắt nguồn từ việc nô lệ
được?
Phật nói: Đức hạnh là có thể chỉ khi ông tự do
toàn bộ, không ước định nào. Không phải là bạn phải
làm điều gì đó, không phải là đó là nghĩa vụ của bạn,
không phải là bạn phải tuân theo qui tắc nào đó;
nhưng mà bạn đã trở nên có ý thức, bạn đã trở nên
nhận biết. Và từ nhận biết đó bạn cư xử theo cách nào
đó. Nhận biết là chính hạnh; vô nhận biết là tà hạnh.
Bạn có thể chân thực. Bạn có thể không phải là
tên trộm, và bạn có thể không phải là người ngu bâu
quanh vợ người khác, và bạn có thể không phải là kẻ
lừa dối, nhưng nếu đấy chỉ là vì xã hội đã áp đặt
những điều này lên bạn, thì bạn vẫn không phải là đức
hạnh. Bạn có thể là công dân tốt nhưng đức hạnh lại
là điều lớn lao hơn: nó không rẻ thế. Bạn có thể là tốt
với xã hội; xã hội không muốn cái gì nhiều hơn thế.
Nếu bạn không tạo ra rắc rối nào - thế là đủ; nếu bạn
không tạo ra mối nguy hại nào - thế là đủ - bạn là
công dân tốt. Nhưng là đức hạnh còn ngụ ý cái gì đó
nhiều hơn là công dân tốt. Nó ngụ ý... người tốt; nó
chẳng liên quan gì tới xã hội cả. Nó có cái gì đó liên
quan tới tính toàn vẹn bên trong của bạn.
Phật nói: Trở nên có ý thức hơn. Sống qua ý thức
hơn là sống qua lương tâm.
Lương tâm được xã hội tạo ra. Nếu bạn được sinh
ra trong gia đình người Jaina thì bạn sẽ không ăn thịt,
nhưng điều đó không có nghĩa là bạn không bạo hành.
Làm sao bạn có thể không bạo hành chỉ bởi việc
không ăn thịt? - bởi vì từ chính thời thơ ấu của mình
bạn đã được dạy không ăn thịt và ăn thịt đã trở thành
buồn nôn. Người Jaina thậm chí không thể nhìn vào
miếng thịt được: ngay cả nhìn miếng thịt người đó
cũng bắt đầu cảm thấy buồn nôn, người đó bắt đầu
cảm thấy nôn nao.
Khi tôi còn là đứa trẻ, trong gia đình tôi ngay cả
cà chua cũng không được phép. Tôi đã hỏi mẹ tôi,
"Sao cà chua lại không được phép?" Bà ấy nói,
"Chúng trông giống thịt. Người ta cảm thấy nôn nao
nếu người ta nhìn vào cà chua.'
Cà chua, cà chua đáng thương... bạn không thể
tìm được người hồn nhiên hơn cà chua đâu!
Nhưng tôi đã không nếm cà chua trong một thời
gian dài hồi thơ ấu. Khi tôi tới kí túc xá, chỉ thế thì tôi
mới thu được dũng cảm để ăn cà chua. Và ngày đầu
tiên, khi tôi ăn chúng, tôi đã không thể nào ngủ nổi cả
đêm. Dạ dầy tôi sôi òng ọc, và tôi sợ là tôi đã phạm
phải tội lỗi lớn. Đến sáng tôi nôn ra - chỉ là ước định.
Tiếng Pháp chỉ có một từ cho cả ý thức và lương
tâm. Điều đó là đúng; Phật sẽ đồng ý với điều đó. Nó
chỉ có một từ cho cả lương tâm và ý thức. Phật cũng
nói: ý thức của bạn nên là lương tâm bạn. Bạn nên
nhận biết hơn. Bạn nên bắt đầu thấy nhiều điều như
chúng đấy, và thế rồi phi bạo hành sẽ nảy sinh. Điều
ngu xuẩn là đi giết con vật chỉ vì thức ăn của bạn.
Điều đó không phải là tội lỗi, nó là ngu xuẩn. Nó chẳng liên quan gì tới
tội lỗi cả. Bạn sẽ không bị ném
vào ngọn lửa địa ngục đâu.
Tôi đã nghe...
Một người giầu chết đi, một kẻ keo kiệt - ông ta
phải đã là một marwari. Họ là những người Do Thái
Ấn Độ. Ông ta chết. Ông ta bảo vợ mình, "Không cần
mặc quần áo gì cho tôi, bởi vì tôi biết nơi tôi sẽ đi.
Tôi sẽ đi tới chỗ nóng nực đấy. Tôi đã phạm phải bao
nhiêu là tội lỗi, cho nên tôi sẽ xuống địa ngục. Không
có nhu cầu quần áo, và quần áo thì đắt đỏ, mà giá cả
đang lên mỗi ngày một cao hơn. Bà giữ lấy chúng.
Chúng sẽ có ích cho con cái chúng ta." Thế là bà vợ
đem thiêu ông ấy mà không có quần áo.
Nhưng đêm hôm sau, vào giữa đêm ai đó gõ cửa.
Thế là bà ấy ra mở cửa. Con ma chồng bà ấy đứng đó,
và ông ta nói, "Đưa cho tôi bộ quần áo len!"
"Có chuyện gì với ông thế?"
Ông ta nói, "Bây giờ những ngày xưa đó qua rồi.
Họ có địa ngục với điều hoà nhiệt độ. Tôi rét run
người!"
Quên mọi thứ vô nghĩa đi - rằng trong địa ngục
bạn sẽ khổ sở. Biết bao nhiêu chính khách có đó, biết
bao nhiêu nhà khoa học có đó. Tự nhiên là họ sẽ sẽ
phải làm điều hoà không khí cho nó bây giờ.
Phật nói: Không phải bởi vì sợ hãi mà các ông
phải đức hạnh, mà bởi vì hiểu biết; và không phải bởi
vì tham lam mà các ông phải đức hạnh - bởi vì tôn
giáo bình thường của bạn dựa trên sợ hãi và tham lam,
chỉ toàn mẹo vặt về thưởng phạt. Cũng như bạn vẫn
làm với con cái mình, các tôn giáo đã làm với bạn:
nếu bạn làm điều này thì bạn sẽ lên trời, nếu bạn làm
điều này bạn sẽ xuống địa ngục - sợ hãi và tham lam.
Họ đang chơi đùa trên sợ và tham của con người, và
họ nói rằng người ta không nên sợ hãi, và người ta
không nên tham lam, và toàn thể cấu trúc của họ lại
dựa trên cùng sợ hãi và tham lam.
Phật nói: Không sợ và không tham. Nhìn vào mọi
sự, và từ nhận biết riêng của bạn tính đáp ứng nảy
sinh. Bạn bắt đầu cư xử một cách duyên dáng. Bạn
không làm những điều ngu xuẩn, có thế thôi.
Nếu bạn làm mọi sự từ sợ hãi, bạn sẽ không bao
giờ có khả năng đức hạnh toàn bộ - bởi vì sâu bên
dưới, bên ngoài sợ, bạn sẽ biết... Và ham muốn làm
điều đối lập, là cái đối lập, sẽ vẫn còn đó.
Chuyện xảy ra:
Trong một cuộc họp tôn giáo một quả phụ trẻ hấp
dẫn nghiêng người quá xa ngoài ban công và bị ngã.
Nhưng bộ quần áo của cô ấy lại mắc vào ngọn đèn
treo và giữ cô ấy lơ lửng trong không trung. Người
thuyết giáo, tất nhiên, lập tức để ý tới tình huống khó
khăn của người đàn bà này và kêu gọi toàn thể giáo
đoàn, "Người đầu tiên nhìn lên đó bị nguy cơ trừng
phạt mù mắt."
Mulla Nasruddin, đang ở trong giáo đoàn, thì
thầm vào tai người đứng bên cạnh mình, "Tôi nghĩ tôi
sẽ liều với một mắt."
Đức hạnh bị áp đặt không thể mang tính toàn bộ;
người ta bao giờ cũng sẵn lòng liều với một mắt, ít
nhất. Ai mà biết được? Điều đó có thể đúng, điều đó
có thể không đúng...
Và cái gọi là người đạo đức bao giờ cũng sẽ cần
ngày nghỉ, bởi vì điều đó sẽ làm mệt mỏi. Nó dựa trên
xung đột: một phần của con người bạn nói điều gì đó
và đức hạnh nói điều gì đó khác. Bạn bị phân chia,
bạn bị chia chẻ. Bởi vì chia chẻ này mà toàn thể nhân
loại có chút ít tinh thần phân liệt - một phần đi
phương nam, một phần đi phương bắc. Và bạn bao
giờ cũng trong mơ hồ, và bạn bao giờ cũng lưỡng lự,
vẩn vơ - đi đâu? làm gì? Bản năng của bạn nói điều gì
đó và ước định của bạn nói chính điều đối lập. Bạn có
thể ép buộc bất kì cái gì lên bản thân mình, nhưng
thực tế, nó sẽ không bao giờ là một phần của bạn.
Người bản ngã có thể được xã hội gọi là khiêm
tốn, và người đó có thể cố gắng trở thành khiêm tốn.
Nhưng người bản ngã là người bản ngã: bây giờ
khiêm tốn sẽ che giấu bản ngã.
Tôi đã nghe...
Một giáo sĩ phát biểu với giáo đoàn của mình. Họ
rất xúc động bởi buổi lễ và một người đứng dậy và
nói, "Tôi là Joe Smith. Tôi tới mảnh đất này không
một xu. Bây giờ tôi đáng giá năm triệu, nhưng khi tôi
nghe lời của ông, tôi chẳng là gì cả."
Một người khác đứng dậy và nói, "Tôi đã bắt đầu
không có xu nào, thế nữa. Bây giờ tôi đáng giá mười
triệu, nhưng khi tôi nghe lời của ông, thưa giáo sĩ, tôi
không là gì cả, tuyệt đối không gì cả."
Thế rồi người khác đứng dậy và nói, "Tôi làm
việc cho cơ quan bưu điện. Tôi làm tám mươi đô la
một tuần, nhưng khi tôi nghe lời của ông tôi chẳng là
gì cả, hoàn toàn không là gì cả." Và nhà triệu phú thứ
nhất nói với người thứ hai, "Nhìn xem ai muốn là
không gì cả."
Chỉ là nhân viên bưu điện thôi, mà cố gắng trở
thành không gì cả sao? Thế thì không gì cả cần rằng
trước hết bạn phải trở thành triệu phú. Đó là lí do tại
sao ở Ấn Độ, một nước tôn giáo thế, mà thậm chí
không thời đại nào lại không có một người đơn giản
đã từng tuyên bố là thiên thần giáng thế, một
tirthankara. Không, chưa đâu; điều đó chưa xảy ra đâu
- bởi vì nếu bạn mà nghèo, bạn sẽ từ bỏ cái gì? Tất cả
hai mươi bốn tirthankaras của người Jaina đều bắt
nguồn từ gia đình hoàng gia, con vua. Bản thân Phật
cũng bắt nguồn từ một gia đình hoàng gia; Rama,
Krishna - mọi người đều bắt nguồn từ gia đình hoàng
gia.
Tại sao? Tại sao Kabir lại không thế? Tại sao
Farid lại không thế? Tại sao Dadu lại không thế?
Chẳng cái gì thiếu cả. Chỉ một điều đang bị bỏ lỡ: họ
không có gì để từ bỏ cả. Nhìn xem ai đang cố gắng là
không gì cả! Trước hết bạn phải có đã; để từ bỏ bạn
phải có nhiều, bạn cần nhiều; bạn phải có đã. Người
đơn giản không thực sự là người khiêm tốn, duy nhất người bản ngã mới là
người khiêm tốn. Và thế thì
người đó cố gắng, qua khiêm tốn của mình, để nói
rằng mình là người khiêm tốn nhất trên thế giới.
Nhưng cùng điều đó trong cách ăn mặc khác vẫn tiếp
tục. Đức hạnh của bạn chưa bao giờ làm biến đổi bạn.
Cho nên Phật nói: Chính hạnh là từ bên trong, từ
nhận biết - không từ sợ hãi, không từ tham lam.
Bước thứ năm là: chính nghề nghiệp.
Phật nói: Cuộc sống nên đơn giản, không phức
tạp. Cuộc sống nên dựa trên nhu cầu, không dựa trên
ham muốn. Nhu cầu là hoàn toàn được: bạn cần thức
ăn, bạn cần quần áo, bạn cần chỗ trú ngụ, bạn cần tình
yêu, bạn cần quan hệ. Hoàn toàn tốt, chẳng có gì sai
trong nó cả. Nhu cầu có thể được đáp ứng; ham muốn
về cơ bản là không thể đáp ứng được. Ham muốn tạo
ra phức cảm. Chúng tạo ra phức cảm bởi vì chúng
không bao giờ có thể được hoàn thành. Bạn cứ làm
việc vất vả vì chúng, và chúng vẫn còn không được
hoàn thành, và bạn vẫn còn trống rỗng.
Điều thứ nhất về nghề nghiệp là: nó nên dựa trên
nhu cầu, không dựa trên ham muốn. Thế thì một
lượng rất nhỏ các thứ cũng là đủ.
Thứ hai là: nó không nên mang tính bạo hành.
Bạn không nên làm cái gì đó chỉ bởi vì bạn có thể
kiếm được tiền nào đó từ nó. Bạn có thể giết ai đó và
kiếm tiền nào đó, bạn có thể là đồ tể và bạn có thể lấy
đó làm nghề nghiệp của mình, nhưng điều đó là vô
nhân đạo... và rất vô ý thức. Những cách tốt hơn là có
thể. Người ta nên mang tính sáng tạo trong nghề
nghiệp của mình, người ta không nên mang tính phá
huỷ.
Một doanh nhân thảo luận với người đồng bào.
"Anh ta thường làm việc cho tôi," người thứ nhất
nói. "Tôi sẽ không tin cậy anh ta với tiền của tôi. Anh
ta sẽ nói dối, ăn cắp, lừa bịp; bất kì cái gì vì một đồng
đô la."
"Làm sao ông biết anh ta rõ thế?"
"Làm sao á?" người thứ nhất nói. "Tôi đã dạy cho
anh ta mọi thứ mà anh ta biết."
Người ta nên tỉnh táo hơn chút ít. Tiền không phải
là tất cả, và người ta không nên phá huỷ cuộc sống
riêng của mình chỉ vào việc tích luỹ tiền bạc. Nghèo
có thể cực kì hay. Nếu bạn chỉ sống theo nhu cầu của
mình, nghèo có thể là mãn nguyện vô cùng. Thực tế,
bạn sẽ không bao giờ tìm ra người giầu được mãn
nguyện đâu. Đôi khi bạn có thể bắt gặp người ăn xin
với khuôn mặt mãn nguyện, nhưng chẳng bao giờ bắt
gặp nhà triệu phú như vậy.
Bạn càng săn đuổi, bạn càng cảm thấy đường
chân trời ở xa xăm. Bạn càng chạy nhanh, bạn càng
tới gần cái chết của mình hơn, nhưng chẳng bao giờ
tới sự hoàn thành nào cả. Cái bóng của cái chết, nỗi
sợ cái chết, nỗi sợ rằng bạn lại sắp bỏ lỡ, phá huỷ đi
mọi sự mãn nguyện.
Bước thứ sáu là: chính tinh tiến.
Phật nói: Đừng bao giờ căng thẳng và đừng bao
giờ lười biếng. Người ta phải cân bằng giữa hai điều
này. Thế thì có chính tinh tiến; nỗ lực về cơ bản là vô
nỗ lực.
Bạn có thấy trẻ con chơi đùa không? Chúng chơi,
nhưng không có nỗ lực, không có căng thẳng. Chúng
tận hưởng nó. Bạn có thấy hoạ sĩ vẽ, nhà thơ làm thơ,
nhạc sĩ chơi nhạc cụ không? hay vũ công? Không có
nỗ lực. Nếu có nỗ lực thế thì vũ công không phải là vũ
công thực. Thế thì vũ công chỉ đang cố gắng kiếm cái
gì đó từ nó. Thế thì người đó đang hướng kết quả,
hướng đích. Thế thì bản thân hoạt động, bản thân điệu
vũ, không phải là vui vẻ của người đó.
Khi Phật nói 'chính tinh tiến' điều đó ngụ ý: mọi
thứ mà bạn làm nên là vui vẻ lên chính nó. Nó nên
mang giá trị bản chất. Nó nên mang tính chơi đùa.
Và chính tâm là bước thứ bẩy.
'Lưu tâm' là từ của phật dành cho thiền. Với lưu
tâm ông ấy ngụ ý: bạn bao giờ cũng nên vẫn còn tỉnh
táo, quan sát. Bạn bao giờ cũng nên vẫn còn trong
hiện tại. Không một điều nào nên được thực hiện
trong một loại trạng thái ngủ của tâm trí. Bạn không
nên di chuyển như người mộng du, bạn nên di chuyển
với ý thức sắc bén.
Phật hay nói: Thậm chí tới hơi thở của mình cũng
không nên được phép đi vào và đi ra mà không có ý
thức của ông. Ông ấy nói với các sư: Bao giờ cũng đi
vừa quan sát hơi thở đi vào, hơi thở đi ra. Nếu ông di
chuyển, quan sát việc chuyển động chân. Nếu ông
nói, mang tính quan sát. Nếu ông đang nghe, mang
tính quan sát. Nếu ông đang ăn, mang tính quan sát.
Đừng bao giờ cho phép bất kì hành động nào được
thực hiện mà không có nhận biết, và thế thì không cái
gì khác được cần tới cả. Nhận biết này sẽ lan toả khắp
cuộc sống của ông; nó sẽ là một thứ suốt hai mươi
bốn tiếng. Không có nhu cầu dành giờ riêng biệt cho
thiền. Và Phật nói việc thiền đó không thể tách rời
khỏi cuộc sống; nó phải lan toả và trộn lẫn với cuộc
sống, nó phải là một với cuộc sống.
Và bước thứ tám, bước cuối cùng là: chính định -
khi bạn đã được hấp thu toàn bộ vào trung tâm của sự
tồn tại...
Bẩy bước này sẽ đem bạn tới nó, nhưng dầu vậy
ông ấy nói: chính định. Điều đó nghĩa là có một khả
năng của tà định nữa chăng? Vâng, có một khả năng
đấy.
Nếu bạn rơi vào trong vô thức, nếu bạn rơi vào
trong cơn mê, đó là tà định; nó không phải là chính.
Định là phải đem bạn tới nhận biết toàn thể, tới nhận
biết hoàn hảo. Bạn phải không rơi vào cơn mê, bạn
phải không trở thành vô ý thức.
Người ta có thể trở nên vô ý thức. Người ta có thể
đi vào bên trong sâu tới mức người ta có thể quên mất
cái bên ngoài. Bây giờ nhìn xem - chúng ta thông
thường sống ở bên ngoài, chúng ta đã quên mất cái
bên trong. Bên trong chúng ta là vô ý thức; bên ngoài
có chút ít ý thức. Chúng ta chuyển ra ngoài, đi ra
ngoài. Thế rồi một ngày nào đó bạn lộn ngược lại, bạn thay đổi toàn bộ
quá trình: bạn bắt đầu quên cái bên
ngoài và bạn bắt đầu trở nên nhận biết bên trong. Một
khoảnh khắc tới khi bạn ở bên trong toàn bộ và bạn đã
quên mất cái bên ngoài. Phật nói rằng đây là tà định.
Vẫn cùng con người đó chỉ đứng theo tư thế lộn
ngược.
Phật nói: Chính định là khi, cả trong và ngoài,
ông đều nhận biết toàn bộ; không phải với cái giá của
bên ngoài. Trong hay ngoài, bạn đều nhận biết. Ánh
sáng tâm thức của bạn đang bùng cháy rực rỡ thế, nó
rót đầy bạn bằng ánh sáng, nó rót đầy bên ngoài bạn
cũng bằng ánh sáng. Thực tế, trong chính định thì cái
bên trong và cái bên ngoài biến mất; chỉ có ánh sáng.
Chính định không phải là bên trong. Chính định là
siêu việt lên trên cả bên trong và bên ngoài. Chính
định là siêu việt lên nhị nguyên, lên sự phân chia.
Bây giờ đến lời kinh. Lời kinh này đơn giản nói
cách một sannyasin nên là vậy.
Phật nói:
Những người theo đạo giống như các chiến binh
tranh đấu đơn độc với vô số kẻ thù. Họ tất cả có
thể ra ngoài công sự với áo giáp đầy đủ; nhưng
trong số họ có một số người nhát gan, một số
người nửa vời và trốn chạy rút lui, và một số bị
giết trong cuộc ẩu đả và một số về nhà thắng lợi.
Này các sư, nếu các ông muốn đạt tới chứng ngộ,
các ông phải bước đi vững chắc theo cách của
mình, với tấm lòng cương quyết, với lòng dũng
cảm, và phải bạo dạn trong bất kì môi trường nào
có thể xảy tới cho các ông, và phá huỷ mọi ảnh
hưởng tai ác mà các ông có thể bắt gặp; với điều
như vậy các công sẽ đạt tới đích.
Tám bước này là công việc.
Và Phật nói: Có nhiều kiểu người: vài người là kẻ
hèn nhát chưa bao giờ đi theo Đạo; vài người đi với
giáp trụ đầy đủ nhưng quay lại khi họ bắt đầu cảm
thấy khó khăn nảy sinh; vài người đi nửa chừng con
đường một cách nửa vời, rồi quay lại; vài người đi xa
thêm chút ít nhưng lại bị giết. Bởi vì họ không bao
giờ có thể huy động được năng lượng của mình, họ
không bao giờ có thể trở nên được hoà nhập, họ có
thể dễ dàng bị phá huỷ. Họ đã không đủ sẵn sàng để
đi vào trận chiến - có thể ở bên ngoài họ có giáp trụ
đầy đủ, có thể ở bên ngoài trông thì rất mạnh, nhưng
bên trong lại hổng hoác, trống rỗng. Chỉ có rất ít
người mới đi vào trận chiến, thắng trận chiến, và quay
về nhà.
Việc quay về nhà đó là chính định, và bẩy bước
này trước samadhi là trận chiến, là Đạo. Đi chậm thôi,
bằng không bạn có thể bị giết chết.
Chẳng hạn: nếu một người mang đức hạnh giả mà
đi vào trận chiến thì người đó sẽ bị giết. Bạn phải
mang đức hạnh đích thực. 'Đức hạnh đích thực' nghĩa
là bạn phải có đức hạnh từ bên trong. Những khuôn
mặt giả kia được học từ bên ngoài sẽ không ích gì cả.
Bạn sẽ vẫn còn hổng hoác bên trong. Và bạn phải đi
từng bước một. Bạn không thể nhảy qua các bước, bằng không thì những lỗ
hổng kia sẽ trở thành nguy
hiểm.
Đó là lí do tại sao tôi nói về tám bước này, con
đường tám làn này. Lời kinh này có nghĩa chỉ nếu bạn
hiểu tám bước này. 'Về nhà' nghĩa là samadhi - định.
Điều đó ngụ ý bạn đã đi tới chính trung tâm của sự
tồn tại. Để tôi đọc lại nó lần nữa.
Những người theo đạo giống như các chiến binh
tranh đấu đơn độc với vô số kẻ thù.
Kẻ thù có nhiều, và bạn lại một mình. Cho nên
bạn phải hoàn toàn sẵn sàng, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ
mục đích này.
Họ tất cả có thể ra ngoài công sự với áo giáp đầy
đủ; nhưng trong số họ có một số người nhát gan...
Nếu bạn còn chưa sống chính kiến, chính ý, chính
ngữ, thì bạn sẽ vẫn còn nhát gan. Bạn sẽ vẫn còn rất
yếu đuối, yếu ớt. Bạn sẽ vẫn còn bất lực.
... và một số người nửa vời và trốn chạy rút lui...
Nếu bạn không thực hành chính hạnh và chính
nghề nghiệp, điều này sẽ xảy ra: bạn sẽ đi nửa đường
thôi. Bạn sẽ là người chạy trốn, người trốn thoát.
...và một số bị giết trong cuộc ẩu đả...
Một số đi toàn tâm nhưng bị giết. Nếu bạn không
thực hành chính tinh tiến và chính tâm, điều này sẽ
xảy ra. Nhưng chỉ có vài người...
...một số về nhà thắng lợi.
Nếu bạn đã thực hành tất cả bẩy bước này bạn sẽ
về nhà thắng lợi, bạn sẽ đạt tới samadhi.
... các ông phải bước đi vững chắc theo cách của
mình, với tấm lòng cương quyết, với lòng dũng
cảm, và phải bạo dạn trong bất kì môi trường nào
có thể xảy tới cho các ông, và phá huỷ mọi ảnh
hưởng tai ác mà các ông có thể bắt gặp; với điều
như vậy các công sẽ đạt tới đích.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến