"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh quang.
Nhưng khi họ đã đạt được nó,
họ bị tác động trong nhiều năm.
Nếu các ông khao khát danh vọng trần tục
và không thực hành Đạo,
lao động của các ông bị dùng sai
và năng lượng của các ông bị phí hoài.
Điều đó cũng giống như đốt que hương.
Dù hương thơm của nó được thán phục đến
đâu,
ngọn lửa vẫn dần dần
đốt cháy que hương."
Phật nói:
"Những người bám dính lấy của cải trần tục
và niềm đam mê ích kỉ thì mù quáng
khi hi sinh những kiếp sống của mình vì chúng.
Họ giống như đứa trẻ cố liếm
đốm mật trên lưỡi dao.
Miếng mật chẳng đủ
thoả mãn cái thèm của nó,
nhưng gây nguy cơ làm đứt lưỡi nó."
Phật nói:
"Con người bị ràng buộc chặt với
gia đình và của cải của mình
còn bất lực hơn là trong tù.
Có cơ hội để tù nhân được thoát ra,
nhưng người chủ gia đình không
ấp ủ ham muốn được thoát ra
khỏi mối ràng buộc gia đình.
Khi niềm đam mê của con người nảy sinh
chẳng cái gì ngăn cản được người đó khỏi làm
tàn tạ bản thân mình.
Ngay cả dạ dầy hổ người đó cũng nhảy vào.
Do vậy những người bị nhấn chìm trong rác
rưởi của đam mê được gọi là kẻ dốt nát.
Những người có khả năng vượt qua nó
là a la hán thánh thiện."
bình thường của từ này, bởi vì nó không có hệ thống
đức tin, không giáo điều, không kinh sách. Nó không
tin vào Thượng đế, nó không tin vào linh hồn, nó
không tin vào bất kì trạng thái moksha nào. Nó là vô
đức tin hoàn toàn - ấy vậy mà nó lại là tôn giáo.
Nó là duy nhất. Chưa từng có cái gì đã xảy ra
trước đây giống như điều đó trong lịch sử tâm thức
con người, và về sau cũng không có cái gì như thế cả.
Phật vẫn còn hoàn toàn duy nhất, vô song.
Ông ấy nói rằng Thượng đế chẳng là gì ngoài việc
tìm kiếm an ninh, tìm kiến an toàn, tìm kiếm chỗ trú
ẩn. Bạn tin vào Thượng đế, không phải bởi vì Thượng
đế có đó; bạn tin vào Thượng đế bởi vì bạn cảm thấy
bất lực nếu không có niềm tin đó. Cho dù không có
Thượng đế, bạn sẽ cứ bịa ra. Cán dỗ này tới từ yếu
đuối của bạn. Nó là phóng chiếu.
Con người cảm thấy bị rất giới hạn, rất bất lực,
gần như là nạn nhân của hoàn cảnh - không biết mình
tới từ đâu và không biết mình đi đâu, không biết tại
sao mình ở đây. Nếu không có Thượng đế thì rất khó
cho người thường thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống.
Tâm trí bình thường sẽ nổi đoá nếu không có Thượng
đế.
Thượng đế là chỗ dựa tinh thần - nó giúp bạn, nó
an ủi bạn, nó tạo thoải mái cho bạn. Nó nói, "Đừng lo
- Thượng đế Toàn năng biết mọi điều về tại sao mình
lại ở đây. Ngài là Đấng sáng tạo, ngài biết tại sao ngài
đã tạo ra thế giới này. Mình có thể không biết nhưng
Cha biết, và mình có thể tin cậy vào ngài." Đấy là sự
an ủi lớn.
Chính ý tưởng về Thượng đế cho bạn cảm giác
nhẹ nhõm - rằng bạn không một mình, rằng ai đó
đang chăm lo mọi việc; rằng vũ trụ này không hỗn
độn, nó thực sự hài hoà; rằng có một hệ thống đằng
sau nó, rằng có logic đằng sau nó; rằng đấy không
phải là mớ bòng bong phi logic của mọi vật, rằng nó
không là hỗn loạn. Ai đó đang cai quản nó; nhà vua
tối cao có đó đang chăm lo tới từng chi tiết nhỏ nhất -
thậm chí đến một chiếc lá rung rinh cũng là việc ông
ấy làm cho nó rung rinh. Mọi thứ đều được lập kế
hoạch. Bạn là một phần của định mệnh vĩ đại. Có thể
bạn không biết tới ý nghĩa, nhưng ý nghĩa có đó - bởi
vì Thượng đế có đó.
Thượng đế đem tới nhẹ nhõm vô cùng. Người ta
bắt đầu cảm thấy rằng cuộc sống không ngẫu nhiên;
có dòng chảy ngầm của ý nghĩa, định mệnh. Thượng
đế đem tới cảm giác về định mệnh.
Phật nói: Không có Thượng đế - điều đó đơn giản
chỉ ra rằng con người không biết tại sao mình ở đây.
Điều đó đơn giản chỉ ra rằng con người bất lực. Điều
đó đơn giản chỉ ra rằng con người không có ý nghĩa
có sẵn cho mình. Bằng việc tạo ra ý tưởng về Thượng
đế con người có thể tin tưởng vào ý nghĩa, và con
người có thể sống cuộc sống vô ích này với ý tưởng
rằng ai đó đang chăm nom nó.
Nghĩ xem: bạn đang trong chuyến bay trên trời và
ai đó tới và nói, "Không có phi công." Bỗng nhiên có
hoảng sợ. Không phi công sao? 'Không phi công' đơn
giản nghĩa là bạn tận số. Thế rồi ai đó nói, "Cứ tin phi công đang có đó - vô hình. Chúng ta có thể không có
khả năng thấy được phi công, nhưng ông ấy có đó;
bằng không làm sao cái máy đẹp đẽ này còn bay
được? Cứ nghĩ về điều đó mà xem: mọi thứ diễn ra
tuyệt vời thế - phải có phi công chứ! Có thể chúng ta
không có khả năng thấy ông ấy, có thể chúng ta còn
chưa mang tính cầu nguyện đủ để thấy được ông ấy,
có thể mắt chúng ta nhắm, nhưng phi công đang có
đó. Bằng không làm sao điều này lại có thể được? Cái
máy bay này đã cất cánh, nó đang bay hoàn hảo; động
cơ đang ù ù đấy. Mọi thứ đều là bằng chứng rằng có
phi công."
Nếu ai đó chứng minh điều này, bạn thảnh thơi
trong ghế của mình. Bạn nhắm mắt lại, bạn lại bắt đầu
mơ - bạn có thể rơi vào giấc ngủ. Phi công đang có
đó, bạn không cần phải lo.
Phật nói: Phi công không có đâu - đấy là bịa đặt
của con người thôi. Con người đã bịa ra Thượng đế
theo hình ảnh riêng của mình. Đấy là phát minh của
con người; Thượng đế không phải là khám phá, đấy là
bịa đặt. Và Thượng đế không phải là chân lí - đấy là
dối trá lớn nhất đang có đó.
Đó là lí do tại sao tôi nói Phật giáo không phải là
tôn giáo theo nghĩ thường của từ này. Một tôn giáo vô
Thượng đế - bạn có thể tưởng tượng ra được không?
Khi lần đầu tiên các học giả phương Tây trở nên nhận
biết về Phật giáo, họ choáng. Họ không thể nào hiểu
được rằng tôn giáo có thể tồn tại - mà lại không có
Thượng đế! Họ đã chỉ biết Do Thái giáo, Ki tô giáo
và Mô ha mét giáo. Cả ba tôn giáo này đều rất non nớt
nếu so với Phật giáo.
Phật giáo là tôn giáo đến tuổi trưởng thành. Phật
giáo là tôn giáo của tâm trí chín chắn. Phật giáo
không ngây thơ chút nào - và nó cũng không giúp cho
bất kì ham muốn trẻ con nào trong bạn. Nó rất tàn
nhẫn. Để tôi nhắc lại điều đó: Chưa bao giờ có người
nào từ bi hơn Phật, nhưng tôn giáo của ông ấy lại tàn
nhẫn.
Trong thực tế, trong tàn nhẫn đó ông ấy thể hiện
từ bi của mình. Ông ấy sẽ không cho phép bạn níu
bám lấy bất kì dối trá nào. Dù mang tính an ủi đến
đâu, dối trá vẫn cứ là dối trá. Và những người đã trao
cho bạn dối trá, họ không phải là bạn của bạn, họ là
kẻ thù - bởi vì với tác động của dối trá bạn sẽ sống
một cuộc sống đầy những dối trá.
Chân lí phải được đem tới cho bạn, dù nghiêm
khắc thế nào, dù gây tan nát thế nào, dù gây choáng
váng thế nào. Cho dù bạn bị triệt tiêu bởi tác động của
chân lí thì đấy cũng là điều tốt.
Phật nói: Chân lí là ở chỗ tôn giáo của con người
là bịa đặt của con người. Bạn đang trong bóng tối bị
bao quanh bởi các lực ngoại lai. Bạn cần ai đó để bám
vào, ai đó để níu lấy.
Và mọi thứ bạn có thể thấy được đang thay đổi -
bố bạn sẽ chết một ngày nào đó và bạn sẽ bị bỏ lại
một mình, mẹ bạn sẽ chết một ngày nào đó và bạn sẽ
bị bỏ lại một mình, và bạn sẽ là đứa con côi. Và ngay
từ thời thơ ấu bạn đã quen có bố bảo vệ mình, có mẹ
yêu mình. Bây giờ cái ham muốn trẻ con đó sẽ lại tự
khẳng định nó: bạn sẽ cần hình ảnh người bố. Nếu
bạn không thể tìm được nó trên trời, bạn sẽ tìm thấy
nó trong chính khách nào đó.
đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng đế. Mao đã trở thành
cha của Trung Quốc; họ đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng
đế. Nhưng con người lại ở vào tình huống không thể
sống được nếu thiếu hình ảnh người cha. Con người
vẫn còn trẻ con. Rất hiếm người trưởng thành chín
chắn.
Quan sát riêng của tôi là thế này, đó là mọi người
vẫn còn ở quãng tuổi bẩy, tám, chín. Thân thể vật lí
của họ trưởng thành, nhưng tâm trí họ vẫn còn bị mắc
kẹt ở đâu đó dưới mười tuổi.
Ki tô giáo, Do Thái giáo, Mô ha mét giáo, đều là
các tôn giáo dưới mười tuổi. Họ đáp ứng bất kì cái gì
bạn cần; họ không lo nghĩ quá nhiều về chân lí. Họ lo
nghĩ nhiều về bạn hơn, họ lo nghĩ nhiều về cách an ủi
bạn.
Tình huống là như thế này: người mẹ đã chết và
đứa con đang kêu khóc, còn bạn phải an ủi đứa trẻ.
Cho nên bạn nói dối. Bạn giả vờ rằng người mẹ còn
chưa chết: "Mẹ mới đi thăm hàng xóm - mẹ sẽ về
ngay. Cháu đừng lo, mẹ sẽ về ngay thôi.” Hay: "Mẹ
vừa đi công tác dài ngày. Mẹ phải đi vài ngày nhưng
mẹ sẽ quay về." Hay: "Mẹ mới đi thăm Thượng đế -
chẳng có gì phải lo cả. Mẹ vẫn còn sống: có thể mẹ đã
rời khỏi thân thể, nhưng linh hồn sống mãi mãi."
Phật là cá nhân gây tan nát nhất trong toàn thể
lịch sử nhân loại. Toàn bộ nỗ lực của ông ấy là để vứt
bỏ mọi chỗ dựa. Ông ấy không nói tin vào cái gì cả.
Ông ấy là người không tin tưởng và tôn giáo của ông
ấy là tôn giáo vô tin tưởng. Ông ấy không nói "Hãy
tin!" ông ấy nói "Hãy hoài nghi!"
Bây giờ, bạn đã nghe nói về các tôn giáo nói "Hãy
tin!" Bạn chưa bao giờ nghe nói về tôn giáo nói "Hãy
hoài nghi!" Hoài nghi là chính phương pháp luận -
hoài nghi tới tận cốt lõi, hoài nghi tới tận cùng, hoài
nghi tới cùng. Và khi bạn đã hoài nghi mọi thứ, và
bạn đã loại bỏ mọi thứ từ hoài nghi, thực tại nảy sinh
trong tầm nhìn của bạn. Nó chẳng liên quan gì tới
niềm tin của bạn về Thượng đế. Nó không là cái gì
giống như cái gọi là Thượng đế của bạn. Thế thì thực
tại nảy sinh: tuyệt đối không quen biết và không biết.
Nhưng khả năng đó chỉ tồn tại khi tất cả mọi niềm
tin đều đã bị loại bỏ và tâm trí đã tới trạng thái chín
chắn, hiểu biết, chấp nhận "bất kì cái gì hiện có, và
chúng ta không ham muốn khác hơn. Nếu không có
Thượng đế, thì không có Thượng đế, và chúng ta
không có ham muốn nào để phóng chiếu ra Thượng
đế. Nếu không có Thượng đế, chúng ta chấp nhận
điều đó."
Đây chính là chín chắn: chấp nhận sự kiện và
không tạo ra hư cấu quanh nó; chấp nhận thực tại như
nó đang thế, không cố gắng thi vị nó, không cố gắng
trang điểm nó, không cố gắng làm cho nó dễ chấp
nhận hơn cho trái tim bạn. Nếu nó làm tan nát, thì nó
làm tan nát. Nếu nó gây choáng váng, thì nó gây
choáng váng. Nếu chân lí giết chết, người ta sẵn sàng
để bị giết chết.
Phật tàn nhẫn. Và chưa từng có ai đã mở ra cánh
cửa của thực tại một cách sâu sắc, sâu lắng như ông
ấy đã làm. Ông ấy không cho phép bạn có bất kì ham
muốn trẻ con nào. Ông ấy nói: Trở nên nhận biết hơn,
trở nên ý thức hơn, trở nên dũng cảm hơn. Đừng lẩn trốn sau những niềm tin và mặt nạ và thượng đế học.
Nắm lấy cuộc sống của mình trong tay mình. Thắp
sáng ngọn đèn bên trong của bạn và nhìn bất kì cái gì
đang có đấy. Và một khi bạn đã trở nên đủ dũng cảm
để chấp nhận nó, đó là phúc lành. Không cần niềm tin
nào cả.
Đó là bước đầu tiên của Phật hướng tới thực tại:
mọi hệ thống niềm tin đều mang tính độc hại; mọi hệ
thống niềm tin đều là rào chắn.
Ông ấy không phải là người hữu thần. Và nhớ lấy:
ông ấy cũng không phải là người vô thần - bởi vì, ông
ấy nói, vài người tin rằng có Thượng đế và vài người
tin rằng không có Thượng đế, nhưng cả hai đều là
những người tin. Cái vô tin của ông ấy sâu sắc đến
mức ngay cả những người nói không có Thượng đế,
và tin vào điều đó, cũng không thể chấp nhận được
ông ấy. Ông ấy nói rằng chỉ nói không có Thượng đế
thì cũng chẳng khác biệt gì. Nếu bạn vẫn còn trẻ con,
bạn sẽ tạo ra nguồn Thượng đế khác.
Chẳng hạn, Karl Marx đã tuyên bố: "Không có
Thượng đế," nhưng thế rồi ông ấy lại tạo ra Thượng
đế từ lịch sử. Lịch sử trở thành Thượng đế; cùng chức
năng mà trước đây do Thượng đế đảm nhiệm thì bây
giờ được lịch sử thực hiện. Thượng đế đã làm gì?
Thượng đế đã là nhân tố tất định; Thượng đế là nhân
tố cai quản. Chính Thượng đế là người đã quyết định
cái gì phải là và cái gì không phải là. Marx đã vứt bỏ
ý tưởng về Thượng đế, nhưng rồi lịch sử đã trở thành
nhân tố tất định, thế thì lịch sử đã trở thành số mệnh,
thế thì lịch sử đã trở thành số phận - thế thì lịch sử là
tất định. Bây giờ lịch sử là gì? Và Marx nói chủ nghĩa
cộng sản là giai đoạn không tránh khỏi. Lịch sử đã
xác định rằng nó sẽ tới, và mọi thứ đều được lịch sử
xác định. Bây giờ lịch sử trở thành siêu Thượng đế.
Nhưng ai đó xác định là cần tới. Con người không
thể sống với thực tại như nó đang thế: hỗn độn, ngẫu
nhiên. Con người không thể nào sống với thực tại mà
không tìm ra ý tưởng nào đó làm cho nó có nghĩa, có
liên quan, liên tục, cái cho nó một hình dáng mà lí trí
có thể hiểu được; cái có thể được mổ xẻ, phân tích
thành nguyên nhân và hậu quả.
Freud đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng đế, nhưng rồi
vô thức lại trở thành Thượng đế - thế thì mọi thứ lại
được xác định bởi vô thức của con người, và con
người bất lực trong tay của vô thức. Bây giờ đây là
những cái tên mới cho Thượng đế; nó là huyền học
mới.
Tâm lí theo trường phái Freud là huyền học mới
về Thượng đế. Cái tên đã đổi nhưng dòng chảy vẫn
còn như cũ; cái nhãn đã đổi, nhãn cũ đã bị bỏ đi; cái
nhãn mới vẽ, tươi tắn đã được dán vào nó - nó có thể
lừa những người không tỉnh táo mấy. Nhưng nếu bạn
đi sâu hơn vào phân tích của Freud, bạn sẽ lập tức
thấy rằng bây giờ vô thức đang làm cùng công việc
mà Thượng đế vẫn làm.
Cho nên có gì sai với Thượng đế đáng thương?
Nếu bạn phải bịa ra cái gì đó, và con người bao giờ
cũng phải được xác định bằng cái gì đó - lịch sử, kinh
tế, vô thức, thế này thế nọ - nếu con người không thể
được tự do, thì phỏng có ích gì mà thay đổi huyền
học, thượng đế học? Điều đó chẳng tạo ra khác biệt
gì.
người Mô ha mét giáo, bạn có thể là người Ki tô giáo,
bạn có thể là người Do Thái giáo - điều đó chẳng tạo
ra mấy khác biệt. Tâm trí của bạn vẫn còn trẻ con, bạn
vẫn còn chưa chín chắn. Bạn vẫn còn đi tìm, bạn tiếp
tục tìm kiếm hình ảnh người bố: ai đó ở đâu đó người
có thể giải thích mọi thứ, người có thể trở thành việc
giải thích tối hậu.
Tâm trí chín chắn là người có thể vẫn còn đấy mà
không có tìm kiếm nào cho dù không có lời giải thích
tối hậu về mọi vật.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Ta không phải là
người siêu hình. Ông ấy không có siêu hình. Siêu hình
nghĩa là việc giải thích tối hậu về mọi thứ - ông ấy
không có lời giải thích tối hậu. Ông ấy không nói, "Ta
đã giải quyết bí ẩn." Ông ấy không nói, "Tại đây ta
trao cho các ông chân lí là gì."
Ông ấy nói, "Điều duy nhất ta có thể trao cho các
ông là sự thúc đẩy, niềm khao khát, sự đam mê vô
cùng, để trở nên nhận biết, trở nên ý thức, trở nên tỉnh
táo; để sống cuộc sống của các ông một cách có ý
thức, tràn đầy ánh sáng và nhận biết đến mức cuộc
sống của các ông được giải quyết."
Không phải là bạn đi tới lời giải thích tối hậu về
sự tồn tại - không ai đã bao giờ đi tới đó cả. Phật phủ
nhận siêu hình hoàn toàn. Ông ấy nói siêu hình là tìm
kiếm vô ích.
Cho nên điều đầu tiên: ông ấy phủ nhận Thượng
đế.
Điều thứ hai: ông ấy phủ nhận moksha, thiên
đường, cõi trời. Ông ấy nói: Cõi trời của bạn, thiên
đường của bạn, chẳng là gì ngoài những ham muốn
dục vọng chưa được thoả mãn của bạn, những bản
năng chưa được đáp ứng, được phóng chiếu thành
cuộc sống khác, cuộc sống ở cõi bên kia, cuộc sống
sau cái chết. Và ông ấy dường như hoàn toàn đúng.
Nếu bạn thấy miêu tả, mô tả về cõi trời và thiên
đường trong Mô ha mét giáo, trong Ki tô giáo, trong
Do Thái giáo thì bạn sẽ hiểu điều đó thật rõ, điều ông
ấy đang nói. Bất kì cái gì còn chưa được hoàn thành ở
đây bạn phóng chiếu vào kiếp sau. Nhưng ham muốn
dường như là như nhau!
Người Hindu nói có những cây họ gọi là
kalpavriksha - bạn ngồi dưới gốc cây đó và bất kì
điều gì bạn ham muốn, không trễ lấy một khoảng thời
gian nào, nó được hoàn thành ngay. Bạn ham muốn
một phụ nữ đẹp sao, cô ấy có đấy - ngay lập tức, ngay
tức khắc. Tại phương Tây bạn đã phát minh ra cà phê
uống liền và những thứ giống vậy, có ngay bây giờ.
Ấn Độ đã phát minh ra cây thoả ước - từ hàng thế kỉ
người ta đã tin vào điều đó. Điều đó thực sự được
hoàn thành ngay lập tức - thực sự ngay lập tức, không
khoảng thời gian trễ nào. Tại đây ý tưởng nảy sinh, tại
kia nó được đáp ứng; thậm chí không có đến một giây
trôi qua giữa hai điều này. Ý tưởng là sự hoàn thành
nó! Bạn ham muốn một phụ nữ đẹp, cô ấy có đó. Bạn
ham muốn thức ăn ngon, nó có đó. Bạn ham muốn cái
giường đẹp để nghỉ, nó có đó.
Bây giờ, đây là phân tích tâm lí đơn giản - rằng
con người không được thoả mãn trong cuộc sống. Và người đó cứ cố gắng. Cả đời mình người đó cứ cố
gắng hoàn thành nó, vậy mà người đó không thể nào
hoàn thành được, cho nên người đó phải phóng chiếu
vào tương lai. Không phải là trong tương lai nó có thể
được hoàn thành - ham muốn như thế thì không thể
nào hoàn thành được.
Phật đã nói: Chính bản chất của ham muốn là ở
chỗ nó vẫn còn không được hoàn thành. Bất kì điều gì
bạn làm, bất kể bạn làm nó về cái gì, nó vẫn còn
không được hoàn thành - đó chính là bản chất cố hữu
của ham muốn. Ham muốn như thế vẫn còn không
được hoàn thành. Cho nên bạn có thể ngồi dưới cây
thoả ước - điều đó cũng chẳng khác biệt gì. Nhiều lần
bạn có thể cảm thấy nó được thoả mãn, rồi nó lại phát
sinh. Và vô hạn lần nó cứ phát sinh đi phát sinh lại
mãi.
Người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, người
Do Thái, người Hindu - tất cả các cõi trời và thiên
đường, đều không là gì ngoài những ham muốn không
hoàn thành được phóng chiếu lên, những ham muốn
bị kìm nén, những ham muốn nản lòng. Tất nhiên,
chúng an ủi cho con người rất nhiều: "Nếu bạn không
có khả năng thoả mãn ở đây - thì ở cõi kia. Chẳng
chóng thì chầy bạn sẽ đạt tới Thượng đế; điều duy
nhất bạn phải làm là cứ cầu nguyện tới ngài, cứ cúi
đầu trước hình ảnh nào đó hay ý tưởng nào đó hay lí
tưởng nào đó, và làm cho ngài sung sướng, làm cho
Thượng đế sung sướng, và thế thì bạn sẽ thu hoạch
được vụ mùa lớn những vui thích và ban thưởng. Đó
sẽ là món quà của ngài cho bạn - cho lời cầu nguyện
của bạn, cho sự cảm kích của bạn, cho sự buông xuôi
liên tục, cho việc chạm chân ngài hết lần nọ tới lần
kia, cho sự vâng lời của bạn - điều đó sẽ là phần
thưởng."
Tất nhiên phần thưởng là sau khi chết, bởi vì ngay
cả tu sĩ tinh ranh cũng không thể lừa được bạn trong
cuộc sống này - ngay cả họ cũng không thể lừa được.
Họ biết ham muốn vẫn còn không được thoả mãn, cho
nên họ phải phát minh ra kiếp sau. Chẳng ai đã biết
tới kiếp sau cả; mọi người có thể bị lừa rất dễ dàng.
Nếu ai đó tới và nói với bạn, "Thượng đế có thể
hoàn thành ham muốn của bạn ở đây và bây giờ," thì
sẽ khó chứng minh được điều đó - bởi vì chưa bao giờ
ham muốn của bất kì ai được hoàn thành ở đây và bây
giờ cả. Thế thì Thượng đế của họ sẽ lâm nguy. Họ đã
thử một phương cách rất tinh ranh; họ nói, "Sau cuộc
đời này." Thượng đế của bạn không đủ toàn năng để
thoả mãn nó ở đây sao? Thượng đế của bạn không đủ
toàn năng để tạo ra cây thoả ước trên trái đất này sao?
Thượng đế của bạn không đủ mạnh để làm điều gì đó
trong khi mọi người còn sống sao? Nếu ông ấy không
thể hoàn thành được ở đây, thì bằng chứng nào chứng
tỏ ông ấy sẽ hoàn thành ở kiếp sau?
Phật nói: Nhìn vào bản chất của ham muốn. Quan
sát chuyển động của ham muốn - nó rất tinh tế. Và
bạn sẽ có khả năng thấy hai điều: một, rằng ham
muốn bởi chính bản chất của nó là không thể nào
hoàn thành nổi; và thứ hai, khoảnh khắc bạn hiểu rằng
ham muốn là không thể nào hoàn thành nổi, thì ham
muốn biến mất - và bạn bị bỏ lại vô ham muốn. Đó là
trạng thái của an bình, im lặng, yên tĩnh. Đó là trạng
thái của hoàn thành! Con người chưa bao giờ đi tới hoàn thành qua ham muốn cả; con người đi tới hoàn
thành chỉ bằng việc siêu việt lên trên ham muốn.
Ham muốn là cơ hội để hiểu biết. Ham muốn là
cơ hội lớn để hiểu vận hành của tâm trí riêng của bạn
- cách nó vận hành, cơ chế của nó là gì. Và khi bạn đã
hiểu điều đó, trong chính việc hiểu đó là biến chuyển.
Ham muốn biến mất, không để lại dấu vết gì đằng
sau. Và khi bạn vô ham muốn, không ham muốn điều
gì, bạn được hoàn thành. Không phải là ham muốn
được hoàn thành, nhưng khi ham muốn được siêu việt
lên thì có sự hoàn thành.
Bây giờ thấy khác biệt này: các tôn giáo khác nói,
"Ham muốn có thể được hoàn thành trong thế giới
khác." Phàm nhân nói, "Ham muốn có thể được hoàn
thành ở đây" - người cộng sản nói, "Ham muốn có thể
được hoàn thành ở đây. Chỉ cần một cấu trúc xã hội
khác, chỉ cần tư bản bị lật đổ, vô sản phải nắm quyền,
tư sản phải bị tiêu diệt, có thế thôi - và các ham muốn
có thể được hoàn thành ở đây, cõi trời có thể được tạo
ra trên trái đất này ở đây."
Phàm nhân nói, "Bạn có thể hoàn thành ham
muốn của mình - hãy tranh đấu quyết liệt vào." Đó là
điều toàn bộ phương Tây đang làm: "Tranh đấu, cạnh
tranh, lừa đảo, bằng bất kì phương tiện và phương
pháp nào! Chiếm lấy nhiều của cải, nhiều quyền lực!"
Đó là điều các chính khách trên khắp thế giới đang
làm: "Trở nên mạnh hơn và ham muốn của bạn có thể
được hoàn thành." Đó là điều các nhà khoa học nói,
rằng chỉ vài công nghệ nữa cần được phát minh ra và
cõi trời sẽ ở ngay góc kia thôi.
Và các tôn giáo của bạn nói gì? Họ chẳng nói gì
khác cả. Họ nói, "Ham muốn có thể được hoàn thành,
nhưng không trong cuộc đời này - sau cái chết." Đó là
khác biệt duy nhất giữa cái gọi là người duy vật và cái
gọi là người duy tâm.
Với Phật, cả hai đều duy vật cả; và với tôi cũng
thế, cả hai đều duy vật cả. Cái gọi là những người tôn
giáo của bạn và cái gọi là những người phi tôn giáo
của bạn cả hai đều trong cùng một con thuyền. Chẳng
một li khác biệt! Thái độ của họ là như nhau, cách
tiếp cận của họ là như nhau.
Phật mới thực mang tính tôn giáo theo cách này,
cách ông ấy nói: Ham muốn không thể nào được hoàn
thành. Bạn phải nhìn vào ham muốn. Không ở đây mà
cũng chẳng ở bất kì đâu khác mà ham muốn được
hoàn thành, không bao giờ. Điều đó chưa bao giờ xảy
ra và sẽ không bao giờ xảy ra cả - bởi vì điều đó là
ngược với bản chất của ham muốn.
Ham muốn là gì? Bạn đã bao giờ nhìn vào việc
ham muốn của mình chưa? Bạn đã bao giờ đương đầu
với nó chưa? Bạn đã cố gắng suy tư về nó chưa? Ham
muốn là gì?
Bạn ham muốn ngôi nhà nào đó; bạn làm việc vì
nó, bạn làm việc vất vả. Bạn phá huỷ cả cuộc đời
mình cho nó - thế rồi ngôi nhà có đó. Nhưng có sự
hoàn thành không? Một khi ngôi nhà có đó, bỗng
nhiên bạn cảm thấy rất trống rỗng - bạn cảm thấy còn
trống rỗng hơn trước đây, bởi vì trước đây có mối bận
tâm để đạt tới ngôi nhà này. Bây giờ nó đây rồi: ngay
lập tức tâm trí bạn bắt đầu tìm cái gì đó khác để được
bận tâm vào. Bây giờ có những ngôi nhà lớn hơn; tâm trí bạn bắt đầu nghĩ tới những ngôi nhà lớn hơn đó.
Có những lâu đài lớn hơn... Bạn ham muốn một người
đàn bà và bạn đã đạt được ham muốn của mình, thế
rồi bỗng nhiên tay bạn lại trống rỗng. Lần nữa bạn bắt
đầu ham muốn người đàn bà khác nào đó.
Đây là bản chất của ham muốn. Ham muốn bao
giờ cũng lao lên trước bạn. Ham muốn bao giờ cũng
trong tương lai. Ham muốn là hi vọng. Ham muốn
không thể nào được hoàn thành bởi vì chính bản chất
của nó là vẫn còn không được hoàn thành và được
phóng chiếu vào tương lai. Nó bao giờ cũng ở trên
đường chân trời.
Bạn có thể xô tới, bạn có thể chạy về đường chân
trời, nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ tới được cả: dù bạn
tới đâu thì bạn đều sẽ thấy đường chân trời đã lùi ra
xa. Và khoảng cách giữa bạn và đường chân trời vẫn
còn hoàn toàn như cũ. Bạn có mười nghìn ru pi, ham
muốn là về hai mươi nghìn ru pi; bạn có hai mươi
nghìn ru pu, ham muốn là bốn mươi nghìn ru pi.
Khoảng cách vẫn thế; tỉ lệ toán học vẫn thế.
Bất kì cái gì bạn có, ham muốn bao giờ cũng đi
lên trước nó.
Phật nói: Bỏ hi vọng, bỏ ham muốn đi. Trong việc
bỏ hi vọng, trong việc bỏ ham muốn, bạn sẽ ở đây bây
giờ. Không ham muốn, bạn sẽ được hoàn thành.
Chính ham muốn đang lừa dối bạn.
Cho nên khi Phật nói rằng cái gọi là những người
tôn giáo này tất cả đều là người duy vật, thì tất nhiên
người Hindu giận lắm - giận lắm; họ chưa bao giờ
giận dữ như thế với bất kì ai. Họ đã cố gắng nhổ tận
rễ tôn giáo của Phật khỏi Ấn Độ, và họ đã thành công.
Phật giáo đã sinh ra ở Ấn Độ, nhưng Phật giáo không
tồn tại ở Ấn Độ - bởi vì tôn giáo của người Hindu là
một trong những tôn giáo duy vật nhất trên thế giới.
Bạn cứ nhìn vào Vedas mà xem: mọi cầu nguyện,
mọi tôn thờ, đều chỉ để cầu xin nhiều thêm, thêm nữa,
từ các thần hay từ Thượng đế - mọi hi sinh đều để xin
nhiều thêm. Mọi tôn thờ đều mang tính ham muốn.
"Xin cho chúng con thêm nữa! Xin cho chúng con
nhiều vào! Mùa màng tốt hơn, mưa tốt hơn, nhiều tiền
hơn, nhiều sức khoẻ hơn, nhiều cuộc sống hơn, sống
lâu hơn - xin cho chúng con nhiều hơn!" Toàn thể
Veda chẳng là gì ngoài ham muốn được viết to lên.
Và đôi khi lại còn rất xấu. Trong Veda cái gọi là rishi
không chỉ cứ cầu nguyện "Xin cho chúng con nhiều
hơn!" - họ còn cầu nguyện: "Đừng cho kẻ thù của
chúng con! Cho bò của con nhiều sữa hơn, nhưng để
cho bò của kẻ thù chết đi hay để sữa của nó mất đi!"
Đây là cái kiểu tôn giáo gì vậy? Thậm chí gọi nó
là tôn giáo cũng có vẻ ngớ ngẩn. Nếu đây là tôn giáo,
thì chủ nghĩa duy vật là gì? Và ngay cả cái gọi là
người khổ hạnh, người đã từ bỏ thế giới... và đã có
nhiều người như vậy vào thời của Phật. Bản thân ông
ấy đã tới nhiều thầy giáo trong khi ông ấy tìm kiếm,
nhưng từ mọi nơi ông ấy đều đã quay về với bàn tay
trống rỗng - bởi vì ông ấy đã không thể nào thấy được
rằng đã có ai thực sự hiểu bản chất của ham muốn.
Bản thân họ cũng ham muốn; tất nhiên, ham muốn
của họ đã được phóng chiếu vào tương lai xa xăm,
kiếp sống khác, nhưng đối tượng của ham muốn vẫn
thế, tâm trí ham muốn vẫn thế. Vấn đề chỉ là thời
gian.
ham muốn sau khi chết, nhưng khác biệt là gì? - điều
đó chẳng tạo ra khác biệt gì cả. Họ ham muốn cùng
một điều - họ ham muốn! Ham muốn là như nhau.
Phật đã đi tới nhiều thầy và đã thất vọng. Ông ấy
không thể nào thấy nở hoa tôn giáo ở đâu cả, việc
bừng nở - họ tất cả đều là người duy vật. Họ đã là
những nhà khổ hạnh lớn: ai đó nhịn ăn hàng tháng, ai
đó đã không ngủ hàng năm - họ chỉ là những bộ
xương. Bạn không thể gọi họ là phàm nhân và duy vật
được nếu bạn nhìn vào thân thể họ; nhưng nhìn vào
tâm trí họ, hỏi họ, "Sao các ông lại nhịn ăn? Sao các
ông cố gắng vất vả thế? Để làm gì?" và có việc nảy
sinh ham muốn đạt tới thiên đường hay cõi trời, đạt
tới ban thưởng trong kiếp sau.
Nghe logic của họ và họ tất cả đều sẽ nói, "Tại
đây mọi thứ đang biến đi nhanh chóng. Cuộc sống
này là tạm bợ. Cho dù bạn có đạt được, mọi thứ đều
bị lấy đi khi bạn chết, vậy phỏng có ích gì? Cuộc sống
này sẽ không kéo dài mãi. Chúng ta đang tìm kiếm cái
gì đó sẽ còn lại mãi - chúng ta theo đuổi cái bất tử,
chúng ta theo đuổi ban thưởng tuyệt đối. Nhưng
người ở đây, trong cuộc đời này, đang theo đuổi các
ham muốn đều là kẻ ngu bởi vì cái chết sẽ lấy đi mọi
thứ. Bạn tích luỹ của cải, và ở đây cái chết tới và tất
cả bị bỏ lại đằng sau. Chúng ta đang tìm kiếm kho báu
mà chúng ta có thể lấy cho chính mình, cái không bao
giờ mất, cái không thể bị đánh cắp được, không chính
phủ nào có thể đánh thuế nó được - không ai có thể
lấy nó đi được, ngay cả cái chết cũng không lấy đi
được."
Bạn gọi những người này là người tôn giáo sao?
Họ dường như thậm chí còn phàm nhân hơn cái gọi là
phàm nhân; họ còn duy vật hơn những người duy vật.
Tất nhiên, chủ nghĩa duy vật của họ được trang phục
trá hình; chủ nghĩa duy vật của họ mang hương vị tâm
linh - nhưng nó là lừa dối. Dường như đấy là đống
phân bạn đã vẩy nước hoa vào đó. Đống phân thì vẫn
cứ là đống phân thôi; nước hoa chỉ có thể lừa được kẻ
ngu.
Phật không bị lừa, ông ấy có thể thấy một cách tỏ
tường. Và ông ấy bao giờ cũng có thể thấy rằng ham
muốn có đó. Nếu ham muốn có đó, bạn là người duy
vật và bạn là phàm nhân.
Cho nên ông ấy không thuyết giảng về thiên
đường cho bạn, ông ấy không tin vào bất kì thiên
đường nào cả. Không phải là ông ấy không tin vào
phúc lạc, không. Ông ấy tin vào phúc lạc, nhưng đấy
không phải là niềm tin: khi mọi thiên đường đều mất
đi, khi mọi ham muốn đều bị bỏ đi, bỗng nhiên chính
bản tính bên trong nhất của bạn là phúc lạc. Với nó,
chẳng cái gì được cần tới cả - không cần đức hạnh,
không cần khổ hạnh, không cần hi sinh. Chỉ hiểu biết
là đủ.
Đạo của Phật là đạo của hiểu biết.
Và điều thứ ba trước khi chúng ta đi vào lời kinh:
Ông ấy không tin vào linh hồn - không Thượng đế,
không thiên đường, không linh hồn. Bây giờ điều này
dường như rất khó.
có thể đấy chỉ là phóng chiếu; ai đã nhìn thấy đâu?
Chúng ta có thể chấp nhận không thiên đường - có thể
nó chỉ là ham muốn chưa hoàn thành của chúng ta mơ
về nó mà thôi. Nhưng không linh hồn sao? Thế thì
bạn lấy đi toàn bộ mảnh đất bên dưới rồi. Không linh
hồn sao? - thế thì tất cả còn có ích gì nữa? Nếu không
có linh hồn trong con người, nếu chẳng có gì bất tử
trong con người, thế thì sao phải làm nhiều nỗ lực
thế? sao lại thiền? để làm gì?
Phật nói ý tưởng này về cái ngã là hiểu nhầm. Bạn
hiện hữu, nhưng bạn không phải là cái ngã. Bạn hiện
hữu, nhưng bạn không tách ra khỏi vũ trụ này. Sự
tách biệt là ý tưởng gốc rễ trong khái niệm về cái ngã:
nếu tôi tách ra khỏi bạn thế thì tôi có một cái ngã; nếu
bạn tách ra khỏi tôi thì bạn có một cái ngã.
Nhưng Phật nói: Sự tồn tại là một. Không có biên
giới. Không ai là tách rời khỏi bất kì ai khác. Chúng
ta sống trong một đại dương tâm thức. Chúng ta là
một tâm thức - bị đánh lừa bởi biên giới của thân thể,
bị đánh lừa bởi biên giới của tâm trí. Và bởi vì thân
thể và tâm trí, và bởi vì sự đồng nhất với thân thể và
tâm trí, chúng ta nghĩ chúng ta tách biệt, chúng ta
nghĩ chúng ta là cái ngã. Đây là cách chúng ta tạo ra
bản ngã.
Điểu đó cũng giống như trên bản đồ bạn thấy Ấn
Độ, nhưng trên chính mặt đất thì lại không có Ấn Độ -
chỉ trên bản đồ của các chính khách. Trên bản đồ bạn
thấy lục địa Mĩ, lục địa Mĩ như tách rời, nhưng sâu
bên dưới, xuống dưới đại dương, trái đất là một. Mọi
lục địa đều cùng nhau, chúng tất cả là một trên trái
đất.
Chúng ta tách rời chỉ trên bề mặt. Chúng ta càng
đi sâu hơn, tách rời càng biến mất nhiều hơn. Khi
chúng ta đi tới chính cốt lõi của bản thể mình, bỗng
nhiên nó là vũ trụ, không có cái ngã trong nó, không
có linh hồn ở đó.
Phật không có niềm tin vào Thượng đế, vào linh
hồn, vào moksha. Thế thì giáo huấn của ông ấy là gì?
Giáo huấn của ông ấy là cách sống, không phải cách
tin. Giáo huấn của ông ấy là rất khoa học, rất kinh
nghiệm, rất thực tế. Ông ấy không phải là triết gia,
không phải là nhà siêu hình. Ông ấy là người ngay
trên đất bằng.
Phật nói: Ông có thể thay đổi được cuộc sống của
mình - những niềm tin này là không cần thiết. Trong
thực tế, những niềm tin này là rào chắn cho sự thay
đổi thực. Bắt đầu không bằng niềm tin nào, bắt đầu
không bằng siêu hình, bắt đầu không bằng giáo điều.
Bắt đầu hoàn toàn trần trụi, không thượng đế học,
không ý thức hệ. Bắt đầu từ trống rỗng! Đó là cách
duy nhất để đi tới chân lí.
Tôi mới đọc một giai thoại:
Nhà buôn đang đi du hành mở cuốn Kinh thánh
Gideon trong phòng khách sạn. Trên trang đầu ông ta
đọc câu viết: "Nếu bạn ốm, đọc bài thánh ca 18; nếu
bạn gặp rắc rối về chuyện gia đình, đọc bài thánh ca
45; nếu bạn đơn độc, đọc bài thánh ca 92."
đọc nó. Khi ông ta đọc xong, ông ta chú ý tới đáy
trang có dòng chữ viết tay: "Nếu bạn vẫn còn thấy
đơn độc gọi số 888-3468 và hỏi Myrtle."
Nếu bạn nhìn sâu vào bên trong kinh sách của
mình, bạn bao giờ cũng thấy lời chú thích cuối trang
mà thường đúng hơn. Bạn tìm lời chú thích cuối trang
ấy trên mọi trang kinh sách! Đôi khi nó có thể không
được viết bằng mực thấy được, nhưng nếu bạn tìm kĩ
thì bạn bao giờ cũng thấy nó ở đó - lời chú thích cuối
trang thực tế hơn.
Phật nói tất cả mọi kinh sách của bạn đều chẳng là
gì ngoài ham muốn của bạn, bản năng của bạn, tham
lam của bạn, thèm khát của bạn, giận dữ của bạn. Tất
cả mọi kinh sách của bạn đều chẳng là gì ngoài bịa
đặt của tâm trí bạn. Cho nên nó nhất định phải là như
vậy, rằng chúng sẽ mang mọi hạt mầm của tâm trí
bạn. Kinh sách do con người tạo ra. Đó là lí do tại sao
các tôn giáo cố gắng tích cực chứng minh rằng kinh
sách của họ ít nhất thì cũng không do con người tạo
ra.
Người Ki tô giáo nói Kinh Thánh không do con
người tạo ra. Mười điều răn đã do Moses được nhận
trực tiếp từ Thượng đế, trực tiếp từ bản thân ông chủ.
Tân Ước là thông điệp trực tiếp từ con riêng của ông
ấy, đứa con duy nhất, Jesus Christ. Điều đó chẳng liên
quan gì tới nhân loại cả - nó tới từ bề trên. Người
Hindu nói Veda không do con người tạo ra, chúng là
do Thượng đế làm ra. Và cùng câu chuyện này cứ
được lặp lại: người Mô ha mét giáo nói Koran được
giáng xuống Mohammed từ trên trời.
Sao các tôn giáo này lại cứ khăng khăng rằng
kinh sách của họ, và đặc biệt chỉ kinh sách của họ,
chứ không phải là kinh sách của ai khác...? Người Mô
ha mét giáo không sẵn sàng chấp nhận rằng Veda do
Thượng đế làm ra, mà người Hindu cũng không sẵn
sàng chấp nhận rằng Koran do Thượng đế làm ra - chỉ
Veda của họ mới do Thượng đế làm ra còn mọi thứ
khác đều do con người chế tạo ra. Tại sao có sự khăng
khăng này? Bởi vì họ đều nhận biết rằng bất kì cái gì
con người tạo ra đều có dấu ấn của tâm trí con người
và ham muốn của con người.
Phật nói tất cả các kinh sách đều do con người
làm ra cả - và ông ấy đúng. Ông ấy không cuồng tín
chút nào. Ông ấy không thuộc vào bất kì quốc gia
nào, và ông ấy không thuộc về bất kì giống nòi nào;
ông ấy không thuộc về bất kì tôn giáo nào, bất kì giáo
phái nào. Ông ấy chỉ là ánh sáng chiếu lên mình. Và
bất kì cái gì ông ấy đã nói cũng đều là phát biểu thuần
khiết nhất về chân lí mà đã từng được đưa ra.
Tôi đã đọc... Paritosh đã gửi cho tôi giai thoại hay
này:
Một trong những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Ireland
được các tín đồ của mình yêu cầu lựa chọn chỗ chôn
thích hợp và đài kỉ niệm cho thi hài của ông ta. Cuộc
chiến tranh 'tôn giáo' đang diễn ra và cuộc sống của
ông ấy bị đe doạ.
Ba bản kế hoạch riêng biệt đã được đệ trình cho
ông ấy, và để làm mất tinh thần uỷ ban, ông ấy đã
chọn bản ít tốn phí nhất.
chọn này, tại sao ông ấy đã chọn chỗ an nghỉ khiêm
tốn này, khi hai thiết kế kia là những nấm mồ thật
tráng lệ.
"Thế này, các bạn thân mến của tôi," ông ấy bảo
họ, "Tôi đánh giá cao sự hào hiệp của các bạn. Nhưng
liệu có xứng đáng với mọi chi phí này không khi tôi
không định ở trong nấm mồ đó quá ba ngày?"
Bây giờ, cái loại ngu xuẩn này bạn sẽ chẳng bao
giờ tìm thấy trong Phật. Cái loại chắc chắn giáo điều
này bạn sẽ không bao giờ tìm thấy trong Phật đâu.
Ông ấy rất nước đôi. Chỉ có một tên tuổi khác cũng
nước đôi như vậy và người đó là Lão Tử; hai con
người này rất nước đôi.
Đôi khi, bởi vì sự nước đôi của họ, nên bạn có thể
không bị họ gây ấn tượng - bởi vì bạn bị lẫn lộn, bạn
cần ai đó tự tin đến mức bạn có thể dựa vào người đó.
Do đó, người cuồng tín gây ấn tượng cho bạn rất
nhiều. Họ có thể chẳng có gì để nói cả, nhưng họ đập
bàn nhiều thế, họ làm ồn ào về nó, đến mức chính sự
ồn ào của họ tạo cho bạn cảm giác rằng họ phải biết,
bằng không làm sao họ có thể chắc chắn thế? Các
nhân chứng về Jehovah và những người như vậy -
những người ngu, nhưng họ lại giáo điều trong những
khẳng định của mình tới mức họ tạo ra cảm giác về sự
chắc chắn. Và những người lẫn lộn cần sự chắc chắn.
Khi bạn tới vị phật, bạn có thể không bị ấn tượng
ngay lập tức bởi vì ông ấy sẽ nước đôi thế, ông ấy sẽ
không khẳng định điều gì cả. Ông ấy biết rõ hơn điều
đó: ông ấy biết rằng cuộc sống không thể bị hàm chứa
vào bất kì phát biểu nào, mọi phát biểu đều chỉ là bộ
phận. Không phát biểu nào có thể chứa toàn thể chân
lí, cho nên làm sao bạn có thể chắc chắn về nó được?
Ông ấy bao giờ cũng sẽ vẫn còn tương đối.
Hai bậc thầy vĩ đại của Ấn Độ, Phật và Mahavira,
cả hai đều rất sâu sắc về tính tương đối. Einstein đã
phát hiện ra điều đó rất muộn; Einstein đã đem tính
tương đối tới thế giới khoa học. Trước Einstein, các
nhà khoa học cũng đã rất chắc chắn, chắc chắn một
cách giáo điều, tuyệt đối chắc chắn. Einstein đã đem
tính tương đối tới và đem khiêm tốn cho khoa học, và
đem chân lí tới cho khoa học.
Cùng điều đó đã được Phật và Mahavira làm ở Ấn
Độ: họ đã đem tính tương đối vào, đem khái niệm là
chân lí không thể nào được khẳng định một cách toàn
bộ, rằng chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn về
nó cả, rằng nhiều nhất thì chúng ta có thể gợi ý về nó.
Lời gợi ý phải gián tiếp; chúng ta không thể chỉ thẳng
vào nó được - nó lớn thế, bao la thế. Và điều tự nhiên
là chúng ta, những con người mong manh này, nên
nước đôi. Sự nước đôi này chỉ ra sự tỉnh táo của ông
ấy.
Bạn bao giờ cũng thấy những người ngu, người
dốt rất giáo điều. Người càng dốt lại càng giáo điều.
Đây là một trong những điều bất hạnh lớn nhất trên
thế giới, rằng kẻ ngu tuyệt đối chắc chắn, và người trí
huệ nước đôi. Phật rất nước đôi. Cho nên nếu bạn
thực sự muốn hiểu ông ấy, bạn sẽ phải rất tỉnh táo
trong việc nghe của mình, rất cởi mở. Ông ấy không
giao chân lí cả đống cho bạn đâu. Ông ấy chỉ gợi ý tới... nhiều nhất là chỉ dẫn, và ngay cả những chỉ dẫn
đó cũng rất tinh tế.
Và, như tôi đã nói với bạn, Phật rất không viển
vông. Ông ấy không bao giờ bay cao vào siêu hình.
Trong thực tế, ông ấy không bao giờ giới thiệu; ông
ấy không có lời tựa cho phát biểu của mình. Ông ấy
đơn giản nói ra chúng một cách trực tiếp, ngay tức
khắc, đơn giản nhất có thể được. Đôi khi phát biểu
của ông ấy có thể dường như không có chiều sâu nào
- nhưng chúng lại có chiều sâu đấy. Nhưng ông ấy
không quanh co vòng vo, ông ấy không làm om sòm
về nó.
Tôi đã nghe:
Cô ấy là một người trẻ trung dịu dàng; anh ấy là
uỷ viên chấp hành kế toán đang lên nhanh cùng hãng
quảng cáo nổi tiếng ở Đại lộ Madison, Bittner,
Berman, Dirstein và Osman. Mọi người đều nghĩ đấy
là một cuộc hôn nhân lí tưởng. Nhưng hỡi ôi, lại có
vấn đề....với dục. Tuần trăng mật thậm chí đã không
bắt đầu nổi.
"Là-à người làm quảng cáo," cô ấy nức nở nói với
người bạn, "mọi việc anh ấy làm mọi đêm là ngồi trên
mép giường và kể cho tôi việc ấy diễn ra kì diệu thế
nào!"
Nhưng điều đó chẳng bao giờ xảy ra cả! Bạn có
thể hiểu về người làm quảng cáo: anh ta chỉ cứ nói
mãi việc ấy diễn ra kì diệu thế nào.
Phật không có lời nói đầu. Ông ấy không bao giờ
quảng cáo điều ông ấy sắp nói. Ông ấy chỉ nói điều đó
và tiến lên trước.
Phật nói:
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh quang.
Nhưng khi họ đã đạt được nó,
họ bị tác động trong nhiều năm.
Nếu các ông khao khát danh vọng trần tục
và không thực hành Đạo,
lao động của các ông bị dùng sai
và năng lượng của các ông bị phí hoài.
Điều đó cũng giống như đốt que hương.
Dù hương thơm của nó được thán phục đến
đâu,
ngọn lửa cũng vẫn dần dần
đốt cháy que hương."
Một phát biểu rất đơn giản và thực tế.
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh
quang."
Ham muốn ích kỉ là gì? Theo cách diễn đạt của
Phật, ham muốn ích kỉ là ham muốn dựa trên cái ngã.
Thông thường, theo ngôn ngữ bình thường, chúng ta
gọi một ham muốn là ích kỉ nếu nó chống lại ai đó
khác và bạn không để ý tới người khác. Cho dù nó
làm hại người khác, bạn vẫn cứ tiến tới và bạn hoàn
thành ham muốn của mình. Mọi người gọi bạn là ích kỉ bởi vì bạn không để ý tới người khác, bạn không
xem xét gì tới người khác.
Nhưng khi Phật nói một ham muốn là ích kỉ thì
nghĩa của ông ấy lại hoàn toàn khác. Ông ấy nói: Nếu
một ham muốn mà dựa trên ý tưởng về cái ngã thì nó
là ích kỉ.
Chẳng hạn: bạn tặng, bạn tặng một triệu ru pi, vì
một lí do tốt - xây bệnh viện hay mở trường học, hay
phân phối thức ăn cho người nghèo, hay gửi thuốc
men cho vùng nghèo của đất nước - không ai gọi nó là
ham muốn ích kỉ cả. Nhưng Phật sẽ nói nó là ích kỉ -
nếu có bất kì động cơ nào của cái ngã. Nếu bạn đang
nghĩ rằng bằng việc tặng một triệu ru pi bạn sẽ thu
được công đức và bạn sẽ được thưởng trên trời, thì
đấy là ham muốn ích kỉ. Nó có thể chẳng hại người
khác - nó không hại thật - trong thực tế, mọi người sẽ
ca ngợi điều đó. Mọi người sẽ gọi bạn là con người vĩ
đại, người tôn giáo, người công đức; người từ thiện vĩ
đại, đáng yêu, từ bi, thông cảm. Nhưng Phật sẽ nói
điều duy nhất xác định liệu một ham muốn là ích kỉ
hay không là động cơ của nó.
Nếu bạn đã tặng mà không có động cơ nào, thế thì
nó không phải là ích kỉ. Nếu có bất kì động cơ nào ẩn
kín ở đâu đó - có ý thức, vô ý thức - rằng bạn định thu
lấy cái gì đó từ nó, ở đây hay ở kiếp sau, thì nó là ham
muốn ích kỉ. Cái bắt nguồn từ cái ngã là ham muốn
ích kỉ; cái tới như một phần của bản ngã là ham muốn
ích kỉ. Nếu bạn thiền chỉ để đạt tới cái ngã của mình,
nó là ham muốn ích kỉ.
Phật đã nói với đệ tử của mình: Bất kì khi nào các
ông thiền, sau mỗi lần thiền, giao mọi thứ các ông đã
thu được từ việc thiền, giao nó cho vũ trụ. Nếu các
ông phúc lạc, rót nó trở lại cho vũ trụ - đừng mang nó
như kho báu. Nếu các ông cảm thấy rất hạnh phúc,
chia sẻ nó ngay lập tức - đừng trở nên bị gắn với nó,
bằng không bản thân việc thiền của các ông sẽ trở
thành quá trình mới của cái ngã. Và việc thiền tối
thượng không phải là quá trình của cái ngã. Việc thiền
tối thượng là quá trình đi ngày càng nhiều hơn vào cái
không ngã, vào cái vô ngã - nó là sự biến mất của cái
ngã.
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh quang.
Nhưng khi họ đã đạt được nó,
họ bị tác động trong nhiều năm."
Và Phật nói: Trông đây, các ông có thể đạt tới
danh vọng, tới vinh quang, tới quyền lực, tới uy tín,
sự kính trọng, trên thế giới này - nhưng các ông đang
làm gì đấy? Các ông có nhận biết không? Các ông
đang phí hoài cơ hội lớn - vì cái gì đó hoàn toàn vô
nghĩa. Các ông đang thu thập rác rưởi và phá huỷ thời
gian sống, năng lượng sống riêng của mình.
"Nếu các ông khao khát danh vọng trần tục
và không thực hành Đạo...
Phật bao giờ cũng gọi tôn giáo của mình là 'Đạo' -
dhamma - chỉ là Đạo, bởi vì ông ấy nói: đừng bị bận
tâm vào mục tiêu; mục tiêu sẽ tự nó chăm lo điều đó.
Các ông chỉ theo Đạo, thậm chí không có động cơ nào
để đạt tới bất kì mục tiêu nào mà chỉ vì sung sướng tột
đỉnh của thiền, cầu nguyện, yêu, từ bi, chia sẻ. Từ vui sướng tột đỉnh đó các ông thực hành Đạo. Không phải
là các ông định thu lấy bất kì lợi lộc nào từ nó; đừng
làm nó thành việc kinh doanh.
Thông thường tâm trí là nhà kinh doanh.
Ông bố già đang hấp hối và cả gia đình tụ tập
xung quanh giường chờ đợi ông trút hơi thở cuối
cùng. Khi ông già khò khè rời xa cuộc sống, người
con trai cả nói với người em và mọi người, "Khi bố ra
đi, nếu vào buổi tối, chúng ta có thể chôn bố sáng sớm
mai tại khu dịch vụ mai táng lớn trong thành phố. Vì
đám tang sẽ vào sáng sớm nên chúng ta sẽ không thể
báo cho quá nhiều người được, cho nên chúng ta sẽ
không cần nhiều xe to chỗ lớn, và điều đó sẽ không
tốn phí nhiều."
Con gái của ông ta đang đứng đó và cô ta nói với
người anh, "Anh biết đấy, cái chết này đối với em là
chuyện rất cá nhân. Sao chúng ta lại phải gọi cả đống
người lạ tới chứng kiến cảnh tượng buồn như vậy -
hai anh ở đó và em ở đó là được rồi, cần gì thêm
người nào khác nữa?"
Người em trai út nhìn vào họ và nói, "Em không
thể đồng ý với các anh chị thêm được. Trong thực tế,
sao chúng ta lại cần tốn kém để đem bố tới nơi làm
dịch vụ tang lễ vậy? Bố chết trong nhà, ta chôn luôn
bố trong nhà."
Và bỗng nhiên mắt ông già mở to ra. Ông ấy nhìn
vào ba người con rồi quát lên, "Đưa cho tao cái
quần!"
Họ đồng thanh trả lời, "Bố ơi, bố rất yếu. Bố
muốn đi đâu?"
Ông ấy đáp, "Đưa cho tao cái quần. Tao sẽ đi ra
nghĩa địa - tao là nhà kinh doanh."
Cả đời mọi người chỉ cứ tiết kiệm, tiết kiệm - để
làm gì? Cuộc sống đang tuột đi dần; từng khoảnh
khắc một khoảng khắc quí giá lại trôi qua và nó không
thể nào lấy lại được. Phật nói: đừng phí hoài nó vào
những thứ ngu xuẩn.
Danh vọng là ngu xuẩn, nó là lạc lõng, vô nghĩa.
Cho dù cả thế giới biết tới bạn, làm sao điều đó làm
cho bạn giầu hơn được? Làm sao điều đó làm cho
cuộc sống của bạn phúc lạc hơn? Làm sao nó giúp
cho bạn hiểu biết hơn? nhận biết hơn? tỉnh táo hơn?
sống động hơn?
Nếu bạn không thực hành Đạo:
"... lao động của các ông bị dùng sai
và năng lượng của các ông bị phí hoài.
Điều đó cũng giống như đốt que hương.
Dù hương thơm của nó được thán phục đến
đâu,
ngọn lửa cũng vẫn dần dần
đốt cháy que hương."
Đó là cách cuộc sống hiện hữu: từng khoảnh khắc
cháy dần. Bạn bao giờ cũng trên dàn hoả thiêu bởi vì
từng khoảnh khắc cái chết đang tới gần hơn, từng
khoảnh khắc bạn ít sống hơn, chết nhiều hơn. Cho nên
trước khi toàn bộ cơ hội này bị mất đi, Phật nói, đạt
tới trạng thái vô ngã - thế thì sẽ không có cái chết. Và thế thì sẽ không có khổ. Và thế thì sẽ không có thèm
muốn thường xuyên về danh vọng, quyền lực, uy tín.
Trong thực tế, bạn càng trống rỗng bên trong, bạn
càng tìm kiếm danh vọng; nó là một loại thay thế. Bạn
càng nghèo bên trong, bạn càng tìm kiếm cái giầu; nó
là việc thay thế bằng cách nào đó, tống vào bản thân
mình cái gì đó.
Tôi quan sát hàng ngày: mọi người tới tôi, và bất
kì khi nào họ có vấn đề với chuyện tình của mình, họ
lập tức bắt đầu ăn quá nhiều. Bất kì khi nào họ cảm
thấy rằng chuyện tình của họ lâm vào khủng hoảng,
họ không còn được yêu nữa, hay, họ không có khả
năng yêu, cái gì đó đã chắn đường năng lượng yêu
của họ, họ lập tức tọng vào mình đủ mọi thứ, họ cứ
ăn. Tại sao? Họ đang làm gì với thức ăn? Họ cảm
thấy trống rỗng - cái trống rỗng đó làm cho họ sợ. Họ
bằng cách nào đó phải tống thức ăn vào nó.
Nếu bạn cảm thấy hạnh phúc bên trong, bạn
không bận tâm tới danh vọng; chỉ người không hạnh
phúc mới bận tâm tới danh vọng. Ai bận tâm xem liệu
có ai biết tới bạn hay không, nếu bạn biết tới bản thân
mình? Nếu bạn biết tới bản thân mình bạn là ai, thế
thì không có nhu cầu. Nhưng khi bạn không biết mình
là ai bạn sẽ muốn mọi người biết tới - mọi người biết
bạn là ai. Bạn sẽ thu thập các ý kiến, bạn sẽ thu thập ý
tưởng của mọi người, và từ thu thập đó bạn sẽ cố
gắng phô ra một căn cước nào đó, rằng 'Đúng, mình là
con người này. Mọi người nói, 'Bạn thông minh lắm' -
mình thông minh thật." Bạn không chắc chắn. Nếu
bạn mà chắc chắn, ai bận tâm điều người khác nói?
Bạn cứ nhìn vào mắt người khác để xem khuôn
mặt mình - bạn không biết khuôn mặt mình. Bạn cầu
xin: "Nói cái gì đó về tôi đi. Nói - bạn đẹp lắm. Nói -
bạn đáng yêu lắm. Nói - bạn duyên dáng lắm. Nói
điều gì đó về tôi đi chứ?!" Bạn có quan sát bản thân
mình khi cầu xin: "Nói điều gì đó về thân thể tôi, về
tâm trí tôi, về hiểu biết của tôi đi - nói điều gì đó đi!"
Bạn ngay lập tức bám lấy nếu ai đó nói điều gì đó.
Và nếu ai đó nói điều gì đó gây chấn động và tan nát,
bạn trở nên rất giận dữ. Người đó đang phá huỷ hình
ảnh của bạn nếu người đó nói điều gì đó chống lại
bạn. Nếu người đó nói điều gì đó thiện ý cho bạn,
người đó giúp cho hình ảnh của bạn được trang điểm
thêm chút ít, nó trở thành được trang sức thêm chút ít
- bạn về nhà sung sướng. Tại sao?
Bạn không biết mình là ai. Đó là lí do tại sao bạn
cứ đi tìm kiếm. Bạn cứ đi hỏi mọi người "Tôi là ai?
Nói cho tôi đi!" Và bạn phải phụ thuộc vào họ. Và cái
đẹp của nó, hay cái chớ trêu của nó, là ở chỗ đấy là
những người chẳng biết mình là ai. Kẻ ăn mày này đi
xin kẻ ăn mày khác. Họ đã tới để xin bạn, cho nên có
lừa dối lẫn nhau.
Bạn bắt gặp một người đàn bà; bạn nói, "Đẹp thế!
Thiêng liêng thế!" Còn cô ấy nói, "Vâng, và em cũng
chưa bao giờ bắt gặp một người đàn ông đẹp trai như
anh." Đây là lừa dối lẫn nhau. Bạn có thể gọi nó là
tình yêu - đây là lừa dối lẫn nhau. Cả hai đều đang
khao khát sự đồng nhất nào đó về họ. Cả hai đáp ứng
cho ham muốn của nhau. Mọi thứ sẽ diễn ra tốt đẹp -
cho tới ngày một trong hai người quyết định rằng thế
là đủ rồi và bắt đầu vứt bỏ lừa dối. Thế thì tuần trăng mật chấm dứt... và hôn nhân bắt đầu. Thế rồi mọi sự
xấu đi. Thế thì bạn nghĩ "người đàn bà này lừa mình"
hay "người đàn ông này lừa mình." Không ai có thể
lừa được bạn chừng nào bạn không sẵn sàng để bị lừa,
nhớ lấy. Không ai đã bao giờ lừa được ai cả - trừ phi
bạn sẵn sàng để bị lừa, trừ phi bạn đang chờ đợi để bị
lừa.
Bạn không thể lừa được người biết tới bản thân
mình, bởi vì không có cách nào cả. Nếu bạn nói điều
gì đó, người đó sẽ cười to. Người đó sẽ nói, "Đừng lo
về điều đó - tôi đã tự biết mình là ai. Bạn có thể vứt
chủ đề đó đi và chuyển sang nói bất kì điều gì bạn
phải nói. Đừng bận tâm về tôi - tôi tự biết mình là ai."
Một khi bạn giầu có bên trong cuộc sống, bạn
không tìm kiếm của cải, bạn không tìm quyền lực.
Các nhà tâm lí đã trở nên nhận biết rằng khi mọi
người bắt đầu trở nên bất lực, họ bắt đầu tìm ra các
biểu tượng dục, dương vật nào đó. Nếu một người trở
nên bất lực người đó muốn biểu tượng dương vật nào
đó để thay thế nó. Người đó có thể cố gắng có chiếc
xe to nhất thế giới - đó là biểu tượng dương vật.
Người đó muốn có chiếc xe mạnh nhất thế giới; bây
giờ quyền lực riêng của người đó đã mất, năng lượng
dục riêng của người đó đã mất - bây giờ người đó
muốn cái thay thế. Trong khi tăng tốc chiếc xe của
mình tới tốc độ tối đa, người đó sẽ cảm thấy thoải mái
- cứ dường như người đó đang làm tình với người đàn
bà của mình. Chính tốc độ sẽ cho người đó sức mạnh.
Người đó sẽ được đồng nhất với chiếc xe.
Các nhà tâm lí đã quan sát hiện tượng này trong
nhiều năm, rằng những người có phức cảm tự ti nào
đó bao giờ cũng trở nên tham vọng. Trong thực tế,
không ai đi làm chính trị trừ phi người đó bị bắt rễ sâu
sắc vào phức cảm tự ti. Các chính khách về cơ bản là
người mang phức cảm tự ti. Họ phải chứng minh tính
cao siêu của mình theo cách nào đó, bằng không họ sẽ
không có khả năng sống với phức cảm tự ti của mình.
Điều tôi đang cố gắng chỉ ra là: bất kì điều gì bạn
bỏ lỡ bên trong, bạn đều cố gắng tích luỹ cái gì đó bên
ngoài làm cái thay thế cho nó. Nếu bạn không bỏ lỡ
cuộc sống của mình bên trong, bạn là đủ cho chính
mình rồi. Và chỉ thế thì bạn mới đẹp. Và chỉ thế thì
bạn mới hiện hữu.
Phật nói:
Những người bám dính lấy của cải trần tục
và niềm đam mê ích kỉ thì mù quáng
khi hi sinh những kiếp sống của mình vì chúng.
Họ giống như đứa trẻ cố liếm đốm mật
trên lưỡi dao.
Miếng mật chẳng đủ thoả mãn
cái thèm của nó,
nhưng gây nguy cơ làm đứt lưỡi nó.
Chẳng cái gì là đủ trong cuộc đời này để hoàn
thành các ham muốn của bạn, để hoàn thành cái thèm
của bạn. Thế giới này là thế giới mơ - chẳng cái gì có
thể hoàn thành được bởi vì chỉ thực tại mới có thể
hoàn thành.
Bạn có quan sát không? Trong giấc mơ một hôm
nào đó, bạn cảm thấy đói vào ban đêm và trong giấc
mơ bạn đi tới tủ lạnh và mở nó ra và bạn ăn một cách
thoả thích. Tất nhiên, theo một cách nào đó thì điều đó cũng tốt - nó không quấy rối giấc ngủ của bạn;
bằng không cái đói sẽ không cho phép bạn ngủ, bạn
sẽ phải thức dậy. Giấc mơ đã tạo ra vật thay thế; bạn
tiếp tục ngủ, bạn cảm thấy "Mình đã ăn đủ rồi." Bạn
đã lừa thân thể mình.
Giấc mơ là kẻ lừa dối. Sáng hôm sau bạn sẽ ngạc
nhiên - bạn vẫn đói - bởi vì bữa ăn trong mơ là tương
đương với việc nhịn ăn. Ăn hay nhịn - cả hai đều như
nhau trong mơ, bởi vì mơ là không thật. Nó không thể
thoả mãn được. Để làm dịu cơn khát thực, cần có
nước thực. Để thoả mãn, thực tại cuộc sống thực là
cần thiết.
Phật nói: Ông cứ tạo ra nguy cơ tự làm mình bị
thương, nhưng không hoàn thành nào tới từ cuộc sống
này. Có thể đây đó bạn đã nếm mật ong - ngọt đấy,
nhưng rất nguy hiểm, không thoả mãn. Và mật này là
miếng mật dính trên mép lưỡi dao; có mọi nguy cơ
bạn sẽ làm đứt lưỡi mình.
Bạn nhìn người già: bạn sẽ không thấy gì khác
ngoài những vết thương; toàn bộ bản thể của họ chẳng
là gì ngoài những vết thương - toàn những u là u. Khi
một người chết đi bạn không thấy hoa nở trong bản
thể người đó, bạn chỉ thấy những vết thương bốc mùi.
Nếu một người đã thực sự sống và không bị lừa
dối bởi mơ của mình và những ham muốn ảo tưởng,
người đó càng già sẽ càng trở nên đẹp hơn. Trong cái
chết người đó là thượng hạng.
Đôi khi bạn có thể bắt gặp người già có tuổi già
còn đẹp hơn tuổi thanh niên của người đó. Thế thì cúi
đầu trước người già đó đi - người đó đã sống một
cuộc sống đúng đắn, một cuộc sống hướng nội, một
cuộc sống 'nội tâm'. Bởi vì nếu cuộc sống mà được
sống một cách đúng đắn, thế thì bạn trở nên ngày một
đẹp hơn và huy hoàng bắt đầu tới với bạn, một vẻ
thanh tao; một cái gì đó của cái không biết bắt đầu tồn
tại ở ngoại vi của bạn - bạn trở thành nơi ở của cái vô
hạn, của cái vĩnh hằng. Nó phải là như vậy bởi vì
cuộc sống là sự tiến hoá.
Nếu khi bạn không còn trẻ nữa mà bạn trở nên
xấu, điều đó chỉ có nghĩa là trong tuổi thanh niên của
mình, bạn đã nếm mật trên quá nhiều dao - bạn đã trở
nên bị thương. Bây giờ bạn sẽ chịu đựng những vết
thương ung thư này. Tuổi già trở thành sự chịu đựng
lớn. Và cái chết rất hiếm khi đẹp, bởi vì rất hiếm
người đã thực sự sống.
Nếu một người đã thực sự sống - giống như ngọn
lửa cháy từ cả hai đầu - cái chết của người đó sẽ là
hiện tượng vô cùng trọng đại, cái đẹp tột cùng. Bạn sẽ
thấy cuộc sống của người đó chói sáng khi người đó
sắp chết, tới mức tối đa, tới mức cực thịnh. Trong
khoảnh khắc cuối này người đó sẽ trở thành ngọn lửa
như thế, toàn bộ cuộc sống của người đó sẽ trở thành
hương thơm tập trung vào khoảnh khắc đó, sự chói lọi
lớn lao sẽ nảy sinh trong bản thể người đó. Trước khi
người đó ra đi, người đó sẽ để lại sự ghi nhớ lấy.
Đó là điều đã xảy ra khi Phật rời khỏi thế giới
này. Đó là điều đã xảy ra khi Mahavira rời khỏi thế
giới này. Chúng ta đã không quên họ, không phải bởi
vì họ là các chính khách vĩ đại hay những người có
quyền lực lớn lao - họ là không ai cả, nhưng chúng ta
không thể quên được họ. Không thể nào quên được họ. Họ đã chẳng làm gì cả khi có liên quan tới lịch sử.
Chúng ta có thể gần như bỏ quên họ trong lịch sử,
chúng ta có thể quên lãng họ trong lịch sử - chẳng cái
gì bị mất cả. Trong thực tế, họ chưa bao giờ tồn tại
trong luồng lịch sử chính; họ ở bên lề của nó, nhưng
không thể nào quên họ được. Chính khoảnh khắc cuối
cùng của họ đã để lại niềm vinh quang thế cho nhân
loại. Sự rực rỡ cuối cùng của họ đã chỉ ra cho chúng
ta khả năng riêng của chúng ta, tiềm năng vô hạn của
chúng ta.
Phật nói:
"Con người bị ràng buộc chặt với gia đình và
của cải của mình còn bất lực hơn là trong tù.
Có cơ hội để tù nhân được thoát ra,
nhưng người chủ gia đình không ấp ủ ham
muốn được thoát ra khỏi mối ràng buộc gia
đình.
Khi niềm đam mê của con người nảy sinh
chẳng cái gì ngăn cản được người đó khỏi làm
tàn tạ bản thân mình.
Ngay cả đến dạ dầy hổ người đó cũng nhảy vào.
Do vậy những người bị nhấn chìm trong rác
rưởi của đam mê được gọi là kẻ dốt nát.
Những người có khả năng vượt qua nó là a la
hán thánh thiện.
Phật nói: Những người bị lạc trong rác rưởi của
đam mê và không bao giờ siêu việt lên trên nó, những
người không bao giờ siêu việt lên như hoa sen vươn
lên khỏi bùn mà nó được sinh ra, họ là người dốt nát,
phàm nhân. Những người siêu việt lên trên thèm khát
và ham muốn, những người hiểu ra cái vô ích của
ham muốn, và những người trở nên hiểu biết về toàn
bộ cái vô nghĩa mà tâm trí tạo ra và những ước mơ mà
nó chế ra, họ là những a la hán vĩ đại.
'A la hán', chính từ này nghĩa là người đã vượt
qua kẻ thù của mình. Phật nói ham muốn, việc ham
muốn, là kẻ thù của bạn. Một khi bạn đã vượt qua
ham muốn của mình, bạn đã vượt qua được kẻ thù của
mình, bạn đã trở thành a la hán. A la hán là mục tiêu:
trở thành vô ham muốn - bởi vì chỉ khi bạn vô ham
muốn thì mới có phúc lành.
Cái gọi là các tôn giáo của chúng ta đều dựa trên
sợ hãi. Tôn giáo của Phật dựa trên phúc lành bên
trong. Chúng ta tôn thờ Thượng đế bởi vì chúng ta sợ,
bởi vì chúng ta không biết phải làm gì với cuộc sống
của mình. Chúng ta liên tục run rẩy, sợ hãi - cái chết
đang tới và chúng ta không biết phải làm gì, làm sao
tự bảo vệ mình. Chúng ta cần người bảo vệ. Đấy là từ
sợ hãi. Tôn giáo của Phật là dựa vào phúc lành bên
trong, dựa vào hạnh phúc bên trong - nó chẳng liên
quan gì tới sợ hãi cả.
Để tôi kể cho các bạn một giai thoại:
Henry đi săn chuyến đầu tiên. Khi anh ta trở về
văn phòng của mình thì anh bạn Morris nôn nóng
được nghe tất cả mọi điều về chuyến đi của anh ta
được. Henry kể cho anh ta, "Này, tớ đi vào rừng với
người hướng dẫn. Cậu biết tớ đấy, hai phút trong
rừng, tớ bị lạc. Tớ bước đi cực kì lặng lẽ, thì bỗng
nhiên một con gấu to đùng mà cậu chưa từng thấy
đang đứng ngay bên phải phía trước tớ. Tớ rẽ quanh
và chạy thục mạng và con gấu kia, nó chạy còn nhanh hơn. Ngay khi tớ cảm thấy hơi thở nóng hổi của nó
phả vào gáy, thì nó trượt chân ngã nhào. Tớ nhảy qua
suối và chạy tiếp, nhưng tớ hết hơi và chắc rằng con
gấu kia đang tiến lại gần tớ lần nữa. Nó gần như trên
trốc tớ thì nó lại trượt chân và ngã nhào. Tớ cứ chạy
và cuối cùng tớ thấy mình ở khu đất thoáng của khu
rừng. Con gấu đang chạy nhanh hết sức và tớ biết tớ
sẽ không có cơ hội thoát nữa. Tớ thấy những người
thợ săn khác và kêu cứu, và ngay lúc đó con gấu lại
trượt chân và ngã lần nữa. Người hướng dẫn của tớ có
khả năng ngắm bắn và anh ta đã bắn con gấu và giết
chết nó."
Morris nói, "Henry, đấy là cả một câu chuyện.
Cậu là người rất bạo dạn. Nếu như điều đó mà xảy ra
cho tớ, thì tớ đã bĩnh ra quần rồi."
Henry nhìn anh ta và nhún vai, "Morris, cậu nghĩ
thế nào con gấu ấy còn trượt chân nữa không?"
Cái gọi là các tôn giáo chỉ bắt nguồn từ sợ hãi. Và
bất kì cái gì dựa trên sợ hãi thì không bao giờ có thể
đẹp được. Các thượng đế của bạn, các nhà thờ của
bạn, các đền đài của bạn, nếu chúng bắt nguồn từ nỗi
sợ của bạn thì chúng đều bốc mùi - chúng nhất định
bốc mùi sợ hãi của bạn.
Tôn giáo của Phật không dựa trên sợ hãi chút nào.
Đó là lí do tại sao ông ấy lại nói bước đầu tiên là vứt
bỏ mọi niềm tin. Những niềm tin đó hiện hữu bởi vì
sợ hãi. Với việc vứt bỏ niềm tin bạn sẽ trở nên nhận
biết về nỗi sợ của mình, và điều đó là tốt, trở nên nhận
biết về nỗi sợ của mình. Bạn sẽ trở nên nhận biết về
cái chết của mình. Bạn sẽ trở nên nhận biết về toàn
thể vũ trụ vô hạn này - chẳng đâu mà đi, không ai
hướng dẫn, chẳng đâu tìm được bất kì an toàn nào.
Trong nỗi sợ đó, trong nhận biết về nỗi sợ đó, chỗ duy
nhất còn lại sẽ là bắt đầu đi vào bên trong - bởi vì
chẳng có ích gì mà đi đâu cả. Nó bao la thế.
Cuộc hành trình bên trong bắt đầu khi bạn đã vứt
bỏ mọi niềm tin và bạn đã trở nên nhận biết về nỗi sợ,
cái chết, ham muốn. Và một khi bạn đã đi vào trong,
bỗng nhiên bạn thấy nỗi sợ biến mất; bởi vì trong cốt
lõi sâu nhất của bản thể bạn không bao giờ có bất kì
cái chết nào cả, không thể có được. Cốt lõi bên trong
nhất của bạn là hoàn toàn vô ngã.
Cái ngã có thể chết. Cái vô ngã không thể chết.
Nếu có cái gì đó, nó có thể bị phá huỷ. Đó là lí do tại
sao Phật nói chẳng có gì bên trong bạn - bạn là cái
không thuần khiết. Cái không đó không thể nào bị phá
huỷ. Và một khi bạn đã hiểu nó, rằng cái chết không
thể phá huỷ được, rằng cái không này là đẹp đẽ thế
trong chính nó, thì không có nhu cầu cứ nhồi nhét vào
nó bằng tiền bạc, quyền lực, uy tín, danh vọng. Cái
không này là thuần khiết và hồn nhiên và đẹp tới mức
bạn được phúc lành trong nó. Bạn bắt đầu nhảy múa
trong cái không đó. Cái không đó bắt đầu là điệu vũ.
Phật hướng dẫn bạn tới điệu vũ đó.
Khi Phật sắp chết, Ananda bắt đầu khóc và ông ấy
nói, "Bây giờ tôi biết làm gì đây? Thầy đang ra đi và
tôi vẫn chưa trở nên chứng ngộ."
Phật nói, "Đừng khóc nữa, bởi vì ta không thể làm
cho ông chứng ngộ được - chỉ ông mới có thể làm được phép màu đó cho bản thân mình. Là ánh sáng
lên chính mình đi - appa deepo bhava."
Phật ném nhân loại vào cốt lõi bên trong nhất.
Phật nói: đi vào bên trong đi - và không có chỗ nào
khác mà đi đâu. Bạn là điện thờ. Đi vào bên trong đi!
Và không có Thượng đế khác ở đâu cả để mà tôn thờ.
Bạn càng đi vào bên trong, tâm thức tôn thờ sẽ càng
nảy sinh - không có bất kì vật nào để tôn thờ; cầu
nguyện sẽ nảy sinh, không hướng tới bất kì ai. Cầu
nguyện thuần khiết... từ phúc lạc, từ bản thể, từ phúc
lành bên trong.
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh quang.
Nhưng khi họ đã đạt được nó,
họ bị tác động trong nhiều năm.
Nếu các ông khao khát danh vọng trần tục
và không thực hành Đạo,
lao động của các ông bị dùng sai
và năng lượng của các ông bị phí hoài.
Điều đó cũng giống như đốt que hương.
Dù hương thơm của nó được thán phục đến
đâu,
ngọn lửa vẫn dần dần
đốt cháy que hương."
Phật nói:
"Những người bám dính lấy của cải trần tục
và niềm đam mê ích kỉ thì mù quáng
khi hi sinh những kiếp sống của mình vì chúng.
Họ giống như đứa trẻ cố liếm
đốm mật trên lưỡi dao.
Miếng mật chẳng đủ
thoả mãn cái thèm của nó,
nhưng gây nguy cơ làm đứt lưỡi nó."
Phật nói:
"Con người bị ràng buộc chặt với
gia đình và của cải của mình
còn bất lực hơn là trong tù.
Có cơ hội để tù nhân được thoát ra,
nhưng người chủ gia đình không
ấp ủ ham muốn được thoát ra
khỏi mối ràng buộc gia đình.
Khi niềm đam mê của con người nảy sinh
chẳng cái gì ngăn cản được người đó khỏi làm
tàn tạ bản thân mình.
Ngay cả dạ dầy hổ người đó cũng nhảy vào.
Do vậy những người bị nhấn chìm trong rác
rưởi của đam mê được gọi là kẻ dốt nát.
Những người có khả năng vượt qua nó
là a la hán thánh thiện."
bình thường của từ này, bởi vì nó không có hệ thống
đức tin, không giáo điều, không kinh sách. Nó không
tin vào Thượng đế, nó không tin vào linh hồn, nó
không tin vào bất kì trạng thái moksha nào. Nó là vô
đức tin hoàn toàn - ấy vậy mà nó lại là tôn giáo.
Nó là duy nhất. Chưa từng có cái gì đã xảy ra
trước đây giống như điều đó trong lịch sử tâm thức
con người, và về sau cũng không có cái gì như thế cả.
Phật vẫn còn hoàn toàn duy nhất, vô song.
Ông ấy nói rằng Thượng đế chẳng là gì ngoài việc
tìm kiếm an ninh, tìm kiến an toàn, tìm kiếm chỗ trú
ẩn. Bạn tin vào Thượng đế, không phải bởi vì Thượng
đế có đó; bạn tin vào Thượng đế bởi vì bạn cảm thấy
bất lực nếu không có niềm tin đó. Cho dù không có
Thượng đế, bạn sẽ cứ bịa ra. Cán dỗ này tới từ yếu
đuối của bạn. Nó là phóng chiếu.
Con người cảm thấy bị rất giới hạn, rất bất lực,
gần như là nạn nhân của hoàn cảnh - không biết mình
tới từ đâu và không biết mình đi đâu, không biết tại
sao mình ở đây. Nếu không có Thượng đế thì rất khó
cho người thường thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống.
Tâm trí bình thường sẽ nổi đoá nếu không có Thượng
đế.
Thượng đế là chỗ dựa tinh thần - nó giúp bạn, nó
an ủi bạn, nó tạo thoải mái cho bạn. Nó nói, "Đừng lo
- Thượng đế Toàn năng biết mọi điều về tại sao mình
lại ở đây. Ngài là Đấng sáng tạo, ngài biết tại sao ngài
đã tạo ra thế giới này. Mình có thể không biết nhưng
Cha biết, và mình có thể tin cậy vào ngài." Đấy là sự
an ủi lớn.
Chính ý tưởng về Thượng đế cho bạn cảm giác
nhẹ nhõm - rằng bạn không một mình, rằng ai đó
đang chăm lo mọi việc; rằng vũ trụ này không hỗn
độn, nó thực sự hài hoà; rằng có một hệ thống đằng
sau nó, rằng có logic đằng sau nó; rằng đấy không
phải là mớ bòng bong phi logic của mọi vật, rằng nó
không là hỗn loạn. Ai đó đang cai quản nó; nhà vua
tối cao có đó đang chăm lo tới từng chi tiết nhỏ nhất -
thậm chí đến một chiếc lá rung rinh cũng là việc ông
ấy làm cho nó rung rinh. Mọi thứ đều được lập kế
hoạch. Bạn là một phần của định mệnh vĩ đại. Có thể
bạn không biết tới ý nghĩa, nhưng ý nghĩa có đó - bởi
vì Thượng đế có đó.
Thượng đế đem tới nhẹ nhõm vô cùng. Người ta
bắt đầu cảm thấy rằng cuộc sống không ngẫu nhiên;
có dòng chảy ngầm của ý nghĩa, định mệnh. Thượng
đế đem tới cảm giác về định mệnh.
Phật nói: Không có Thượng đế - điều đó đơn giản
chỉ ra rằng con người không biết tại sao mình ở đây.
Điều đó đơn giản chỉ ra rằng con người bất lực. Điều
đó đơn giản chỉ ra rằng con người không có ý nghĩa
có sẵn cho mình. Bằng việc tạo ra ý tưởng về Thượng
đế con người có thể tin tưởng vào ý nghĩa, và con
người có thể sống cuộc sống vô ích này với ý tưởng
rằng ai đó đang chăm nom nó.
Nghĩ xem: bạn đang trong chuyến bay trên trời và
ai đó tới và nói, "Không có phi công." Bỗng nhiên có
hoảng sợ. Không phi công sao? 'Không phi công' đơn
giản nghĩa là bạn tận số. Thế rồi ai đó nói, "Cứ tin phi công đang có đó - vô hình. Chúng ta có thể không có
khả năng thấy được phi công, nhưng ông ấy có đó;
bằng không làm sao cái máy đẹp đẽ này còn bay
được? Cứ nghĩ về điều đó mà xem: mọi thứ diễn ra
tuyệt vời thế - phải có phi công chứ! Có thể chúng ta
không có khả năng thấy ông ấy, có thể chúng ta còn
chưa mang tính cầu nguyện đủ để thấy được ông ấy,
có thể mắt chúng ta nhắm, nhưng phi công đang có
đó. Bằng không làm sao điều này lại có thể được? Cái
máy bay này đã cất cánh, nó đang bay hoàn hảo; động
cơ đang ù ù đấy. Mọi thứ đều là bằng chứng rằng có
phi công."
Nếu ai đó chứng minh điều này, bạn thảnh thơi
trong ghế của mình. Bạn nhắm mắt lại, bạn lại bắt đầu
mơ - bạn có thể rơi vào giấc ngủ. Phi công đang có
đó, bạn không cần phải lo.
Phật nói: Phi công không có đâu - đấy là bịa đặt
của con người thôi. Con người đã bịa ra Thượng đế
theo hình ảnh riêng của mình. Đấy là phát minh của
con người; Thượng đế không phải là khám phá, đấy là
bịa đặt. Và Thượng đế không phải là chân lí - đấy là
dối trá lớn nhất đang có đó.
Đó là lí do tại sao tôi nói Phật giáo không phải là
tôn giáo theo nghĩ thường của từ này. Một tôn giáo vô
Thượng đế - bạn có thể tưởng tượng ra được không?
Khi lần đầu tiên các học giả phương Tây trở nên nhận
biết về Phật giáo, họ choáng. Họ không thể nào hiểu
được rằng tôn giáo có thể tồn tại - mà lại không có
Thượng đế! Họ đã chỉ biết Do Thái giáo, Ki tô giáo
và Mô ha mét giáo. Cả ba tôn giáo này đều rất non nớt
nếu so với Phật giáo.
Phật giáo là tôn giáo đến tuổi trưởng thành. Phật
giáo là tôn giáo của tâm trí chín chắn. Phật giáo
không ngây thơ chút nào - và nó cũng không giúp cho
bất kì ham muốn trẻ con nào trong bạn. Nó rất tàn
nhẫn. Để tôi nhắc lại điều đó: Chưa bao giờ có người
nào từ bi hơn Phật, nhưng tôn giáo của ông ấy lại tàn
nhẫn.
Trong thực tế, trong tàn nhẫn đó ông ấy thể hiện
từ bi của mình. Ông ấy sẽ không cho phép bạn níu
bám lấy bất kì dối trá nào. Dù mang tính an ủi đến
đâu, dối trá vẫn cứ là dối trá. Và những người đã trao
cho bạn dối trá, họ không phải là bạn của bạn, họ là
kẻ thù - bởi vì với tác động của dối trá bạn sẽ sống
một cuộc sống đầy những dối trá.
Chân lí phải được đem tới cho bạn, dù nghiêm
khắc thế nào, dù gây tan nát thế nào, dù gây choáng
váng thế nào. Cho dù bạn bị triệt tiêu bởi tác động của
chân lí thì đấy cũng là điều tốt.
Phật nói: Chân lí là ở chỗ tôn giáo của con người
là bịa đặt của con người. Bạn đang trong bóng tối bị
bao quanh bởi các lực ngoại lai. Bạn cần ai đó để bám
vào, ai đó để níu lấy.
Và mọi thứ bạn có thể thấy được đang thay đổi -
bố bạn sẽ chết một ngày nào đó và bạn sẽ bị bỏ lại
một mình, mẹ bạn sẽ chết một ngày nào đó và bạn sẽ
bị bỏ lại một mình, và bạn sẽ là đứa con côi. Và ngay
từ thời thơ ấu bạn đã quen có bố bảo vệ mình, có mẹ
yêu mình. Bây giờ cái ham muốn trẻ con đó sẽ lại tự
khẳng định nó: bạn sẽ cần hình ảnh người bố. Nếu
bạn không thể tìm được nó trên trời, bạn sẽ tìm thấy
nó trong chính khách nào đó.
đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng đế. Mao đã trở thành
cha của Trung Quốc; họ đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng
đế. Nhưng con người lại ở vào tình huống không thể
sống được nếu thiếu hình ảnh người cha. Con người
vẫn còn trẻ con. Rất hiếm người trưởng thành chín
chắn.
Quan sát riêng của tôi là thế này, đó là mọi người
vẫn còn ở quãng tuổi bẩy, tám, chín. Thân thể vật lí
của họ trưởng thành, nhưng tâm trí họ vẫn còn bị mắc
kẹt ở đâu đó dưới mười tuổi.
Ki tô giáo, Do Thái giáo, Mô ha mét giáo, đều là
các tôn giáo dưới mười tuổi. Họ đáp ứng bất kì cái gì
bạn cần; họ không lo nghĩ quá nhiều về chân lí. Họ lo
nghĩ nhiều về bạn hơn, họ lo nghĩ nhiều về cách an ủi
bạn.
Tình huống là như thế này: người mẹ đã chết và
đứa con đang kêu khóc, còn bạn phải an ủi đứa trẻ.
Cho nên bạn nói dối. Bạn giả vờ rằng người mẹ còn
chưa chết: "Mẹ mới đi thăm hàng xóm - mẹ sẽ về
ngay. Cháu đừng lo, mẹ sẽ về ngay thôi.” Hay: "Mẹ
vừa đi công tác dài ngày. Mẹ phải đi vài ngày nhưng
mẹ sẽ quay về." Hay: "Mẹ mới đi thăm Thượng đế -
chẳng có gì phải lo cả. Mẹ vẫn còn sống: có thể mẹ đã
rời khỏi thân thể, nhưng linh hồn sống mãi mãi."
Phật là cá nhân gây tan nát nhất trong toàn thể
lịch sử nhân loại. Toàn bộ nỗ lực của ông ấy là để vứt
bỏ mọi chỗ dựa. Ông ấy không nói tin vào cái gì cả.
Ông ấy là người không tin tưởng và tôn giáo của ông
ấy là tôn giáo vô tin tưởng. Ông ấy không nói "Hãy
tin!" ông ấy nói "Hãy hoài nghi!"
Bây giờ, bạn đã nghe nói về các tôn giáo nói "Hãy
tin!" Bạn chưa bao giờ nghe nói về tôn giáo nói "Hãy
hoài nghi!" Hoài nghi là chính phương pháp luận -
hoài nghi tới tận cốt lõi, hoài nghi tới tận cùng, hoài
nghi tới cùng. Và khi bạn đã hoài nghi mọi thứ, và
bạn đã loại bỏ mọi thứ từ hoài nghi, thực tại nảy sinh
trong tầm nhìn của bạn. Nó chẳng liên quan gì tới
niềm tin của bạn về Thượng đế. Nó không là cái gì
giống như cái gọi là Thượng đế của bạn. Thế thì thực
tại nảy sinh: tuyệt đối không quen biết và không biết.
Nhưng khả năng đó chỉ tồn tại khi tất cả mọi niềm
tin đều đã bị loại bỏ và tâm trí đã tới trạng thái chín
chắn, hiểu biết, chấp nhận "bất kì cái gì hiện có, và
chúng ta không ham muốn khác hơn. Nếu không có
Thượng đế, thì không có Thượng đế, và chúng ta
không có ham muốn nào để phóng chiếu ra Thượng
đế. Nếu không có Thượng đế, chúng ta chấp nhận
điều đó."
Đây chính là chín chắn: chấp nhận sự kiện và
không tạo ra hư cấu quanh nó; chấp nhận thực tại như
nó đang thế, không cố gắng thi vị nó, không cố gắng
trang điểm nó, không cố gắng làm cho nó dễ chấp
nhận hơn cho trái tim bạn. Nếu nó làm tan nát, thì nó
làm tan nát. Nếu nó gây choáng váng, thì nó gây
choáng váng. Nếu chân lí giết chết, người ta sẵn sàng
để bị giết chết.
Phật tàn nhẫn. Và chưa từng có ai đã mở ra cánh
cửa của thực tại một cách sâu sắc, sâu lắng như ông
ấy đã làm. Ông ấy không cho phép bạn có bất kì ham
muốn trẻ con nào. Ông ấy nói: Trở nên nhận biết hơn,
trở nên ý thức hơn, trở nên dũng cảm hơn. Đừng lẩn trốn sau những niềm tin và mặt nạ và thượng đế học.
Nắm lấy cuộc sống của mình trong tay mình. Thắp
sáng ngọn đèn bên trong của bạn và nhìn bất kì cái gì
đang có đấy. Và một khi bạn đã trở nên đủ dũng cảm
để chấp nhận nó, đó là phúc lành. Không cần niềm tin
nào cả.
Đó là bước đầu tiên của Phật hướng tới thực tại:
mọi hệ thống niềm tin đều mang tính độc hại; mọi hệ
thống niềm tin đều là rào chắn.
Ông ấy không phải là người hữu thần. Và nhớ lấy:
ông ấy cũng không phải là người vô thần - bởi vì, ông
ấy nói, vài người tin rằng có Thượng đế và vài người
tin rằng không có Thượng đế, nhưng cả hai đều là
những người tin. Cái vô tin của ông ấy sâu sắc đến
mức ngay cả những người nói không có Thượng đế,
và tin vào điều đó, cũng không thể chấp nhận được
ông ấy. Ông ấy nói rằng chỉ nói không có Thượng đế
thì cũng chẳng khác biệt gì. Nếu bạn vẫn còn trẻ con,
bạn sẽ tạo ra nguồn Thượng đế khác.
Chẳng hạn, Karl Marx đã tuyên bố: "Không có
Thượng đế," nhưng thế rồi ông ấy lại tạo ra Thượng
đế từ lịch sử. Lịch sử trở thành Thượng đế; cùng chức
năng mà trước đây do Thượng đế đảm nhiệm thì bây
giờ được lịch sử thực hiện. Thượng đế đã làm gì?
Thượng đế đã là nhân tố tất định; Thượng đế là nhân
tố cai quản. Chính Thượng đế là người đã quyết định
cái gì phải là và cái gì không phải là. Marx đã vứt bỏ
ý tưởng về Thượng đế, nhưng rồi lịch sử đã trở thành
nhân tố tất định, thế thì lịch sử đã trở thành số mệnh,
thế thì lịch sử đã trở thành số phận - thế thì lịch sử là
tất định. Bây giờ lịch sử là gì? Và Marx nói chủ nghĩa
cộng sản là giai đoạn không tránh khỏi. Lịch sử đã
xác định rằng nó sẽ tới, và mọi thứ đều được lịch sử
xác định. Bây giờ lịch sử trở thành siêu Thượng đế.
Nhưng ai đó xác định là cần tới. Con người không
thể sống với thực tại như nó đang thế: hỗn độn, ngẫu
nhiên. Con người không thể nào sống với thực tại mà
không tìm ra ý tưởng nào đó làm cho nó có nghĩa, có
liên quan, liên tục, cái cho nó một hình dáng mà lí trí
có thể hiểu được; cái có thể được mổ xẻ, phân tích
thành nguyên nhân và hậu quả.
Freud đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng đế, nhưng rồi
vô thức lại trở thành Thượng đế - thế thì mọi thứ lại
được xác định bởi vô thức của con người, và con
người bất lực trong tay của vô thức. Bây giờ đây là
những cái tên mới cho Thượng đế; nó là huyền học
mới.
Tâm lí theo trường phái Freud là huyền học mới
về Thượng đế. Cái tên đã đổi nhưng dòng chảy vẫn
còn như cũ; cái nhãn đã đổi, nhãn cũ đã bị bỏ đi; cái
nhãn mới vẽ, tươi tắn đã được dán vào nó - nó có thể
lừa những người không tỉnh táo mấy. Nhưng nếu bạn
đi sâu hơn vào phân tích của Freud, bạn sẽ lập tức
thấy rằng bây giờ vô thức đang làm cùng công việc
mà Thượng đế vẫn làm.
Cho nên có gì sai với Thượng đế đáng thương?
Nếu bạn phải bịa ra cái gì đó, và con người bao giờ
cũng phải được xác định bằng cái gì đó - lịch sử, kinh
tế, vô thức, thế này thế nọ - nếu con người không thể
được tự do, thì phỏng có ích gì mà thay đổi huyền
học, thượng đế học? Điều đó chẳng tạo ra khác biệt
gì.
người Mô ha mét giáo, bạn có thể là người Ki tô giáo,
bạn có thể là người Do Thái giáo - điều đó chẳng tạo
ra mấy khác biệt. Tâm trí của bạn vẫn còn trẻ con, bạn
vẫn còn chưa chín chắn. Bạn vẫn còn đi tìm, bạn tiếp
tục tìm kiếm hình ảnh người bố: ai đó ở đâu đó người
có thể giải thích mọi thứ, người có thể trở thành việc
giải thích tối hậu.
Tâm trí chín chắn là người có thể vẫn còn đấy mà
không có tìm kiếm nào cho dù không có lời giải thích
tối hậu về mọi vật.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Ta không phải là
người siêu hình. Ông ấy không có siêu hình. Siêu hình
nghĩa là việc giải thích tối hậu về mọi thứ - ông ấy
không có lời giải thích tối hậu. Ông ấy không nói, "Ta
đã giải quyết bí ẩn." Ông ấy không nói, "Tại đây ta
trao cho các ông chân lí là gì."
Ông ấy nói, "Điều duy nhất ta có thể trao cho các
ông là sự thúc đẩy, niềm khao khát, sự đam mê vô
cùng, để trở nên nhận biết, trở nên ý thức, trở nên tỉnh
táo; để sống cuộc sống của các ông một cách có ý
thức, tràn đầy ánh sáng và nhận biết đến mức cuộc
sống của các ông được giải quyết."
Không phải là bạn đi tới lời giải thích tối hậu về
sự tồn tại - không ai đã bao giờ đi tới đó cả. Phật phủ
nhận siêu hình hoàn toàn. Ông ấy nói siêu hình là tìm
kiếm vô ích.
Cho nên điều đầu tiên: ông ấy phủ nhận Thượng
đế.
Điều thứ hai: ông ấy phủ nhận moksha, thiên
đường, cõi trời. Ông ấy nói: Cõi trời của bạn, thiên
đường của bạn, chẳng là gì ngoài những ham muốn
dục vọng chưa được thoả mãn của bạn, những bản
năng chưa được đáp ứng, được phóng chiếu thành
cuộc sống khác, cuộc sống ở cõi bên kia, cuộc sống
sau cái chết. Và ông ấy dường như hoàn toàn đúng.
Nếu bạn thấy miêu tả, mô tả về cõi trời và thiên
đường trong Mô ha mét giáo, trong Ki tô giáo, trong
Do Thái giáo thì bạn sẽ hiểu điều đó thật rõ, điều ông
ấy đang nói. Bất kì cái gì còn chưa được hoàn thành ở
đây bạn phóng chiếu vào kiếp sau. Nhưng ham muốn
dường như là như nhau!
Người Hindu nói có những cây họ gọi là
kalpavriksha - bạn ngồi dưới gốc cây đó và bất kì
điều gì bạn ham muốn, không trễ lấy một khoảng thời
gian nào, nó được hoàn thành ngay. Bạn ham muốn
một phụ nữ đẹp sao, cô ấy có đấy - ngay lập tức, ngay
tức khắc. Tại phương Tây bạn đã phát minh ra cà phê
uống liền và những thứ giống vậy, có ngay bây giờ.
Ấn Độ đã phát minh ra cây thoả ước - từ hàng thế kỉ
người ta đã tin vào điều đó. Điều đó thực sự được
hoàn thành ngay lập tức - thực sự ngay lập tức, không
khoảng thời gian trễ nào. Tại đây ý tưởng nảy sinh, tại
kia nó được đáp ứng; thậm chí không có đến một giây
trôi qua giữa hai điều này. Ý tưởng là sự hoàn thành
nó! Bạn ham muốn một phụ nữ đẹp, cô ấy có đó. Bạn
ham muốn thức ăn ngon, nó có đó. Bạn ham muốn cái
giường đẹp để nghỉ, nó có đó.
Bây giờ, đây là phân tích tâm lí đơn giản - rằng
con người không được thoả mãn trong cuộc sống. Và người đó cứ cố gắng. Cả đời mình người đó cứ cố
gắng hoàn thành nó, vậy mà người đó không thể nào
hoàn thành được, cho nên người đó phải phóng chiếu
vào tương lai. Không phải là trong tương lai nó có thể
được hoàn thành - ham muốn như thế thì không thể
nào hoàn thành được.
Phật đã nói: Chính bản chất của ham muốn là ở
chỗ nó vẫn còn không được hoàn thành. Bất kì điều gì
bạn làm, bất kể bạn làm nó về cái gì, nó vẫn còn
không được hoàn thành - đó chính là bản chất cố hữu
của ham muốn. Ham muốn như thế vẫn còn không
được hoàn thành. Cho nên bạn có thể ngồi dưới cây
thoả ước - điều đó cũng chẳng khác biệt gì. Nhiều lần
bạn có thể cảm thấy nó được thoả mãn, rồi nó lại phát
sinh. Và vô hạn lần nó cứ phát sinh đi phát sinh lại
mãi.
Người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, người
Do Thái, người Hindu - tất cả các cõi trời và thiên
đường, đều không là gì ngoài những ham muốn không
hoàn thành được phóng chiếu lên, những ham muốn
bị kìm nén, những ham muốn nản lòng. Tất nhiên,
chúng an ủi cho con người rất nhiều: "Nếu bạn không
có khả năng thoả mãn ở đây - thì ở cõi kia. Chẳng
chóng thì chầy bạn sẽ đạt tới Thượng đế; điều duy
nhất bạn phải làm là cứ cầu nguyện tới ngài, cứ cúi
đầu trước hình ảnh nào đó hay ý tưởng nào đó hay lí
tưởng nào đó, và làm cho ngài sung sướng, làm cho
Thượng đế sung sướng, và thế thì bạn sẽ thu hoạch
được vụ mùa lớn những vui thích và ban thưởng. Đó
sẽ là món quà của ngài cho bạn - cho lời cầu nguyện
của bạn, cho sự cảm kích của bạn, cho sự buông xuôi
liên tục, cho việc chạm chân ngài hết lần nọ tới lần
kia, cho sự vâng lời của bạn - điều đó sẽ là phần
thưởng."
Tất nhiên phần thưởng là sau khi chết, bởi vì ngay
cả tu sĩ tinh ranh cũng không thể lừa được bạn trong
cuộc sống này - ngay cả họ cũng không thể lừa được.
Họ biết ham muốn vẫn còn không được thoả mãn, cho
nên họ phải phát minh ra kiếp sau. Chẳng ai đã biết
tới kiếp sau cả; mọi người có thể bị lừa rất dễ dàng.
Nếu ai đó tới và nói với bạn, "Thượng đế có thể
hoàn thành ham muốn của bạn ở đây và bây giờ," thì
sẽ khó chứng minh được điều đó - bởi vì chưa bao giờ
ham muốn của bất kì ai được hoàn thành ở đây và bây
giờ cả. Thế thì Thượng đế của họ sẽ lâm nguy. Họ đã
thử một phương cách rất tinh ranh; họ nói, "Sau cuộc
đời này." Thượng đế của bạn không đủ toàn năng để
thoả mãn nó ở đây sao? Thượng đế của bạn không đủ
toàn năng để tạo ra cây thoả ước trên trái đất này sao?
Thượng đế của bạn không đủ mạnh để làm điều gì đó
trong khi mọi người còn sống sao? Nếu ông ấy không
thể hoàn thành được ở đây, thì bằng chứng nào chứng
tỏ ông ấy sẽ hoàn thành ở kiếp sau?
Phật nói: Nhìn vào bản chất của ham muốn. Quan
sát chuyển động của ham muốn - nó rất tinh tế. Và
bạn sẽ có khả năng thấy hai điều: một, rằng ham
muốn bởi chính bản chất của nó là không thể nào
hoàn thành nổi; và thứ hai, khoảnh khắc bạn hiểu rằng
ham muốn là không thể nào hoàn thành nổi, thì ham
muốn biến mất - và bạn bị bỏ lại vô ham muốn. Đó là
trạng thái của an bình, im lặng, yên tĩnh. Đó là trạng
thái của hoàn thành! Con người chưa bao giờ đi tới hoàn thành qua ham muốn cả; con người đi tới hoàn
thành chỉ bằng việc siêu việt lên trên ham muốn.
Ham muốn là cơ hội để hiểu biết. Ham muốn là
cơ hội lớn để hiểu vận hành của tâm trí riêng của bạn
- cách nó vận hành, cơ chế của nó là gì. Và khi bạn đã
hiểu điều đó, trong chính việc hiểu đó là biến chuyển.
Ham muốn biến mất, không để lại dấu vết gì đằng
sau. Và khi bạn vô ham muốn, không ham muốn điều
gì, bạn được hoàn thành. Không phải là ham muốn
được hoàn thành, nhưng khi ham muốn được siêu việt
lên thì có sự hoàn thành.
Bây giờ thấy khác biệt này: các tôn giáo khác nói,
"Ham muốn có thể được hoàn thành trong thế giới
khác." Phàm nhân nói, "Ham muốn có thể được hoàn
thành ở đây" - người cộng sản nói, "Ham muốn có thể
được hoàn thành ở đây. Chỉ cần một cấu trúc xã hội
khác, chỉ cần tư bản bị lật đổ, vô sản phải nắm quyền,
tư sản phải bị tiêu diệt, có thế thôi - và các ham muốn
có thể được hoàn thành ở đây, cõi trời có thể được tạo
ra trên trái đất này ở đây."
Phàm nhân nói, "Bạn có thể hoàn thành ham
muốn của mình - hãy tranh đấu quyết liệt vào." Đó là
điều toàn bộ phương Tây đang làm: "Tranh đấu, cạnh
tranh, lừa đảo, bằng bất kì phương tiện và phương
pháp nào! Chiếm lấy nhiều của cải, nhiều quyền lực!"
Đó là điều các chính khách trên khắp thế giới đang
làm: "Trở nên mạnh hơn và ham muốn của bạn có thể
được hoàn thành." Đó là điều các nhà khoa học nói,
rằng chỉ vài công nghệ nữa cần được phát minh ra và
cõi trời sẽ ở ngay góc kia thôi.
Và các tôn giáo của bạn nói gì? Họ chẳng nói gì
khác cả. Họ nói, "Ham muốn có thể được hoàn thành,
nhưng không trong cuộc đời này - sau cái chết." Đó là
khác biệt duy nhất giữa cái gọi là người duy vật và cái
gọi là người duy tâm.
Với Phật, cả hai đều duy vật cả; và với tôi cũng
thế, cả hai đều duy vật cả. Cái gọi là những người tôn
giáo của bạn và cái gọi là những người phi tôn giáo
của bạn cả hai đều trong cùng một con thuyền. Chẳng
một li khác biệt! Thái độ của họ là như nhau, cách
tiếp cận của họ là như nhau.
Phật mới thực mang tính tôn giáo theo cách này,
cách ông ấy nói: Ham muốn không thể nào được hoàn
thành. Bạn phải nhìn vào ham muốn. Không ở đây mà
cũng chẳng ở bất kì đâu khác mà ham muốn được
hoàn thành, không bao giờ. Điều đó chưa bao giờ xảy
ra và sẽ không bao giờ xảy ra cả - bởi vì điều đó là
ngược với bản chất của ham muốn.
Ham muốn là gì? Bạn đã bao giờ nhìn vào việc
ham muốn của mình chưa? Bạn đã bao giờ đương đầu
với nó chưa? Bạn đã cố gắng suy tư về nó chưa? Ham
muốn là gì?
Bạn ham muốn ngôi nhà nào đó; bạn làm việc vì
nó, bạn làm việc vất vả. Bạn phá huỷ cả cuộc đời
mình cho nó - thế rồi ngôi nhà có đó. Nhưng có sự
hoàn thành không? Một khi ngôi nhà có đó, bỗng
nhiên bạn cảm thấy rất trống rỗng - bạn cảm thấy còn
trống rỗng hơn trước đây, bởi vì trước đây có mối bận
tâm để đạt tới ngôi nhà này. Bây giờ nó đây rồi: ngay
lập tức tâm trí bạn bắt đầu tìm cái gì đó khác để được
bận tâm vào. Bây giờ có những ngôi nhà lớn hơn; tâm trí bạn bắt đầu nghĩ tới những ngôi nhà lớn hơn đó.
Có những lâu đài lớn hơn... Bạn ham muốn một người
đàn bà và bạn đã đạt được ham muốn của mình, thế
rồi bỗng nhiên tay bạn lại trống rỗng. Lần nữa bạn bắt
đầu ham muốn người đàn bà khác nào đó.
Đây là bản chất của ham muốn. Ham muốn bao
giờ cũng lao lên trước bạn. Ham muốn bao giờ cũng
trong tương lai. Ham muốn là hi vọng. Ham muốn
không thể nào được hoàn thành bởi vì chính bản chất
của nó là vẫn còn không được hoàn thành và được
phóng chiếu vào tương lai. Nó bao giờ cũng ở trên
đường chân trời.
Bạn có thể xô tới, bạn có thể chạy về đường chân
trời, nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ tới được cả: dù bạn
tới đâu thì bạn đều sẽ thấy đường chân trời đã lùi ra
xa. Và khoảng cách giữa bạn và đường chân trời vẫn
còn hoàn toàn như cũ. Bạn có mười nghìn ru pi, ham
muốn là về hai mươi nghìn ru pi; bạn có hai mươi
nghìn ru pu, ham muốn là bốn mươi nghìn ru pi.
Khoảng cách vẫn thế; tỉ lệ toán học vẫn thế.
Bất kì cái gì bạn có, ham muốn bao giờ cũng đi
lên trước nó.
Phật nói: Bỏ hi vọng, bỏ ham muốn đi. Trong việc
bỏ hi vọng, trong việc bỏ ham muốn, bạn sẽ ở đây bây
giờ. Không ham muốn, bạn sẽ được hoàn thành.
Chính ham muốn đang lừa dối bạn.
Cho nên khi Phật nói rằng cái gọi là những người
tôn giáo này tất cả đều là người duy vật, thì tất nhiên
người Hindu giận lắm - giận lắm; họ chưa bao giờ
giận dữ như thế với bất kì ai. Họ đã cố gắng nhổ tận
rễ tôn giáo của Phật khỏi Ấn Độ, và họ đã thành công.
Phật giáo đã sinh ra ở Ấn Độ, nhưng Phật giáo không
tồn tại ở Ấn Độ - bởi vì tôn giáo của người Hindu là
một trong những tôn giáo duy vật nhất trên thế giới.
Bạn cứ nhìn vào Vedas mà xem: mọi cầu nguyện,
mọi tôn thờ, đều chỉ để cầu xin nhiều thêm, thêm nữa,
từ các thần hay từ Thượng đế - mọi hi sinh đều để xin
nhiều thêm. Mọi tôn thờ đều mang tính ham muốn.
"Xin cho chúng con thêm nữa! Xin cho chúng con
nhiều vào! Mùa màng tốt hơn, mưa tốt hơn, nhiều tiền
hơn, nhiều sức khoẻ hơn, nhiều cuộc sống hơn, sống
lâu hơn - xin cho chúng con nhiều hơn!" Toàn thể
Veda chẳng là gì ngoài ham muốn được viết to lên.
Và đôi khi lại còn rất xấu. Trong Veda cái gọi là rishi
không chỉ cứ cầu nguyện "Xin cho chúng con nhiều
hơn!" - họ còn cầu nguyện: "Đừng cho kẻ thù của
chúng con! Cho bò của con nhiều sữa hơn, nhưng để
cho bò của kẻ thù chết đi hay để sữa của nó mất đi!"
Đây là cái kiểu tôn giáo gì vậy? Thậm chí gọi nó
là tôn giáo cũng có vẻ ngớ ngẩn. Nếu đây là tôn giáo,
thì chủ nghĩa duy vật là gì? Và ngay cả cái gọi là
người khổ hạnh, người đã từ bỏ thế giới... và đã có
nhiều người như vậy vào thời của Phật. Bản thân ông
ấy đã tới nhiều thầy giáo trong khi ông ấy tìm kiếm,
nhưng từ mọi nơi ông ấy đều đã quay về với bàn tay
trống rỗng - bởi vì ông ấy đã không thể nào thấy được
rằng đã có ai thực sự hiểu bản chất của ham muốn.
Bản thân họ cũng ham muốn; tất nhiên, ham muốn
của họ đã được phóng chiếu vào tương lai xa xăm,
kiếp sống khác, nhưng đối tượng của ham muốn vẫn
thế, tâm trí ham muốn vẫn thế. Vấn đề chỉ là thời
gian.
ham muốn sau khi chết, nhưng khác biệt là gì? - điều
đó chẳng tạo ra khác biệt gì cả. Họ ham muốn cùng
một điều - họ ham muốn! Ham muốn là như nhau.
Phật đã đi tới nhiều thầy và đã thất vọng. Ông ấy
không thể nào thấy nở hoa tôn giáo ở đâu cả, việc
bừng nở - họ tất cả đều là người duy vật. Họ đã là
những nhà khổ hạnh lớn: ai đó nhịn ăn hàng tháng, ai
đó đã không ngủ hàng năm - họ chỉ là những bộ
xương. Bạn không thể gọi họ là phàm nhân và duy vật
được nếu bạn nhìn vào thân thể họ; nhưng nhìn vào
tâm trí họ, hỏi họ, "Sao các ông lại nhịn ăn? Sao các
ông cố gắng vất vả thế? Để làm gì?" và có việc nảy
sinh ham muốn đạt tới thiên đường hay cõi trời, đạt
tới ban thưởng trong kiếp sau.
Nghe logic của họ và họ tất cả đều sẽ nói, "Tại
đây mọi thứ đang biến đi nhanh chóng. Cuộc sống
này là tạm bợ. Cho dù bạn có đạt được, mọi thứ đều
bị lấy đi khi bạn chết, vậy phỏng có ích gì? Cuộc sống
này sẽ không kéo dài mãi. Chúng ta đang tìm kiếm cái
gì đó sẽ còn lại mãi - chúng ta theo đuổi cái bất tử,
chúng ta theo đuổi ban thưởng tuyệt đối. Nhưng
người ở đây, trong cuộc đời này, đang theo đuổi các
ham muốn đều là kẻ ngu bởi vì cái chết sẽ lấy đi mọi
thứ. Bạn tích luỹ của cải, và ở đây cái chết tới và tất
cả bị bỏ lại đằng sau. Chúng ta đang tìm kiếm kho báu
mà chúng ta có thể lấy cho chính mình, cái không bao
giờ mất, cái không thể bị đánh cắp được, không chính
phủ nào có thể đánh thuế nó được - không ai có thể
lấy nó đi được, ngay cả cái chết cũng không lấy đi
được."
Bạn gọi những người này là người tôn giáo sao?
Họ dường như thậm chí còn phàm nhân hơn cái gọi là
phàm nhân; họ còn duy vật hơn những người duy vật.
Tất nhiên, chủ nghĩa duy vật của họ được trang phục
trá hình; chủ nghĩa duy vật của họ mang hương vị tâm
linh - nhưng nó là lừa dối. Dường như đấy là đống
phân bạn đã vẩy nước hoa vào đó. Đống phân thì vẫn
cứ là đống phân thôi; nước hoa chỉ có thể lừa được kẻ
ngu.
Phật không bị lừa, ông ấy có thể thấy một cách tỏ
tường. Và ông ấy bao giờ cũng có thể thấy rằng ham
muốn có đó. Nếu ham muốn có đó, bạn là người duy
vật và bạn là phàm nhân.
Cho nên ông ấy không thuyết giảng về thiên
đường cho bạn, ông ấy không tin vào bất kì thiên
đường nào cả. Không phải là ông ấy không tin vào
phúc lạc, không. Ông ấy tin vào phúc lạc, nhưng đấy
không phải là niềm tin: khi mọi thiên đường đều mất
đi, khi mọi ham muốn đều bị bỏ đi, bỗng nhiên chính
bản tính bên trong nhất của bạn là phúc lạc. Với nó,
chẳng cái gì được cần tới cả - không cần đức hạnh,
không cần khổ hạnh, không cần hi sinh. Chỉ hiểu biết
là đủ.
Đạo của Phật là đạo của hiểu biết.
Và điều thứ ba trước khi chúng ta đi vào lời kinh:
Ông ấy không tin vào linh hồn - không Thượng đế,
không thiên đường, không linh hồn. Bây giờ điều này
dường như rất khó.
có thể đấy chỉ là phóng chiếu; ai đã nhìn thấy đâu?
Chúng ta có thể chấp nhận không thiên đường - có thể
nó chỉ là ham muốn chưa hoàn thành của chúng ta mơ
về nó mà thôi. Nhưng không linh hồn sao? Thế thì
bạn lấy đi toàn bộ mảnh đất bên dưới rồi. Không linh
hồn sao? - thế thì tất cả còn có ích gì nữa? Nếu không
có linh hồn trong con người, nếu chẳng có gì bất tử
trong con người, thế thì sao phải làm nhiều nỗ lực
thế? sao lại thiền? để làm gì?
Phật nói ý tưởng này về cái ngã là hiểu nhầm. Bạn
hiện hữu, nhưng bạn không phải là cái ngã. Bạn hiện
hữu, nhưng bạn không tách ra khỏi vũ trụ này. Sự
tách biệt là ý tưởng gốc rễ trong khái niệm về cái ngã:
nếu tôi tách ra khỏi bạn thế thì tôi có một cái ngã; nếu
bạn tách ra khỏi tôi thì bạn có một cái ngã.
Nhưng Phật nói: Sự tồn tại là một. Không có biên
giới. Không ai là tách rời khỏi bất kì ai khác. Chúng
ta sống trong một đại dương tâm thức. Chúng ta là
một tâm thức - bị đánh lừa bởi biên giới của thân thể,
bị đánh lừa bởi biên giới của tâm trí. Và bởi vì thân
thể và tâm trí, và bởi vì sự đồng nhất với thân thể và
tâm trí, chúng ta nghĩ chúng ta tách biệt, chúng ta
nghĩ chúng ta là cái ngã. Đây là cách chúng ta tạo ra
bản ngã.
Điểu đó cũng giống như trên bản đồ bạn thấy Ấn
Độ, nhưng trên chính mặt đất thì lại không có Ấn Độ -
chỉ trên bản đồ của các chính khách. Trên bản đồ bạn
thấy lục địa Mĩ, lục địa Mĩ như tách rời, nhưng sâu
bên dưới, xuống dưới đại dương, trái đất là một. Mọi
lục địa đều cùng nhau, chúng tất cả là một trên trái
đất.
Chúng ta tách rời chỉ trên bề mặt. Chúng ta càng
đi sâu hơn, tách rời càng biến mất nhiều hơn. Khi
chúng ta đi tới chính cốt lõi của bản thể mình, bỗng
nhiên nó là vũ trụ, không có cái ngã trong nó, không
có linh hồn ở đó.
Phật không có niềm tin vào Thượng đế, vào linh
hồn, vào moksha. Thế thì giáo huấn của ông ấy là gì?
Giáo huấn của ông ấy là cách sống, không phải cách
tin. Giáo huấn của ông ấy là rất khoa học, rất kinh
nghiệm, rất thực tế. Ông ấy không phải là triết gia,
không phải là nhà siêu hình. Ông ấy là người ngay
trên đất bằng.
Phật nói: Ông có thể thay đổi được cuộc sống của
mình - những niềm tin này là không cần thiết. Trong
thực tế, những niềm tin này là rào chắn cho sự thay
đổi thực. Bắt đầu không bằng niềm tin nào, bắt đầu
không bằng siêu hình, bắt đầu không bằng giáo điều.
Bắt đầu hoàn toàn trần trụi, không thượng đế học,
không ý thức hệ. Bắt đầu từ trống rỗng! Đó là cách
duy nhất để đi tới chân lí.
Tôi mới đọc một giai thoại:
Nhà buôn đang đi du hành mở cuốn Kinh thánh
Gideon trong phòng khách sạn. Trên trang đầu ông ta
đọc câu viết: "Nếu bạn ốm, đọc bài thánh ca 18; nếu
bạn gặp rắc rối về chuyện gia đình, đọc bài thánh ca
45; nếu bạn đơn độc, đọc bài thánh ca 92."
đọc nó. Khi ông ta đọc xong, ông ta chú ý tới đáy
trang có dòng chữ viết tay: "Nếu bạn vẫn còn thấy
đơn độc gọi số 888-3468 và hỏi Myrtle."
Nếu bạn nhìn sâu vào bên trong kinh sách của
mình, bạn bao giờ cũng thấy lời chú thích cuối trang
mà thường đúng hơn. Bạn tìm lời chú thích cuối trang
ấy trên mọi trang kinh sách! Đôi khi nó có thể không
được viết bằng mực thấy được, nhưng nếu bạn tìm kĩ
thì bạn bao giờ cũng thấy nó ở đó - lời chú thích cuối
trang thực tế hơn.
Phật nói tất cả mọi kinh sách của bạn đều chẳng là
gì ngoài ham muốn của bạn, bản năng của bạn, tham
lam của bạn, thèm khát của bạn, giận dữ của bạn. Tất
cả mọi kinh sách của bạn đều chẳng là gì ngoài bịa
đặt của tâm trí bạn. Cho nên nó nhất định phải là như
vậy, rằng chúng sẽ mang mọi hạt mầm của tâm trí
bạn. Kinh sách do con người tạo ra. Đó là lí do tại sao
các tôn giáo cố gắng tích cực chứng minh rằng kinh
sách của họ ít nhất thì cũng không do con người tạo
ra.
Người Ki tô giáo nói Kinh Thánh không do con
người tạo ra. Mười điều răn đã do Moses được nhận
trực tiếp từ Thượng đế, trực tiếp từ bản thân ông chủ.
Tân Ước là thông điệp trực tiếp từ con riêng của ông
ấy, đứa con duy nhất, Jesus Christ. Điều đó chẳng liên
quan gì tới nhân loại cả - nó tới từ bề trên. Người
Hindu nói Veda không do con người tạo ra, chúng là
do Thượng đế làm ra. Và cùng câu chuyện này cứ
được lặp lại: người Mô ha mét giáo nói Koran được
giáng xuống Mohammed từ trên trời.
Sao các tôn giáo này lại cứ khăng khăng rằng
kinh sách của họ, và đặc biệt chỉ kinh sách của họ,
chứ không phải là kinh sách của ai khác...? Người Mô
ha mét giáo không sẵn sàng chấp nhận rằng Veda do
Thượng đế làm ra, mà người Hindu cũng không sẵn
sàng chấp nhận rằng Koran do Thượng đế làm ra - chỉ
Veda của họ mới do Thượng đế làm ra còn mọi thứ
khác đều do con người chế tạo ra. Tại sao có sự khăng
khăng này? Bởi vì họ đều nhận biết rằng bất kì cái gì
con người tạo ra đều có dấu ấn của tâm trí con người
và ham muốn của con người.
Phật nói tất cả các kinh sách đều do con người
làm ra cả - và ông ấy đúng. Ông ấy không cuồng tín
chút nào. Ông ấy không thuộc vào bất kì quốc gia
nào, và ông ấy không thuộc về bất kì giống nòi nào;
ông ấy không thuộc về bất kì tôn giáo nào, bất kì giáo
phái nào. Ông ấy chỉ là ánh sáng chiếu lên mình. Và
bất kì cái gì ông ấy đã nói cũng đều là phát biểu thuần
khiết nhất về chân lí mà đã từng được đưa ra.
Tôi đã đọc... Paritosh đã gửi cho tôi giai thoại hay
này:
Một trong những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Ireland
được các tín đồ của mình yêu cầu lựa chọn chỗ chôn
thích hợp và đài kỉ niệm cho thi hài của ông ta. Cuộc
chiến tranh 'tôn giáo' đang diễn ra và cuộc sống của
ông ấy bị đe doạ.
Ba bản kế hoạch riêng biệt đã được đệ trình cho
ông ấy, và để làm mất tinh thần uỷ ban, ông ấy đã
chọn bản ít tốn phí nhất.
chọn này, tại sao ông ấy đã chọn chỗ an nghỉ khiêm
tốn này, khi hai thiết kế kia là những nấm mồ thật
tráng lệ.
"Thế này, các bạn thân mến của tôi," ông ấy bảo
họ, "Tôi đánh giá cao sự hào hiệp của các bạn. Nhưng
liệu có xứng đáng với mọi chi phí này không khi tôi
không định ở trong nấm mồ đó quá ba ngày?"
Bây giờ, cái loại ngu xuẩn này bạn sẽ chẳng bao
giờ tìm thấy trong Phật. Cái loại chắc chắn giáo điều
này bạn sẽ không bao giờ tìm thấy trong Phật đâu.
Ông ấy rất nước đôi. Chỉ có một tên tuổi khác cũng
nước đôi như vậy và người đó là Lão Tử; hai con
người này rất nước đôi.
Đôi khi, bởi vì sự nước đôi của họ, nên bạn có thể
không bị họ gây ấn tượng - bởi vì bạn bị lẫn lộn, bạn
cần ai đó tự tin đến mức bạn có thể dựa vào người đó.
Do đó, người cuồng tín gây ấn tượng cho bạn rất
nhiều. Họ có thể chẳng có gì để nói cả, nhưng họ đập
bàn nhiều thế, họ làm ồn ào về nó, đến mức chính sự
ồn ào của họ tạo cho bạn cảm giác rằng họ phải biết,
bằng không làm sao họ có thể chắc chắn thế? Các
nhân chứng về Jehovah và những người như vậy -
những người ngu, nhưng họ lại giáo điều trong những
khẳng định của mình tới mức họ tạo ra cảm giác về sự
chắc chắn. Và những người lẫn lộn cần sự chắc chắn.
Khi bạn tới vị phật, bạn có thể không bị ấn tượng
ngay lập tức bởi vì ông ấy sẽ nước đôi thế, ông ấy sẽ
không khẳng định điều gì cả. Ông ấy biết rõ hơn điều
đó: ông ấy biết rằng cuộc sống không thể bị hàm chứa
vào bất kì phát biểu nào, mọi phát biểu đều chỉ là bộ
phận. Không phát biểu nào có thể chứa toàn thể chân
lí, cho nên làm sao bạn có thể chắc chắn về nó được?
Ông ấy bao giờ cũng sẽ vẫn còn tương đối.
Hai bậc thầy vĩ đại của Ấn Độ, Phật và Mahavira,
cả hai đều rất sâu sắc về tính tương đối. Einstein đã
phát hiện ra điều đó rất muộn; Einstein đã đem tính
tương đối tới thế giới khoa học. Trước Einstein, các
nhà khoa học cũng đã rất chắc chắn, chắc chắn một
cách giáo điều, tuyệt đối chắc chắn. Einstein đã đem
tính tương đối tới và đem khiêm tốn cho khoa học, và
đem chân lí tới cho khoa học.
Cùng điều đó đã được Phật và Mahavira làm ở Ấn
Độ: họ đã đem tính tương đối vào, đem khái niệm là
chân lí không thể nào được khẳng định một cách toàn
bộ, rằng chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn về
nó cả, rằng nhiều nhất thì chúng ta có thể gợi ý về nó.
Lời gợi ý phải gián tiếp; chúng ta không thể chỉ thẳng
vào nó được - nó lớn thế, bao la thế. Và điều tự nhiên
là chúng ta, những con người mong manh này, nên
nước đôi. Sự nước đôi này chỉ ra sự tỉnh táo của ông
ấy.
Bạn bao giờ cũng thấy những người ngu, người
dốt rất giáo điều. Người càng dốt lại càng giáo điều.
Đây là một trong những điều bất hạnh lớn nhất trên
thế giới, rằng kẻ ngu tuyệt đối chắc chắn, và người trí
huệ nước đôi. Phật rất nước đôi. Cho nên nếu bạn
thực sự muốn hiểu ông ấy, bạn sẽ phải rất tỉnh táo
trong việc nghe của mình, rất cởi mở. Ông ấy không
giao chân lí cả đống cho bạn đâu. Ông ấy chỉ gợi ý tới... nhiều nhất là chỉ dẫn, và ngay cả những chỉ dẫn
đó cũng rất tinh tế.
Và, như tôi đã nói với bạn, Phật rất không viển
vông. Ông ấy không bao giờ bay cao vào siêu hình.
Trong thực tế, ông ấy không bao giờ giới thiệu; ông
ấy không có lời tựa cho phát biểu của mình. Ông ấy
đơn giản nói ra chúng một cách trực tiếp, ngay tức
khắc, đơn giản nhất có thể được. Đôi khi phát biểu
của ông ấy có thể dường như không có chiều sâu nào
- nhưng chúng lại có chiều sâu đấy. Nhưng ông ấy
không quanh co vòng vo, ông ấy không làm om sòm
về nó.
Tôi đã nghe:
Cô ấy là một người trẻ trung dịu dàng; anh ấy là
uỷ viên chấp hành kế toán đang lên nhanh cùng hãng
quảng cáo nổi tiếng ở Đại lộ Madison, Bittner,
Berman, Dirstein và Osman. Mọi người đều nghĩ đấy
là một cuộc hôn nhân lí tưởng. Nhưng hỡi ôi, lại có
vấn đề....với dục. Tuần trăng mật thậm chí đã không
bắt đầu nổi.
"Là-à người làm quảng cáo," cô ấy nức nở nói với
người bạn, "mọi việc anh ấy làm mọi đêm là ngồi trên
mép giường và kể cho tôi việc ấy diễn ra kì diệu thế
nào!"
Nhưng điều đó chẳng bao giờ xảy ra cả! Bạn có
thể hiểu về người làm quảng cáo: anh ta chỉ cứ nói
mãi việc ấy diễn ra kì diệu thế nào.
Phật không có lời nói đầu. Ông ấy không bao giờ
quảng cáo điều ông ấy sắp nói. Ông ấy chỉ nói điều đó
và tiến lên trước.
Phật nói:
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh quang.
Nhưng khi họ đã đạt được nó,
họ bị tác động trong nhiều năm.
Nếu các ông khao khát danh vọng trần tục
và không thực hành Đạo,
lao động của các ông bị dùng sai
và năng lượng của các ông bị phí hoài.
Điều đó cũng giống như đốt que hương.
Dù hương thơm của nó được thán phục đến
đâu,
ngọn lửa cũng vẫn dần dần
đốt cháy que hương."
Một phát biểu rất đơn giản và thực tế.
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh
quang."
Ham muốn ích kỉ là gì? Theo cách diễn đạt của
Phật, ham muốn ích kỉ là ham muốn dựa trên cái ngã.
Thông thường, theo ngôn ngữ bình thường, chúng ta
gọi một ham muốn là ích kỉ nếu nó chống lại ai đó
khác và bạn không để ý tới người khác. Cho dù nó
làm hại người khác, bạn vẫn cứ tiến tới và bạn hoàn
thành ham muốn của mình. Mọi người gọi bạn là ích kỉ bởi vì bạn không để ý tới người khác, bạn không
xem xét gì tới người khác.
Nhưng khi Phật nói một ham muốn là ích kỉ thì
nghĩa của ông ấy lại hoàn toàn khác. Ông ấy nói: Nếu
một ham muốn mà dựa trên ý tưởng về cái ngã thì nó
là ích kỉ.
Chẳng hạn: bạn tặng, bạn tặng một triệu ru pi, vì
một lí do tốt - xây bệnh viện hay mở trường học, hay
phân phối thức ăn cho người nghèo, hay gửi thuốc
men cho vùng nghèo của đất nước - không ai gọi nó là
ham muốn ích kỉ cả. Nhưng Phật sẽ nói nó là ích kỉ -
nếu có bất kì động cơ nào của cái ngã. Nếu bạn đang
nghĩ rằng bằng việc tặng một triệu ru pi bạn sẽ thu
được công đức và bạn sẽ được thưởng trên trời, thì
đấy là ham muốn ích kỉ. Nó có thể chẳng hại người
khác - nó không hại thật - trong thực tế, mọi người sẽ
ca ngợi điều đó. Mọi người sẽ gọi bạn là con người vĩ
đại, người tôn giáo, người công đức; người từ thiện vĩ
đại, đáng yêu, từ bi, thông cảm. Nhưng Phật sẽ nói
điều duy nhất xác định liệu một ham muốn là ích kỉ
hay không là động cơ của nó.
Nếu bạn đã tặng mà không có động cơ nào, thế thì
nó không phải là ích kỉ. Nếu có bất kì động cơ nào ẩn
kín ở đâu đó - có ý thức, vô ý thức - rằng bạn định thu
lấy cái gì đó từ nó, ở đây hay ở kiếp sau, thì nó là ham
muốn ích kỉ. Cái bắt nguồn từ cái ngã là ham muốn
ích kỉ; cái tới như một phần của bản ngã là ham muốn
ích kỉ. Nếu bạn thiền chỉ để đạt tới cái ngã của mình,
nó là ham muốn ích kỉ.
Phật đã nói với đệ tử của mình: Bất kì khi nào các
ông thiền, sau mỗi lần thiền, giao mọi thứ các ông đã
thu được từ việc thiền, giao nó cho vũ trụ. Nếu các
ông phúc lạc, rót nó trở lại cho vũ trụ - đừng mang nó
như kho báu. Nếu các ông cảm thấy rất hạnh phúc,
chia sẻ nó ngay lập tức - đừng trở nên bị gắn với nó,
bằng không bản thân việc thiền của các ông sẽ trở
thành quá trình mới của cái ngã. Và việc thiền tối
thượng không phải là quá trình của cái ngã. Việc thiền
tối thượng là quá trình đi ngày càng nhiều hơn vào cái
không ngã, vào cái vô ngã - nó là sự biến mất của cái
ngã.
"Bị thúc đẩy bởi ham muốn ích kỉ,
mọi người tìm kiếm danh vọng và vinh quang.
Nhưng khi họ đã đạt được nó,
họ bị tác động trong nhiều năm."
Và Phật nói: Trông đây, các ông có thể đạt tới
danh vọng, tới vinh quang, tới quyền lực, tới uy tín,
sự kính trọng, trên thế giới này - nhưng các ông đang
làm gì đấy? Các ông có nhận biết không? Các ông
đang phí hoài cơ hội lớn - vì cái gì đó hoàn toàn vô
nghĩa. Các ông đang thu thập rác rưởi và phá huỷ thời
gian sống, năng lượng sống riêng của mình.
"Nếu các ông khao khát danh vọng trần tục
và không thực hành Đạo...
Phật bao giờ cũng gọi tôn giáo của mình là 'Đạo' -
dhamma - chỉ là Đạo, bởi vì ông ấy nói: đừng bị bận
tâm vào mục tiêu; mục tiêu sẽ tự nó chăm lo điều đó.
Các ông chỉ theo Đạo, thậm chí không có động cơ nào
để đạt tới bất kì mục tiêu nào mà chỉ vì sung sướng tột
đỉnh của thiền, cầu nguyện, yêu, từ bi, chia sẻ. Từ vui sướng tột đỉnh đó các ông thực hành Đạo. Không phải
là các ông định thu lấy bất kì lợi lộc nào từ nó; đừng
làm nó thành việc kinh doanh.
Thông thường tâm trí là nhà kinh doanh.
Ông bố già đang hấp hối và cả gia đình tụ tập
xung quanh giường chờ đợi ông trút hơi thở cuối
cùng. Khi ông già khò khè rời xa cuộc sống, người
con trai cả nói với người em và mọi người, "Khi bố ra
đi, nếu vào buổi tối, chúng ta có thể chôn bố sáng sớm
mai tại khu dịch vụ mai táng lớn trong thành phố. Vì
đám tang sẽ vào sáng sớm nên chúng ta sẽ không thể
báo cho quá nhiều người được, cho nên chúng ta sẽ
không cần nhiều xe to chỗ lớn, và điều đó sẽ không
tốn phí nhiều."
Con gái của ông ta đang đứng đó và cô ta nói với
người anh, "Anh biết đấy, cái chết này đối với em là
chuyện rất cá nhân. Sao chúng ta lại phải gọi cả đống
người lạ tới chứng kiến cảnh tượng buồn như vậy -
hai anh ở đó và em ở đó là được rồi, cần gì thêm
người nào khác nữa?"
Người em trai út nhìn vào họ và nói, "Em không
thể đồng ý với các anh chị thêm được. Trong thực tế,
sao chúng ta lại cần tốn kém để đem bố tới nơi làm
dịch vụ tang lễ vậy? Bố chết trong nhà, ta chôn luôn
bố trong nhà."
Và bỗng nhiên mắt ông già mở to ra. Ông ấy nhìn
vào ba người con rồi quát lên, "Đưa cho tao cái
quần!"
Họ đồng thanh trả lời, "Bố ơi, bố rất yếu. Bố
muốn đi đâu?"
Ông ấy đáp, "Đưa cho tao cái quần. Tao sẽ đi ra
nghĩa địa - tao là nhà kinh doanh."
Cả đời mọi người chỉ cứ tiết kiệm, tiết kiệm - để
làm gì? Cuộc sống đang tuột đi dần; từng khoảnh
khắc một khoảng khắc quí giá lại trôi qua và nó không
thể nào lấy lại được. Phật nói: đừng phí hoài nó vào
những thứ ngu xuẩn.
Danh vọng là ngu xuẩn, nó là lạc lõng, vô nghĩa.
Cho dù cả thế giới biết tới bạn, làm sao điều đó làm
cho bạn giầu hơn được? Làm sao điều đó làm cho
cuộc sống của bạn phúc lạc hơn? Làm sao nó giúp
cho bạn hiểu biết hơn? nhận biết hơn? tỉnh táo hơn?
sống động hơn?
Nếu bạn không thực hành Đạo:
"... lao động của các ông bị dùng sai
và năng lượng của các ông bị phí hoài.
Điều đó cũng giống như đốt que hương.
Dù hương thơm của nó được thán phục đến
đâu,
ngọn lửa cũng vẫn dần dần
đốt cháy que hương."
Đó là cách cuộc sống hiện hữu: từng khoảnh khắc
cháy dần. Bạn bao giờ cũng trên dàn hoả thiêu bởi vì
từng khoảnh khắc cái chết đang tới gần hơn, từng
khoảnh khắc bạn ít sống hơn, chết nhiều hơn. Cho nên
trước khi toàn bộ cơ hội này bị mất đi, Phật nói, đạt
tới trạng thái vô ngã - thế thì sẽ không có cái chết. Và thế thì sẽ không có khổ. Và thế thì sẽ không có thèm
muốn thường xuyên về danh vọng, quyền lực, uy tín.
Trong thực tế, bạn càng trống rỗng bên trong, bạn
càng tìm kiếm danh vọng; nó là một loại thay thế. Bạn
càng nghèo bên trong, bạn càng tìm kiếm cái giầu; nó
là việc thay thế bằng cách nào đó, tống vào bản thân
mình cái gì đó.
Tôi quan sát hàng ngày: mọi người tới tôi, và bất
kì khi nào họ có vấn đề với chuyện tình của mình, họ
lập tức bắt đầu ăn quá nhiều. Bất kì khi nào họ cảm
thấy rằng chuyện tình của họ lâm vào khủng hoảng,
họ không còn được yêu nữa, hay, họ không có khả
năng yêu, cái gì đó đã chắn đường năng lượng yêu
của họ, họ lập tức tọng vào mình đủ mọi thứ, họ cứ
ăn. Tại sao? Họ đang làm gì với thức ăn? Họ cảm
thấy trống rỗng - cái trống rỗng đó làm cho họ sợ. Họ
bằng cách nào đó phải tống thức ăn vào nó.
Nếu bạn cảm thấy hạnh phúc bên trong, bạn
không bận tâm tới danh vọng; chỉ người không hạnh
phúc mới bận tâm tới danh vọng. Ai bận tâm xem liệu
có ai biết tới bạn hay không, nếu bạn biết tới bản thân
mình? Nếu bạn biết tới bản thân mình bạn là ai, thế
thì không có nhu cầu. Nhưng khi bạn không biết mình
là ai bạn sẽ muốn mọi người biết tới - mọi người biết
bạn là ai. Bạn sẽ thu thập các ý kiến, bạn sẽ thu thập ý
tưởng của mọi người, và từ thu thập đó bạn sẽ cố
gắng phô ra một căn cước nào đó, rằng 'Đúng, mình là
con người này. Mọi người nói, 'Bạn thông minh lắm' -
mình thông minh thật." Bạn không chắc chắn. Nếu
bạn mà chắc chắn, ai bận tâm điều người khác nói?
Bạn cứ nhìn vào mắt người khác để xem khuôn
mặt mình - bạn không biết khuôn mặt mình. Bạn cầu
xin: "Nói cái gì đó về tôi đi. Nói - bạn đẹp lắm. Nói -
bạn đáng yêu lắm. Nói - bạn duyên dáng lắm. Nói
điều gì đó về tôi đi chứ?!" Bạn có quan sát bản thân
mình khi cầu xin: "Nói điều gì đó về thân thể tôi, về
tâm trí tôi, về hiểu biết của tôi đi - nói điều gì đó đi!"
Bạn ngay lập tức bám lấy nếu ai đó nói điều gì đó.
Và nếu ai đó nói điều gì đó gây chấn động và tan nát,
bạn trở nên rất giận dữ. Người đó đang phá huỷ hình
ảnh của bạn nếu người đó nói điều gì đó chống lại
bạn. Nếu người đó nói điều gì đó thiện ý cho bạn,
người đó giúp cho hình ảnh của bạn được trang điểm
thêm chút ít, nó trở thành được trang sức thêm chút ít
- bạn về nhà sung sướng. Tại sao?
Bạn không biết mình là ai. Đó là lí do tại sao bạn
cứ đi tìm kiếm. Bạn cứ đi hỏi mọi người "Tôi là ai?
Nói cho tôi đi!" Và bạn phải phụ thuộc vào họ. Và cái
đẹp của nó, hay cái chớ trêu của nó, là ở chỗ đấy là
những người chẳng biết mình là ai. Kẻ ăn mày này đi
xin kẻ ăn mày khác. Họ đã tới để xin bạn, cho nên có
lừa dối lẫn nhau.
Bạn bắt gặp một người đàn bà; bạn nói, "Đẹp thế!
Thiêng liêng thế!" Còn cô ấy nói, "Vâng, và em cũng
chưa bao giờ bắt gặp một người đàn ông đẹp trai như
anh." Đây là lừa dối lẫn nhau. Bạn có thể gọi nó là
tình yêu - đây là lừa dối lẫn nhau. Cả hai đều đang
khao khát sự đồng nhất nào đó về họ. Cả hai đáp ứng
cho ham muốn của nhau. Mọi thứ sẽ diễn ra tốt đẹp -
cho tới ngày một trong hai người quyết định rằng thế
là đủ rồi và bắt đầu vứt bỏ lừa dối. Thế thì tuần trăng mật chấm dứt... và hôn nhân bắt đầu. Thế rồi mọi sự
xấu đi. Thế thì bạn nghĩ "người đàn bà này lừa mình"
hay "người đàn ông này lừa mình." Không ai có thể
lừa được bạn chừng nào bạn không sẵn sàng để bị lừa,
nhớ lấy. Không ai đã bao giờ lừa được ai cả - trừ phi
bạn sẵn sàng để bị lừa, trừ phi bạn đang chờ đợi để bị
lừa.
Bạn không thể lừa được người biết tới bản thân
mình, bởi vì không có cách nào cả. Nếu bạn nói điều
gì đó, người đó sẽ cười to. Người đó sẽ nói, "Đừng lo
về điều đó - tôi đã tự biết mình là ai. Bạn có thể vứt
chủ đề đó đi và chuyển sang nói bất kì điều gì bạn
phải nói. Đừng bận tâm về tôi - tôi tự biết mình là ai."
Một khi bạn giầu có bên trong cuộc sống, bạn
không tìm kiếm của cải, bạn không tìm quyền lực.
Các nhà tâm lí đã trở nên nhận biết rằng khi mọi
người bắt đầu trở nên bất lực, họ bắt đầu tìm ra các
biểu tượng dục, dương vật nào đó. Nếu một người trở
nên bất lực người đó muốn biểu tượng dương vật nào
đó để thay thế nó. Người đó có thể cố gắng có chiếc
xe to nhất thế giới - đó là biểu tượng dương vật.
Người đó muốn có chiếc xe mạnh nhất thế giới; bây
giờ quyền lực riêng của người đó đã mất, năng lượng
dục riêng của người đó đã mất - bây giờ người đó
muốn cái thay thế. Trong khi tăng tốc chiếc xe của
mình tới tốc độ tối đa, người đó sẽ cảm thấy thoải mái
- cứ dường như người đó đang làm tình với người đàn
bà của mình. Chính tốc độ sẽ cho người đó sức mạnh.
Người đó sẽ được đồng nhất với chiếc xe.
Các nhà tâm lí đã quan sát hiện tượng này trong
nhiều năm, rằng những người có phức cảm tự ti nào
đó bao giờ cũng trở nên tham vọng. Trong thực tế,
không ai đi làm chính trị trừ phi người đó bị bắt rễ sâu
sắc vào phức cảm tự ti. Các chính khách về cơ bản là
người mang phức cảm tự ti. Họ phải chứng minh tính
cao siêu của mình theo cách nào đó, bằng không họ sẽ
không có khả năng sống với phức cảm tự ti của mình.
Điều tôi đang cố gắng chỉ ra là: bất kì điều gì bạn
bỏ lỡ bên trong, bạn đều cố gắng tích luỹ cái gì đó bên
ngoài làm cái thay thế cho nó. Nếu bạn không bỏ lỡ
cuộc sống của mình bên trong, bạn là đủ cho chính
mình rồi. Và chỉ thế thì bạn mới đẹp. Và chỉ thế thì
bạn mới hiện hữu.
Phật nói:
Những người bám dính lấy của cải trần tục
và niềm đam mê ích kỉ thì mù quáng
khi hi sinh những kiếp sống của mình vì chúng.
Họ giống như đứa trẻ cố liếm đốm mật
trên lưỡi dao.
Miếng mật chẳng đủ thoả mãn
cái thèm của nó,
nhưng gây nguy cơ làm đứt lưỡi nó.
Chẳng cái gì là đủ trong cuộc đời này để hoàn
thành các ham muốn của bạn, để hoàn thành cái thèm
của bạn. Thế giới này là thế giới mơ - chẳng cái gì có
thể hoàn thành được bởi vì chỉ thực tại mới có thể
hoàn thành.
Bạn có quan sát không? Trong giấc mơ một hôm
nào đó, bạn cảm thấy đói vào ban đêm và trong giấc
mơ bạn đi tới tủ lạnh và mở nó ra và bạn ăn một cách
thoả thích. Tất nhiên, theo một cách nào đó thì điều đó cũng tốt - nó không quấy rối giấc ngủ của bạn;
bằng không cái đói sẽ không cho phép bạn ngủ, bạn
sẽ phải thức dậy. Giấc mơ đã tạo ra vật thay thế; bạn
tiếp tục ngủ, bạn cảm thấy "Mình đã ăn đủ rồi." Bạn
đã lừa thân thể mình.
Giấc mơ là kẻ lừa dối. Sáng hôm sau bạn sẽ ngạc
nhiên - bạn vẫn đói - bởi vì bữa ăn trong mơ là tương
đương với việc nhịn ăn. Ăn hay nhịn - cả hai đều như
nhau trong mơ, bởi vì mơ là không thật. Nó không thể
thoả mãn được. Để làm dịu cơn khát thực, cần có
nước thực. Để thoả mãn, thực tại cuộc sống thực là
cần thiết.
Phật nói: Ông cứ tạo ra nguy cơ tự làm mình bị
thương, nhưng không hoàn thành nào tới từ cuộc sống
này. Có thể đây đó bạn đã nếm mật ong - ngọt đấy,
nhưng rất nguy hiểm, không thoả mãn. Và mật này là
miếng mật dính trên mép lưỡi dao; có mọi nguy cơ
bạn sẽ làm đứt lưỡi mình.
Bạn nhìn người già: bạn sẽ không thấy gì khác
ngoài những vết thương; toàn bộ bản thể của họ chẳng
là gì ngoài những vết thương - toàn những u là u. Khi
một người chết đi bạn không thấy hoa nở trong bản
thể người đó, bạn chỉ thấy những vết thương bốc mùi.
Nếu một người đã thực sự sống và không bị lừa
dối bởi mơ của mình và những ham muốn ảo tưởng,
người đó càng già sẽ càng trở nên đẹp hơn. Trong cái
chết người đó là thượng hạng.
Đôi khi bạn có thể bắt gặp người già có tuổi già
còn đẹp hơn tuổi thanh niên của người đó. Thế thì cúi
đầu trước người già đó đi - người đó đã sống một
cuộc sống đúng đắn, một cuộc sống hướng nội, một
cuộc sống 'nội tâm'. Bởi vì nếu cuộc sống mà được
sống một cách đúng đắn, thế thì bạn trở nên ngày một
đẹp hơn và huy hoàng bắt đầu tới với bạn, một vẻ
thanh tao; một cái gì đó của cái không biết bắt đầu tồn
tại ở ngoại vi của bạn - bạn trở thành nơi ở của cái vô
hạn, của cái vĩnh hằng. Nó phải là như vậy bởi vì
cuộc sống là sự tiến hoá.
Nếu khi bạn không còn trẻ nữa mà bạn trở nên
xấu, điều đó chỉ có nghĩa là trong tuổi thanh niên của
mình, bạn đã nếm mật trên quá nhiều dao - bạn đã trở
nên bị thương. Bây giờ bạn sẽ chịu đựng những vết
thương ung thư này. Tuổi già trở thành sự chịu đựng
lớn. Và cái chết rất hiếm khi đẹp, bởi vì rất hiếm
người đã thực sự sống.
Nếu một người đã thực sự sống - giống như ngọn
lửa cháy từ cả hai đầu - cái chết của người đó sẽ là
hiện tượng vô cùng trọng đại, cái đẹp tột cùng. Bạn sẽ
thấy cuộc sống của người đó chói sáng khi người đó
sắp chết, tới mức tối đa, tới mức cực thịnh. Trong
khoảnh khắc cuối này người đó sẽ trở thành ngọn lửa
như thế, toàn bộ cuộc sống của người đó sẽ trở thành
hương thơm tập trung vào khoảnh khắc đó, sự chói lọi
lớn lao sẽ nảy sinh trong bản thể người đó. Trước khi
người đó ra đi, người đó sẽ để lại sự ghi nhớ lấy.
Đó là điều đã xảy ra khi Phật rời khỏi thế giới
này. Đó là điều đã xảy ra khi Mahavira rời khỏi thế
giới này. Chúng ta đã không quên họ, không phải bởi
vì họ là các chính khách vĩ đại hay những người có
quyền lực lớn lao - họ là không ai cả, nhưng chúng ta
không thể quên được họ. Không thể nào quên được họ. Họ đã chẳng làm gì cả khi có liên quan tới lịch sử.
Chúng ta có thể gần như bỏ quên họ trong lịch sử,
chúng ta có thể quên lãng họ trong lịch sử - chẳng cái
gì bị mất cả. Trong thực tế, họ chưa bao giờ tồn tại
trong luồng lịch sử chính; họ ở bên lề của nó, nhưng
không thể nào quên họ được. Chính khoảnh khắc cuối
cùng của họ đã để lại niềm vinh quang thế cho nhân
loại. Sự rực rỡ cuối cùng của họ đã chỉ ra cho chúng
ta khả năng riêng của chúng ta, tiềm năng vô hạn của
chúng ta.
Phật nói:
"Con người bị ràng buộc chặt với gia đình và
của cải của mình còn bất lực hơn là trong tù.
Có cơ hội để tù nhân được thoát ra,
nhưng người chủ gia đình không ấp ủ ham
muốn được thoát ra khỏi mối ràng buộc gia
đình.
Khi niềm đam mê của con người nảy sinh
chẳng cái gì ngăn cản được người đó khỏi làm
tàn tạ bản thân mình.
Ngay cả đến dạ dầy hổ người đó cũng nhảy vào.
Do vậy những người bị nhấn chìm trong rác
rưởi của đam mê được gọi là kẻ dốt nát.
Những người có khả năng vượt qua nó là a la
hán thánh thiện.
Phật nói: Những người bị lạc trong rác rưởi của
đam mê và không bao giờ siêu việt lên trên nó, những
người không bao giờ siêu việt lên như hoa sen vươn
lên khỏi bùn mà nó được sinh ra, họ là người dốt nát,
phàm nhân. Những người siêu việt lên trên thèm khát
và ham muốn, những người hiểu ra cái vô ích của
ham muốn, và những người trở nên hiểu biết về toàn
bộ cái vô nghĩa mà tâm trí tạo ra và những ước mơ mà
nó chế ra, họ là những a la hán vĩ đại.
'A la hán', chính từ này nghĩa là người đã vượt
qua kẻ thù của mình. Phật nói ham muốn, việc ham
muốn, là kẻ thù của bạn. Một khi bạn đã vượt qua
ham muốn của mình, bạn đã vượt qua được kẻ thù của
mình, bạn đã trở thành a la hán. A la hán là mục tiêu:
trở thành vô ham muốn - bởi vì chỉ khi bạn vô ham
muốn thì mới có phúc lành.
Cái gọi là các tôn giáo của chúng ta đều dựa trên
sợ hãi. Tôn giáo của Phật dựa trên phúc lành bên
trong. Chúng ta tôn thờ Thượng đế bởi vì chúng ta sợ,
bởi vì chúng ta không biết phải làm gì với cuộc sống
của mình. Chúng ta liên tục run rẩy, sợ hãi - cái chết
đang tới và chúng ta không biết phải làm gì, làm sao
tự bảo vệ mình. Chúng ta cần người bảo vệ. Đấy là từ
sợ hãi. Tôn giáo của Phật là dựa vào phúc lành bên
trong, dựa vào hạnh phúc bên trong - nó chẳng liên
quan gì tới sợ hãi cả.
Để tôi kể cho các bạn một giai thoại:
Henry đi săn chuyến đầu tiên. Khi anh ta trở về
văn phòng của mình thì anh bạn Morris nôn nóng
được nghe tất cả mọi điều về chuyến đi của anh ta
được. Henry kể cho anh ta, "Này, tớ đi vào rừng với
người hướng dẫn. Cậu biết tớ đấy, hai phút trong
rừng, tớ bị lạc. Tớ bước đi cực kì lặng lẽ, thì bỗng
nhiên một con gấu to đùng mà cậu chưa từng thấy
đang đứng ngay bên phải phía trước tớ. Tớ rẽ quanh
và chạy thục mạng và con gấu kia, nó chạy còn nhanh hơn. Ngay khi tớ cảm thấy hơi thở nóng hổi của nó
phả vào gáy, thì nó trượt chân ngã nhào. Tớ nhảy qua
suối và chạy tiếp, nhưng tớ hết hơi và chắc rằng con
gấu kia đang tiến lại gần tớ lần nữa. Nó gần như trên
trốc tớ thì nó lại trượt chân và ngã nhào. Tớ cứ chạy
và cuối cùng tớ thấy mình ở khu đất thoáng của khu
rừng. Con gấu đang chạy nhanh hết sức và tớ biết tớ
sẽ không có cơ hội thoát nữa. Tớ thấy những người
thợ săn khác và kêu cứu, và ngay lúc đó con gấu lại
trượt chân và ngã lần nữa. Người hướng dẫn của tớ có
khả năng ngắm bắn và anh ta đã bắn con gấu và giết
chết nó."
Morris nói, "Henry, đấy là cả một câu chuyện.
Cậu là người rất bạo dạn. Nếu như điều đó mà xảy ra
cho tớ, thì tớ đã bĩnh ra quần rồi."
Henry nhìn anh ta và nhún vai, "Morris, cậu nghĩ
thế nào con gấu ấy còn trượt chân nữa không?"
Cái gọi là các tôn giáo chỉ bắt nguồn từ sợ hãi. Và
bất kì cái gì dựa trên sợ hãi thì không bao giờ có thể
đẹp được. Các thượng đế của bạn, các nhà thờ của
bạn, các đền đài của bạn, nếu chúng bắt nguồn từ nỗi
sợ của bạn thì chúng đều bốc mùi - chúng nhất định
bốc mùi sợ hãi của bạn.
Tôn giáo của Phật không dựa trên sợ hãi chút nào.
Đó là lí do tại sao ông ấy lại nói bước đầu tiên là vứt
bỏ mọi niềm tin. Những niềm tin đó hiện hữu bởi vì
sợ hãi. Với việc vứt bỏ niềm tin bạn sẽ trở nên nhận
biết về nỗi sợ của mình, và điều đó là tốt, trở nên nhận
biết về nỗi sợ của mình. Bạn sẽ trở nên nhận biết về
cái chết của mình. Bạn sẽ trở nên nhận biết về toàn
thể vũ trụ vô hạn này - chẳng đâu mà đi, không ai
hướng dẫn, chẳng đâu tìm được bất kì an toàn nào.
Trong nỗi sợ đó, trong nhận biết về nỗi sợ đó, chỗ duy
nhất còn lại sẽ là bắt đầu đi vào bên trong - bởi vì
chẳng có ích gì mà đi đâu cả. Nó bao la thế.
Cuộc hành trình bên trong bắt đầu khi bạn đã vứt
bỏ mọi niềm tin và bạn đã trở nên nhận biết về nỗi sợ,
cái chết, ham muốn. Và một khi bạn đã đi vào trong,
bỗng nhiên bạn thấy nỗi sợ biến mất; bởi vì trong cốt
lõi sâu nhất của bản thể bạn không bao giờ có bất kì
cái chết nào cả, không thể có được. Cốt lõi bên trong
nhất của bạn là hoàn toàn vô ngã.
Cái ngã có thể chết. Cái vô ngã không thể chết.
Nếu có cái gì đó, nó có thể bị phá huỷ. Đó là lí do tại
sao Phật nói chẳng có gì bên trong bạn - bạn là cái
không thuần khiết. Cái không đó không thể nào bị phá
huỷ. Và một khi bạn đã hiểu nó, rằng cái chết không
thể phá huỷ được, rằng cái không này là đẹp đẽ thế
trong chính nó, thì không có nhu cầu cứ nhồi nhét vào
nó bằng tiền bạc, quyền lực, uy tín, danh vọng. Cái
không này là thuần khiết và hồn nhiên và đẹp tới mức
bạn được phúc lành trong nó. Bạn bắt đầu nhảy múa
trong cái không đó. Cái không đó bắt đầu là điệu vũ.
Phật hướng dẫn bạn tới điệu vũ đó.
Khi Phật sắp chết, Ananda bắt đầu khóc và ông ấy
nói, "Bây giờ tôi biết làm gì đây? Thầy đang ra đi và
tôi vẫn chưa trở nên chứng ngộ."
Phật nói, "Đừng khóc nữa, bởi vì ta không thể làm
cho ông chứng ngộ được - chỉ ông mới có thể làm được phép màu đó cho bản thân mình. Là ánh sáng
lên chính mình đi - appa deepo bhava."
Phật ném nhân loại vào cốt lõi bên trong nhất.
Phật nói: đi vào bên trong đi - và không có chỗ nào
khác mà đi đâu. Bạn là điện thờ. Đi vào bên trong đi!
Và không có Thượng đế khác ở đâu cả để mà tôn thờ.
Bạn càng đi vào bên trong, tâm thức tôn thờ sẽ càng
nảy sinh - không có bất kì vật nào để tôn thờ; cầu
nguyện sẽ nảy sinh, không hướng tới bất kì ai. Cầu
nguyện thuần khiết... từ phúc lạc, từ bản thể, từ phúc
lành bên trong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét