9-5-2025 MẶT TRỜI TÂM THỨC: Ngay cả thần cũng không hát mọi lúc

Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

Ngay cả thần cũng không hát mọi lúc

Câu hỏi thứ nhất:
Chúng tôi đã học được từ thầy rằng tự do nằm ở
siêu việt lên trên tâm trí, và chính tri thức và hiểu biết
về tâm trí đem lại siêu việt lên trên nó. Phần lớn các
tôn giáo đều nhằm tới tâm trí, và tâm lí học cũng vậy.
Khi tâm lí học hiện đại đã khám phá thành công
và làm lộ ra cấu trúc và quá trình của tâm trí, thầy có
gọi nó là tôn giáo không? Hay một nhánh của tôn
giáo? Hay tôn giáo song song? Tâm lí học và tôn giáo
khác nhau thế nào? Xin thầy vui lòng chỉ ra liệu tâm
lí học và tôn giáo có thể có ích cho nhau không?

Tôn giáo hiểu tâm trí theo cách hoàn toàn khác
với tâm lí học. Cách tiếp cận của chúng khác nhau;
mục tiêu của chúng khác nhau; phương pháp luận của
chúng khác nhau.
Tâm lí học nghiên cứu tâm trí như một đối tượng,
từ bên ngoài. Tất nhiên, nó bỏ lỡ nhiều. Trong thực tế,
điều bản chất nhất bị bỏ lỡ. Chỉ cái ngoại vi mới có
thể được hiểu theo cách đó. Cái bên trong nhất không
phải là khách quan, cái bên trong nhất là chủ quan.
Bạn có thể nghiên cứu nó từ bên trong, không từ bên
ngoài.
Tâm lí học là giống như ai đó muốn nghiên cứu
tình yêu và quan sát hai người yêu nhau ôm nhau,
cầm tay nhau, ngồi với nhau, làm tình - cứ thu thập dữ
liệu về cách hai người yêu nhau cư xử. Điều này sẽ
không cho người đó bất kì ý tưởng nào về tình yêu là
gì, bởi vì tình yêu không phải là trên bề mặt. Bề mặt
có thể rất lừa dối, dáng vẻ có thể rất lừa dối. Tình yêu
là cái gì đó rất bên trong. Chỉ trong tình yêu bạn mới
biết nó - không có cách khác để biết nó.
Tâm lí học cố gắng hiểu tâm trí từ bên ngoài.
Chính cách tiếp cận đó làm cho tâm trí thành vật chất.
Chỉ vật chất mới có thể được hiểu từ bên ngoài, bởi vì
vật chất không có cái bên trong của nó. Tâm trí chỉ có
thể được hiểu từ bên trong, bởi vì tâm trí không có
bên ngoài của nó - điều thứ nhất.
Đó là lí do tại sao tâm lí học cứ ngày càng mang
tính hành vi hơn, ngày càng mang tính vật chất hơn,
ngày càng mang tính máy móc hơn - và ngày càng
hoài nghi hơn về linh hồn của con người. Linh hồn
hoàn toàn bị tâm lí học phủ nhận. Không phải là linh hồn không tồn tại, nhưng bởi vì chính cách tiếp cận
này cấm đoán điều đó, chính cách tiếp cận này trở
thành giới hạn. Kết luận phụ thuộc vào cách tiếp cận.
Nếu bạn bắt đầu sai, thì bạn kết thúc sai.
Điều thứ hai cần hiểu là ở chỗ tâm lí học cố gắng
hiểu tâm trí, không vượt ra ngoài nó - bởi vì tâm lí
học nghĩ không có việc vượt ra ngoài nó, nó là chỗ
cuối cùng. Tôn giáo cũng cố gắng hiểu tâm trí - không
hiểu bản thân tâm trí, mà đi vượt ra ngoài nó. Việc
hiểu là để được dùng như bàn đạp.
Cho nên tôn giáo không bận tâm về các chi tiết
của tâm trí. Hiểu biết bản chất vận hành của tâm trí sẽ
có tác dụng. Nếu bạn đi vào chi tiết thì không có chỗ
cuối cùng cho nó. Tôn giáo cũng nghiên cứu giấc mơ,
nhưng chỉ để làm bạn thức tỉnh, có thế thôi. Bản thân
giấc mơ không phải là mối quan tâm. Tôn giáo không
đi sâu vào trong cấu trúc của việc mơ, và nó không đi
vào phân tích vô hạn các giấc mơ. Nó chỉ cố gắng tìm
ra cấu trúc bản chất của giấc mơ để siêu việt lên trên
giấc mơ, để cho bạn có thể trở thành nhân chứng.
Điều đó hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, nếu tôi đưa cho bạn một hạt mầm của
một cây đẹp, và bạn trở nên quá bận tâm với hạt mầm
này, và bạn cố gắng hiểu nó, và bạn mổ xẻ nó ra, và
bạn cứ tiếp tục và cố gắng hiểu và mổ xẻ, và mổ xẻ
nữa - cấu trúc hoá học, cấu trúc vật lí, cấu trúc nguyên
tử, điện tử, nơ trôn - và bạn cứ tiếp diễn thế, thì bạn
quên hoàn toàn rằng hạt mầm được ngụ ý chỉ để trở
thành cây.
Và dù việc mổ xẻ của bạn có sâu sắc bao nhiêu,
bằng việc mổ xẻ hạt mầm bạn chẳng bao giờ đi tới
cây được. Bạn sẽ đi tới cấu trúc nguyên tử của hạt
mầm, bạn sẽ đi tới cấu trúc hoá học của hạt mầm; bạn
có thể đi tới cấu trúc điện của hạt mầm, nhưng điều
đó chẳng liên quan gì tới cây cả. Và bạn càng mổ xẻ
hạt mầm bạn càng đi xa hơn khỏi cây. Việc mổ xẻ của
bạn không đi tới việc nở hoa. Việc mổ xẻ của bạn
không đi tới sự lan toả hương thơm của cây. Và một
ngày nào đó, nếu bạn đã mổ xẻ nó quá nhiều, và thế
rồi bạn đặt nó vào trong đất, nó sẽ không mọc lên
nữa. Nó đã chết. Trong việc mổ xẻ bạn đã giết chết
nó, bạn đã sát hại nó.
Tâm lí học quan tâm tới tâm trí cũng giống như
bạn quá bị ám ảnh với hạt mầm. Tôn giáo cũng quan
tâm tới hạt mầm, nhưng không chỉ hạt mầm - nó quan
tâm tới hạt mầm bởi vì hạt mầm mang trong nó một
tiềm năng, một khả năng trở thành cái cây đẹp, khả
năng của nở hoa, khả năng của hương thơm, khả năng
của bài ca và điệu vũ, khả năng nhiều chim chóc có
thể tới làm tổ trên nó và nhiều lữ khách có thể nghỉ
dưới bóng nó. Nhưng mối quan tâm không phải là hạt
mầm - mối quan tâm là cây.
Tôi hi vọng bạn có thể thấy khác biệt này. Mối
quan tâm của tôn giáo về tâm trí chỉ như chiếc bàn
đạp. Tâm trí phải được hiểu bởi vì chúng ta bị vướng
trong nó. Chúng ta lấy một ví dụ khác.
Bạn bị tống vào trại giam, vào nhà tù. Người tôn
giáo cố gắng hiểu cấu trúc của trại giam chỉ để tìm ra
cách thoát khỏi nó. Có cống nào có thể được dùng để
trốn ra không? Có lính gác ngu ngốc nào có thể bị
đánh lừa không? Có cửa sổ nào có thể bị phá vỡ ra
không? Có bức tường nào có thể trèo qua được không? Có đúng khoảnh khắc đổi gác nào và có
khoảng chểnh mảng nào không? Có đúng khoảnh
khắc nào trong đêm mà lính gác ngủ không? Hay có
tù nhân nào khác cũng quan tâm tới việc thoát tù, để
cho bạn có thể cùng nhau và giúp lẫn nhau không? -
bởi vì việc một mình trèo tường có thể là khó. Một
nhóm có thể được tạo ra và nhóm này có thể trở thành
sức mạnh. Bạn cố gắng hiểu cấu trúc của trại giam chỉ
để thoát ra khỏi nó.
Nhưng nếu bạn quá quan tâm tới nó và bạn quên
mất hoàn toàn mục tiêu, và bạn cứ nghiên cứu trại
giam - các bức tường và người coi ngục và các tù
nhân và lính gác, và bạn cứ làm các bản đồ về cấu
trúc - thế thì điều đó là ngu xuẩn. Tâm lí học hiện đại
có chút ít ngu xuẩn.
Tại phương Đông chúng ta cũng đã phát triển một
tâm lí học cực kì có ý nghĩa. Tôi gọi nó là tâm lí học
của chư Phật. Nhưng toàn bộ mối quan tâm của họ là
ở cách thoát ra khỏi nhà tù của tâm trí, cách dùng cấu
trúc của nó để vượt ra ngoài nó. Tâm lí hiện đại hoàn
toàn bị ám ảnh với cấu trúc của tâm trí và đã quên
hoàn toàn mục đích.
Hai khác biệt này, chúng là rất cốt yếu. Tôn giáo
hiểu từ bên trong. Tất nhiên, thế thì nó là một điều
hoàn toàn khác. Khi bạn nghiên cứu tâm trí từ bên
ngoài, bạn nghiên cứu tâm trí của ai đó khác. Nó chưa
bao giờ là của bạn cả. Và nếu bạn đi tới phòng thí
nghiệm của nhà tâm lí học thì bạn sẽ ngạc nhiên: họ
cứ nghiên cứu về tâm trí của chuột để hiểu tâm trí
người. Điều đó thật đáng xấu hổ, điều đó là rất bất
kính. Hiểu biết dựa trên cơ sở tâm trí của chuột không
thể có ích gì nhiều.
Khi một thiền nhân quan sát tâm trí của riêng
mình, người đó quan sát tâm trí con người sống động,
rộn ràng, đang đập. Và người đó quan sát tâm trí của
riêng mình bởi vì đó là cái gần gũi nhất mà bạn có thể
đạt tới tâm trí. Từ bên ngoài bạn chẳng bao giờ có thể
đạt tới rất gần tâm trí; từ bên ngoài bạn có thể suy
diễn, nhưng điều đó sẽ vẫn còn là suy diễn. Nó không
bao giờ có thể trở thành tri thức được, bởi vì ngay cả
chuột cũng có thể lừa bạn, và người ta đã thấy chúng
lừa rồi. Ngay cả chuột cũng không chỉ trên bề mặt;
cốt lõi bên trong nhất của chúng vẫn còn không thâm
nhập vào được.
Tại sao các nhà tâm lí học lại cứ nghiên cứu
chuột? Sao không nghiên cứu trực tiếp con người đi?
Bởi vì con người dường như phức tạp thế. Họ nghiên
cứu các cấu trúc sơ cấp. Cứ dường như là bạn muốn
nghiên cứu Einstein và bạn tới trường tiểu học và bạn
nghiên cứu trẻ nhỏ; và từ hiểu biết đó bạn sẽ xây dựng
hiểu biết về Einstein. Điều đó đơn giản là ngớ ngẩn.
Điều đó không đúng chút nào, hướng này là sai. Mọi
đứa trẻ sẽ không trở thành một Einstein. Nếu mà các
nhà tâm lí học đúng, thế thì mọi đứa trẻ sẽ phát triển
thành một Einstein. Nhưng mọi đứa trẻ sẽ không trở
thành một Einstein. Chỉ một đứa trẻ chắc chắn đã nở
hoa thành Einstein. Nếu bạn muốn hiểu Einstein, cách
duy nhất là hiểu Einstein.
Nhưng làm sao mà hiểu Einstein được? Từ bên
ngoài ông ấy là người bình thường như bất kì người
nào khác. Khác biệt của ông ấy là ở bên trong, tính duy nhất của ông ấy là ở bên trong. Nếu bạn nghiên
cứu máu ông ấy, máu ông ấy cũng giống như máu của
bất kì ai khác. Nếu bạn nghiên cứu xương của ông ấy,
chúng cũng giống như xương của bất kì ai khác.
Trong thực tế, não của Einstein đã được nghiên cứu
sau cái chết của ông ấy - chẳng có gì đặc biệt cả. Đó
là điều gì đó cần được chú ý. Người ta đã không tìm
ra điều gì đặc biệt cả, nhưng chắc chắn ông ấy là một
con người duy nhất, bạn không thể phủ nhận điều đó.
Có thể chưa từng có một tâm trí tinh tế thế trên trái
đất trước đây. Chưa ai đã từng có thoáng nhìn như
ông ấy có, nhưng bộ não thì dường như bình thường
như não mọi người khác vậy.
Não không phải là tâm trí. Cũng dường như một
hôm nào đó tôi đã đi và bạn vào phòng tôi và bạn
nghiên cứu cái phòng; và bạn cố gắng tìm ra xem
người đã sống trong căn phòng này thuộc kiểu người
gì, loại người gì. Tâm trí là vị khách, bộ não là người
chủ. Khi tâm trí đã đi, bộ não bị bỏ lại. Bộ não chỉ là
căn phòng bạn vẫn sống trong đó. Nếu bạn nghiên
cứu từ bên ngoài, bạn có thể mổ xẻ, nhưng bạn sẽ chỉ
thấy bộ não, không thấy tâm trí. Và nghiên cứu bộ
não không phải là nghiên cứu tâm trí.
Tâm trí là khó nắm bắt, bạn không thể giữ nó
trong tay mình được. Bạn không thể buộc nó vào
trong ống nghiệm. Cách duy nhất để biết nó là biết nó
từ bên trong, từ quan sát cái ngã của bạn. Bạn càng
trở nên nhận biết, bạn càng có thể quan sát tâm trí
mình nhiều hơn - vận hành tinh tế của nó. Vận hành
này cực kì phức tạp và đẹp. Tâm trí là hiện tượng
phức tạp nhất trên trái đất, việc nở hoa tinh tế nhất
của tâm thức. Nếu bạn muốn thực sự hiểu tâm trí là
gì, bạn sẽ phải tách bản thân mình ra khỏi tâm trí, và
bạn sẽ phải học cách chỉ là nhân chứng. Đó là điều
thiền tất cả là gì.
Tâm lí học có thể trở nên có ích cho tôn giáo,
nhưng thế thì tâm lí học sẽ phải thay đổi cực kì nhiều.
Thay đổi triệt để sẽ là cần thiết. Và tâm lí học sẽ phải
trở nên ngày một mang tính thiền hơn, hướng nội hơn;
và tâm lí học sẽ phải lắng nghe nhiều về phương
Đông, lắng nghe những thiền nhân vĩ đại - Patanjali,
Phật, Mahavira. Nó sẽ phải lắng nghe hiểu biết của
họ.
Một điều nữa tôi muốn bạn lưu ý, nhớ đinh ninh
trong đầu: tâm lí học đã phát triển qua nghiên cứu tâm
trí bệnh hoạn. Điều đó nữa cũng là cái gì đó không thể
nào tin nổi, lố bịch. Tâm lí học đã phát triển qua việc
nghiên cứu về người loạn thần kinh, người bệnh tinh
thần, người tinh thần phân liệt - tâm trí ốm bệnh. Bởi
vì ai đến nhà phân tâm? Người lành mạnh chẳng bao
giờ tới nhà phân tâm cả. Nếu bạn mạnh khoẻ, tới nhà
phân tâm để làm gì? Bạn chỉ tới khi cái gì đó đi sai,
bạn chỉ tới khi bệnh tật nào đó choán lấy tâm trí bạn.
Khi bạn không bình thường, thế thì bạn tới nhà phân
tâm. Thế rồi ông ta nghiên cứu cái tâm trí bệnh hoạn
này. Bằng việc nghiên cứu tâm trí bệnh hoạn đó ông
ta đi tới những kết luận nào đó. Những kết luận này
chỉ áp dụng được cho tâm trí ốm yếu. Chúng không
áp dụng được cho tâm trí bình thường, và chắc chắn
không áp dụng cho tâm trí đã vượt ra ngoài tâm trí.
Họ không nói gì về vị phật cả. Họ không thể nói
được. Cả Freud, lẫn Jung, lẫn Adler đều chưa bao giờ
nghiên cứu về vị phật. Trong thực tế, lỗi là ở nhà phân
tâm, vì chư phật bao giờ cũng tồn tại. 

Khi Carl Gustav Jung tới phương Đông, đã có vị
phật sống - Raman Maharshi - nhưng ông ấy lại
không tới gặp ông này. Thậm chí người ta đã gợi ý
cho ông ấy, nhiều người bạn đã gợi ý cho ông ấy,
rằng ông ấy nên đi, nhưng ông ấy lại không đi. Có thể
một nỗi sợ hãi tinh vi rằng tri thức của ông ấy sẽ tỏ ra
vô tích sự ở đó, một bản ngã nào đó rằng ông ấy là
nhà phân tâm lớn - sao ông ấy phải đi tới người nào?
Nhưng chư phật chắc chắn không tới phòng thí
nghiệm của bạn, bạn sẽ phải tới họ. Bạn sẽ phải lại
gần họ một cách kính trọng để hiểu họ. Họ không
định tới nằm trên tràng kỉ nhà bạn. Bạn sẽ phải phát
triển những phương pháp khác, bạn sẽ phải phát triển
những cấu trúc khác, để hiểu họ. Và nếu bạn không
tới, họ cũng không lúng túng - tâm lí học chịu thiệt.
Tâm lí học vẫn còn ở mức bệnh hoạn. Nó thậm
chí chưa ở mức con người bình thường.
Chẳng hạn, nếu bạn hỏi nhà phân tâm, "Ông nói
gì về Mahavira - bởi vì ông ấy đã vứt quần áo đi và
trở thành trần trụi?" thì chắc chắn họ sẽ nói, "Ông ấy
là một kiểu bệnh tinh thần nào đó. Nhiều người điên
cũng chịu cùng chứng đó." Hay, "Ông ấy là kẻ thích
phô trương, ông ấy muốn trưng bầy thân thể trần
truồng của mình cho mọi người - một kẻ trái thói
dục."
Điều đó có đúng với Mahavira không? Và bất kì
điều gì họ nói, họ đều nói sau nghiên cứu lâu dài -
nhưng họ đã nghiên cứu người điên. Và họ đúng! Cái
sai tới chỉ bởi vì họ kéo căng hiểu biết của mình quá
xá. Mahavira hay dứt tóc, ông ấy sẽ không tới thợ cạo
- bởi vì ông ấy nói, "Thậm chí phụ thuộc vào thợ cạo
cũng là phụ thuộc." Cho nên khi tóc quá dài thì ông
ấy chỉ dứt chúng và vứt đi.
Bây giờ bạn đến hỏi nhà phân tâm xem ông ấy nói
gì. Ông ấy sẽ nói, "Đây là một loại điên khùng. Có
những người điên cứ dứt tóc mình ra." Bạn có thể
cũng đã quan sát rằng khi vợ bạn phát điên, cô ấy bắt
đầu dứt tóc - trở nên giận dữ và muốn bứt tóc mình ra.
Sự gàn dở nào đó - và họ cũng phải! Vậy mà lại
không phải. Hiểu biết của họ vẫn còn ở mức bệnh
hoạn.
Hỏi họ về Jesus xem. Nhiều sách đã được viết ra
về Jesus bởi vì Jesus dường như gần với họ hơn là
Mahavira. Họ đã quên lãng Mahavira rồi, và điều tốt
cho người Jaina là họ đã quên lãng Mahavira - bằng
không họ sẽ chứng minh một cách chắc chắn rằng ông
ấy bị bệnh thần kinh. Về Jesus họ đã viết nhiều sách -
rằng ông ấy điên, rằng ông ấy mắc chứng hoang
tưởng. Sao họ nói điều này? Bởi vì có những trường
hợp trong nhà thương điên - ai đó nói, "Ta là nhà tiên
tri duy nhất của Thượng đế."
Bạn đã nghe giai thoại nổi tiếng này chưa? Tại
Baghdad chuyện xảy ra:
Một người tuyên bố, vào thời của Caliph Omar,
"Ta là nhà tiên tri thực. Sau Mohammed ta đã được
phái tới thế giới này." Tất nhiên những người Mô ha
mét giáo không thể dung thứ được điều như vậy - ít
nhất những người Mô ha mét giáo không dung thứ.
Nếu như anh ta mà ở Ấn Độ thì anh ta đã được dung
thứ, nhưng Omar không thể dung thứ cho điều đó.
Anh ta bị tống vào ngục. 

Nhưng sau bẩy hay tám ngày một người nữa lại
tuyên bố rằng mình là chính Thượng đế. Bây giờ điều
này đi quá xa. Người đó cũng bị tống vào ngục.
Sau vài ngày Omar tới nhà ngục để xem họ bởi vì
cả hai đều bị đánh đập tàn tệ, bị trừng phạt thậm tệ.
Ông ta nghĩ, "Bây giờ họ chắc phải quay về với ý
thức của mình." Ông ta tới và hỏi người đã tự công bố
mình là nhà tiên tri mới - và anh chàng này cười phá
lên! Toàn thân anh ta đầy những vết thương, máu còn
chảy ra từ những vết thương đó, nhưng anh ta vẫn
cười to. Omar nói, "Sao mi lại cười?"
Anh ta nói, "Khi Thượng đế bảo ta, 'Con sẽ là nhà
tiên tri cuối cùng của ta, nhà tiên tri cuối cùng,' thì
ông ấy cũng bảo ta rằng 'Họ sẽ đối xử với con tàn tệ -
họ bao giờ cũng đối xử với các nhà tiên tri rất tàn tệ.'
và bây giờ lời tiên đoán đó đã đúng. Cho nên ta cười -
điều đó đơn giản chứng minh rằng ta là nhà tiên tri!"
Trong khi cuộc đối thoại này diễn ra, thì người
kia đang bị trói vào một cái cột khác, bắt đầu cười
thậm chí còn to hơn. Omar hỏi, "Có chuyện gì với
mi?"
Anh ta nói, "Tên kia là kẻ dối trá. Ta chưa bao giờ
phái hắn ta tới. Trong thực tế, sau Mohammed ta đã
không chỉ định bất kì nhà tiên tri nào cho thế giới nữa.
Mohammed là nhà tiên tri cuối cùng của ta!"
Bạn có thể thấy nhiều người trong nhà thương
điên, và hiểu biết của các nhà phân tâm tuỳ thuộc vào
họ. Và khi Jesus tuyên bố rằng "Ta là đứa con duy
nhất của Thượng đế!" thì tất nhiên là ông ấy điên.
Chắc chắn! - bởi vì có những người điên tuyên bố
những điều như vậy. Ông ấy cũng điên.
Khi Krishna tuyên bố rằng "Ta là Đấng sáng tạo
và là kẻ phá huỷ thế giới này!" chắc chắn ông ấy điên.
Đây là điều tối thượng trong việc là một kẻ bản ngã.
Làm sao bạn có thể mang tính bản ngã hơn điều này:
"Ta là Đấng sáng tạo và là kẻ phá huỷ thế giới này?
Còn Phật nói, "Ta đã đạt tới điều Tối thượng, và
ngay cả các thần cũng tới dưới chân ta để xin hướng
dẫn của ta." Bây giờ đây là những người điên!
Phân tâm học vẫn còn ở mức bệnh hoạn. Nó vẫn
chưa từng biết tới tâm trí con người bình thường, và
nó thậm chí cũng chẳng động chạm tới tâm trí phi
thường. Nhưng chẳng chóng thì chầy, cuộc cách
mạng vĩ đại đang sắp xảy ra, bởi vì nếu tâm lí học
không tự nó thay đổi, thế thì nó sẽ đi vào đường mòn,
thế thì nó sẽ thành cũ rích và chết. Nó phải chuyển
động. Mọi thứ sống đều phải tiến lên trước. Và tôi có
thể nói về tâm lí học về điều như vậy: nó rất nhiều
sống động và có hi vọng. Nhiều công trình đang diễn
ra, và dần dần các nhà phân tâm, các nhà tâm lí, các
nhà tâm thần đang trở nên ngày một quan tâm tới
thiền.
Bạn sẽ ngạc nhiên. Tôi đã nhận đủ loại người ở
đây. Từ những nghề nghiệp khác nhau mọi người đã
tới, nhưng phần lớn các sannyasin đã tới từ nghề tâm
lí, phân tâm. Tôi đã nhận hàng trăm nhà trị liệu tâm lí
làm sannyasin của mình. Điều này là rất có ý nghĩa.
Không mấy bác sĩ đã tới, không mấy kĩ sư đã tới,
không mấy chủ ngân hàng đã tới, không mấy chính khách đã tới. Số lớn nhất tới từ một nghề là số người
làm trị liệu tâm lí.
Đó là một chỉ báo lớn. Điều đó chỉ ra tâm lí học
đang vượt ra ngoài chính nó, tâm lí học đang dần dần
đi vào tôn giáo. Chẳng chóng thì chầy, tâm lí học sẽ
trở thành nền tảng rất vững chãi cho bước nhảy tôn
giáo. Và chừng nào nó còn chưa trở thành nền tảng
vững chãi cho bước nhảy tôn giáo, nó sẽ không có ý
nghĩa gì. Nó sẽ có ý nghĩa chỉ khi nó trở thành bậc
thang đi vào ngôi đền của Thượng đế.
Nhưng khi tôi nói "khi nó trở thành bậc thang
hướng tới tôn giáo," tôi chỉ ngụ ý tôn giáo thôi. Tôi
không ngụ ý Hindu giáo, Ki tô giáo, Do Thái giáo;
Mô ha mét giáo, Jaina giáo, Phật giáo. Tôi không ngụ
ý điều đó. Đấy không phải là tôn giáo thật, họ đã trở
thành chính trị. Họ là những tổ chức chính trị.
Tôn giáo mang rất nhiều tính cá nhân. Tôn giáo
về cơ bản là cá nhân. Nó là biến chuyển của tâm thức
cá nhân; nó chẳng liên quan gì tới các tổ chức cả. Bạn
là người Mô ha mét giáo hay Hindu giáo hay Ki tô
giáo bởi vì bạn được sinh ra trong tổ chức đó. Không
ai có thể được sinh ra trong tôn giáo. Tôn giáo phải
được chọn lựa một cách có ý thức. Trong chính chọn
lựa có ý thức đó nó trở thành có ý nghĩa; bằng không
nó là vô nghĩa.
Bạn đã được nuôi lớn lên như người Ki tô giáo.
Bạn không thể có bất kì mối quan hệ cá nhân nào với
Christ. Bạn không biết Christ. Bạn chỉ biết Giáo
hoàng và Nhà thờ. Mà Giáo hoàng và Nhà thờ, và các
tu sĩ, và các shankaracharyas - họ không phải là
những người tôn giáo. Họ có chính trị rất tinh tế ẩn
đằng sau mình - nòi giống, quốc gia, giáo phái. Và
một khi tôn giáo trở thành tổ chức và mọi người bắt
đầu được sinh ra trong nó mà không có bất kì tiếp xúc
cá nhân nào, không có bất kì gặp gỡ cá nhân nào với
thầy - khi mọi người chỉ được sinh ra trong nó, khi
tôn giáo trở thành sự ngẫu nhiên, thì nó không còn là
tôn giáo nữa. Thế thì nó trở thành một loại thuốc
phiện cho mọi người, một sự khai thác.
Cho nên tôi không ngụ ý người Do Thái, Hindu,
Ki tô giáo. Tôi chỉ ngụ ý tôn giáo. Tôn giáo không có
tính từ cho nó.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại. Nghe nó thật
chăm chú vào.
Sigmund Steinberg, nhà nhập khẩu nổi tiếng các
loại găng tay phụ nữ, đến thăm theo lời mời bất
thường của ông giáo sĩ của ngôi đền của mình. Ông
giáo sĩ này quá hài lòng khi gặp một giáo dân giầu
không thể tưởng được, người thường đóng góp nhiều
hơn cả điều ông ấy thiếu trong chờ đợi và nhiệt tâm
tôn giáo. Tuy nhiên lần này chuyến thăm ngôi đền là
do một lí do hoàn toàn tôn giáo, nếu không nói là bất
thường hơn.
"Ông giáo sĩ," Steinberg mở đầu sau thái độ nhã
nhặn thông thường, "Tôi tới đây để gặp ông về một
nhân vật gần gũi và thương mến nhất với tôi. Con chó
của tôi, con chó yêu quí của tôi, ba lần vô địch Tu
viện Westminster Abbey đệ Tam, con chó xù nhỏ của
tôi, lần này tới tuổi thứ mười ba Tisha Bov, và tôi
muốn, thưa ông giáo sĩ, ông nên làm lễ Bar Mitzvah
cho nó. 

Viên giáo sĩ hoàn toàn ngạc nhiên. "Nhưng ông
Steinberg thân mến của tôi, điều đó là không thể
được! Ai đã bao giờ nghe nói tới chuyện một con chó
lại được làm lễ Bar Mitzvahed đâu? Chưa bao giờ có
việc nhắc nhở gì tới việc như vậy trong lịch sử của Do
Thái giáo. Đấy sẽ là một vụ tai tiếng lớn. Ngôi đền
này sẽ thành cái kho đàm tiếu. Chức phẩm của tôi sẽ
bị thu hồi, tổ chức tôn giáo phụ nữ sẽ bị bỏ bê, chiến
dịch xây dựng sẽ bị đình lại, người không theo Do
Thái giáo sẽ cuồng loạn, và ban cha đạo sẽ cắt cổ tôi!"
Steinberg vẫn không chuyển. Không quá một
nháy mắt, ông ta lại nói với ông giáo sĩ. "Với cơ hội
này, tôi sẽ cúng cho đền số tiền - tiền mặt! - là năm
nghìn đô la."
"Ông Steinberg ơi," viên giáo sĩ rạng rỡ cả lên,
"sao ông không bảo tôi ngay từ đầu rằng con chó là
người Do Thái?"
Khi động đến tiền thì thậm chí cả chó cũng trở
thành người Do Thái. Khi động tới tiền bạc và chính
trị thì các giáo hoàng của bạn và các shankaracharyas
cũng không còn mang tính tôn giáo nữa. Tôn giáo của
họ chỉ bao gồm thánh lễ, thánh lễ chết. Nó là cái mẽ
ngoài, nó không phải là thực tại. Người tôn giáo thực
bao giờ cũng thấy khó tồn tại được trong bất kì tổ
chức nào.
Jesus đã được sinh ra là người Do Thái nhưng
không thể vẫn còn trong đám Do Thái được. Điều đó
là không thể được. Các tu sĩ sẽ không cho phép ông
ấy. Ông ấy rơi ra khỏi nó. Không chỉ thế, họ đã giết
ông ấy. Phật đã được sinh ra là một người Hindu,
nhưng người Hindu sẽ không cho phép ông ấy, các tu
sĩ sẽ không cho phép ông ấy - bởi vì bất kì khi nào có
một người tôn giáo, thì ông ấy là một cuộc cách mạng
sống đến thế, ông ấy là hiện thân nổi dậy. Các tu sĩ sẽ
không cho phép ông ấy. Ông ấy đã bị tống ra khỏi
nhóm Hindu. Phật giáo đã bị phá huỷ ở Ấn Độ.
Người Do Thái đã giết chết Christ, người Hindu
đã giết chết Phật giáo - điều còn tinh tế hơn và tinh
ranh hơn. Bằng việc giết chết Christ, chẳng cái gì bị
giết cả. Người Hindu tinh ranh hơn. Họ chẳng bao giờ
giết Phật. Nếu mà họ giết Phật thì đã rất khó phá huỷ
Phật giáo ở Ấn Độ. Bạn có thể thấy: Ki tô giáo có đó,
và Ki tô giáo đã nở hoa từ việc đóng đinh. Không có
cây thập tự thì đã không có Ki tô giáo nào. Bằng việc
đóng đinh Jesus, họ đã làm cho Jesus thành quan
trọng thế, mang tính lịch sử thế.
Người Hindu láu lỉnh và tinh ranh hơn, rất láu
lỉnh. Họ nói Phật là avatar thứ mười, nhưng họ làm
điều đó theo cách rất láu lỉnh. Họ có câu chuyện trong
các puranas của mình rằng khi Thượng đế tạo ra địa
ngục và cõi trời, hàng triệu năm đã trôi qua rồi. Và thế
rồi quỉ tới Thượng đế và nói, "Tâu Thượng đế, sao
ngài tạo ra địa ngục? - bởi vì chẳng ai tới đó cả. Nó
vẫn trống rỗng. Không linh hồn nào tới cả; mọi người
mang tính tôn giáo đến mức mọi người chết đều lên
cõi trời hết. Cho nên phỏng có ích gì mà giữ nó? Thả
tôi ra đi, tôi phát ngán và chán chết ở đấy!"
Thượng đế nói, "Đợi đấy, ta sẽ làm điều gì đó."
Và ông ấy lấy dạng hoá thân avatar; ông ấy giáng
xuống trái đất và trở thành Phật để phá huỷ tôn giáo
của mọi người, phá huỷ tính lương thiện của mọi người, phá huỷ chân lí của mọi người. Để làm lẫn lộn
họ, ông ấy đã trở thành Phật. Và từ đó địa ngục thành
tràn ngập.
Bây giờ điều này là rất thủ đoạn! Một mặt họ
chấp nhận rằng Phật là một avatar - một hoá thân của
Thượng đế. Mặt khác họ nói, "Cẩn thận về ông ấy,
bởi vì ông ấy đã tới chỉ vì Quỉ đã thỉnh cầu. Cho nên
nếu bạn nghe ông ấy thì bạn sẽ xuống địa ngục. Tất
nhiên, ông ấy là Thượng đế."
Bạn thấy cái tinh ranh đó không? Ngay cả người
Do Thái cũng phải thua người Hindu. Họ nâng Phật
lên thành avatar thứ mười và họ phá huỷ Phật giáo
hoàn toàn.
Điều này bao giờ cũng xảy ra. Điều này bao giờ
cũng sẽ xảy ra. Cố hiểu nó đi. Sinh ra trong một gia
đình, trong một tôn giáo nào đó là điều ngẫu nhiên.
Bạn phải chọn, bạn phải đi tới tôn giáo riêng của
mình! Đấy là cuộc hành trình gian nan, đấy là thách
thức và phiêu lưu lớn, và có rủi ro lớn.
Câu hỏi thứ hai:
Nếu tôi là Thượng đế, làm sao tôi tới đánh thức
mọi người vào buổi sáng để tìm ra chính mình
trong thân thể này?
Với Thượng đế mọi điều đều có thể.
Câu hỏi thứ ba:
Ôi, thầy kính yêu, đêm qua tôi mơ thấy hàng
nghìn con voi da cam tất cả đều đeo malas hình
vua voi trắng của chúng. Điều này nghĩa là gì?
Điều này đơn giản chỉ ra rằng không chỉ con
người mà cả voi cũng có thể phát điên.
Câu hỏi thứ tư:
Sau mỗi bài nói của thầy về Hasid giáo, tôi còn
lại với sự linh động và cảm thấy cuộc sống là vở
kịch được sống tràn đầy và tận hưởng. Vậy mà
khi thầy nói về Phật, tôi lại thấy thất vọng và
mọi sự dường như vô ích. Phật có bao giờ cười
không?
Ông ấy có cười chứ, nhưng không bao giờ trước
các đệ tử cả. Ông ấy cười khi ông ấy một mình. 

Nghe tôi nói về Hasid giáo mới là một nửa của vở
kịch. Và chừng nào bạn còn chưa thể đi cùng tiếng
cười trong khi nghe tôi nói về Phật, tiếng cười của
bạn còn chưa thật sâu sắc lắm đâu. Nghe tôi nói về
Hasid giáo, tất nhiên bạn cười và tận hưởng và bạn
nghĩ cuộc sống là vở kịch. Ngay lập tức tôi đã chọn
Phật. Có toán học cho điều đó. Nó là biện chứng. Tôi
chưa bao giờ chọn một cách ngẫu nhiên.
Mọi sự thành quá dịu ngọt với Hasid giáo. Bạn
cần một chút ít thuốc đắng nữa. Đấy đã là ngày với
Hasid giáo, bây giờ là đêm. Với Phật đấy là đêm.
Nhưng chừng nào bạn còn chưa thể tận hưởng cả đêm
nữa, việc tận hưởng ngày vẫn chưa đầy đủ. Chừng
nào bạn chưa thể hạnh phúc cho dù thấy cái vô tích sự
của cuộc sống, bạn vẫn còn chưa học được leela nghĩa
là gì. Nếu bạn hạnh phúc chỉ khi bạn hạnh phúc, bạn
vẫn chưa học được gì cả. Khi bạn hạnh phúc cho dù
không có hạnh phúc, thế thì bạn đã học được bí mật
của nó.
Bạn có hiểu tôi không? Điều đó là toán học rất
đơn giản. Khi tôi đang ca bài ca cuộc sống, bạn tận
hưởng nó. Nhưng khi tôi bắt đầu hát bài ca buồn về
cái chết, thế thì bạn không thể thích thú nó được. Thế
thì bạn sẽ vẫn còn là bộ phận - thế thì bạn sẽ chọn cái
tốt, cái ngọt, phần sáng. Điều gì sẽ xảy ra cho phần
tối? Thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ biết được cái toàn
thể, và nếu bạn không là cái toàn thể, bạn chẳng bao
giờ có thể là linh thiêng.
Với tôi, đôi khi nó là cuộc sống đang hát và đôi
khi nó là cái chết. Và tôi muốn bạn học cả hai. Tôi
muốn bạn trở nên hạnh phúc, vui đùa đến mức thậm
chí khi có thất vọng, vẫn không có thất vọng. Thậm
chí khi mọi thứ đang trở nên gay go, bạn vẫn có thể
cười; thậm chí khi mọi thứ đang sắp rất nặng nề, bạn
vẫn có thể nhảy múa. Cho nên cố cười cùng với Phật
nữa.
Cười với Hasid là rất dễ dàng, cười với Phật mới
khó. Đấy là nhiệm vụ rất vất vả. Nhưng cười với
Hasid, bất kì ai cũng có thể cười được. Điều đó chẳng
đòi hỏi nỗ lực gì về phần bạn cả; nó không đòi hỏi
trưởng thành về phần bạn. Cười với Phật là trưởng
thành lớn lao, cần chín chắn.
Và cuộc sống bao gồm những cực này: tốt và xấu,
thành công và thất bại, ngày và đêm, mùa hè và mùa
đông, sinh và chết, hôn nhân và li dị, yêu và ghét.
Toàn thể cuộc sống bao gồm những cực đối lập này -
và bạn là cái toàn thể. Bạn không thể chọn một nửa
của nó được. Nếu bạn chọn một nửa của nó bạn sẽ
vẫn còn là một nửa, và nửa kia sẽ vẫn còn bị kìm nén.
Và nửa kia sẽ báo thù ngày này hay ngày khác.
Và nếu bạn không thể thực sự buồn được - buồn rầu
một cách hạnh phúc, tôi nói thế - thế thì hạnh phúc
của bạn không thể đi rất sâu được, bởi vì bạn sẽ trở
nên sợ chiều sâu. Trong chiều sâu, nửa kia đang đợi.
Cho nên hạnh phúc của bạn sẽ nông cạn; bạn sẽ
không cho phép nó đi rất sâu, bởi vì nửa kia đang đợi
ở đó. Bạn biết rằng nếu bạn đi sâu thêm chút nữa, bạn
có thể chạm vào nỗi buồn.
Bạn đã bao giờ quan sát nó chưa? Trong các thôn
làng ở Ấn Độ mẹ hay nói với con là không được phép
cười quá nhiều, bởi vì nếu nó cười quá nhiều thì nó
bắt đầu khóc. Đấy là một sáng suốt lớn. Bạn đã bao giờ quan sát điều đó chưa? Nếu bạn cười quá nhiều,
tiếng cười của bạn có khuynh hướng biến thành nước
mắt.
Mọi hạnh phúc đều có khuynh hướng biến thành
bất hạnh. Tất cả cuộc sống đều mang khuynh hướng
biến thành cái chết. Tuổi thanh niên của bạn mang
khuynh hướng biến thành tuổi già. Mạnh khoẻ mang
khuynh hướng biến thành ốm yếu, bệnh tật. Đây là
cách mọi sự hiện hữu. Và nếu bạn chỉ biết rằng "Mình
sẽ hạnh phúc khi mình hạnh phúc," bạn sẽ làm gì với
bất hạnh của mình mà cũng đang có đó? Nếu bạn nói,
"Mình sẽ hạnh phúc chỉ với hoa hồng," bạn sẽ làm gì
với gai mà bao giờ cũng có đó? và còn hơn cả hoa -
chúng là một phần của trò chơi.
Với Hasid giáo tôi nói về hoa hồng, bây giờ để tôi
nói về gai. Và nếu bạn có thể hiểu được cả hai và vẫn
vui đùa, thế thì bạn biết leela là gì. Leela nghĩa là vui
đùa - vui đùa trong thành công, vui đùa trong thất bại;
vui đùa khi bạn chiến thắng, vui đùa khi bạn chiến
bại.
Câu hỏi thứ năm:
Tôi được chứ?
Bạn không thể được đâu - chắc chắn là không.
Bằng không câu hỏi này đã không nảy sinh. Chính
câu hỏi này nói lên điều gì đó sai ở đâu đó, bằng
không ai bận tâm mà hỏi nó? 'Được chứ' là một cảm
giác mà khi nó có đó thì bạn biết nó. Nó cũng giống
như đau đầu vậy: bạn chưa bao giờ hỏi bất kì ai khác,
"Tôi có bị đau đầu không?" Và nếu bạn hỏi thì họ sẽ
cười. Họ sẽ nói, "Anh có điên không đấy?" Nếu bạn
đau đầu, thì bạn đau đầu, và bạn biết! Nếu bạn không
đau đầu, thì bạn không đau, và bạn biết.
Được chứ là sự lành mạnh bên trong. Một cảm
giác lớn lao, đẹp đẽ nảy sinh trong bản thể bạn, và cứ
lan toả - gợn sóng nọ tiếp gợn sóng kia. Mọi thứ đều
dường như là ánh sáng. Mọi thứ đều dường như vô
trọng lượng. Bạn không bước đi - bạn chạy. Bạn
không chạy - bạn nhảy múa. Bạn cảm thấy dường như
lực hút trái đất không tồn tại. Bạn bắt đầu bay. Bạn đi
vào phúc lạc chưa biết. Bạn cứ trôi giạt, rất an bình,
hướng tới bến bờ của cái không biết. Và mọi thứ
dường như là đẹp đẽ, phúc lành - bạn được ân huệ và
bạn có thể ban ân huệ cho mọi người.
Khi nó có đó, không có vấn đề gì. Khi nó có đó,
bạn không cần có bất kì xác nhận từ bất kì ai. Bạn biết
nó! Nó là hiển nhiên. Và nếu cái được chứ không hiển
nhiên, thế thì chẳng cái gì có thể hiển nhiên cả.
Mulla Nasruddin và vợ anh ta ngồi trên chiếc
thuyền có mái chèo. Cô vợ run người trong chiếc
thuyền trong khi Nasruddin câu cá: "Anh kể nữa cho
em đi," cô ấy kêu lên giữa làn môi xanh, "chúng mình
đã vui cười thế nào - em quên mất rồi."
Chẳng ai có thể quên được nếu có phúc lạc.

Một người mua được chiếc xe đã dùng rồi, và rồi
sau bẩy ngày anh quay lại nơi đã mua xe và hỏi người
bán hàng, "Ông làm ơn kể lại cho tôi về chiếc xe với."
Ông này nói, "Sao vậy?"
Anh ta nói, "Tôi cứ hay quên. Ông đã ca ngợi nó
cao thế, còn nó thì gây cho tôi bao nhiêu rắc rối. Để
động viên tôi, ông kể lại đi. Tôi cần chút ít dũng
cảm."
Sao bạn hỏi, "Tôi được chứ?" Bạn cần động viên
nào đó sao? Nhớ lấy: tôi không phải là người bán xe
đã dùng rồi. Và tôi không định động viên bạn. Nếu
bạn bất hạnh, gợi ý của tôi là: bất hạnh đi - không cần
phải được chứ. Bất hạnh đi. Đi vào trong nó tới chính
tảng đá đáy của nó. Để nó ở đó! Lắng nghe thông điệp
của nó - phải có một thông báo chắc chắn trong bất
hạnh này, bởi vì Thượng đế chưa bao giờ gửi bất kì
cái gì mà không có thông điệp trong nó! Bạn đừng cố
gắng che giấu nó.
Bất hạnh sao? - thế thì cứ bất hạnh đi. Thực sự bất
hạnh - đi tới chính địa ngục của nó. Và nếu bạn có thể
đi mà không có bác bỏ nào về phần mình; không có
bất kì tranh đấu nào về phần mình; nếu bạn có thể chỉ
thảnh thơi và để cho nó xảy ra, bạn sẽ thu được cực kì
nhiều từ nó. Bạn sẽ thấy rằng bất hạnh có đó, nhưng
bạn không bất hạnh - bạn là nhân chứng của nó, bạn
người quan sát. Nó có đó! Chắc chắn nó có đó, nhưng
nó giống như đám mây bao quanh bạn - bạn không
phải là đám mây đó. Và một khi bạn nhận ra điều đó,
bạn đã siêu việt lên rồi. Thế thì một loại được chứ
hoàn toàn khác nảy sinh trong bạn, cái chính là tâm
linh, cái không thể nào bị lấy đi khỏi bạn.
Nhưng mọi người không đi sâu vào bất hạnh của
mình. Đây là điều tôi gọi là sadhana thực: đi vào
trong bất hạnh của mình. Đừng né tránh, đừng chạy
trốn. Mọi người không nhìn vào tâm trạng của mình;
mọi người cố gắng tự lừa dối mình. Mọi người muốn
bằng cách nào đó bao giờ và bao giờ cũng mang nụ
cười. Nhưng bạn có biết không? - thậm chí trên trời,
các thần cũng không hát vào mọi lúc. Có những
khoảnh khắc họ kêu và khóc. Và bạn có thể tin tôi
được - tôi là người mắt thấy. Nhưng chẳng có gì sai
với nước mắt cả. Nước mắt có thể đẹp, nếu bạn đón
chào chúng.
Đi sâu vào bất hạnh của bạn đi; nó sẽ làm lộ ra
nhiều điều cho bạn.
Tôi đã từng nghe:
Một nông dân đang đánh xe ngựa cần mẫn đi trên
con đường bụi bậm. Anh ta tới một người ngồi bên
đường, kéo ngựa dừng và gọi với ra: "Cái đồi này còn
kéo dài bao lâu nữa?"
"Ông không trên đồi đâu," người lạ nói lại. "Bánh
xe sau của ông long ra rồi."
Nhưng mọi người không nhìn sâu vào bản thể
mình. Họ nghĩ họ đang trên đồi - bánh xe sau không
còn đó nữa. Bạn có thể cứ trên con đường phẳng, trên
đường cái và bạn sẽ cảm thấy bạn đang trên đồi, bao
giờ cũng đi lên, và điều đó là khó và càng khó hơn. 

Và tất nhiên, không có bánh xe thì bạn bao giờ cũng
trong rối loạn; con đường sẽ nhọc nhằn.
Đừng hỏi tôi bạn có được hay không. Chính câu
hỏi này quyết định rằng bạn không được đâu. Nhưng
mọi người đều là những người hỏi như vậy; họ cứ hỏi
về mọi điều. Có thể bạn được đấy, nhưng bạn không
thể còn lại mà không có câu hỏi; điều đó nữa cũng là
một khả năng.
Mulla Nasruddin lên núi theo gợi ý của nhà trị
liệu tâm lí, và từ đó anh ta đánh điện lại sau một tuần:
"Tôi cảm thấy sung sướng - tại sao?"
Bây giờ bạn thậm chí không thể cảm thấy sung
sướng mà không hỏi; bây giờ việc phân tích là cần
thiết - tại sao?
Người mẹ tới gặp nhà phân tích và hỏi, "Ông nói
cho tôi biết - Tôi có con gái đang học đại học - nó
không dùng ma tuý - nó không mang thai - nó không
uống rượu - nó được điểm cao nhất trong lớp và nó
viết thư cho tôi hàng ngày - xin ông hãy cho tôi biết -
chỗ chúng tôi đã đi có đúng không?"
Chỗ chúng tôi đã đi có đúng không? Bây giờ điều
đó trở thành vấn đề. Việc hỏi đã trở thành thói quen
bắt rễ sâu đến mức đôi khi chẳng cần chút nào, thế
nữa bạn cứ tạo ra câu hỏi. Bạn không thể cho phép
bản thể mình còn lại mà không câu hỏi nào. Cho phép
điều đó đi! Bởi vì đó là khoảnh khắc câu trả lời sẽ tới
với bạn - khi không có câu hỏi.
Đừng cứ hỏi và hỏi và hỏi mãi. Điều đó là vô
nghĩa. Tôi trả lời bạn chỉ để cho bạn biết cách không
hỏi. Tôi không trả lời bạn để cho bạn trở thành ngày
một hiểu biết hơn. Tôi trả lời bạn chỉ như sự giúp đỡ,
để cho một ngày nào đó bạn có thể còn lại mà không
câu hỏi nào. Chính ngày đó khải lộ lớn lao sẽ mở ra
cánh cửa của nó vào bản thể bạn.
Khi không có câu hỏi nào, câu trả lời nảy sinh từ
chiều sâu bên trong nhất của bạn. Nếu bạn quá bận
tâm với câu hỏi, câu trả lời sẽ không bao giờ nảy sinh
- bạn sẽ không cho phép nó có không gian để nảy
sinh.
Câu hỏi thứ sáu:
Osho kính yêu, lời tục tĩu có bẩn thỉu không?
Điều đó còn tuỳ. Nó tuỳ thuộc vào cái nhìn của
bạn. Chẳng có gì tốt, chẳng có gì xấu cả. Nó tuỳ thuộc
vào diễn giải của bạn, vào cách bạn diễn giải. Nó tuỳ
thuộc vào tâm trí bạn.
Tâm trí bao giờ cũng chia mọi sự ra làm đôi - tốt/
xấu, sạch/bẩn, Thượng đế/quỉ. Tâm trí liên tục phân
chia. Tâm trí là kẻ phân chia. Chân lí là không phân
chia, chân lí là một. Nó không tốt không xấu, không
sạch không bẩn.
Tôi đã nghe: 

Một linh mục tới cửa hàng may và đặt một bộ
com lê mới. Khi ông ta hỏi bộ này bao nhiêu tiền, ông
thợ may nói, "Không phải trả tiền. Tôi chưa bao giờ
đòi tiền giới tăng lữ." Thế là hôm sau ông linh mục
gửi tới tặng ông thợ may một chiếc thập tự đẹp.
Thế rồi một giáo sĩ tới cửa hàng may đó và đặt
làm bộ com lê mới. Khi ông ta hỏi bộ này giá bao
nhiêu, ông thợ may nói, "Không phải trả tiền. Tôi
chưa bao giờ đòi tiền các giáo sĩ." Thế là hôm sau ông
giáo sĩ này gửi tới cho ông thợ may hai ông giáo sĩ
nữa.
Điều đó tuỳ thuộc vào bạn, vào cách bạn nhìn vào
mọi sự. Tâm trí bạn là người ra quyết định cuối cùng.
Một thợ may áo choàng và com lê rất thành công
sau cùng đã tìm được cô gái trong mộng của mình, và
anh ta chuẩn bị cho đám cưới một bộ áo quần mà cả
quận cũng chẳng thể nào quên được. Những người
thiết kế riêng của anh ta đã chuẩn bị áo cưới cho cô
dâu bằng thứ lụa và sa tanh nhập khẩu mịn nhất, còn
bộ y phục hôn lễ của anh ta thì mới thực sự đáng
ngắm.
Vấn đề chẳng là gì nhiều hơn sự ngoạn mục.
Không chi phí nào còn dư lại. Thế rồi, khi việc cưới
xin đã tiến tới việc thực hiện chuyến đi tuần trăng mật
sang Canada, thì một tin báo khẩn cấp được gửi tới
qua điện tín..
"Đây là tin từ đối tác của tôi," chú rể giải thích.
"Việc kinh doanh khẩn cấp. Tôi phải dự nó ngay lập
tức."
"Nhưng thế tuần trăng mật của chúng ta thì sao?"
cô dâu nức nở hỏi.
"Kinh doanh trên hết," anh ta nói. "Nhưng em cứ
đi trước đi. Anh sẽ tới bằng máy bay sau và sẽ ở đó
vào đêm nay."
"Nhưng thế nhỡ anh không tới được tối nay thì
sao?" cô ấy than vãn.
"Thì ..." anh ta quát tháo, "cứ bắt đầu mà không
có anh."
Nhà kinh doanh là nhà kinh doanh. Cái nhìn cả
đời của người đó về cuộc sống là cái nhìn của nhà
kinh doanh.
Chẳng cái gì hay, chẳng cái gì dở; chẳng cái gì
đẹp, chẳng cái gì xấu. Điều đó là tuỳ bạn quyết định.
Tại Ấn Độ chúng ta có một trạng thái nào đó của
tâm thức được gọi là paramahansa. Trạng thái
paramahansa nghĩa là trạng thái của không phân chia -
khi xấu và đẹp, sạch và bẩn, hay và dở, cả hai đều như
nhau. Bạn có thể thấy một người paramahansa đang
ăn, ngồi cạnh dường - nước cống đang chảy tràn qua,
chó chạy xung quanh người đó. Hay thậm chí chó
cũng ăn trong cùng bát! Rất khó - rất khó cho tâm trí
hiểu được. Tâm trí sẽ nói "Đây là cái kiểu người gì
vậy? Bẩn khiếp!"

Nhưng bạn không biết tới trạng thái của người
paramahansa. Đừng kết án, đừng hấp tấp thế. Có một
trạng thái của tâm thức nơi phân chia biến mất, nơi
tâm trí hoàn toàn bị vứt bỏ. Thế thì người ta đơn giản
sống trong cái một với sự tồn tại.
Nhưng, tôi không bảo bạn trở thành người
paramahansas - nhớ lấy. Bạn không thể trở thành
người paramahansa được; điều đó giáng xuống bạn.
Nếu bạn cố gắng để trở thành người paramahansa,
bạn sẽ chỉ phát điên. Tôi không nói vứt bỏ phân biệt.
Tôi nói trở nên ngày một nhận biết hơn để một ngày
nào đó phân biệt biến mất. Bạn có thể vứt bỏ phân
biệt này mà không trở nên nhận biết - thế thì bạn sẽ là
người điên, không phải là người paramahansa. Và đôi
khi người paramahansas và người điên trông rất giống
nhau.
Câu hỏi thứ bẩy:
Bài nói hôm nay là điều tuyệt vời nhất tôi đã
từng được nghe.
Điều này là từ Vandana. Nhưng cũng cùng bài nói
này ai đó khác lại nói:
Sao thầy cứ huyên thuyên mãi thế?Tôi phát
ngán với thầy, tôi chán lắm, và tôi không muốn
nghe thầy chút nào nữa.
Đấy là từ Maneeshi.
Bây giờ thì phải làm gì đây? Trả lời cho ai? Cùng
bài nói có thể cực kì hay cho người này; với người
khác nó lại chán khủng khiếp. Điều đó tuỳ thuộc vào
bạn; nó chẳng liên quan gì tới bài nói cả. Bạn đang
không nói điều gì đó về bài nói - Vandana hay
Maneeshi. Bạn đang nói điều gì đó về mình.
Vandana phải đã trong trạng thái tuôn chảy;
Vandana phải đã trong 'phúc lớn'. Vandana phải đã
cởi mở - tôi có thể đi vào trong cô ấy. Lời tôi đi sâu
vào trong trái tim cô ấy và trở thành bài ca.
Maneeshi phải đã bị đóng lại - quá nhiều trong cái
đầu. Maneeshi phải đã không cùng với trái tim, ít nhất
là trong bài nói đó. Thế thì mọi sự đi sai. Điều đó tuỳ
thuộc vào bạn. Bất kì khi nào bạn cảm thấy cái gì đó
giống thế, bao giờ cũng nhớ điều đó là tuỳ thuộc vào
bạn.
Bây giờ Maneeshi hỏi: "Sao thầy cứ huyên thuyên
mãi thế...?" Tôi cứ huyên thuyên bởi vì cũng có cả
Vandanas nữa - cho nên tôi phải cứ huyên thuyên cho
họ.
Còn bạn nói: "Tôi phát ngán với thầy và tôi chán
lắm...." Nhưng, ai buộc bạn phải ở đây? Đây là cái gì
đó đẹp đẽ! Có hai người gác ở hai cổng và Shiva với
cái mũi to có đó để đánh hơi bạn. Và bạn phải trả tiền để nghe tôi. Bạn đã bao giờ biết chưa? - trong lịch sử
của Ấn Độ điều đó chưa bao giờ xảy ra cả - những bài
nói tôn giáo bao giờ cũng cho không. Và bạn hỏi tôi:
"Sao thầy cứ huyên thuyên mãi thế?" Sao bạn lại trả
tiền trước hết? Bạn không cần tới. Mọi sự quản lí mà
tôi đã làm là để ngăn cản bạn, tôi đã làm đấy.
Đấy là tâm trí bạn. Nhưng tôi biết Maneeshi, tôi
biết cả trái tim anh ấy nữa. Trái tim cứ kéo anh ấy lại
đây; cái đầu không cho phép. Đó là xung đột. Khi trái
tim và cái đầu gặp nhau có đồng bộ. Khi cái đầu và
trái tim gặp nhau có hài hoà. Đó là điều đã xảy ra cho
Vandana.
Maneeshi đã mất tiếp xúc với trái tim mình. Trái
tim anh ấy cứ kéo anh ấy lại, cho nên anh ấy không
thể thoát được. Bởi vì anh ấy không thể thoát được
nên anh ấy khó chịu với tôi - dường như tôi đang làm
điều gì đó với anh ấy, dường như tôi không cho phép
anh ấy thoát ra. Bạn hoàn toàn tự do, Maneeshi - mặc
dầu tôi biết bạn không thể thoát được. Đó là điều
không thể được bởi vì dù bạn ở đâu bạn cũng khao
khát việc huyên thuyên này. Tôi sẽ ám ảnh bạn bởi vì
khi trái tim bạn đã có liên quan, tôi đang sở hữu nó.
Cái đầu sẽ không cho phép bạn ở đây toàn bộ, nhưng
nó không thể giúp bạn ra đi được.
Nghe từ trái tim đi bởi vì điều tôi đang nói chẳng
liên quan gì tới cái đầu cả. Điều tôi đang nói là không
logic, điều tôi đang nói là không có lí.
Mới hôm nọ tôi vừa đọc một bức thư trong
Current, được viết từ Hội những người theo chủ nghĩa
duy lí ở Nam Ấn Độ, rằng họ muốn tôi trở thành
thành viên của hội của họ.
Bây giờ tôi bị tràn ngập. Đây là một vinh dự lớn
lao thế. Ngay cả giải thường Nobel có được trao cho
tôi thì tôi cũng không đến nỗi tràn ngập đến thế - bởi
vì Giải thường Nobel đã được trao cho quá nhiều
người rồi, hàm trăm người. Ai đã bao giờ nghe nói về
Hội những người theo chủ nghĩa duy lí này chưa?
rằng nó đã mời bất kì ai là thành viên? Điều này chưa
từng có trước đây. Trong thực tế tôi chưa bao giờ
nghe nói đến cái tên làng nữa. Phải là một hội rất bí
truyền. Có những nhóm bí truyền làm việc ẩn kín
đằng sau, những người không tin vào công luận.
Một đặc ân lớn thế! Tôi hi vọng làng này có một
trạm bưu điện và một trường tiểu học, và ít nhất cũng
có một điểm đỗ xe buýt - bởi vì ở mọi làng Ấn Độ mà
có điểm đỗ xe buýt và trường tiểu học và trạm bưu
điện thì người ta bắt đầu đòi có đại học. Thế là đủ để
mở ra một đại học. Đó là lí do tại sao mọi ngày các
đại học lại cứ được mở ra, hàng trăm đại học. Chẳng
chóng thì chầy mọi làng đều có đại học riêng của
mình.
Chỉ một điều kiện họ đưa ra cho tôi là rất đơn
giản, và tôi có thể hoàn thành điều đó ngay lập tức,
chỉ bỏ mũ ra. Một điều kiện họ đòi là: Nếu ông vứt bỏ
việc được gọi là Bhagwan. Điều đó thì tôi sẵn sàng
làm, tuyệt đối sẵn sàng. Bởi vì ngay chỗ đầu tiên tôi là
Bhagwan, cho nên dù bạn có gọi tôi thế hay không thì
cũng chẳng khác biệt gì - hoa hồng là hoa hồng là hoa
hồng. Bạn có thể gọi nó bằng cái tên khác, điều đó
chẳng khác biệt gì. Tôi có thể giả vờ rằng tôi không là
Bhagwan - chẳng có nhiều vấn đề trong nó - nhưng
tôi không thể mất tư cách thành viên này.

Rắc rối nảy sinh không phải bởi điều kiện của họ;
rắc rối nảy sinh vì nó là một hội của những người theo
chủ nghĩa duy lí. Và tôi lại tuyệt đối vô lí. Tôi gần
như ngớ ngẩn. Tôi chơi với lập luận, chắc chắn, như
trò chơi. Chắc chắn tôi thích lập luận, nhưng như trò
chơi. Nhưng tôi không phải là người duy lí.
Những người nghe tôi từ cái đầu của họ sẽ cứ bỏ
lỡ tôi. Còn khi bạn nghe tôi và bạn bỏ lỡ tôi, tất nhiên
bạn sẽ phát ngán. Bạn sẽ không thể nào thấy được:
"Tất cả những cái này phỏng có ích gì? Sao người này
cứ nói mãi thế?" - bởi vì bạn không thu được cái gì từ
điều đó cả. Tôi cứ nuôi dưỡng bạn còn bạn thì lại có
đó mà không được nuôi dưỡng. Thế thì chắc chắn bạn
sẽ cảm thấy chán.
Nhưng chán là vấn đề của bạn, và bạn phải học
cách lắng nghe từ trái tim. Nếu bạn lắng nghe tôi từ
trái tim bạn có thể cứ nghe tôi mãi mãi - và sẽ không
có chán chút nào. Bạn càng nghe tôi nhiều thì bạn
càng thích thú, bởi vì từ trái tim cuộc cách mạng cực
kì lớn xảy ra.
Bạn đã bao giờ quan sát trẻ nhỏ chưa? Bạn kể cho
chúng một chuyện, hôm sau chúng tới; chúng nói,
"Bác lại kể chuyện ấy cho cháu đi!"
Và bạn nói, "Nhưng bác đã kể cho cháu rồi."
Chúng nói, "Vâng kể rồi, nhưng bác kể lại nữa
cho cháu."
Và chúng lại xúc động thế. Lại lắng nghe cùng
câu chuyện ấy, và chúng biết, đôi khi chúng sẽ nói
trước cho bạn điều gì sẽ xảy ra. Nhưng chúng xúc
động thế, nhiệt tình về nó thế. Điều gì xảy ra vậy?
Chúng nghe nó từ trái tim; chúng nghe nó từ sự hồn
nhiên, không từ tri thức. Chúng nghe từ sự thuần khiết
vô biên, từ tình yêu. Chúng nghe chỉ vì nghe mà thôi.
Howard, một trong những thợ may hàng đầu ở
New York, tới Rome để đi nghỉ. Trong khi ở đó, vợ
anh ta, một tín đồ hăng hái của điều "khi ở Rome làm
như người La mã', cứ khăng khăng rằng họ phải có
một cuộc hội kiến với Giáo hoàng. Điều đó được thu
xếp qua Toà đại sứ Mĩ và họ được ban cho cuộc hội
kiến đó.
Khi họ trở về New York họ kể lại cho tất cả mọi
người về chuyến đi của mình và tất nhiên về chuyến
viếng thăm Giáo hoàng. Bố của Howard hỏi,
"Howard, kể cho bố xem, Giáo hoàng thực sự giống
cái gì?"
Con ông ta đáp, "Ông ấy lùn 42."
Thợ may là thợ may. Đó là hiểu biết của anh ta -
lùn 42.
Jack về nhà vào giữa trưa. Anh ta gặp vợ và con
ngay tại cổng. Con anh ta kêu lên, "Bố ơi có ông ba bị
trong phòng nhỏ đấy."
Jack xô vào phòng nhỏ và đẩy tung cửa mở ra.
Trong đống lộn xôn những áo khoác là là đối tác Sam
của anh ta.

"Sam," Jack la lên, "Sao cậu lại đến đây làm quỉ
gì vào buổi trưa và doạ con tớ?"
Bạn có hiểu điều đó không? Điều đó tuỳ thuộc
vào tâm trí bạn, vào bạn, vào thái độ nào bạn có. Bạn
có thể lắng nghe tôi năm nọ, năm kia, và bạn có thể
vẫn còn xúc động.
Nhưng tôi không lo lắng về điều đó. Ít nhất thì tôi
bao giờ cũng xúc động. Nếu không ai đến nghe tôi thì
tôi vẫn cứ nói ở đây. Tôi yêu việc nói điều đã xảy ra
với tôi, và tôi yêu việc nói nó cả nghìn lẻ một lần. Và
đó là cách duy nhất để truyền đạt nó. Bởi vì một lần
bạn có thể bỏ lỡ, lần thứ hai bạn có thể bỏ lỡ, nhưng
bạn có thể bỏ lỡ bao nhiêu lần? Một ngày nào đó từ
chán ngán cùng cực bạn sẽ nói, "Bây giờ mình nghe
người này vậy."
Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu,
Tôi ghét phải làm điều này với thầy, nhưng tôi
không thể cưỡng lại được cám dỗ này. Về các
áo choàng thì sao?
Điều này là từ Maneesha. Điều thứ nhất:
Một hôm Morris về nhà sớm từ chỗ làm việc và
thấy vợ mình đang trên giường. Cô ấy nói cô ấy thấy
không khoẻ. Anh ta vào phòng nhỏ để treo mũ và áo,
và rất ngạc nhiên anh ta thấy một người đàn ông ẩn
trong căn phòng nhỏ này.
Anh ta nhìn vào người này rồi kêu to lên, "Mày
làm gì trong phòng riêng của tao?"
Người này nhún vai và nói, "Mọi người đều phải
ở đâu đó."
Vậy về áo choàng của tôi thì sao? Tôi phải trong
áo choàng chứ! Mọi người đều phải ở đâu đó. Nhưng
câu hỏi cứ tới - dù nó từ Maneesha, hay từ ai đó khác.
Tôi chờ đợi điều đó.
Chiếc khăn chỉ là trái đệm. Để tôi kể cho bạn về
trái đệm trước. Trong ngoại giao, trong chính trị,
những quốc gia tinh ranh bao giờ cũng có quốc gia
đệm quanh họ. Chẳng hạn, người Anh ở Ấn Độ quen
có Tây Tạng là quốc gia đệm giữa Trung Quốc và Ấn
Độ.
Trung Quốc là cường quốc lớn nhất ở gần Ấn Độ.
Họ bao giờ cũng duy trì quốc gia đệm - Tây Tạng là
quốc gia đệm. Nếu Trung Quốc muốn tấn công Ấn
Độ, thì trước hết Trung Quốc phải tấn công Tây Tạng.
Nó không thể tiếp cận trực tiếp được. Và một khi nó
đã tấn công Tây Tạng, nước Anh sẽ đánh nhau trên
đất Tây Tạng; do đó Ấn Độ vẫn còn không bị động
chạm tới.
Khi Ấn Độ trở nên tự do, Trung Quốc tấn công
Tây Tạng, và Pandit Jawaharlal Nehru đã bỏ lỡ. Ông
ấy không phải là nhà ngoại giao, ông ấy là nhà thơ, ông ấy là người hão huyền - một linh hồn vĩ đại,
nhưng không phải là chính khách chút nào. Ông ấy
nghĩ, "Chẳng hề gì với chúng ta cả. Sao chúng ta phải
lo lắng về nó? Nó là chuyện giữa Trung Quốc và Tây
Tạng."
Người Anh sẽ không cho phép điều đó. Đấy
không phải là chuyện giữa Trung Quốc và Tây Tạng
đâu. Về cơ bản nó là giữa Ấn Độ và Trung Quốc -
Tây Tạng chẳng là cái gì cả. Một khi Trung Quốc đã
chiếm được Tây Tạng, thì tất nhiên, bước tiếp nhất
định là Ấn Độ.
Nếu, thay vì là Pandit Jawaharlal Nehru, Indira
mà ở chỗ đó, thì bà ấy đã không cho phép điều đó rồi.
Bà ấy gắn với đất nhiều hơn, ít hão huyền hơn, ít nhà
thơ hơn. Bà ấy sẽ đánh nhau ở đó, ở Tây Tạng. Nhưng
Jawaharlal nghĩ, "Chẳng có ích gì cả. Cứ để cho họ
quyết định." Một khi Tây Tạng đã bị chiếm, tất nhiên
Ấn Độ trở thành mong manh - bước tiếp là Ấn Độ. Và
Trung Quốc đã tấn công Ấn Độ. Điều đó là tự nhiên,
nó đơn giản là ngoại giao.
Cái khăn của tôi là trái đệm của tôi. Tôi biết điều
đó rõ lắm, rằng một khi tôi bỏ nó đi thì bạn sẽ hỏi về
áo choàng. Cho nên tốt hơn cả là tôi lấy lại chiếc
khăn. Vivek, đem chiếc khăn lại... bởi vì tốt hơn cả là
giữ lấy nó, nó là an toàn, nó là Tây Tạng của tôi.
Chuyện cười này đã trải ra quá xa - ba ngày đã
trôi qua rồi - và chuyện cười không nên bị kéo ra quá
xa, bằng không nó thành nguy hiểm.
Maneesha, bạn thoả mãn chứ...?


Câu hỏi thứ nhất:
Chúng tôi đã học được từ thầy rằng tự do nằm ở
siêu việt lên trên tâm trí, và chính tri thức và hiểu biết
về tâm trí đem lại siêu việt lên trên nó. Phần lớn các
tôn giáo đều nhằm tới tâm trí, và tâm lí học cũng vậy.
Khi tâm lí học hiện đại đã khám phá thành công
và làm lộ ra cấu trúc và quá trình của tâm trí, thầy có
gọi nó là tôn giáo không? Hay một nhánh của tôn
giáo? Hay tôn giáo song song? Tâm lí học và tôn giáo
khác nhau thế nào? Xin thầy vui lòng chỉ ra liệu tâm
lí học và tôn giáo có thể có ích cho nhau không?

Tôn giáo hiểu tâm trí theo cách hoàn toàn khác
với tâm lí học. Cách tiếp cận của chúng khác nhau;
mục tiêu của chúng khác nhau; phương pháp luận của
chúng khác nhau.
Tâm lí học nghiên cứu tâm trí như một đối tượng,
từ bên ngoài. Tất nhiên, nó bỏ lỡ nhiều. Trong thực tế,
điều bản chất nhất bị bỏ lỡ. Chỉ cái ngoại vi mới có
thể được hiểu theo cách đó. Cái bên trong nhất không
phải là khách quan, cái bên trong nhất là chủ quan.
Bạn có thể nghiên cứu nó từ bên trong, không từ bên
ngoài.
Tâm lí học là giống như ai đó muốn nghiên cứu
tình yêu và quan sát hai người yêu nhau ôm nhau,
cầm tay nhau, ngồi với nhau, làm tình - cứ thu thập dữ
liệu về cách hai người yêu nhau cư xử. Điều này sẽ
không cho người đó bất kì ý tưởng nào về tình yêu là
gì, bởi vì tình yêu không phải là trên bề mặt. Bề mặt
có thể rất lừa dối, dáng vẻ có thể rất lừa dối. Tình yêu
là cái gì đó rất bên trong. Chỉ trong tình yêu bạn mới
biết nó - không có cách khác để biết nó.
Tâm lí học cố gắng hiểu tâm trí từ bên ngoài.
Chính cách tiếp cận đó làm cho tâm trí thành vật chất.
Chỉ vật chất mới có thể được hiểu từ bên ngoài, bởi vì
vật chất không có cái bên trong của nó. Tâm trí chỉ có
thể được hiểu từ bên trong, bởi vì tâm trí không có
bên ngoài của nó - điều thứ nhất.
Đó là lí do tại sao tâm lí học cứ ngày càng mang
tính hành vi hơn, ngày càng mang tính vật chất hơn,
ngày càng mang tính máy móc hơn - và ngày càng
hoài nghi hơn về linh hồn của con người. Linh hồn
hoàn toàn bị tâm lí học phủ nhận. Không phải là linh hồn không tồn tại, nhưng bởi vì chính cách tiếp cận
này cấm đoán điều đó, chính cách tiếp cận này trở
thành giới hạn. Kết luận phụ thuộc vào cách tiếp cận.
Nếu bạn bắt đầu sai, thì bạn kết thúc sai.
Điều thứ hai cần hiểu là ở chỗ tâm lí học cố gắng
hiểu tâm trí, không vượt ra ngoài nó - bởi vì tâm lí
học nghĩ không có việc vượt ra ngoài nó, nó là chỗ
cuối cùng. Tôn giáo cũng cố gắng hiểu tâm trí - không
hiểu bản thân tâm trí, mà đi vượt ra ngoài nó. Việc
hiểu là để được dùng như bàn đạp.
Cho nên tôn giáo không bận tâm về các chi tiết
của tâm trí. Hiểu biết bản chất vận hành của tâm trí sẽ
có tác dụng. Nếu bạn đi vào chi tiết thì không có chỗ
cuối cùng cho nó. Tôn giáo cũng nghiên cứu giấc mơ,
nhưng chỉ để làm bạn thức tỉnh, có thế thôi. Bản thân
giấc mơ không phải là mối quan tâm. Tôn giáo không
đi sâu vào trong cấu trúc của việc mơ, và nó không đi
vào phân tích vô hạn các giấc mơ. Nó chỉ cố gắng tìm
ra cấu trúc bản chất của giấc mơ để siêu việt lên trên
giấc mơ, để cho bạn có thể trở thành nhân chứng.
Điều đó hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, nếu tôi đưa cho bạn một hạt mầm của
một cây đẹp, và bạn trở nên quá bận tâm với hạt mầm
này, và bạn cố gắng hiểu nó, và bạn mổ xẻ nó ra, và
bạn cứ tiếp tục và cố gắng hiểu và mổ xẻ, và mổ xẻ
nữa - cấu trúc hoá học, cấu trúc vật lí, cấu trúc nguyên
tử, điện tử, nơ trôn - và bạn cứ tiếp diễn thế, thì bạn
quên hoàn toàn rằng hạt mầm được ngụ ý chỉ để trở
thành cây.
Và dù việc mổ xẻ của bạn có sâu sắc bao nhiêu,
bằng việc mổ xẻ hạt mầm bạn chẳng bao giờ đi tới
cây được. Bạn sẽ đi tới cấu trúc nguyên tử của hạt
mầm, bạn sẽ đi tới cấu trúc hoá học của hạt mầm; bạn
có thể đi tới cấu trúc điện của hạt mầm, nhưng điều
đó chẳng liên quan gì tới cây cả. Và bạn càng mổ xẻ
hạt mầm bạn càng đi xa hơn khỏi cây. Việc mổ xẻ của
bạn không đi tới việc nở hoa. Việc mổ xẻ của bạn
không đi tới sự lan toả hương thơm của cây. Và một
ngày nào đó, nếu bạn đã mổ xẻ nó quá nhiều, và thế
rồi bạn đặt nó vào trong đất, nó sẽ không mọc lên
nữa. Nó đã chết. Trong việc mổ xẻ bạn đã giết chết
nó, bạn đã sát hại nó.
Tâm lí học quan tâm tới tâm trí cũng giống như
bạn quá bị ám ảnh với hạt mầm. Tôn giáo cũng quan
tâm tới hạt mầm, nhưng không chỉ hạt mầm - nó quan
tâm tới hạt mầm bởi vì hạt mầm mang trong nó một
tiềm năng, một khả năng trở thành cái cây đẹp, khả
năng của nở hoa, khả năng của hương thơm, khả năng
của bài ca và điệu vũ, khả năng nhiều chim chóc có
thể tới làm tổ trên nó và nhiều lữ khách có thể nghỉ
dưới bóng nó. Nhưng mối quan tâm không phải là hạt
mầm - mối quan tâm là cây.
Tôi hi vọng bạn có thể thấy khác biệt này. Mối
quan tâm của tôn giáo về tâm trí chỉ như chiếc bàn
đạp. Tâm trí phải được hiểu bởi vì chúng ta bị vướng
trong nó. Chúng ta lấy một ví dụ khác.
Bạn bị tống vào trại giam, vào nhà tù. Người tôn
giáo cố gắng hiểu cấu trúc của trại giam chỉ để tìm ra
cách thoát khỏi nó. Có cống nào có thể được dùng để
trốn ra không? Có lính gác ngu ngốc nào có thể bị
đánh lừa không? Có cửa sổ nào có thể bị phá vỡ ra
không? Có bức tường nào có thể trèo qua được không? Có đúng khoảnh khắc đổi gác nào và có
khoảng chểnh mảng nào không? Có đúng khoảnh
khắc nào trong đêm mà lính gác ngủ không? Hay có
tù nhân nào khác cũng quan tâm tới việc thoát tù, để
cho bạn có thể cùng nhau và giúp lẫn nhau không? -
bởi vì việc một mình trèo tường có thể là khó. Một
nhóm có thể được tạo ra và nhóm này có thể trở thành
sức mạnh. Bạn cố gắng hiểu cấu trúc của trại giam chỉ
để thoát ra khỏi nó.
Nhưng nếu bạn quá quan tâm tới nó và bạn quên
mất hoàn toàn mục tiêu, và bạn cứ nghiên cứu trại
giam - các bức tường và người coi ngục và các tù
nhân và lính gác, và bạn cứ làm các bản đồ về cấu
trúc - thế thì điều đó là ngu xuẩn. Tâm lí học hiện đại
có chút ít ngu xuẩn.
Tại phương Đông chúng ta cũng đã phát triển một
tâm lí học cực kì có ý nghĩa. Tôi gọi nó là tâm lí học
của chư Phật. Nhưng toàn bộ mối quan tâm của họ là
ở cách thoát ra khỏi nhà tù của tâm trí, cách dùng cấu
trúc của nó để vượt ra ngoài nó. Tâm lí hiện đại hoàn
toàn bị ám ảnh với cấu trúc của tâm trí và đã quên
hoàn toàn mục đích.
Hai khác biệt này, chúng là rất cốt yếu. Tôn giáo
hiểu từ bên trong. Tất nhiên, thế thì nó là một điều
hoàn toàn khác. Khi bạn nghiên cứu tâm trí từ bên
ngoài, bạn nghiên cứu tâm trí của ai đó khác. Nó chưa
bao giờ là của bạn cả. Và nếu bạn đi tới phòng thí
nghiệm của nhà tâm lí học thì bạn sẽ ngạc nhiên: họ
cứ nghiên cứu về tâm trí của chuột để hiểu tâm trí
người. Điều đó thật đáng xấu hổ, điều đó là rất bất
kính. Hiểu biết dựa trên cơ sở tâm trí của chuột không
thể có ích gì nhiều.
Khi một thiền nhân quan sát tâm trí của riêng
mình, người đó quan sát tâm trí con người sống động,
rộn ràng, đang đập. Và người đó quan sát tâm trí của
riêng mình bởi vì đó là cái gần gũi nhất mà bạn có thể
đạt tới tâm trí. Từ bên ngoài bạn chẳng bao giờ có thể
đạt tới rất gần tâm trí; từ bên ngoài bạn có thể suy
diễn, nhưng điều đó sẽ vẫn còn là suy diễn. Nó không
bao giờ có thể trở thành tri thức được, bởi vì ngay cả
chuột cũng có thể lừa bạn, và người ta đã thấy chúng
lừa rồi. Ngay cả chuột cũng không chỉ trên bề mặt;
cốt lõi bên trong nhất của chúng vẫn còn không thâm
nhập vào được.
Tại sao các nhà tâm lí học lại cứ nghiên cứu
chuột? Sao không nghiên cứu trực tiếp con người đi?
Bởi vì con người dường như phức tạp thế. Họ nghiên
cứu các cấu trúc sơ cấp. Cứ dường như là bạn muốn
nghiên cứu Einstein và bạn tới trường tiểu học và bạn
nghiên cứu trẻ nhỏ; và từ hiểu biết đó bạn sẽ xây dựng
hiểu biết về Einstein. Điều đó đơn giản là ngớ ngẩn.
Điều đó không đúng chút nào, hướng này là sai. Mọi
đứa trẻ sẽ không trở thành một Einstein. Nếu mà các
nhà tâm lí học đúng, thế thì mọi đứa trẻ sẽ phát triển
thành một Einstein. Nhưng mọi đứa trẻ sẽ không trở
thành một Einstein. Chỉ một đứa trẻ chắc chắn đã nở
hoa thành Einstein. Nếu bạn muốn hiểu Einstein, cách
duy nhất là hiểu Einstein.
Nhưng làm sao mà hiểu Einstein được? Từ bên
ngoài ông ấy là người bình thường như bất kì người
nào khác. Khác biệt của ông ấy là ở bên trong, tính duy nhất của ông ấy là ở bên trong. Nếu bạn nghiên
cứu máu ông ấy, máu ông ấy cũng giống như máu của
bất kì ai khác. Nếu bạn nghiên cứu xương của ông ấy,
chúng cũng giống như xương của bất kì ai khác.
Trong thực tế, não của Einstein đã được nghiên cứu
sau cái chết của ông ấy - chẳng có gì đặc biệt cả. Đó
là điều gì đó cần được chú ý. Người ta đã không tìm
ra điều gì đặc biệt cả, nhưng chắc chắn ông ấy là một
con người duy nhất, bạn không thể phủ nhận điều đó.
Có thể chưa từng có một tâm trí tinh tế thế trên trái
đất trước đây. Chưa ai đã từng có thoáng nhìn như
ông ấy có, nhưng bộ não thì dường như bình thường
như não mọi người khác vậy.
Não không phải là tâm trí. Cũng dường như một
hôm nào đó tôi đã đi và bạn vào phòng tôi và bạn
nghiên cứu cái phòng; và bạn cố gắng tìm ra xem
người đã sống trong căn phòng này thuộc kiểu người
gì, loại người gì. Tâm trí là vị khách, bộ não là người
chủ. Khi tâm trí đã đi, bộ não bị bỏ lại. Bộ não chỉ là
căn phòng bạn vẫn sống trong đó. Nếu bạn nghiên
cứu từ bên ngoài, bạn có thể mổ xẻ, nhưng bạn sẽ chỉ
thấy bộ não, không thấy tâm trí. Và nghiên cứu bộ
não không phải là nghiên cứu tâm trí.
Tâm trí là khó nắm bắt, bạn không thể giữ nó
trong tay mình được. Bạn không thể buộc nó vào
trong ống nghiệm. Cách duy nhất để biết nó là biết nó
từ bên trong, từ quan sát cái ngã của bạn. Bạn càng
trở nên nhận biết, bạn càng có thể quan sát tâm trí
mình nhiều hơn - vận hành tinh tế của nó. Vận hành
này cực kì phức tạp và đẹp. Tâm trí là hiện tượng
phức tạp nhất trên trái đất, việc nở hoa tinh tế nhất
của tâm thức. Nếu bạn muốn thực sự hiểu tâm trí là
gì, bạn sẽ phải tách bản thân mình ra khỏi tâm trí, và
bạn sẽ phải học cách chỉ là nhân chứng. Đó là điều
thiền tất cả là gì.
Tâm lí học có thể trở nên có ích cho tôn giáo,
nhưng thế thì tâm lí học sẽ phải thay đổi cực kì nhiều.
Thay đổi triệt để sẽ là cần thiết. Và tâm lí học sẽ phải
trở nên ngày một mang tính thiền hơn, hướng nội hơn;
và tâm lí học sẽ phải lắng nghe nhiều về phương
Đông, lắng nghe những thiền nhân vĩ đại - Patanjali,
Phật, Mahavira. Nó sẽ phải lắng nghe hiểu biết của
họ.
Một điều nữa tôi muốn bạn lưu ý, nhớ đinh ninh
trong đầu: tâm lí học đã phát triển qua nghiên cứu tâm
trí bệnh hoạn. Điều đó nữa cũng là cái gì đó không thể
nào tin nổi, lố bịch. Tâm lí học đã phát triển qua việc
nghiên cứu về người loạn thần kinh, người bệnh tinh
thần, người tinh thần phân liệt - tâm trí ốm bệnh. Bởi
vì ai đến nhà phân tâm? Người lành mạnh chẳng bao
giờ tới nhà phân tâm cả. Nếu bạn mạnh khoẻ, tới nhà
phân tâm để làm gì? Bạn chỉ tới khi cái gì đó đi sai,
bạn chỉ tới khi bệnh tật nào đó choán lấy tâm trí bạn.
Khi bạn không bình thường, thế thì bạn tới nhà phân
tâm. Thế rồi ông ta nghiên cứu cái tâm trí bệnh hoạn
này. Bằng việc nghiên cứu tâm trí bệnh hoạn đó ông
ta đi tới những kết luận nào đó. Những kết luận này
chỉ áp dụng được cho tâm trí ốm yếu. Chúng không
áp dụng được cho tâm trí bình thường, và chắc chắn
không áp dụng cho tâm trí đã vượt ra ngoài tâm trí.
Họ không nói gì về vị phật cả. Họ không thể nói
được. Cả Freud, lẫn Jung, lẫn Adler đều chưa bao giờ
nghiên cứu về vị phật. Trong thực tế, lỗi là ở nhà phân
tâm, vì chư phật bao giờ cũng tồn tại. 

Khi Carl Gustav Jung tới phương Đông, đã có vị
phật sống - Raman Maharshi - nhưng ông ấy lại
không tới gặp ông này. Thậm chí người ta đã gợi ý
cho ông ấy, nhiều người bạn đã gợi ý cho ông ấy,
rằng ông ấy nên đi, nhưng ông ấy lại không đi. Có thể
một nỗi sợ hãi tinh vi rằng tri thức của ông ấy sẽ tỏ ra
vô tích sự ở đó, một bản ngã nào đó rằng ông ấy là
nhà phân tâm lớn - sao ông ấy phải đi tới người nào?
Nhưng chư phật chắc chắn không tới phòng thí
nghiệm của bạn, bạn sẽ phải tới họ. Bạn sẽ phải lại
gần họ một cách kính trọng để hiểu họ. Họ không
định tới nằm trên tràng kỉ nhà bạn. Bạn sẽ phải phát
triển những phương pháp khác, bạn sẽ phải phát triển
những cấu trúc khác, để hiểu họ. Và nếu bạn không
tới, họ cũng không lúng túng - tâm lí học chịu thiệt.
Tâm lí học vẫn còn ở mức bệnh hoạn. Nó thậm
chí chưa ở mức con người bình thường.
Chẳng hạn, nếu bạn hỏi nhà phân tâm, "Ông nói
gì về Mahavira - bởi vì ông ấy đã vứt quần áo đi và
trở thành trần trụi?" thì chắc chắn họ sẽ nói, "Ông ấy
là một kiểu bệnh tinh thần nào đó. Nhiều người điên
cũng chịu cùng chứng đó." Hay, "Ông ấy là kẻ thích
phô trương, ông ấy muốn trưng bầy thân thể trần
truồng của mình cho mọi người - một kẻ trái thói
dục."
Điều đó có đúng với Mahavira không? Và bất kì
điều gì họ nói, họ đều nói sau nghiên cứu lâu dài -
nhưng họ đã nghiên cứu người điên. Và họ đúng! Cái
sai tới chỉ bởi vì họ kéo căng hiểu biết của mình quá
xá. Mahavira hay dứt tóc, ông ấy sẽ không tới thợ cạo
- bởi vì ông ấy nói, "Thậm chí phụ thuộc vào thợ cạo
cũng là phụ thuộc." Cho nên khi tóc quá dài thì ông
ấy chỉ dứt chúng và vứt đi.
Bây giờ bạn đến hỏi nhà phân tâm xem ông ấy nói
gì. Ông ấy sẽ nói, "Đây là một loại điên khùng. Có
những người điên cứ dứt tóc mình ra." Bạn có thể
cũng đã quan sát rằng khi vợ bạn phát điên, cô ấy bắt
đầu dứt tóc - trở nên giận dữ và muốn bứt tóc mình ra.
Sự gàn dở nào đó - và họ cũng phải! Vậy mà lại
không phải. Hiểu biết của họ vẫn còn ở mức bệnh
hoạn.
Hỏi họ về Jesus xem. Nhiều sách đã được viết ra
về Jesus bởi vì Jesus dường như gần với họ hơn là
Mahavira. Họ đã quên lãng Mahavira rồi, và điều tốt
cho người Jaina là họ đã quên lãng Mahavira - bằng
không họ sẽ chứng minh một cách chắc chắn rằng ông
ấy bị bệnh thần kinh. Về Jesus họ đã viết nhiều sách -
rằng ông ấy điên, rằng ông ấy mắc chứng hoang
tưởng. Sao họ nói điều này? Bởi vì có những trường
hợp trong nhà thương điên - ai đó nói, "Ta là nhà tiên
tri duy nhất của Thượng đế."
Bạn đã nghe giai thoại nổi tiếng này chưa? Tại
Baghdad chuyện xảy ra:
Một người tuyên bố, vào thời của Caliph Omar,
"Ta là nhà tiên tri thực. Sau Mohammed ta đã được
phái tới thế giới này." Tất nhiên những người Mô ha
mét giáo không thể dung thứ được điều như vậy - ít
nhất những người Mô ha mét giáo không dung thứ.
Nếu như anh ta mà ở Ấn Độ thì anh ta đã được dung
thứ, nhưng Omar không thể dung thứ cho điều đó.
Anh ta bị tống vào ngục. 

Nhưng sau bẩy hay tám ngày một người nữa lại
tuyên bố rằng mình là chính Thượng đế. Bây giờ điều
này đi quá xa. Người đó cũng bị tống vào ngục.
Sau vài ngày Omar tới nhà ngục để xem họ bởi vì
cả hai đều bị đánh đập tàn tệ, bị trừng phạt thậm tệ.
Ông ta nghĩ, "Bây giờ họ chắc phải quay về với ý
thức của mình." Ông ta tới và hỏi người đã tự công bố
mình là nhà tiên tri mới - và anh chàng này cười phá
lên! Toàn thân anh ta đầy những vết thương, máu còn
chảy ra từ những vết thương đó, nhưng anh ta vẫn
cười to. Omar nói, "Sao mi lại cười?"
Anh ta nói, "Khi Thượng đế bảo ta, 'Con sẽ là nhà
tiên tri cuối cùng của ta, nhà tiên tri cuối cùng,' thì
ông ấy cũng bảo ta rằng 'Họ sẽ đối xử với con tàn tệ -
họ bao giờ cũng đối xử với các nhà tiên tri rất tàn tệ.'
và bây giờ lời tiên đoán đó đã đúng. Cho nên ta cười -
điều đó đơn giản chứng minh rằng ta là nhà tiên tri!"
Trong khi cuộc đối thoại này diễn ra, thì người
kia đang bị trói vào một cái cột khác, bắt đầu cười
thậm chí còn to hơn. Omar hỏi, "Có chuyện gì với
mi?"
Anh ta nói, "Tên kia là kẻ dối trá. Ta chưa bao giờ
phái hắn ta tới. Trong thực tế, sau Mohammed ta đã
không chỉ định bất kì nhà tiên tri nào cho thế giới nữa.
Mohammed là nhà tiên tri cuối cùng của ta!"
Bạn có thể thấy nhiều người trong nhà thương
điên, và hiểu biết của các nhà phân tâm tuỳ thuộc vào
họ. Và khi Jesus tuyên bố rằng "Ta là đứa con duy
nhất của Thượng đế!" thì tất nhiên là ông ấy điên.
Chắc chắn! - bởi vì có những người điên tuyên bố
những điều như vậy. Ông ấy cũng điên.
Khi Krishna tuyên bố rằng "Ta là Đấng sáng tạo
và là kẻ phá huỷ thế giới này!" chắc chắn ông ấy điên.
Đây là điều tối thượng trong việc là một kẻ bản ngã.
Làm sao bạn có thể mang tính bản ngã hơn điều này:
"Ta là Đấng sáng tạo và là kẻ phá huỷ thế giới này?
Còn Phật nói, "Ta đã đạt tới điều Tối thượng, và
ngay cả các thần cũng tới dưới chân ta để xin hướng
dẫn của ta." Bây giờ đây là những người điên!
Phân tâm học vẫn còn ở mức bệnh hoạn. Nó vẫn
chưa từng biết tới tâm trí con người bình thường, và
nó thậm chí cũng chẳng động chạm tới tâm trí phi
thường. Nhưng chẳng chóng thì chầy, cuộc cách
mạng vĩ đại đang sắp xảy ra, bởi vì nếu tâm lí học
không tự nó thay đổi, thế thì nó sẽ đi vào đường mòn,
thế thì nó sẽ thành cũ rích và chết. Nó phải chuyển
động. Mọi thứ sống đều phải tiến lên trước. Và tôi có
thể nói về tâm lí học về điều như vậy: nó rất nhiều
sống động và có hi vọng. Nhiều công trình đang diễn
ra, và dần dần các nhà phân tâm, các nhà tâm lí, các
nhà tâm thần đang trở nên ngày một quan tâm tới
thiền.
Bạn sẽ ngạc nhiên. Tôi đã nhận đủ loại người ở
đây. Từ những nghề nghiệp khác nhau mọi người đã
tới, nhưng phần lớn các sannyasin đã tới từ nghề tâm
lí, phân tâm. Tôi đã nhận hàng trăm nhà trị liệu tâm lí
làm sannyasin của mình. Điều này là rất có ý nghĩa.
Không mấy bác sĩ đã tới, không mấy kĩ sư đã tới,
không mấy chủ ngân hàng đã tới, không mấy chính khách đã tới. Số lớn nhất tới từ một nghề là số người
làm trị liệu tâm lí.
Đó là một chỉ báo lớn. Điều đó chỉ ra tâm lí học
đang vượt ra ngoài chính nó, tâm lí học đang dần dần
đi vào tôn giáo. Chẳng chóng thì chầy, tâm lí học sẽ
trở thành nền tảng rất vững chãi cho bước nhảy tôn
giáo. Và chừng nào nó còn chưa trở thành nền tảng
vững chãi cho bước nhảy tôn giáo, nó sẽ không có ý
nghĩa gì. Nó sẽ có ý nghĩa chỉ khi nó trở thành bậc
thang đi vào ngôi đền của Thượng đế.
Nhưng khi tôi nói "khi nó trở thành bậc thang
hướng tới tôn giáo," tôi chỉ ngụ ý tôn giáo thôi. Tôi
không ngụ ý Hindu giáo, Ki tô giáo, Do Thái giáo;
Mô ha mét giáo, Jaina giáo, Phật giáo. Tôi không ngụ
ý điều đó. Đấy không phải là tôn giáo thật, họ đã trở
thành chính trị. Họ là những tổ chức chính trị.
Tôn giáo mang rất nhiều tính cá nhân. Tôn giáo
về cơ bản là cá nhân. Nó là biến chuyển của tâm thức
cá nhân; nó chẳng liên quan gì tới các tổ chức cả. Bạn
là người Mô ha mét giáo hay Hindu giáo hay Ki tô
giáo bởi vì bạn được sinh ra trong tổ chức đó. Không
ai có thể được sinh ra trong tôn giáo. Tôn giáo phải
được chọn lựa một cách có ý thức. Trong chính chọn
lựa có ý thức đó nó trở thành có ý nghĩa; bằng không
nó là vô nghĩa.
Bạn đã được nuôi lớn lên như người Ki tô giáo.
Bạn không thể có bất kì mối quan hệ cá nhân nào với
Christ. Bạn không biết Christ. Bạn chỉ biết Giáo
hoàng và Nhà thờ. Mà Giáo hoàng và Nhà thờ, và các
tu sĩ, và các shankaracharyas - họ không phải là
những người tôn giáo. Họ có chính trị rất tinh tế ẩn
đằng sau mình - nòi giống, quốc gia, giáo phái. Và
một khi tôn giáo trở thành tổ chức và mọi người bắt
đầu được sinh ra trong nó mà không có bất kì tiếp xúc
cá nhân nào, không có bất kì gặp gỡ cá nhân nào với
thầy - khi mọi người chỉ được sinh ra trong nó, khi
tôn giáo trở thành sự ngẫu nhiên, thì nó không còn là
tôn giáo nữa. Thế thì nó trở thành một loại thuốc
phiện cho mọi người, một sự khai thác.
Cho nên tôi không ngụ ý người Do Thái, Hindu,
Ki tô giáo. Tôi chỉ ngụ ý tôn giáo. Tôn giáo không có
tính từ cho nó.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại. Nghe nó thật
chăm chú vào.
Sigmund Steinberg, nhà nhập khẩu nổi tiếng các
loại găng tay phụ nữ, đến thăm theo lời mời bất
thường của ông giáo sĩ của ngôi đền của mình. Ông
giáo sĩ này quá hài lòng khi gặp một giáo dân giầu
không thể tưởng được, người thường đóng góp nhiều
hơn cả điều ông ấy thiếu trong chờ đợi và nhiệt tâm
tôn giáo. Tuy nhiên lần này chuyến thăm ngôi đền là
do một lí do hoàn toàn tôn giáo, nếu không nói là bất
thường hơn.
"Ông giáo sĩ," Steinberg mở đầu sau thái độ nhã
nhặn thông thường, "Tôi tới đây để gặp ông về một
nhân vật gần gũi và thương mến nhất với tôi. Con chó
của tôi, con chó yêu quí của tôi, ba lần vô địch Tu
viện Westminster Abbey đệ Tam, con chó xù nhỏ của
tôi, lần này tới tuổi thứ mười ba Tisha Bov, và tôi
muốn, thưa ông giáo sĩ, ông nên làm lễ Bar Mitzvah
cho nó. 

Viên giáo sĩ hoàn toàn ngạc nhiên. "Nhưng ông
Steinberg thân mến của tôi, điều đó là không thể
được! Ai đã bao giờ nghe nói tới chuyện một con chó
lại được làm lễ Bar Mitzvahed đâu? Chưa bao giờ có
việc nhắc nhở gì tới việc như vậy trong lịch sử của Do
Thái giáo. Đấy sẽ là một vụ tai tiếng lớn. Ngôi đền
này sẽ thành cái kho đàm tiếu. Chức phẩm của tôi sẽ
bị thu hồi, tổ chức tôn giáo phụ nữ sẽ bị bỏ bê, chiến
dịch xây dựng sẽ bị đình lại, người không theo Do
Thái giáo sẽ cuồng loạn, và ban cha đạo sẽ cắt cổ tôi!"
Steinberg vẫn không chuyển. Không quá một
nháy mắt, ông ta lại nói với ông giáo sĩ. "Với cơ hội
này, tôi sẽ cúng cho đền số tiền - tiền mặt! - là năm
nghìn đô la."
"Ông Steinberg ơi," viên giáo sĩ rạng rỡ cả lên,
"sao ông không bảo tôi ngay từ đầu rằng con chó là
người Do Thái?"
Khi động đến tiền thì thậm chí cả chó cũng trở
thành người Do Thái. Khi động tới tiền bạc và chính
trị thì các giáo hoàng của bạn và các shankaracharyas
cũng không còn mang tính tôn giáo nữa. Tôn giáo của
họ chỉ bao gồm thánh lễ, thánh lễ chết. Nó là cái mẽ
ngoài, nó không phải là thực tại. Người tôn giáo thực
bao giờ cũng thấy khó tồn tại được trong bất kì tổ
chức nào.
Jesus đã được sinh ra là người Do Thái nhưng
không thể vẫn còn trong đám Do Thái được. Điều đó
là không thể được. Các tu sĩ sẽ không cho phép ông
ấy. Ông ấy rơi ra khỏi nó. Không chỉ thế, họ đã giết
ông ấy. Phật đã được sinh ra là một người Hindu,
nhưng người Hindu sẽ không cho phép ông ấy, các tu
sĩ sẽ không cho phép ông ấy - bởi vì bất kì khi nào có
một người tôn giáo, thì ông ấy là một cuộc cách mạng
sống đến thế, ông ấy là hiện thân nổi dậy. Các tu sĩ sẽ
không cho phép ông ấy. Ông ấy đã bị tống ra khỏi
nhóm Hindu. Phật giáo đã bị phá huỷ ở Ấn Độ.
Người Do Thái đã giết chết Christ, người Hindu
đã giết chết Phật giáo - điều còn tinh tế hơn và tinh
ranh hơn. Bằng việc giết chết Christ, chẳng cái gì bị
giết cả. Người Hindu tinh ranh hơn. Họ chẳng bao giờ
giết Phật. Nếu mà họ giết Phật thì đã rất khó phá huỷ
Phật giáo ở Ấn Độ. Bạn có thể thấy: Ki tô giáo có đó,
và Ki tô giáo đã nở hoa từ việc đóng đinh. Không có
cây thập tự thì đã không có Ki tô giáo nào. Bằng việc
đóng đinh Jesus, họ đã làm cho Jesus thành quan
trọng thế, mang tính lịch sử thế.
Người Hindu láu lỉnh và tinh ranh hơn, rất láu
lỉnh. Họ nói Phật là avatar thứ mười, nhưng họ làm
điều đó theo cách rất láu lỉnh. Họ có câu chuyện trong
các puranas của mình rằng khi Thượng đế tạo ra địa
ngục và cõi trời, hàng triệu năm đã trôi qua rồi. Và thế
rồi quỉ tới Thượng đế và nói, "Tâu Thượng đế, sao
ngài tạo ra địa ngục? - bởi vì chẳng ai tới đó cả. Nó
vẫn trống rỗng. Không linh hồn nào tới cả; mọi người
mang tính tôn giáo đến mức mọi người chết đều lên
cõi trời hết. Cho nên phỏng có ích gì mà giữ nó? Thả
tôi ra đi, tôi phát ngán và chán chết ở đấy!"
Thượng đế nói, "Đợi đấy, ta sẽ làm điều gì đó."
Và ông ấy lấy dạng hoá thân avatar; ông ấy giáng
xuống trái đất và trở thành Phật để phá huỷ tôn giáo
của mọi người, phá huỷ tính lương thiện của mọi người, phá huỷ chân lí của mọi người. Để làm lẫn lộn
họ, ông ấy đã trở thành Phật. Và từ đó địa ngục thành
tràn ngập.
Bây giờ điều này là rất thủ đoạn! Một mặt họ
chấp nhận rằng Phật là một avatar - một hoá thân của
Thượng đế. Mặt khác họ nói, "Cẩn thận về ông ấy,
bởi vì ông ấy đã tới chỉ vì Quỉ đã thỉnh cầu. Cho nên
nếu bạn nghe ông ấy thì bạn sẽ xuống địa ngục. Tất
nhiên, ông ấy là Thượng đế."
Bạn thấy cái tinh ranh đó không? Ngay cả người
Do Thái cũng phải thua người Hindu. Họ nâng Phật
lên thành avatar thứ mười và họ phá huỷ Phật giáo
hoàn toàn.
Điều này bao giờ cũng xảy ra. Điều này bao giờ
cũng sẽ xảy ra. Cố hiểu nó đi. Sinh ra trong một gia
đình, trong một tôn giáo nào đó là điều ngẫu nhiên.
Bạn phải chọn, bạn phải đi tới tôn giáo riêng của
mình! Đấy là cuộc hành trình gian nan, đấy là thách
thức và phiêu lưu lớn, và có rủi ro lớn.
Câu hỏi thứ hai:
Nếu tôi là Thượng đế, làm sao tôi tới đánh thức
mọi người vào buổi sáng để tìm ra chính mình
trong thân thể này?
Với Thượng đế mọi điều đều có thể.
Câu hỏi thứ ba:
Ôi, thầy kính yêu, đêm qua tôi mơ thấy hàng
nghìn con voi da cam tất cả đều đeo malas hình
vua voi trắng của chúng. Điều này nghĩa là gì?
Điều này đơn giản chỉ ra rằng không chỉ con
người mà cả voi cũng có thể phát điên.
Câu hỏi thứ tư:
Sau mỗi bài nói của thầy về Hasid giáo, tôi còn
lại với sự linh động và cảm thấy cuộc sống là vở
kịch được sống tràn đầy và tận hưởng. Vậy mà
khi thầy nói về Phật, tôi lại thấy thất vọng và
mọi sự dường như vô ích. Phật có bao giờ cười
không?
Ông ấy có cười chứ, nhưng không bao giờ trước
các đệ tử cả. Ông ấy cười khi ông ấy một mình. 

Nghe tôi nói về Hasid giáo mới là một nửa của vở
kịch. Và chừng nào bạn còn chưa thể đi cùng tiếng
cười trong khi nghe tôi nói về Phật, tiếng cười của
bạn còn chưa thật sâu sắc lắm đâu. Nghe tôi nói về
Hasid giáo, tất nhiên bạn cười và tận hưởng và bạn
nghĩ cuộc sống là vở kịch. Ngay lập tức tôi đã chọn
Phật. Có toán học cho điều đó. Nó là biện chứng. Tôi
chưa bao giờ chọn một cách ngẫu nhiên.
Mọi sự thành quá dịu ngọt với Hasid giáo. Bạn
cần một chút ít thuốc đắng nữa. Đấy đã là ngày với
Hasid giáo, bây giờ là đêm. Với Phật đấy là đêm.
Nhưng chừng nào bạn còn chưa thể tận hưởng cả đêm
nữa, việc tận hưởng ngày vẫn chưa đầy đủ. Chừng
nào bạn chưa thể hạnh phúc cho dù thấy cái vô tích sự
của cuộc sống, bạn vẫn còn chưa học được leela nghĩa
là gì. Nếu bạn hạnh phúc chỉ khi bạn hạnh phúc, bạn
vẫn chưa học được gì cả. Khi bạn hạnh phúc cho dù
không có hạnh phúc, thế thì bạn đã học được bí mật
của nó.
Bạn có hiểu tôi không? Điều đó là toán học rất
đơn giản. Khi tôi đang ca bài ca cuộc sống, bạn tận
hưởng nó. Nhưng khi tôi bắt đầu hát bài ca buồn về
cái chết, thế thì bạn không thể thích thú nó được. Thế
thì bạn sẽ vẫn còn là bộ phận - thế thì bạn sẽ chọn cái
tốt, cái ngọt, phần sáng. Điều gì sẽ xảy ra cho phần
tối? Thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ biết được cái toàn
thể, và nếu bạn không là cái toàn thể, bạn chẳng bao
giờ có thể là linh thiêng.
Với tôi, đôi khi nó là cuộc sống đang hát và đôi
khi nó là cái chết. Và tôi muốn bạn học cả hai. Tôi
muốn bạn trở nên hạnh phúc, vui đùa đến mức thậm
chí khi có thất vọng, vẫn không có thất vọng. Thậm
chí khi mọi thứ đang trở nên gay go, bạn vẫn có thể
cười; thậm chí khi mọi thứ đang sắp rất nặng nề, bạn
vẫn có thể nhảy múa. Cho nên cố cười cùng với Phật
nữa.
Cười với Hasid là rất dễ dàng, cười với Phật mới
khó. Đấy là nhiệm vụ rất vất vả. Nhưng cười với
Hasid, bất kì ai cũng có thể cười được. Điều đó chẳng
đòi hỏi nỗ lực gì về phần bạn cả; nó không đòi hỏi
trưởng thành về phần bạn. Cười với Phật là trưởng
thành lớn lao, cần chín chắn.
Và cuộc sống bao gồm những cực này: tốt và xấu,
thành công và thất bại, ngày và đêm, mùa hè và mùa
đông, sinh và chết, hôn nhân và li dị, yêu và ghét.
Toàn thể cuộc sống bao gồm những cực đối lập này -
và bạn là cái toàn thể. Bạn không thể chọn một nửa
của nó được. Nếu bạn chọn một nửa của nó bạn sẽ
vẫn còn là một nửa, và nửa kia sẽ vẫn còn bị kìm nén.
Và nửa kia sẽ báo thù ngày này hay ngày khác.
Và nếu bạn không thể thực sự buồn được - buồn rầu
một cách hạnh phúc, tôi nói thế - thế thì hạnh phúc
của bạn không thể đi rất sâu được, bởi vì bạn sẽ trở
nên sợ chiều sâu. Trong chiều sâu, nửa kia đang đợi.
Cho nên hạnh phúc của bạn sẽ nông cạn; bạn sẽ
không cho phép nó đi rất sâu, bởi vì nửa kia đang đợi
ở đó. Bạn biết rằng nếu bạn đi sâu thêm chút nữa, bạn
có thể chạm vào nỗi buồn.
Bạn đã bao giờ quan sát nó chưa? Trong các thôn
làng ở Ấn Độ mẹ hay nói với con là không được phép
cười quá nhiều, bởi vì nếu nó cười quá nhiều thì nó
bắt đầu khóc. Đấy là một sáng suốt lớn. Bạn đã bao giờ quan sát điều đó chưa? Nếu bạn cười quá nhiều,
tiếng cười của bạn có khuynh hướng biến thành nước
mắt.
Mọi hạnh phúc đều có khuynh hướng biến thành
bất hạnh. Tất cả cuộc sống đều mang khuynh hướng
biến thành cái chết. Tuổi thanh niên của bạn mang
khuynh hướng biến thành tuổi già. Mạnh khoẻ mang
khuynh hướng biến thành ốm yếu, bệnh tật. Đây là
cách mọi sự hiện hữu. Và nếu bạn chỉ biết rằng "Mình
sẽ hạnh phúc khi mình hạnh phúc," bạn sẽ làm gì với
bất hạnh của mình mà cũng đang có đó? Nếu bạn nói,
"Mình sẽ hạnh phúc chỉ với hoa hồng," bạn sẽ làm gì
với gai mà bao giờ cũng có đó? và còn hơn cả hoa -
chúng là một phần của trò chơi.
Với Hasid giáo tôi nói về hoa hồng, bây giờ để tôi
nói về gai. Và nếu bạn có thể hiểu được cả hai và vẫn
vui đùa, thế thì bạn biết leela là gì. Leela nghĩa là vui
đùa - vui đùa trong thành công, vui đùa trong thất bại;
vui đùa khi bạn chiến thắng, vui đùa khi bạn chiến
bại.
Câu hỏi thứ năm:
Tôi được chứ?
Bạn không thể được đâu - chắc chắn là không.
Bằng không câu hỏi này đã không nảy sinh. Chính
câu hỏi này nói lên điều gì đó sai ở đâu đó, bằng
không ai bận tâm mà hỏi nó? 'Được chứ' là một cảm
giác mà khi nó có đó thì bạn biết nó. Nó cũng giống
như đau đầu vậy: bạn chưa bao giờ hỏi bất kì ai khác,
"Tôi có bị đau đầu không?" Và nếu bạn hỏi thì họ sẽ
cười. Họ sẽ nói, "Anh có điên không đấy?" Nếu bạn
đau đầu, thì bạn đau đầu, và bạn biết! Nếu bạn không
đau đầu, thì bạn không đau, và bạn biết.
Được chứ là sự lành mạnh bên trong. Một cảm
giác lớn lao, đẹp đẽ nảy sinh trong bản thể bạn, và cứ
lan toả - gợn sóng nọ tiếp gợn sóng kia. Mọi thứ đều
dường như là ánh sáng. Mọi thứ đều dường như vô
trọng lượng. Bạn không bước đi - bạn chạy. Bạn
không chạy - bạn nhảy múa. Bạn cảm thấy dường như
lực hút trái đất không tồn tại. Bạn bắt đầu bay. Bạn đi
vào phúc lạc chưa biết. Bạn cứ trôi giạt, rất an bình,
hướng tới bến bờ của cái không biết. Và mọi thứ
dường như là đẹp đẽ, phúc lành - bạn được ân huệ và
bạn có thể ban ân huệ cho mọi người.
Khi nó có đó, không có vấn đề gì. Khi nó có đó,
bạn không cần có bất kì xác nhận từ bất kì ai. Bạn biết
nó! Nó là hiển nhiên. Và nếu cái được chứ không hiển
nhiên, thế thì chẳng cái gì có thể hiển nhiên cả.
Mulla Nasruddin và vợ anh ta ngồi trên chiếc
thuyền có mái chèo. Cô vợ run người trong chiếc
thuyền trong khi Nasruddin câu cá: "Anh kể nữa cho
em đi," cô ấy kêu lên giữa làn môi xanh, "chúng mình
đã vui cười thế nào - em quên mất rồi."
Chẳng ai có thể quên được nếu có phúc lạc.

Một người mua được chiếc xe đã dùng rồi, và rồi
sau bẩy ngày anh quay lại nơi đã mua xe và hỏi người
bán hàng, "Ông làm ơn kể lại cho tôi về chiếc xe với."
Ông này nói, "Sao vậy?"
Anh ta nói, "Tôi cứ hay quên. Ông đã ca ngợi nó
cao thế, còn nó thì gây cho tôi bao nhiêu rắc rối. Để
động viên tôi, ông kể lại đi. Tôi cần chút ít dũng
cảm."
Sao bạn hỏi, "Tôi được chứ?" Bạn cần động viên
nào đó sao? Nhớ lấy: tôi không phải là người bán xe
đã dùng rồi. Và tôi không định động viên bạn. Nếu
bạn bất hạnh, gợi ý của tôi là: bất hạnh đi - không cần
phải được chứ. Bất hạnh đi. Đi vào trong nó tới chính
tảng đá đáy của nó. Để nó ở đó! Lắng nghe thông điệp
của nó - phải có một thông báo chắc chắn trong bất
hạnh này, bởi vì Thượng đế chưa bao giờ gửi bất kì
cái gì mà không có thông điệp trong nó! Bạn đừng cố
gắng che giấu nó.
Bất hạnh sao? - thế thì cứ bất hạnh đi. Thực sự bất
hạnh - đi tới chính địa ngục của nó. Và nếu bạn có thể
đi mà không có bác bỏ nào về phần mình; không có
bất kì tranh đấu nào về phần mình; nếu bạn có thể chỉ
thảnh thơi và để cho nó xảy ra, bạn sẽ thu được cực kì
nhiều từ nó. Bạn sẽ thấy rằng bất hạnh có đó, nhưng
bạn không bất hạnh - bạn là nhân chứng của nó, bạn
người quan sát. Nó có đó! Chắc chắn nó có đó, nhưng
nó giống như đám mây bao quanh bạn - bạn không
phải là đám mây đó. Và một khi bạn nhận ra điều đó,
bạn đã siêu việt lên rồi. Thế thì một loại được chứ
hoàn toàn khác nảy sinh trong bạn, cái chính là tâm
linh, cái không thể nào bị lấy đi khỏi bạn.
Nhưng mọi người không đi sâu vào bất hạnh của
mình. Đây là điều tôi gọi là sadhana thực: đi vào
trong bất hạnh của mình. Đừng né tránh, đừng chạy
trốn. Mọi người không nhìn vào tâm trạng của mình;
mọi người cố gắng tự lừa dối mình. Mọi người muốn
bằng cách nào đó bao giờ và bao giờ cũng mang nụ
cười. Nhưng bạn có biết không? - thậm chí trên trời,
các thần cũng không hát vào mọi lúc. Có những
khoảnh khắc họ kêu và khóc. Và bạn có thể tin tôi
được - tôi là người mắt thấy. Nhưng chẳng có gì sai
với nước mắt cả. Nước mắt có thể đẹp, nếu bạn đón
chào chúng.
Đi sâu vào bất hạnh của bạn đi; nó sẽ làm lộ ra
nhiều điều cho bạn.
Tôi đã từng nghe:
Một nông dân đang đánh xe ngựa cần mẫn đi trên
con đường bụi bậm. Anh ta tới một người ngồi bên
đường, kéo ngựa dừng và gọi với ra: "Cái đồi này còn
kéo dài bao lâu nữa?"
"Ông không trên đồi đâu," người lạ nói lại. "Bánh
xe sau của ông long ra rồi."
Nhưng mọi người không nhìn sâu vào bản thể
mình. Họ nghĩ họ đang trên đồi - bánh xe sau không
còn đó nữa. Bạn có thể cứ trên con đường phẳng, trên
đường cái và bạn sẽ cảm thấy bạn đang trên đồi, bao
giờ cũng đi lên, và điều đó là khó và càng khó hơn. 

Và tất nhiên, không có bánh xe thì bạn bao giờ cũng
trong rối loạn; con đường sẽ nhọc nhằn.
Đừng hỏi tôi bạn có được hay không. Chính câu
hỏi này quyết định rằng bạn không được đâu. Nhưng
mọi người đều là những người hỏi như vậy; họ cứ hỏi
về mọi điều. Có thể bạn được đấy, nhưng bạn không
thể còn lại mà không có câu hỏi; điều đó nữa cũng là
một khả năng.
Mulla Nasruddin lên núi theo gợi ý của nhà trị
liệu tâm lí, và từ đó anh ta đánh điện lại sau một tuần:
"Tôi cảm thấy sung sướng - tại sao?"
Bây giờ bạn thậm chí không thể cảm thấy sung
sướng mà không hỏi; bây giờ việc phân tích là cần
thiết - tại sao?
Người mẹ tới gặp nhà phân tích và hỏi, "Ông nói
cho tôi biết - Tôi có con gái đang học đại học - nó
không dùng ma tuý - nó không mang thai - nó không
uống rượu - nó được điểm cao nhất trong lớp và nó
viết thư cho tôi hàng ngày - xin ông hãy cho tôi biết -
chỗ chúng tôi đã đi có đúng không?"
Chỗ chúng tôi đã đi có đúng không? Bây giờ điều
đó trở thành vấn đề. Việc hỏi đã trở thành thói quen
bắt rễ sâu đến mức đôi khi chẳng cần chút nào, thế
nữa bạn cứ tạo ra câu hỏi. Bạn không thể cho phép
bản thể mình còn lại mà không câu hỏi nào. Cho phép
điều đó đi! Bởi vì đó là khoảnh khắc câu trả lời sẽ tới
với bạn - khi không có câu hỏi.
Đừng cứ hỏi và hỏi và hỏi mãi. Điều đó là vô
nghĩa. Tôi trả lời bạn chỉ để cho bạn biết cách không
hỏi. Tôi không trả lời bạn để cho bạn trở thành ngày
một hiểu biết hơn. Tôi trả lời bạn chỉ như sự giúp đỡ,
để cho một ngày nào đó bạn có thể còn lại mà không
câu hỏi nào. Chính ngày đó khải lộ lớn lao sẽ mở ra
cánh cửa của nó vào bản thể bạn.
Khi không có câu hỏi nào, câu trả lời nảy sinh từ
chiều sâu bên trong nhất của bạn. Nếu bạn quá bận
tâm với câu hỏi, câu trả lời sẽ không bao giờ nảy sinh
- bạn sẽ không cho phép nó có không gian để nảy
sinh.
Câu hỏi thứ sáu:
Osho kính yêu, lời tục tĩu có bẩn thỉu không?
Điều đó còn tuỳ. Nó tuỳ thuộc vào cái nhìn của
bạn. Chẳng có gì tốt, chẳng có gì xấu cả. Nó tuỳ thuộc
vào diễn giải của bạn, vào cách bạn diễn giải. Nó tuỳ
thuộc vào tâm trí bạn.
Tâm trí bao giờ cũng chia mọi sự ra làm đôi - tốt/
xấu, sạch/bẩn, Thượng đế/quỉ. Tâm trí liên tục phân
chia. Tâm trí là kẻ phân chia. Chân lí là không phân
chia, chân lí là một. Nó không tốt không xấu, không
sạch không bẩn.
Tôi đã nghe: 

Một linh mục tới cửa hàng may và đặt một bộ
com lê mới. Khi ông ta hỏi bộ này bao nhiêu tiền, ông
thợ may nói, "Không phải trả tiền. Tôi chưa bao giờ
đòi tiền giới tăng lữ." Thế là hôm sau ông linh mục
gửi tới tặng ông thợ may một chiếc thập tự đẹp.
Thế rồi một giáo sĩ tới cửa hàng may đó và đặt
làm bộ com lê mới. Khi ông ta hỏi bộ này giá bao
nhiêu, ông thợ may nói, "Không phải trả tiền. Tôi
chưa bao giờ đòi tiền các giáo sĩ." Thế là hôm sau ông
giáo sĩ này gửi tới cho ông thợ may hai ông giáo sĩ
nữa.
Điều đó tuỳ thuộc vào bạn, vào cách bạn nhìn vào
mọi sự. Tâm trí bạn là người ra quyết định cuối cùng.
Một thợ may áo choàng và com lê rất thành công
sau cùng đã tìm được cô gái trong mộng của mình, và
anh ta chuẩn bị cho đám cưới một bộ áo quần mà cả
quận cũng chẳng thể nào quên được. Những người
thiết kế riêng của anh ta đã chuẩn bị áo cưới cho cô
dâu bằng thứ lụa và sa tanh nhập khẩu mịn nhất, còn
bộ y phục hôn lễ của anh ta thì mới thực sự đáng
ngắm.
Vấn đề chẳng là gì nhiều hơn sự ngoạn mục.
Không chi phí nào còn dư lại. Thế rồi, khi việc cưới
xin đã tiến tới việc thực hiện chuyến đi tuần trăng mật
sang Canada, thì một tin báo khẩn cấp được gửi tới
qua điện tín..
"Đây là tin từ đối tác của tôi," chú rể giải thích.
"Việc kinh doanh khẩn cấp. Tôi phải dự nó ngay lập
tức."
"Nhưng thế tuần trăng mật của chúng ta thì sao?"
cô dâu nức nở hỏi.
"Kinh doanh trên hết," anh ta nói. "Nhưng em cứ
đi trước đi. Anh sẽ tới bằng máy bay sau và sẽ ở đó
vào đêm nay."
"Nhưng thế nhỡ anh không tới được tối nay thì
sao?" cô ấy than vãn.
"Thì ..." anh ta quát tháo, "cứ bắt đầu mà không
có anh."
Nhà kinh doanh là nhà kinh doanh. Cái nhìn cả
đời của người đó về cuộc sống là cái nhìn của nhà
kinh doanh.
Chẳng cái gì hay, chẳng cái gì dở; chẳng cái gì
đẹp, chẳng cái gì xấu. Điều đó là tuỳ bạn quyết định.
Tại Ấn Độ chúng ta có một trạng thái nào đó của
tâm thức được gọi là paramahansa. Trạng thái
paramahansa nghĩa là trạng thái của không phân chia -
khi xấu và đẹp, sạch và bẩn, hay và dở, cả hai đều như
nhau. Bạn có thể thấy một người paramahansa đang
ăn, ngồi cạnh dường - nước cống đang chảy tràn qua,
chó chạy xung quanh người đó. Hay thậm chí chó
cũng ăn trong cùng bát! Rất khó - rất khó cho tâm trí
hiểu được. Tâm trí sẽ nói "Đây là cái kiểu người gì
vậy? Bẩn khiếp!"

Nhưng bạn không biết tới trạng thái của người
paramahansa. Đừng kết án, đừng hấp tấp thế. Có một
trạng thái của tâm thức nơi phân chia biến mất, nơi
tâm trí hoàn toàn bị vứt bỏ. Thế thì người ta đơn giản
sống trong cái một với sự tồn tại.
Nhưng, tôi không bảo bạn trở thành người
paramahansas - nhớ lấy. Bạn không thể trở thành
người paramahansa được; điều đó giáng xuống bạn.
Nếu bạn cố gắng để trở thành người paramahansa,
bạn sẽ chỉ phát điên. Tôi không nói vứt bỏ phân biệt.
Tôi nói trở nên ngày một nhận biết hơn để một ngày
nào đó phân biệt biến mất. Bạn có thể vứt bỏ phân
biệt này mà không trở nên nhận biết - thế thì bạn sẽ là
người điên, không phải là người paramahansa. Và đôi
khi người paramahansas và người điên trông rất giống
nhau.
Câu hỏi thứ bẩy:
Bài nói hôm nay là điều tuyệt vời nhất tôi đã
từng được nghe.
Điều này là từ Vandana. Nhưng cũng cùng bài nói
này ai đó khác lại nói:
Sao thầy cứ huyên thuyên mãi thế?Tôi phát
ngán với thầy, tôi chán lắm, và tôi không muốn
nghe thầy chút nào nữa.
Đấy là từ Maneeshi.
Bây giờ thì phải làm gì đây? Trả lời cho ai? Cùng
bài nói có thể cực kì hay cho người này; với người
khác nó lại chán khủng khiếp. Điều đó tuỳ thuộc vào
bạn; nó chẳng liên quan gì tới bài nói cả. Bạn đang
không nói điều gì đó về bài nói - Vandana hay
Maneeshi. Bạn đang nói điều gì đó về mình.
Vandana phải đã trong trạng thái tuôn chảy;
Vandana phải đã trong 'phúc lớn'. Vandana phải đã
cởi mở - tôi có thể đi vào trong cô ấy. Lời tôi đi sâu
vào trong trái tim cô ấy và trở thành bài ca.
Maneeshi phải đã bị đóng lại - quá nhiều trong cái
đầu. Maneeshi phải đã không cùng với trái tim, ít nhất
là trong bài nói đó. Thế thì mọi sự đi sai. Điều đó tuỳ
thuộc vào bạn. Bất kì khi nào bạn cảm thấy cái gì đó
giống thế, bao giờ cũng nhớ điều đó là tuỳ thuộc vào
bạn.
Bây giờ Maneeshi hỏi: "Sao thầy cứ huyên thuyên
mãi thế...?" Tôi cứ huyên thuyên bởi vì cũng có cả
Vandanas nữa - cho nên tôi phải cứ huyên thuyên cho
họ.
Còn bạn nói: "Tôi phát ngán với thầy và tôi chán
lắm...." Nhưng, ai buộc bạn phải ở đây? Đây là cái gì
đó đẹp đẽ! Có hai người gác ở hai cổng và Shiva với
cái mũi to có đó để đánh hơi bạn. Và bạn phải trả tiền để nghe tôi. Bạn đã bao giờ biết chưa? - trong lịch sử
của Ấn Độ điều đó chưa bao giờ xảy ra cả - những bài
nói tôn giáo bao giờ cũng cho không. Và bạn hỏi tôi:
"Sao thầy cứ huyên thuyên mãi thế?" Sao bạn lại trả
tiền trước hết? Bạn không cần tới. Mọi sự quản lí mà
tôi đã làm là để ngăn cản bạn, tôi đã làm đấy.
Đấy là tâm trí bạn. Nhưng tôi biết Maneeshi, tôi
biết cả trái tim anh ấy nữa. Trái tim cứ kéo anh ấy lại
đây; cái đầu không cho phép. Đó là xung đột. Khi trái
tim và cái đầu gặp nhau có đồng bộ. Khi cái đầu và
trái tim gặp nhau có hài hoà. Đó là điều đã xảy ra cho
Vandana.
Maneeshi đã mất tiếp xúc với trái tim mình. Trái
tim anh ấy cứ kéo anh ấy lại, cho nên anh ấy không
thể thoát được. Bởi vì anh ấy không thể thoát được
nên anh ấy khó chịu với tôi - dường như tôi đang làm
điều gì đó với anh ấy, dường như tôi không cho phép
anh ấy thoát ra. Bạn hoàn toàn tự do, Maneeshi - mặc
dầu tôi biết bạn không thể thoát được. Đó là điều
không thể được bởi vì dù bạn ở đâu bạn cũng khao
khát việc huyên thuyên này. Tôi sẽ ám ảnh bạn bởi vì
khi trái tim bạn đã có liên quan, tôi đang sở hữu nó.
Cái đầu sẽ không cho phép bạn ở đây toàn bộ, nhưng
nó không thể giúp bạn ra đi được.
Nghe từ trái tim đi bởi vì điều tôi đang nói chẳng
liên quan gì tới cái đầu cả. Điều tôi đang nói là không
logic, điều tôi đang nói là không có lí.
Mới hôm nọ tôi vừa đọc một bức thư trong
Current, được viết từ Hội những người theo chủ nghĩa
duy lí ở Nam Ấn Độ, rằng họ muốn tôi trở thành
thành viên của hội của họ.
Bây giờ tôi bị tràn ngập. Đây là một vinh dự lớn
lao thế. Ngay cả giải thường Nobel có được trao cho
tôi thì tôi cũng không đến nỗi tràn ngập đến thế - bởi
vì Giải thường Nobel đã được trao cho quá nhiều
người rồi, hàm trăm người. Ai đã bao giờ nghe nói về
Hội những người theo chủ nghĩa duy lí này chưa?
rằng nó đã mời bất kì ai là thành viên? Điều này chưa
từng có trước đây. Trong thực tế tôi chưa bao giờ
nghe nói đến cái tên làng nữa. Phải là một hội rất bí
truyền. Có những nhóm bí truyền làm việc ẩn kín
đằng sau, những người không tin vào công luận.
Một đặc ân lớn thế! Tôi hi vọng làng này có một
trạm bưu điện và một trường tiểu học, và ít nhất cũng
có một điểm đỗ xe buýt - bởi vì ở mọi làng Ấn Độ mà
có điểm đỗ xe buýt và trường tiểu học và trạm bưu
điện thì người ta bắt đầu đòi có đại học. Thế là đủ để
mở ra một đại học. Đó là lí do tại sao mọi ngày các
đại học lại cứ được mở ra, hàng trăm đại học. Chẳng
chóng thì chầy mọi làng đều có đại học riêng của
mình.
Chỉ một điều kiện họ đưa ra cho tôi là rất đơn
giản, và tôi có thể hoàn thành điều đó ngay lập tức,
chỉ bỏ mũ ra. Một điều kiện họ đòi là: Nếu ông vứt bỏ
việc được gọi là Bhagwan. Điều đó thì tôi sẵn sàng
làm, tuyệt đối sẵn sàng. Bởi vì ngay chỗ đầu tiên tôi là
Bhagwan, cho nên dù bạn có gọi tôi thế hay không thì
cũng chẳng khác biệt gì - hoa hồng là hoa hồng là hoa
hồng. Bạn có thể gọi nó bằng cái tên khác, điều đó
chẳng khác biệt gì. Tôi có thể giả vờ rằng tôi không là
Bhagwan - chẳng có nhiều vấn đề trong nó - nhưng
tôi không thể mất tư cách thành viên này.

Rắc rối nảy sinh không phải bởi điều kiện của họ;
rắc rối nảy sinh vì nó là một hội của những người theo
chủ nghĩa duy lí. Và tôi lại tuyệt đối vô lí. Tôi gần
như ngớ ngẩn. Tôi chơi với lập luận, chắc chắn, như
trò chơi. Chắc chắn tôi thích lập luận, nhưng như trò
chơi. Nhưng tôi không phải là người duy lí.
Những người nghe tôi từ cái đầu của họ sẽ cứ bỏ
lỡ tôi. Còn khi bạn nghe tôi và bạn bỏ lỡ tôi, tất nhiên
bạn sẽ phát ngán. Bạn sẽ không thể nào thấy được:
"Tất cả những cái này phỏng có ích gì? Sao người này
cứ nói mãi thế?" - bởi vì bạn không thu được cái gì từ
điều đó cả. Tôi cứ nuôi dưỡng bạn còn bạn thì lại có
đó mà không được nuôi dưỡng. Thế thì chắc chắn bạn
sẽ cảm thấy chán.
Nhưng chán là vấn đề của bạn, và bạn phải học
cách lắng nghe từ trái tim. Nếu bạn lắng nghe tôi từ
trái tim bạn có thể cứ nghe tôi mãi mãi - và sẽ không
có chán chút nào. Bạn càng nghe tôi nhiều thì bạn
càng thích thú, bởi vì từ trái tim cuộc cách mạng cực
kì lớn xảy ra.
Bạn đã bao giờ quan sát trẻ nhỏ chưa? Bạn kể cho
chúng một chuyện, hôm sau chúng tới; chúng nói,
"Bác lại kể chuyện ấy cho cháu đi!"
Và bạn nói, "Nhưng bác đã kể cho cháu rồi."
Chúng nói, "Vâng kể rồi, nhưng bác kể lại nữa
cho cháu."
Và chúng lại xúc động thế. Lại lắng nghe cùng
câu chuyện ấy, và chúng biết, đôi khi chúng sẽ nói
trước cho bạn điều gì sẽ xảy ra. Nhưng chúng xúc
động thế, nhiệt tình về nó thế. Điều gì xảy ra vậy?
Chúng nghe nó từ trái tim; chúng nghe nó từ sự hồn
nhiên, không từ tri thức. Chúng nghe từ sự thuần khiết
vô biên, từ tình yêu. Chúng nghe chỉ vì nghe mà thôi.
Howard, một trong những thợ may hàng đầu ở
New York, tới Rome để đi nghỉ. Trong khi ở đó, vợ
anh ta, một tín đồ hăng hái của điều "khi ở Rome làm
như người La mã', cứ khăng khăng rằng họ phải có
một cuộc hội kiến với Giáo hoàng. Điều đó được thu
xếp qua Toà đại sứ Mĩ và họ được ban cho cuộc hội
kiến đó.
Khi họ trở về New York họ kể lại cho tất cả mọi
người về chuyến đi của mình và tất nhiên về chuyến
viếng thăm Giáo hoàng. Bố của Howard hỏi,
"Howard, kể cho bố xem, Giáo hoàng thực sự giống
cái gì?"
Con ông ta đáp, "Ông ấy lùn 42."
Thợ may là thợ may. Đó là hiểu biết của anh ta -
lùn 42.
Jack về nhà vào giữa trưa. Anh ta gặp vợ và con
ngay tại cổng. Con anh ta kêu lên, "Bố ơi có ông ba bị
trong phòng nhỏ đấy."
Jack xô vào phòng nhỏ và đẩy tung cửa mở ra.
Trong đống lộn xôn những áo khoác là là đối tác Sam
của anh ta.

"Sam," Jack la lên, "Sao cậu lại đến đây làm quỉ
gì vào buổi trưa và doạ con tớ?"
Bạn có hiểu điều đó không? Điều đó tuỳ thuộc
vào tâm trí bạn, vào bạn, vào thái độ nào bạn có. Bạn
có thể lắng nghe tôi năm nọ, năm kia, và bạn có thể
vẫn còn xúc động.
Nhưng tôi không lo lắng về điều đó. Ít nhất thì tôi
bao giờ cũng xúc động. Nếu không ai đến nghe tôi thì
tôi vẫn cứ nói ở đây. Tôi yêu việc nói điều đã xảy ra
với tôi, và tôi yêu việc nói nó cả nghìn lẻ một lần. Và
đó là cách duy nhất để truyền đạt nó. Bởi vì một lần
bạn có thể bỏ lỡ, lần thứ hai bạn có thể bỏ lỡ, nhưng
bạn có thể bỏ lỡ bao nhiêu lần? Một ngày nào đó từ
chán ngán cùng cực bạn sẽ nói, "Bây giờ mình nghe
người này vậy."
Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu,
Tôi ghét phải làm điều này với thầy, nhưng tôi
không thể cưỡng lại được cám dỗ này. Về các
áo choàng thì sao?
Điều này là từ Maneesha. Điều thứ nhất:
Một hôm Morris về nhà sớm từ chỗ làm việc và
thấy vợ mình đang trên giường. Cô ấy nói cô ấy thấy
không khoẻ. Anh ta vào phòng nhỏ để treo mũ và áo,
và rất ngạc nhiên anh ta thấy một người đàn ông ẩn
trong căn phòng nhỏ này.
Anh ta nhìn vào người này rồi kêu to lên, "Mày
làm gì trong phòng riêng của tao?"
Người này nhún vai và nói, "Mọi người đều phải
ở đâu đó."
Vậy về áo choàng của tôi thì sao? Tôi phải trong
áo choàng chứ! Mọi người đều phải ở đâu đó. Nhưng
câu hỏi cứ tới - dù nó từ Maneesha, hay từ ai đó khác.
Tôi chờ đợi điều đó.
Chiếc khăn chỉ là trái đệm. Để tôi kể cho bạn về
trái đệm trước. Trong ngoại giao, trong chính trị,
những quốc gia tinh ranh bao giờ cũng có quốc gia
đệm quanh họ. Chẳng hạn, người Anh ở Ấn Độ quen
có Tây Tạng là quốc gia đệm giữa Trung Quốc và Ấn
Độ.
Trung Quốc là cường quốc lớn nhất ở gần Ấn Độ.
Họ bao giờ cũng duy trì quốc gia đệm - Tây Tạng là
quốc gia đệm. Nếu Trung Quốc muốn tấn công Ấn
Độ, thì trước hết Trung Quốc phải tấn công Tây Tạng.
Nó không thể tiếp cận trực tiếp được. Và một khi nó
đã tấn công Tây Tạng, nước Anh sẽ đánh nhau trên
đất Tây Tạng; do đó Ấn Độ vẫn còn không bị động
chạm tới.
Khi Ấn Độ trở nên tự do, Trung Quốc tấn công
Tây Tạng, và Pandit Jawaharlal Nehru đã bỏ lỡ. Ông
ấy không phải là nhà ngoại giao, ông ấy là nhà thơ, ông ấy là người hão huyền - một linh hồn vĩ đại,
nhưng không phải là chính khách chút nào. Ông ấy
nghĩ, "Chẳng hề gì với chúng ta cả. Sao chúng ta phải
lo lắng về nó? Nó là chuyện giữa Trung Quốc và Tây
Tạng."
Người Anh sẽ không cho phép điều đó. Đấy
không phải là chuyện giữa Trung Quốc và Tây Tạng
đâu. Về cơ bản nó là giữa Ấn Độ và Trung Quốc -
Tây Tạng chẳng là cái gì cả. Một khi Trung Quốc đã
chiếm được Tây Tạng, thì tất nhiên, bước tiếp nhất
định là Ấn Độ.
Nếu, thay vì là Pandit Jawaharlal Nehru, Indira
mà ở chỗ đó, thì bà ấy đã không cho phép điều đó rồi.
Bà ấy gắn với đất nhiều hơn, ít hão huyền hơn, ít nhà
thơ hơn. Bà ấy sẽ đánh nhau ở đó, ở Tây Tạng. Nhưng
Jawaharlal nghĩ, "Chẳng có ích gì cả. Cứ để cho họ
quyết định." Một khi Tây Tạng đã bị chiếm, tất nhiên
Ấn Độ trở thành mong manh - bước tiếp là Ấn Độ. Và
Trung Quốc đã tấn công Ấn Độ. Điều đó là tự nhiên,
nó đơn giản là ngoại giao.
Cái khăn của tôi là trái đệm của tôi. Tôi biết điều
đó rõ lắm, rằng một khi tôi bỏ nó đi thì bạn sẽ hỏi về
áo choàng. Cho nên tốt hơn cả là tôi lấy lại chiếc
khăn. Vivek, đem chiếc khăn lại... bởi vì tốt hơn cả là
giữ lấy nó, nó là an toàn, nó là Tây Tạng của tôi.
Chuyện cười này đã trải ra quá xa - ba ngày đã
trôi qua rồi - và chuyện cười không nên bị kéo ra quá
xa, bằng không nó thành nguy hiểm.
Maneesha, bạn thoả mãn chứ...?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến