13-5-2025 MẶT TRỜI TÂM THỨC: Trong khi tôi đang ở đây, tận hưởng tôi

Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Trong khi tôi đang ở đây, tận hưởng tôi

Câu hỏi thứ nhất:
Chính ước ao của các thần là thấy rằng biết
bao nhiêu đàn ông và đàn bà, hầu hết đều trẻ
trung và thông minh, từ khắp trên hoàn cầu, đã
tụ tập tại đạo tràng của thầy để tìm kiếm chân lí
và tôn giáo thực. Nhưng thầy lại không đồng
thời đặt nền tảng cho một tôn giáo có tổ chức
khác, lần này là một tôn giáo toàn cầu, mà sẽ
lại biến thành sự trở ngại trên con đường của
chân lí và bản thân tôn giáo sao, hay là tôn
giáo có tổ chức cũng đóng một vai trò tích cực?

Điều thứ nhất và quan trọng nhất cần phải nhớ là:
đừng bao giờ nghĩ về tương lai, và đừng bao giờ bị
vướng víu với quá khứ. Trong khi tôi đang ở đây, bạn
tận hưởng tôi. Trong khi tôi đang ở đây, bạn đừng bỏ
lỡ cơ hội này.
Đây là tâm trí đang giở trò. Bạn không tận hưởng
tôi. Bạn không vui mừng - bạn đang tạo ra lo nghĩ cho
chính mình. Bây giờ lo nghĩ là về tương lai - bạn là ai
mà phải lo nghĩ về tương lai? Và làm sao bạn có thể
xoay xở quản lí được nó? - không có cách nào cả.
Tương lai sẽ lấy quá trình riêng của nó. Chúng ta
không thể xoay xở tương lai theo một cách chắc chắn,
rằng nó phải như thế hay phải không như thế. Mọi nỗ
lực bao giờ cũng thất bại.
Phật đã cố gắng rằng không nên tồn tại bất kì tôn
giáo có tổ chức nào nhân danh ông ấy. Ông ấy đã cố
gắng rằng không nên có hình ảnh nào được tạo ra về
ông ấy, nhưng lại có nhiều hình ảnh về Phật hơn bất
kì ai khác trên thế giới. Có vài ngôi đền được gọi là
'đền nghìn Phật' - một nghìn lẻ một ảnh. Có một ngôi
đền ở Trung Quốc, một ngôi đền hang động, có mười
nghìn ảnh Phật.
Ngay cả Phật cũng không thể xoay xở được điều
đó. Không có cách nào để xoay xở điều đó cả. Cách
duy nhất là dùng hiện tại, và để tương lai cho tương
lai. Sẽ có mọi người; chúng ta sẽ không ở đây - điều
họ sẽ làm với lời của tôi, đấy là tự do của họ. Nếu họ
muốn tạo ra xiềng xích từ chúng, thì đấy là tự do của
họ. Nếu họ muốn được giải thoát bằng những lời này,
đấy là tự do của họ. Nếu họ muốn làm ra nhà tù từ ngôi đền mà chúng ta đang tạo ra, thế thì đấy là tự do
của họ! Và đấy là chọn lựa của họ. Chúng ta là ai mà
can thiệp vào?
Bây giờ, Krishnamurti đang cố can thiệp vào
tương lai. Ông ấy liên tục nghĩ về điều sẽ xảy ra trong
tương lai, để cho không manh mối nào được để lại
cho tương lai, để cho tôn giáo không thể được tổ
chức. Nhưng thường xuyên bận tâm quá nhiều về
tương lai là sai. Chúng ta là ai? Tương lai thuộc về
tương lai và sẽ thuộc về các thế hệ tương lai - họ sẽ
làm bất kì điều gì họ thích làm.
Một điều tôi có thể nói: đấy là tự do của họ, bất kì
điều gì họ làm, và tôi chẳng có gì mà chống lại họ.
Nếu họ muốn sống trong tù, thì họ sẽ sống trong tù.
Họ sẽ tìm ra cách để làm ra nhà tù từ bất kì cái gì - họ
bao giờ cũng làm như vậy.
Tôi không bận tâm với tương lai chút nào. Tôi
hoàn toàn ở đây bây giờ. Và đây là điều tôi muốn bạn
cũng vậy, ở đây và bây giờ. Bất kì điều gì đang xảy ra
giữa tôi và bạn, bạn đừng cho phép bất kì can nhiễu
nào. Ý tưởng này chỉ là cái bẫy của tâm trí. Đây là
điều thứ nhất tôi muốn nói.
Điều thứ hai: thậm chí tôn giáo có tổ chức cũng
đóng một vai trò tích cực. Vài trò tích cực bao gồm
việc khêu gợi, thách thức. Ngay cả nhà tù cũng đóng
vai trò tích cực: nó khêu gợi tinh thần của người dũng
cảm; nó trở thành thách thức về tự do - nó có qui tắc
của nó, chức năng của nó.
Tôi không nói hãy sống trong tù. Trong thực tế,
bản thân nhà tù buộc bạn phải thoát ra khỏi nó. Bản
thân nhà tù có thể được dùng theo cách tích cực. Nếu
bạn bị tống vào tù, tinh thần bạn sẽ liên tục suy ngẫm
và nghĩ cách thoát ra khỏi nó, cách tìm ra cách thức
và phương tiện để trốn thoát. Trong nhà tù linh hồn
dũng cảm sẽ bắt đầu nghiền ngẫm và mơ về tự do.
Nhà tù càng lớn, cấu trúc ép buộc càng lớn, sẽ càng
có nhiều thách thức hơn. Chỉ kẻ hèn nhát mới chấp
nhận nó.
Nhưng kẻ hèn nhát, cho dù họ ở ngoài tù, vẫn sẽ
còn trong tù bởi vì họ không định đi đâu cả - họ bị
cầm tù trong tính hèn nhát của mình. Còn người dũng
cảm, cho dù trong tù, sẽ cố gắng phá vỡ ra, họ sẽ cố
gắng thoát ra. Và trong chính nỗ lực để thoát ra đó,
sức mạnh được sinh ra. Trong chính cuộc vật lộn để
thoát ra đó, con người mới được sinh ra; họ có ý thức
mới về sự khẩn thiết, lực và sức mới.
Không cái gì sai cả. Nhưng nhớ lấy, khi tôi nói
không cái gì sai, tôi không nói thảnh thơi và đi ngủ
trong tù. Tôi đang nói nhà tù có thể được dùng theo
cách tích cực. Thậm chí nhà bạn cũng có thể trở thành
nhà tù nếu bạn dùng nó theo cách tiêu cực - đó là điều
nó đã trở thành cho hàng triệu người. Họ sống trong
nhà mình, nhưng họ sống trong nhà tù. Họ gọi nó là
nhà mình, nhưng đấy là hèn nhát của họ. Họ đã đánh
mất tính phiêu lưu của linh hồn. Họ không còn mang
tính phiêu lưu nữa. Họ không còn là kẻ lang thang
nữa. Họ không còn quan tâm tới cái không biết, cái
không quen thuộc. Họ bao giờ cũng mang theo bản đồ
tới bất kì chỗ nào họ đi. Họ sống cuộc sống vay
mượn. Họ không có bất kì đam mê nào để đi vào trong lãnh thổ chưa được thăm dò, để đi tới đại
dương, đi vào trong nguy hiểm, và đối diện với cuộc
sống.
Khi bạn trong nguy hiểm và bạn đang đối diện với
cuộc sống, bạn lần đầu tiên tiếp xúc với linh hồn
mình. Linh hồn là không rẻ. Bạn phải đánh cược mọi
thứ. Đó là lí do tại sao tôi lại nói ngay cả tôn giáo có
tổ chức cũng có thể là điều tích cực.
Phật đã được sinh là người Hindu. Hindu giáo đã
trở thành nhà tù. Ông ấy đã cố gắng vất vả để thoát ra
khỏi nó, và ông ấy đã thành công. Krishnamurti đã
được huấn luyện theo một kỉ luật nào đó, là một bạn
tù của nhà tù có tên là thông thiên học - nhưng ông ấy
đã cố gắng vất vả, phá vỡ nó, trở nên tự do với nó.
Nếu bạn hỏi tôi thì tôi sẽ nói một điều: nếu như không
có việc tù túng thông thiên học của ông ấy trong thời
thơ ấu của mình, thì sẽ khó cho ông ấy trở thành con
người tự do. Annie Besant và Leadbeater và các nhà
thông thiên khác đã tạo ra toàn bộ tình huống này -
một cách không chủ ý, tất nhiên, họ đã không dự tính
điều đó. Họ đã cố gắng làm một cái gì đó khác. Họ đã
tạo ra giáo điều quanh ông ấy, sùng bái quanh ông ấy.
Và họ đã nghiêm khắc với ông ấy đến mức điều đó
thực sự trở thành không thể sống được trong nó. Ông
ấy đã phải thoát ra khỏi nó. Danh tiếng thuộc về
những người đó - Leadbeater và Annie Besant.
Nếu như nhà tù này có chút ít thoải mái hơn, nếu
như nhà tù này không hà khắc thế và nếu như kỉ luật
bị áp đặt này không nghiệt ngã thế, nếu những ý
tưởng này không siêu nhân thế, nếu như ông ấy không
bị yêu cầu đóng vai trò phi tự nhiên thế, ông ấy có thể
đã thảnh thơi, ông ấy có thể đã chấp nhận điều đó. Đó
là điều đáng lẽ xảy ra cho ông ấy.
Người Ki tô giáo vẫn còn là người Ki tô giáo bởi
vì Ki tô giáo không còn là áp lực lớn nữa. Vào chủ
nhật bạn có thể tới nhà thờ - đấy là nghi lễ. Cuộc sống
vẫn còn là cuộc sống của người không Ki tô giáo. Bạn
cứ hoàn thành các nghi lễ của việc là người Ki tô
giáo. Ki tô giáo của bạn thậm chí không sâu hơn lớp
da, và nhà thờ không yêu cầu nhiều. Nhà thờ nói,
"Bạn chỉ cần tới nhà thờ vào một ngày đặc biệt thôi:
khi con bạn ra đời, tới nhà thờ làm lễ rửa tội; khi ai đó
chết, tới nhà thờ; khi có hôn nhân, tới nhà thờ - ba
điều này sẽ đủ và bạn sẽ vẫn còn là người Ki tô giáo.
Đôi khi chủ nhật tới và tham dự buổi lễ."
Chẳng bị đòi hỏi gì nhiều cả. Nhà tù này không
giống mấy với nhà tù. Gần như là bạn tự do, chỉ vào
chủ nhật bạn mới tới trại giam và ngồi đó trong một
giờ rồi về nhà và bạn lại tự do. Ai bận tâm? Ai sẽ
tranh đấu lại nó? Nó thuận tiện và thoải mái thế.
Đó là lí do tại sao nhiều người thế lại là người
Hindu và người Mô ha mét giáo và người Jaina giáo -
không ai hỏi cả. Những tôn giáo này chỉ là nghi lễ
hình thức; chúng không thách thức bạn. Chẳng cái gì
lâm nguy cả. Rất khó thoát ra khỏi chúng - bởi vì nhà
tù rất nhạt nhoà. Bạn đã trở nên được điều chỉnh theo
nó. Nó thuận tiện và thoải mái tới mức bạn đã được
điều chỉnh theo nó. Nó có vẻ gần giống như chính
sách tốt, thoả hiệp tốt.
Krishnamurti đã rơi vào tay của một nhóm rất
cuồng tín - những người thông thiên học. Đấy là một
tôn giáo mới. Bất kì khi nào một tôn giáo là mới, nó đều rất cuồng tín. Dần dần, nó lỏng ra và thoả hiệp và
trở thành chỉ là hiện tượng xã hội; thế thì nó không
còn là tôn giáo nữa. Thông thiên học chỉ mới trong sự
bắt đầu của nó, và Krishnamurti cũng mới chỉ chín
tuổi khi ông ấy rơi vào tay của những kẻ cuồng tín
này. Họ đã cố gắng vất vả. Họ đã không cho phép
Krishnamurti gặp gỡ và hoà lẫn vào với trẻ con bình
thường - không - bởi vì họ đã có một mục đích rằng
ông ấy phải trở thành Thầy Thế giới, jagatguru. Ông
ấy phải trở thành Phật-sắp tới; ông ấy phải trở thành
hoá thân của Di Lặc.
Ông ấy đã không được phép đi với bất kì cô gái
nào, bởi vì ông ấy có thể sẽ yêu và toàn bộ giấc mơ
của các nhà thông thiên sẽ bị tan tành. Ông ấy thường
xuyên bị canh gác. Ông ấy không được phép đi một
mình; ai đó bao giờ cũng đi cùng ông ấy, theo dõi ông
ấy. Và ông ấy bị buộc phải theo những qui tắc rất
nghiêm khắc: ba giờ sáng ông ấy phải dậy và tắm
nước lạnh; và thế rồi ông ấy phải học tiếng Phạn và
ông ấy phải học tiếng Pháp và ông ấy phải học tiếng
Anh và ông ấy phải học tiếng Latin và tiếng Hi Lạp -
bởi vì Thầy Thế giới phải có giáo dục tốt, công phu.
Một đứa trẻ mới chín tuổi!
Khi ông ấy mười hai tuổi, họ bắt đầu buộc ông ấy
viết sách. Bây giờ một đứa trẻ mười hai tuổi thì có thể
viết cái gì? Trong thực tế, ông thầy, Leadbeater, ông
này đã viết nhân danh ông ấy. Krishnamurti viết và
Leadbeater sửa nó và làm nó hoàn thiện. Cuốn sách
vẫn tồn tại. Một cuốn sách hay, nhưng bạn không thể
trông đợi nó từ một đứa trẻ chỉ mới mười hai tuổi. Nó
không phải là từ ông ấy. Ngay cả Krishnamurti cũng
không thể nhớ được nó. Khi được hỏi ông ấy đã nói,
"Tôi không nhớ khi nào tôi viết nó - tôi không nhớ
chút nào làm sao nó lại có được."
Và họ đã nói những điều vô nghĩa - vô nghĩa bí
truyền: "Trong giấc mơ ông ấy lên tầng trời thứ bẩy,
và ở đó bản thân Thượng đế dạy cho ông ấy." Và chỉ
một đứa trẻ mười hai tuổi - rất mong manh, mềm mại,
nhạy cảm; ông ấy đã tin cậy. Và những người này là
nổi tiếng thế giới; họ có những cái tên vĩ đại. Và
phong trào này thực sự lớn và qui mô toàn thế giới;
hàng nghìn và hàng nghìn phòng họp đã được mở ra
trên khắp thế giới.
Chỉ một đứa trẻ mười hai tuổi đã trở thành một
nhân cách nổi tiếng thế giới. Bất kì nơi đâu ông ấy
tới, hàng nghìn người sẽ tụ tập để nhìn ông ấy. Nếu
bạn nhìn vào những bức tranh đó, thì bạn sẽ cảm thấy
thương hại cho ông ấy, thấy trắc ẩn với ông ấy. Ông
ấy liên tục trong giam giữ. Và điều đó là tự nhiên, tôi
nghĩ điều đó sẽ xảy ra cho bất kì ai - điều đó chẳng
liên quan gì với Krishnamurti. Bất kì ai ở vào địa vị
của ông ấy, nếu người đó còn bất kì tinh thần nào, thì
cũng sẽ từ bỏ toàn bộ cái điều vô nghĩa này, và sẽ
thoát ra khỏi nó. Điều đó còn quá đáng hơn nhà tù.
Ông ấy không thể viết thư cho bất kì ai bởi vì ông
ấy có thể tạo ra quan hệ qua thư từ. Người Thầy Thế
giới cần phải hoàn toàn không bị ràng buộc. Ông ấy
bắt đầu cảm thấy chút ít tình yêu với một người đàn
bà, người đủ già để làm mẹ ông ấy, nhưng thậm chí
điều đó cũng bị chấm dứt. Điều đó chẳng liên quan gì
tới bản năng dục hay bất kì cái gì; ông ấy chỉ bắt đầu
cảm thấy yêu một người đàn bà. Người đàn bà đó đã là mẹ của ba đứa con - nhưng các nhà thông thiên học
đã không cho phép điều đó. Họ đã chấm dứt nó.
Ông ấy đã hoàn toàn ở ẩn dật, chưa bao giờ được
phép đi ra thế giới bên ngoài. Ông ấy đã không được
phép vào bất kì trường học nào, bất kì đại học nào,
bởi vì tại đó ông ấy sẽ gặp người thường và ông ấy sẽ
trở thành bình thường. Những thầy giáo đặc biệt đã
được chỉ định; ông ấy được dạy một cách đặc biệt. Và
tất cả xung quanh ông ấy, một đứa trẻ mới chín tuổi,
tất cả mọi người quanh ông ấy đều cao lớn thế - các
bậc thầy, Thầy K.H. gửi thông báo, thư rơi từ mái nhà
xuống. Chúng đã được thu xếp tất cả! Các nhà thông
thiên học về sau bị bắt - họ đã thu xếp tất cả: cái mái
đã được chế tạo đặc biệt và thư sẽ rơi xuống bất thần,
và đấy là cho Krishnamurti - một thông báo đã tới từ
cái không biết.
Bạn hãy nghĩ tới một đứa nhỏ.... Không tự do nào
được phép đã trở thành một thôi thúc lớn để được tự
do. Một ngày nào đó - không ai trông đợi điều đó, ông
ấy sẽ từ bỏ nó - các nhà thông thiên từ trên khắp thế
giới đã tụ tập lại cho việc công bố lần đầu tiên mà
trong đó Krishnamurti được trông đợi tuyên bố rằng
mình là người Thầy Thế giới và rằng Thượng đế đã đi
vào trong ông ấy.
Bỗng nhiên, không nói gì với bất kì ai.... Ông ấy
có thể đã không ngủ cả đêm. Ông ấy đã nghiền ngẫm
mãi về điều đó: ông ấy đã trở thành nô lệ, và họ tất cả
đều là những người làm điều tốt; họ đã làm bạn thành
nô lệ bởi vì họ muốn làm điều tốt cho bạn; và họ yêu
bạn và tình yêu của họ thành phát buồn nôn; và ý tốt
của họ thành độc hại. Cả đêm ông ấy đã nghiền ngẫm:
ông ấy phải làm gì? Liệu ông ấy phải tiếp tục và trở
thành một phần của điều vô nghĩa này, hay thoát ra
khỏi nó?
Và may mắn với ông ấy là đến sáng khi họ đã tụ
tập và họ đang chờ đợi Thượng đế giáng xuống trong
ông ấy và tuyên bố rằng ông ấy bây giờ không còn là
Krishnamurti nữa mà là ông ấy Di Lặc - Phật đã đi
vào trong ông ấy - thì bỗng nhiên ông ấy lại từ chối và
ông ấy nói, "Đây tất cả đều là điều vô nghĩa. Không ai
đã giáng xuống trong tôi cả. Tôi chỉ là Krishnamurti
và tôi không là thầy của ai cả. Và tôi không là
jagatguru, không là Thầy Thế giới. Và tôi giải tán cái
điều vô nghĩa này và cái tổ chức này và toàn bộ
những cái đã được dựng lên quanh tôi."
Họ bị choáng váng! Họ không thể nào tin được
vào điều đó: "Ông ấy đã phát điên, phát rồ rồi sao?"
Họ đã đặt quá nhiều hi vọng vào ông ấy, nhiều tiền
bạc; đấy là đầu tư lớn, nhiều năm đào tạo. Nhưng nó
sẽ là vậy thôi. Nếu như ông ấy mà là con người hoàn
toàn chết, chỉ thế thì ông ấy mới chấp nhận điều đó.
Ông ấy sống động. Họ không thể nào giết chết được
cuộc sống của ông ấy, cái sống động đó bùng nổ.
Nếu như ông ấy là một tâm trí đờ đẫn, xoàng
xĩnh, thì có thể ông ấy đã chấp nhận - nhưng ông ấy
thông minh, nhận biết vô biên. Ông ấy đã thoát ra
khỏi nó. Toàn bộ phong trào đó và toàn bộ điều được
tổ chức đã vận hành như một thách thức tích cực.
Như tôi thấy, thì chẳng cái gì có thể giữ được bạn.
Nếu bạn tỉnh táo, bạn sẽ dùng tôn giáo có tổ chức như
một thách thức. Nếu bạn không tỉnh táo, thế thì tôn
giáo có tổ chức hay tôn giáo không tổ chức, dù bạn ở đâu bạn cũng sẽ tạo ra tù túng quanh mình. Bạn mang
nó quanh mình - trong hèn nhát của mình, trong nỗi
sợ của mình, trong thôi thúc của mình để được an
toàn và thoải mái.
Câu hỏi thứ hai:
Trong hai mươi nhăm năm qua tôi đã thuộc về
tổ chức nhà thờ của những người phiêu lưu
ngày thứ bẩy, (Saturday Sabbath). Mặc dầu tôi
tập trung vào nghe thầy, nhưng tôi vẫn chưa
qua được giai đoạn xung đột. Một trong những
xung đột đã là liệu Ellen G. White, người sáng
lập của nhà thờ này, có là sứ giả của Thượng đế
hay không.
Xin thầy giải thích điều đó cho tôi.
Mọi người đều là sứ giả của Thượng đế, hay
không ai cả. Toàn bộ ý tưởng rằng ai đó là nhà tiên tri
và ai đó là tirthankara và ai đó là sứ giả hay một
Christ là ngớ ngẩn. Tất cả các bạn đều tới từ cùng một
gốc. Không ai là đặc biệt cả. Và đây là điều người tôn
giáo cố gắng sống theo.
Người tôn giáo là người thấy rằng mình là bình
thường. Người tôn giáo là người thấy rằng mình đích
xác là hệt như người khác, và người đó không giả vờ
là đặc biệt - bởi vì chính cái ý tưởng rằng "mình đặc
biệt" là ngu xuẩn; chính cái ý tưởng rằng "mình là
người được chọn" mang tính bản ngã. Và người tôn
giáo không thể công bố điều đó được - người tôn giáo
không có công bố nào.
Người đó đơn giản chấp nhận và người đó hiểu
rằng mình là một phần của vũ trụ này cũng như bạn là
một phần của vũ trụ này. Người đó chưa bao giờ đặt
bản thân mình lên trên bạn. Đây là 'cái trên' của người
đó, rằng người đó không hề nghĩ rằng mình là phi
thường hay đặc biệt theo cách nào đó. Người đó
không hề mang thái độ của việc 'linh thiêng hơn bạn'.
Người đó biết rằng bạn cũng là thượng đế và mang
tính thượng đế. Có thể bạn không nhận ra điều đó -
đấy lại là vấn đề khác.
Khác biệt giữa tôi và bạn chỉ là một điều: tôi nhận
ra mình là ai; bạn không nhận ra - nhưng không có
khác biệt khác. Bạn đích xác hệt như tôi đang đây.
Bạn là vị phật ngủ, nhưng không có vấn đề về bất kì
khác biệt nào. Vị phật là vị phật, dù ngủ hay thức.
Bạn có thể đã không bắt gặp điều thiêng liêng của
mình, bạn có thể đã không thử, bạn có thể đã không
mở cánh cửa của kho báu bên trong của mình, nhưng
kho báu vẫn tồn tại. Bạn có thể nghĩ rằng bạn không
đặc biệt còn tôi đặc biệt, nhưng làm sao tôi có thể
nghĩ theo cùng cách đó được? Bạn có thể nghĩ điều đó
- việc đó là tự nhiên.
Mọi người có thể nghĩ rằng Christ là đặc biệt -
điều đó là tự nhiên, bởi vì Christ có vẻ đặc biệt. Ông
ấy là đặc biệt theo một cách nào đó, bởi vì ông ấy đã
nhận ra tính thượng đế của mình, và theo chính việc
nhận ra đó thì ông ấy trở thành chói sáng, ánh sáng trong trẻo không khói, ngọn lửa thuần khiết. Mọi
người nhận ra rằng ông ấy là đặc biệt. Nhưng làm sao
Jesus có thể nói ông ấy là đặc biệt được? Trong việc
nhận ra ngọn lửa bên trong riêng của mình, trong việc
nhận ra tính thượng đế bên trong riêng của mình, ông
ấy đã nhận ra tính thượng đế của mọi người - không
chỉ về con người mà về cây cối và chim chóc và
muông thú, thậm chí cả đất đá. Ngay cả đất đá ông ấy
cũng biết bây giờ đều là các thần - ngủ say, ngáy. Một
ngày này nọ đá sẽ thức tỉnh và sẽ trở thành thượng đế!
Bạn có thể không thấy mình là ai, nhưng tôi thì
thấy bạn là ai. Cái ngày tôi nhận ra mình là ai, tôi
cũng nhận ra cốt lõi bên trong nhất của mọi người.
Người tôn giáo không thể nghĩ được mình là đặc biệt.
Và người tôn giáo không thể nghĩ rằng bạn đáng kết
án, rằng bạn là tội đồ. Người tôn giáo bắt đầu cười.
Người đó cười bạn bởi vì bạn là thánh nhân mà cứ
nghĩ mình là tội đồ. Người đó cười bạn vì bạn là
Thượng đế mà cứ nghĩ mình là ai đó khác. Toàn bộ
điều này dường như là ngớ ngẩn - có vẻ đóng kịch
làm sao! Mọi người đều đeo mặt nạ và hoàn toàn
quên mất khuôn mặt nguyên thuỷ riêng của mình.
Khuôn mặt của bạn là khuôn mặt của Thượng đế.
Cho nên bất kì ai cố gắng chứng minh rằng mình
là đặc biệt, bất kì ai - Ellen G. White hay Đức Cha
Moon hay Satya Sai Baba - bất kì ai nói rằng người
đó đặc biệt thì đều đơn giản khẳng định rằng người đó
vẫn còn chưa biết.
Satya Sai Baba nói, "Làm sao kiến có thể biết
được chiều sâu của đại dương?" Bây giờ điều này là
ngu xuẩn, điều này là đần độn, bởi vì kiến cũng là
thượng đế như Satya Sai Baba. Nếu bạn hỏi tôi liệu
Satya Sai Baba có là thượng đế hay không, thì tôi sẽ
nói có, ông ấy là thượng đế - ông ấy là thượng đế giả
nhưng Thượng đế tất cả đều như nhau. Ông ấy là
thượng đế ảo thuật, ông ấy bị lạc trong ảo thuật. Ai đó
có thể là kẻ ngu, thế thì người đó là thượng đế ngu -
nhưng tôi không thể phủ nhận được rằng ông ấy là
thượng đế, tôi không thể nói điều phủ nhận đó được.
Mọi người đều là Thượng đế đang đóng các vai khác
nhau.
Bạn không thể nói rằng ai đó khác chỉ như kiến -
ngay cả kiến cũng không phải là kiến. Đó là điều
người tôn giáo nhận ra. Người đó nói, "Chó có thể cứ
sủa nhưng sao sẽ không rơi xuống." Bây giờ bạn đang
nhìn vào chó theo cách rất kết án. Và 'chó' (dog) lại
không là gì ngoài 'thượng đế' (god) đọc ngược lại. Và
chó là ai? Bạn đang nói tới ai? Chó không tồn tại, bởi
vì chó cũng là thượng đế - giả vờ là chó, chơi trò chơi
là một con chó.
Người tôn giáo, người đã về nhà, nhận ra rằng
toàn thể sự tồn tại này là thiêng liêng, thiêng liêng vô
điều kiện. Không có 'thượng đế' và 'không thượng đế'
- toàn thể sự tồn tại được tạo nên từ một tính và tính
đó là tính thiêng liêng.
Nhưng có những người cứ đi tìm những cuộc
hành trình mới cho bản ngã. Đôi khi đấy là tiền bạc,
đôi khi đấy là chính trị, đôi khi đấy là tôn giáo, nhưng
việc tìm kiếm thì vẫn thế - bản ngã. Và tôn giáo chỉ
xảy ra khi có việc bản ngã mất đi; khi bản ngã bị mất,
khi bản ngã bị tan tành, và bạn bỗng nhiên có đó mà không ý tưởng gì về bất kì cái 'tôi' nào. Bạn hiện hữu,
nhưng không có 'tôi' trong nó.
Tôi không nói trở nên khiêm tốn, bởi vì bản ngã
thậm chí cũng có thể thử điều đó - nó thử đấy! Nó có
thể trở thành khiêm tốn. Nó có thể giả vờ là khiêm
tốn, nhưng thế thì nhìn vào mắt của người khiêm tốn
kia: người đó nói "Tôi là không ai cả," nhưng người
đó đang đợi bạn nói "Anh là con người vĩ đại nhất."
Người đó nói, "Tôi khiêm tốn, tôi chỉ là hạt bụi dưới
chân anh," nhưng bạn đừng chấp nhận người đó.
Đừng nói, "Vâng, chúng tôi biết - chúng tôi bao giờ
cũng biết. Anh không nói điều gì mới với chúng tôi,"
bằng không người đó sẽ chẳng bao giờ có khả năng
tha thứ cho bạn. Người đó sẽ báo thù. Người đó
không nói rằng bạn phải chấp nhận điều đó. Trong
thực tế, người đó nói, "Trông đây - ta mới khiêm tốn
làm sao! Trông đấy, đây là con người khiêm tốn nhất
trên thế giới!" Nhưng trò chơi thì vẫn là một: "Ta là
người khiêm tốn nhất trên thế giới - nhưng cái 'tôi' có
đây."
Ai đó nói, "Tôi là người giầu nhất trên thế giới."
Ai đó nói, "Tôi là người quyền lực nhất trên thế giới."
Ai đó nói, "Tôi là người khiêm tốn nhất trên thế giới."
Khác biệt ở đâu?
Tôi không nói trở nên khiêm tốn. Bản ngã có thể
trở nên khiêm tốn. Tôi đang nói về việc mất bản ngã.
Bạn phải nhìn vào trong bản ngã: phức cảm của nó là
trò chơi tinh vi. Bạn phải trở nên nhận biết về tất cả
những trò chơi của nó. Một ngày nào đó khi bạn đã
nhìn vào trong tất cả các trò chơi của nó, nó đơn giản
biến mất. Chỉ bằng việc nhìn vào trong chúng, chỉ
sáng tỏ, chỉ nhận biết, và nó biến mất. Nó biến mất
như bóng tối biến mất khi bạn mang ánh sáng vào
trong phòng tối. Chỉ đem nhận biết vào.
Jesus định bước đi trên nước của Biển Chết. Ông
ấy bắt đầu bước đi trên biển, và ông ấy quay về các đệ
tử của mình và nói, "Tin ta, theo ta, và bước trên
biển." Mười một đệ tử của ông ấy theo ông ấy. Chỉ
mỗi Thomas còn lại sau trên cạn.
Khi những người khác hỏi ông ấy, Thomas giải
thích rằng tốt hơn cho ông ta là vẫn còn khô ráo vì
nước lạnh có khả năng ảnh hưởng tới bệnh khớp của
ông ấy.
Jesus quay đầu lại và nói với Thomas, "Thomas,
tin ta đi, theo ta và bước trên biển."
Thế là Thomas bắt đầu bước đi và nhanh chóng bị
nước ngập tới đầu gối. Thomas kêu lên, "Jesus!
Jesus!"
Và Jesus một lần nữa lại nói, "Tin ta đi, theo ta và
bước trên biển."
Điều này lại diễn ra với Thomas kêu Jesus cứu
khi Thomas tiếp tục bước tới.
Khi nước đã ngập đến cằm Thomas, thì Peter
quay sang ông ta và nói, "Thomas, sao ông bao giờ
cũng cứ phải khác người thế? Sao ông không thể bước
trên các mỏm đá giống như mọi người khác?" 

Có những người không thể cho phép mình được
giống như mọi người khác. Họ phải đặc biệt theo cách
này cách khác. Đây là bệnh tật, chứng thần kinh.
Bạn không thể khác được. Về cơ bản, tất cả chúng
ta đều thuộc về một tâm thức. Tất cả mọi khác biệt
đều chỉ ở bề mặt, ngoài da. Tất nhiên, bạn có làn da
khác và tôi có làn da khác. Ai đó da trắng và ai đó da
đen, và ai đó có mũi khác, và ai đó có mầu mắt khác,
và ai đó có mầu tóc khác - nhưng sâu bên dưới, bạn
càng đi sâu hơn, thì chúng ta lại càng là một hơn.
Từ tiếng Anh 'self' - cái ngã, là rất hay. Nghĩa
nguyên thuỷ của nó là 'như một' - self (cái ngã) nghĩa
là như một. Bạn dùng các từ 'myself' bản thân tôi,
'himself' bản thân anh ta, 'herself' bản thân cô ấy,
'themselves' bản thân họ. Myself-bản thân tôi,
yourself-bản thân bạn: 'my'- tôi, là khác, 'your'-bạn là
khác, nhưng 'self'-bản thân lại là một. Từ 'self' nghĩa
là 'là một'. Self-cái ngã thì không của tôi cũng không
của bạn. Khi nó thành của tôi, đấy là 'myself'; thế thì
'self' có cái gì đấy được thêm vào nó, cộng với nó.
Khi cái 'my'-tôi bị bỏ đi, thì chỉ còn lại 'self'; khi cái
'you'-bạn bị bỏ đi, chỉ còn lại cái 'self'. Khi thân thể và
tâm trí và những phân biệt bên ngoài không còn đó
nữa, sâu trong cốt lõi bên trong chúng ta là một -
chúng ta chỉ là cái ngã self, cái một.
Bạn đừng cố gắng theo bất kì cách nào để đặc biệt
bởi vì tất cả những cuộc hành trình đó đều là hành
trình bản ngã và đưa bạn tới thất vọng và lo nghĩ và
sợ hãi.
Nhưng khi ai đó tới và công bố, người đó bao giờ
cũng tìm ra vài đệ tử. Lí do không phải ở chỗ lời công
bố của người đó là đúng; lí do là ở chỗ mọi người đều
rất không chắc chắn, mọi người đều trong lẫn lộn. Họ
muốn có ai đó để bám vào. Họ muốn ai đó làm cho họ
chắc chắn. Khi ai đó tới và nói, "Ta tới như sứ giả đặc
biệt của Thượng đế"... và những người này là những
người gần phát điên, và họ sẽ nói với quyền năng, với
sự mạnh mẽ, với lửa cháy tới mức bạn sẽ bắt đầu cảm
thấy rằng phải có điều gì đó trong nó. Bạn bắt đầu
cảm thấy bởi vì bạn bị lẫn lộn. Bạn bao giờ cũng
muốn ai đó nói cho bạn cách sống cuộc sống của
mình. Bạn bao giờ cũng muốn ai đó lãnh đạo bạn.
Bạn bao giờ cũng muốn ai đó chắc chắn để cho bạn có
thể gạt bỏ cái không chắc chắn của mình. Bạn bao giờ
cũng muốn ai đó biết để bạn không lo nghĩ về cái dốt
nát của mình.
Bây giờ ở đây một người tới, và khi người đó
công bố một cách bắt ép, lửa cháy trong mắt người đó
và ma thuật trong lời người đó, vài người nhất định
trở thành nạn nhân của người đó - họ sẽ tin cậy vào
người đó. Và nếu bạn nói với những người này, "Các
anh là kẻ ngu," họ sẽ không nghe bạn. Bởi vì vấn đề
không phải là liệu nhà tiên tri của họ sai hay đúng;
khoảnh khắc bạn nói nhà tiên tri của họ sai, bạn lại
đem cái không chắc chắn của họ vào, bạn lại làm cho
họ lẫn lộn. Họ đã bị lẫn lộn rồi; bây giờ họ không còn
lẫn lộn nữa - họ đang theo ai đó.
Ngay cả một Muktananda cũng có thể có tín đồ,
có thể kiếm được tín đồ. Nhìn thấy điều đó tôi đơn
giản ngạc nhiên. Tôi không thể thấy được làm sao
điều đó lại có thể. Một Muktananda mà cũng kiếm
được tín đồ sao? Nếu điều đó là có thể, thế thì bạn
chờ đợi một cách không cần thiết - bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo lớn. Nếy Muktananda có thể trở
thành thế, thì bất kì ai cũng có thể trở thành thế.
Tôi biết một người ở Jabalpur là tín đồ của
Muktananda, và tôi bảo anh ta, "Anh đơn giản ngu
ngốc. Bản thân anh có thể trở thành người lãnh đạo."
Anh ta nói, "Làm sao tôi có thể trở thành được?
Tôi không biết gì về tôn giáo cả."
Tôi nói, "Bạn đi với tôi." Tôi định đi Calcutta. Tôi
nói, "Bạn chỉ đi với tôi - bạn im lặng."
Anh ta nói, "Thầy ngụ ý gì?"
Tôi nói, "Chúng ta sẽ chơi một trò chơi chỉ để làm
cho bạn rõ ràng về cách thức mọi sự xảy ra."
Anh ta theo tôi. Tôi nói, "Chỉ một điều thôi: bạn
phải không được nói gì; bạn chỉ giữ im lặng. Khi mọi
người hỏi câu hỏi nào đó, thì bạn nhắm mắt lại, bạn
bắt đầu đung đưa người, và tôi sẽ trông coi mọi sự
xảy ra!"
Thế là anh ta đi với tôi. Người chủ nơi chúng tôi
ở, ông ta hỏi tôi ngay lập tức, 'Người này là ai vậy?"
Tôi nói, "Ông ta là paramahansa. Ông ta tịnh khẩu
- ông ta là một linh hồn vĩ đại."
Người này nói, "Nhưng chúng tôi chưa bao giờ
nghe nói về ông ấy cả, vậy làm sao ông biết được?"
"Ông ta chưa hề ra công chúng, ông ta không phải
là Mahesh Yogi, ông ta không tin vào quảng cáo. Ông
ta là rất, rất bí truyền."
Người này sụp lạy dưới chân ông ta! Vòng hoa
mà người này đem tới cho tôi… người này đã quên
mất tôi hoàn toàn. Và ông ta, tôi đã huấn luyện ông ta
trên tầu điều cần làm, cho nên ông ta bắt đầu đung
đưa người - ông chủ cũng bắt đầu đung đưa theo! Tôi
nói, "Xem kìa, kundalini của ông đang lên đấy!"
Người này nói, "Tôi có thể cảm thấy cái gì đó;
trong xương sống của tôi có cảm giác gì đó. Tôi chưa
bao giờ cảm thấy nó và tôi đã tới biết bao nhiêu thánh
nhân - nhưng người này là phép màu! Ông ấy có thể
nói cái gì không?"
Tôi nói, "Ông ấy không bao giờ nói."
Trong vòng ba ngày một đám đông lớn - mọi
người tới và đem tới tiền bạc và hoa. Và trong đêm
người này nói với tôi, "Điều này không thể nào tin
được! Thầy phải làm cái gì đó rồi," anh ta nói với tôi,
"bởi vì bây giờ làm sao tôi có thể nâng kundalini của
họ lên được? Tôi chẳng biết gì về kundalini cả -
kundalini riêng của tôi vẫn chưa lên! Thầy phải làm
điều gì đó, thầy đang chơi mẹo - bằng không làm sao
nó có thể xảy ra được? và một người có thể là kẻ ngu,
nhưng biết bao nhiêu người!" Và người giầu tới trong
những chiếc xe Cadillacs và Lincolns và Impalas của
mình, đến thế.... Và con người này là một người bình
thường.
Ba ngày sau đó khi chúng tôi quay về tôi bảo anh
ta, "Bây giờ bạn muốn gì nào? Bạn muốn tiếp tục thời
gian bận rộn của mình nữa không?"
Mọi người cần ai đó để hướng dẫn họ. Mọi người
cần ai đó để lừa phỉnh họ. Mọi người cần ai đó để cho họ sự chắc chắn. Mọi người hay lung lay thế, không
chắc chắn về mọi điều. Chỉ công bố - lời công bố của
bạn… nhưng nó phải rất, rất tuyệt đối. Nếu bạn do dự,
bạn bị hết hi vọng; thế thì trong thế giới tâm linh này,
trong siêu thị tâm linh này, bạn là không ai cả. Công
bố một cách tuyệt đối, vô điều kiện, đừng bao giờ do
dự. Và đó là một trong những phẩm chất của kẻ ngu:
họ chưa bao giờ do dự cả. Người rất thông minh bao
giờ cũng do dự.
Lão Tử nói: "Ta do dự ở mọi bước đi. Ta phải bị
lẫn lộn rồi. Cả thành của ta, mọi người mà ta biết, đều
tuyệt đối thế; mọi người đều láu lỉnh - ta phải u mê,
bởi vì ta cảm thấy mờ mịt thế. Các phương án đều có
đó: chọn cái gì, không chọn cái gì?"
Ông ấy đang mỉa mai, ông ấy đang đùa bỡn. Bao
giờ nó cũng như vậy cả. Người thông minh do dự, kẻ
ngốc chưa hề do dự. Bạn đã bao giờ thấy con trâu do
dự chưa? Chúng đơn giản cứ đi; trên đường chúng
chẳng bận tâm tới các qui tắc giao thông. Bạn bóp còi
tướng lên - chúng chẳng bận tâm về bạn. Chúng đơn
giản đi như các thánh nhân tâm linh.
Mọi người đều bất an, không chắc chắn. Họ cần ai
đó công bố. Và khi bạn cần, ai đó nhất định công bố
và khai thác bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Khi tôi cười trong chuyện đùa của thầy tôi cảm
thấy nó chỉ là phản xạ, rằng tiếng cười của tôi
đang xảy ra trên bề mặt và không thấm vào
trong bản thể tôi. Tôi cười ngày một ít đi. Bây
giờ ngay cả cái điên khùng về chiếc khăn của
thầy cũng không làm tôi xúc động. Đây có là
vấn đề không?
Nó là vấn đề và là vấn đề rất nghiêm chỉnh, bởi vì
với tôi tiếng cười là một trong những phẩm chất tâm
linh lớn nhất.
Cố hiểu đi: chỉ con người, chỉ con người mới có
thể cười được - không con vật nào khác. Có thể là ở
giai đoạn con người tiếng cười mới xảy ra. Nếu bạn
bắt gặp lừa cười, bạn sẽ phát điên. Hay ngựa cười -
thế thì bạn sẽ không có khả năng ngủ lại lần nữa. Con
vật không cười. Chúng không có nhiều thông minh.
Để có tiếng cười, cần có thông minh - thông minh
càng lớn tiếng cười càng sâu sắc.
Tiếng cười là biểu tượng rằng bạn thực sự là con
người. Nếu bạn không thể cười, bạn còn dưới con
người. Nếu bạn có thể cười, bạn đã trở thành con
người. Tiếng cười là chỉ dẫn chắc chắn về nhân loại.
Aristotle nói con người là con vật có lí trí. Tôi
không tin điều đó, bởi vì tôi đã quan sát con người và tôi không thấy lí trí nào trong con người cả. Định
nghĩa của tôi là: con người là con vật biết cười.
Tiếng cười nghĩa là bạn có thể trở nên nhận biết
về cái lố bịch của mọi vật.
Và cũng vậy: con người là con vật duy nhất có thể
chán. Chán chường và khôi hài là hai phía của cùng
một đồng tiền, là hai mặt của cùng một đồng tiền. Chỉ
con người mới có thể chán và chỉ con người mới có
thể cười. Đây là hai phẩm chất đặc biệt tồn tại trong
con người. Chúng là định nghĩa về nhân loại. Con vật
không bao giờ chán. Chúng cứ làm cùng những
thường lệ hàng ngày, năm nọ, năm kia, từ lúc sinh tới
lúc chết - chúng chẳng bao giờ chán. Bạn không thể
thấy chán chường trên khuôn mặt chúng, bởi vì để
chán thì cũng cần cả thông minh nữa.
Một người càng thông minh, người đó càng chán
trong thế giới này. Phật đã trở nên chán với toàn bộ
cái vô nghĩa được gọi là cuộc sống. Ông ấy trở nên
chán với sinh, ông ấy trở nên chán với yêu, ông ấy trở
nên chán với tử. Tại phương Đông, tôn giáo không là
gì ngoài việc tìm kiếm để thoát ra khỏi sự tồn tại chán
chường này, làm sao thoát ra khỏi avagaman - cái
thường tới và đi này, cái liên tục sinh và tử này. Nó
thật chán! Nó chẳng có gì mới trong đó cả. Và ý
tưởng về nhiều kiếp làm cho nó thậm chí còn chán
hơn.
Người Ki tô giáo ít chán hơn, người Mô ha mét
giáo ít chán hơn, người Do Thái ít chán hơn, bởi vì họ
chỉ có một kiếp sống. Bạn không thể nào nhiều chán
trong một kiếp sống được. Một khi bạn được sinh ra,
và thế rồi bạn chết đi sau bẩy mươi năm. Trong bẩy
mươi năm, ba mươi năm bạn ngủ, mười lăm, hai
mươi năm bạn làm việc - bạn làm việc liên tục - ba
năm bạn phí hoài cho việc ăn. Trước hết bạn ăn và thế
rồi bạn ỉa; cho nên con người chỉ như cái ống: một
đầu bạn cứ đổ thức ăn vào, đầu kia bạn cứ tống ra.
Nếu bạn đếm tất cả các hoạt động của con người,
rồi cạo râu, đứng trước gương... Tôi mới đọc một bài
báo: một người đứng trước gương - và đấy là về đàn
ông, đấy chưa về đàn bà đâu - bẩy mươi ngày liên tục,
nếu ta tính nó liên tục, trong toàn bộ cuộc đời anh ta.
Bẩy mươi ngày anh ta chỉ đứng trước gương. Bây giờ
nhìn vào cái ngớ ngẩn của nó. Và đây là về đàn ông -
tôi nghĩ họ đã cho một dữ liệu về đàn ông chứ không
về đàn bà bởi vì điều ấy thì không thể đếm được. Đàn
bà cứ đứng trước gương, chỉ để ngắm mình. Một lần
bạn nhìn, thế là xong! Bây giờ bạn tìm cái gì? Cái gì
bị mất sao? Hay bạn không thể tin được rằng đấy là
bạn?
Nếu bạn thấy toàn bộ các hoạt động của cuộc
sống thì nó thật chán. Nhưng nếu kiếp sống chỉ có
một, thì nó cũng không đến nỗi chán thế. Đó là lí do
tại sao người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo và
người Do Thái không thể rất mang tính tôn giáo.
Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo, đã đem phẩm chất
khác cho tôn giáo. Họ nói cuộc sống đã như vậy hàng
triệu lần rồi: sinh đi sinh lại, hoá thân đi hoá thân lại.
Cuộc sống không chỉ một kiếp sống; một kiếp chỉ là
một bước chuyển của bánh xe. Bánh xe đã chuyển từ
lúc bắt đầu vô thuỷ. Và bạn đã làm cùng một điều
hàng triệu lần, vậy mà bạn vẫn không chán sao? Thế
thì bạn phải hoàn toàn ngu ngốc. Người thông minh
nhất định trở nên chán. 

Chán là tính người. Và bởi vì con người có thể
chán nên con người có thể cười nữa. Tiếng cười là
cực kia của cùng năng lượng. Toàn bộ phổ là ở giữa
chán và cười.
Đó là lí do tại sao tôi hay dùng nhiều chuyện cười
thế - bởi vì tôi biết chân lí tôn giáo là rất chán. Cho
nên trước hết tôi đưa bạn tới cái chán, tôi đi vào vấn
đề tinh tế - hừ? - tôi đưa bạn vào cái chán. Khi tôi
thấy bây giờ thế là quá nhiều và bạn sẽ không thể nào
chịu đựng thêm được nữa, thì tôi kể cho bạn chuyện
cười. Con lắc văng trở lại. Bạn lại vui sướng. Lần nữa
tôi có thể làm cho bạn chán. Bạn tươi tắn, bạn sẵn
sàng. Bạn có thể vẫn chịu đựng thêm được mười,
mười lăm phút nữa. Khi tôi thấy rằng bây giờ bạn
đang đi tới giới hạn của mình, rằng bạn sẽ phát điên vì
tôi - tôi không muốn bị giết - lần nữa, ngay lập tức tôi
kể cái gì đó để cho bạn có thể cười, và bạn có thể tha
thứ cho tôi.
Chán và cười là hai phẩm chất quan trọng nhất
của tâm thức con người, nhưng mọi người thường lại
không nhận biết về cả hai. Khi bạn chán, trước khi
bạn trở nên nhận biết, bạn đơn giản bị bận tâm vào
hoạt động nào đó khác đem lại niềm xúc động, cảm
giác mới. Bạn đi xem phim, bạn ngồi trước ti vi; bạn
tới bạn bè, bạn bắt đầu nói với ai đó, với hàng xóm.
Bạn không có gì để nói, người ấy không có gì để nói -
các bạn nói về những điều đó hàng triệu lần! Lại về
khí hậu, lại về thời tiết, lại về con cái mình thế nào và
vợ mình thế nào - và bạn chẳng quan tâm lấy một
chút. Nhưng bạn chán. Bạn phải làm cái gì đó để quên
nó đi. Bạn phải nói.
Một người, trong cuộc sống thường ngày, dùng
năm nghìn từ. Bạn có thể nghĩ tôi nói nhiều quá - bạn
nhầm. Một khi tôi nói xong rồi, tôi im lặng - nhưng
tôi chưa hề vượt ra ngoài giới hạn năm nghìn từ. Bạn
trải việc nói ra cả ngày. Tôi kết thúc trong buổi sáng.
Nhưng tôi chưa hề vượt ra ngoài giới hạn này. Tôi
luôn luôn nhìn đồng hồ.
Mọi người cứ nói chỉ để tránh sự hiện hữu của
mình, để tránh cái chán của mình. Chồng chán vợ, vợ
chán chồng, mẹ chán con, con chán bố mẹ - mọi
người đều đơn giản chán! Nhưng chúng ta giữ điều đó
ở dưới ý thức, bằng không bạn sẽ bắt đầu tự tử. Bạn
sẽ làm gì?
Marcel đã viết rằng tự tử là câu hỏi quan trọng
nhất, câu hỏi siêu hình duy nhất. Nó hiện hữu - bởi vì
nếu toàn bộ cái chán trở thành rõ ràng cho bạn, thì
bạn sẽ định làm gì? Nếu cuộc sống chỉ là lối mòn, thì
phỏng có ích gì làm tất cả những cái đó? Bạn cứ lẩn
tránh nó.
Trong cộng đồng tôn giáo điều đó được lôi vào sự
chú ý của bạn; người ta không cho phép bạn né tránh
nó. Trong đạo tràng họ có một thường lệ rất chán - cố
định, cố định mãi, hàng thế kỉ. Không bao giờ xúc
động, không bao giờ cảm giác. Buổi sáng họ dậy, họ
tập ngồi thiền, họ uống trà, họ làm thiền đi, họ đi ăn
sáng. Và mọi thứ đều hệt nhau: bữa sáng hệt nhau, trà
hệt nhau; họ lại ngồi thiền, họ lại vào vườn làm việc.
Và bạn đã nhìn vào khu vườn thiền chưa?
Quanh phòng thiền của mình, họ không cho phép
có cây. Họ làm vườn đá - để làm bạn chán hoàn toàn.
Bởi vì cây thay đổi: lúc thì là mùa xuân và có hoa và có mầu xanh tươi, và lúc thì mùa lá rụng và lá rơi
xuống. Cây thay đổi! Cây không phải là sư. Cây cứ
thay đổi quanh năm. Trong đạo tràng họ làm vườn đá,
để cho không có gì thay đổi cả. Bạn cứ làm cùng điều
mọi ngày, và bạn nhìn ra và chỉ toàn có đá và cát, và
cùng mẫu hình đó. Tại sao?
Cái chán đã được dùng như một kĩ thuật, nó là
một phương cách. Trong thiền, cái chán được dùng
như một phương cách: bạn chán đến chết, và bạn
không được phép trốn thoát. Bạn không được ra
ngoài, bạn không định tự giải trí cho mình, bạn không
được làm, bạn không được nói, bạn không được đọc
tiểu thuyết và truyện trinh thám. Không xúc động.
Không có khả năng nào để thoát đi bất kì đâu.
Và tất cả các sư đều trông giống nhau: đầu cạo
trọc lốc. Bạn có để ý điều đó không? Nếu bạn cạo
nhẵn đầu, râu mép, râu cằm, thì bạn trở thành gần như
vô thực thể. Khuôn mặt của bạn mất đi tính cá nhân.
Các sư trông đều giống nhau, bạn không thể phân biệt
được bất kì khác biệt nào. Bạn thấy những cái đầu
nhẵn thín và bạn phát chán. Tóc còn cho một chút ít
kiểu cách, một chút ít khác biệt - tất cả cái đầu bị cạo
trọc trông đều giống nhau, với tóc thì bạn còn có thể
có kiểu cách. Ai đó có tóc dài, ai đó có tóc kiểu ngắn;
ai đó có tóc vuông vắn và ai đó là hippie. Và có cả
nghìn cách làm cái gì đó với tóc. Bạn có thể làm được
gì với cái đầu? Nó hệt như nhau - ăn mặc hệt nhau,
đầu hệt nhau, thức ăn hệt nhau, vườn đá hệt nhau, và
thiền cũng hệt nhau. Hết năm nọ tới năm kia trong hai
mươi năm.
Công việc là đem cái chán tới điểm không còn lối
thoát nào là có thể và bạn phải đi qua đột phá. Khi nó
là không thể chịu đựng được, khi nó tới cực đỉnh và
bạn không thể chịu được nó nữa, thì nó bùng nổ. Từ
cực điểm đó, bạn nhẩy. Bỗng nhiên tất cả các cái chán
biến mất, bởi vì bản thân tâm trí biến mất.
Chán là một chỉ dẫn của tâm trí. Đó là lí do tại sao
con vật lại không bị chán. Nếu bạn đi tới chính cực
đoan, nếu bạn cứ đặt sức ép, ngày một nhiều sức ép,
thì sẽ tới một cực đỉnh mà bạn đơn giản không thể
chịu đựng được thêm nữa, và cái chán biến mất - và
cùng với cái chán là tâm trí. Đó là điều trong thiền họ
gọi là 'satori' tỏ ngộ.
Tiếng cười cũng có thể được dùng theo cùng cách
đó. Bồ đề đạt ma đã dùng nó. Đã có những bậc thầy
Sufi dùng nó. Có vài giáo phái thiền cũng dùng tiếng
cười. Nếu bạn có thể cứ cười mãi vào sự lố bịch của
mọi vật, thì ngày này hay ngày khác bạn sẽ đi tới một
cực đoan mà bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng tiếng cười
không tới nữa. Đó mới là vấn đề. Bạn cứ cười, bạn
vẫn cố gắng cười - tiếng cười không đến. Mọi thứ
dường như bị mắc kẹt, nhưng bạn cứ cố gắng. Nhiều
nỗ lực bây giờ cần tới; buộc nó đến chính cực đỉnh, và
một ngày tiếng cười biến mất, và cùng với tiếng cười
tâm trí con người cũng biến mất.
Chán hay cười, cả hai đều có thể được dùng. Tôi
dùng cả hai cùng nhau. Đầu tiên tôi làm bạn chán, thế
rồi tôi giúp bạn cười. Và tôi cứ ném bạn từ cực đoan
nọ sang cực đoan kia, cũng giống như người đi trên
dây: khi người đó nghiêng sang phải quá nhiều và bây
giờ cảm thấy mình sắp ngã, thì người đó nghiêng sang trái. Và dần dần cân bằng nảy sinh. Bây giờ đây là
điểm thứ ba của sự siêu việt.
Hoặc bạn đi sang trái, xa bên trái, nhiều nhất bạn
có thể đi được; hoặc bạn đi sang phải, xa bên phải -
hay, bạn chỉ ở giữa, xa ở giữa, chính giữa. Và có siêu
việt. Ba điểm này là những điểm siêu việt. Toàn bộ nỗ
lực của tôi là không dùng cực đoan nào, nhưng cho
bạn cân bằng.
Cho nên tôi cứ chuyển từ trái qua phải, nhưng
toàn bộ ý tưởng là giữ cho bạn được cân bằng trên
dây. Một ngày nào đó, cân bằng sẽ đem bạn tới điểm
mà tại đó bỗng nhiên bạn được cân bằng tới mức tâm
trí không thể tồn tại. Tâm trí có thể tồn tại chỉ hoặc
bởi nghiêng sang phải hay nghiêng sang trái. Tâm trí
chỉ có thể tồn tại với các cực đoan. Tâm trí không bao
giờ có thể tồn tại với chỗ giữa, với cân bằng.
Phật đã gọi con đường của ông ấy là majjhim
nikai - trung đạo. Con đường của tôi cũng là trung
đạo. Theo nhiều, nhiều cách tôi đang cố gắng giúp
bạn đi tới chỗ giữa tuyệt đối nơi mọi thứ biến mất.
Bây giờ, bạn nói: "Khi tôi cười trong chuyện đùa
của thầy tôi cảm thấy nó chỉ là phản xạ, rằng tiếng
cười của tôi đang xảy ra trên bề mặt và không thấm
vào trong bản thể tôi."
Cố gắng đi. Đừng lo nghĩ. Cứ để cho nó là phản
xạ. Cố gắng. Đôi khi bạn thậm chí sẽ cảm thấy rằng
tiếng cười chỉ là trong thân thể hay trong tâm trí và
bạn là nhân chứng - đấy là những khoảnh khắc đẹp.
Bạn đã trở nên chút ít siêu việt lên trên tiếng cười của
mình - và đó là điều tốt.
"Tôi cười ngày một ít đi" - điều đó sẽ xảy ra,
nhưng bạn phải cố gắng vất vả đấy. Đấy là một trong
những điều gian nan nhất, cố gắng vất vả cho tiếng
cười, bởi vì người ta phải cố gắng thế nào đây? Tiếng
cười dường như hoặc tới hoặc không tới - làm sao bạn
có thể cố gắng nó được? Bạn càng cố gắng bạn sẽ
càng thấy khó đem nó lại; nhưng cố gắng đi, cứ để nó
là khó.
Nghe chuyện cười của tôi bây giờ có ý thức nhiều
hơn, có chủ ý hơn. Khi tôi đang kể chuyện cười, bạn
quên cả thế giới đi. Thiền sâu sắc về nó để cho bạn có
thể có được toàn bộ hương vị của nó và nó thấm vào
chính trái tim bạn. Và khi tiếng cười tới, cho dù nó
chỉ hơi thoáng qua, chỉ là một cảm giác thoảng qua,
một gợn sóng, hợp tác với nó, cho phép nó trở thành
con sóng lớn. Đung đưa với nó, đi với nó - trong
buông bỏ. Nó sẽ chiếm lĩnh bạn.
Đôi khi điều đó là có thể, nghe tôi nhiều quá, cười
với tôi nhiều quá, dần dần thậm chí việc cười có thể
có vẻ giống như chán chường. Mọi ngày cứ cười và
cười mãi - điều đó nữa cũng tạo ra chán. Mọi ngày
nghe chuyện cười lặp đi lặp lại, và bạn có một phẩm
chất rất nhỏ của tiếng cười, một phẩm chất rất nhỏ của
tiếng cười trong bạn - điều đó cảm thấy bị cạn kiệt.
Nhưng bây giờ bạn phải học thêm vài điều nữa.
Nghe chuyện cười một cách tỉnh táo hơn, và khi
gợn sóng nảy sinh trong bạn, hợp tác với nó, thậm chí
phóng đại nó lên, đi cùng với nó. Câu hỏi này là từ
Bodhi, và tôi sẽ gợi ý cho anh ấy một cách thiền đặc biệt: mọi sáng anh ấy phải cười trong ba phút chẳng
vì lí do gì hết cả. Khi bạn thức dậy, điều đầu tiên -
đừng mở mắt ra trước hết. Khi bạn cảm thấy giấc ngủ
đã qua, bắt đầu cười trên giường mình. Trong hai, ba
ngày đầu điều đó sẽ khó khăn, thế rồi nó tới - và thế
thì nó tới như sự bùng nổ.
Đầu tiên nó là khó bởi vì bạn cảm thấy ngu xuẩn:
sao mình lại cười? chẳng có lí do gì cả. Nhưng dần
dần bạn sẽ cảm thấy ngu xuẩn và bạn bắt đầu cười
vào cái ngu xuẩn của mình - và thế rồi nó chiếm lĩnh
bạn. Thế thì nó không thể nào cưỡng lại được. Thế thì
bạn cười vào toàn bộ cái ngớ ngẩn. Và thế thì ai đó
khác - vợ bạn, bạn gái của bạn, hàng xóm - có thể bắt
đầu cười khi thấy rằng bạn là thằng ngốc, và thế thì
điều đó sẽ giúp cho bạn.
Tiếng cười có thể trở thành lây lan. Bạn cứ thử
xem, rồi bạn báo cho tôi sau một tháng. Cười vào mọi
sáng, và nếu bạn thích nó thì vào cả ban đêm trước
khi bạn đi ngủ. Thế thì có khả năng là trong mơ của
bạn tôi có thể kể cho bạn vài chuyện cười.
Bây giờ để tôi kể cho bạn vài chuyện cười chẳng
vì lí do gì hết cả:
Cô gái đẹp là ứng cử viên xin việc tại sở thú làm
người dạy sư tử. Ứng cử viên kia là một thanh niên
hăm hở. Người quản lí nói ông ấy sẽ cho cả hai một
cơ hội và bảo cô gái chui vào chuồng.
Cô gái này, mặc chiếc áo lông lớn, đã chui vào.
Con sư tử khổng lồ để cho cô gái vào và nó ngay lập
tức bắt đầu tấn công cô gái. Bỗng nhiên cô gái đứng
thẳng dậy, tụt bộ áo lông ra và đứng đó trần truồng
hoàn toàn. Con sư tử dừng sững lại, đi vòng quanh, và
đi một cách nhu mì vào góc.
Người quản lí thực sự ngạc nhiên. Ông ta quay
sang anh thanh niên. "Này, anh bạn, anh có cho rằng
anh có thể vượt hơn thế được không?"
"Tôi cũng muốn thử," anh chàng này nói, "chỉ làm
cho con sư tử khùng kia ra khỏi đó."
Người bố đem hai đứa con mười tuổi tới Miami
trong chuyến thăm đầu tiên của chúng. "Bố muốn các
con được đầy nắng," ông già nói, "và để chắc chắn
các con có nắng, bố sẽ phạt các con một đô la một giờ
nếu các con về sau nửa đêm."
Đứa con thứ nhất về nhà vào hai giờ sáng và sáng
hôm sau phải trả cho bố nó hai đô la, vừa nói, "Đáng
giá lắm. Cô ấy đẹp thế! Cô ấy lãng mạn thế! Cô ấy
say đắm thế!"
Hôm sau đứa con thứ hai về nhà lúc năm giờ sáng
và đưa cho bố nó năm đô la, thở dài sườn sượt, "Đáng
giá lắm. Cô ấy đẹp thế! Cô ấy lãng mạn thế! Cô ấy
say đắm thế!"
Đêm thứ ba người bố ở cả đêm - hai mươi bốn
giờ. Khi ông ta về nhà ông ta ném cả cái ví của mình
lên bàn và nói với các con, "Cầm hết cả đi. Đáng giá
lắm. Cô ấy đẹp thế! Cô ấy lãng mạn thế! Và các con -
cô ấy kiên nhẫn thế!" 

Câu hỏi thứ tư:
Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với hai mũi
tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi. Yêu có đau
không? Tôi ở đâu và tôi từ đây đi đâu?
Yêu là đau, nhưng cái đau này chắc chắn là phúc
lành. Dục không đau. Dục rất tiện lợi, thoải mái. Mọi
người dùng nó gần như thuốc giảm đau, thuốc an
thần.
Yêu là đau - bởi vì yêu đem tới trưởng thành. Yêu
là đau bởi vì yêu đòi hỏi. Yêu là đau bởi vì yêu làm
biến đổi. Yêu là đau bởi vì yêu cho bạn sinh thành
mới.
Dục không chạm tới bạn chút nào. Nó là máy
móc. Nó chỉ là sinh lí. Yêu đem trái tim bạn vào quan
hệ - và khi trái tim trong quan hệ thì bao giờ cũng có
đau. Nhưng bạn đừng tránh đau. Nếu bạn tránh đau,
bạn sẽ bỏ lỡ mọi niềm vui của cuộc sống.
Trong dục có thể có thảnh thơi. Trong dục có thể
có lành mạnh và vệ sinh sinh lí. Nhưng không có
trưởng thành. Bạn vẫn còn là con vật. Với yêu bạn trở
thành con người. Với yêu bạn trở thành ở tư thế đứng
thẳng. Với yêu bạn bắt đầu đứng thẳng trên đất. Với
dục bạn lại là con vật, bạn nằm ngang trên đất, chỉ đi
như con vật, bò. Với yêu bạn đứng thẳng, theo chiều
đứng.
Với yêu có vấn đề. Với dục không có vấn đề chút
nào. Nhưng vấn đề là sự trưởng thành! Vấn đề càng
lớn, thì cơ hội càng lớn.
Cho nên bạn hỏi tôi: "Yêu có đau không?" Chắc
chắn yêu là đau, nhưng cái đau đó là phúc lành. Và
bạn đã cảm thấy nó, người hỏi đã cảm thấy nó. Câu
hỏi này là từ Deva Saguna.
Cô ấy nói: "Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với
hai mũi tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi."
Cô ấy là nhận biết rằng nó là đẹp. Bây giờ bạn
đừng co lại từ nó. Ngày càng nhiều ân huệ hơn đang
chờ bạn, nhưng, tất nhiên, cũng ngày càng nhiều đau
hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều người chưa hề yêu - nó
đau đớn thế. Họ chọn không yêu, nhưng thế thì họ
vẫn còn mang tính con vật; họ chưa bao giờ trở thành
con người, họ chưa bao giờ trở nên đứng thẳng. Họ
chưa bao giờ nắm cuộc sống mình trong tay mình. Họ
chưa bao giờ có giá trị gì - họ là vô giá trị. Yêu làm
cho bạn thành quí giá.
Và nếu bạn đang trong yêu, thế thì bạn sẽ thấy
rằng có cái đau sâu hơn mà đó là của lời cầu nguyện.
Nó làm bạn tan nát hoàn toàn. Yêu chưa bao giờ làm
bạn tan nát hoàn toàn. Nó đơn giản làm tan nát bạn
một chút, một chút ít. Nó làm tan nát lớp vỏ của bản
ngã bạn, nhưng phần trung tâm của bản ngã vẫn còn
nguyên. Thế thì có nỗi đau sâu hơn, sâu hơn yêu, và
đó là của lời cầu nguyện - nó làm tan nát bạn hoàn
toàn. Nó là cái chết. Khi bạn đã biết cách yêu, và bạn Câu hỏi thứ tư:
Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với hai mũi
tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi. Yêu có đau
không? Tôi ở đâu và tôi từ đây đi đâu?
Yêu là đau, nhưng cái đau này chắc chắn là phúc
lành. Dục không đau. Dục rất tiện lợi, thoải mái. Mọi
người dùng nó gần như thuốc giảm đau, thuốc an
thần.
Yêu là đau - bởi vì yêu đem tới trưởng thành. Yêu
là đau bởi vì yêu đòi hỏi. Yêu là đau bởi vì yêu làm
biến đổi. Yêu là đau bởi vì yêu cho bạn sinh thành
mới.
Dục không chạm tới bạn chút nào. Nó là máy
móc. Nó chỉ là sinh lí. Yêu đem trái tim bạn vào quan
hệ - và khi trái tim trong quan hệ thì bao giờ cũng có
đau. Nhưng bạn đừng tránh đau. Nếu bạn tránh đau,
bạn sẽ bỏ lỡ mọi niềm vui của cuộc sống.
Trong dục có thể có thảnh thơi. Trong dục có thể
có lành mạnh và vệ sinh sinh lí. Nhưng không có
trưởng thành. Bạn vẫn còn là con vật. Với yêu bạn trở
thành con người. Với yêu bạn trở thành ở tư thế đứng
thẳng. Với yêu bạn bắt đầu đứng thẳng trên đất. Với
dục bạn lại là con vật, bạn nằm ngang trên đất, chỉ đi
như con vật, bò. Với yêu bạn đứng thẳng, theo chiều
đứng.
Với yêu có vấn đề. Với dục không có vấn đề chút
nào. Nhưng vấn đề là sự trưởng thành! Vấn đề càng
lớn, thì cơ hội càng lớn.
Cho nên bạn hỏi tôi: "Yêu có đau không?" Chắc
chắn yêu là đau, nhưng cái đau đó là phúc lành. Và
bạn đã cảm thấy nó, người hỏi đã cảm thấy nó. Câu
hỏi này là từ Deva Saguna.
Cô ấy nói: "Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với
hai mũi tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi."
Cô ấy là nhận biết rằng nó là đẹp. Bây giờ bạn
đừng co lại từ nó. Ngày càng nhiều ân huệ hơn đang
chờ bạn, nhưng, tất nhiên, cũng ngày càng nhiều đau
hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều người chưa hề yêu - nó
đau đớn thế. Họ chọn không yêu, nhưng thế thì họ
vẫn còn mang tính con vật; họ chưa bao giờ trở thành
con người, họ chưa bao giờ trở nên đứng thẳng. Họ
chưa bao giờ nắm cuộc sống mình trong tay mình. Họ
chưa bao giờ có giá trị gì - họ là vô giá trị. Yêu làm
cho bạn thành quí giá.
Và nếu bạn đang trong yêu, thế thì bạn sẽ thấy
rằng có cái đau sâu hơn mà đó là của lời cầu nguyện.
Nó làm bạn tan nát hoàn toàn. Yêu chưa bao giờ làm
bạn tan nát hoàn toàn. Nó đơn giản làm tan nát bạn
một chút, một chút ít. Nó làm tan nát lớp vỏ của bản
ngã bạn, nhưng phần trung tâm của bản ngã vẫn còn
nguyên. Thế thì có nỗi đau sâu hơn, sâu hơn yêu, và
đó là của lời cầu nguyện - nó làm tan nát bạn hoàn
toàn. Nó là cái chết. Khi bạn đã biết cách yêu, và bạn đã biết rằng nỗi đau mà yêu đem tới là phúc lành trá
hình, nó là đẹp, nó cực kì đẹp, thế thì bạn trở nên có
khả năng và bạn lấy bước nữa - bước đó là lời cầu
nguyện.
Với người yêu con người thì bạn có thể tồn tại,
nhưng với Thượng đế là tình yêu của bạn thì bạn
không thể tồn tại được. Niềm đam mê đó lớn lao thế,
nó đơn giản đốt cháy bạn hoàn toàn. Không phần nào
còn lại. Trong yêu bạn đơn giản bị bỏng, nhưng bạn
vẫn còn đó. Người yêu vẫn còn, chờm lấp lên nhau,
đốt cháy nhau một chút trong ngọn lửa của mình,
nhưng không đốt cháy hoàn toàn. Đó là cái đẹp của
tình yêu, và đó cũng là khổ của nó nữa. Chừng nào
bạn còn chưa hoàn toàn bị tan nát, không phần nào
còn lại, bản ngã vẫn còn chưa chết, chưa hoàn toàn
chết, thì sẽ vẫn còn chút ít khổ.
Mọi người yêu đều cảm thấy chút ít khổ. Họ
muốn biến mất hoàn toàn, nhưng điều đó là không thể
được trong quan hệ con người. Quan hệ con người bị
giới hạn. Nhưng người ta học từ đó, rằng có một khả
năng: nếu nó có thể xảy ra nhiều thế trong quan hệ
con người, thì nó còn có thể xảy ra nhiều đến đâu
trong quan hệ với điều thiêng liêng?
Yêu làm cho bạn sẵn sàng lấy bước nhảy cuối
cùng, bước nhảy lượng tử. Đó là điều tôi gọi là lời cầu
nguyện, hay bạn có thể gọi nó là thiền. Nếu bạn dùng
thuật ngữ Phật giáo, thì nó là thiền; nếu bạn dùng
thuật ngữ Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo, đấy
là lời cầu nguyện. Nhưng ý nghĩa thì là một. Bạn phải
biến mất để cho Thượng đế hiện hữu. Yêu là mảnh
đất huấn luyện, là trường học, để học bài học thứ nhất
- về cái đẹp, về phúc lành của sự biến mất; để học
rằng đau đớn là ân huệ. Và thế thì ham muốn nảy sinh
để cảm thấy nỗi đau tối thượng. Người sùng kính
Hindu đã gọi nó là virah - nỗi đau tối thượng; nỗi đau
sẽ vẫn còn chừng nào người ta chưa bị Thượng đế
tiêu hoá, bị tiêu hoá trong Thượng đế.
Cho nên khi bạn đang yêu, hay khi tình yêu nảy
sinh, hợp tác với nó, đừng cố kháng cự. Mọi người
đều đi tới thoả hiệp. Những người yêu - tôi đã quan
sát hàng nghìn người yêu. Mọi ngày họ tới tôi; họ
đem vấn đề của mình tới. Nhưng vấn đề cơ bản mà tôi
đã nhìn thấy là ở chỗ những người yêu dần dần đi tới
thoả hiệp. Thoả hiệp đó là: Anh đừng làm đau tôi, tôi
sẽ không làm đau anh. Đó là điều hôn nhân là gì. Thế
thì mọi người trở nên được giải quyết. Họ trở nên sợ
đau đớn đến mức họ nói, "Đừng làm đau tôi và tôi sẽ
không làm đau anh." Nhưng thế thì khi đau biến mất,
tình yêu cũng biến mất. Chúng tồn tại cùng nhau.
Tôi đã nghe:
Bệnh nhân nam phàn nàn với nha sĩ rằng anh ta
đau khủng khiếp, nhưng anh ta cứ nhất định đòi giữ
chiếc răng. Nha sĩ mặc chiếc áo choàng trắng, điều
chỉnh đèn trên trán, khởi động máy khoan, và nói,
"Thôi được rồi, bây giờ há mồm ra và nhìn cho rõ
điều chúng ta có thể làm."
Thế là bệnh nhân tóm lấy phía dưới thắt lưng nha
sĩ. "Anh làm cái đồ chết tiệt gì đấy?" Nha sĩ la lên.
"Bây giờ," người này nói một cách thản nhiên,
vẫn không buông ra, "chúng ta sẽ không làm đau lẫn
nhau chứ?" 

Bây giờ đây là điều xảy ra. Khi bạn đang trong
yêu, thì yêu làm đau. Nó làm đau khủng khiếp. Thế là
các bạn tóm lấy nhau và các bạn nói, "Cái gì đấy...!
Cùng nhau thoả hiệp vậy: để cho nó không là chuyện
tình nữa - để cho nó thành hôn nhân. Làm nó thành
hợp pháp. Và anh sẽ không làm tổn thương em nếu
em không làm tổn thương anh." Thế rồi chồng và vợ
sống với nhau mà lại không cùng nhau. Họ sống với
nhau một mình. Nhiều nhất họ chịu đựng nhau. Họ là
bệnh nhân lẫn cho nhau, nhưng tình yêu đã biến mất.
Yêu là đau. Bạn đừng bao giờ chống lại, đừng bao
giờ tạo ra bất kì rào chắn nào cho nỗi đau. Cho phép
nó. Và dần dần bạn sẽ thấy rằng đấy đã là diễn giải
sai. Nó không thực sự là đau. Nó chỉ là cái gì đó đi
sâu vào trong bạn tới mức bạn diễn giải nó như cái
đau. Bạn không biết cái gì khác. Bạn chỉ nhận biết về
cái đau trong kiếp sống quá khứ của mình, trong kinh
nghiệm quá khứ của mình. Bất kì khi nào cái gì đó
thấm vào sâu, bạn đều diễn giải nó như cái đau.
Đừng dùng từ 'đau'. Khi yêu và mũi tên của tình
yêu đi sâu vào trong trái tim bạn, nhắm mắt lại và
đừng dùng lời - chỉ thấy nó là cái gì, và bạn sẽ không
bao giờ thấy nó là cái đau. Bạn sẽ thấy nó là phúc
lành. Bạn sẽ bị xúc động cực kì bởi nó. Bạn sẽ cảm
thấy vui sướng.
Đừng dùng lời. Khi cái gì đó mới xảy ra cho bạn,
bao giờ cũng cho phép cái nhìn sâu sắc vào trong nó
mà không có ngôn ngữ nào cả.
Câu hỏi cuối cùng:
Thầy không phải là guru của người giầu sao?
Tôi có chứ - bởi vì chỉ người giầu mới có thể tới
với tôi. Nhưng khi tôi nói 'người giầu' tôi ngụ ý người
rất nghèo bên trong. Khi tôi nói 'người giầu' thì tôi
ngụ ý người giầu về thông minh; tôi ngụ ý người đã
có mọi thứ mà thế giới có thể cho người đó, và đã
thấy rằng nó là vô tích sự.
Vâng, chỉ người giầu mới có thể trở nên có tính
tôn giáo. Tôi không nói rằng người nghèo không thể
trở nên có tính tôn giáo, nhưng điều đó là rất hiếm
hoi, ngoại lệ. Người nghèo cứ hi vọng. Người nghèo
còn chưa biết giầu có là gì. Người đó còn chưa bị thất
vọng với nó. Làm sao người đó có thể vượt ra ngoài
giầu có nếu người đó không bị thất vọng với chúng?
Người nghèo đôi khi cũng tới tôi, nhưng thế thì người
đó tới vì cái gì đó mà tôi không thể cung cấp được.
Người đó hỏi về thành công. Con của người đó chưa
có việc làm; người đó hỏi, "Osho ơi, xin ban phúc cho
nó." Vợ người đó ốm, hay người đó bị mất tiền trong
thời nhộn nhạo này. Đây là triệu chứng của người
nghèo, người cứ hỏi về những thứ của thế giới này.
Khi người giầu tới tôi, người đó có tiền, người đó
có việc làm, người đó có nhà, người đó có sức khoẻ -
người đó có mọi thứ mà người ta có thể có. Và bỗng nhiên người đó đã đi tới nhận ra rằng chẳng có gì thoả
mãn cả. Thế thì việc tìm kiếm Thượng đế bắt đầu.
Vâng, đôi khi người nghèo cũng có thể mang tính
tôn giáo, nhưng để có điều đó thì cần có thông minh
rất lớn. Người giầu, nếu người đó không mang tính
tôn giáo, là người ngu. Người nghèo, nếu người đó
mang tính tôn giáo, là cực kì thông minh. Nếu người
nghèo không mang tính tôn giáo, người đó phải được
tha thứ. Nếu người giầu không mang tính tôn giáo, tội
lỗi của người đó là không thể dung thứ được.
Tôi là guru của người giầu. Điều đó tuyệt đối là
như vậy. Để tôi kể cho bạn một giai thoại:
Họ đã cưới nhau được hai mươi nhăm năm và họ
đã có cuộc tranh luận lớn nhất vào ngày kỉ niệm đám
cưới bạc của mình. Cô ấy chưa bao giờ xúc phạm
nặng hơn hay thấp hơn: "Nếu như đấy mà không phải
là tiền của em, thì cái ti vi kia đã không ở đây rồi. Nếu
như đấy không phải là tiền của em, thì chính cái ghế
anh đang ngồi đã không có ở đây rồi!"
"Em có trẻ con không đấy?" Anh ta ngắt lời. "Nếu
như đấy không phải là tiền của em - thì anh đã không
ở đây rồi!"
Và để tôi nói điều này cho bạn: Nếu như đấy
không phải là tiền của bạn, thì bạn đã không ở đây rồi.
Bạn ở đây bởi vì bạn thất vọng với tiền của mình. Bạn
ở đây vì bạn thất vọng với thành công của mình. Bạn
ở đây vì bạn thất vọng với cuộc sống của mình. Người
ăn mày không thể tới được bởi vì người đó còn chưa
thất vọng.
Tôn giáo là xa hoa - xa hoa cuối cùng, tối thượng,
tôi gọi nó thế, bởi vì nó có giá trị cao nhất. Khi con
người bị đói, người đó không quan tâm tới âm nhạc,
không thể được. Và nếu bạn bắt đầu chơi đàn sitar
trước người đó, người đó sẽ giết bạn. Người đó sẽ nói,
"Anh sỉ nhục tôi! Tôi đang đói còn anh lại chơi đàn
sitar - đây là lúc chơi đàn sitar sao? Cho tôi ăn trước
hết! Và tôi đói tới mức tôi không thể nào hiểu được
âm nhạc. Tôi đang chết đây!" Khi một người sắp chết
đói, bức hoạ của van Gogh phỏng có ích gì? hay buổi
thuyết pháp của phật? hay Upanishads hấp dẫn, hay
âm nhạc? - vô nghĩa. Người đó cần bánh mì.
Khi người ta hạnh phúc với thân thể mình, có đủ
ăn, có nhà đẹp để sống, người đó bắt đầu trở nên quan
tâm tới âm nhạc, thơ ca, văn học, hội hoạ, nghệ thuật.
Bây giờ cơn đói mới nảy sinh. Nhu cầu thân thể đã
được thoả mãn, bây giờ nhu cầu tâm lí nảy sinh. Có
cấp bậc trong nhu cầu: thứ nhất là thân thể; nó là cơ
sở, nó là nền tảng của con người bạn. Không có nền
tảng này, tầng thứ nhất không thể tồn tại được.
Khi nhu cầu thân thể bạn được đáp ứng, nhu cầu
tâm lí nảy sinh. Khi nhu cầu tâm lí của bạn cũng được
đáp ứng, nhu cầu tâm linh của bạn nảy sinh. Khi một
người đã nghe tất cả âm nhạc có sẵn trên thế giới, và
đã thấy tất cả những cái đẹp, và đã thấy rằng nó tất cả
đều là giấc mơ; đã nghe tất cả các nhà thơ lớn, và đã
thấy rằng đấy chỉ là cách để quên đi bản thân mình,
chỉ là cách làm say bản thân mình, mà nó chẳng dẫn
bạn tới đâu cả; đã thấy tất cả mọi bức tranh và các tác phẩm nghệ thuật lớn - vui vẻ, giải trí, nhưng rồi cái
gì...? Thế thì tay vẫn còn trống rỗng, còn trống rỗng
hơn chúng trước đây. Thế thì âm nhạc và thơ ca là
không đủ. Thế thì ham muốn thiền, ham muốn cầu
nguyện, cơn đói Thượng đế, cơn đói chân lí nảy sinh.
Một đam mê lớn chiếm hữu lấy bạn và bạn đi vào
trong việc tìm kiếm chân lí, bởi vì bạn bây giờ biết:
chừng nào bạn còn chưa biết chân lí tối mật của sự
tồn tại này là gì, thì không cái gì có thể thoả mãn
được. Tất cả những cái khác bạn đã thử và nó đã thất
bại.
Tôn giáo là xa hoa tối thượng. Hoặc bạn phải trở
nên rất giầu để đi tới xa hoa này, hoặc bạn phải cực kì
thông minh. Nhưng trong cả hai trường hợp bạn đều
giầu - giầu bằng tiền bạc hay giầu bằng thông minh.
Tôi chưa bao giờ thấy một người thực sự nghèo -
nghèo về thông minh, nghèo về của cải - mà trở nên
mang tính tôn giáo.
Kabir đã trở nên có tính tôn giáo. Ông ấy không
phải là triệu phú, nhưng ông ấy cực kì thông minh.
Phật đã trở nên có tính tôn giáo bởi vì ông ấy cực kì
giầu. Krishna và Ram và Mahavira đã trở nên mang
tính tôn giáo bởi vì họ cực kì giầu. Dadu, Raidas,
Farid, họ đã trở nên mang tính tôn giáo bởi vì họ đã
cực kì thông minh. Nhưng một loại giầu có nào đó là
cần thiết.
Vâng, bạn phải: tôi là guru của người giầu.


Câu hỏi thứ nhất:
Chính ước ao của các thần là thấy rằng biết
bao nhiêu đàn ông và đàn bà, hầu hết đều trẻ
trung và thông minh, từ khắp trên hoàn cầu, đã
tụ tập tại đạo tràng của thầy để tìm kiếm chân lí
và tôn giáo thực. Nhưng thầy lại không đồng
thời đặt nền tảng cho một tôn giáo có tổ chức
khác, lần này là một tôn giáo toàn cầu, mà sẽ
lại biến thành sự trở ngại trên con đường của
chân lí và bản thân tôn giáo sao, hay là tôn
giáo có tổ chức cũng đóng một vai trò tích cực?

Điều thứ nhất và quan trọng nhất cần phải nhớ là:
đừng bao giờ nghĩ về tương lai, và đừng bao giờ bị
vướng víu với quá khứ. Trong khi tôi đang ở đây, bạn
tận hưởng tôi. Trong khi tôi đang ở đây, bạn đừng bỏ
lỡ cơ hội này.
Đây là tâm trí đang giở trò. Bạn không tận hưởng
tôi. Bạn không vui mừng - bạn đang tạo ra lo nghĩ cho
chính mình. Bây giờ lo nghĩ là về tương lai - bạn là ai
mà phải lo nghĩ về tương lai? Và làm sao bạn có thể
xoay xở quản lí được nó? - không có cách nào cả.
Tương lai sẽ lấy quá trình riêng của nó. Chúng ta
không thể xoay xở tương lai theo một cách chắc chắn,
rằng nó phải như thế hay phải không như thế. Mọi nỗ
lực bao giờ cũng thất bại.
Phật đã cố gắng rằng không nên tồn tại bất kì tôn
giáo có tổ chức nào nhân danh ông ấy. Ông ấy đã cố
gắng rằng không nên có hình ảnh nào được tạo ra về
ông ấy, nhưng lại có nhiều hình ảnh về Phật hơn bất
kì ai khác trên thế giới. Có vài ngôi đền được gọi là
'đền nghìn Phật' - một nghìn lẻ một ảnh. Có một ngôi
đền ở Trung Quốc, một ngôi đền hang động, có mười
nghìn ảnh Phật.
Ngay cả Phật cũng không thể xoay xở được điều
đó. Không có cách nào để xoay xở điều đó cả. Cách
duy nhất là dùng hiện tại, và để tương lai cho tương
lai. Sẽ có mọi người; chúng ta sẽ không ở đây - điều
họ sẽ làm với lời của tôi, đấy là tự do của họ. Nếu họ
muốn tạo ra xiềng xích từ chúng, thì đấy là tự do của
họ. Nếu họ muốn được giải thoát bằng những lời này,
đấy là tự do của họ. Nếu họ muốn làm ra nhà tù từ ngôi đền mà chúng ta đang tạo ra, thế thì đấy là tự do
của họ! Và đấy là chọn lựa của họ. Chúng ta là ai mà
can thiệp vào?
Bây giờ, Krishnamurti đang cố can thiệp vào
tương lai. Ông ấy liên tục nghĩ về điều sẽ xảy ra trong
tương lai, để cho không manh mối nào được để lại
cho tương lai, để cho tôn giáo không thể được tổ
chức. Nhưng thường xuyên bận tâm quá nhiều về
tương lai là sai. Chúng ta là ai? Tương lai thuộc về
tương lai và sẽ thuộc về các thế hệ tương lai - họ sẽ
làm bất kì điều gì họ thích làm.
Một điều tôi có thể nói: đấy là tự do của họ, bất kì
điều gì họ làm, và tôi chẳng có gì mà chống lại họ.
Nếu họ muốn sống trong tù, thì họ sẽ sống trong tù.
Họ sẽ tìm ra cách để làm ra nhà tù từ bất kì cái gì - họ
bao giờ cũng làm như vậy.
Tôi không bận tâm với tương lai chút nào. Tôi
hoàn toàn ở đây bây giờ. Và đây là điều tôi muốn bạn
cũng vậy, ở đây và bây giờ. Bất kì điều gì đang xảy ra
giữa tôi và bạn, bạn đừng cho phép bất kì can nhiễu
nào. Ý tưởng này chỉ là cái bẫy của tâm trí. Đây là
điều thứ nhất tôi muốn nói.
Điều thứ hai: thậm chí tôn giáo có tổ chức cũng
đóng một vai trò tích cực. Vài trò tích cực bao gồm
việc khêu gợi, thách thức. Ngay cả nhà tù cũng đóng
vai trò tích cực: nó khêu gợi tinh thần của người dũng
cảm; nó trở thành thách thức về tự do - nó có qui tắc
của nó, chức năng của nó.
Tôi không nói hãy sống trong tù. Trong thực tế,
bản thân nhà tù buộc bạn phải thoát ra khỏi nó. Bản
thân nhà tù có thể được dùng theo cách tích cực. Nếu
bạn bị tống vào tù, tinh thần bạn sẽ liên tục suy ngẫm
và nghĩ cách thoát ra khỏi nó, cách tìm ra cách thức
và phương tiện để trốn thoát. Trong nhà tù linh hồn
dũng cảm sẽ bắt đầu nghiền ngẫm và mơ về tự do.
Nhà tù càng lớn, cấu trúc ép buộc càng lớn, sẽ càng
có nhiều thách thức hơn. Chỉ kẻ hèn nhát mới chấp
nhận nó.
Nhưng kẻ hèn nhát, cho dù họ ở ngoài tù, vẫn sẽ
còn trong tù bởi vì họ không định đi đâu cả - họ bị
cầm tù trong tính hèn nhát của mình. Còn người dũng
cảm, cho dù trong tù, sẽ cố gắng phá vỡ ra, họ sẽ cố
gắng thoát ra. Và trong chính nỗ lực để thoát ra đó,
sức mạnh được sinh ra. Trong chính cuộc vật lộn để
thoát ra đó, con người mới được sinh ra; họ có ý thức
mới về sự khẩn thiết, lực và sức mới.
Không cái gì sai cả. Nhưng nhớ lấy, khi tôi nói
không cái gì sai, tôi không nói thảnh thơi và đi ngủ
trong tù. Tôi đang nói nhà tù có thể được dùng theo
cách tích cực. Thậm chí nhà bạn cũng có thể trở thành
nhà tù nếu bạn dùng nó theo cách tiêu cực - đó là điều
nó đã trở thành cho hàng triệu người. Họ sống trong
nhà mình, nhưng họ sống trong nhà tù. Họ gọi nó là
nhà mình, nhưng đấy là hèn nhát của họ. Họ đã đánh
mất tính phiêu lưu của linh hồn. Họ không còn mang
tính phiêu lưu nữa. Họ không còn là kẻ lang thang
nữa. Họ không còn quan tâm tới cái không biết, cái
không quen thuộc. Họ bao giờ cũng mang theo bản đồ
tới bất kì chỗ nào họ đi. Họ sống cuộc sống vay
mượn. Họ không có bất kì đam mê nào để đi vào trong lãnh thổ chưa được thăm dò, để đi tới đại
dương, đi vào trong nguy hiểm, và đối diện với cuộc
sống.
Khi bạn trong nguy hiểm và bạn đang đối diện với
cuộc sống, bạn lần đầu tiên tiếp xúc với linh hồn
mình. Linh hồn là không rẻ. Bạn phải đánh cược mọi
thứ. Đó là lí do tại sao tôi lại nói ngay cả tôn giáo có
tổ chức cũng có thể là điều tích cực.
Phật đã được sinh là người Hindu. Hindu giáo đã
trở thành nhà tù. Ông ấy đã cố gắng vất vả để thoát ra
khỏi nó, và ông ấy đã thành công. Krishnamurti đã
được huấn luyện theo một kỉ luật nào đó, là một bạn
tù của nhà tù có tên là thông thiên học - nhưng ông ấy
đã cố gắng vất vả, phá vỡ nó, trở nên tự do với nó.
Nếu bạn hỏi tôi thì tôi sẽ nói một điều: nếu như không
có việc tù túng thông thiên học của ông ấy trong thời
thơ ấu của mình, thì sẽ khó cho ông ấy trở thành con
người tự do. Annie Besant và Leadbeater và các nhà
thông thiên khác đã tạo ra toàn bộ tình huống này -
một cách không chủ ý, tất nhiên, họ đã không dự tính
điều đó. Họ đã cố gắng làm một cái gì đó khác. Họ đã
tạo ra giáo điều quanh ông ấy, sùng bái quanh ông ấy.
Và họ đã nghiêm khắc với ông ấy đến mức điều đó
thực sự trở thành không thể sống được trong nó. Ông
ấy đã phải thoát ra khỏi nó. Danh tiếng thuộc về
những người đó - Leadbeater và Annie Besant.
Nếu như nhà tù này có chút ít thoải mái hơn, nếu
như nhà tù này không hà khắc thế và nếu như kỉ luật
bị áp đặt này không nghiệt ngã thế, nếu những ý
tưởng này không siêu nhân thế, nếu như ông ấy không
bị yêu cầu đóng vai trò phi tự nhiên thế, ông ấy có thể
đã thảnh thơi, ông ấy có thể đã chấp nhận điều đó. Đó
là điều đáng lẽ xảy ra cho ông ấy.
Người Ki tô giáo vẫn còn là người Ki tô giáo bởi
vì Ki tô giáo không còn là áp lực lớn nữa. Vào chủ
nhật bạn có thể tới nhà thờ - đấy là nghi lễ. Cuộc sống
vẫn còn là cuộc sống của người không Ki tô giáo. Bạn
cứ hoàn thành các nghi lễ của việc là người Ki tô
giáo. Ki tô giáo của bạn thậm chí không sâu hơn lớp
da, và nhà thờ không yêu cầu nhiều. Nhà thờ nói,
"Bạn chỉ cần tới nhà thờ vào một ngày đặc biệt thôi:
khi con bạn ra đời, tới nhà thờ làm lễ rửa tội; khi ai đó
chết, tới nhà thờ; khi có hôn nhân, tới nhà thờ - ba
điều này sẽ đủ và bạn sẽ vẫn còn là người Ki tô giáo.
Đôi khi chủ nhật tới và tham dự buổi lễ."
Chẳng bị đòi hỏi gì nhiều cả. Nhà tù này không
giống mấy với nhà tù. Gần như là bạn tự do, chỉ vào
chủ nhật bạn mới tới trại giam và ngồi đó trong một
giờ rồi về nhà và bạn lại tự do. Ai bận tâm? Ai sẽ
tranh đấu lại nó? Nó thuận tiện và thoải mái thế.
Đó là lí do tại sao nhiều người thế lại là người
Hindu và người Mô ha mét giáo và người Jaina giáo -
không ai hỏi cả. Những tôn giáo này chỉ là nghi lễ
hình thức; chúng không thách thức bạn. Chẳng cái gì
lâm nguy cả. Rất khó thoát ra khỏi chúng - bởi vì nhà
tù rất nhạt nhoà. Bạn đã trở nên được điều chỉnh theo
nó. Nó thuận tiện và thoải mái tới mức bạn đã được
điều chỉnh theo nó. Nó có vẻ gần giống như chính
sách tốt, thoả hiệp tốt.
Krishnamurti đã rơi vào tay của một nhóm rất
cuồng tín - những người thông thiên học. Đấy là một
tôn giáo mới. Bất kì khi nào một tôn giáo là mới, nó đều rất cuồng tín. Dần dần, nó lỏng ra và thoả hiệp và
trở thành chỉ là hiện tượng xã hội; thế thì nó không
còn là tôn giáo nữa. Thông thiên học chỉ mới trong sự
bắt đầu của nó, và Krishnamurti cũng mới chỉ chín
tuổi khi ông ấy rơi vào tay của những kẻ cuồng tín
này. Họ đã cố gắng vất vả. Họ đã không cho phép
Krishnamurti gặp gỡ và hoà lẫn vào với trẻ con bình
thường - không - bởi vì họ đã có một mục đích rằng
ông ấy phải trở thành Thầy Thế giới, jagatguru. Ông
ấy phải trở thành Phật-sắp tới; ông ấy phải trở thành
hoá thân của Di Lặc.
Ông ấy đã không được phép đi với bất kì cô gái
nào, bởi vì ông ấy có thể sẽ yêu và toàn bộ giấc mơ
của các nhà thông thiên sẽ bị tan tành. Ông ấy thường
xuyên bị canh gác. Ông ấy không được phép đi một
mình; ai đó bao giờ cũng đi cùng ông ấy, theo dõi ông
ấy. Và ông ấy bị buộc phải theo những qui tắc rất
nghiêm khắc: ba giờ sáng ông ấy phải dậy và tắm
nước lạnh; và thế rồi ông ấy phải học tiếng Phạn và
ông ấy phải học tiếng Pháp và ông ấy phải học tiếng
Anh và ông ấy phải học tiếng Latin và tiếng Hi Lạp -
bởi vì Thầy Thế giới phải có giáo dục tốt, công phu.
Một đứa trẻ mới chín tuổi!
Khi ông ấy mười hai tuổi, họ bắt đầu buộc ông ấy
viết sách. Bây giờ một đứa trẻ mười hai tuổi thì có thể
viết cái gì? Trong thực tế, ông thầy, Leadbeater, ông
này đã viết nhân danh ông ấy. Krishnamurti viết và
Leadbeater sửa nó và làm nó hoàn thiện. Cuốn sách
vẫn tồn tại. Một cuốn sách hay, nhưng bạn không thể
trông đợi nó từ một đứa trẻ chỉ mới mười hai tuổi. Nó
không phải là từ ông ấy. Ngay cả Krishnamurti cũng
không thể nhớ được nó. Khi được hỏi ông ấy đã nói,
"Tôi không nhớ khi nào tôi viết nó - tôi không nhớ
chút nào làm sao nó lại có được."
Và họ đã nói những điều vô nghĩa - vô nghĩa bí
truyền: "Trong giấc mơ ông ấy lên tầng trời thứ bẩy,
và ở đó bản thân Thượng đế dạy cho ông ấy." Và chỉ
một đứa trẻ mười hai tuổi - rất mong manh, mềm mại,
nhạy cảm; ông ấy đã tin cậy. Và những người này là
nổi tiếng thế giới; họ có những cái tên vĩ đại. Và
phong trào này thực sự lớn và qui mô toàn thế giới;
hàng nghìn và hàng nghìn phòng họp đã được mở ra
trên khắp thế giới.
Chỉ một đứa trẻ mười hai tuổi đã trở thành một
nhân cách nổi tiếng thế giới. Bất kì nơi đâu ông ấy
tới, hàng nghìn người sẽ tụ tập để nhìn ông ấy. Nếu
bạn nhìn vào những bức tranh đó, thì bạn sẽ cảm thấy
thương hại cho ông ấy, thấy trắc ẩn với ông ấy. Ông
ấy liên tục trong giam giữ. Và điều đó là tự nhiên, tôi
nghĩ điều đó sẽ xảy ra cho bất kì ai - điều đó chẳng
liên quan gì với Krishnamurti. Bất kì ai ở vào địa vị
của ông ấy, nếu người đó còn bất kì tinh thần nào, thì
cũng sẽ từ bỏ toàn bộ cái điều vô nghĩa này, và sẽ
thoát ra khỏi nó. Điều đó còn quá đáng hơn nhà tù.
Ông ấy không thể viết thư cho bất kì ai bởi vì ông
ấy có thể tạo ra quan hệ qua thư từ. Người Thầy Thế
giới cần phải hoàn toàn không bị ràng buộc. Ông ấy
bắt đầu cảm thấy chút ít tình yêu với một người đàn
bà, người đủ già để làm mẹ ông ấy, nhưng thậm chí
điều đó cũng bị chấm dứt. Điều đó chẳng liên quan gì
tới bản năng dục hay bất kì cái gì; ông ấy chỉ bắt đầu
cảm thấy yêu một người đàn bà. Người đàn bà đó đã là mẹ của ba đứa con - nhưng các nhà thông thiên học
đã không cho phép điều đó. Họ đã chấm dứt nó.
Ông ấy đã hoàn toàn ở ẩn dật, chưa bao giờ được
phép đi ra thế giới bên ngoài. Ông ấy đã không được
phép vào bất kì trường học nào, bất kì đại học nào,
bởi vì tại đó ông ấy sẽ gặp người thường và ông ấy sẽ
trở thành bình thường. Những thầy giáo đặc biệt đã
được chỉ định; ông ấy được dạy một cách đặc biệt. Và
tất cả xung quanh ông ấy, một đứa trẻ mới chín tuổi,
tất cả mọi người quanh ông ấy đều cao lớn thế - các
bậc thầy, Thầy K.H. gửi thông báo, thư rơi từ mái nhà
xuống. Chúng đã được thu xếp tất cả! Các nhà thông
thiên học về sau bị bắt - họ đã thu xếp tất cả: cái mái
đã được chế tạo đặc biệt và thư sẽ rơi xuống bất thần,
và đấy là cho Krishnamurti - một thông báo đã tới từ
cái không biết.
Bạn hãy nghĩ tới một đứa nhỏ.... Không tự do nào
được phép đã trở thành một thôi thúc lớn để được tự
do. Một ngày nào đó - không ai trông đợi điều đó, ông
ấy sẽ từ bỏ nó - các nhà thông thiên từ trên khắp thế
giới đã tụ tập lại cho việc công bố lần đầu tiên mà
trong đó Krishnamurti được trông đợi tuyên bố rằng
mình là người Thầy Thế giới và rằng Thượng đế đã đi
vào trong ông ấy.
Bỗng nhiên, không nói gì với bất kì ai.... Ông ấy
có thể đã không ngủ cả đêm. Ông ấy đã nghiền ngẫm
mãi về điều đó: ông ấy đã trở thành nô lệ, và họ tất cả
đều là những người làm điều tốt; họ đã làm bạn thành
nô lệ bởi vì họ muốn làm điều tốt cho bạn; và họ yêu
bạn và tình yêu của họ thành phát buồn nôn; và ý tốt
của họ thành độc hại. Cả đêm ông ấy đã nghiền ngẫm:
ông ấy phải làm gì? Liệu ông ấy phải tiếp tục và trở
thành một phần của điều vô nghĩa này, hay thoát ra
khỏi nó?
Và may mắn với ông ấy là đến sáng khi họ đã tụ
tập và họ đang chờ đợi Thượng đế giáng xuống trong
ông ấy và tuyên bố rằng ông ấy bây giờ không còn là
Krishnamurti nữa mà là ông ấy Di Lặc - Phật đã đi
vào trong ông ấy - thì bỗng nhiên ông ấy lại từ chối và
ông ấy nói, "Đây tất cả đều là điều vô nghĩa. Không ai
đã giáng xuống trong tôi cả. Tôi chỉ là Krishnamurti
và tôi không là thầy của ai cả. Và tôi không là
jagatguru, không là Thầy Thế giới. Và tôi giải tán cái
điều vô nghĩa này và cái tổ chức này và toàn bộ
những cái đã được dựng lên quanh tôi."
Họ bị choáng váng! Họ không thể nào tin được
vào điều đó: "Ông ấy đã phát điên, phát rồ rồi sao?"
Họ đã đặt quá nhiều hi vọng vào ông ấy, nhiều tiền
bạc; đấy là đầu tư lớn, nhiều năm đào tạo. Nhưng nó
sẽ là vậy thôi. Nếu như ông ấy mà là con người hoàn
toàn chết, chỉ thế thì ông ấy mới chấp nhận điều đó.
Ông ấy sống động. Họ không thể nào giết chết được
cuộc sống của ông ấy, cái sống động đó bùng nổ.
Nếu như ông ấy là một tâm trí đờ đẫn, xoàng
xĩnh, thì có thể ông ấy đã chấp nhận - nhưng ông ấy
thông minh, nhận biết vô biên. Ông ấy đã thoát ra
khỏi nó. Toàn bộ phong trào đó và toàn bộ điều được
tổ chức đã vận hành như một thách thức tích cực.
Như tôi thấy, thì chẳng cái gì có thể giữ được bạn.
Nếu bạn tỉnh táo, bạn sẽ dùng tôn giáo có tổ chức như
một thách thức. Nếu bạn không tỉnh táo, thế thì tôn
giáo có tổ chức hay tôn giáo không tổ chức, dù bạn ở đâu bạn cũng sẽ tạo ra tù túng quanh mình. Bạn mang
nó quanh mình - trong hèn nhát của mình, trong nỗi
sợ của mình, trong thôi thúc của mình để được an
toàn và thoải mái.
Câu hỏi thứ hai:
Trong hai mươi nhăm năm qua tôi đã thuộc về
tổ chức nhà thờ của những người phiêu lưu
ngày thứ bẩy, (Saturday Sabbath). Mặc dầu tôi
tập trung vào nghe thầy, nhưng tôi vẫn chưa
qua được giai đoạn xung đột. Một trong những
xung đột đã là liệu Ellen G. White, người sáng
lập của nhà thờ này, có là sứ giả của Thượng đế
hay không.
Xin thầy giải thích điều đó cho tôi.
Mọi người đều là sứ giả của Thượng đế, hay
không ai cả. Toàn bộ ý tưởng rằng ai đó là nhà tiên tri
và ai đó là tirthankara và ai đó là sứ giả hay một
Christ là ngớ ngẩn. Tất cả các bạn đều tới từ cùng một
gốc. Không ai là đặc biệt cả. Và đây là điều người tôn
giáo cố gắng sống theo.
Người tôn giáo là người thấy rằng mình là bình
thường. Người tôn giáo là người thấy rằng mình đích
xác là hệt như người khác, và người đó không giả vờ
là đặc biệt - bởi vì chính cái ý tưởng rằng "mình đặc
biệt" là ngu xuẩn; chính cái ý tưởng rằng "mình là
người được chọn" mang tính bản ngã. Và người tôn
giáo không thể công bố điều đó được - người tôn giáo
không có công bố nào.
Người đó đơn giản chấp nhận và người đó hiểu
rằng mình là một phần của vũ trụ này cũng như bạn là
một phần của vũ trụ này. Người đó chưa bao giờ đặt
bản thân mình lên trên bạn. Đây là 'cái trên' của người
đó, rằng người đó không hề nghĩ rằng mình là phi
thường hay đặc biệt theo cách nào đó. Người đó
không hề mang thái độ của việc 'linh thiêng hơn bạn'.
Người đó biết rằng bạn cũng là thượng đế và mang
tính thượng đế. Có thể bạn không nhận ra điều đó -
đấy lại là vấn đề khác.
Khác biệt giữa tôi và bạn chỉ là một điều: tôi nhận
ra mình là ai; bạn không nhận ra - nhưng không có
khác biệt khác. Bạn đích xác hệt như tôi đang đây.
Bạn là vị phật ngủ, nhưng không có vấn đề về bất kì
khác biệt nào. Vị phật là vị phật, dù ngủ hay thức.
Bạn có thể đã không bắt gặp điều thiêng liêng của
mình, bạn có thể đã không thử, bạn có thể đã không
mở cánh cửa của kho báu bên trong của mình, nhưng
kho báu vẫn tồn tại. Bạn có thể nghĩ rằng bạn không
đặc biệt còn tôi đặc biệt, nhưng làm sao tôi có thể
nghĩ theo cùng cách đó được? Bạn có thể nghĩ điều đó
- việc đó là tự nhiên.
Mọi người có thể nghĩ rằng Christ là đặc biệt -
điều đó là tự nhiên, bởi vì Christ có vẻ đặc biệt. Ông
ấy là đặc biệt theo một cách nào đó, bởi vì ông ấy đã
nhận ra tính thượng đế của mình, và theo chính việc
nhận ra đó thì ông ấy trở thành chói sáng, ánh sáng trong trẻo không khói, ngọn lửa thuần khiết. Mọi
người nhận ra rằng ông ấy là đặc biệt. Nhưng làm sao
Jesus có thể nói ông ấy là đặc biệt được? Trong việc
nhận ra ngọn lửa bên trong riêng của mình, trong việc
nhận ra tính thượng đế bên trong riêng của mình, ông
ấy đã nhận ra tính thượng đế của mọi người - không
chỉ về con người mà về cây cối và chim chóc và
muông thú, thậm chí cả đất đá. Ngay cả đất đá ông ấy
cũng biết bây giờ đều là các thần - ngủ say, ngáy. Một
ngày này nọ đá sẽ thức tỉnh và sẽ trở thành thượng đế!
Bạn có thể không thấy mình là ai, nhưng tôi thì
thấy bạn là ai. Cái ngày tôi nhận ra mình là ai, tôi
cũng nhận ra cốt lõi bên trong nhất của mọi người.
Người tôn giáo không thể nghĩ được mình là đặc biệt.
Và người tôn giáo không thể nghĩ rằng bạn đáng kết
án, rằng bạn là tội đồ. Người tôn giáo bắt đầu cười.
Người đó cười bạn bởi vì bạn là thánh nhân mà cứ
nghĩ mình là tội đồ. Người đó cười bạn vì bạn là
Thượng đế mà cứ nghĩ mình là ai đó khác. Toàn bộ
điều này dường như là ngớ ngẩn - có vẻ đóng kịch
làm sao! Mọi người đều đeo mặt nạ và hoàn toàn
quên mất khuôn mặt nguyên thuỷ riêng của mình.
Khuôn mặt của bạn là khuôn mặt của Thượng đế.
Cho nên bất kì ai cố gắng chứng minh rằng mình
là đặc biệt, bất kì ai - Ellen G. White hay Đức Cha
Moon hay Satya Sai Baba - bất kì ai nói rằng người
đó đặc biệt thì đều đơn giản khẳng định rằng người đó
vẫn còn chưa biết.
Satya Sai Baba nói, "Làm sao kiến có thể biết
được chiều sâu của đại dương?" Bây giờ điều này là
ngu xuẩn, điều này là đần độn, bởi vì kiến cũng là
thượng đế như Satya Sai Baba. Nếu bạn hỏi tôi liệu
Satya Sai Baba có là thượng đế hay không, thì tôi sẽ
nói có, ông ấy là thượng đế - ông ấy là thượng đế giả
nhưng Thượng đế tất cả đều như nhau. Ông ấy là
thượng đế ảo thuật, ông ấy bị lạc trong ảo thuật. Ai đó
có thể là kẻ ngu, thế thì người đó là thượng đế ngu -
nhưng tôi không thể phủ nhận được rằng ông ấy là
thượng đế, tôi không thể nói điều phủ nhận đó được.
Mọi người đều là Thượng đế đang đóng các vai khác
nhau.
Bạn không thể nói rằng ai đó khác chỉ như kiến -
ngay cả kiến cũng không phải là kiến. Đó là điều
người tôn giáo nhận ra. Người đó nói, "Chó có thể cứ
sủa nhưng sao sẽ không rơi xuống." Bây giờ bạn đang
nhìn vào chó theo cách rất kết án. Và 'chó' (dog) lại
không là gì ngoài 'thượng đế' (god) đọc ngược lại. Và
chó là ai? Bạn đang nói tới ai? Chó không tồn tại, bởi
vì chó cũng là thượng đế - giả vờ là chó, chơi trò chơi
là một con chó.
Người tôn giáo, người đã về nhà, nhận ra rằng
toàn thể sự tồn tại này là thiêng liêng, thiêng liêng vô
điều kiện. Không có 'thượng đế' và 'không thượng đế'
- toàn thể sự tồn tại được tạo nên từ một tính và tính
đó là tính thiêng liêng.
Nhưng có những người cứ đi tìm những cuộc
hành trình mới cho bản ngã. Đôi khi đấy là tiền bạc,
đôi khi đấy là chính trị, đôi khi đấy là tôn giáo, nhưng
việc tìm kiếm thì vẫn thế - bản ngã. Và tôn giáo chỉ
xảy ra khi có việc bản ngã mất đi; khi bản ngã bị mất,
khi bản ngã bị tan tành, và bạn bỗng nhiên có đó mà không ý tưởng gì về bất kì cái 'tôi' nào. Bạn hiện hữu,
nhưng không có 'tôi' trong nó.
Tôi không nói trở nên khiêm tốn, bởi vì bản ngã
thậm chí cũng có thể thử điều đó - nó thử đấy! Nó có
thể trở thành khiêm tốn. Nó có thể giả vờ là khiêm
tốn, nhưng thế thì nhìn vào mắt của người khiêm tốn
kia: người đó nói "Tôi là không ai cả," nhưng người
đó đang đợi bạn nói "Anh là con người vĩ đại nhất."
Người đó nói, "Tôi khiêm tốn, tôi chỉ là hạt bụi dưới
chân anh," nhưng bạn đừng chấp nhận người đó.
Đừng nói, "Vâng, chúng tôi biết - chúng tôi bao giờ
cũng biết. Anh không nói điều gì mới với chúng tôi,"
bằng không người đó sẽ chẳng bao giờ có khả năng
tha thứ cho bạn. Người đó sẽ báo thù. Người đó
không nói rằng bạn phải chấp nhận điều đó. Trong
thực tế, người đó nói, "Trông đây - ta mới khiêm tốn
làm sao! Trông đấy, đây là con người khiêm tốn nhất
trên thế giới!" Nhưng trò chơi thì vẫn là một: "Ta là
người khiêm tốn nhất trên thế giới - nhưng cái 'tôi' có
đây."
Ai đó nói, "Tôi là người giầu nhất trên thế giới."
Ai đó nói, "Tôi là người quyền lực nhất trên thế giới."
Ai đó nói, "Tôi là người khiêm tốn nhất trên thế giới."
Khác biệt ở đâu?
Tôi không nói trở nên khiêm tốn. Bản ngã có thể
trở nên khiêm tốn. Tôi đang nói về việc mất bản ngã.
Bạn phải nhìn vào trong bản ngã: phức cảm của nó là
trò chơi tinh vi. Bạn phải trở nên nhận biết về tất cả
những trò chơi của nó. Một ngày nào đó khi bạn đã
nhìn vào trong tất cả các trò chơi của nó, nó đơn giản
biến mất. Chỉ bằng việc nhìn vào trong chúng, chỉ
sáng tỏ, chỉ nhận biết, và nó biến mất. Nó biến mất
như bóng tối biến mất khi bạn mang ánh sáng vào
trong phòng tối. Chỉ đem nhận biết vào.
Jesus định bước đi trên nước của Biển Chết. Ông
ấy bắt đầu bước đi trên biển, và ông ấy quay về các đệ
tử của mình và nói, "Tin ta, theo ta, và bước trên
biển." Mười một đệ tử của ông ấy theo ông ấy. Chỉ
mỗi Thomas còn lại sau trên cạn.
Khi những người khác hỏi ông ấy, Thomas giải
thích rằng tốt hơn cho ông ta là vẫn còn khô ráo vì
nước lạnh có khả năng ảnh hưởng tới bệnh khớp của
ông ấy.
Jesus quay đầu lại và nói với Thomas, "Thomas,
tin ta đi, theo ta và bước trên biển."
Thế là Thomas bắt đầu bước đi và nhanh chóng bị
nước ngập tới đầu gối. Thomas kêu lên, "Jesus!
Jesus!"
Và Jesus một lần nữa lại nói, "Tin ta đi, theo ta và
bước trên biển."
Điều này lại diễn ra với Thomas kêu Jesus cứu
khi Thomas tiếp tục bước tới.
Khi nước đã ngập đến cằm Thomas, thì Peter
quay sang ông ta và nói, "Thomas, sao ông bao giờ
cũng cứ phải khác người thế? Sao ông không thể bước
trên các mỏm đá giống như mọi người khác?" 

Có những người không thể cho phép mình được
giống như mọi người khác. Họ phải đặc biệt theo cách
này cách khác. Đây là bệnh tật, chứng thần kinh.
Bạn không thể khác được. Về cơ bản, tất cả chúng
ta đều thuộc về một tâm thức. Tất cả mọi khác biệt
đều chỉ ở bề mặt, ngoài da. Tất nhiên, bạn có làn da
khác và tôi có làn da khác. Ai đó da trắng và ai đó da
đen, và ai đó có mũi khác, và ai đó có mầu mắt khác,
và ai đó có mầu tóc khác - nhưng sâu bên dưới, bạn
càng đi sâu hơn, thì chúng ta lại càng là một hơn.
Từ tiếng Anh 'self' - cái ngã, là rất hay. Nghĩa
nguyên thuỷ của nó là 'như một' - self (cái ngã) nghĩa
là như một. Bạn dùng các từ 'myself' bản thân tôi,
'himself' bản thân anh ta, 'herself' bản thân cô ấy,
'themselves' bản thân họ. Myself-bản thân tôi,
yourself-bản thân bạn: 'my'- tôi, là khác, 'your'-bạn là
khác, nhưng 'self'-bản thân lại là một. Từ 'self' nghĩa
là 'là một'. Self-cái ngã thì không của tôi cũng không
của bạn. Khi nó thành của tôi, đấy là 'myself'; thế thì
'self' có cái gì đấy được thêm vào nó, cộng với nó.
Khi cái 'my'-tôi bị bỏ đi, thì chỉ còn lại 'self'; khi cái
'you'-bạn bị bỏ đi, chỉ còn lại cái 'self'. Khi thân thể và
tâm trí và những phân biệt bên ngoài không còn đó
nữa, sâu trong cốt lõi bên trong chúng ta là một -
chúng ta chỉ là cái ngã self, cái một.
Bạn đừng cố gắng theo bất kì cách nào để đặc biệt
bởi vì tất cả những cuộc hành trình đó đều là hành
trình bản ngã và đưa bạn tới thất vọng và lo nghĩ và
sợ hãi.
Nhưng khi ai đó tới và công bố, người đó bao giờ
cũng tìm ra vài đệ tử. Lí do không phải ở chỗ lời công
bố của người đó là đúng; lí do là ở chỗ mọi người đều
rất không chắc chắn, mọi người đều trong lẫn lộn. Họ
muốn có ai đó để bám vào. Họ muốn ai đó làm cho họ
chắc chắn. Khi ai đó tới và nói, "Ta tới như sứ giả đặc
biệt của Thượng đế"... và những người này là những
người gần phát điên, và họ sẽ nói với quyền năng, với
sự mạnh mẽ, với lửa cháy tới mức bạn sẽ bắt đầu cảm
thấy rằng phải có điều gì đó trong nó. Bạn bắt đầu
cảm thấy bởi vì bạn bị lẫn lộn. Bạn bao giờ cũng
muốn ai đó nói cho bạn cách sống cuộc sống của
mình. Bạn bao giờ cũng muốn ai đó lãnh đạo bạn.
Bạn bao giờ cũng muốn ai đó chắc chắn để cho bạn có
thể gạt bỏ cái không chắc chắn của mình. Bạn bao giờ
cũng muốn ai đó biết để bạn không lo nghĩ về cái dốt
nát của mình.
Bây giờ ở đây một người tới, và khi người đó
công bố một cách bắt ép, lửa cháy trong mắt người đó
và ma thuật trong lời người đó, vài người nhất định
trở thành nạn nhân của người đó - họ sẽ tin cậy vào
người đó. Và nếu bạn nói với những người này, "Các
anh là kẻ ngu," họ sẽ không nghe bạn. Bởi vì vấn đề
không phải là liệu nhà tiên tri của họ sai hay đúng;
khoảnh khắc bạn nói nhà tiên tri của họ sai, bạn lại
đem cái không chắc chắn của họ vào, bạn lại làm cho
họ lẫn lộn. Họ đã bị lẫn lộn rồi; bây giờ họ không còn
lẫn lộn nữa - họ đang theo ai đó.
Ngay cả một Muktananda cũng có thể có tín đồ,
có thể kiếm được tín đồ. Nhìn thấy điều đó tôi đơn
giản ngạc nhiên. Tôi không thể thấy được làm sao
điều đó lại có thể. Một Muktananda mà cũng kiếm
được tín đồ sao? Nếu điều đó là có thể, thế thì bạn
chờ đợi một cách không cần thiết - bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo lớn. Nếy Muktananda có thể trở
thành thế, thì bất kì ai cũng có thể trở thành thế.
Tôi biết một người ở Jabalpur là tín đồ của
Muktananda, và tôi bảo anh ta, "Anh đơn giản ngu
ngốc. Bản thân anh có thể trở thành người lãnh đạo."
Anh ta nói, "Làm sao tôi có thể trở thành được?
Tôi không biết gì về tôn giáo cả."
Tôi nói, "Bạn đi với tôi." Tôi định đi Calcutta. Tôi
nói, "Bạn chỉ đi với tôi - bạn im lặng."
Anh ta nói, "Thầy ngụ ý gì?"
Tôi nói, "Chúng ta sẽ chơi một trò chơi chỉ để làm
cho bạn rõ ràng về cách thức mọi sự xảy ra."
Anh ta theo tôi. Tôi nói, "Chỉ một điều thôi: bạn
phải không được nói gì; bạn chỉ giữ im lặng. Khi mọi
người hỏi câu hỏi nào đó, thì bạn nhắm mắt lại, bạn
bắt đầu đung đưa người, và tôi sẽ trông coi mọi sự
xảy ra!"
Thế là anh ta đi với tôi. Người chủ nơi chúng tôi
ở, ông ta hỏi tôi ngay lập tức, 'Người này là ai vậy?"
Tôi nói, "Ông ta là paramahansa. Ông ta tịnh khẩu
- ông ta là một linh hồn vĩ đại."
Người này nói, "Nhưng chúng tôi chưa bao giờ
nghe nói về ông ấy cả, vậy làm sao ông biết được?"
"Ông ta chưa hề ra công chúng, ông ta không phải
là Mahesh Yogi, ông ta không tin vào quảng cáo. Ông
ta là rất, rất bí truyền."
Người này sụp lạy dưới chân ông ta! Vòng hoa
mà người này đem tới cho tôi… người này đã quên
mất tôi hoàn toàn. Và ông ta, tôi đã huấn luyện ông ta
trên tầu điều cần làm, cho nên ông ta bắt đầu đung
đưa người - ông chủ cũng bắt đầu đung đưa theo! Tôi
nói, "Xem kìa, kundalini của ông đang lên đấy!"
Người này nói, "Tôi có thể cảm thấy cái gì đó;
trong xương sống của tôi có cảm giác gì đó. Tôi chưa
bao giờ cảm thấy nó và tôi đã tới biết bao nhiêu thánh
nhân - nhưng người này là phép màu! Ông ấy có thể
nói cái gì không?"
Tôi nói, "Ông ấy không bao giờ nói."
Trong vòng ba ngày một đám đông lớn - mọi
người tới và đem tới tiền bạc và hoa. Và trong đêm
người này nói với tôi, "Điều này không thể nào tin
được! Thầy phải làm cái gì đó rồi," anh ta nói với tôi,
"bởi vì bây giờ làm sao tôi có thể nâng kundalini của
họ lên được? Tôi chẳng biết gì về kundalini cả -
kundalini riêng của tôi vẫn chưa lên! Thầy phải làm
điều gì đó, thầy đang chơi mẹo - bằng không làm sao
nó có thể xảy ra được? và một người có thể là kẻ ngu,
nhưng biết bao nhiêu người!" Và người giầu tới trong
những chiếc xe Cadillacs và Lincolns và Impalas của
mình, đến thế.... Và con người này là một người bình
thường.
Ba ngày sau đó khi chúng tôi quay về tôi bảo anh
ta, "Bây giờ bạn muốn gì nào? Bạn muốn tiếp tục thời
gian bận rộn của mình nữa không?"
Mọi người cần ai đó để hướng dẫn họ. Mọi người
cần ai đó để lừa phỉnh họ. Mọi người cần ai đó để cho họ sự chắc chắn. Mọi người hay lung lay thế, không
chắc chắn về mọi điều. Chỉ công bố - lời công bố của
bạn… nhưng nó phải rất, rất tuyệt đối. Nếu bạn do dự,
bạn bị hết hi vọng; thế thì trong thế giới tâm linh này,
trong siêu thị tâm linh này, bạn là không ai cả. Công
bố một cách tuyệt đối, vô điều kiện, đừng bao giờ do
dự. Và đó là một trong những phẩm chất của kẻ ngu:
họ chưa bao giờ do dự cả. Người rất thông minh bao
giờ cũng do dự.
Lão Tử nói: "Ta do dự ở mọi bước đi. Ta phải bị
lẫn lộn rồi. Cả thành của ta, mọi người mà ta biết, đều
tuyệt đối thế; mọi người đều láu lỉnh - ta phải u mê,
bởi vì ta cảm thấy mờ mịt thế. Các phương án đều có
đó: chọn cái gì, không chọn cái gì?"
Ông ấy đang mỉa mai, ông ấy đang đùa bỡn. Bao
giờ nó cũng như vậy cả. Người thông minh do dự, kẻ
ngốc chưa hề do dự. Bạn đã bao giờ thấy con trâu do
dự chưa? Chúng đơn giản cứ đi; trên đường chúng
chẳng bận tâm tới các qui tắc giao thông. Bạn bóp còi
tướng lên - chúng chẳng bận tâm về bạn. Chúng đơn
giản đi như các thánh nhân tâm linh.
Mọi người đều bất an, không chắc chắn. Họ cần ai
đó công bố. Và khi bạn cần, ai đó nhất định công bố
và khai thác bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Khi tôi cười trong chuyện đùa của thầy tôi cảm
thấy nó chỉ là phản xạ, rằng tiếng cười của tôi
đang xảy ra trên bề mặt và không thấm vào
trong bản thể tôi. Tôi cười ngày một ít đi. Bây
giờ ngay cả cái điên khùng về chiếc khăn của
thầy cũng không làm tôi xúc động. Đây có là
vấn đề không?
Nó là vấn đề và là vấn đề rất nghiêm chỉnh, bởi vì
với tôi tiếng cười là một trong những phẩm chất tâm
linh lớn nhất.
Cố hiểu đi: chỉ con người, chỉ con người mới có
thể cười được - không con vật nào khác. Có thể là ở
giai đoạn con người tiếng cười mới xảy ra. Nếu bạn
bắt gặp lừa cười, bạn sẽ phát điên. Hay ngựa cười -
thế thì bạn sẽ không có khả năng ngủ lại lần nữa. Con
vật không cười. Chúng không có nhiều thông minh.
Để có tiếng cười, cần có thông minh - thông minh
càng lớn tiếng cười càng sâu sắc.
Tiếng cười là biểu tượng rằng bạn thực sự là con
người. Nếu bạn không thể cười, bạn còn dưới con
người. Nếu bạn có thể cười, bạn đã trở thành con
người. Tiếng cười là chỉ dẫn chắc chắn về nhân loại.
Aristotle nói con người là con vật có lí trí. Tôi
không tin điều đó, bởi vì tôi đã quan sát con người và tôi không thấy lí trí nào trong con người cả. Định
nghĩa của tôi là: con người là con vật biết cười.
Tiếng cười nghĩa là bạn có thể trở nên nhận biết
về cái lố bịch của mọi vật.
Và cũng vậy: con người là con vật duy nhất có thể
chán. Chán chường và khôi hài là hai phía của cùng
một đồng tiền, là hai mặt của cùng một đồng tiền. Chỉ
con người mới có thể chán và chỉ con người mới có
thể cười. Đây là hai phẩm chất đặc biệt tồn tại trong
con người. Chúng là định nghĩa về nhân loại. Con vật
không bao giờ chán. Chúng cứ làm cùng những
thường lệ hàng ngày, năm nọ, năm kia, từ lúc sinh tới
lúc chết - chúng chẳng bao giờ chán. Bạn không thể
thấy chán chường trên khuôn mặt chúng, bởi vì để
chán thì cũng cần cả thông minh nữa.
Một người càng thông minh, người đó càng chán
trong thế giới này. Phật đã trở nên chán với toàn bộ
cái vô nghĩa được gọi là cuộc sống. Ông ấy trở nên
chán với sinh, ông ấy trở nên chán với yêu, ông ấy trở
nên chán với tử. Tại phương Đông, tôn giáo không là
gì ngoài việc tìm kiếm để thoát ra khỏi sự tồn tại chán
chường này, làm sao thoát ra khỏi avagaman - cái
thường tới và đi này, cái liên tục sinh và tử này. Nó
thật chán! Nó chẳng có gì mới trong đó cả. Và ý
tưởng về nhiều kiếp làm cho nó thậm chí còn chán
hơn.
Người Ki tô giáo ít chán hơn, người Mô ha mét
giáo ít chán hơn, người Do Thái ít chán hơn, bởi vì họ
chỉ có một kiếp sống. Bạn không thể nào nhiều chán
trong một kiếp sống được. Một khi bạn được sinh ra,
và thế rồi bạn chết đi sau bẩy mươi năm. Trong bẩy
mươi năm, ba mươi năm bạn ngủ, mười lăm, hai
mươi năm bạn làm việc - bạn làm việc liên tục - ba
năm bạn phí hoài cho việc ăn. Trước hết bạn ăn và thế
rồi bạn ỉa; cho nên con người chỉ như cái ống: một
đầu bạn cứ đổ thức ăn vào, đầu kia bạn cứ tống ra.
Nếu bạn đếm tất cả các hoạt động của con người,
rồi cạo râu, đứng trước gương... Tôi mới đọc một bài
báo: một người đứng trước gương - và đấy là về đàn
ông, đấy chưa về đàn bà đâu - bẩy mươi ngày liên tục,
nếu ta tính nó liên tục, trong toàn bộ cuộc đời anh ta.
Bẩy mươi ngày anh ta chỉ đứng trước gương. Bây giờ
nhìn vào cái ngớ ngẩn của nó. Và đây là về đàn ông -
tôi nghĩ họ đã cho một dữ liệu về đàn ông chứ không
về đàn bà bởi vì điều ấy thì không thể đếm được. Đàn
bà cứ đứng trước gương, chỉ để ngắm mình. Một lần
bạn nhìn, thế là xong! Bây giờ bạn tìm cái gì? Cái gì
bị mất sao? Hay bạn không thể tin được rằng đấy là
bạn?
Nếu bạn thấy toàn bộ các hoạt động của cuộc
sống thì nó thật chán. Nhưng nếu kiếp sống chỉ có
một, thì nó cũng không đến nỗi chán thế. Đó là lí do
tại sao người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo và
người Do Thái không thể rất mang tính tôn giáo.
Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo, đã đem phẩm chất
khác cho tôn giáo. Họ nói cuộc sống đã như vậy hàng
triệu lần rồi: sinh đi sinh lại, hoá thân đi hoá thân lại.
Cuộc sống không chỉ một kiếp sống; một kiếp chỉ là
một bước chuyển của bánh xe. Bánh xe đã chuyển từ
lúc bắt đầu vô thuỷ. Và bạn đã làm cùng một điều
hàng triệu lần, vậy mà bạn vẫn không chán sao? Thế
thì bạn phải hoàn toàn ngu ngốc. Người thông minh
nhất định trở nên chán. 

Chán là tính người. Và bởi vì con người có thể
chán nên con người có thể cười nữa. Tiếng cười là
cực kia của cùng năng lượng. Toàn bộ phổ là ở giữa
chán và cười.
Đó là lí do tại sao tôi hay dùng nhiều chuyện cười
thế - bởi vì tôi biết chân lí tôn giáo là rất chán. Cho
nên trước hết tôi đưa bạn tới cái chán, tôi đi vào vấn
đề tinh tế - hừ? - tôi đưa bạn vào cái chán. Khi tôi
thấy bây giờ thế là quá nhiều và bạn sẽ không thể nào
chịu đựng thêm được nữa, thì tôi kể cho bạn chuyện
cười. Con lắc văng trở lại. Bạn lại vui sướng. Lần nữa
tôi có thể làm cho bạn chán. Bạn tươi tắn, bạn sẵn
sàng. Bạn có thể vẫn chịu đựng thêm được mười,
mười lăm phút nữa. Khi tôi thấy rằng bây giờ bạn
đang đi tới giới hạn của mình, rằng bạn sẽ phát điên vì
tôi - tôi không muốn bị giết - lần nữa, ngay lập tức tôi
kể cái gì đó để cho bạn có thể cười, và bạn có thể tha
thứ cho tôi.
Chán và cười là hai phẩm chất quan trọng nhất
của tâm thức con người, nhưng mọi người thường lại
không nhận biết về cả hai. Khi bạn chán, trước khi
bạn trở nên nhận biết, bạn đơn giản bị bận tâm vào
hoạt động nào đó khác đem lại niềm xúc động, cảm
giác mới. Bạn đi xem phim, bạn ngồi trước ti vi; bạn
tới bạn bè, bạn bắt đầu nói với ai đó, với hàng xóm.
Bạn không có gì để nói, người ấy không có gì để nói -
các bạn nói về những điều đó hàng triệu lần! Lại về
khí hậu, lại về thời tiết, lại về con cái mình thế nào và
vợ mình thế nào - và bạn chẳng quan tâm lấy một
chút. Nhưng bạn chán. Bạn phải làm cái gì đó để quên
nó đi. Bạn phải nói.
Một người, trong cuộc sống thường ngày, dùng
năm nghìn từ. Bạn có thể nghĩ tôi nói nhiều quá - bạn
nhầm. Một khi tôi nói xong rồi, tôi im lặng - nhưng
tôi chưa hề vượt ra ngoài giới hạn năm nghìn từ. Bạn
trải việc nói ra cả ngày. Tôi kết thúc trong buổi sáng.
Nhưng tôi chưa hề vượt ra ngoài giới hạn này. Tôi
luôn luôn nhìn đồng hồ.
Mọi người cứ nói chỉ để tránh sự hiện hữu của
mình, để tránh cái chán của mình. Chồng chán vợ, vợ
chán chồng, mẹ chán con, con chán bố mẹ - mọi
người đều đơn giản chán! Nhưng chúng ta giữ điều đó
ở dưới ý thức, bằng không bạn sẽ bắt đầu tự tử. Bạn
sẽ làm gì?
Marcel đã viết rằng tự tử là câu hỏi quan trọng
nhất, câu hỏi siêu hình duy nhất. Nó hiện hữu - bởi vì
nếu toàn bộ cái chán trở thành rõ ràng cho bạn, thì
bạn sẽ định làm gì? Nếu cuộc sống chỉ là lối mòn, thì
phỏng có ích gì làm tất cả những cái đó? Bạn cứ lẩn
tránh nó.
Trong cộng đồng tôn giáo điều đó được lôi vào sự
chú ý của bạn; người ta không cho phép bạn né tránh
nó. Trong đạo tràng họ có một thường lệ rất chán - cố
định, cố định mãi, hàng thế kỉ. Không bao giờ xúc
động, không bao giờ cảm giác. Buổi sáng họ dậy, họ
tập ngồi thiền, họ uống trà, họ làm thiền đi, họ đi ăn
sáng. Và mọi thứ đều hệt nhau: bữa sáng hệt nhau, trà
hệt nhau; họ lại ngồi thiền, họ lại vào vườn làm việc.
Và bạn đã nhìn vào khu vườn thiền chưa?
Quanh phòng thiền của mình, họ không cho phép
có cây. Họ làm vườn đá - để làm bạn chán hoàn toàn.
Bởi vì cây thay đổi: lúc thì là mùa xuân và có hoa và có mầu xanh tươi, và lúc thì mùa lá rụng và lá rơi
xuống. Cây thay đổi! Cây không phải là sư. Cây cứ
thay đổi quanh năm. Trong đạo tràng họ làm vườn đá,
để cho không có gì thay đổi cả. Bạn cứ làm cùng điều
mọi ngày, và bạn nhìn ra và chỉ toàn có đá và cát, và
cùng mẫu hình đó. Tại sao?
Cái chán đã được dùng như một kĩ thuật, nó là
một phương cách. Trong thiền, cái chán được dùng
như một phương cách: bạn chán đến chết, và bạn
không được phép trốn thoát. Bạn không được ra
ngoài, bạn không định tự giải trí cho mình, bạn không
được làm, bạn không được nói, bạn không được đọc
tiểu thuyết và truyện trinh thám. Không xúc động.
Không có khả năng nào để thoát đi bất kì đâu.
Và tất cả các sư đều trông giống nhau: đầu cạo
trọc lốc. Bạn có để ý điều đó không? Nếu bạn cạo
nhẵn đầu, râu mép, râu cằm, thì bạn trở thành gần như
vô thực thể. Khuôn mặt của bạn mất đi tính cá nhân.
Các sư trông đều giống nhau, bạn không thể phân biệt
được bất kì khác biệt nào. Bạn thấy những cái đầu
nhẵn thín và bạn phát chán. Tóc còn cho một chút ít
kiểu cách, một chút ít khác biệt - tất cả cái đầu bị cạo
trọc trông đều giống nhau, với tóc thì bạn còn có thể
có kiểu cách. Ai đó có tóc dài, ai đó có tóc kiểu ngắn;
ai đó có tóc vuông vắn và ai đó là hippie. Và có cả
nghìn cách làm cái gì đó với tóc. Bạn có thể làm được
gì với cái đầu? Nó hệt như nhau - ăn mặc hệt nhau,
đầu hệt nhau, thức ăn hệt nhau, vườn đá hệt nhau, và
thiền cũng hệt nhau. Hết năm nọ tới năm kia trong hai
mươi năm.
Công việc là đem cái chán tới điểm không còn lối
thoát nào là có thể và bạn phải đi qua đột phá. Khi nó
là không thể chịu đựng được, khi nó tới cực đỉnh và
bạn không thể chịu được nó nữa, thì nó bùng nổ. Từ
cực điểm đó, bạn nhẩy. Bỗng nhiên tất cả các cái chán
biến mất, bởi vì bản thân tâm trí biến mất.
Chán là một chỉ dẫn của tâm trí. Đó là lí do tại sao
con vật lại không bị chán. Nếu bạn đi tới chính cực
đoan, nếu bạn cứ đặt sức ép, ngày một nhiều sức ép,
thì sẽ tới một cực đỉnh mà bạn đơn giản không thể
chịu đựng được thêm nữa, và cái chán biến mất - và
cùng với cái chán là tâm trí. Đó là điều trong thiền họ
gọi là 'satori' tỏ ngộ.
Tiếng cười cũng có thể được dùng theo cùng cách
đó. Bồ đề đạt ma đã dùng nó. Đã có những bậc thầy
Sufi dùng nó. Có vài giáo phái thiền cũng dùng tiếng
cười. Nếu bạn có thể cứ cười mãi vào sự lố bịch của
mọi vật, thì ngày này hay ngày khác bạn sẽ đi tới một
cực đoan mà bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng tiếng cười
không tới nữa. Đó mới là vấn đề. Bạn cứ cười, bạn
vẫn cố gắng cười - tiếng cười không đến. Mọi thứ
dường như bị mắc kẹt, nhưng bạn cứ cố gắng. Nhiều
nỗ lực bây giờ cần tới; buộc nó đến chính cực đỉnh, và
một ngày tiếng cười biến mất, và cùng với tiếng cười
tâm trí con người cũng biến mất.
Chán hay cười, cả hai đều có thể được dùng. Tôi
dùng cả hai cùng nhau. Đầu tiên tôi làm bạn chán, thế
rồi tôi giúp bạn cười. Và tôi cứ ném bạn từ cực đoan
nọ sang cực đoan kia, cũng giống như người đi trên
dây: khi người đó nghiêng sang phải quá nhiều và bây
giờ cảm thấy mình sắp ngã, thì người đó nghiêng sang trái. Và dần dần cân bằng nảy sinh. Bây giờ đây là
điểm thứ ba của sự siêu việt.
Hoặc bạn đi sang trái, xa bên trái, nhiều nhất bạn
có thể đi được; hoặc bạn đi sang phải, xa bên phải -
hay, bạn chỉ ở giữa, xa ở giữa, chính giữa. Và có siêu
việt. Ba điểm này là những điểm siêu việt. Toàn bộ nỗ
lực của tôi là không dùng cực đoan nào, nhưng cho
bạn cân bằng.
Cho nên tôi cứ chuyển từ trái qua phải, nhưng
toàn bộ ý tưởng là giữ cho bạn được cân bằng trên
dây. Một ngày nào đó, cân bằng sẽ đem bạn tới điểm
mà tại đó bỗng nhiên bạn được cân bằng tới mức tâm
trí không thể tồn tại. Tâm trí có thể tồn tại chỉ hoặc
bởi nghiêng sang phải hay nghiêng sang trái. Tâm trí
chỉ có thể tồn tại với các cực đoan. Tâm trí không bao
giờ có thể tồn tại với chỗ giữa, với cân bằng.
Phật đã gọi con đường của ông ấy là majjhim
nikai - trung đạo. Con đường của tôi cũng là trung
đạo. Theo nhiều, nhiều cách tôi đang cố gắng giúp
bạn đi tới chỗ giữa tuyệt đối nơi mọi thứ biến mất.
Bây giờ, bạn nói: "Khi tôi cười trong chuyện đùa
của thầy tôi cảm thấy nó chỉ là phản xạ, rằng tiếng
cười của tôi đang xảy ra trên bề mặt và không thấm
vào trong bản thể tôi."
Cố gắng đi. Đừng lo nghĩ. Cứ để cho nó là phản
xạ. Cố gắng. Đôi khi bạn thậm chí sẽ cảm thấy rằng
tiếng cười chỉ là trong thân thể hay trong tâm trí và
bạn là nhân chứng - đấy là những khoảnh khắc đẹp.
Bạn đã trở nên chút ít siêu việt lên trên tiếng cười của
mình - và đó là điều tốt.
"Tôi cười ngày một ít đi" - điều đó sẽ xảy ra,
nhưng bạn phải cố gắng vất vả đấy. Đấy là một trong
những điều gian nan nhất, cố gắng vất vả cho tiếng
cười, bởi vì người ta phải cố gắng thế nào đây? Tiếng
cười dường như hoặc tới hoặc không tới - làm sao bạn
có thể cố gắng nó được? Bạn càng cố gắng bạn sẽ
càng thấy khó đem nó lại; nhưng cố gắng đi, cứ để nó
là khó.
Nghe chuyện cười của tôi bây giờ có ý thức nhiều
hơn, có chủ ý hơn. Khi tôi đang kể chuyện cười, bạn
quên cả thế giới đi. Thiền sâu sắc về nó để cho bạn có
thể có được toàn bộ hương vị của nó và nó thấm vào
chính trái tim bạn. Và khi tiếng cười tới, cho dù nó
chỉ hơi thoáng qua, chỉ là một cảm giác thoảng qua,
một gợn sóng, hợp tác với nó, cho phép nó trở thành
con sóng lớn. Đung đưa với nó, đi với nó - trong
buông bỏ. Nó sẽ chiếm lĩnh bạn.
Đôi khi điều đó là có thể, nghe tôi nhiều quá, cười
với tôi nhiều quá, dần dần thậm chí việc cười có thể
có vẻ giống như chán chường. Mọi ngày cứ cười và
cười mãi - điều đó nữa cũng tạo ra chán. Mọi ngày
nghe chuyện cười lặp đi lặp lại, và bạn có một phẩm
chất rất nhỏ của tiếng cười, một phẩm chất rất nhỏ của
tiếng cười trong bạn - điều đó cảm thấy bị cạn kiệt.
Nhưng bây giờ bạn phải học thêm vài điều nữa.
Nghe chuyện cười một cách tỉnh táo hơn, và khi
gợn sóng nảy sinh trong bạn, hợp tác với nó, thậm chí
phóng đại nó lên, đi cùng với nó. Câu hỏi này là từ
Bodhi, và tôi sẽ gợi ý cho anh ấy một cách thiền đặc biệt: mọi sáng anh ấy phải cười trong ba phút chẳng
vì lí do gì hết cả. Khi bạn thức dậy, điều đầu tiên -
đừng mở mắt ra trước hết. Khi bạn cảm thấy giấc ngủ
đã qua, bắt đầu cười trên giường mình. Trong hai, ba
ngày đầu điều đó sẽ khó khăn, thế rồi nó tới - và thế
thì nó tới như sự bùng nổ.
Đầu tiên nó là khó bởi vì bạn cảm thấy ngu xuẩn:
sao mình lại cười? chẳng có lí do gì cả. Nhưng dần
dần bạn sẽ cảm thấy ngu xuẩn và bạn bắt đầu cười
vào cái ngu xuẩn của mình - và thế rồi nó chiếm lĩnh
bạn. Thế thì nó không thể nào cưỡng lại được. Thế thì
bạn cười vào toàn bộ cái ngớ ngẩn. Và thế thì ai đó
khác - vợ bạn, bạn gái của bạn, hàng xóm - có thể bắt
đầu cười khi thấy rằng bạn là thằng ngốc, và thế thì
điều đó sẽ giúp cho bạn.
Tiếng cười có thể trở thành lây lan. Bạn cứ thử
xem, rồi bạn báo cho tôi sau một tháng. Cười vào mọi
sáng, và nếu bạn thích nó thì vào cả ban đêm trước
khi bạn đi ngủ. Thế thì có khả năng là trong mơ của
bạn tôi có thể kể cho bạn vài chuyện cười.
Bây giờ để tôi kể cho bạn vài chuyện cười chẳng
vì lí do gì hết cả:
Cô gái đẹp là ứng cử viên xin việc tại sở thú làm
người dạy sư tử. Ứng cử viên kia là một thanh niên
hăm hở. Người quản lí nói ông ấy sẽ cho cả hai một
cơ hội và bảo cô gái chui vào chuồng.
Cô gái này, mặc chiếc áo lông lớn, đã chui vào.
Con sư tử khổng lồ để cho cô gái vào và nó ngay lập
tức bắt đầu tấn công cô gái. Bỗng nhiên cô gái đứng
thẳng dậy, tụt bộ áo lông ra và đứng đó trần truồng
hoàn toàn. Con sư tử dừng sững lại, đi vòng quanh, và
đi một cách nhu mì vào góc.
Người quản lí thực sự ngạc nhiên. Ông ta quay
sang anh thanh niên. "Này, anh bạn, anh có cho rằng
anh có thể vượt hơn thế được không?"
"Tôi cũng muốn thử," anh chàng này nói, "chỉ làm
cho con sư tử khùng kia ra khỏi đó."
Người bố đem hai đứa con mười tuổi tới Miami
trong chuyến thăm đầu tiên của chúng. "Bố muốn các
con được đầy nắng," ông già nói, "và để chắc chắn
các con có nắng, bố sẽ phạt các con một đô la một giờ
nếu các con về sau nửa đêm."
Đứa con thứ nhất về nhà vào hai giờ sáng và sáng
hôm sau phải trả cho bố nó hai đô la, vừa nói, "Đáng
giá lắm. Cô ấy đẹp thế! Cô ấy lãng mạn thế! Cô ấy
say đắm thế!"
Hôm sau đứa con thứ hai về nhà lúc năm giờ sáng
và đưa cho bố nó năm đô la, thở dài sườn sượt, "Đáng
giá lắm. Cô ấy đẹp thế! Cô ấy lãng mạn thế! Cô ấy
say đắm thế!"
Đêm thứ ba người bố ở cả đêm - hai mươi bốn
giờ. Khi ông ta về nhà ông ta ném cả cái ví của mình
lên bàn và nói với các con, "Cầm hết cả đi. Đáng giá
lắm. Cô ấy đẹp thế! Cô ấy lãng mạn thế! Và các con -
cô ấy kiên nhẫn thế!" 

Câu hỏi thứ tư:
Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với hai mũi
tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi. Yêu có đau
không? Tôi ở đâu và tôi từ đây đi đâu?
Yêu là đau, nhưng cái đau này chắc chắn là phúc
lành. Dục không đau. Dục rất tiện lợi, thoải mái. Mọi
người dùng nó gần như thuốc giảm đau, thuốc an
thần.
Yêu là đau - bởi vì yêu đem tới trưởng thành. Yêu
là đau bởi vì yêu đòi hỏi. Yêu là đau bởi vì yêu làm
biến đổi. Yêu là đau bởi vì yêu cho bạn sinh thành
mới.
Dục không chạm tới bạn chút nào. Nó là máy
móc. Nó chỉ là sinh lí. Yêu đem trái tim bạn vào quan
hệ - và khi trái tim trong quan hệ thì bao giờ cũng có
đau. Nhưng bạn đừng tránh đau. Nếu bạn tránh đau,
bạn sẽ bỏ lỡ mọi niềm vui của cuộc sống.
Trong dục có thể có thảnh thơi. Trong dục có thể
có lành mạnh và vệ sinh sinh lí. Nhưng không có
trưởng thành. Bạn vẫn còn là con vật. Với yêu bạn trở
thành con người. Với yêu bạn trở thành ở tư thế đứng
thẳng. Với yêu bạn bắt đầu đứng thẳng trên đất. Với
dục bạn lại là con vật, bạn nằm ngang trên đất, chỉ đi
như con vật, bò. Với yêu bạn đứng thẳng, theo chiều
đứng.
Với yêu có vấn đề. Với dục không có vấn đề chút
nào. Nhưng vấn đề là sự trưởng thành! Vấn đề càng
lớn, thì cơ hội càng lớn.
Cho nên bạn hỏi tôi: "Yêu có đau không?" Chắc
chắn yêu là đau, nhưng cái đau đó là phúc lành. Và
bạn đã cảm thấy nó, người hỏi đã cảm thấy nó. Câu
hỏi này là từ Deva Saguna.
Cô ấy nói: "Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với
hai mũi tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi."
Cô ấy là nhận biết rằng nó là đẹp. Bây giờ bạn
đừng co lại từ nó. Ngày càng nhiều ân huệ hơn đang
chờ bạn, nhưng, tất nhiên, cũng ngày càng nhiều đau
hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều người chưa hề yêu - nó
đau đớn thế. Họ chọn không yêu, nhưng thế thì họ
vẫn còn mang tính con vật; họ chưa bao giờ trở thành
con người, họ chưa bao giờ trở nên đứng thẳng. Họ
chưa bao giờ nắm cuộc sống mình trong tay mình. Họ
chưa bao giờ có giá trị gì - họ là vô giá trị. Yêu làm
cho bạn thành quí giá.
Và nếu bạn đang trong yêu, thế thì bạn sẽ thấy
rằng có cái đau sâu hơn mà đó là của lời cầu nguyện.
Nó làm bạn tan nát hoàn toàn. Yêu chưa bao giờ làm
bạn tan nát hoàn toàn. Nó đơn giản làm tan nát bạn
một chút, một chút ít. Nó làm tan nát lớp vỏ của bản
ngã bạn, nhưng phần trung tâm của bản ngã vẫn còn
nguyên. Thế thì có nỗi đau sâu hơn, sâu hơn yêu, và
đó là của lời cầu nguyện - nó làm tan nát bạn hoàn
toàn. Nó là cái chết. Khi bạn đã biết cách yêu, và bạn Câu hỏi thứ tư:
Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với hai mũi
tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi. Yêu có đau
không? Tôi ở đâu và tôi từ đây đi đâu?
Yêu là đau, nhưng cái đau này chắc chắn là phúc
lành. Dục không đau. Dục rất tiện lợi, thoải mái. Mọi
người dùng nó gần như thuốc giảm đau, thuốc an
thần.
Yêu là đau - bởi vì yêu đem tới trưởng thành. Yêu
là đau bởi vì yêu đòi hỏi. Yêu là đau bởi vì yêu làm
biến đổi. Yêu là đau bởi vì yêu cho bạn sinh thành
mới.
Dục không chạm tới bạn chút nào. Nó là máy
móc. Nó chỉ là sinh lí. Yêu đem trái tim bạn vào quan
hệ - và khi trái tim trong quan hệ thì bao giờ cũng có
đau. Nhưng bạn đừng tránh đau. Nếu bạn tránh đau,
bạn sẽ bỏ lỡ mọi niềm vui của cuộc sống.
Trong dục có thể có thảnh thơi. Trong dục có thể
có lành mạnh và vệ sinh sinh lí. Nhưng không có
trưởng thành. Bạn vẫn còn là con vật. Với yêu bạn trở
thành con người. Với yêu bạn trở thành ở tư thế đứng
thẳng. Với yêu bạn bắt đầu đứng thẳng trên đất. Với
dục bạn lại là con vật, bạn nằm ngang trên đất, chỉ đi
như con vật, bò. Với yêu bạn đứng thẳng, theo chiều
đứng.
Với yêu có vấn đề. Với dục không có vấn đề chút
nào. Nhưng vấn đề là sự trưởng thành! Vấn đề càng
lớn, thì cơ hội càng lớn.
Cho nên bạn hỏi tôi: "Yêu có đau không?" Chắc
chắn yêu là đau, nhưng cái đau đó là phúc lành. Và
bạn đã cảm thấy nó, người hỏi đã cảm thấy nó. Câu
hỏi này là từ Deva Saguna.
Cô ấy nói: "Tôi bị lẫn lộn. Khi thầy nói về yêu với
hai mũi tên tôi cảm thấy bị xuyên thấu vào tim và nỗi
đau đẹp đẽ nảy sinh trong tôi."
Cô ấy là nhận biết rằng nó là đẹp. Bây giờ bạn
đừng co lại từ nó. Ngày càng nhiều ân huệ hơn đang
chờ bạn, nhưng, tất nhiên, cũng ngày càng nhiều đau
hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều người chưa hề yêu - nó
đau đớn thế. Họ chọn không yêu, nhưng thế thì họ
vẫn còn mang tính con vật; họ chưa bao giờ trở thành
con người, họ chưa bao giờ trở nên đứng thẳng. Họ
chưa bao giờ nắm cuộc sống mình trong tay mình. Họ
chưa bao giờ có giá trị gì - họ là vô giá trị. Yêu làm
cho bạn thành quí giá.
Và nếu bạn đang trong yêu, thế thì bạn sẽ thấy
rằng có cái đau sâu hơn mà đó là của lời cầu nguyện.
Nó làm bạn tan nát hoàn toàn. Yêu chưa bao giờ làm
bạn tan nát hoàn toàn. Nó đơn giản làm tan nát bạn
một chút, một chút ít. Nó làm tan nát lớp vỏ của bản
ngã bạn, nhưng phần trung tâm của bản ngã vẫn còn
nguyên. Thế thì có nỗi đau sâu hơn, sâu hơn yêu, và
đó là của lời cầu nguyện - nó làm tan nát bạn hoàn
toàn. Nó là cái chết. Khi bạn đã biết cách yêu, và bạn đã biết rằng nỗi đau mà yêu đem tới là phúc lành trá
hình, nó là đẹp, nó cực kì đẹp, thế thì bạn trở nên có
khả năng và bạn lấy bước nữa - bước đó là lời cầu
nguyện.
Với người yêu con người thì bạn có thể tồn tại,
nhưng với Thượng đế là tình yêu của bạn thì bạn
không thể tồn tại được. Niềm đam mê đó lớn lao thế,
nó đơn giản đốt cháy bạn hoàn toàn. Không phần nào
còn lại. Trong yêu bạn đơn giản bị bỏng, nhưng bạn
vẫn còn đó. Người yêu vẫn còn, chờm lấp lên nhau,
đốt cháy nhau một chút trong ngọn lửa của mình,
nhưng không đốt cháy hoàn toàn. Đó là cái đẹp của
tình yêu, và đó cũng là khổ của nó nữa. Chừng nào
bạn còn chưa hoàn toàn bị tan nát, không phần nào
còn lại, bản ngã vẫn còn chưa chết, chưa hoàn toàn
chết, thì sẽ vẫn còn chút ít khổ.
Mọi người yêu đều cảm thấy chút ít khổ. Họ
muốn biến mất hoàn toàn, nhưng điều đó là không thể
được trong quan hệ con người. Quan hệ con người bị
giới hạn. Nhưng người ta học từ đó, rằng có một khả
năng: nếu nó có thể xảy ra nhiều thế trong quan hệ
con người, thì nó còn có thể xảy ra nhiều đến đâu
trong quan hệ với điều thiêng liêng?
Yêu làm cho bạn sẵn sàng lấy bước nhảy cuối
cùng, bước nhảy lượng tử. Đó là điều tôi gọi là lời cầu
nguyện, hay bạn có thể gọi nó là thiền. Nếu bạn dùng
thuật ngữ Phật giáo, thì nó là thiền; nếu bạn dùng
thuật ngữ Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo, đấy
là lời cầu nguyện. Nhưng ý nghĩa thì là một. Bạn phải
biến mất để cho Thượng đế hiện hữu. Yêu là mảnh
đất huấn luyện, là trường học, để học bài học thứ nhất
- về cái đẹp, về phúc lành của sự biến mất; để học
rằng đau đớn là ân huệ. Và thế thì ham muốn nảy sinh
để cảm thấy nỗi đau tối thượng. Người sùng kính
Hindu đã gọi nó là virah - nỗi đau tối thượng; nỗi đau
sẽ vẫn còn chừng nào người ta chưa bị Thượng đế
tiêu hoá, bị tiêu hoá trong Thượng đế.
Cho nên khi bạn đang yêu, hay khi tình yêu nảy
sinh, hợp tác với nó, đừng cố kháng cự. Mọi người
đều đi tới thoả hiệp. Những người yêu - tôi đã quan
sát hàng nghìn người yêu. Mọi ngày họ tới tôi; họ
đem vấn đề của mình tới. Nhưng vấn đề cơ bản mà tôi
đã nhìn thấy là ở chỗ những người yêu dần dần đi tới
thoả hiệp. Thoả hiệp đó là: Anh đừng làm đau tôi, tôi
sẽ không làm đau anh. Đó là điều hôn nhân là gì. Thế
thì mọi người trở nên được giải quyết. Họ trở nên sợ
đau đớn đến mức họ nói, "Đừng làm đau tôi và tôi sẽ
không làm đau anh." Nhưng thế thì khi đau biến mất,
tình yêu cũng biến mất. Chúng tồn tại cùng nhau.
Tôi đã nghe:
Bệnh nhân nam phàn nàn với nha sĩ rằng anh ta
đau khủng khiếp, nhưng anh ta cứ nhất định đòi giữ
chiếc răng. Nha sĩ mặc chiếc áo choàng trắng, điều
chỉnh đèn trên trán, khởi động máy khoan, và nói,
"Thôi được rồi, bây giờ há mồm ra và nhìn cho rõ
điều chúng ta có thể làm."
Thế là bệnh nhân tóm lấy phía dưới thắt lưng nha
sĩ. "Anh làm cái đồ chết tiệt gì đấy?" Nha sĩ la lên.
"Bây giờ," người này nói một cách thản nhiên,
vẫn không buông ra, "chúng ta sẽ không làm đau lẫn
nhau chứ?" 

Bây giờ đây là điều xảy ra. Khi bạn đang trong
yêu, thì yêu làm đau. Nó làm đau khủng khiếp. Thế là
các bạn tóm lấy nhau và các bạn nói, "Cái gì đấy...!
Cùng nhau thoả hiệp vậy: để cho nó không là chuyện
tình nữa - để cho nó thành hôn nhân. Làm nó thành
hợp pháp. Và anh sẽ không làm tổn thương em nếu
em không làm tổn thương anh." Thế rồi chồng và vợ
sống với nhau mà lại không cùng nhau. Họ sống với
nhau một mình. Nhiều nhất họ chịu đựng nhau. Họ là
bệnh nhân lẫn cho nhau, nhưng tình yêu đã biến mất.
Yêu là đau. Bạn đừng bao giờ chống lại, đừng bao
giờ tạo ra bất kì rào chắn nào cho nỗi đau. Cho phép
nó. Và dần dần bạn sẽ thấy rằng đấy đã là diễn giải
sai. Nó không thực sự là đau. Nó chỉ là cái gì đó đi
sâu vào trong bạn tới mức bạn diễn giải nó như cái
đau. Bạn không biết cái gì khác. Bạn chỉ nhận biết về
cái đau trong kiếp sống quá khứ của mình, trong kinh
nghiệm quá khứ của mình. Bất kì khi nào cái gì đó
thấm vào sâu, bạn đều diễn giải nó như cái đau.
Đừng dùng từ 'đau'. Khi yêu và mũi tên của tình
yêu đi sâu vào trong trái tim bạn, nhắm mắt lại và
đừng dùng lời - chỉ thấy nó là cái gì, và bạn sẽ không
bao giờ thấy nó là cái đau. Bạn sẽ thấy nó là phúc
lành. Bạn sẽ bị xúc động cực kì bởi nó. Bạn sẽ cảm
thấy vui sướng.
Đừng dùng lời. Khi cái gì đó mới xảy ra cho bạn,
bao giờ cũng cho phép cái nhìn sâu sắc vào trong nó
mà không có ngôn ngữ nào cả.
Câu hỏi cuối cùng:
Thầy không phải là guru của người giầu sao?
Tôi có chứ - bởi vì chỉ người giầu mới có thể tới
với tôi. Nhưng khi tôi nói 'người giầu' tôi ngụ ý người
rất nghèo bên trong. Khi tôi nói 'người giầu' thì tôi
ngụ ý người giầu về thông minh; tôi ngụ ý người đã
có mọi thứ mà thế giới có thể cho người đó, và đã
thấy rằng nó là vô tích sự.
Vâng, chỉ người giầu mới có thể trở nên có tính
tôn giáo. Tôi không nói rằng người nghèo không thể
trở nên có tính tôn giáo, nhưng điều đó là rất hiếm
hoi, ngoại lệ. Người nghèo cứ hi vọng. Người nghèo
còn chưa biết giầu có là gì. Người đó còn chưa bị thất
vọng với nó. Làm sao người đó có thể vượt ra ngoài
giầu có nếu người đó không bị thất vọng với chúng?
Người nghèo đôi khi cũng tới tôi, nhưng thế thì người
đó tới vì cái gì đó mà tôi không thể cung cấp được.
Người đó hỏi về thành công. Con của người đó chưa
có việc làm; người đó hỏi, "Osho ơi, xin ban phúc cho
nó." Vợ người đó ốm, hay người đó bị mất tiền trong
thời nhộn nhạo này. Đây là triệu chứng của người
nghèo, người cứ hỏi về những thứ của thế giới này.
Khi người giầu tới tôi, người đó có tiền, người đó
có việc làm, người đó có nhà, người đó có sức khoẻ -
người đó có mọi thứ mà người ta có thể có. Và bỗng nhiên người đó đã đi tới nhận ra rằng chẳng có gì thoả
mãn cả. Thế thì việc tìm kiếm Thượng đế bắt đầu.
Vâng, đôi khi người nghèo cũng có thể mang tính
tôn giáo, nhưng để có điều đó thì cần có thông minh
rất lớn. Người giầu, nếu người đó không mang tính
tôn giáo, là người ngu. Người nghèo, nếu người đó
mang tính tôn giáo, là cực kì thông minh. Nếu người
nghèo không mang tính tôn giáo, người đó phải được
tha thứ. Nếu người giầu không mang tính tôn giáo, tội
lỗi của người đó là không thể dung thứ được.
Tôi là guru của người giầu. Điều đó tuyệt đối là
như vậy. Để tôi kể cho bạn một giai thoại:
Họ đã cưới nhau được hai mươi nhăm năm và họ
đã có cuộc tranh luận lớn nhất vào ngày kỉ niệm đám
cưới bạc của mình. Cô ấy chưa bao giờ xúc phạm
nặng hơn hay thấp hơn: "Nếu như đấy mà không phải
là tiền của em, thì cái ti vi kia đã không ở đây rồi. Nếu
như đấy không phải là tiền của em, thì chính cái ghế
anh đang ngồi đã không có ở đây rồi!"
"Em có trẻ con không đấy?" Anh ta ngắt lời. "Nếu
như đấy không phải là tiền của em - thì anh đã không
ở đây rồi!"
Và để tôi nói điều này cho bạn: Nếu như đấy
không phải là tiền của bạn, thì bạn đã không ở đây rồi.
Bạn ở đây bởi vì bạn thất vọng với tiền của mình. Bạn
ở đây vì bạn thất vọng với thành công của mình. Bạn
ở đây vì bạn thất vọng với cuộc sống của mình. Người
ăn mày không thể tới được bởi vì người đó còn chưa
thất vọng.
Tôn giáo là xa hoa - xa hoa cuối cùng, tối thượng,
tôi gọi nó thế, bởi vì nó có giá trị cao nhất. Khi con
người bị đói, người đó không quan tâm tới âm nhạc,
không thể được. Và nếu bạn bắt đầu chơi đàn sitar
trước người đó, người đó sẽ giết bạn. Người đó sẽ nói,
"Anh sỉ nhục tôi! Tôi đang đói còn anh lại chơi đàn
sitar - đây là lúc chơi đàn sitar sao? Cho tôi ăn trước
hết! Và tôi đói tới mức tôi không thể nào hiểu được
âm nhạc. Tôi đang chết đây!" Khi một người sắp chết
đói, bức hoạ của van Gogh phỏng có ích gì? hay buổi
thuyết pháp của phật? hay Upanishads hấp dẫn, hay
âm nhạc? - vô nghĩa. Người đó cần bánh mì.
Khi người ta hạnh phúc với thân thể mình, có đủ
ăn, có nhà đẹp để sống, người đó bắt đầu trở nên quan
tâm tới âm nhạc, thơ ca, văn học, hội hoạ, nghệ thuật.
Bây giờ cơn đói mới nảy sinh. Nhu cầu thân thể đã
được thoả mãn, bây giờ nhu cầu tâm lí nảy sinh. Có
cấp bậc trong nhu cầu: thứ nhất là thân thể; nó là cơ
sở, nó là nền tảng của con người bạn. Không có nền
tảng này, tầng thứ nhất không thể tồn tại được.
Khi nhu cầu thân thể bạn được đáp ứng, nhu cầu
tâm lí nảy sinh. Khi nhu cầu tâm lí của bạn cũng được
đáp ứng, nhu cầu tâm linh của bạn nảy sinh. Khi một
người đã nghe tất cả âm nhạc có sẵn trên thế giới, và
đã thấy tất cả những cái đẹp, và đã thấy rằng nó tất cả
đều là giấc mơ; đã nghe tất cả các nhà thơ lớn, và đã
thấy rằng đấy chỉ là cách để quên đi bản thân mình,
chỉ là cách làm say bản thân mình, mà nó chẳng dẫn
bạn tới đâu cả; đã thấy tất cả mọi bức tranh và các tác phẩm nghệ thuật lớn - vui vẻ, giải trí, nhưng rồi cái
gì...? Thế thì tay vẫn còn trống rỗng, còn trống rỗng
hơn chúng trước đây. Thế thì âm nhạc và thơ ca là
không đủ. Thế thì ham muốn thiền, ham muốn cầu
nguyện, cơn đói Thượng đế, cơn đói chân lí nảy sinh.
Một đam mê lớn chiếm hữu lấy bạn và bạn đi vào
trong việc tìm kiếm chân lí, bởi vì bạn bây giờ biết:
chừng nào bạn còn chưa biết chân lí tối mật của sự
tồn tại này là gì, thì không cái gì có thể thoả mãn
được. Tất cả những cái khác bạn đã thử và nó đã thất
bại.
Tôn giáo là xa hoa tối thượng. Hoặc bạn phải trở
nên rất giầu để đi tới xa hoa này, hoặc bạn phải cực kì
thông minh. Nhưng trong cả hai trường hợp bạn đều
giầu - giầu bằng tiền bạc hay giầu bằng thông minh.
Tôi chưa bao giờ thấy một người thực sự nghèo -
nghèo về thông minh, nghèo về của cải - mà trở nên
mang tính tôn giáo.
Kabir đã trở nên có tính tôn giáo. Ông ấy không
phải là triệu phú, nhưng ông ấy cực kì thông minh.
Phật đã trở nên có tính tôn giáo bởi vì ông ấy cực kì
giầu. Krishna và Ram và Mahavira đã trở nên mang
tính tôn giáo bởi vì họ cực kì giầu. Dadu, Raidas,
Farid, họ đã trở nên mang tính tôn giáo bởi vì họ đã
cực kì thông minh. Nhưng một loại giầu có nào đó là
cần thiết.
Vâng, bạn phải: tôi là guru của người giầu.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến