9-5-2025 MẶT TRỜI TÂM THỨC: Kỉ luật của siêu việt

Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

Kỉ luật của siêu việt

Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được. Ngay cả nếu người ta thoát ra
từ việc tạo tác ác, vận may hi hữu của người ta là
được sinh ra làm người. Nếu người ta sinh ra
được làm người, vận may hi hữu của người ta là
có sáu giác quan hoàn chỉnh. Ngay cả khi người
đó được hoàn chỉnh trong sáu giác quan, vận may
hi hữu của người đó là được sinh ra vào thời của
Phật. Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị
phật, vận may hi hữu của người đó là được gặp
người chứng ngộ. Ngay cả nếu người đó có khả
năng gặp người chứng ngộ, vận may hi hữu của
người đó là có trái tim được thức tỉnh trong sự tin
cậy. Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may
hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của
thông minh. Ngay cả nếu người đó đánh thức trái
tim thông minh, vận may hi hữu của người đó là
nhận ra trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành
đạt. Hỡi các con của Phật! Các ông xa ta dù
nhiều nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ
về lời giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu
được quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng
cạnh ta, luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông
không gìn giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không
bao giờ đạt tới chứng ngộ.

Tâm thức giống như chiếc hồ: có sóng nó trở
thành tâm trí, không có sóng nó trở thành linh hồn. Sự
khác biệt chỉ ở sự hỗn loạn. Tâm trí là linh hồn bị rối
loạn, và linh hồn là tâm trí được im lặng. Tâm trí là
chính trạng thái ốm yếu của vấn đề, còn linh hồn là
trạng thái mạnh khoẻ của vấn đề. Tâm trí không phải
là cái gì đó tách bạch khỏi linh hồn, như sóng không
tách bạch khỏi hồ. Hồ có thể hiện hữu mà không có
sóng, nhưng sóng không thể hiện hữu mà không có
hồ. Linh hồn có thể hiện hữu mà không có tâm trí,
nhưng tâm trí không thể hiện hữu nếu không có linh
hồn. Khi có gió lớn và hồ bị khuấy đảo, có rối loạn.
Và hồ mất đi một phẩm chất trong rối loạn đó, và đó
là phẩm chất của phản chiếu. Thế thì nó không thể
phản chiếu cái thực. Cái thực trở nên bị bóp méo. Có
thể có trăng tròn trên trời, nhưng bây giờ hồ không có
khả năng phản chiếu điều đó. Trăng sẽ vẫn được phản
chiếu, nhưng theo cách bị bóp méo. Nó sẽ được phản chiếu trong hàng nghìn mảnh. Nó sẽ không là một
thực thể thống nhất; nó sẽ không được bình tĩnh, hoà
nhập. Nó sẽ không là một. Thực tại là một. Nhưng
bây giờ hồ sẽ phản chiếu hàng triệu trăng; toàn thể bề
mặt của hồ có thể được rót đầy bàng bạc. Mọi nơi,
toàn trăng là trăng - nhưng điều này là không đúng.
Chân lí là một: khi tâm trí phản chiếu nó, nó trở thành
nhiều; khi tâm thức phản chiếu nó, nó là một.
Tâm thức không mang tính Hindu giáo không Mô
ha mét giáo không Ki tô giáo. Nếu bạn là người
Hindu bạn vẫn trong tâm trí, bị bóp méo. Nếu bạn là
người Mô ha mét giáo bạn là trong tâm trí, bị bóp
méo. Một khi tâm trí đã được lắng đọng và sóng
không còn đó nữa, bạn đơn giản là tâm thức - không
tính từ nào được gắn với nó, không điều kiện nào
được gắn với nó. Và thế thì chân lí là một. Thực tế,
ngay cả nói rằng chân lí là một cũng không đúng - bởi
vì một là có nghĩa chỉ trong ngữ cảnh của nhiều. Chân
lí là một tới mức ở phương Đông chúng ta chưa bao
giờ gọi nói là 'một'; chúng ta gọi nó là 'bất nhị', không
hai.
Tại sao chúng ta đã chọn cách nói vòng khi gọi nó
là 'không hai'? Chúng ta muốn nói rằng khó mà nói nó
là một, bởi vì một ngụ ý hai, ba, bốn. Chúng ta đơn
giản nói 'không hai'. Chúng ta không nói nó là gì,
chúng ta đơn giản nói nó không là gì. Không có
'nhiều' trong nó - có vậy thôi. Chúng ta phải diễn đạt
nó thông qua việc phủ định, bằng việc nói rằng nó
không là hai. Nó là một thế và nó là một mình thế; chỉ
nó tồn tại và không cái gì khác. Nhưng điều đó được
phản chiếu trong tâm thức khi tâm trí không còn đó
nữa. Khi tôi nói 'tâm trí không còn đó nữa', nhớ, tôi
không nói về tâm trí như một năng lực. Tâm trí không
phải là năng lực. Nó đơn giản là trạng thái bị quấy rối:
tâm thức vẩn vơ, run rẩy, rung rinh, không ở nhà.
Gió nào thổi lên tâm thức làm quấy rối nó? Phật
nói: Tên của gió đó là đam mê, ham muốn.
Quan sát, và bạn sẽ thấy chân lí của lời của Phật.
Nó là một sự kiện, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì
lí thuyết nào. Phật không quan tâm tới các hệ thống
trừu tượng; ông ấy đơn giản nói cái đang đó. Ông ấy
không phát biểu ra triết lí. Bao giờ cũng nhớ điều đó,
đừng bao giờ quên điều đó - rằng ông ấy rất mang
tính kinh nghiệm, tồn tại. Toàn thể cách tiếp cận của
ông ấy chỉ là nói điều gì đó mà bạn có thể kinh
nghiệm được ngay lập tức. Và kinh nghiệm của bạn sẽ
chứng minh rằng ông ấy đúng. Không có cách khác
để chứng minh đúng hay sai. Không có cách nào để
biện minh về nó.
Đôi khi ngồi im lặng; cho dù một khoảnh khắc để
ham muốn dừng lại, bạn sẽ thấy rằng mọi rối loạn đã
biến mất. Ngồi im lặng, không ham muốn cái gì; ngồi
im lặng, không đi vào tương lai; ngồi im lặng, mãn
nguyện; trong một khoảnh khắc đó bạn sẽ có khả
năng hiểu điều Phật ngụ ý. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy
rằng không có sóng chút nào. Mọi sóng đều đã mất.
Sóng dậy lên chỉ khi bạn ham muốn, khi bạn không
hài lòng với hiện tại và bạn hi vọng vào tương lai.
Ham muốn là căng thẳng giữa hiện tại và tương
lai. Trong căng thẳng đó, sóng dậy lên. Thế thì bạn bị
tan tành - và tâm thức rất mong manh. Tâm thức rất
mềm mại: chỉ một hơi chút ham muốn, chỉ một cái
nhoáng lên của ham muốn, và toàn thể cái hồ bị quấy rối. Đôi khi đi, quan sát, ngồi bên bờ hồ. Nhìn...
không có sóng. Ném một hòn đá cuội nhỏ, một hòn đá
rất nhỏ, vào cái hồ lớn nhất trong các hồ, và hòn đá
nhỏ đó sẽ bắt đầu tạo ra gợn sóng, và những gợn sóng
đó sẽ cứ lan toả tới bờ xa nhất. Chỉ hòn đá nhỏ thôi
cũng tạo ra nhiều rối loạn thế. Chỉ một ham muốn nhỏ
bé và rối loạn tới qua cửa sau. Ham muốn là rối loạn,
đam mê là cơn sốt. Trong đam mê bạn không phải là
bản thân mình. Trong đam mê bạn ở bên cạnh bản
thân mình. Trong đam mê bạn không được định tâm:
bạn đánh mất cân bằng. Trong đam mê bạn làm
những điều bạn thậm chí không thể tưởng tượng được
rằng bạn có thể đã làm. Nhiều kẻ giết người đã thú
nhận trước toà, trong suốt nhiều thế kỉ, rằng họ đã
không phạm tội ác; điều đó đã xảy ra. Họ đã vào cơn
cuồng nộ thế, họ gần như điên. Họ đã không làm điều
đó một cách có chủ ý; nó đã xảy ra. Họ không phải là
tội nhân, họ là nạn nhân của cơn cuồng nộ của riêng
họ. Bạn có thể nghĩ họ đang lừa dối; bạn có thể nghĩ
họ bây giờ đang cố gắng chạy trốn sự trừng phạt.
Không, nó không như vậy đâu.
Giết người là không thể được nếu bạn có ý thức,
nếu bạn im lặng, nếu bạn định tâm. Nó xảy ra chỉ khi
bạn không có, khi bạn bị che mờ thế, khi chỉ có sóng
và sóng và bề mặt hồ hoàn toàn bị khuấy động - thế
thì điều đó xảy ra. Tất cả mọi cái sai đều xảy ra chỉ
khi bạn bị rối loạn. Người tôn giáo thông thường nói,
"Hãy trau dồi tính cách." Phật nói: Hãy trau dồi tâm
thức. Thầy tôn giáo thông thường nói, "Làm điều
thiện." Phật nói: Im lặng và điều thiện sẽ được làm.
Điều thiện đi theo im lặng như cái bóng đi theo bạn.
Và không có cách nào để làm điều thiện chừng nào
bạn còn chưa im lặng. Bạn có thể làm điều thiện,
nhưng chỉ điều sai xảy ra nếu bạn không im lặng. Đó
là lí do tại sao cái gọi là người làm điều thiện lại cứ
làm cả nghìn lẻ một điều ác trong thế giới. Cái gọi là
người làm điều thiện của bạn là những người làm điều
ác nhất, nhưng họ đang làm điều thiện vì bạn đấy, họ
đang làm nó vì điều thiện, và bạn thậm chí không thể
trốn thoát được họ.
Mọi người đều biết rằng bố mẹ tốt là bố mẹ nguy
hiểm. Bố mẹ quá tốt thì nhất định là bố mẹ sai - bởi vì
họ sẽ cầm tù bạn. Quá tốt là mang tính phá huỷ. Bà
mẹ tốt sẽ phá huỷ bạn, bởi vì bản thân bà mẹ không
được định tâm. Cái tốt của bà ấy bị ép buộc; bà ấy
đang cố gắng để làm điều tốt. Cái tốt không phải là tự
nhiên và tự phát. Nó không giống như cái bóng; nó là
nỗ lực, nó là bạo hành. Cái gọi là các mahatma của
bạn cứ làm què quặt mọi người, phá huỷ mọi người,
phá huỷ tự do của họ theo nhiều cách. Họ cứ cố gắng
chi phối bằng các phương pháp tinh vi, theo cách tinh
tế. Nhưng toàn thể ham muốn là để chi phối, và rất dễ
chi phối ai đó khi bạn là người tốt. Người đó thậm chí
không thể nổi dậy chống lại bạn được. Chống lại
người mẹ tệ hại, bạn có thể trốn đi; nhưng phải làm gì
để chống lại người mẹ tốt? Bà ấy tốt tới mức bạn bắt
đầu cảm thấy khó chịu. Quan sát điều đó đi: mọi
người đều trải qua trạng thái đó, và nó phải được hiểu.
Bằng không thì bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng
chấp nhận bản thân mình.
Bất kì khi nào có đứa trẻ, nhất định có xung đột
nào đó giữa đứa trẻ và bố mẹ, đặc biệt giữa con và mẹ
lúc ban đầu, và thế rồi về sau với bố. Điều đó là tự
nhiên - bởi vì người mẹ có cách thức riêng của mình, ý tưởng riêng của mình, triết lí riêng của mình về
cuộc sống phải được sống thế nào. Và đứa trẻ gần như
hoang dã; nó chẳng biết về xã hội, về văn hoá, về tôn
giáo. Nó tới trực tiếp từ Thượng đế; nó hoang dã như
Thượng đế. Nó chẳng có gì ngoài tự do, cho nên nhất
định có xung đột nào đó. Và đứa trẻ phải được khai
tâm vào bức tường của xã hội. Nó không thể bị bỏ đấy
một mình - điều đó nữa cũng đúng. Cho nên xung đột
là tự nhiên. Nếu người mẹ rất tốt thì đứa trẻ lâm vào
khó khăn, nỗi khổ và lo âu rất lớn. Lo âu là ở chỗ đứa
trẻ yêu tự do của nó và nó biết, một cách bản năng,
rằng tự do là tốt. Tự do là giá trị bản chất. Không có
nhu cầu chứng minh rằng tự do là tốt - tự do là tốt rồi,
tự nó là tốt hiển nhiên. Mọi người được sinh ra với
ham muốn đó. Đó là lí do tại sao ở phương Đông
chúng ta gọi mục đích tối thượng là ‘tự do toàn bộ',
moksha: nơi ham muốn cố hữu được hoàn toàn đáp
ứng và người ta không bị giới hạn về bất kì loại nào.
Người ta tuyệt đối tự do, tự do vô điều kiện.
Mọi đứa trẻ được sinh ra với ham muốn cố hữu là
được tự do, và bây giờ ở mọi nơi đều có tù túng.
Người mẹ nói, "Không làm cái này, không làm cái
kia, ngồi đây, không đi ra kia." Và đứa trẻ cảm thấy bị
lôi kéo, xô đẩy từ mọi nơi. Bây giờ, nếu người mẹ mà
xấu, thì không có mấy khó khăn; đứa trẻ có thể nghĩ
rằng người mẹ là xấu và sâu trong lòng nó có thể bắt
đầu ghét mẹ. Đơn giản, đó là chuyện số học - mẹ đang
phá huỷ tự do của nó và nó ghét mẹ. Có thể, bởi các lí
do chính trị, nó không thể bày tỏ được điều đó, cho
nên nó trở thành nhà ngoại giao. Nó biết rằng mẹ là
người đàn bà tồi tệ nhất trên thế giới, nhưng nó cứ
dẻo môi tán đồng.
Nhưng nếu người mẹ mà tốt thế thì vấn đề nảy
sinh. Thế thì đứa trẻ lúng túng để hình dung ra điều
đó; người mẹ là tốt... và tự do là tốt: "Bây giờ, nếu mẹ
là tốt thế thì mình phải sai, và tự do của mình phải sai.
Nếu mình là tốt và tự do của mình là tốt, thế thì mẹ
phải sai." Bây giờ, nghĩ rằng người mẹ sai là không
thể được - bởi vì bà ấy thực sự tốt, và bà ấy cứ chăm
sóc, yêu thương, và làm cả nghìn lẻ một điều cho đứa
trẻ. Người mẹ thực sự tốt, đứa trẻ biết rằng mẹ là tốt.
Cho nên chỉ có một khả năng để quyết định, và đó là:
"Mình phải sai. Mẹ là tốt, mình phải sai."
Một khi đứa trẻ bắt đầu nghĩ, "Mình phải sai," thì
nó bắt đầu bác bỏ bản thân mình. Tôi thường chẳng
bao giờ bắt gặp một người chấp nhận bản thân mình
một cách toàn bộ. Và nếu bạn không chấp nhận bản
thân mình một cách toàn bộ thì bạn sẽ không bao giờ
trưởng thành - bởi vì trưởng thành là từ chấp nhận.
Nếu bạn cứ bác bỏ bản thân mình, bạn đang tạo ra
chia chẻ. Bạn sẽ bị tinh thần phân liệt. Phần mà bạn
bác bỏ sẽ treo quanh cổ bạn như gánh nặng lớn, nỗi
buồn lớn, nỗi lo âu lớn, sự căng thẳng. Bạn không thể
ném nó đi được, bởi vì nó là một phần của bạn; nó
không thể bị phân chia. Nhiều nhất bạn có thể ném nó
vào trong vô thức. Bạn có thể trở nên không nhận biết
về nó, bạn có thể quên mất nó, bạn có thể tin rằng nó
không có đó. Đó là cách vô thức được tạo ra.
Vô thức không phải là thứ tự nhiên. Vô thức là bộ
phận của bản thể bạn mà bạn đã bác bỏ, và bạn thậm
chí còn không muốn xoá nó đi, bạn không muốn
đương đầu với nó, bạn không muốn thấy rằng nó tồn
tại chút nào. Nó có đó; sâu bên dưới trong bản thể bạn
nó cứ thao túng bạn. Và nó sẽ lấy nhiều kiểu báo thù, bởi vì nó cũng cần diễn đạt. Bây giờ đây là toàn thể
khổ của con người. Người mẹ 'tốt' có thể tạo ra ý
tưởng về đứa con 'xấu'. Bản thân đứa trẻ bắt đầu tự
bác bỏ mình. Đây là phân chia, chia chẻ trong cá tính.
Đứa trẻ đang trở nên bị loạn thần kinh.
Bởi vì cảm thấy tốt với bản thân mình nên là điều
tự nhiên và dễ dàng. Đó là điều những người thuyết
giảng tôn giáo của bạn cứ làm mãi, điều các tu sĩ của
bạn cứ làm mãi: đi tới đền thờ, đi tới đền chùa, đi tới
nhà thờ, và họ có đó - đùng đùng, kết án, sẵn sàng
ném bạn vào địa ngục, sẵn sàng thưởng cho bạn cõi
trời nếu bạn nghe họ, nếu bạn theo họ. Tất nhiên bạn
không thể tuân theo được bởi vì đòi hỏi của họ là
không thể được, và đòi hỏi của họ là không thể được
bởi vì họ không chỉ cho bạn cách thức là tốt. Họ đơn
giản nói. "Hãy tốt."
Cách thức để là tốt chẳng liên quan gì tới việc là
tốt cả. Cách thức để là tốt có liên quan tới việc định
tâm, với nhận biết. Là tốt chẳng có liên quan gì tới
tính cách của bạn cả. Người thực sự tốt không có tính
cách nào cả; người đó là phi tính cách. Và khi tôi nói
'phi tính cách', tôi ngụ ý người đó không có áo giáp,
không đeo giáp trụ quanh mình. Người đó không
phòng thủ quanh mình, người đó đơn giản cởi mở.
Người đó phi tính cách như đoá hoa. Người đó không
tốt không xấu. Người đó đơn giản có đó - tỉnh táo, ý
thức, đáp ứng. Nếu cái gì đó xảy ra người đó sẽ đáp
ứng, nhưng người đó sẽ đáp ứng trực tiếp, người đó sẽ
đáp ứng từ cái ở đây. Người đó sẽ đáp ứng từ cái bây
giờ, người đó sẽ không đáp ứng từ quá khứ. 'Tính
cách' nghĩa là: bạn cứ mang ra những thứ mà bạn đã
học trong quá khứ của mình. 'Tính cách' nghĩa là:
lương tâm đã được thuyết giảng cho bạn và áp đặt lên
bạn. Lương tâm là nhà tù cho tâm thức.
Phật đã đem cuộc cách mạng vào thế giới tôn
giáo, cuộc cách mạng lớn nhất đã từng có. Cuộc cách
mạng là thế này: rằng ông ấy nhấn mạnh vào tâm thức
và không vào lương tâm. Ông ấy nhấn mạnh vào nhận
biết chứ không vào tính cách. Tất nhiên, tính cách tới
một cách tự động, nhưng nó tới như cái bóng. Bạn
không mang nó; nó không phải là gánh nặng. Bạn đã
bao giờ quan sát chưa? - cái bóng của bạn cứ đi theo
bạn, và bạn không bị nặng gánh, và bạn không cần
chăm sóc tới nó. Bạn không cần nghĩ tới nó. Thậm chí
bạn quên hoàn toàn thì nó vẫn sẽ có đấy. Bạn không
thể làm mất nó.
Phật nói: Tính cách là thực chỉ khi bạn không thể
đánh mất được nó. Nếu bạn sợ rằng bạn có thể đánh
mất nó, thế thì nó là lương tâm và không phải là tâm
thức.
Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu trước khi
chúng ta đi vào những lời kinh này là ở chỗ con người
trở nên mù quáng bởi đam mê, bởi ham muốn. Và tại
sao con người trở nên mù quáng bởi đam mê và ham
muốn? Bởi vì ham muốn và đam mê đem tới hai thứ:
thứ nhất, không bằng lòng với hiện tại. Đó là chính
gốc rễ của ham muốn. Nếu bạn hài lòng với hiện tại,
ham muốn không thể tồn tại được. Ham muốn có thể
tới trong sự tồn tại chỉ với không bằng lòng.
Nhìn xem... Nếu bạn đang ngồi dưới gốc cây và
nếu bạn hài lòng trong khoảnh khắc này - và tôi
không thấy tại sao bạn lại phải không hài lòng trong
khoảnh khắc này - thế thì không có ham muốn. Và khi không có ham muốn, thì có bình thản thế, im lặng thế.
Im lặng trở thành vững chắc tới mức bạn gần như có
thể chạm vào nó, bạn có thể nếm trải nó, bạn có thể
cầm nó trong tay mình.
Bất kì khi nào có mãn nguyện, đều không có ham
muốn. Khi không có ham muốn, bạn ở nhà, thảnh
thơi. Trong trạng thái thảnh thơi đó, không có tâm trí.
Tâm trí là căng thẳng được tích luỹ lại. Tâm trí không
phải là khả năng, tâm trí chỉ là một bó các ham muốn
của bạn, mọi con sóng mà bạn cứ tạo ra. Đam mê này
mất đi; trước khi nó bị mất đi bạn đã dính líu vào đam
mê khác rồi. Ham muốn này được kết thúc, và thậm
chí trước khi nó được kết thúc bạn bắt đầu lập kế
hoạch cho chuyến đi khác vào tương lai.
Cho nên bạn cứ chạy xô tới tương lai và bạn cứ
bỏ lỡ hiện diện. Và hiện diện là có thể chỉ trong hiện
tại. Và khi bạn đang ở hiện tại thì không có tâm trí.
Và trạng thái này của vô trí là mục đích, mục đích của
phật giáo.
Khi không có căng thẳng, không suy nghĩ, không
ham muốn, không đam mê, thì phấn chấn lớn lao nảy
sinh trong linh hồn bạn; nó trào lên. Đó chính là phúc
lành đấy. Bạn cảm thấy cực kì hạnh phúc, và bạn cảm
thấy sung sướng chẳng bởi lí do nào. Bạn cảm thấy
cực kì phấn chấn - nhưng phấn chấn này không có
nguyên nhân cho nó. Không phải là bạn đã uống
thuốc nào đó, hay rượu cồn; không phải là bạn đã
tụng mật chú - bởi vì mật chú cũng làm thay đổi hoá
chất của bạn. Lặp lại thường xuyên âm thanh nào đó
đem lại thay đổi trong hoá chất thân thể bạn. Nó là
thuốc. Câu mật chú là thuốc, thuốc rất tinh tế: nó tạo
ra sóng trong bản thể bạn. Và nếu bạn cứ tụng mật
chú nào đó - Aum...Aum...Aum - dần dần, âm 'Aum'
làm thay đổi toàn thể hoá chất thân thể bạn.
Hay bạn có thể nhịn ăn. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn
này: những người thuyết giảng nhịn ăn đều chống lại
thuốc, nhưng nhịn ăn là việc thay đổi hoá chất. Nó là
thuốc cũng như bất kì thuốc nào khác. Khi bạn nhịn
ăn bạn làm gì? - bạn không cung cấp những những
hoá chất nào đó cho thân thể mình - những hoá chất
mà, nếu không được cung cấp, cân bằng của các hoá
chất bên trong sẽ bị thay đổi. Nó cũng là một cả thôi.
Hoặc là bạn uống thuốc nào đó - cái làm thay đổi tỉ lệ
hoá chất bên trong của bạn; hoặc bạn dừng ăn thức ăn
- điều đó làm thay đổi cân bằng hoá chất bên trong
của bạn. Khi mọi người cảm thấy phấn chấn, khi
Mahatma Gandhi nói rằng ông ấy cảm thấy rất phấn
chấn lúc ông ấy nhịn ăn, ông ấy không nói gì khác với
điều Timothy Leary nói. Cả hai đều nói cùng một
điều: cả hai đều nói về hoá chất. Mặc dầu thông
thường chúng ta không coi nhịn ăn như thuốc, nó vẫn
là thuốc - nó có thể làm cho bạn phấn chấn, nó có thể
làm cho bạn thành vô trọng lượng.
Hoặc bạn có thể cứ tụng niệm. Tụng niệm tạo ra
thay đổi trong hoá chất thân thể vật lí. Đó là lí do tại
sao vài âm thanh lại đã trở nên rất quan trọng. Trong
suốt nhiều thế kỉ nhiều người đã thử nhiều mật chú.
Thế rồi vài mật chú đã thành công và vài mật chú thì
thất bại. Những mật chú đã thành công là những mật
chú đem lại ngay thay đổi cho hoá chất của bạn. Bạn
có thể gọi nó là Thiền Siêu việt: nó lại là thuốc thôi.
Bây giờ, Maharishi Mahesh Yogi rất chống lại thuốc,
và bản thân thiền siêu việt TM lại là thuốc tinh vi. 

Hay, bạn có thể thay đổi hoá chất thân thể mình
qua các tư thế, yoga; bạn có thể thay đổi hoá chất thân
thể mình qua những kiểu thở nào đó - nhưng tất cả
những thay đổi đổi đó về căn bản vẫn là hoá học. Khi
bạn thở sâu bạn đem nhiều ô xi tới cho thân thể, và
nhiều ô xi trong thân thể bắt đầu làm thay đổi hoá
chất của bạn - bạn bắt đầu cảm thấy phấn chấn. Khi
bạn không thở sâu nhiều các bô nic tụ tập lại trong
phổi. Tỉ lệ thay đổi; bạn cảm thấy đờ đẫn, bạn cảm
thấy ỉu xìu, bạn cảm thấy trì trệ. Vâng, từ đó là đúng
đấy: bạn cảm thấy rất 'bị ép' bởi cái gì đó. Chính các
bô nic đem tới trì trệ; bạn ở dưới tảng đá.
Nhưng đây tất cả đều là những thay đổi - vật lí,
hoá học. Chúng không đi sâu hơn thế. Phật nói: nhận
biết, nhận biết và mãn nguyện... Ông ấy thậm chí
không thuyết giảng hình mẫu nào đó, nhịp điệu thở
nào đó. Ông ấy nói: Để thở như tự nhiên. Ông ấy
không thuyết giảng nhịn ăn; ông ấy thuyết giảng ăn
đúng, đúng lượng thức ăn. Ông ấy không thuyết giảng
thức trong đêm. Có nhiều giáo phái, đặc biệt là Mô ha
mét giáo, những người vẫn duy trì thức cả đêm. Điều
đó nữa cũng làm thay đổi hoá chất thân thể.
Phật đơn giản nói: Một điều được cần tới, và đó là
ông không nên đi vào tương lai, ông nên vẫn còn
trong hiện tại ở đây bây giờ. Bạn nên vẫn còn hài lòng
với khoảnh khắc này. Đi cùng khoảnh khắc này, đừng
đi lên trước, đừng nhảy lên trước. Cứ để không có
đam mê. 'Đam mê' nghĩa là: nhảy lên trước bản thân
mình. Thế thì bạn tạo ra lo âu, thế thì bạn tạo ra thất
vọng, thế thì bạn tạo ra lo nghĩ, và thế thì cả nghìn lẻ
một con sóng nảy sinh trên bề mặt tâm thức của bạn.
Bạn trở thành tâm trí. Khi những con sóng này biến
mất, bạn lại là tâm tâm thức. Thỉnh thoảng thử điều
đó đi.
Gurdjieff hay cho các đệ tử của ông ấy một
phương pháp. Ông ấy thường gọi nó là 'dừng việc
tập'. Ông ấy dạy các đệ tử là đôi khi, đột nhiên, dừng
toàn thế giới lại. Bằng việc dừng bản thân mình lại,
bạn có thể dừng cả thế giới lại. Bạn đang bước đi trên
đường; bỗng nhiên, với cú giật lại, bạn dừng lại.
Trong nửa giây bạn đơn giản bất động. Việc bất động
bất thần đó cũng sẽ giúp ích cho tâm trí dừng lại - bởi
vì tâm trí cần thời gian. Nếu bạn dừng dần dần, chầm
chậm, thế thì tâm trí sẽ không dừng đâu; nó sẽ được
điều chỉnh. Nếu bạn đột nhiên dừng lại thế thì có cú
sốc; tâm trí dừng lại. Trong khoảnh khắc của việc
dừng lại bất thần đó bạn sẽ có khả năng thấy rằng
toàn thế giới đã dừng lại, bởi vì tất cả mọi con sóng
đều đã biến mất.
Thử nó đi. Đang nhảy múa, đột nhiên dừng lại!
Đang chạy, đột nhiên dừng lại. Đang bơi, đột nhiên
dừng lại. Đang nói, đột nhiên dừng lại - và trong một
khoảnh khắc tuyệt đối bất động, cứ dường như bạn đã
trở thành bức tượng - và bạn sẽ thấy rằng tâm trí mình
đã dừng lại, trong một phần giây, tất nhiên. Rồi nó lại
chiếm quyền sở hữu bạn, nhưng trong khoảnh khắc đó
bạn sẽ thấy rằng nó im lặng đến mức nó sẽ trở thành
thoáng nhìn, nó sẽ trở thành sự hỗ trợ lớn lao. Và bạn
sẽ biết rằng đây là cách thực tế đang hiện hữu. Trong
một khoảnh khắc đó, cái đang đó sẽ hiển lộ bản thân
nó cho bạn. Đó chính là Thượng đế là gì đấy, hay
chân lí, hay niết bàn. 

Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được.
Lau sạch trái tim bạn khỏi cặn bã của đam mê. Và
thực tế, để làm điều đó, chẳng cần gì nhiều. Không
hẳn là trường hợp bạn bị trở nên không thuần khiết
đâu. Bạn đơn giản bị quấy rối, có vậy thôi; đó là điều
không thuần khiết nghĩa là gì. Bất kì khi nào bạn
không bị quấy rối, thì không thuần khiết đều biến mất.
Không thuần khiết không phải là cái gì đó đã đi vào
trong bản thể bạn. Nó chỉ ở trên bề mặt thôi, tựa như
sóng. Cho nên nếu bạn muốn nó xảy ra, nó có thể xảy
ra ngay bây giờ. Và đừng chơi đùa với những lời giải
thích. Đừng nói, "Làm sao nó có thể xảy ra ngay bây
giờ được? Mình có nhiều nghiệp phải thanh toán
trước hết." Tất cả đều vô nghĩa! thủ đoạn của tâm trí
để trì hoãn. Tâm trí nói, "Làm sao mình có thể làm
điều đó ngay bây giờ được? Trước hết mình phải
thanh toán nghiệp của nhiều, nhiều kiếp." Nhưng bạn
có biết bạn đã ở đây bao nhiêu kiếp rồi không? Hàng
triệu kiếp rồi! Nếu bạn thực sự phải thanh toán các
nghiệp đó, bạn sẽ lại cần hàng triệu kiếp để thanh toán
chúng. Và sau khi bạn đã thanh toán chúng thì hàng
triệu kiếp sẽ lại trôi qua - và trong những kiếp này bạn
lại sẽ làm thêm nhiều nghiệp. Không có cách nào để
tránh được điều đó. Nếu bạn sống động bạn sẽ làm
điều gì đó này khác. Bạn sẽ ăn cái gì đó, nghiệp được
tạo ra. Bạn sẽ thở, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ bước đi,
nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ ngủ, nghiệp được tạo ra.
Bất kì hành động nào cũng đều là nghiệp. Cho nên
đây là cái vòng luẩn quẩn. Trong hàng triệu kiếp bạn
đã tồn tại; bây giờ thanh toán những nghiệp đó, lại sẽ
cần tới hàng triệu kiếp. Và cho dù sau đó, không cái
gì sẽ được thanh toán nữa - bởi vì trong hàng triệu
kiếp sống bạn sẽ lại tạo ra nghiệp. Thế thì bạn không
thể thoát ra khỏi điều này, ra khỏi cái đống lộn xộn
này. Thế thì không có lối ra.
Phật nói: Bao giờ cũng có lối ra. Vấn đề không
phải là thanh toán nghiệp quá khứ, vấn đề đơn giản là
thanh toán trạng thái hiện tại của tâm trí, có vậy thôi.
Đó chỉ là ở đây bây giờ. Nếu bạn hiểu, việc thanh
toán có thể xảy ra. Bạn chưa bao giờ làm cái gì cả;
bạn đơn giản đang mơ đấy thôi. Hành động hay tác
nhân, người làm và việc làm - tất cả đều là mơ.
Phật nói: cốt lõi bên trong nhất của ông đơn giản
là trống rỗng. Nó chưa bao giờ làm điều gì. Nó không
thể làm được. Nó là nhân chứng, bởi chính bản chất
của nó.
Quan sát nó đi. Tìm ra liệu điều ông ấy nói là
đúng hay không. Thử điều đó trong cuộc sống của
bạn. Bạn đã là đứa trẻ, bây giờ bạn không còn là đứa
trẻ nữa; thế rồi bạn đã là thanh niên, bây giờ bạn
không còn trẻ nữa; bây giờ bạn đã trở nên già; thân
thể thời thơ ấu đã mất rồi, tâm trí thời thơ ấu đã biến
mất. Thế rồi bạn có một thân thể khác trong tuổi
thanh niên của mình - cái đó đã qua đi. Cường tráng,
sống động, tuổi thanh xuân, cái đẹp - mọi thứ đều đã biến mất. Bạn đã có một kiểu tâm trí khác - quá tham
vọng, quá ham muốn, quá bản ngã. Bây giờ tất cả
những cái đó đều là câu chuyện của quá khứ. Bây giờ
cái chết đang tới; bạn có thể nghe thấy âm thanh của
việc tới của nó mỗi ngày một gần hơn. Bạn có thể
cảm thấy rằng mọi ngày khoảng cách đang trở nên
nhỏ dần. Nhưng quan sát một điều: bạn vẫn còn như
cũ. Cốt lõi bên trong nhất của bạn đã không thay đổi
một chút nào, nó đã không thay đổi chút nào. Khi bạn
là đứa trẻ, nó vẫn là cùng tâm thức đó quan sát từ
đằng sau. Bạn là thanh niên; nó vẫn là cùng tâm thức
đó, quan sát. Thế rồi bạn trở nên già; nó vẫn là cùng
tâm thức đó.
Cứ dường như tâm thức là tấm gương. Đứa trẻ
đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu đứa trẻ;
thanh niên đứng trước tấm gương, tấm gương phản
chiếu thanh niên đó; ông già đứng trước tấm gương,
tấm gương phản chiếu ông già này - nhưng tấm gương
thì không là đứa trẻ, không là thanh niên, không là
ông già. Và khi tất cả đều đã qua đi đơn giản chỉ còn
tấm gương phản chiếu cái không, chỉ hiện hữu ở đó.
Tâm thức bạn là tấm gương.
Biểu dụ này về tấm gương là cực kì có ý nghĩa.
Nó sẽ rất có ích về Đạo nếu bạn có thể hiểu được nó.
Tâm thức đang đứng đằng sau, quan sát. Nó là nhân
chứng. Mọi sự tới rồi đi... cũng giống như bộ phim.
Bạn ngồi trong rạp chiếu phim; trên màn ảnh nhiều
điều tới rồi đi. Đôi khi bạn bị đồng nhất nữa. Đôi khi
bạn trở nên bị đồng nhất với diễn viên. Có thể anh ta
đẹp, mạnh mẽ, có duyên, duyên dáng của cá tính, gây
ấn tượng, có sức hấp dẫn nào đó: bạn bị đồng nhất,
bạn quên mất bản thân mình. Trong một khoảnh khắc
bạn bắt đầu nghĩ cứ dường như anh ta là bạn. Đôi khi
điều xảy ra là có một cảnh rất buồn, và bạn bắt đầu
khóc. Mắt bạn đẫm lệ... và chẳng có gì trên màn ảnh
cả - chỉ là ánh sáng và bóng tối trôi qua. Và bạn biết
điều đó chứ, nhưng bạn đã quên mất trong một
khoảnh khắc. Nếu bạn nhớ điều đó, bạn sẽ bắt đầu tự
cười mình: "Mình làm gì thế này? kêu à? khóc à?"
Nhưng điều đó xảy ra khi bạn đọc tiểu thuyết nữa. Ít
nhất có cái gì đó trên màn ảnh. Đọc tiểu thuyết thì
chẳng có gì cả - không màn ảnh, không diễn viên,
chẳng có gì. Chỉ trong tưởng tượng riêng của bạn mà
tiểu thuyết cứ diễn ra mãi. Và bỗng nhiên đôi khi bạn
cảm thấy rất hạnh phúc, và đôi khi bạn cảm thấy rất
buồn; bầu không khí của tiểu thuyết bắt đầu sở hữu
bạn.
Đây đích xác là điều đang xảy ra trong cuộc sống.
Cuộc sống là một sân khấu lớn, một vở kịch lớn. Và
nó rất phức tạp - bởi vì bạn là diễn viên, và bạn là đạo
diễn, và bạn là cuốn phim, và bạn là màn ảnh, và bạn
lá máy chiếu, và bạn là khán giả nữa. Bây giờ bạn là
tất cả các tầng: một phần đóng vai trò của diễn viên,
phần khác chỉ đạo, phần khác vận hành như màn ảnh,
phần khác có tác dụng như máy chiếu. Và đằng sau
tất cả những cái đó là thực tại của bạn - nhân chứng,
người đang quan sát.
Người quan sát này... Một khi bạn bắt đầu cảm
thấy sự tồn tại của nó, một khi bạn bắt đầu được lắng
đọng với nó, ngày một hoà điệu với nó, thế thì bạn sẽ
thấy điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói tâm thức là tấm
gương. Tấm gương không bao giờ bị ô uế, nó chỉ
dường như vậy thôi. Bạn có thể để cả đống phân trước tấm gương; tất nhiên, nó sẽ phản chiếu đống phân đó.
Nhưng dầu vậy tấm gương vẫn không bị ô uế, nó
không bị ô nhiễm. Nó không trở nên không thuần
khiết bởi vì đống phân được phản chiếu trong nó. Nó
vẫn còn thuần khiết. Bỏ phân đi và tấm gương có đó
trong mọi sự thuần khiết của nó. Ngay cả khi phân
được phản chiếu thì tấm gương cũng vẫn không bị ô
uế. Cho nên bất kì điều gì là không thuần khiết thì đều
thực sự là việc phản chiếu; nó được soi gương. Và
Phật nói: Nếu ông đánh sạch xỉ này, bụi của điều ác
và đam mê, hạnh kiểm của ông sẽ không thể nghi ngờ
được.
Cho nên nhấn mạnh không vào hạnh kiểm. Nhấn
mạnh là vào thuần khiết tựa tấm gương của tâm thức.
Phật nói:
Ngay cả nếu người ta thoát ra từ việc tạo tác ác,
vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm
người.
Đây là bẩy vận may hi hữu lớn lao. Phật nói về
chúng nhiều lần, theo nhiều cách. Chúng phải được
hiểu; chúng có tầm quan trọng lớn lao.
Thứ nhất: vận may hi hữu là được sinh ra làm
người. Tại sao? Tại sao lại không phải là vận may hi
hữu để được sinh ra như chó? hay như trâu? hay như
lừa? hay như cây? hay như đá? Tại sao ân huệ hi hữu
lại là được sinh ra làm người? - bởi vì ngoại trừ con
người, toàn thể tự nhiên đều đang ngủ say. Bạn cũng
không thức tỉnh. Để tôi nhắc lại: toàn thể tự nhiên
đang ngủ ngoại trừ con người, và con người cũng
không thức tỉnh, mà ở chính giữa.
Đôi khi điều xảy ra buổi sáng là bạn cứ lật mình
và trở mình trên giường. Bạn biết rằng bây giờ là lúc
dậy, mà dầu vậy vẫn còn giấc ngủ. Nó là trạng thái
lưng chừng. Bạn có thể nghe thấy người đưa sữa nói
với vợ mình, bạn có thể nghe thấy tiếng trẻ con léo
nhéo và chuẩn bị đi tới trường, bạn có thể nghe thấy
tiếng xe bus dừng bên ngoài nhà để đón lũ trẻ, và dầu
vậy việc mơ vẫn tiếp tục. Bạn vẫn cảm thấy buồn ngủ,
mắt vẫn nhắm. Thỉnh thoảng bạn trôi giạt vào giấc
ngủ, thỉnh thoảng bạn trôi giạt ra khỏi nó. Đây là
trạng thái của con người.
Và Phật nói: Đó là ân huệ hi hữu - bởi vì toàn thể
tự nhiên đang trong ngủ rất say, ngủ say tới mức thậm
chí không có mơ. Nó đang trong trạng thái sushupti.
Con người đã đi tới trạng thái thứ hai: trạng thái của
việc mơ. Ít nhất có mơ nào đó. Mơ nghĩa là bạn
không ngủ say thêm nữa. Bạn chắc chắn không thức
tỉnh, bởi vì khi bạn trở nên thức tỉnh thì bạn thành vị
phật. Bạn đang ở đâu đó lưng chừng giữa con vật và
vị phật. Bạn đang treo trong trình trạng lấp lửng.
Và Phật nói: Đó là một cơ hội lớn lao, một ân huệ
hi hữu - bởi vì nếu bạn nỗ lực thêm chút ít thì bạn có
thể trở nên thức tỉnh. Chó không thể trở nên thức tỉnh
được, dù nó nỗ lực đến đâu. Cây không thể trở nên
thức tỉnh được; dù nó cố gắng đến đâu, điều đó là
không thể được. Nếu cây cố gắng cần mẫn, nó sẽ trở
thành chó. Nếu chó cố gắng cần mẫn, chó có thể trở
thành người. Nhưng thức tỉnh chỉ xảy ra khi bạn là con người. Con đường đi tới Thượng đế chỉ đi từ con
người thôi. Và ở phương Đông chúng ta nghĩ - và ý
nghĩ này có nhiều tính hợp thức trong nó - rằng ngay
cả các devas, các thiên thần, các thần, cũng không
được ân huệ như con người đâu. Vì sao? Bởi vì con
người đứng ở ngã tư đường. Ngay cả các thần mà
muốn được giải thoát, họ sẽ phải được sinh ra như con
người.
Con vật đang ngủ say, con người ở ngay điểm
giữa đường, và các thần ở trong mơ của họ quá nhiều.
Thế giới các thần là thế giới mơ. Đó là lí do tại sao họ
có nhiều cảnh tượng hay thế: nó là thế giới mơ, tưởng
tượng. Họ sống trong tưởng tượng. Con người sống ở
ngay giữa đường, và có khả năng con người có thể đi
tới những trạng thái thức tỉnh hơn của hiện hữu. Con
người có thể trở thành sự thức tỉnh.
... vận may hi hữu của người ta là được sinh ra
làm người.
Cho nên đừng bỏ lỡ cơ hội lớn lao này. Chỉ sau
tranh đấu rất lớn lao bạn mới được sinh ra làm người.
Làm phí hoài nó quả là đơn giản lố bịch. Trong hàng
triệu kiếp bạn đã đi tới trạng thái này. Bởi vì bạn đã
tới, bạn có thể phá huỷ nó chỉ bằng việc ăn, uống và
vui vẻ. Bạn có thể đơn giản đánh mất toàn thể cơ hội
này. Có những người mà nếu bạn bảo họ cầu nguyện
hay thiền, họ sẽ nói, "Thời gian đâu? Chúng tôi không
có thời gian." Và thế rồi bạn có thể thấy họ chơi bài
trong câu lạc bộ, và bạn hỏi, "Anh đang làm gì vậy?"
Và họ nói, "Giết thời gian" - vẫn cùng những người
đó. Khi đó là vấn đề về việc thiền họ nói, "Nhưng
không có thời gian." Và khi đó là vấn đề uống rượu,
hay đánh bạc, hay đi xem phim, hay chỉ ngồi dính
chặt hàng giờ trước chiếc ti vi, họ lại có đủ thời gian.
Thế thì bạn hỏi họ; họ nói, "Chúng tôi đang giết thời
gian."
Bạn đang giết thời gian, hay thời gian đang giết
bạn? Ai đã từng có khả năng giết thời gian? Bằng
không, với bao nhiêu người đã từng giết thời gian như
vậy, thì đến lúc này, thời gian chắc phải chết rồi.
Chẳng ai đã từng có khả năng giết thời gian. Thời
gian giết mọi người. Từng khoảnh khắc - thời gian
đều đem tới cái chết. Ở Ấn Độ chúng ta có cùng một
từ cho cả hai: thời gian chúng ta gọi là kal; và với cái
chết chúng ta cũng có cùng cái tên, kal... bởi vì thời
gian đem tới cái chết.
Thời gian là cái chết. Từng khoảnh khắc, bạn
đang trượt vào trong cái chết. Từng khoảnh khắc, cái
chết đang tới ngày một gần hơn, gần hơn. Mọi đồng
hồ đều phục vụ cho cái chết. Toàn thể thời gian đều
phục vụ cho cái chết. Và làm người chính là một cơ
hội hi hữu, và rất dễ đánh mất nó. Phật nhắc nhở
chúng ta. Điều thứ hai ông ấy nói:
Nếu người ta sinh ra được làm người, vận may hi
hữu của người ta là có sáu giác quan hoàn chỉnh.
Có những người có thể được sinh ra là người,
nhưng lại mù, hay điếc, hay câm, hay đầu óc trì trệ.
Thế nữa cũng là điều không thể được - Chẳng ai đã
từng nghe nói về bất kì người đầu óc trì trệ nào lại trở
thành vị phật. Điều đó chưa bao giờ được biết tới,
điều đó là không thể có được. Cần có thông minh lớn lao. Rất khó trở nên nhận biết nếu giác quan của bạn
bị thiếu - bởi vì với nhận biết, nhạy cảm là điều phải
có. Người có mắt và người không có mắt ở hai trạng
thái khác nhau, trạng thái khác hẳn nhau. Người có
mắt nhạy cảm hơn, bởi vì mắt là phần nhạy cảm nhất
của thân thể. Tám mươi phần trăm nhạy cảm của bạn
thuộc vào mắt. Người mù chỉ có hai mươi phần trăm
nhạy cảm so với người có mắt. Người mù bị bao trong
bóng tối tinh tế, và không có cách nào để thoát ra khỏi
nó. Người đó sống bị bao quanh trong một nhà tù rất
tinh tế. Rất khó thoát ra khỏi nó.
Đôi mắt bên ngoài của bạn cho bạn thoáng nhìn
nào đó, tầm nhìn nào đó, và bạn có thể bắt đầu suy
nghĩ về con mắt bên trong nữa. Nhưng người không
có con mắt bên ngoài thì không thể quan niệm nổi về
con mắt thứ ba là gì. Người chưa bao giờ nhìn thấy
cái gì thì không thể có cái nhìn thấu suốt được. Nếu
cái ‘nhìn ra' bị thiếu, cái nhìn vào sẽ bị thiếu; chúng
tồn tại theo cặp. Đó là lí do tại sao khi bạn thấy người
mù, lòng từ bi lớn lao lại nảy sinh trong bạn. Chỉ quan
sát người mù người ta cảm thấy rất, rất từ bi. Tại sao?
Người này khuyết tật nhiều thế. Người này là con
người đấy, vậy mà tám mươi phần trăm kinh nghiệm
mầu sắc, ánh sáng, lại bị thiếu. Toàn thể cuộc sống
của người đó là vô mầu; người đó không biết mầu lục
là gì. Nghĩ về bản thân bạn mà xem: nếu bạn chưa bao
giờ biết tới hoa hồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy
cầu vồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời
mọc và mặt trời lặn, nếu bạn chưa bao giờ thấy khuôn
mặt người đàn bà hay đàn ông đẹp, nếu bạn chưa bao
giờ thấy cái đẹp, con mắt hồn nhiên của đứa trẻ, nếu
bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt, vẻ duyên dáng của
người đã đạt tới, bị bạn bị lỡ biết bao nhiêu.
Bạn sẽ giống như tảng đá, ít giống con người.
Phật không chống lại giác quan; câu này sẽ chứng
minh điều đó cho bạn. Phật nói: Cảm giác, và thèm
khát cảm giác là xấu, nhưng giác quan là tốt. Và mang
tính nhạy cảm là tuyệt đối cần thiết. Cho nên trở nên
nhạy cảm hơn đi.
Để tôi làm điều đó rõ ràng cho bạn. Nếu bạn dùng
mắt chỉ để đạt tới thèm khát và bạn cứ tìm kiếm thèm
khát, thế thì mắt bạn sẽ dần dần trở thành đờ đẫn. Con
mắt thèm khát bao giờ cũng đờ đẫn. Con mắt thèm
khát bao giờ cũng xấu. Nếu một người nhìn bạn với
con mắt thèm khát, bạn bỗng nhiên cảm thấy bị xúc
phạm - người đó đang xâm phạm. Mắt người đó giống
như con dao đâm vào tim. Người đó không phải là
người có văn hoá, người đó không lịch sự chút nào.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin đi vào một văn phòng; anh ta
phải đã tới bởi công việc nào đó. Tiếp viên là một
người đàn bà đẹp. Anh ta nhìn cô ấy với đôi mắt thèm
khát thế, và rồi anh ta hỏi, "Phòng tắm ở đâu?" Người
đàn bà nói, "Anh đi thẳng tới cuối hành lang. Anh sẽ
thấy một phòng có dấu hiệu 'Nam' - và đừng để dấu
hiệu đó ngăn cản anh. Cứ đi vào." 

Khi bạn nhìn người đàn bà với đôi mắt thèm khát
thì bạn không phải là quí ông lịch sự. Thực sự, bạn có
chút ít vô nhân. Khi đôi mắt nhạy cảm, không thèm
khát, chúng có chiều sâu. Khi mắt không nhạy cảm,
mà chỉ thèm mãnh liệt cảm giác, chúng nông cạn. Và
bạn sẽ thấy chúng đục ngầu: chúng sẽ không trong
suốt. Khi đôi mắt cực kì nhạy cảm, thế thì chúng có
chiều sâu, chiều sâu trong suốt. Bạn có thể nhìn vào
chúng và bạn có thể đạt tới chính trái tim của người
đó. Người đó trở thành sẵn có qua đôi mắt của mình,
và qua đôi mắt bạn có thể thấy mình đang gặp kiểu
người nào.
Mắt mang tính rất chỉ dẫn. Đó là lí do tại sao
những kẻ phạm tội không bao giờ nhìn thẳng vào mắt
bạn, họ sẽ tránh điều đó. Người phạm tội sẽ nhìn sang
bên cạnh, họ sẽ không nhìn thẳng - bởi vì họ không
hồn nhiên. Họ biết rằng mắt họ có thể tiết lộ, mắt họ
có thể nói điều gì đó mà họ không muốn nói. Nếu bạn
có thể quan sát mắt người, bạn có chính chiếc chìa
khoá vào cá tính người đó.
Và cùng điều đó cũng đúng cho các giác quan
khác. Nghĩ về người điếc, người không nghe được.
Wagner, người đã không nghe được, Ravi Shankar,
người đã không nghe được chim hót vào buổi sáng,
với họ chim cu cu không tồn tại, người đã không nghe
ai đó hát bài tình ca hay bài ca buồn, với người đó sáo
chỉ là thanh trúc hổng. Nghĩ xem người đó nghèo nàn
làm sao.
Phật nói: Ân huệ đầu tiên là ở chỗ ông được sinh
ra làm người, ân huệ thứ hai là ông được sinh ra với
sáu giác quan. Bây giờ dùng cơ hội này; trở nên ngày
một nhạy cảm hơn đi. Và làm sao bạn có thể trở nên
nhạy cảm hơn? Khi bạn không thèm khát, bạn trở nên
nhạy cảm hơn. Khi bạn thèm khát, tính nhạy cảm của
bạn bị mất; bạn trở thành nông cạn. Người không
thèm khát, dần dần, thu được nhiều năng lượng thế.
Nếu một người mà không có thèm khát, thì tất cả các
giác quan của người đó trở thành cửa sổ rõ ràng -
không khói, không rào chắn. Và bên trong và bên
ngoài gặp gỡ qua sự nhạy cảm đó.
Ngay cả khi người đó được hoàn chỉnh trong sáu
giác quan, vận may hi hữu của người đó là được
sinh ra vào thời của phật. Ngay cả nếu người đó
được sinh vào thời phật,
Và Phật nói: Ông có thể là con người, ông có thể
được sinh ra với tất cả các giác quan hoàn hảo, nhưng
nếu ông không được sinh ra trong thời của phật thì
ông sẽ bỏ lỡ sự tiếp xúc với cái không biết. Bạn có thể
thấy cây, bạn có thể thấy hoa, bạn có thể thấy sao,
nhưng những điều này không là gì nếu so với con
người của chứng ngộ - bởi vì ông ấy đại diện cho cái
không biết trong thế giới của cái biết. Ông ấy đem tia
sáng của Thượng đế vào bóng tối của trái đất. Ông ấy
là việc nở hoa thực của tâm thức.
"Điều đó là hi hữu," Phật nói, "được sinh ra vào
thời của phật." Thực tế, chính ân huệ lớn lao là được
cư ngụ cùng thời gian, cùng không gian, khi vị phật
cư ngụ - bởi vì cái gì đó của rung động sống của ông
ấy nhất định chạm tới bạn. Sự hiện diện của ông ấy
nhất định trở thành mưa rào phúc lành. Cho dù bạn
không bao giờ tới ông ấy, cho dù bạn chống lại ông ấy, cho dù ông ấy đi qua thị trấn của bạn và bạn
không có thời gian tới thăm ông ấy, cho dù thế thì
bình thản của ông ấy vẫn đem cái gì đó tới bạn, cái gì
đó không được yêu cầu. Ông ấy sẽ đạt tới cái không
được mời của bạn. Nghĩ xem: nếu Phật mà không
được sinh ra, thế giới này đã không như thế rồi. Và
người Ki tô giáo đã làm rất giỏi để bắt đầu lịch của họ
theo Christ. Điều đó là tốt - Christ tạo ra sự gián đoạn
vô cùng với quá khứ. Chỉ sự tồn tại của ông ấy thôi -
Christ là vị phật - sự tồn tại của ông ấy đã tạo ra một
lịch sử hoàn toàn khác. Điều tốt là người Ki tô giáo đã
ghi ngày tháng lịch sử của họ theo sau Christ và trước
Christ. Trước Christ nó chẳng là cái gì; tất cả đều bình
thường. Sau Christ một hiện tượng vô cùng đã bắt đầu
đi vào một độ cao khác.
Ở Ấn Độ chúng ta không thể làm được điều đó,
bởi vì chúng ta đã bắt gặp biết bao nhiêu chư phật.
Thật khó cho chúng ta để làm điều đó theo cách đó.
Bằng không thì đã có biết bao nhiêu là lịch, và điều
đó sẽ gây lẫn lộn. Nhưng bất kì khi nào vị phật tồn tại
nhân loại đều lấy một chỗ ngoặt, chỗ ngoặt đi lên. Bất
kì khi nào vị phật đi vào lịch sử, lịch sử không bao
giờ còn như cũ - toàn bộ viễn cảnh thay đổi. Và khi
phật đang trong hiện tại thì rất dễ cho bạn thiền, bởi vì
năng lượng của ông ấy đang chuyển động. Bạn có thể
đơn giản cưỡi lên con sóng của ông ấy. Khi bạn làm
việc thiền một mình và vị phật không hiện diện, bạn
đang tranh đấu đơn thương độc mã với những rào
chắn lớn thế; điều đó gần như không thể nào được,
không có thể được, tới mức bạn sẽ là kẻ chinh phục.
Có Phật điều đó gần giống thế này.
Ramakrishna thường nói, "Khi gió thổi theo đúng
hướng, bạn đơn giản để cho con thuyền của mình
trong dòng chảy và gió sẽ đem nó đi. Chỉ đợi cho
đúng hướng thôi; thế thì bạn không cần làm nỗ lực gì.
Bạn đơn giản ngồi trong thuyền, gió sẽ đem nó đi."
Khi Phật đang thổi và toàn thể sự tồn tại đang nổi
sóng, thế thì mọi thứ đang đi tới Thượng đế. Bạn có
thể đơn giản nắm tay, và bạn có thể cưỡi lên con sóng
này rất dễ dàng. Bạn có thể đơn giản để cho chiếc
thuyền của mình trong dòng chảy, và dòng chảy đang
đi đấy.
Do đó Phật là phải khi ông ấy nói: Được sinh ra
vào thời của phật là cơ hội hi hữu.
Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị phật,
vận may hi hữu của người đó là được gặp người
chứng ngộ.
Nhưng khó khăn có đó: bạn có thể được sinh ra
vào thời của Phật nhưng bạn có thể chẳng bao giờ gặp
ông ấy - bởi vì ngay chính ý tưởng rằng ai đó đã
chứng ngộ là ngược lại bản ngã của bạn. Bạn không
thể tin được rằng ai đó đã chứng ngộ còn bạn thì
không. Không thể nào có chuyện ai đó đã đi lên trước
bạn. Bạn không thể tin được điều đó bởi vì bản ngã
của mình, và bạn sẽ tìm cả nghìn lẻ một lí do để
không đi tới vị phật. Bạn sẽ tìm các lí lẽ rằng ông ấy
sai, rằng ông ấy mắc chứng hoang tưởng, rằng ông ấy
cứ nói đại, rằng ông ấy không thực là vị phật - "Bằng
chứng là gì?" Mọi người thường tới Phật và hỏi,
"Bằng chứng của ông là gì? Ai là nhân chứng cho
ông?" 

Bây giờ đây là những câu hỏi ngu xuẩn. Ai có thể
là nhân chứng đây? Phật tính xảy ra trong sự một
mình sâu sắc đến mức không ai có thể là nhân chứng
được. Nó không phải là hành động trong thế giới này,
nó là hành động bên ngoài thế giới. Ai có thể là nhân
chứng? Nó xảy ra trong tính một mình vô cùng. Nó
xảy ra ở cốt lõi bên trong nhất; không ai có thể thấy
được nó. Vị Phật phải tự công bố; không có cách
khác. Và ai sẽ xác nhận rằng ông ấy là vị phật? Mọi
người hay tới ông ấy và họ sẽ tìm cả nghìn lẻ một
cách để chứng minh rằng bất kì cái gì ông ấy nói đều
đã trùng hợp hay không trùng hợp với kinh sách cổ.
Nó chưa bao giờ trùng hợp cả; nó không thể thế được,
theo chính bản chất của mọi sự. Bởi vì bất kì khi nào
ai đó trở nên chứng ngộ, người đó đều đem một tầm
nhìn khác vào trong thế giới, điều chưa bao giờ tồn tại
trước đó.
Từng người chứng ngộ đều đem món quà mới cho
thế giới, điều chưa tồn tại trước đây. Cho nên nếu bạn
nhìn vào trong Veda bạn có thể không tìm thấy nó;
nếu bạn nhìn vào Upanishad bạn có thể không tìm
thấy điều Phật đang nói. Điều đó sẽ có vẻ như chút ít
nổi dậy, không chính thống. Người chứng ngộ mang
tính nổi dậy, là không chính thống, bởi vì chân lí
mang tính nổi dậy và chân lí là không chính thống.
Cho nên bất kì khi nào vị phật tới, mọi người bắt đầu
nhìn vào kinh sách cổ của họ để xem liệu có bằng
chứng không, và điều đó thì chẳng bao giờ xảy ra cả.
Khi Christ tới người Do Thái bắt đầu nhìn vào
kinh sách cổ của họ, và họ chẳng bao giờ trở nên
được thuyết phục rằng con người này là Chúa cứu thế
mà họ đã chờ đợi. Họ đã đóng đinh ông ấy. Tại sao? -
bởi vì họ không thể hình dung được điều đó.
Mọi người tin vào kinh sách. Kinh sách là thứ
chết, và kinh sách do bạn làm ra, do bạn thu thập lấy,
do bạn diễn giải. Không ai biết kinh sách thực sự ngụ
ý gì. Không ai có thể biết được - bởi vì lời có đó,
nhưng nội dung phải do bạn trao cho.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin tới bác sĩ và nói, "Tôi rất lo
nghĩ. Một tuần trước, tôi về nhà thấy vợ tôi đang
trong tay một người đàn ông khác, người này đã nói
với tôi trong lúc đi ra uống cà phê. Năm đêm sau, lại
đích xác điều đó xảy ra."
"Anh bạn quí ơi," bác sĩ nói, vậy anh cần gì bác
sĩ. Anh cần luật sư chứ."
"Không đâu," Mulla khăng khăng, "tôi cần bác sĩ
thực. Tôi muốn biết liệu tôi có uống quá nhiều cà phê
không."
Bây giờ điều đó là tuỳ... cách bạn nhận điều gì đó,
cách bạn diễn giải nó. Diễn giải nhất định tới từ tâm
trí bạn.
Nghe một giai thoại.
Đó là đêm trăng mật của họ, và cô dâu Do Thái đã
mặc bộ áo ngủ mỏng tang và bò vào giường, phát hiện
ra anh chồng theo nhà thờ Tân giáo đang sắp đi ngủ trên tràng kỉ. Lúc đó là tháng chay Lent, lúc mà người
Ki tô giáo dừng ít nhất một trong những việc hưởng
thú của họ.
"George ơi," cô ấy gọi, "anh không định làm tình
với em sao?"
"Anh không thể làm được, em yêu," anh ta đáp,
"bởi vì đó là Lent."
"Sao thế, điều đó khủng khiếp quá!" cô ấy kêu
lên, buột khóc. "Làm với ai? và bao lâu?"
Bạn hiểu không?
Bây giờ tâm trí đam mê, tâm trí thèm khát, có
cách diễn giải riêng của nó. Lời chẳng thành vấn đề gì
nhiều; bạn phóng chiếu ý tưởng của mình lên lời. Nếu
bạn đang tìm cái gì đó bạn sẽ có thể thấy nó. Nếu bạn
không tìm cái gì đó bạn có thể không thấy nó. Và
khuynh hướng tự nhiên của tâm trí con người là trước
hết phủ nhận rằng ai đó đã đạt tới. Điếu đó xúc phạm
tới bản ngã. Đó là lí do tại sao điều đó lại rất khó cho
bạn.
Nếu ai đó tới và nói rằng người khác, hàng xóm
của bạn, là kẻ giết người, bạn tin ngay lập tức. Bạn
chẳng bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Bạn nói,
"Tôi đã biết anh ta từ lâu rồi. Tôi bao giờ cũng nghĩ
rằng anh ta là thế." Nếu ai đó tới và nói, "Người kia là
kẻ cắp, vô đạo đức," thế này thế nọ, bạn chẳng bao
giờ bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Nếu mọi người
bận tâm về bằng chứng thì đã không có nhiều buôn
chuyện trong thế giới này. Ai bận tâm tới bằng
chứng? Khi ai đó bị kết án bạn lập tức tin ngay điều
đo bởi vì điều đó cho bạn cảm giác rằng bạn tốt hơn
người khác. Nhưng nếu ai đó tới và nói, "Một người
đã trở thành thiền nhân, thiền nhân vĩ đại," lập tức có
nghi ngờ. Bạn nghe điều đó nhưng bạn không muốn
nghe đâu. Bạn nói, "Điều đó không thể được. Tôi biết
người đó mà; anh ta là kẻ lừa dối. Làm sao anh ta có
thể thiền được? Tôi biết anh ta từ chính thời trẻ con;
chúng tôi đã là đồng sinh trong trường. Không, anh ta
không thể thế được. Bằng chứng là gì?" bạn hỏi. Bất
kì khi nào ai đó nói về ai đó khác là tốt, bạn đều đòi
hỏi bằng chứng bởi vì điều đó làm tổn thương bản ngã
bạn: "Thế là ai đó khác đã trở thành tốt trước mình
sao?"
Khi vị phật bước đi trên đất ông ấy công bố điều
không thể có được, điều mà chỉ hiếm khi mới xảy ra.
Ông ấy đang nói ông ấy đã trở thành vị phật, và tất
nhiên chỉ ông ấy mới có thể nói được điều đó. Không
có cách khác để chứng minh hay bác bỏ điều đó. Phát
biểu của ông ấy là không chứng minh được hay không
bác bỏ được - và bản ngã của bạn bị tổn thương.
Phật nói: Vận may hi hữu là được sinh ra vào thời
của phật, và thậm chí vận may hi hữu hơn là được gặp
người đã chứng ngộ - để đi tới, để cúi lạy. Bởi vì chỉ
nếu bạn cúi lạy, nếu bạn buông xuôi, thì bạn mới có
khả năng thấy được. Vấn đề không phải ở con mắt vật
lí. Nhiều người đã thấy Phật bước đi, đi từ thị trấn nọ
sang thị trấn kia, nhưng họ lại không phải là những
người đã thấy ông ấy. Chỉ vài cá nhân hi hữu trở
thành đệ tử của ông ấy mới thấy được. Bởi vì không
thể nào thấy được vị phật mà lại không trở thành đệ
tử. Nếu bạn đã thấy, thế thì bạn đã thấy; và thế thì bạn không thể lại như cũ được nữa. Thế thì toàn thể cuộc
sống của bạn bị đảo lộn. Thế thì bạn đang trong hỗn
độn, thế thì bạn được tái sinh. Thế thì sẽ có sụp đổ
hoàn toàn của quá khứ của bạn, có sinh thành mới, và
tất nhiên, tất cả mọi đau đớn bao giờ cũng có trong
sinh thành mới.
... Ngay cả nếu người đó có khả năng gặp người
chứng ngộ, vận may hi hữu của người đó là có
trái tim được thức tỉnh trong tin cậy.
Bạn có thể thấy, nhưng điều đó cũng không nhiều
nhặn mấy. Chừng nào tin cậy còn chưa nảy sinh trong
bạn...
... Trái tim được thức tỉnh trong tin cậy. Cố hiểu
từ 'tin cậy' này. Nó không ngụ ý đức tin. 'Đức tin'
nghĩa là giáo điều; 'đức tin' nghĩa là tin vào giáo điều.
Chẳng hạn, người Ki tô giáo tin vào Ba ngôi: Cha,
Con và Thánh Thần thiêng liêng. Đây là đức tin. Hay,
người Hindu tin vào ba khuôn mặt của Thượng đế; đó
là đức tin.
Khi bạn đương đầu với vị phật và bạn tin cậy vào
người này, thế thì đó là tin cậy. Tin cậy mang tính cá
nhân; đức tin mang tính lí thuyết, quan niệm. Tin cậy
giống như tình yêu - bạn rơi vào tin cậy cũng như bạn
rơi vào tình yêu. Nó không phải là đức tin. Không
phải là Phật đã thuyết phục bạn về cái gì đó. Không,
sự hiện hữu của ông ấy đã thuyết phục bạn về bản thể
riêng của ông ấy. Ông ấy đã thuyết phục bạn không
tin vào giáo điều, ông ấy đã thuyết phục bạn rằng cái
gì đó đã xảy ra ở đây trong con người này. Bạn đã trở
nên được thuyết phục về sự kiện rằng đây là một con
người đã được biến đổi, được siêu việt, người không
còn của thế giới này nữa. Đó là sự tin chắc, tin chắc
mang tính cá nhân. Nó không phải là lí lẽ, nó không
phải là thần học - nó là chuyện tình.
Khi mọi người tới tôi để được điểm đạo mang
tính chất sannyas, tôi ngay lập tức có thể phân biệt
liệu đó là tin cậy hay đức tin. Có hai kiểu người:
người này tới và nói, "Bất kì điều gì thầy nói cũng
đều thuyết phục tôi. Lí lẽ của thầy là siêu. Lập luận
của thầy hấp dẫn tôi." Bây giờ, người này đã tới tôi
như người tin. Người đó đã không thực sự tới. Một
ngày nào đó người đó có thể tìm thấy ai đó, người có
thể ‘hoá giải đức tin’ của anh ta với tôi - bởi vì có thể
có lí lẽ hay hơn. Bao giờ cũng có khả năng này, bởi vì
logic là con dao hai lưỡi; nó cắt theo cả hai cách.
Cùng lí lẽ đó có thể được dùng để phá huỷ sự thuyết
phục, cùng lí lẽ đó có thể được dùng để tạo ra nó.
Logic giống như kẻ mãi dâm, hay giống như luật sư.
Nó có thể đi cùng bất kì ai, với bất kì ai trả giá.
Chuyện xảy ra:
Trong giờ uống cà phê có cuộc thảo luận lớn. Một
triết gia một hôm nói trong giờ uống cà phê, "Nếu các
ông cho tôi hệ thống logic của Aristotle, tôi sẽ áp đặt
cho kẻ thù của mình một kết luận. Cứ cho tôi phép
tam đoạn luận và đó là mọi điều tôi yêu cầu."
Triết gia khác nói, "Nếu các ông cho tôi hệ thống
chất vấn của Socrates thì tôi sẽ dồn kẻ thù của mình
vào trong góc và đánh bại anh ta ngay lập tức. Đó là
mọi điều tôi yêu cầu." 

Mulla Nasruddin, sau khi nghe tất cả những điều
này nói, "Các anh trai, nếu các anh cho tôi chút ít tiền
mặt, tôi bao giờ cũng giành được quan điểm của mình
tôi bao giờ cũng kéo kẻ thù của mình vào một kết luận
bởi vì chút ít tiền mặt dễ hiểu cực kì hơn sự hiểu
biết."
Logic không phải rất căn bản; nó là hời hợt. Nếu
ai đó tới và anh ta nói rằng anh ta tin vào điều tôi nói,
thế thì đó không phải là tin cậy. Nhưng có vài người
hiếm hoi nói, "Chúng tôi không biết điều thầy đang
nói, chúng tôi thậm chí chẳng hiểu gì mấy. Chúng tôi
thích điều thầy nói, nhưng đó không phải là vấn đề.
Chúng tôi rơi vào tình yêu với thầy." Tin cậy đã nảy
sinh. Bây giờ, không ai có thể phá huỷ tin cậy này
được, bởi vì nó là phi logic.
Bạn không thể phá huỷ được tin cậy bởi vì nó
không dựa trên logic. Bất kì cái gì dựa trên logic cũng
đều có thể bị phá huỷ: nếu bạn có thể co kéo logic nó
sẽ sụp đổ. Nó có nguyên nhân; kéo nguyên nhân ra và
hậu quả sẽ biến mất. Nhưng tin cậy không có nguyên
nhân. Nó cũng giống như rơi vào tình yêu. Nếu bạn đi
tới Majnu và chứng minh cho anh ấy rằng Laila
không phải là người đàn bà đẹp nhất trên thế giới, và
về mặt logic bạn cứ chứng minh điều đó, anh ta sẽ
nói, "Đừng tự gây khó xử cho mình một cách không
cần thiết thế. Chẳng ai có thể chứng minh được điều
đó đâu."
Điều thực tế đã xảy ra là vua của thị trấn của
Majnu đã triệu anh ta tới. Nhà vua trở nên rất tốt với
anh ta. Majnu đã đi, kêu khóc và gào thét trên phố
trong đêm. Anh ta chỉ gọi, "Laila! Laila!" Và nhà vua
trở nên rất từ bi. Ông ta triệu anh ta tới và ông ta nói,
"Anh là kẻ ngốc. Ta đã thấy Laila của anh; cô ấy là
một cô gái bình thường. Thực tế, bởi vì anh kêu khóc
nhiều quá nên ta nghĩ cô ấy phải rất đẹp, cho nên đích
thân ta đã trở nên quan tâm. Nhưng khi ta thấy cô ấy
thì ta đơn giản cười to. Anh là thằng ngốc! Và ta có
nhiều từ bi với cái ngốc của anh. Anh là thanh niên
tốt; đừng làm phí hoài cuộc sống của mình."
Ông ta triệu tới mười hai người đàn bà trong hậu
cung của mình và ông ta nói, "Anh chọn lấy một
người bất kì." Họ đều đẹp nhất, quí giá nhất của
vương quốc. Majnu nhìn và anh ta nói, "Chẳng cái gì
sánh được với Laila." Và anh ta nói với nhà vua, "Tâu
bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn thấy Laila, bệ hạ sẽ
cần đôi mắt của thần. Mắt của Majnu sẽ được cần tới.
Không có cách nào để thấy Laila và cái đẹp của cô ấy
ngoại trừ qua con mắt của Majnu."
Đệ tử là một Majnu. Người đó là người điên;
người đó đã rơi vào tình yêu. Phật nói: Trái tim của
người đó được thức tỉnh trong tin cậy... Hiện diện của
Phật là hấp dẫn của ông ấy. Duyên dáng bao quanh
Phật đã làm xúc động trái tim người đó. Đó không
phải là logic của Phật, đó không phải là triết lí của
Phật. Cho dù Phật vẫn còn im lặng thì điều đó cũng
chẳng khác biệt gì nhiều; người đó sẽ bị thuyết phục
như nhau. Cho dù Phật có bắt đầu tự mâu thuẫn thì
điều đó cũng sẽ chẳng tạo ra khác biệt gì. Đó là lí do
tại sao bạn thấy rằng tôi cứ mâu thuẫn hoài. Những
người tới qua trí năng dần dần biến mất. Mâu thuẫn
giúp tôi vứt cỏ dại khỏi khu vườn của tôi. Những
người đã tới qua tình yêu thì không bận tâm. Họ nói, "Được đấy, thầy cứ tận hưởng việc tự mâu thuẫn đi,
nhưng chúng tôi yêu thầy. Thầy không thể lừa chúng
tôi được." Họ nói, "Thầy có thể cứ mâu thuẫn nhưng
thầy không thể buộc chúng tôi chạy xa khỏi thầy
được."
Những người tới qua đức tin, chẳng chóng thì
chầy, sẽ phải ra đi - bởi vì chân lí mang tính nghịch lí.
Chỉ lí thuyết mới không nghịch lí. Chân lí có tất cả
mọi mâu thuẫn của cuộc sống trong nó. Chân lí rất phi
logic, rất phi lí.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và thế rồi Phật nói: Nhưng điều này không phải
là kết thúc. Khi trái tim ông tràn đầy tình yêu, và tràn
đầy tin cậy và tin tưởng, đây không phải là kết thúc.
Đây mới chỉ là bắt đầu. Bây giờ ông phải giúp cho
thông minh của mình đi lên và chiếm quyền sở hữu
mình. Tin cậy là cánh cửa: bạn phải đi vào qua nó,
nhưng bạn không nên vẫn còn ở cửa. Bằng không,
bạn chẳng bao giờ đi vào trong lâu đài này. Chung
cuộc, ban phải đi tới kinh nghiệm riêng của mình. Tin
tưởng là tốt, tin cậy vào vị phật là tốt, có tin cậy là tốt,
nhưng điều đó không đủ - bởi vì tin cậy của bạn vào
Phật vẫn không phải là kinh nghiệm của bạn. Điều đã
xảy ra cho Phật phải xảy ra cho bạn nữa. Thế thì bước
thứ hai xảy ra: thông minh riêng của bạn nảy sinh.
Bây giờ nó không chỉ là tình yêu hướng tới Phật; bây
giờ bằng kinh nghiệm riêng của mình bạn đã trở thành
nhân chứng. Nó không phải là tin cậy vô căn cứ. Lúc
ban đầu tin cậy là vô căn cứ, nhưng đến cuối nó trở
thành tuyệt đối có căn cứ. Căn cứ này không do logic
cung cấp, căn cứ này được kinh nghiệm của bạn cung
cấp. Khi nó đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn,
bạn không nói, "Tôi tin cậy vào Phật." Bạn biết nó là
phải, nó là đúng.
Ai đó hỏi Shri Aurobindo, "Ông có tin vào
Thượng đế không?" và ông ấy nói, "Không." Người
này đâm ra phân vân. Anh ta đã tới từ Đức, anh ta là
giáo sư. Và anh ta đã tới chỉ để nghe con người vĩ đại
này. Anh ta đơn giản bị choáng rằng con người này
nói, "Không." Và anh ta đã trong việc tìm kiếm
Thượng đế. Anh ta nói, "Tôi có nghe đúng không,
thưa ngài? Ngài nói không?" Aurobindo lặp lại,
"Vâng," ông ấy nói, "tuyệt đối không - bởi vì không
có vấn đề về đức tin. Tôi biết Thượng đế hiện hữu.
Không có vấn đề về đức tin. Anh hỏi, ‘Ông có tin vào
Thượng đế không?' Tôi không tin, tôi biết."
Đức tin là việc thay thế nghèo nàn cho hiểu biết.
Cho nên Phật nói: Thứ nhất ông tin cậy. Tin cậy
đơn giản có nghĩa là ông đã tình cờ bắt gặp một người
ở xa ông, xa khỏi ông. Ông đã tình cờ bắt gặp một
người đã chỉ cho ông tương lai riêng của ông, định
mệnh của ông. Cứ dường như một hạt mầm đã thành
cây, và hạt mầm này đã trở nên nhận biết rằng cây là
có thể có. Và cây này nói, "Có thời tôi cũng là hạt
mầm hệt như bạn." Bây giờ tin cậy nảy sinh trong hạt
mầm này. Nếu người đó chưa bao giờ thấy cây này,
người đó sẽ chẳng bao giờ mơ về nó cả. Làm sao hạt
mầm có thể mơ về cây được? Người đó chưa bao giờ
thấy cái một. Đó là lí do tại sao được sinh vào thời của phật lại là phúc lành lớn lao - bởi vì có cây, và hạt
mầm của bạn có thể bắt đầu mơ. Khi động chạm đầu
tiên của cây đổ lên hạt mầm, người đó tin cậy. Tương
lai riêng của người đó bây giờ trở nên đầy các khả
năng. Nó sẽ không chỉ là việc lặp lại của quá khứ, nó
sẽ là cái gì đó mới. Người đó xúc động. Xúc động đó
là tin cậy. Người đó rùng mình tới tận gốc rễ. Bây
giờ, lần đầu tiên, người đó biết có nghĩa; bây giờ, lần
đầu tiên người đó biết có định mệnh. Cái gì đó đang
sắp xảy ra: "Mình không phải là ngẫu nhiên. Mình
đang mang thông điệp lớn lao. Nó phải được dịch ra,
nó phải được giải mã. Mình phải trở thành cây và nở
hoa, và lan toả hương thơm theo gió."
Nhìn thấy vị phật, bạn đã thấy phật tính riêng có
thể có của mình. Đó chính là tin cậy là gì... nhưng nó
vẫn chưa đủ. Thế rồi bạn phải làm việc cần mẫn để
làm cho nó thành sự thực. Hạt mầm phải rơi vào đất,
phải chết đi trong đất, được sinh ra như chồi. Và cả
nghìn lẻ một khó khăn phải vượt qua: gió có đó, sấm
chớp có đó, con vật có đó, và chồi mới lại rất mảnh
mai, rất yếu ớt - với tiềm năng vô hạn trở thành mạnh
mẽ, nhưng ngay bây giờ nó không mạnh. Nó sẽ cần sự
giúp đỡ của ai đó; nó sẽ cần người làm vườn. Đó là
nghĩa của thầy.
Khi bạn chọn thầy, bạn chọn người làm vườn. Và
bạn nói, "Xin bảo vệ tôi cho tới khi tôi đủ mạnh mẽ
để đi con đường riêng của mình." Nhưng tin cậy là
cánh cửa.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và điều cuối cùng:
Ngay cả nếu người đó đánh thức trái tim thông
minh, vận may hi hữu của người đó là nhận ra
trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành đạt.
Toàn thể mục đích của kỉ luật là để đi tới một
điểm mà kỉ luật có thể bị vứt bỏ. Toàn thể mục đích
của thực hành tôn giáo, của sadhana, là để đi tới một
khoảnh khắc khi tất cả mọi sadhana có thể bị vứt bỏ
và bạn có thể đơn giản tự phát. Thế thì bạn đã nở hoa.
Chẳng hạn, nếu bạn phải liên tục thiền, và một
ngày nào đó bạn dừng việc thiền của mình và tâm trí
nhảy lùi lại, thế thì đây không phải là trạng thái lớn
lao gì. Một khoảnh khắc nên được ham muốn, được
khao khát, khi bạn thậm chí có thể vứt bỏ việc thiền
của mình. Nhưng chẳng cái gì khác cả; nó vẫn còn
như cũ. Dù bạn có công phu thiền hay không, bạn vẫn
còn mang tính thiền. Việc thiền phải trở thành phần
cốt lõi nhất của bạn, phần của bản thể bạn, không phải
là cái gì đó bị áp đặt từ bên ngoài. Không phải là bạn
phải ép buộc bản thân mình là tốt; không phải là bạn
phải kìm nén những cám dỗ xấu của mình, không.
Bây giờ không có cám dỗ, không có ép buộc. Người
ta đã siêu việt lên trên kỉ luật. Đây là điều Phật gọi là
‘Kỉ luật của Siêu việt'. Đây là vận may thứ bẩy, vận
may cuối cùng, điều tối thượng.
Được sinh ra làm người mới chỉ là cái bắt đầu, và
thế rồi bạn phải đi tới điểm mà tất cả mọi kỉ luật đều
có thể bị vứt bỏ. Thế thì bạn đã trở thành một Thượng đế, thế thì bạn đã trở thành tự phát như tự nhiên, thế
thì không có căng thẳng, thế thì bạn không có tính
cách nào, thế thì bạn hồn nhiên như đứa trẻ. Nhận biết
của bạn là hoàn hảo bây giờ, nhận biết của bạn là đủ
bây giờ. Không còn cần cái gì khác nữa.
Phật nói:
Hỡi các con của phật! Các ông xa ta dù nhiều
nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ về lời
giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu được
quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng cạnh ta,
luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông không gìn
giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không bao giờ
đạt tới chứng ngộ.
Và Phật nói: Đừng bao giờ dừng lại ở bất kì đâu
chừng nào ông còn chưa đạt tới trạng thái thứ bẩy -
trạng thái của không kỉ luật mà có kỉ luật, trạng thái
của vô nỗ lực, trạng thái của Đạo, pháp, trạng thái mà
Kabir gọi là sahaj, tự phát. Nhưng bạn phải làm việc
cần mẫn cho nó.
Cho nên Phật nói: Các ông có thể ở cùng ta, và
nếu các ông không theo điều ta đang nói, nếu các ông
không đem nó vào trái tim mình, vào trí thông minh
của mình, vào bản thể mình, thế thì các ông vẫn cứ ở
xa ta nghìn dặm. Nhưng các ông có thể ở xa ta nghìn
dặm... nếu các ông tuân theo điều ta đã nói, các ông
vẫn gần ta, và chứng ngộ của các ông là tuyệt đối
chắc chắn, được đảm bảo, được hứa hẹn.
Ở gần vị phật... chỉ có một cách đi theo dấu chân
của ông ấy. Ở gần vị phật nghĩa là: trở nên ngày một
nhận biết hơn, trở nên ngày một tỉnh táo hơn. Đem
chút ít phật tính tới cho bản thân bạn đi.
Mục đích là ở chỗ bạn cũng phải trở thành vị
phật. Chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu đích xác
điều là nghĩa và ý nghĩa và sự vĩ đại của việc là người
đã thức tỉnh.
Tâm thức này tồn tại bên trong bạn ngay bây giờ,
chính khoảnh khắc này. Bạn có thể không có khả
năng thấy được nó. Tôi có thể thấy được nó. Nó có đó
tựa tấm gương, và bạn bị đồng nhất với tất cả những
cái phản xạ trong tấm gương. Vứt bỏ đồng nhất của
bạn đi: bắt đầu thấy rằng bạn không là thân thể; bắt
đầu thấy rằng bạn không là tâm trí; bắt đầu thấy rằng
bạn không là xúc động, không là ý nghĩ; bắt đầu thấy
rằng bạn không là vui thích và đau đớn; bắt đầu thấy
không già không trẻ; bắt đầu thấy không thành công
không thất bại. Bao giờ cũng nhớ rằng bạn là nhân
chứng. Dần dần, phẩm chất tựa tấm gương này sẽ
bùng nổ trong bản thể bạn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng bạn là tấm gương, thì
bạn là tự do. Bạn là tự do. Đây chính là điều gọi là
moksha hay đây tất cả chính là niết bàn.
Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được. Ngay cả nếu người ta thoát ra
từ việc tạo tác ác, vận may hi hữu của người ta là
được sinh ra làm người. Nếu người ta sinh ra
được làm người, vận may hi hữu của người ta là
có sáu giác quan hoàn chỉnh. Ngay cả khi người
đó được hoàn chỉnh trong sáu giác quan, vận may
hi hữu của người đó là được sinh ra vào thời của
Phật. Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị
phật, vận may hi hữu của người đó là được gặp
người chứng ngộ. Ngay cả nếu người đó có khả
năng gặp người chứng ngộ, vận may hi hữu của
người đó là có trái tim được thức tỉnh trong sự tin
cậy. Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may
hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của
thông minh. Ngay cả nếu người đó đánh thức trái
tim thông minh, vận may hi hữu của người đó là
nhận ra trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành
đạt. Hỡi các con của Phật! Các ông xa ta dù
nhiều nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ
về lời giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu
được quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng
cạnh ta, luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông
không gìn giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không
bao giờ đạt tới chứng ngộ.

Tâm thức giống như chiếc hồ: có sóng nó trở
thành tâm trí, không có sóng nó trở thành linh hồn. Sự
khác biệt chỉ ở sự hỗn loạn. Tâm trí là linh hồn bị rối
loạn, và linh hồn là tâm trí được im lặng. Tâm trí là
chính trạng thái ốm yếu của vấn đề, còn linh hồn là
trạng thái mạnh khoẻ của vấn đề. Tâm trí không phải
là cái gì đó tách bạch khỏi linh hồn, như sóng không
tách bạch khỏi hồ. Hồ có thể hiện hữu mà không có
sóng, nhưng sóng không thể hiện hữu mà không có
hồ. Linh hồn có thể hiện hữu mà không có tâm trí,
nhưng tâm trí không thể hiện hữu nếu không có linh
hồn. Khi có gió lớn và hồ bị khuấy đảo, có rối loạn.
Và hồ mất đi một phẩm chất trong rối loạn đó, và đó
là phẩm chất của phản chiếu. Thế thì nó không thể
phản chiếu cái thực. Cái thực trở nên bị bóp méo. Có
thể có trăng tròn trên trời, nhưng bây giờ hồ không có
khả năng phản chiếu điều đó. Trăng sẽ vẫn được phản
chiếu, nhưng theo cách bị bóp méo. Nó sẽ được phản chiếu trong hàng nghìn mảnh. Nó sẽ không là một
thực thể thống nhất; nó sẽ không được bình tĩnh, hoà
nhập. Nó sẽ không là một. Thực tại là một. Nhưng
bây giờ hồ sẽ phản chiếu hàng triệu trăng; toàn thể bề
mặt của hồ có thể được rót đầy bàng bạc. Mọi nơi,
toàn trăng là trăng - nhưng điều này là không đúng.
Chân lí là một: khi tâm trí phản chiếu nó, nó trở thành
nhiều; khi tâm thức phản chiếu nó, nó là một.
Tâm thức không mang tính Hindu giáo không Mô
ha mét giáo không Ki tô giáo. Nếu bạn là người
Hindu bạn vẫn trong tâm trí, bị bóp méo. Nếu bạn là
người Mô ha mét giáo bạn là trong tâm trí, bị bóp
méo. Một khi tâm trí đã được lắng đọng và sóng
không còn đó nữa, bạn đơn giản là tâm thức - không
tính từ nào được gắn với nó, không điều kiện nào
được gắn với nó. Và thế thì chân lí là một. Thực tế,
ngay cả nói rằng chân lí là một cũng không đúng - bởi
vì một là có nghĩa chỉ trong ngữ cảnh của nhiều. Chân
lí là một tới mức ở phương Đông chúng ta chưa bao
giờ gọi nói là 'một'; chúng ta gọi nó là 'bất nhị', không
hai.
Tại sao chúng ta đã chọn cách nói vòng khi gọi nó
là 'không hai'? Chúng ta muốn nói rằng khó mà nói nó
là một, bởi vì một ngụ ý hai, ba, bốn. Chúng ta đơn
giản nói 'không hai'. Chúng ta không nói nó là gì,
chúng ta đơn giản nói nó không là gì. Không có
'nhiều' trong nó - có vậy thôi. Chúng ta phải diễn đạt
nó thông qua việc phủ định, bằng việc nói rằng nó
không là hai. Nó là một thế và nó là một mình thế; chỉ
nó tồn tại và không cái gì khác. Nhưng điều đó được
phản chiếu trong tâm thức khi tâm trí không còn đó
nữa. Khi tôi nói 'tâm trí không còn đó nữa', nhớ, tôi
không nói về tâm trí như một năng lực. Tâm trí không
phải là năng lực. Nó đơn giản là trạng thái bị quấy rối:
tâm thức vẩn vơ, run rẩy, rung rinh, không ở nhà.
Gió nào thổi lên tâm thức làm quấy rối nó? Phật
nói: Tên của gió đó là đam mê, ham muốn.
Quan sát, và bạn sẽ thấy chân lí của lời của Phật.
Nó là một sự kiện, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì
lí thuyết nào. Phật không quan tâm tới các hệ thống
trừu tượng; ông ấy đơn giản nói cái đang đó. Ông ấy
không phát biểu ra triết lí. Bao giờ cũng nhớ điều đó,
đừng bao giờ quên điều đó - rằng ông ấy rất mang
tính kinh nghiệm, tồn tại. Toàn thể cách tiếp cận của
ông ấy chỉ là nói điều gì đó mà bạn có thể kinh
nghiệm được ngay lập tức. Và kinh nghiệm của bạn sẽ
chứng minh rằng ông ấy đúng. Không có cách khác
để chứng minh đúng hay sai. Không có cách nào để
biện minh về nó.
Đôi khi ngồi im lặng; cho dù một khoảnh khắc để
ham muốn dừng lại, bạn sẽ thấy rằng mọi rối loạn đã
biến mất. Ngồi im lặng, không ham muốn cái gì; ngồi
im lặng, không đi vào tương lai; ngồi im lặng, mãn
nguyện; trong một khoảnh khắc đó bạn sẽ có khả
năng hiểu điều Phật ngụ ý. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy
rằng không có sóng chút nào. Mọi sóng đều đã mất.
Sóng dậy lên chỉ khi bạn ham muốn, khi bạn không
hài lòng với hiện tại và bạn hi vọng vào tương lai.
Ham muốn là căng thẳng giữa hiện tại và tương
lai. Trong căng thẳng đó, sóng dậy lên. Thế thì bạn bị
tan tành - và tâm thức rất mong manh. Tâm thức rất
mềm mại: chỉ một hơi chút ham muốn, chỉ một cái
nhoáng lên của ham muốn, và toàn thể cái hồ bị quấy rối. Đôi khi đi, quan sát, ngồi bên bờ hồ. Nhìn...
không có sóng. Ném một hòn đá cuội nhỏ, một hòn đá
rất nhỏ, vào cái hồ lớn nhất trong các hồ, và hòn đá
nhỏ đó sẽ bắt đầu tạo ra gợn sóng, và những gợn sóng
đó sẽ cứ lan toả tới bờ xa nhất. Chỉ hòn đá nhỏ thôi
cũng tạo ra nhiều rối loạn thế. Chỉ một ham muốn nhỏ
bé và rối loạn tới qua cửa sau. Ham muốn là rối loạn,
đam mê là cơn sốt. Trong đam mê bạn không phải là
bản thân mình. Trong đam mê bạn ở bên cạnh bản
thân mình. Trong đam mê bạn không được định tâm:
bạn đánh mất cân bằng. Trong đam mê bạn làm
những điều bạn thậm chí không thể tưởng tượng được
rằng bạn có thể đã làm. Nhiều kẻ giết người đã thú
nhận trước toà, trong suốt nhiều thế kỉ, rằng họ đã
không phạm tội ác; điều đó đã xảy ra. Họ đã vào cơn
cuồng nộ thế, họ gần như điên. Họ đã không làm điều
đó một cách có chủ ý; nó đã xảy ra. Họ không phải là
tội nhân, họ là nạn nhân của cơn cuồng nộ của riêng
họ. Bạn có thể nghĩ họ đang lừa dối; bạn có thể nghĩ
họ bây giờ đang cố gắng chạy trốn sự trừng phạt.
Không, nó không như vậy đâu.
Giết người là không thể được nếu bạn có ý thức,
nếu bạn im lặng, nếu bạn định tâm. Nó xảy ra chỉ khi
bạn không có, khi bạn bị che mờ thế, khi chỉ có sóng
và sóng và bề mặt hồ hoàn toàn bị khuấy động - thế
thì điều đó xảy ra. Tất cả mọi cái sai đều xảy ra chỉ
khi bạn bị rối loạn. Người tôn giáo thông thường nói,
"Hãy trau dồi tính cách." Phật nói: Hãy trau dồi tâm
thức. Thầy tôn giáo thông thường nói, "Làm điều
thiện." Phật nói: Im lặng và điều thiện sẽ được làm.
Điều thiện đi theo im lặng như cái bóng đi theo bạn.
Và không có cách nào để làm điều thiện chừng nào
bạn còn chưa im lặng. Bạn có thể làm điều thiện,
nhưng chỉ điều sai xảy ra nếu bạn không im lặng. Đó
là lí do tại sao cái gọi là người làm điều thiện lại cứ
làm cả nghìn lẻ một điều ác trong thế giới. Cái gọi là
người làm điều thiện của bạn là những người làm điều
ác nhất, nhưng họ đang làm điều thiện vì bạn đấy, họ
đang làm nó vì điều thiện, và bạn thậm chí không thể
trốn thoát được họ.
Mọi người đều biết rằng bố mẹ tốt là bố mẹ nguy
hiểm. Bố mẹ quá tốt thì nhất định là bố mẹ sai - bởi vì
họ sẽ cầm tù bạn. Quá tốt là mang tính phá huỷ. Bà
mẹ tốt sẽ phá huỷ bạn, bởi vì bản thân bà mẹ không
được định tâm. Cái tốt của bà ấy bị ép buộc; bà ấy
đang cố gắng để làm điều tốt. Cái tốt không phải là tự
nhiên và tự phát. Nó không giống như cái bóng; nó là
nỗ lực, nó là bạo hành. Cái gọi là các mahatma của
bạn cứ làm què quặt mọi người, phá huỷ mọi người,
phá huỷ tự do của họ theo nhiều cách. Họ cứ cố gắng
chi phối bằng các phương pháp tinh vi, theo cách tinh
tế. Nhưng toàn thể ham muốn là để chi phối, và rất dễ
chi phối ai đó khi bạn là người tốt. Người đó thậm chí
không thể nổi dậy chống lại bạn được. Chống lại
người mẹ tệ hại, bạn có thể trốn đi; nhưng phải làm gì
để chống lại người mẹ tốt? Bà ấy tốt tới mức bạn bắt
đầu cảm thấy khó chịu. Quan sát điều đó đi: mọi
người đều trải qua trạng thái đó, và nó phải được hiểu.
Bằng không thì bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng
chấp nhận bản thân mình.
Bất kì khi nào có đứa trẻ, nhất định có xung đột
nào đó giữa đứa trẻ và bố mẹ, đặc biệt giữa con và mẹ
lúc ban đầu, và thế rồi về sau với bố. Điều đó là tự
nhiên - bởi vì người mẹ có cách thức riêng của mình, ý tưởng riêng của mình, triết lí riêng của mình về
cuộc sống phải được sống thế nào. Và đứa trẻ gần như
hoang dã; nó chẳng biết về xã hội, về văn hoá, về tôn
giáo. Nó tới trực tiếp từ Thượng đế; nó hoang dã như
Thượng đế. Nó chẳng có gì ngoài tự do, cho nên nhất
định có xung đột nào đó. Và đứa trẻ phải được khai
tâm vào bức tường của xã hội. Nó không thể bị bỏ đấy
một mình - điều đó nữa cũng đúng. Cho nên xung đột
là tự nhiên. Nếu người mẹ rất tốt thì đứa trẻ lâm vào
khó khăn, nỗi khổ và lo âu rất lớn. Lo âu là ở chỗ đứa
trẻ yêu tự do của nó và nó biết, một cách bản năng,
rằng tự do là tốt. Tự do là giá trị bản chất. Không có
nhu cầu chứng minh rằng tự do là tốt - tự do là tốt rồi,
tự nó là tốt hiển nhiên. Mọi người được sinh ra với
ham muốn đó. Đó là lí do tại sao ở phương Đông
chúng ta gọi mục đích tối thượng là ‘tự do toàn bộ',
moksha: nơi ham muốn cố hữu được hoàn toàn đáp
ứng và người ta không bị giới hạn về bất kì loại nào.
Người ta tuyệt đối tự do, tự do vô điều kiện.
Mọi đứa trẻ được sinh ra với ham muốn cố hữu là
được tự do, và bây giờ ở mọi nơi đều có tù túng.
Người mẹ nói, "Không làm cái này, không làm cái
kia, ngồi đây, không đi ra kia." Và đứa trẻ cảm thấy bị
lôi kéo, xô đẩy từ mọi nơi. Bây giờ, nếu người mẹ mà
xấu, thì không có mấy khó khăn; đứa trẻ có thể nghĩ
rằng người mẹ là xấu và sâu trong lòng nó có thể bắt
đầu ghét mẹ. Đơn giản, đó là chuyện số học - mẹ đang
phá huỷ tự do của nó và nó ghét mẹ. Có thể, bởi các lí
do chính trị, nó không thể bày tỏ được điều đó, cho
nên nó trở thành nhà ngoại giao. Nó biết rằng mẹ là
người đàn bà tồi tệ nhất trên thế giới, nhưng nó cứ
dẻo môi tán đồng.
Nhưng nếu người mẹ mà tốt thế thì vấn đề nảy
sinh. Thế thì đứa trẻ lúng túng để hình dung ra điều
đó; người mẹ là tốt... và tự do là tốt: "Bây giờ, nếu mẹ
là tốt thế thì mình phải sai, và tự do của mình phải sai.
Nếu mình là tốt và tự do của mình là tốt, thế thì mẹ
phải sai." Bây giờ, nghĩ rằng người mẹ sai là không
thể được - bởi vì bà ấy thực sự tốt, và bà ấy cứ chăm
sóc, yêu thương, và làm cả nghìn lẻ một điều cho đứa
trẻ. Người mẹ thực sự tốt, đứa trẻ biết rằng mẹ là tốt.
Cho nên chỉ có một khả năng để quyết định, và đó là:
"Mình phải sai. Mẹ là tốt, mình phải sai."
Một khi đứa trẻ bắt đầu nghĩ, "Mình phải sai," thì
nó bắt đầu bác bỏ bản thân mình. Tôi thường chẳng
bao giờ bắt gặp một người chấp nhận bản thân mình
một cách toàn bộ. Và nếu bạn không chấp nhận bản
thân mình một cách toàn bộ thì bạn sẽ không bao giờ
trưởng thành - bởi vì trưởng thành là từ chấp nhận.
Nếu bạn cứ bác bỏ bản thân mình, bạn đang tạo ra
chia chẻ. Bạn sẽ bị tinh thần phân liệt. Phần mà bạn
bác bỏ sẽ treo quanh cổ bạn như gánh nặng lớn, nỗi
buồn lớn, nỗi lo âu lớn, sự căng thẳng. Bạn không thể
ném nó đi được, bởi vì nó là một phần của bạn; nó
không thể bị phân chia. Nhiều nhất bạn có thể ném nó
vào trong vô thức. Bạn có thể trở nên không nhận biết
về nó, bạn có thể quên mất nó, bạn có thể tin rằng nó
không có đó. Đó là cách vô thức được tạo ra.
Vô thức không phải là thứ tự nhiên. Vô thức là bộ
phận của bản thể bạn mà bạn đã bác bỏ, và bạn thậm
chí còn không muốn xoá nó đi, bạn không muốn
đương đầu với nó, bạn không muốn thấy rằng nó tồn
tại chút nào. Nó có đó; sâu bên dưới trong bản thể bạn
nó cứ thao túng bạn. Và nó sẽ lấy nhiều kiểu báo thù, bởi vì nó cũng cần diễn đạt. Bây giờ đây là toàn thể
khổ của con người. Người mẹ 'tốt' có thể tạo ra ý
tưởng về đứa con 'xấu'. Bản thân đứa trẻ bắt đầu tự
bác bỏ mình. Đây là phân chia, chia chẻ trong cá tính.
Đứa trẻ đang trở nên bị loạn thần kinh.
Bởi vì cảm thấy tốt với bản thân mình nên là điều
tự nhiên và dễ dàng. Đó là điều những người thuyết
giảng tôn giáo của bạn cứ làm mãi, điều các tu sĩ của
bạn cứ làm mãi: đi tới đền thờ, đi tới đền chùa, đi tới
nhà thờ, và họ có đó - đùng đùng, kết án, sẵn sàng
ném bạn vào địa ngục, sẵn sàng thưởng cho bạn cõi
trời nếu bạn nghe họ, nếu bạn theo họ. Tất nhiên bạn
không thể tuân theo được bởi vì đòi hỏi của họ là
không thể được, và đòi hỏi của họ là không thể được
bởi vì họ không chỉ cho bạn cách thức là tốt. Họ đơn
giản nói. "Hãy tốt."
Cách thức để là tốt chẳng liên quan gì tới việc là
tốt cả. Cách thức để là tốt có liên quan tới việc định
tâm, với nhận biết. Là tốt chẳng có liên quan gì tới
tính cách của bạn cả. Người thực sự tốt không có tính
cách nào cả; người đó là phi tính cách. Và khi tôi nói
'phi tính cách', tôi ngụ ý người đó không có áo giáp,
không đeo giáp trụ quanh mình. Người đó không
phòng thủ quanh mình, người đó đơn giản cởi mở.
Người đó phi tính cách như đoá hoa. Người đó không
tốt không xấu. Người đó đơn giản có đó - tỉnh táo, ý
thức, đáp ứng. Nếu cái gì đó xảy ra người đó sẽ đáp
ứng, nhưng người đó sẽ đáp ứng trực tiếp, người đó sẽ
đáp ứng từ cái ở đây. Người đó sẽ đáp ứng từ cái bây
giờ, người đó sẽ không đáp ứng từ quá khứ. 'Tính
cách' nghĩa là: bạn cứ mang ra những thứ mà bạn đã
học trong quá khứ của mình. 'Tính cách' nghĩa là:
lương tâm đã được thuyết giảng cho bạn và áp đặt lên
bạn. Lương tâm là nhà tù cho tâm thức.
Phật đã đem cuộc cách mạng vào thế giới tôn
giáo, cuộc cách mạng lớn nhất đã từng có. Cuộc cách
mạng là thế này: rằng ông ấy nhấn mạnh vào tâm thức
và không vào lương tâm. Ông ấy nhấn mạnh vào nhận
biết chứ không vào tính cách. Tất nhiên, tính cách tới
một cách tự động, nhưng nó tới như cái bóng. Bạn
không mang nó; nó không phải là gánh nặng. Bạn đã
bao giờ quan sát chưa? - cái bóng của bạn cứ đi theo
bạn, và bạn không bị nặng gánh, và bạn không cần
chăm sóc tới nó. Bạn không cần nghĩ tới nó. Thậm chí
bạn quên hoàn toàn thì nó vẫn sẽ có đấy. Bạn không
thể làm mất nó.
Phật nói: Tính cách là thực chỉ khi bạn không thể
đánh mất được nó. Nếu bạn sợ rằng bạn có thể đánh
mất nó, thế thì nó là lương tâm và không phải là tâm
thức.
Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu trước khi
chúng ta đi vào những lời kinh này là ở chỗ con người
trở nên mù quáng bởi đam mê, bởi ham muốn. Và tại
sao con người trở nên mù quáng bởi đam mê và ham
muốn? Bởi vì ham muốn và đam mê đem tới hai thứ:
thứ nhất, không bằng lòng với hiện tại. Đó là chính
gốc rễ của ham muốn. Nếu bạn hài lòng với hiện tại,
ham muốn không thể tồn tại được. Ham muốn có thể
tới trong sự tồn tại chỉ với không bằng lòng.
Nhìn xem... Nếu bạn đang ngồi dưới gốc cây và
nếu bạn hài lòng trong khoảnh khắc này - và tôi
không thấy tại sao bạn lại phải không hài lòng trong
khoảnh khắc này - thế thì không có ham muốn. Và khi không có ham muốn, thì có bình thản thế, im lặng thế.
Im lặng trở thành vững chắc tới mức bạn gần như có
thể chạm vào nó, bạn có thể nếm trải nó, bạn có thể
cầm nó trong tay mình.
Bất kì khi nào có mãn nguyện, đều không có ham
muốn. Khi không có ham muốn, bạn ở nhà, thảnh
thơi. Trong trạng thái thảnh thơi đó, không có tâm trí.
Tâm trí là căng thẳng được tích luỹ lại. Tâm trí không
phải là khả năng, tâm trí chỉ là một bó các ham muốn
của bạn, mọi con sóng mà bạn cứ tạo ra. Đam mê này
mất đi; trước khi nó bị mất đi bạn đã dính líu vào đam
mê khác rồi. Ham muốn này được kết thúc, và thậm
chí trước khi nó được kết thúc bạn bắt đầu lập kế
hoạch cho chuyến đi khác vào tương lai.
Cho nên bạn cứ chạy xô tới tương lai và bạn cứ
bỏ lỡ hiện diện. Và hiện diện là có thể chỉ trong hiện
tại. Và khi bạn đang ở hiện tại thì không có tâm trí.
Và trạng thái này của vô trí là mục đích, mục đích của
phật giáo.
Khi không có căng thẳng, không suy nghĩ, không
ham muốn, không đam mê, thì phấn chấn lớn lao nảy
sinh trong linh hồn bạn; nó trào lên. Đó chính là phúc
lành đấy. Bạn cảm thấy cực kì hạnh phúc, và bạn cảm
thấy sung sướng chẳng bởi lí do nào. Bạn cảm thấy
cực kì phấn chấn - nhưng phấn chấn này không có
nguyên nhân cho nó. Không phải là bạn đã uống
thuốc nào đó, hay rượu cồn; không phải là bạn đã
tụng mật chú - bởi vì mật chú cũng làm thay đổi hoá
chất của bạn. Lặp lại thường xuyên âm thanh nào đó
đem lại thay đổi trong hoá chất thân thể bạn. Nó là
thuốc. Câu mật chú là thuốc, thuốc rất tinh tế: nó tạo
ra sóng trong bản thể bạn. Và nếu bạn cứ tụng mật
chú nào đó - Aum...Aum...Aum - dần dần, âm 'Aum'
làm thay đổi toàn thể hoá chất thân thể bạn.
Hay bạn có thể nhịn ăn. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn
này: những người thuyết giảng nhịn ăn đều chống lại
thuốc, nhưng nhịn ăn là việc thay đổi hoá chất. Nó là
thuốc cũng như bất kì thuốc nào khác. Khi bạn nhịn
ăn bạn làm gì? - bạn không cung cấp những những
hoá chất nào đó cho thân thể mình - những hoá chất
mà, nếu không được cung cấp, cân bằng của các hoá
chất bên trong sẽ bị thay đổi. Nó cũng là một cả thôi.
Hoặc là bạn uống thuốc nào đó - cái làm thay đổi tỉ lệ
hoá chất bên trong của bạn; hoặc bạn dừng ăn thức ăn
- điều đó làm thay đổi cân bằng hoá chất bên trong
của bạn. Khi mọi người cảm thấy phấn chấn, khi
Mahatma Gandhi nói rằng ông ấy cảm thấy rất phấn
chấn lúc ông ấy nhịn ăn, ông ấy không nói gì khác với
điều Timothy Leary nói. Cả hai đều nói cùng một
điều: cả hai đều nói về hoá chất. Mặc dầu thông
thường chúng ta không coi nhịn ăn như thuốc, nó vẫn
là thuốc - nó có thể làm cho bạn phấn chấn, nó có thể
làm cho bạn thành vô trọng lượng.
Hoặc bạn có thể cứ tụng niệm. Tụng niệm tạo ra
thay đổi trong hoá chất thân thể vật lí. Đó là lí do tại
sao vài âm thanh lại đã trở nên rất quan trọng. Trong
suốt nhiều thế kỉ nhiều người đã thử nhiều mật chú.
Thế rồi vài mật chú đã thành công và vài mật chú thì
thất bại. Những mật chú đã thành công là những mật
chú đem lại ngay thay đổi cho hoá chất của bạn. Bạn
có thể gọi nó là Thiền Siêu việt: nó lại là thuốc thôi.
Bây giờ, Maharishi Mahesh Yogi rất chống lại thuốc,
và bản thân thiền siêu việt TM lại là thuốc tinh vi. 

Hay, bạn có thể thay đổi hoá chất thân thể mình
qua các tư thế, yoga; bạn có thể thay đổi hoá chất thân
thể mình qua những kiểu thở nào đó - nhưng tất cả
những thay đổi đổi đó về căn bản vẫn là hoá học. Khi
bạn thở sâu bạn đem nhiều ô xi tới cho thân thể, và
nhiều ô xi trong thân thể bắt đầu làm thay đổi hoá
chất của bạn - bạn bắt đầu cảm thấy phấn chấn. Khi
bạn không thở sâu nhiều các bô nic tụ tập lại trong
phổi. Tỉ lệ thay đổi; bạn cảm thấy đờ đẫn, bạn cảm
thấy ỉu xìu, bạn cảm thấy trì trệ. Vâng, từ đó là đúng
đấy: bạn cảm thấy rất 'bị ép' bởi cái gì đó. Chính các
bô nic đem tới trì trệ; bạn ở dưới tảng đá.
Nhưng đây tất cả đều là những thay đổi - vật lí,
hoá học. Chúng không đi sâu hơn thế. Phật nói: nhận
biết, nhận biết và mãn nguyện... Ông ấy thậm chí
không thuyết giảng hình mẫu nào đó, nhịp điệu thở
nào đó. Ông ấy nói: Để thở như tự nhiên. Ông ấy
không thuyết giảng nhịn ăn; ông ấy thuyết giảng ăn
đúng, đúng lượng thức ăn. Ông ấy không thuyết giảng
thức trong đêm. Có nhiều giáo phái, đặc biệt là Mô ha
mét giáo, những người vẫn duy trì thức cả đêm. Điều
đó nữa cũng làm thay đổi hoá chất thân thể.
Phật đơn giản nói: Một điều được cần tới, và đó là
ông không nên đi vào tương lai, ông nên vẫn còn
trong hiện tại ở đây bây giờ. Bạn nên vẫn còn hài lòng
với khoảnh khắc này. Đi cùng khoảnh khắc này, đừng
đi lên trước, đừng nhảy lên trước. Cứ để không có
đam mê. 'Đam mê' nghĩa là: nhảy lên trước bản thân
mình. Thế thì bạn tạo ra lo âu, thế thì bạn tạo ra thất
vọng, thế thì bạn tạo ra lo nghĩ, và thế thì cả nghìn lẻ
một con sóng nảy sinh trên bề mặt tâm thức của bạn.
Bạn trở thành tâm trí. Khi những con sóng này biến
mất, bạn lại là tâm tâm thức. Thỉnh thoảng thử điều
đó đi.
Gurdjieff hay cho các đệ tử của ông ấy một
phương pháp. Ông ấy thường gọi nó là 'dừng việc
tập'. Ông ấy dạy các đệ tử là đôi khi, đột nhiên, dừng
toàn thế giới lại. Bằng việc dừng bản thân mình lại,
bạn có thể dừng cả thế giới lại. Bạn đang bước đi trên
đường; bỗng nhiên, với cú giật lại, bạn dừng lại.
Trong nửa giây bạn đơn giản bất động. Việc bất động
bất thần đó cũng sẽ giúp ích cho tâm trí dừng lại - bởi
vì tâm trí cần thời gian. Nếu bạn dừng dần dần, chầm
chậm, thế thì tâm trí sẽ không dừng đâu; nó sẽ được
điều chỉnh. Nếu bạn đột nhiên dừng lại thế thì có cú
sốc; tâm trí dừng lại. Trong khoảnh khắc của việc
dừng lại bất thần đó bạn sẽ có khả năng thấy rằng
toàn thế giới đã dừng lại, bởi vì tất cả mọi con sóng
đều đã biến mất.
Thử nó đi. Đang nhảy múa, đột nhiên dừng lại!
Đang chạy, đột nhiên dừng lại. Đang bơi, đột nhiên
dừng lại. Đang nói, đột nhiên dừng lại - và trong một
khoảnh khắc tuyệt đối bất động, cứ dường như bạn đã
trở thành bức tượng - và bạn sẽ thấy rằng tâm trí mình
đã dừng lại, trong một phần giây, tất nhiên. Rồi nó lại
chiếm quyền sở hữu bạn, nhưng trong khoảnh khắc đó
bạn sẽ thấy rằng nó im lặng đến mức nó sẽ trở thành
thoáng nhìn, nó sẽ trở thành sự hỗ trợ lớn lao. Và bạn
sẽ biết rằng đây là cách thực tế đang hiện hữu. Trong
một khoảnh khắc đó, cái đang đó sẽ hiển lộ bản thân
nó cho bạn. Đó chính là Thượng đế là gì đấy, hay
chân lí, hay niết bàn. 

Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã
được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt
diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo,
làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những
đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không
thể nghi ngờ được.
Lau sạch trái tim bạn khỏi cặn bã của đam mê. Và
thực tế, để làm điều đó, chẳng cần gì nhiều. Không
hẳn là trường hợp bạn bị trở nên không thuần khiết
đâu. Bạn đơn giản bị quấy rối, có vậy thôi; đó là điều
không thuần khiết nghĩa là gì. Bất kì khi nào bạn
không bị quấy rối, thì không thuần khiết đều biến mất.
Không thuần khiết không phải là cái gì đó đã đi vào
trong bản thể bạn. Nó chỉ ở trên bề mặt thôi, tựa như
sóng. Cho nên nếu bạn muốn nó xảy ra, nó có thể xảy
ra ngay bây giờ. Và đừng chơi đùa với những lời giải
thích. Đừng nói, "Làm sao nó có thể xảy ra ngay bây
giờ được? Mình có nhiều nghiệp phải thanh toán
trước hết." Tất cả đều vô nghĩa! thủ đoạn của tâm trí
để trì hoãn. Tâm trí nói, "Làm sao mình có thể làm
điều đó ngay bây giờ được? Trước hết mình phải
thanh toán nghiệp của nhiều, nhiều kiếp." Nhưng bạn
có biết bạn đã ở đây bao nhiêu kiếp rồi không? Hàng
triệu kiếp rồi! Nếu bạn thực sự phải thanh toán các
nghiệp đó, bạn sẽ lại cần hàng triệu kiếp để thanh toán
chúng. Và sau khi bạn đã thanh toán chúng thì hàng
triệu kiếp sẽ lại trôi qua - và trong những kiếp này bạn
lại sẽ làm thêm nhiều nghiệp. Không có cách nào để
tránh được điều đó. Nếu bạn sống động bạn sẽ làm
điều gì đó này khác. Bạn sẽ ăn cái gì đó, nghiệp được
tạo ra. Bạn sẽ thở, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ bước đi,
nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ ngủ, nghiệp được tạo ra.
Bất kì hành động nào cũng đều là nghiệp. Cho nên
đây là cái vòng luẩn quẩn. Trong hàng triệu kiếp bạn
đã tồn tại; bây giờ thanh toán những nghiệp đó, lại sẽ
cần tới hàng triệu kiếp. Và cho dù sau đó, không cái
gì sẽ được thanh toán nữa - bởi vì trong hàng triệu
kiếp sống bạn sẽ lại tạo ra nghiệp. Thế thì bạn không
thể thoát ra khỏi điều này, ra khỏi cái đống lộn xộn
này. Thế thì không có lối ra.
Phật nói: Bao giờ cũng có lối ra. Vấn đề không
phải là thanh toán nghiệp quá khứ, vấn đề đơn giản là
thanh toán trạng thái hiện tại của tâm trí, có vậy thôi.
Đó chỉ là ở đây bây giờ. Nếu bạn hiểu, việc thanh
toán có thể xảy ra. Bạn chưa bao giờ làm cái gì cả;
bạn đơn giản đang mơ đấy thôi. Hành động hay tác
nhân, người làm và việc làm - tất cả đều là mơ.
Phật nói: cốt lõi bên trong nhất của ông đơn giản
là trống rỗng. Nó chưa bao giờ làm điều gì. Nó không
thể làm được. Nó là nhân chứng, bởi chính bản chất
của nó.
Quan sát nó đi. Tìm ra liệu điều ông ấy nói là
đúng hay không. Thử điều đó trong cuộc sống của
bạn. Bạn đã là đứa trẻ, bây giờ bạn không còn là đứa
trẻ nữa; thế rồi bạn đã là thanh niên, bây giờ bạn
không còn trẻ nữa; bây giờ bạn đã trở nên già; thân
thể thời thơ ấu đã mất rồi, tâm trí thời thơ ấu đã biến
mất. Thế rồi bạn có một thân thể khác trong tuổi
thanh niên của mình - cái đó đã qua đi. Cường tráng,
sống động, tuổi thanh xuân, cái đẹp - mọi thứ đều đã biến mất. Bạn đã có một kiểu tâm trí khác - quá tham
vọng, quá ham muốn, quá bản ngã. Bây giờ tất cả
những cái đó đều là câu chuyện của quá khứ. Bây giờ
cái chết đang tới; bạn có thể nghe thấy âm thanh của
việc tới của nó mỗi ngày một gần hơn. Bạn có thể
cảm thấy rằng mọi ngày khoảng cách đang trở nên
nhỏ dần. Nhưng quan sát một điều: bạn vẫn còn như
cũ. Cốt lõi bên trong nhất của bạn đã không thay đổi
một chút nào, nó đã không thay đổi chút nào. Khi bạn
là đứa trẻ, nó vẫn là cùng tâm thức đó quan sát từ
đằng sau. Bạn là thanh niên; nó vẫn là cùng tâm thức
đó, quan sát. Thế rồi bạn trở nên già; nó vẫn là cùng
tâm thức đó.
Cứ dường như tâm thức là tấm gương. Đứa trẻ
đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu đứa trẻ;
thanh niên đứng trước tấm gương, tấm gương phản
chiếu thanh niên đó; ông già đứng trước tấm gương,
tấm gương phản chiếu ông già này - nhưng tấm gương
thì không là đứa trẻ, không là thanh niên, không là
ông già. Và khi tất cả đều đã qua đi đơn giản chỉ còn
tấm gương phản chiếu cái không, chỉ hiện hữu ở đó.
Tâm thức bạn là tấm gương.
Biểu dụ này về tấm gương là cực kì có ý nghĩa.
Nó sẽ rất có ích về Đạo nếu bạn có thể hiểu được nó.
Tâm thức đang đứng đằng sau, quan sát. Nó là nhân
chứng. Mọi sự tới rồi đi... cũng giống như bộ phim.
Bạn ngồi trong rạp chiếu phim; trên màn ảnh nhiều
điều tới rồi đi. Đôi khi bạn bị đồng nhất nữa. Đôi khi
bạn trở nên bị đồng nhất với diễn viên. Có thể anh ta
đẹp, mạnh mẽ, có duyên, duyên dáng của cá tính, gây
ấn tượng, có sức hấp dẫn nào đó: bạn bị đồng nhất,
bạn quên mất bản thân mình. Trong một khoảnh khắc
bạn bắt đầu nghĩ cứ dường như anh ta là bạn. Đôi khi
điều xảy ra là có một cảnh rất buồn, và bạn bắt đầu
khóc. Mắt bạn đẫm lệ... và chẳng có gì trên màn ảnh
cả - chỉ là ánh sáng và bóng tối trôi qua. Và bạn biết
điều đó chứ, nhưng bạn đã quên mất trong một
khoảnh khắc. Nếu bạn nhớ điều đó, bạn sẽ bắt đầu tự
cười mình: "Mình làm gì thế này? kêu à? khóc à?"
Nhưng điều đó xảy ra khi bạn đọc tiểu thuyết nữa. Ít
nhất có cái gì đó trên màn ảnh. Đọc tiểu thuyết thì
chẳng có gì cả - không màn ảnh, không diễn viên,
chẳng có gì. Chỉ trong tưởng tượng riêng của bạn mà
tiểu thuyết cứ diễn ra mãi. Và bỗng nhiên đôi khi bạn
cảm thấy rất hạnh phúc, và đôi khi bạn cảm thấy rất
buồn; bầu không khí của tiểu thuyết bắt đầu sở hữu
bạn.
Đây đích xác là điều đang xảy ra trong cuộc sống.
Cuộc sống là một sân khấu lớn, một vở kịch lớn. Và
nó rất phức tạp - bởi vì bạn là diễn viên, và bạn là đạo
diễn, và bạn là cuốn phim, và bạn là màn ảnh, và bạn
lá máy chiếu, và bạn là khán giả nữa. Bây giờ bạn là
tất cả các tầng: một phần đóng vai trò của diễn viên,
phần khác chỉ đạo, phần khác vận hành như màn ảnh,
phần khác có tác dụng như máy chiếu. Và đằng sau
tất cả những cái đó là thực tại của bạn - nhân chứng,
người đang quan sát.
Người quan sát này... Một khi bạn bắt đầu cảm
thấy sự tồn tại của nó, một khi bạn bắt đầu được lắng
đọng với nó, ngày một hoà điệu với nó, thế thì bạn sẽ
thấy điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói tâm thức là tấm
gương. Tấm gương không bao giờ bị ô uế, nó chỉ
dường như vậy thôi. Bạn có thể để cả đống phân trước tấm gương; tất nhiên, nó sẽ phản chiếu đống phân đó.
Nhưng dầu vậy tấm gương vẫn không bị ô uế, nó
không bị ô nhiễm. Nó không trở nên không thuần
khiết bởi vì đống phân được phản chiếu trong nó. Nó
vẫn còn thuần khiết. Bỏ phân đi và tấm gương có đó
trong mọi sự thuần khiết của nó. Ngay cả khi phân
được phản chiếu thì tấm gương cũng vẫn không bị ô
uế. Cho nên bất kì điều gì là không thuần khiết thì đều
thực sự là việc phản chiếu; nó được soi gương. Và
Phật nói: Nếu ông đánh sạch xỉ này, bụi của điều ác
và đam mê, hạnh kiểm của ông sẽ không thể nghi ngờ
được.
Cho nên nhấn mạnh không vào hạnh kiểm. Nhấn
mạnh là vào thuần khiết tựa tấm gương của tâm thức.
Phật nói:
Ngay cả nếu người ta thoát ra từ việc tạo tác ác,
vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm
người.
Đây là bẩy vận may hi hữu lớn lao. Phật nói về
chúng nhiều lần, theo nhiều cách. Chúng phải được
hiểu; chúng có tầm quan trọng lớn lao.
Thứ nhất: vận may hi hữu là được sinh ra làm
người. Tại sao? Tại sao lại không phải là vận may hi
hữu để được sinh ra như chó? hay như trâu? hay như
lừa? hay như cây? hay như đá? Tại sao ân huệ hi hữu
lại là được sinh ra làm người? - bởi vì ngoại trừ con
người, toàn thể tự nhiên đều đang ngủ say. Bạn cũng
không thức tỉnh. Để tôi nhắc lại: toàn thể tự nhiên
đang ngủ ngoại trừ con người, và con người cũng
không thức tỉnh, mà ở chính giữa.
Đôi khi điều xảy ra buổi sáng là bạn cứ lật mình
và trở mình trên giường. Bạn biết rằng bây giờ là lúc
dậy, mà dầu vậy vẫn còn giấc ngủ. Nó là trạng thái
lưng chừng. Bạn có thể nghe thấy người đưa sữa nói
với vợ mình, bạn có thể nghe thấy tiếng trẻ con léo
nhéo và chuẩn bị đi tới trường, bạn có thể nghe thấy
tiếng xe bus dừng bên ngoài nhà để đón lũ trẻ, và dầu
vậy việc mơ vẫn tiếp tục. Bạn vẫn cảm thấy buồn ngủ,
mắt vẫn nhắm. Thỉnh thoảng bạn trôi giạt vào giấc
ngủ, thỉnh thoảng bạn trôi giạt ra khỏi nó. Đây là
trạng thái của con người.
Và Phật nói: Đó là ân huệ hi hữu - bởi vì toàn thể
tự nhiên đang trong ngủ rất say, ngủ say tới mức thậm
chí không có mơ. Nó đang trong trạng thái sushupti.
Con người đã đi tới trạng thái thứ hai: trạng thái của
việc mơ. Ít nhất có mơ nào đó. Mơ nghĩa là bạn
không ngủ say thêm nữa. Bạn chắc chắn không thức
tỉnh, bởi vì khi bạn trở nên thức tỉnh thì bạn thành vị
phật. Bạn đang ở đâu đó lưng chừng giữa con vật và
vị phật. Bạn đang treo trong trình trạng lấp lửng.
Và Phật nói: Đó là một cơ hội lớn lao, một ân huệ
hi hữu - bởi vì nếu bạn nỗ lực thêm chút ít thì bạn có
thể trở nên thức tỉnh. Chó không thể trở nên thức tỉnh
được, dù nó nỗ lực đến đâu. Cây không thể trở nên
thức tỉnh được; dù nó cố gắng đến đâu, điều đó là
không thể được. Nếu cây cố gắng cần mẫn, nó sẽ trở
thành chó. Nếu chó cố gắng cần mẫn, chó có thể trở
thành người. Nhưng thức tỉnh chỉ xảy ra khi bạn là con người. Con đường đi tới Thượng đế chỉ đi từ con
người thôi. Và ở phương Đông chúng ta nghĩ - và ý
nghĩ này có nhiều tính hợp thức trong nó - rằng ngay
cả các devas, các thiên thần, các thần, cũng không
được ân huệ như con người đâu. Vì sao? Bởi vì con
người đứng ở ngã tư đường. Ngay cả các thần mà
muốn được giải thoát, họ sẽ phải được sinh ra như con
người.
Con vật đang ngủ say, con người ở ngay điểm
giữa đường, và các thần ở trong mơ của họ quá nhiều.
Thế giới các thần là thế giới mơ. Đó là lí do tại sao họ
có nhiều cảnh tượng hay thế: nó là thế giới mơ, tưởng
tượng. Họ sống trong tưởng tượng. Con người sống ở
ngay giữa đường, và có khả năng con người có thể đi
tới những trạng thái thức tỉnh hơn của hiện hữu. Con
người có thể trở thành sự thức tỉnh.
... vận may hi hữu của người ta là được sinh ra
làm người.
Cho nên đừng bỏ lỡ cơ hội lớn lao này. Chỉ sau
tranh đấu rất lớn lao bạn mới được sinh ra làm người.
Làm phí hoài nó quả là đơn giản lố bịch. Trong hàng
triệu kiếp bạn đã đi tới trạng thái này. Bởi vì bạn đã
tới, bạn có thể phá huỷ nó chỉ bằng việc ăn, uống và
vui vẻ. Bạn có thể đơn giản đánh mất toàn thể cơ hội
này. Có những người mà nếu bạn bảo họ cầu nguyện
hay thiền, họ sẽ nói, "Thời gian đâu? Chúng tôi không
có thời gian." Và thế rồi bạn có thể thấy họ chơi bài
trong câu lạc bộ, và bạn hỏi, "Anh đang làm gì vậy?"
Và họ nói, "Giết thời gian" - vẫn cùng những người
đó. Khi đó là vấn đề về việc thiền họ nói, "Nhưng
không có thời gian." Và khi đó là vấn đề uống rượu,
hay đánh bạc, hay đi xem phim, hay chỉ ngồi dính
chặt hàng giờ trước chiếc ti vi, họ lại có đủ thời gian.
Thế thì bạn hỏi họ; họ nói, "Chúng tôi đang giết thời
gian."
Bạn đang giết thời gian, hay thời gian đang giết
bạn? Ai đã từng có khả năng giết thời gian? Bằng
không, với bao nhiêu người đã từng giết thời gian như
vậy, thì đến lúc này, thời gian chắc phải chết rồi.
Chẳng ai đã từng có khả năng giết thời gian. Thời
gian giết mọi người. Từng khoảnh khắc - thời gian
đều đem tới cái chết. Ở Ấn Độ chúng ta có cùng một
từ cho cả hai: thời gian chúng ta gọi là kal; và với cái
chết chúng ta cũng có cùng cái tên, kal... bởi vì thời
gian đem tới cái chết.
Thời gian là cái chết. Từng khoảnh khắc, bạn
đang trượt vào trong cái chết. Từng khoảnh khắc, cái
chết đang tới ngày một gần hơn, gần hơn. Mọi đồng
hồ đều phục vụ cho cái chết. Toàn thể thời gian đều
phục vụ cho cái chết. Và làm người chính là một cơ
hội hi hữu, và rất dễ đánh mất nó. Phật nhắc nhở
chúng ta. Điều thứ hai ông ấy nói:
Nếu người ta sinh ra được làm người, vận may hi
hữu của người ta là có sáu giác quan hoàn chỉnh.
Có những người có thể được sinh ra là người,
nhưng lại mù, hay điếc, hay câm, hay đầu óc trì trệ.
Thế nữa cũng là điều không thể được - Chẳng ai đã
từng nghe nói về bất kì người đầu óc trì trệ nào lại trở
thành vị phật. Điều đó chưa bao giờ được biết tới,
điều đó là không thể có được. Cần có thông minh lớn lao. Rất khó trở nên nhận biết nếu giác quan của bạn
bị thiếu - bởi vì với nhận biết, nhạy cảm là điều phải
có. Người có mắt và người không có mắt ở hai trạng
thái khác nhau, trạng thái khác hẳn nhau. Người có
mắt nhạy cảm hơn, bởi vì mắt là phần nhạy cảm nhất
của thân thể. Tám mươi phần trăm nhạy cảm của bạn
thuộc vào mắt. Người mù chỉ có hai mươi phần trăm
nhạy cảm so với người có mắt. Người mù bị bao trong
bóng tối tinh tế, và không có cách nào để thoát ra khỏi
nó. Người đó sống bị bao quanh trong một nhà tù rất
tinh tế. Rất khó thoát ra khỏi nó.
Đôi mắt bên ngoài của bạn cho bạn thoáng nhìn
nào đó, tầm nhìn nào đó, và bạn có thể bắt đầu suy
nghĩ về con mắt bên trong nữa. Nhưng người không
có con mắt bên ngoài thì không thể quan niệm nổi về
con mắt thứ ba là gì. Người chưa bao giờ nhìn thấy
cái gì thì không thể có cái nhìn thấu suốt được. Nếu
cái ‘nhìn ra' bị thiếu, cái nhìn vào sẽ bị thiếu; chúng
tồn tại theo cặp. Đó là lí do tại sao khi bạn thấy người
mù, lòng từ bi lớn lao lại nảy sinh trong bạn. Chỉ quan
sát người mù người ta cảm thấy rất, rất từ bi. Tại sao?
Người này khuyết tật nhiều thế. Người này là con
người đấy, vậy mà tám mươi phần trăm kinh nghiệm
mầu sắc, ánh sáng, lại bị thiếu. Toàn thể cuộc sống
của người đó là vô mầu; người đó không biết mầu lục
là gì. Nghĩ về bản thân bạn mà xem: nếu bạn chưa bao
giờ biết tới hoa hồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy
cầu vồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời
mọc và mặt trời lặn, nếu bạn chưa bao giờ thấy khuôn
mặt người đàn bà hay đàn ông đẹp, nếu bạn chưa bao
giờ thấy cái đẹp, con mắt hồn nhiên của đứa trẻ, nếu
bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt, vẻ duyên dáng của
người đã đạt tới, bị bạn bị lỡ biết bao nhiêu.
Bạn sẽ giống như tảng đá, ít giống con người.
Phật không chống lại giác quan; câu này sẽ chứng
minh điều đó cho bạn. Phật nói: Cảm giác, và thèm
khát cảm giác là xấu, nhưng giác quan là tốt. Và mang
tính nhạy cảm là tuyệt đối cần thiết. Cho nên trở nên
nhạy cảm hơn đi.
Để tôi làm điều đó rõ ràng cho bạn. Nếu bạn dùng
mắt chỉ để đạt tới thèm khát và bạn cứ tìm kiếm thèm
khát, thế thì mắt bạn sẽ dần dần trở thành đờ đẫn. Con
mắt thèm khát bao giờ cũng đờ đẫn. Con mắt thèm
khát bao giờ cũng xấu. Nếu một người nhìn bạn với
con mắt thèm khát, bạn bỗng nhiên cảm thấy bị xúc
phạm - người đó đang xâm phạm. Mắt người đó giống
như con dao đâm vào tim. Người đó không phải là
người có văn hoá, người đó không lịch sự chút nào.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin đi vào một văn phòng; anh ta
phải đã tới bởi công việc nào đó. Tiếp viên là một
người đàn bà đẹp. Anh ta nhìn cô ấy với đôi mắt thèm
khát thế, và rồi anh ta hỏi, "Phòng tắm ở đâu?" Người
đàn bà nói, "Anh đi thẳng tới cuối hành lang. Anh sẽ
thấy một phòng có dấu hiệu 'Nam' - và đừng để dấu
hiệu đó ngăn cản anh. Cứ đi vào." 

Khi bạn nhìn người đàn bà với đôi mắt thèm khát
thì bạn không phải là quí ông lịch sự. Thực sự, bạn có
chút ít vô nhân. Khi đôi mắt nhạy cảm, không thèm
khát, chúng có chiều sâu. Khi mắt không nhạy cảm,
mà chỉ thèm mãnh liệt cảm giác, chúng nông cạn. Và
bạn sẽ thấy chúng đục ngầu: chúng sẽ không trong
suốt. Khi đôi mắt cực kì nhạy cảm, thế thì chúng có
chiều sâu, chiều sâu trong suốt. Bạn có thể nhìn vào
chúng và bạn có thể đạt tới chính trái tim của người
đó. Người đó trở thành sẵn có qua đôi mắt của mình,
và qua đôi mắt bạn có thể thấy mình đang gặp kiểu
người nào.
Mắt mang tính rất chỉ dẫn. Đó là lí do tại sao
những kẻ phạm tội không bao giờ nhìn thẳng vào mắt
bạn, họ sẽ tránh điều đó. Người phạm tội sẽ nhìn sang
bên cạnh, họ sẽ không nhìn thẳng - bởi vì họ không
hồn nhiên. Họ biết rằng mắt họ có thể tiết lộ, mắt họ
có thể nói điều gì đó mà họ không muốn nói. Nếu bạn
có thể quan sát mắt người, bạn có chính chiếc chìa
khoá vào cá tính người đó.
Và cùng điều đó cũng đúng cho các giác quan
khác. Nghĩ về người điếc, người không nghe được.
Wagner, người đã không nghe được, Ravi Shankar,
người đã không nghe được chim hót vào buổi sáng,
với họ chim cu cu không tồn tại, người đã không nghe
ai đó hát bài tình ca hay bài ca buồn, với người đó sáo
chỉ là thanh trúc hổng. Nghĩ xem người đó nghèo nàn
làm sao.
Phật nói: Ân huệ đầu tiên là ở chỗ ông được sinh
ra làm người, ân huệ thứ hai là ông được sinh ra với
sáu giác quan. Bây giờ dùng cơ hội này; trở nên ngày
một nhạy cảm hơn đi. Và làm sao bạn có thể trở nên
nhạy cảm hơn? Khi bạn không thèm khát, bạn trở nên
nhạy cảm hơn. Khi bạn thèm khát, tính nhạy cảm của
bạn bị mất; bạn trở thành nông cạn. Người không
thèm khát, dần dần, thu được nhiều năng lượng thế.
Nếu một người mà không có thèm khát, thì tất cả các
giác quan của người đó trở thành cửa sổ rõ ràng -
không khói, không rào chắn. Và bên trong và bên
ngoài gặp gỡ qua sự nhạy cảm đó.
Ngay cả khi người đó được hoàn chỉnh trong sáu
giác quan, vận may hi hữu của người đó là được
sinh ra vào thời của phật. Ngay cả nếu người đó
được sinh vào thời phật,
Và Phật nói: Ông có thể là con người, ông có thể
được sinh ra với tất cả các giác quan hoàn hảo, nhưng
nếu ông không được sinh ra trong thời của phật thì
ông sẽ bỏ lỡ sự tiếp xúc với cái không biết. Bạn có thể
thấy cây, bạn có thể thấy hoa, bạn có thể thấy sao,
nhưng những điều này không là gì nếu so với con
người của chứng ngộ - bởi vì ông ấy đại diện cho cái
không biết trong thế giới của cái biết. Ông ấy đem tia
sáng của Thượng đế vào bóng tối của trái đất. Ông ấy
là việc nở hoa thực của tâm thức.
"Điều đó là hi hữu," Phật nói, "được sinh ra vào
thời của phật." Thực tế, chính ân huệ lớn lao là được
cư ngụ cùng thời gian, cùng không gian, khi vị phật
cư ngụ - bởi vì cái gì đó của rung động sống của ông
ấy nhất định chạm tới bạn. Sự hiện diện của ông ấy
nhất định trở thành mưa rào phúc lành. Cho dù bạn
không bao giờ tới ông ấy, cho dù bạn chống lại ông ấy, cho dù ông ấy đi qua thị trấn của bạn và bạn
không có thời gian tới thăm ông ấy, cho dù thế thì
bình thản của ông ấy vẫn đem cái gì đó tới bạn, cái gì
đó không được yêu cầu. Ông ấy sẽ đạt tới cái không
được mời của bạn. Nghĩ xem: nếu Phật mà không
được sinh ra, thế giới này đã không như thế rồi. Và
người Ki tô giáo đã làm rất giỏi để bắt đầu lịch của họ
theo Christ. Điều đó là tốt - Christ tạo ra sự gián đoạn
vô cùng với quá khứ. Chỉ sự tồn tại của ông ấy thôi -
Christ là vị phật - sự tồn tại của ông ấy đã tạo ra một
lịch sử hoàn toàn khác. Điều tốt là người Ki tô giáo đã
ghi ngày tháng lịch sử của họ theo sau Christ và trước
Christ. Trước Christ nó chẳng là cái gì; tất cả đều bình
thường. Sau Christ một hiện tượng vô cùng đã bắt đầu
đi vào một độ cao khác.
Ở Ấn Độ chúng ta không thể làm được điều đó,
bởi vì chúng ta đã bắt gặp biết bao nhiêu chư phật.
Thật khó cho chúng ta để làm điều đó theo cách đó.
Bằng không thì đã có biết bao nhiêu là lịch, và điều
đó sẽ gây lẫn lộn. Nhưng bất kì khi nào vị phật tồn tại
nhân loại đều lấy một chỗ ngoặt, chỗ ngoặt đi lên. Bất
kì khi nào vị phật đi vào lịch sử, lịch sử không bao
giờ còn như cũ - toàn bộ viễn cảnh thay đổi. Và khi
phật đang trong hiện tại thì rất dễ cho bạn thiền, bởi vì
năng lượng của ông ấy đang chuyển động. Bạn có thể
đơn giản cưỡi lên con sóng của ông ấy. Khi bạn làm
việc thiền một mình và vị phật không hiện diện, bạn
đang tranh đấu đơn thương độc mã với những rào
chắn lớn thế; điều đó gần như không thể nào được,
không có thể được, tới mức bạn sẽ là kẻ chinh phục.
Có Phật điều đó gần giống thế này.
Ramakrishna thường nói, "Khi gió thổi theo đúng
hướng, bạn đơn giản để cho con thuyền của mình
trong dòng chảy và gió sẽ đem nó đi. Chỉ đợi cho
đúng hướng thôi; thế thì bạn không cần làm nỗ lực gì.
Bạn đơn giản ngồi trong thuyền, gió sẽ đem nó đi."
Khi Phật đang thổi và toàn thể sự tồn tại đang nổi
sóng, thế thì mọi thứ đang đi tới Thượng đế. Bạn có
thể đơn giản nắm tay, và bạn có thể cưỡi lên con sóng
này rất dễ dàng. Bạn có thể đơn giản để cho chiếc
thuyền của mình trong dòng chảy, và dòng chảy đang
đi đấy.
Do đó Phật là phải khi ông ấy nói: Được sinh ra
vào thời của phật là cơ hội hi hữu.
Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị phật,
vận may hi hữu của người đó là được gặp người
chứng ngộ.
Nhưng khó khăn có đó: bạn có thể được sinh ra
vào thời của Phật nhưng bạn có thể chẳng bao giờ gặp
ông ấy - bởi vì ngay chính ý tưởng rằng ai đó đã
chứng ngộ là ngược lại bản ngã của bạn. Bạn không
thể tin được rằng ai đó đã chứng ngộ còn bạn thì
không. Không thể nào có chuyện ai đó đã đi lên trước
bạn. Bạn không thể tin được điều đó bởi vì bản ngã
của mình, và bạn sẽ tìm cả nghìn lẻ một lí do để
không đi tới vị phật. Bạn sẽ tìm các lí lẽ rằng ông ấy
sai, rằng ông ấy mắc chứng hoang tưởng, rằng ông ấy
cứ nói đại, rằng ông ấy không thực là vị phật - "Bằng
chứng là gì?" Mọi người thường tới Phật và hỏi,
"Bằng chứng của ông là gì? Ai là nhân chứng cho
ông?" 

Bây giờ đây là những câu hỏi ngu xuẩn. Ai có thể
là nhân chứng đây? Phật tính xảy ra trong sự một
mình sâu sắc đến mức không ai có thể là nhân chứng
được. Nó không phải là hành động trong thế giới này,
nó là hành động bên ngoài thế giới. Ai có thể là nhân
chứng? Nó xảy ra trong tính một mình vô cùng. Nó
xảy ra ở cốt lõi bên trong nhất; không ai có thể thấy
được nó. Vị Phật phải tự công bố; không có cách
khác. Và ai sẽ xác nhận rằng ông ấy là vị phật? Mọi
người hay tới ông ấy và họ sẽ tìm cả nghìn lẻ một
cách để chứng minh rằng bất kì cái gì ông ấy nói đều
đã trùng hợp hay không trùng hợp với kinh sách cổ.
Nó chưa bao giờ trùng hợp cả; nó không thể thế được,
theo chính bản chất của mọi sự. Bởi vì bất kì khi nào
ai đó trở nên chứng ngộ, người đó đều đem một tầm
nhìn khác vào trong thế giới, điều chưa bao giờ tồn tại
trước đó.
Từng người chứng ngộ đều đem món quà mới cho
thế giới, điều chưa tồn tại trước đây. Cho nên nếu bạn
nhìn vào trong Veda bạn có thể không tìm thấy nó;
nếu bạn nhìn vào Upanishad bạn có thể không tìm
thấy điều Phật đang nói. Điều đó sẽ có vẻ như chút ít
nổi dậy, không chính thống. Người chứng ngộ mang
tính nổi dậy, là không chính thống, bởi vì chân lí
mang tính nổi dậy và chân lí là không chính thống.
Cho nên bất kì khi nào vị phật tới, mọi người bắt đầu
nhìn vào kinh sách cổ của họ để xem liệu có bằng
chứng không, và điều đó thì chẳng bao giờ xảy ra cả.
Khi Christ tới người Do Thái bắt đầu nhìn vào
kinh sách cổ của họ, và họ chẳng bao giờ trở nên
được thuyết phục rằng con người này là Chúa cứu thế
mà họ đã chờ đợi. Họ đã đóng đinh ông ấy. Tại sao? -
bởi vì họ không thể hình dung được điều đó.
Mọi người tin vào kinh sách. Kinh sách là thứ
chết, và kinh sách do bạn làm ra, do bạn thu thập lấy,
do bạn diễn giải. Không ai biết kinh sách thực sự ngụ
ý gì. Không ai có thể biết được - bởi vì lời có đó,
nhưng nội dung phải do bạn trao cho.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin tới bác sĩ và nói, "Tôi rất lo
nghĩ. Một tuần trước, tôi về nhà thấy vợ tôi đang
trong tay một người đàn ông khác, người này đã nói
với tôi trong lúc đi ra uống cà phê. Năm đêm sau, lại
đích xác điều đó xảy ra."
"Anh bạn quí ơi," bác sĩ nói, vậy anh cần gì bác
sĩ. Anh cần luật sư chứ."
"Không đâu," Mulla khăng khăng, "tôi cần bác sĩ
thực. Tôi muốn biết liệu tôi có uống quá nhiều cà phê
không."
Bây giờ điều đó là tuỳ... cách bạn nhận điều gì đó,
cách bạn diễn giải nó. Diễn giải nhất định tới từ tâm
trí bạn.
Nghe một giai thoại.
Đó là đêm trăng mật của họ, và cô dâu Do Thái đã
mặc bộ áo ngủ mỏng tang và bò vào giường, phát hiện
ra anh chồng theo nhà thờ Tân giáo đang sắp đi ngủ trên tràng kỉ. Lúc đó là tháng chay Lent, lúc mà người
Ki tô giáo dừng ít nhất một trong những việc hưởng
thú của họ.
"George ơi," cô ấy gọi, "anh không định làm tình
với em sao?"
"Anh không thể làm được, em yêu," anh ta đáp,
"bởi vì đó là Lent."
"Sao thế, điều đó khủng khiếp quá!" cô ấy kêu
lên, buột khóc. "Làm với ai? và bao lâu?"
Bạn hiểu không?
Bây giờ tâm trí đam mê, tâm trí thèm khát, có
cách diễn giải riêng của nó. Lời chẳng thành vấn đề gì
nhiều; bạn phóng chiếu ý tưởng của mình lên lời. Nếu
bạn đang tìm cái gì đó bạn sẽ có thể thấy nó. Nếu bạn
không tìm cái gì đó bạn có thể không thấy nó. Và
khuynh hướng tự nhiên của tâm trí con người là trước
hết phủ nhận rằng ai đó đã đạt tới. Điếu đó xúc phạm
tới bản ngã. Đó là lí do tại sao điều đó lại rất khó cho
bạn.
Nếu ai đó tới và nói rằng người khác, hàng xóm
của bạn, là kẻ giết người, bạn tin ngay lập tức. Bạn
chẳng bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Bạn nói,
"Tôi đã biết anh ta từ lâu rồi. Tôi bao giờ cũng nghĩ
rằng anh ta là thế." Nếu ai đó tới và nói, "Người kia là
kẻ cắp, vô đạo đức," thế này thế nọ, bạn chẳng bao
giờ bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Nếu mọi người
bận tâm về bằng chứng thì đã không có nhiều buôn
chuyện trong thế giới này. Ai bận tâm tới bằng
chứng? Khi ai đó bị kết án bạn lập tức tin ngay điều
đo bởi vì điều đó cho bạn cảm giác rằng bạn tốt hơn
người khác. Nhưng nếu ai đó tới và nói, "Một người
đã trở thành thiền nhân, thiền nhân vĩ đại," lập tức có
nghi ngờ. Bạn nghe điều đó nhưng bạn không muốn
nghe đâu. Bạn nói, "Điều đó không thể được. Tôi biết
người đó mà; anh ta là kẻ lừa dối. Làm sao anh ta có
thể thiền được? Tôi biết anh ta từ chính thời trẻ con;
chúng tôi đã là đồng sinh trong trường. Không, anh ta
không thể thế được. Bằng chứng là gì?" bạn hỏi. Bất
kì khi nào ai đó nói về ai đó khác là tốt, bạn đều đòi
hỏi bằng chứng bởi vì điều đó làm tổn thương bản ngã
bạn: "Thế là ai đó khác đã trở thành tốt trước mình
sao?"
Khi vị phật bước đi trên đất ông ấy công bố điều
không thể có được, điều mà chỉ hiếm khi mới xảy ra.
Ông ấy đang nói ông ấy đã trở thành vị phật, và tất
nhiên chỉ ông ấy mới có thể nói được điều đó. Không
có cách khác để chứng minh hay bác bỏ điều đó. Phát
biểu của ông ấy là không chứng minh được hay không
bác bỏ được - và bản ngã của bạn bị tổn thương.
Phật nói: Vận may hi hữu là được sinh ra vào thời
của phật, và thậm chí vận may hi hữu hơn là được gặp
người đã chứng ngộ - để đi tới, để cúi lạy. Bởi vì chỉ
nếu bạn cúi lạy, nếu bạn buông xuôi, thì bạn mới có
khả năng thấy được. Vấn đề không phải ở con mắt vật
lí. Nhiều người đã thấy Phật bước đi, đi từ thị trấn nọ
sang thị trấn kia, nhưng họ lại không phải là những
người đã thấy ông ấy. Chỉ vài cá nhân hi hữu trở
thành đệ tử của ông ấy mới thấy được. Bởi vì không
thể nào thấy được vị phật mà lại không trở thành đệ
tử. Nếu bạn đã thấy, thế thì bạn đã thấy; và thế thì bạn không thể lại như cũ được nữa. Thế thì toàn thể cuộc
sống của bạn bị đảo lộn. Thế thì bạn đang trong hỗn
độn, thế thì bạn được tái sinh. Thế thì sẽ có sụp đổ
hoàn toàn của quá khứ của bạn, có sinh thành mới, và
tất nhiên, tất cả mọi đau đớn bao giờ cũng có trong
sinh thành mới.
... Ngay cả nếu người đó có khả năng gặp người
chứng ngộ, vận may hi hữu của người đó là có
trái tim được thức tỉnh trong tin cậy.
Bạn có thể thấy, nhưng điều đó cũng không nhiều
nhặn mấy. Chừng nào tin cậy còn chưa nảy sinh trong
bạn...
... Trái tim được thức tỉnh trong tin cậy. Cố hiểu
từ 'tin cậy' này. Nó không ngụ ý đức tin. 'Đức tin'
nghĩa là giáo điều; 'đức tin' nghĩa là tin vào giáo điều.
Chẳng hạn, người Ki tô giáo tin vào Ba ngôi: Cha,
Con và Thánh Thần thiêng liêng. Đây là đức tin. Hay,
người Hindu tin vào ba khuôn mặt của Thượng đế; đó
là đức tin.
Khi bạn đương đầu với vị phật và bạn tin cậy vào
người này, thế thì đó là tin cậy. Tin cậy mang tính cá
nhân; đức tin mang tính lí thuyết, quan niệm. Tin cậy
giống như tình yêu - bạn rơi vào tin cậy cũng như bạn
rơi vào tình yêu. Nó không phải là đức tin. Không
phải là Phật đã thuyết phục bạn về cái gì đó. Không,
sự hiện hữu của ông ấy đã thuyết phục bạn về bản thể
riêng của ông ấy. Ông ấy đã thuyết phục bạn không
tin vào giáo điều, ông ấy đã thuyết phục bạn rằng cái
gì đó đã xảy ra ở đây trong con người này. Bạn đã trở
nên được thuyết phục về sự kiện rằng đây là một con
người đã được biến đổi, được siêu việt, người không
còn của thế giới này nữa. Đó là sự tin chắc, tin chắc
mang tính cá nhân. Nó không phải là lí lẽ, nó không
phải là thần học - nó là chuyện tình.
Khi mọi người tới tôi để được điểm đạo mang
tính chất sannyas, tôi ngay lập tức có thể phân biệt
liệu đó là tin cậy hay đức tin. Có hai kiểu người:
người này tới và nói, "Bất kì điều gì thầy nói cũng
đều thuyết phục tôi. Lí lẽ của thầy là siêu. Lập luận
của thầy hấp dẫn tôi." Bây giờ, người này đã tới tôi
như người tin. Người đó đã không thực sự tới. Một
ngày nào đó người đó có thể tìm thấy ai đó, người có
thể ‘hoá giải đức tin’ của anh ta với tôi - bởi vì có thể
có lí lẽ hay hơn. Bao giờ cũng có khả năng này, bởi vì
logic là con dao hai lưỡi; nó cắt theo cả hai cách.
Cùng lí lẽ đó có thể được dùng để phá huỷ sự thuyết
phục, cùng lí lẽ đó có thể được dùng để tạo ra nó.
Logic giống như kẻ mãi dâm, hay giống như luật sư.
Nó có thể đi cùng bất kì ai, với bất kì ai trả giá.
Chuyện xảy ra:
Trong giờ uống cà phê có cuộc thảo luận lớn. Một
triết gia một hôm nói trong giờ uống cà phê, "Nếu các
ông cho tôi hệ thống logic của Aristotle, tôi sẽ áp đặt
cho kẻ thù của mình một kết luận. Cứ cho tôi phép
tam đoạn luận và đó là mọi điều tôi yêu cầu."
Triết gia khác nói, "Nếu các ông cho tôi hệ thống
chất vấn của Socrates thì tôi sẽ dồn kẻ thù của mình
vào trong góc và đánh bại anh ta ngay lập tức. Đó là
mọi điều tôi yêu cầu." 

Mulla Nasruddin, sau khi nghe tất cả những điều
này nói, "Các anh trai, nếu các anh cho tôi chút ít tiền
mặt, tôi bao giờ cũng giành được quan điểm của mình
tôi bao giờ cũng kéo kẻ thù của mình vào một kết luận
bởi vì chút ít tiền mặt dễ hiểu cực kì hơn sự hiểu
biết."
Logic không phải rất căn bản; nó là hời hợt. Nếu
ai đó tới và anh ta nói rằng anh ta tin vào điều tôi nói,
thế thì đó không phải là tin cậy. Nhưng có vài người
hiếm hoi nói, "Chúng tôi không biết điều thầy đang
nói, chúng tôi thậm chí chẳng hiểu gì mấy. Chúng tôi
thích điều thầy nói, nhưng đó không phải là vấn đề.
Chúng tôi rơi vào tình yêu với thầy." Tin cậy đã nảy
sinh. Bây giờ, không ai có thể phá huỷ tin cậy này
được, bởi vì nó là phi logic.
Bạn không thể phá huỷ được tin cậy bởi vì nó
không dựa trên logic. Bất kì cái gì dựa trên logic cũng
đều có thể bị phá huỷ: nếu bạn có thể co kéo logic nó
sẽ sụp đổ. Nó có nguyên nhân; kéo nguyên nhân ra và
hậu quả sẽ biến mất. Nhưng tin cậy không có nguyên
nhân. Nó cũng giống như rơi vào tình yêu. Nếu bạn đi
tới Majnu và chứng minh cho anh ấy rằng Laila
không phải là người đàn bà đẹp nhất trên thế giới, và
về mặt logic bạn cứ chứng minh điều đó, anh ta sẽ
nói, "Đừng tự gây khó xử cho mình một cách không
cần thiết thế. Chẳng ai có thể chứng minh được điều
đó đâu."
Điều thực tế đã xảy ra là vua của thị trấn của
Majnu đã triệu anh ta tới. Nhà vua trở nên rất tốt với
anh ta. Majnu đã đi, kêu khóc và gào thét trên phố
trong đêm. Anh ta chỉ gọi, "Laila! Laila!" Và nhà vua
trở nên rất từ bi. Ông ta triệu anh ta tới và ông ta nói,
"Anh là kẻ ngốc. Ta đã thấy Laila của anh; cô ấy là
một cô gái bình thường. Thực tế, bởi vì anh kêu khóc
nhiều quá nên ta nghĩ cô ấy phải rất đẹp, cho nên đích
thân ta đã trở nên quan tâm. Nhưng khi ta thấy cô ấy
thì ta đơn giản cười to. Anh là thằng ngốc! Và ta có
nhiều từ bi với cái ngốc của anh. Anh là thanh niên
tốt; đừng làm phí hoài cuộc sống của mình."
Ông ta triệu tới mười hai người đàn bà trong hậu
cung của mình và ông ta nói, "Anh chọn lấy một
người bất kì." Họ đều đẹp nhất, quí giá nhất của
vương quốc. Majnu nhìn và anh ta nói, "Chẳng cái gì
sánh được với Laila." Và anh ta nói với nhà vua, "Tâu
bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn thấy Laila, bệ hạ sẽ
cần đôi mắt của thần. Mắt của Majnu sẽ được cần tới.
Không có cách nào để thấy Laila và cái đẹp của cô ấy
ngoại trừ qua con mắt của Majnu."
Đệ tử là một Majnu. Người đó là người điên;
người đó đã rơi vào tình yêu. Phật nói: Trái tim của
người đó được thức tỉnh trong tin cậy... Hiện diện của
Phật là hấp dẫn của ông ấy. Duyên dáng bao quanh
Phật đã làm xúc động trái tim người đó. Đó không
phải là logic của Phật, đó không phải là triết lí của
Phật. Cho dù Phật vẫn còn im lặng thì điều đó cũng
chẳng khác biệt gì nhiều; người đó sẽ bị thuyết phục
như nhau. Cho dù Phật có bắt đầu tự mâu thuẫn thì
điều đó cũng sẽ chẳng tạo ra khác biệt gì. Đó là lí do
tại sao bạn thấy rằng tôi cứ mâu thuẫn hoài. Những
người tới qua trí năng dần dần biến mất. Mâu thuẫn
giúp tôi vứt cỏ dại khỏi khu vườn của tôi. Những
người đã tới qua tình yêu thì không bận tâm. Họ nói, "Được đấy, thầy cứ tận hưởng việc tự mâu thuẫn đi,
nhưng chúng tôi yêu thầy. Thầy không thể lừa chúng
tôi được." Họ nói, "Thầy có thể cứ mâu thuẫn nhưng
thầy không thể buộc chúng tôi chạy xa khỏi thầy
được."
Những người tới qua đức tin, chẳng chóng thì
chầy, sẽ phải ra đi - bởi vì chân lí mang tính nghịch lí.
Chỉ lí thuyết mới không nghịch lí. Chân lí có tất cả
mọi mâu thuẫn của cuộc sống trong nó. Chân lí rất phi
logic, rất phi lí.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và thế rồi Phật nói: Nhưng điều này không phải
là kết thúc. Khi trái tim ông tràn đầy tình yêu, và tràn
đầy tin cậy và tin tưởng, đây không phải là kết thúc.
Đây mới chỉ là bắt đầu. Bây giờ ông phải giúp cho
thông minh của mình đi lên và chiếm quyền sở hữu
mình. Tin cậy là cánh cửa: bạn phải đi vào qua nó,
nhưng bạn không nên vẫn còn ở cửa. Bằng không,
bạn chẳng bao giờ đi vào trong lâu đài này. Chung
cuộc, ban phải đi tới kinh nghiệm riêng của mình. Tin
tưởng là tốt, tin cậy vào vị phật là tốt, có tin cậy là tốt,
nhưng điều đó không đủ - bởi vì tin cậy của bạn vào
Phật vẫn không phải là kinh nghiệm của bạn. Điều đã
xảy ra cho Phật phải xảy ra cho bạn nữa. Thế thì bước
thứ hai xảy ra: thông minh riêng của bạn nảy sinh.
Bây giờ nó không chỉ là tình yêu hướng tới Phật; bây
giờ bằng kinh nghiệm riêng của mình bạn đã trở thành
nhân chứng. Nó không phải là tin cậy vô căn cứ. Lúc
ban đầu tin cậy là vô căn cứ, nhưng đến cuối nó trở
thành tuyệt đối có căn cứ. Căn cứ này không do logic
cung cấp, căn cứ này được kinh nghiệm của bạn cung
cấp. Khi nó đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn,
bạn không nói, "Tôi tin cậy vào Phật." Bạn biết nó là
phải, nó là đúng.
Ai đó hỏi Shri Aurobindo, "Ông có tin vào
Thượng đế không?" và ông ấy nói, "Không." Người
này đâm ra phân vân. Anh ta đã tới từ Đức, anh ta là
giáo sư. Và anh ta đã tới chỉ để nghe con người vĩ đại
này. Anh ta đơn giản bị choáng rằng con người này
nói, "Không." Và anh ta đã trong việc tìm kiếm
Thượng đế. Anh ta nói, "Tôi có nghe đúng không,
thưa ngài? Ngài nói không?" Aurobindo lặp lại,
"Vâng," ông ấy nói, "tuyệt đối không - bởi vì không
có vấn đề về đức tin. Tôi biết Thượng đế hiện hữu.
Không có vấn đề về đức tin. Anh hỏi, ‘Ông có tin vào
Thượng đế không?' Tôi không tin, tôi biết."
Đức tin là việc thay thế nghèo nàn cho hiểu biết.
Cho nên Phật nói: Thứ nhất ông tin cậy. Tin cậy
đơn giản có nghĩa là ông đã tình cờ bắt gặp một người
ở xa ông, xa khỏi ông. Ông đã tình cờ bắt gặp một
người đã chỉ cho ông tương lai riêng của ông, định
mệnh của ông. Cứ dường như một hạt mầm đã thành
cây, và hạt mầm này đã trở nên nhận biết rằng cây là
có thể có. Và cây này nói, "Có thời tôi cũng là hạt
mầm hệt như bạn." Bây giờ tin cậy nảy sinh trong hạt
mầm này. Nếu người đó chưa bao giờ thấy cây này,
người đó sẽ chẳng bao giờ mơ về nó cả. Làm sao hạt
mầm có thể mơ về cây được? Người đó chưa bao giờ
thấy cái một. Đó là lí do tại sao được sinh vào thời của phật lại là phúc lành lớn lao - bởi vì có cây, và hạt
mầm của bạn có thể bắt đầu mơ. Khi động chạm đầu
tiên của cây đổ lên hạt mầm, người đó tin cậy. Tương
lai riêng của người đó bây giờ trở nên đầy các khả
năng. Nó sẽ không chỉ là việc lặp lại của quá khứ, nó
sẽ là cái gì đó mới. Người đó xúc động. Xúc động đó
là tin cậy. Người đó rùng mình tới tận gốc rễ. Bây
giờ, lần đầu tiên, người đó biết có nghĩa; bây giờ, lần
đầu tiên người đó biết có định mệnh. Cái gì đó đang
sắp xảy ra: "Mình không phải là ngẫu nhiên. Mình
đang mang thông điệp lớn lao. Nó phải được dịch ra,
nó phải được giải mã. Mình phải trở thành cây và nở
hoa, và lan toả hương thơm theo gió."
Nhìn thấy vị phật, bạn đã thấy phật tính riêng có
thể có của mình. Đó chính là tin cậy là gì... nhưng nó
vẫn chưa đủ. Thế rồi bạn phải làm việc cần mẫn để
làm cho nó thành sự thực. Hạt mầm phải rơi vào đất,
phải chết đi trong đất, được sinh ra như chồi. Và cả
nghìn lẻ một khó khăn phải vượt qua: gió có đó, sấm
chớp có đó, con vật có đó, và chồi mới lại rất mảnh
mai, rất yếu ớt - với tiềm năng vô hạn trở thành mạnh
mẽ, nhưng ngay bây giờ nó không mạnh. Nó sẽ cần sự
giúp đỡ của ai đó; nó sẽ cần người làm vườn. Đó là
nghĩa của thầy.
Khi bạn chọn thầy, bạn chọn người làm vườn. Và
bạn nói, "Xin bảo vệ tôi cho tới khi tôi đủ mạnh mẽ
để đi con đường riêng của mình." Nhưng tin cậy là
cánh cửa.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi
hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông
minh.
Và điều cuối cùng:
Ngay cả nếu người đó đánh thức trái tim thông
minh, vận may hi hữu của người đó là nhận ra
trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành đạt.
Toàn thể mục đích của kỉ luật là để đi tới một
điểm mà kỉ luật có thể bị vứt bỏ. Toàn thể mục đích
của thực hành tôn giáo, của sadhana, là để đi tới một
khoảnh khắc khi tất cả mọi sadhana có thể bị vứt bỏ
và bạn có thể đơn giản tự phát. Thế thì bạn đã nở hoa.
Chẳng hạn, nếu bạn phải liên tục thiền, và một
ngày nào đó bạn dừng việc thiền của mình và tâm trí
nhảy lùi lại, thế thì đây không phải là trạng thái lớn
lao gì. Một khoảnh khắc nên được ham muốn, được
khao khát, khi bạn thậm chí có thể vứt bỏ việc thiền
của mình. Nhưng chẳng cái gì khác cả; nó vẫn còn
như cũ. Dù bạn có công phu thiền hay không, bạn vẫn
còn mang tính thiền. Việc thiền phải trở thành phần
cốt lõi nhất của bạn, phần của bản thể bạn, không phải
là cái gì đó bị áp đặt từ bên ngoài. Không phải là bạn
phải ép buộc bản thân mình là tốt; không phải là bạn
phải kìm nén những cám dỗ xấu của mình, không.
Bây giờ không có cám dỗ, không có ép buộc. Người
ta đã siêu việt lên trên kỉ luật. Đây là điều Phật gọi là
‘Kỉ luật của Siêu việt'. Đây là vận may thứ bẩy, vận
may cuối cùng, điều tối thượng.
Được sinh ra làm người mới chỉ là cái bắt đầu, và
thế rồi bạn phải đi tới điểm mà tất cả mọi kỉ luật đều
có thể bị vứt bỏ. Thế thì bạn đã trở thành một Thượng đế, thế thì bạn đã trở thành tự phát như tự nhiên, thế
thì không có căng thẳng, thế thì bạn không có tính
cách nào, thế thì bạn hồn nhiên như đứa trẻ. Nhận biết
của bạn là hoàn hảo bây giờ, nhận biết của bạn là đủ
bây giờ. Không còn cần cái gì khác nữa.
Phật nói:
Hỡi các con của phật! Các ông xa ta dù nhiều
nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ về lời
giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu được
quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng cạnh ta,
luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông không gìn
giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không bao giờ
đạt tới chứng ngộ.
Và Phật nói: Đừng bao giờ dừng lại ở bất kì đâu
chừng nào ông còn chưa đạt tới trạng thái thứ bẩy -
trạng thái của không kỉ luật mà có kỉ luật, trạng thái
của vô nỗ lực, trạng thái của Đạo, pháp, trạng thái mà
Kabir gọi là sahaj, tự phát. Nhưng bạn phải làm việc
cần mẫn cho nó.
Cho nên Phật nói: Các ông có thể ở cùng ta, và
nếu các ông không theo điều ta đang nói, nếu các ông
không đem nó vào trái tim mình, vào trí thông minh
của mình, vào bản thể mình, thế thì các ông vẫn cứ ở
xa ta nghìn dặm. Nhưng các ông có thể ở xa ta nghìn
dặm... nếu các ông tuân theo điều ta đã nói, các ông
vẫn gần ta, và chứng ngộ của các ông là tuyệt đối
chắc chắn, được đảm bảo, được hứa hẹn.
Ở gần vị phật... chỉ có một cách đi theo dấu chân
của ông ấy. Ở gần vị phật nghĩa là: trở nên ngày một
nhận biết hơn, trở nên ngày một tỉnh táo hơn. Đem
chút ít phật tính tới cho bản thân bạn đi.
Mục đích là ở chỗ bạn cũng phải trở thành vị
phật. Chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu đích xác
điều là nghĩa và ý nghĩa và sự vĩ đại của việc là người
đã thức tỉnh.
Tâm thức này tồn tại bên trong bạn ngay bây giờ,
chính khoảnh khắc này. Bạn có thể không có khả
năng thấy được nó. Tôi có thể thấy được nó. Nó có đó
tựa tấm gương, và bạn bị đồng nhất với tất cả những
cái phản xạ trong tấm gương. Vứt bỏ đồng nhất của
bạn đi: bắt đầu thấy rằng bạn không là thân thể; bắt
đầu thấy rằng bạn không là tâm trí; bắt đầu thấy rằng
bạn không là xúc động, không là ý nghĩ; bắt đầu thấy
rằng bạn không là vui thích và đau đớn; bắt đầu thấy
không già không trẻ; bắt đầu thấy không thành công
không thất bại. Bao giờ cũng nhớ rằng bạn là nhân
chứng. Dần dần, phẩm chất tựa tấm gương này sẽ
bùng nổ trong bản thể bạn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng bạn là tấm gương, thì
bạn là tự do. Bạn là tự do. Đây chính là điều gọi là
moksha hay đây tất cả chính là niết bàn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến