truyền lại từ Kashyapabuddha. Âm thanh của ông
ta thê lương thế và giọng ông ta yếu ớt thế, cứ
dường như ông ta sắp chết.
Phật hỏi sư này, "Ông làm nghề gì trước khi ông
trở thành sư vô gia cư?" Sư này nói, "Tôi rất
thích chơi đàn ghi ta."
Phật nói, "Ông thấy đàn thế nào khi dây đàn quá
chùng?" Sư này nói, "Không âm thanh nào có thể
có được."
"Khi dây đàn quá căng thì thế nào?"
"Chúng đứt."
"Khi chúng không quá căng không quá chùng thì
thế nào?" "Mọi nốt đều vang đúng âm thanh của
nó."
Thế rồi Phật nói với sư này: Kỉ luật tôn giáo cũng
giống như chơi đàn ghi ta vậy. Khi tâm trí được
điều chỉnh đúng và chuyên tâm yên tĩnh, đạo là
đạt tới được; nhưng khi ông quá sốt sắng hướng
theo nó, thân thể ông trở nên mệt mỏi; và khi thân
thể ông mệt mỏi, tinh thần ông trở nên mệt mỏi;
khi tinh thần ông mệt mỏi, kỉ luật của ông sẽ thả
lỏng; và với việc thả lỏng kĩ luật sẽ có nhiều điều
xấu kéo theo. Do đó, bình thản và thuần khiết, và
đạo sẽ đạt được.
Toàn thể khổ của con người là do xa khỏi trung
tâm của mình. Đây là điều chỉnh sai giữa trục và bánh
xe. Có việc điều chỉnh sai giữa bạn và thực tại, và
điều chỉnh sai đó tự biểu lộ nó theo cả nghìn lẻ một
cách. Bạn càng xa khỏi thực tại, bạn càng khổ hơn.
Địa ngục là điểm xa nhất với thực tại. Bạn càng gần
với thực tại, bạn càng gần với cõi trời. Khi không có
điều chỉnh sai giữa bạn và thực tại, bạn là bản thân
thiên đường.
Vấn đề không phải là đi bất kì đâu, vấn đề là làm
sao có được hài hoà với thực tại. Nó là việc khám phá
lại - bởi vì trong bụng mẹ từng đứa trẻ đều được định
tâm trong thực tại. Trong bụng mẹ từng đứa trẻ đều
phúc lạc sâu sắc. Tất nhiên nó không nhận biết về
điều đó, không biết gì về điều đó. Nó là một với phúc
lạc của nó tới mức không có người biết còn lại đằng
sau. Phúc lạc là bản thể của nó, và không có phân biệt
giữa người biết và cái được biết. Cho nên tất nhiên
đứa trẻ không nhận biết rằng nó là phúc lạc. Bạn trở
nên nhận biết chỉ khi bạn đã đánh mất cái gì đó.
"Con không biết hạnh phúc là gì chừng nào con còn
chưa lấy vợ - và thế thì lại quá trễ."
Nó là vậy đấy. Rất khó biết cái gì đó mà không
làm mất nó, bởi vì khi bạn không làm mất nó thì bạn
là một với nó một cách toàn bộ. Không có khoảnh
cách: người quan sát và vật được quan sát là một; cái
được biết và người biết là một. Mọi đứa trẻ đều trong
trạng thái phúc lạc sâu sắc.
Các nhà tâm lí cũng đồng ý với điều này. Họ nói
rằng toàn thể tìm kiếm tôn giáo đều không là gì ngoài
cách tìm lại bụng của người mẹ. Họ dùng điều đó như
việc phê phán tôn giáo, nhưng với tôi điều đó không
phải là phê phán chút nào. Nó đơn giản đúng. Vâng,
tìm kiếm tôn giáo lại là tìm kiếm bụng mẹ. Tìm kiếm
tôn giáo lại là tìm kiếm để làm cho toàn thể sự tồn tại
này là bụng mẹ.
Đứa trẻ là tuyệt đối trong hoà điệu với người mẹ.
Đứa trẻ chưa bao giờ ở ngoài hoà điệu với người mẹ.
Đứa trẻ không biết rằng nó là tách rời khỏi người mẹ.
Nếu người mẹ mạnh khoẻ đứa trẻ mạnh khoẻ; nếu
người mẹ ốm đứa trẻ ốm; nếu người mẹ buồn đứa trẻ
buồn; nếu người mẹ hạnh phúc đứa trẻ hạnh phúc;
nếu người mẹ nhảy múa đứa trẻ nhảy múa; nếu người
mẹ ngồi im lặng đứa trẻ im lặng. Đứa trẻ chưa có biên
giới riêng của nó. Đây là phúc lạc thuần khiết nhất,
nhưng nó phải bị mất đi.
Đứa trẻ được sinh ra, và bỗng nhiên nó bị ném ra
khỏi trung tâm. Bỗng nhiên nó bị nhổ bật rễ khỏi đất,
khỏi người mẹ. Nó mất cái neo cố định của mình và
nó không biết nó là ai. Không có nhu cầu biết điều đó
khi nó còn ở cùng người mẹ. Không có nhu cầu để
biết - nó là tất cả, và không có nhu cầu để biết, không
có phân biệt. Không có 'bạn', cho nên không có vấn
đề về 'tôi' Thực tại là không phân chia. Nó là advait,
advait thuần khiết, bất nhị thuần khiết.
Nhưng một khi đứa trẻ được sinh ra, dây rốn bị
cắt đi và nó bắt đầu thở theo cách riêng của nó, bỗng
nhiên toàn thể con người nó trở thành cuộc truy tìm
để biết mình là ai. Điều đó là tự nhiên. Bây giờ nó bắt
đầu trở nên nhận biết về các biên giới của mình - thân
thể nó, nhu cầu của nó. Lúc thì nó hạnh phúc, lúc thì
bất hạnh, lúc thì nó được đáp ứng, lúc thì không được
đáp ứng; lúc thì nó đói và khóc và không có dấu hiệu
gì về người mẹ ở đâu cả; lúc thì nó ở trên ngực mẹ, lại
tận hưởng việc là một với mẹ. Nhưng bây giờ có
nhiều tâm trạng và nhiều bầu khí hậu, và nó sẽ bắt
đầu, dần dần, cảm thấy tách biệt. Li dị đã xảy ra; hôn
nhân đã tan vỡ.
Nó đã tuyệt đối lấy mẹ nó; bây giờ nó bao giờ
cũng tách biệt. Và nó phải tìm ra nó là ai. Và cả đời
người ta cứ cố gắng để tìm ra mình là ai. Đây là câu
hỏi nền tảng nhất.
Đầu tiên đứa trẻ trở nên nhận biết về 'của tôi', thế
rồi về 'cho tôi', thế rồi về 'người', thế rồi về 'tôi'. Đây
là cách sự việc diễn ra. Đây chính xác là thủ tục, đích
xác theo thứ tự này. Trước hết nó trở nên nhận biết về
'của tôi'. Quan sát điều đó đi, bởi vì đây là việc xây
dựng của bạn, cấu trúc của bản ngã bạn. Đầu tiên đứa
trẻ trở nên nhận biết về 'của tôi' - đồ chơi này là của
tôi, người mẹ này là của tôi. Nó bắt đầu sở hữu.
Người sở hữu đi vào trước hết; tính sở hữu là rất cơ bản. Do đó mọi tôn giáo đều nói: Trở nên không sở
hữu - bởi vì với sở hữu địa ngục bắt đầu. Quan sát trẻ
nhỏ mà xem: rất ghen tị, sở hữu, từng đứa trẻ đều cố
gắng vồ lấy mọi thứ từ mọi người khác và cố gắng
bảo vệ đồ chơi riêng của mình. Và bạn sẽ thấy trẻ con
rất bạo hành, gần như dửng dưng với nhu cầu của
người khác. Nếu đứa trẻ đang chơi với đồ chơi của nó
và đứa trẻ khác tới bạn có thể thấy một Adolf Hitler,
một Genghis Khan, một Nadirshah. Nó sẽ bám lấy đồ
chơi của mình; nó sẵn sàng đánh, nó sẵn sàng đánh
nhau. Đó là vấn đề lãnh thổ, vấn đề chi phối. Tính sở
hữu đi vào trước hết; đó là phần cơ sở. Và đứa trẻ bắt
đầu nói, "Cái này là của con."
Bây giờ xem đấy - chẳng cái gì có thể là 'của tôi'
trong thực tại, trong chân lí. Chúng ta đến với đôi bàn
tay trắng, chúng ta đi với đôi bàn tay trắng. Toàn thể
câu chuyện này về 'của tôi' và 'của bạn' chỉ là mơ.
Nhưng một khi đứa trẻ nói, "Đây là của tôi," bây giờ
nó đang đi vào điều chỉnh sai với thực tại. Cho nên
bạn sẽ thấy rằng bạn càng có ý tưởng này về 'của tôi',
thì bạn sẽ càng khổ thêm, bạn sẽ càng khổ sở thêm.
Mọi nơi: "Nhà này là của tôi; người đàn bà này là của
tôi; người đàn ông này là của tôi," và mọi nơi bạn lập
tức tuyên bố và sở hữu... và khổ đi vào.
Hai người đang yêu nhau. Nếu đấy chỉ là lúc ban
đầu thì cái 'của tôi' còn chưa bắt đầu - bởi vì nếu 'của
tôi' mà chưa bắt đầu, thì tâm trí chưa bắt đầu. Một khi
'của tôi' bắt đầu, bản ngã đang trên đường rồi. Bản
ngã là cái 'của tôi' được kết tinh. Và một khi 'của tôi'
bắt đầu, thì tình yêu bị mất. Tình yêu là đẹp chỉ khi
không có 'của tôi'. Nhưng nó đi vào ngay lập tức, bởi
vì điều đó đã trở thành chính cấu trúc của chúng ta.
Đó là nền tảng của chúng ta trong thế giới này. Chúng
ta được đặt cơ sở sai.
Tôi đã nghe...
Đứa trẻ chơi này mới sáu tuổi và nó đang chơi với
đứa con gái nhà bên cạnh mới năm tuổi.
"Chơi vật nhau không?" nó hỏi. Cô bé nói, "Tớ
không vật được. Tớ là con gái."
Nó tiếp tục, "Chơi bóng không?"
Cô bé đáp, "Tớ không chơi bóng được. Tớ là con
gái."
Cuối cùng nó nói, "Thôi được, đằng ấy có muốn
chơi nhà không?"
Cô bé nói, "Ô có chứ. Tớ sẽ là bố."
Từ chính lúc ban đầu, ai chi phối ai? ai sở hữu ai?
Do đó mọi tôn giáo - phương đông, phương tây - tất
cả các tôn giáo đã tồn tại trên trái đất đều nhấn mạnh
vào không sở hữu, không gắn bó - bởi vì điều đó sẽ
lấy đi chính đất bằng dưới chân bạn. Nếu bạn trở nên
không sở hữu thì bản ngã không thể tồn tại được. Nếu
bạn trở nên nhận biết về khiếm khuyết cơ sở này của
con người bạn, việc tuyên bố về 'của tôi' này, bạn sẽ
ngạc nhiên rằng mọi khổ của bạn có thể được vứt bỏ
đi bằng việc vứt bỏ mỗi từ này thôi. Đây không chỉ là
một từ, nó là toàn thể phong cách sống của bạn. Kiểu
sống sai dựa trên 'của tôi'; kiểu sống đúng không biết
tới 'của tôi', không biết tới 'của anh'.
cho bản thân mình tách rời khỏi cái toàn thể. Bây giờ
phân biệt này sẽ phát triển, và từng bước sẽ đem bạn
đi xa hơn.
Tôi đã nghe...
Một đứa bé đang ngồi cùng với gia đình; bố và
mẹ đang cãi nhau, như thông thường. Thế rồi bố trở
thành gần phát điên. Sợ mình có thể đánh người đàn
bà, hay sợ mình có thể làm điều gì đó sai, anh ta chạy
ra khỏi nhà.
Đứa bé vẫn quan sát. Nó nói, "Bố có quay về
không ạ?"
Mẹ nó nói, "Có chứ, trong mười lăm phút nữa bố
sẽ quay về."
Đứa bé nói, "Ôi trời! Con cứ tưởng được ăn món
tráng miệng của bố."
Một khi 'của tôi' đi vào thế thì bạn là kẻ cạnh
tranh với mọi người. Một khi 'của tôi' đi vào, cuộc
sống của bạn bây giờ sẽ là cuộc sống của cạnh tranh,
tranh đấu, xung đột, bạo hành, công kích.
Bước tiếp của 'của tôi' là 'tôi'. Khi bạn có cái gì đó
để tuyên bố như của mình, bỗng nhiên qua tuyên bố
đó phát sinh ý tưởng rằng bây giờ bạn là trung tâm
của các sở hữu của mình. Việc sở hữu trở thành lãnh
thổ của bạn, và qua những sở hữu đó nảy sinh ý tưởng
mới: 'tôi'.
Một khi bạn được đọng lại với cái 'tôi', bạn có thể
thấy rõ ràng rằng bạn có biên giới, và những người
ngoài biên giới này là 'người'. Người khác trở thành
rõ ràng; bây giờ mọi sự bắt đầu rời ra.
Vũ trụ là một, nó là một thể thống nhất. Không
cái gì bị phân chia. Mọi thứ đều được nối với mọi thứ
khác. Đó là tính nối vô cùng. Bạn được nối với đất,
bạn được nối với cây, bạn được nối với sao; sao được
nối với bạn, sao được nối với cây, với sông, với núi.
Mọi thứ đều được liên nối. Không cái gì tách rời;
không cái gì có thể phân tách. Phân tách là không thể
được.
Từng khoảnh khắc bạn đều thở - bạn thở vào, bạn
thở ra - liên tục có cây cầu với sự tồn tại. Bạn ăn, sự
tồn tại đi vào bạn; bạn bài tiết, nó trở thành phân - táo
trên cây sẽ trở thành một phần thân thể bạn ngày mai,
và phần nào đó của thân thể bạn sẽ ra đi và trở thành
phân, sẽ trở thành thức ăn cho cây cối... cho và nhận
liên tục. Không một khoảnh khắc nào nó dừng lại.
Khi nó dừng lại, bạn chết.
Chết là gì? - sự tách bạch là cái chết. Trong thống
nhất là sống, ngoài thống nhất là chết. Cho nên bạn
càng nghĩ, "Mình tách biệt," bạn càng kém nhạy cảm
hơn, chết nhiều hơn, kéo lê, đần độn. Bạn càng cảm
thấy mình được nối, toàn thể sự tồn tại này lại càng là
một phần của bạn và bạn là một phần của toàn thể sự
tồn tại này. Một khi bạn hiểu rằng chúng ta là thành
viên của nhau, thế thì bỗng nhiên tầm nhìn thay đổi.
Thế thì những cây này không còn xa lạ nữa; chúng
vẫn liên tục chuẩn bị thức ăn cho bạn. Khi bạn thở
vào bạn lấy ô xi vào, khi bạn thở ra bạn cho các bô nic; cây cối thở vào bằng các bô nic và thở ra ô xi - có
giao cảm liên tục. Chúng ta trong hoà điệu. Thực tại
là một thể thống nhất. Và với ý tưởng về 'tôi', 'người',
chúng ta đang rơi ra ngoài thực tại. Và một khi quan
niệm sai này lắng đọng ở bên trong, toàn thể phân
chia của bạn trở thành lộn ngược.
Tôi đã nghe...
Một thanh niên New York đến Texas lần đầu tiên.
Thấy một đàn trâu, anh ta hỏi người chủ chúng là gì.
"Chúng chỉ là lợn hoang," người chủ nói. "Mọi
thứ ở Texas đều to cả."
Chút ít sau vị khách lại thấy một đàn chim đại
bàng và hỏi chúng là gì.
"Chúng chỉ là chim sẻ thôi," người chủ nói. "Mọi
thứ đều to ở Texas."
Cuối đêm vị khách đi tìm nhà vệ sinh và rơi vào
trong bể bơi. "Lạy thánh Pete!" anh ta kêu lên "Không
ai kéo cái xối nước cả!"
Một khi bạn có quan niệm sai về sự vật, thế thì
quan niệm đó sẽ bóp méo mọi thứ. Nếu 'mọi thứ đều
to ở Texas', thế thì bể bơi phải là cái bệ xí! Điều đó là
tự nhiên - quan niệm sai này dẫn tới quan niệm sai
khác và quan niệm sai nhỏ dẫn tới quan niệm sai lớn
hơn. Nếu bạn lắng đọng với điều này, một ngày nào
đó bạn đơn giản không biết thực tại là gì. Bạn đơn
giản bị che phủ bởi quan niệm riêng của mình.
'Cho tôi', rồi 'người', và thế rồi như sự phản chiếu
nảy sinh 'tôi', 'tôi' là dạng tinh vi nhất, kết tinh nhất
của tính sở hữu. Một khi bạn đã thốt ra 'tôi', thì bạn đã
phạm vào điều báng bổ. Một khi bạn đã nói 'tôi', bạn
bị ngắt hoàn toàn khỏi sự tồn tại - không thực sự bị
ngắt, bằng không bạn sẽ chết. Nhưng trong ý tưởng
của mình thì bạn đã hoàn toàn bị ngắt khỏi thực tại.
Bây giờ bạn sẽ trong tranh đấu liên tục với thực tại.
Bạn sẽ tranh đấu với gốc rễ riêng của mình, bạn sẽ
tranh đấu với bản thân mình.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Là mẩu gỗ trôi giạt.
Bạn có thể là mẩu gỗ trôi giạt chỉ nếu bạn đã vứt bỏ ý
tưởng về tôi - bằng không bạn không thể là mẩu gỗ
trôi giạt được. Vật lộn sẽ dai dẳng. Đó là lí do tại sao
bạn thấy khó khi đi tới thiền. Nếu tôi nói ngồi im
lặng, bạn không thể làm được điều đó - điều đơn giản
thế. Người ta sẽ coi đó là điều đơn giản nhất; đáng ra
không cần phải dạy điều đó. Người ta phải đơn giản
ngồi và hiện hữu. Nhưng bạn không thể ngồi được bởi
vì cái 'tôi' không thể cho phép bạn có lấy một khoảnh
khắc thảnh thơi. Hễ một khoảnh khắc của thảnh thơi
mà được phép, bạn sẽ có khả năng thấy thực tại. Một
khi thực tại được biết tới, cái 'tôi' sẽ phải bị vứt bỏ.
Thế thì nó không thể còn dai dẳng được. Cho nên cái
'tôi' thậm chí không bao giờ cho phép bạn có ngày
nghỉ. Cho dù bạn đi lên núi, tới chỗ nghỉ mùa hè, cái
'tôi' vẫn không bao giờ cho phép bạn có ngày nghỉ kể
cả ở đó. Bạn mang radio đi, bạn mang ti vi đi; bạn
mang tất cả các vấn đề của mình và bạn vẫn còn bận
bịu. Tại đó, tại nơi nghỉ an dưỡng trên đồi núi, bạn đã
đi tới để thảnh thơi, nhưng bạn vẫn tiếp tục toàn thể hình mẫu của mình theo cùng cách. Bạn không thảnh
thơi.
Cái 'tôi' không thể thảnh thơi được. Nó tồn tại qua
căng thẳng. Nó sẽ tạo ra căng thẳng mới, nó sẽ tạo ra
lo nghĩ mới, nó sẽ thường xuyên chế tác ra vấn đề
mới, nó sẽ không cho phép bạn nghỉ ngơi gì. Cho dù
nghỉ ngơi lấy một phút và toàn thể ngôi nhà của cái
'tôi' bắt đầu sụp đổ - bởi vì thực tại đẹp thế và cái 'tôi'
xấu thế. Người ta liên tục tranh đấu theo cách của
mình một cách không cần thiết. Bạn đang tranh đấu vì
những thứ sắp xảy ra theo cách riêng của chúng. Bạn
đang tranh đấu một cách không cần thiết. Bạn đang
ham muốn những điều sẽ là của bạn nếu bạn không
ham muốn. Thực tế, bởi việc ham muốn bạn sẽ làm
mất chúng.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Nổi cùng với dòng
chảy. Cứ để nó đưa bạn ra đại dương.
'Của tôi', 'cho tôi', 'người', 'tôi' - đây là cái bẫy. Và
cái bẫy này tạo ra khổ, loạn thần kinh, điên khùng.
Bây giờ vấn đề là: đứa trẻ phải trải qua nó, bởi vì
nó không biết mình là ai và nó cần căn cước nào đó -
có thể là căn cước giả, nhưng điều đó còn tốt hơn là
không căn cước gì. Nó cần căn cước nào đó. Nó cần
biết đích xác nó là ai, cho nên một trung tâm giả được
tạo ra. Cái 'tôi' không phải là trung tâm thực của bạn.
Nó là trung tâm giả - tiện dụng, giả vờ, chỉ do bạn chế
tác ra. Nó chẳng liên quan gì tới trung tâm thực của
bạn. Trung tâm thực của bạn là trung tâm của tất cả.
Cái ta thực của bạn là cái ta của tất cả. Tại trung tâm
này, toàn thể sự tồn tại là một - cũng như tại trung tâm
của ánh sáng, mặt trời, mọi tia sáng đều là một.
Chúng càng đi xa, chúng càng xa lẫn nhau hơn.
Trung tâm thực của bạn không phải chỉ là trung
tâm của bạn thôi, nó là trung tâm của cái toàn thể.
Nhưng chúng ta đã tạo ra những trung tâm nhỏ của
riêng mình, tự chế tác, do bản thân chúng ta chế tạo
ra. Có nhu cầu... bởi vì đứa trẻ được sinh ra không có
biên giới nào, không có ý tưởng về mình là ai. Đó là
sự cần thiết sống còn. Làm sao nó sẽ tồn tại được? Nó
phải được cho một cái tên, nó phải được cho một ý
tưởng về nó là ai. Tất nhiên ý tưởng này tới từ bên
ngoài; ai đó nói bạn đẹp, ai đó nói bạn thông minh, ai
đó nói bạn sinh động thế. Bạn thu lấy những thứ mà
mọi người nói. Từ tất cả những điều mọi người nói về
bạn, bạn thu thập một hình ảnh nào đó. Bạn chưa bao
giờ nhìn vào bản thân mình, vào bạn là ai. Hình ảnh
này sẽ là giả - bởi vì không ai khác có thể biết được
bạn là ai, và không ai khác có thể nói bạn là ai. Thực
tại bên trong của bạn là không sẵn có cho bất kì ai
khác ngoại trừ bạn. Thực tại bên trong của bạn là
không thể xuyên thấu được với bất kì ai khác ngoại
trừ bạn. Chỉ bạn mới có thể ở đó.
Cái ngày bạn nhận ra rằng căn cước của mình là
giả, được gắn lại nhau; bạn đã thu thập ý kiến từ mọi
người...
Đôi khi bạn nghĩ, chỉ ngồi im lặng và nghĩ xem
mình là ai. Nhiều ý tưởng sẽ nảy sinh. Cứ quan sát
xem chúng tới từ đâu và bạn sẽ có khả năng tìm ra cội
nguồn. Cái gì đó tới từ mẹ bạn - nhiều đấy; quãng tám
mươi đến chín mươi phần trăm. Cái gì đó tới từ bố
bạn, cái gì đó tới từ thầy giáo phổ thông của bạn, cái gì đó tới từ bạn bè bạn, cái gì đó tới từ xã hội. Quan
sát xem: bạn sẽ có khả năng phân chia nó tới từ đâu.
Chẳng cái gì tới từ bạn cả, thậm chí không đến một
phần trăm tới từ bạn. Đây là kiểu căn cước gì mà
trong đó bạn đã không đóng góp gì cả thế? Và bạn là
người duy nhất có thể có đóng góp, thực tế, cho cả
một trăm phần trăm.
Cái ngày bạn hiểu ra điều này, tôn giáo trở thành
quan trọng. Cái ngày bạn nhận ra điều này bạn bắt
đầu tìm kiếm kĩ thuật nào đó, phương pháp nào đó để
đi vào trong bản thể mình; cách biết đích xác, thực sự,
mang tính tồn tại, bạn là ai. Không còn là tuyển tập
các hình ảnh từ bên ngoài, không yêu cầu người khác
để soi gương thực tại của bạn - mà đối diện trực tiếp
với nó, ngay lập tức; để đi vào trong bản tính của bạn,
để cảm thấy nó ở đó. Cần gì phải hỏi người nào? Và
bạn hỏi ai? Họ cũng dốt nát về bản thân họ như bạn
dốt nát về bản thân mình. Họ không biết tới bản thân
họ; làm sao họ có thể biết tới bạn được? Xem cách
mọi sự vận hành, cách mọi sự cứ vận hành, cách mọi
sự cứ xảy ra: giả dối này dẫn tới giả dối khác. Bạn
gần như bị lừa dối, bị lừa bịp. Bạn bị lừa gạt, và
những người đã lừa gạt bạn có thể đã làm điều đó một
cách vô tình. Họ có thể đã bị người khác lừa. Bố bạn,
mẹ bạn, thầy giáo của bạn, đã bị những người khác
lừa - bố họ, mẹ họ, thầy giáo họ. Và đến lượt mình họ
đã lừa bạn. Bạn có định làm cùng điều đó với con
mình nữa không?
Trong một thế giới tốt hơn, nơi mọi người thông
minh hơn, nhận biết hơn, họ sẽ dạy con họ rằng ý
tưởng về căn cước là giả tạo: "Nó là cần thiết, chúng
ta đem nó cho con, nhưng nó chỉ dùng cho thời bây
giờ thôi, trước khi bản thân con khám phá ra mình là
ai. Nó sẽ không phải là thực tại của con đâu. Và con
càng sớm tìm ra con là ai thì càng tốt. Con càng sớm
có thể vứt bỏ cái ý tưởng này đi, thì càng tốt - bởi vì
từ chính khoảnh khắc đó con sẽ thực sự được sinh ra,
và con sẽ thực sự là thực, đích thực. Con sẽ trở thành
cá nhân."
Các ý tưởng mà chúng ta thu thập từ người khác
cho chúng ta cá tính, còn hiểu biết mà chúng ta đi tới
biết từ bên trong cho chúng ta tính cá nhân. Cá tính là
giả, cá nhân là thực. Cá tính được vay mượn; thực tại,
tính cá nhân, cái đích thực của bạn, không bao giờ có
thể được vay mượn. Không ai có thể nói được bạn là
ai.
Thân thể bạn có thể được người khác nhìn thấy.
Họ có thể nói liệu thân thể bạn là đẹp hay không, và
điều đó nữa cũng còn tuỳ - bởi vì không có tiêu chuẩn
nào cho cái đẹp tồn tại. Điều đó tuỳ thuộc vào ý tưởng
của người ta, vào điều người ta coi là đẹp. Hai người
chẳng bao giờ đồng ý được. Điều đó gần giống như
'thích' và 'không thích'. Bạn có thể rơi vào tình yêu
với người đàn bà và bạn có thể nghĩ cô ấy là người
đàn bà đẹp nhất trên thế giới - và bạn của bạn có thể
cười bạn. Tôi không nói họ đúng, tôi không nói bạn
đúng. Tôi đơn giản nói rằng không có tiêu chuẩn. Bạn
có thể coi người đàn bà này là khủng khiếp và bạn của
bạn là điên, nhưng không có tiêu chuẩn. Không có
cách thức khách quan để biết ai đẹp, cái gì đẹp. Điều
đó tuỳ vào tâm trí bạn, sự huấn luyện của bạn.
Tôi đã nghe lỏm được...
nói, gần như bị quyến rũ, "Úi giời! hoàn hảo 250 nhân
210 nhân 400!"
Với voi, tất nhiên, đó là tỉ lệ đẹp - không phải cho
con người. Và cũng như bạn cười về tỉ lệ này, voi
cười về ý tưởng cái đẹp của bạn.
Thực tế ngay cả ý tưởng của một cá nhân về cái
đẹp cũng thay đổi. Thời thơ ấu bạn có các ý tưởng
khác về cái đẹp, thời thanh niên các ý tưởng khác,
trong tuổi già lại các ý tưởng khác. Và thế thì điều đó
tuỳ thuộc vào sự cần thiết của bạn, nhu cầu của bạn.
Tôi đã nghe...
Có một quảng cáo trong một tạp chí cho nông
dân. Người nông dân đã quảng cáo rằng anh ta muốn
gặp một đàn bà quãng ba mươi tuổi. Bản thân anh ta
bốn mươi mốt. Mục đích: hôn nhân. Nhưng một điều
kiện phải được đáp ứng: người đàn bà phải có máy
kéo, và cô ấy phải gửi bức ảnh của máy kéo đó!
Điều đó tuỳ thuộc vào nhu cầu của bạn, vào ý
tưởng của bạn, vào triết lí của bạn, tôn giáo, huấn
luyện, văn hoá. Ai đó có thể nói điều gì đó về thân thể
bạn; điều đó nữa cũng không khách quan. Ai đó có
thể nói điều gì đó về tâm trí bạn - thầy giáo có thể nói
bạn rất thông minh - nhưng điều đó nữa cũng còn tuỳ.
Bởi vì không có cách nào quyết định được ai là thông
minh. Chính ý tưởng về tỉ số thông minh, cách đo
thông minh, đã thất bại. Các nhà tâm lí đã tưởng rằng
họ có khả năng đo thông minh, nhưng điều đó đã thất
bại. Bây giờ nó lạc hậu rồi. Nó chẳng ngụ ý gì nhiều.
Ai thông minh? - đứa trẻ có khả năng toán học,
hay đứa trẻ rất có khả năng hội hoạ? Ai thông minh? -
đứa trẻ có thể làm thơ, hay đứa trẻ có thể làm động cơ
hay cái máy? Ai thông minh? Đơn giản không có cách
nào nói được cả. Tất nhiên, thông thường, nhà toán
học, nhà cơ khí, nhà công nghệ, sẽ được coi là thông
minh - bởi vì người đó có nhiều tiện ích hơn. Bức
tranh không có mấy tiện ích. Bài thơ không có giá trị
tồn tại; bạn không thể buôn bán nó được. Ở bãi chợ
không ai bận tâm tới nó. Nhưng nếu bạn có thể tạo ra
vật dụng, thiết bị máy móc, thì nhiều người sẽ quan
tâm tới nó. Nhưng làm sao để quyết định?
Trong xã hội khác... Chẳng hạn: ở Trung Quốc cổ
đại, ba nghìn năm trước, người có thể soạn thơ được
coi là thông minh hơn người có thể phát minh ra cái
máy - bởi vì xã hội đã tồn tại trên các nguyên tắc
khác. Lão Tử đã nói rằng máy móc là cách để lừa gạt
tự nhiên, để khai thác tự nhiên. Chúng mang tính công
kích. Con người không cần các thứ máy móc nào; thơ
ca, tranh vẽ, điêu khắc, âm nhạc còn có giá trị hơn.
Cho nên đứa trẻ là nhạc sĩ bẩm sinh được coi là thông
minh hơn nhà toán học - bởi vì bạn sẽ làm gì với nhà
toán học? Nó để dùng làm gì? Nhưng trong thế giới
hiện đại nhà toán học hữu dụng hơn, có nhiều tiện ích
hơn, có nhiều giá trị thị trường hơn.
Nhưng điều này sẽ không là như vậy được lâu
đâu. Chẳng chóng thì chầy, thậm chí trong thế kỉ này,
vài nước sẽ đi tới mức giầu có mà họ lại sẽ cần tới âm nhạc, thơ ca, điêu khắc. Mọi người sẽ thích nghe âm
nhạc vĩ đại, sẽ thích xem múa, sẽ thích đi vào các lĩnh
vực của cái đẹp, sẽ thích đi vào hoà điệu sâu sắc hơn
với thực tại. Ai sẽ bận tâm về nhà toán học, nhà công
nghệ, kĩ sư? Chẳng chóng thì chầy điều này sẽ thay
đổi. Điều đó phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội.
Mọi người có thể nói điều gì đó về thân thể bạn,
điều gì đó về tâm trí bạn, nhưng điều đó nữa cũng
chẳng có giá trị gì. Ai có thể nói điều gì về linh hồn
bạn? - ngay cả mẹ bạn người đã cho việc sinh thành ra
bạn cũng chẳng nói được, ngay cả bố bạn cũng chẳng
nói được.
Khi Phật trở nên chứng ngộ ông ấy trở về nhà.
Người bố đã rất giận, vậy cũng là tự nhiên. Rất khó
mà thoả mãn cho người bố, bởi vì bất kì điều gì bạn
làm cũng sẽ chống lại tham vọng của ông ấy. Rất khó
thoả mãn cho người bố. Nếu bạn không có cá tính
nào, nếu bạn không có tính cá nhân nào, nếu bạn
không có thông minh duy nhất nào, thì bạn đần độn.
Bạn có thể vâng lời, nhưng thế thì người bố lại không
được thoả mãn bởi vì đần độn của bạn, ngu xuẩn. Bạn
vâng lời, được; nhưng phỏng có ích gì cho việc bạn
vâng lời? Bạn chẳng có gì để cho cả. Nếu bạn thông
minh, duy nhất, có cái gì đó để cho, thế thì bạn không
thể vâng lời được. Thông minh bao giờ cũng mang
tính nổi dậy. Chỉ người đần độn và ngu xuẩn mới
vâng lời.
Trong thế giới ngày nay có nhiều nổi dậy thế chỉ
bởi vì đã có bùng nổ của thông minh. Từng thế hệ đều
thông minh hơn thế hệ trước, do đó mới nhiều nổi dậy
hơn, nhiều không vâng lời hơn, nhiều hỗn loạn hơn
trên thế giới. Bạn có thể quan sát điều đó trong con
bạn. Quan sát con bạn một cách không thiên vị. Bạn
có thông minh như vậy không khi bạn còn là đứa trẻ?
Bây giờ nhìn trẻ con; chúng thông minh thế. Bạn có
thể không thấy điều đó, bởi vì điêu đó gây tổn thương.
Bạn có thể không thấy điều đó, bạn có thể phủ nhận
điều đó, nhưng quan sát xem - và điều đó phải là như
vậy. Điều tự nhiên là tâm thức cứ tiến hoá. Cho nên
khi đứa trẻ thông minh, nó mang tính nổi dậy, và
người bố không được thoả mãn. Khi đứa trẻ vâng lời
nhưng nó không thông minh, thế nữa người bố cũng
không thoả mãn. Thật khó mà thoả mãn được người
bố.
Ngay cả Phật cũng không thể thoả mãn được cho
bố mình. Bố của Phật phải đã cho rằng ông ấy đã trở
thành kẻ hippie. Có thể thuật ngữ này hồi đó còn chưa
có, cho nên ông ấy phải đã nghĩ dưới một thuật ngữ
khác nào đó, nhưng đó đích xác là điều ông ấy nói với
Phật khi ông ấy về. Ông ấy rất bực mình, tức tối, và
ông ấy nói, "Con đã làm gì vậy? Con là con vua, và
con đi như kẻ ăn xin sao? Vứt ngay tất cả những cái
vô nghĩa này và trở về nhà. Ta là bố của con. Mặc dầu
con đã làm đau ta, và con đã là nỗi đau tới tận cổ ta,
dầu vậy trái tim ta vẫn là trái tim của người bố: ta có
thể tha thứ cho con. Cánh cửa của ta vẫn còn mở. Con
có thể tới."
Phật cười. Ông ấy nói, "Bệ hạ không biết ta chút
nào. Ta đã đi vào một vương quốc vĩ đại." Người bố,
tất nhiên, trở nên điên tiết hơn. Ông ta nói, "Chấm dứt
mọi điều này đi! Ta biết con rõ lắm. Ta đã cho sinh
thành ra con." Phật nói, "Chỗ đó bệ hạ lầm, chỗ đó bệ
hạ phạm lỗi. Bệ hạ đã sinh thành ra thân thể ta, nhưng không sinh ra ta; và bệ hạ chẳng biết ta chút nào. Cho
dù ta đang đứng trước bệ hạ, bệ hạ cũng không thấy
ta. Bệ hạ đầy những ý tưởng rằng bệ hạ là bố và ta là
con của bệ hạ. Ý tưởng đó đang vận hành tựa như rào
chắn. Nhìn vào ta đây! Người con đã rời bỏ ngôi nhà
của bệ hạ đã không quay lại. Người đó đã mất rồi,
người đó đã chết! Ta là một con người hoàn toàn mới.
Ta tới với một căn cước mới, ta tới với một hiểu biết
mới: ta tới như nhận biết. Ta đã đi như vô ý thức. Ta
đã đi như Gautam Siddhartha, con bệ hạ. Bây giờ ta
tới như Phật, như được chứng ngộ, vừa mới được
chứng ngộ. Ta đã đi với căn cước giả, bây giờ ta tới
với hiểu biết thực về ta là ai. Nhìn vào ta!"
Thực tế, không có cách nào để bất kì ai khác thấy
thực tại của bạn. Bạn phải tự mình đi vào trong nó.
Điều đó không thể được người phục vụ làm, bạn
không thể trả tiền cho ai đó để họ làm điều đó cho bạn
được.
Một thánh nhân Sufi vĩ đại được Caliph Omar
triệu tới để cầu nguyện trong triều đình ông ấy. Thánh
nhân tới, nhưng ông ấy nói, "Tôi không thể làm điều
đó được. Có vài điều bệ hạ phải làm cho chính mình.
Bệ hạ phải tự thở cho mình; không ai khác có thể làm
được điều đó. Bệ hạ phải tự làm tình với người đàn bà
của bệ hạ; không ai khác có thể làm điều đó cho bệ
hạ. Và bệ hạ phải cầu nguyện cho bản thân mình; tôi
không thể làm được điều đó. Rất tiếc." Ông ấy nói,
"Tôi có thể cầu nguyện, nhưng đó sẽ là lời cầu
nguyện cho bản thân tôi. Nó sẽ không dành cho bệ
hạ."
Ông ấy đã đem chân lí vĩ đại về nhà; có những
điều mà không ai có thể làm thay bạn được. Ít nhất
một điều mà không ai có thể làm cho bạn được - đó
là, cho bạn câu trả lời bạn là ai. Không, bạn phải đi,
bạn phải đào sâu vào bản thể riêng của mình. Tầng
tầng của căn cước, căn cước giả, phải bị phá vỡ.
Có nỗi sợ khi người ta đi vào trong bản thân
mình, bởi vì hỗn loạn bước vào. Bằng cách nào đó
bạn đã điều khiển với căn cước giả của mình. Bạn đã
lắng đọng với nó. Bạn biết tên mình là thế này thế nọ;
bạn có những tin tưởng nào đó, chứng chỉ, bằng cấp,
đại học, cao đẳng, danh vọng, tiền bạc, di sản. Bạn có
cách nào đó để xác định bản thân mình. Bạn có định
nghĩa nào đó, có tác dụng thế nào đó - nhưng nó có
tác dụng. Đi vào nghĩa là vứt bỏ cái định nghĩa có tác
dụng này... sẽ có hỗn loạn.
Trước khi bạn có thể đi tới trung tâm của mình,
bạn sẽ phải đi qua trạng thái rất hỗn loạn. Đó là lí do
tại sao có nỗi sợ. Không ai muốn đi vào trong cả. Mọi
người cứ dạy: Biết bản thân mình; chúng ta nghe,
nhưng chúng ta chẳng bao giờ nghe thấy cả. Chúng ta
chưa bao giờ bận tâm về điều đó. Có ý tưởng nào đó
trong tâm trí rằng hỗn loạn sẽ làm cho không rõ ràng
và bạn sẽ bị lạc trong nó, bạn sẽ bị nhấn chìm vào
trong nó. Bởi nỗi sợ hỗn loạn đó, chúng ta cứ níu bám
lấy bất kì cái gì từ bên ngoài. Nhưng điều này đang
làm phí hoài cuộc sống của bạn.
Cái ngày bạn trở nên đủ dũng cảm để đi vào trong
bản thể mình, bạn đã trở thành một sannyasin. Tính
chất sannyas nghĩa là: bây giờ bạn nắm lấy cuộc sống
của mình trong bàn tay mình. Bây giờ bạn đang cố gắng để sống cuộc sống của bạn một cách đích thực.
Bây giờ bạn không còn đóng vai diễn nữa. Bây giờ
bạn sẽ không cho phép bất kì ai khác viết câu chuyện
về cuộc đời bạn. Bây giờ bạn sẵn sàng trải ra cái mà
bạn bao giờ cũng mang như hạt mầm bên trong mình.
Hỗn loạn là vấn đề duy nhất; cho nên khi mọi người
trở nên mang tính tôn giáo họ bắt đầu tìm cách nào đó
để né tránh hỗn loạn. Điều đó phải được hiểu trước
khi bạn có thể đi vào trong lời kinh này.
Căn cước nào đó có đấy. Chẳng hạn: bạn giầu,
bạn có nhiều tiền - đó là căn cước của bạn. Khi một
người bắt đầu nghĩ, "Làm sao để biết bản thân mình?"
và khi người đó đi tới nghe chân lí luôn do các hiền
nhân giải thích: rằng 'của tôi', 'cho tôi', 'người', 'tôi',
đều phải bị loại bỏ, người đó nghĩ, "Được rồi, vậy
mình sẽ vứt bỏ tất cả mọi của cải của mình và mình sẽ
trở thành nghèo." Người đó vứt bỏ một căn cước - căn
cước của việc là nghèo - nhưng người đó đã đi sang
cực đoan khác. Để tránh một điều sai người đó đã đi
sang cái sai đối lập. Và đây là điều nền tảng: nếu bạn
đi ngược lại cái sai quá nhiều, bạn sẽ lại đi vào cái sai
khác. Cái sai này bị đối lập bởi điều khác không thể
nào được làm cho đúng; cái đối lập cũng sai. Chỉ ở
chính giữa, đâu đó đấy, mới là chân lí.
Khi bạn giầu bạn có một căn cước. Bạn vứt bỏ cái
đó, bạn trở thành nghèo, bạn trở thành người ăn xin;
bây giờ bạn có căn cước khác. Căn cước thứ nhất đã
được vay mượn từ xã hội, căn cước thứ hai cũng được
vay mượn từ xã hội. Bây giờ mọi người sẽ nói rằng
bạn đã từ bỏ thế giới, bạn là một sannyasin vĩ đại, bạn
đã vứt bỏ thế giới, bạn đơn giản là vĩ đại. Bạn đã vĩ
đại bởi vì bạn đã có tiền; bây giờ bạn vĩ đại bởi vì bạn
đã từ bỏ tiền - nhưng căn cước đang tới từ bên ngoài.
Ban đầu bạn đã giầu, bây giờ bạn nghèo; bây giờ
nghèo là giầu sang của bạn. Bạn đã có bản ngã, bạn
trở nên khiêm tốn; nhưng bây giờ khiêm tốn là bản
ngã của bạn.
Người ta có thể đi từ bệnh tật này sang bệnh tật
khác rất dễ dàng, cũng giống như con lắc có thể đung
đưa từ cực đoan này sang cực đoan khác.
Phật nói: Các cực đoan chính là cái sai. Là người
cực đoan là ở chỗ sai. Ở giữa, được cân bằng -
samyak - và đó là chỗ cái đúng. Ở chính giữa, đừng đi
từ cực này sang cực khác. Đó là điều mọi người đang
làm. Ai đó đang chạy theo đàn bà, thế rồi một ngày
nào đó anh ta quyết định điều đó là vô tích sự; anh ta
bắt đầu chạy xa khỏi đàn bà. Nhưng việc chạy vẫn
tiếp tục. Đầu tiên anh ta săn đuổi, bây giờ anh ta sợ
đàn bà nào đó có thể săn đuổi anh ta. Và đó là cách
điều đó xảy ra: nếu bạn săn đàn bà, cô ấy chạy. Nếu
bạn bắt đầu chạy khỏi cô ấy, cô ấy bắt đầu săn bạn.
Cuộc sống rất bí ẩn... nhưng việc chạy vẫn tiếp tục.
Nó là trò chơi. Người ta chỉ có thể là kẻ đi săn và
người ta phải là kẻ bị săn. Hoặc bạn là kẻ đi săn hoặc
đàn bà trở thành kẻ đi săn, nhưng trò chơi vẫn tiếp
tục.
Phật nói: Dừng ở giữa.
Lời kinh này là một phần của câu chuyện rất nổi
tiếng trong cuộc đời Phật. Câu chuyện này là về một
hoàng tử có tên Srona.
Srona là một hoàng tử rất giầu có, và anh ta đã
sống cuộc sống của một người siêu hưởng lạc: ăn, uống, vui vẻ. Anh ta đã sống thật sâu trong mê đắm.
Anh ta chưa bao giờ biết gì về kỉ luật, anh ta chưa bao
giờ nghe nói gì về nhận biết. Đàn bà, rượu - đó là tất
cả, đó là toàn thể cuộc đời anh ta... bị hàm chứa trong
hai từ: đàn bà và rượu. Cả ngày anh ta say sưa, và cả
đêm anh ta mê đắm trong hoạt động dục. Anh ta là gã
điên khùng. Nhưng dần dần điều cực đoan bắt đầu
làm anh ta mệt mỏi. Dần dần anh ta đã trở nên tỉnh táo
về điều anh ta đang làm cho cuộc sống của mình.
Khi bạn mê đắm quá nhiều, một ngày nào đó, nếu
bạn có chút ít thông minh, bạn bắt đầu cảm thấy toàn
thể cái vô tích sự của nó.
Một hôm khi Phật đi qua thị trấn của anh ta, anh
ta nghe nói về Phật. Anh ta đã từng suy nghĩ nhiều
ngày, "Phải có cách sống khác chứ, và phải có nhiều
điều để sống hơn là cách mình đang sống nó chứ."
Biết rằng Phật đã tới, anh ta tới để gặp ông ấy. Anh ta
là một người cực đoan. Thấy Phật - im lặng của ông
ấy, duyên dáng của ông ấy, an bình của ông ấy - anh
ta bị xúc động. Trái tim anh ta bị tràn ngập. Anh ta cúi
lạy Phật và anh ta nói, "Xin thầy cho tôi tính chất
sannyas ngay khoảnh khắc này!"
Phật nói, "Đợi đã. Đừng vội thế."
"Nhưng," anh ta nói, "tôi không thể đợi được. Tôi
không biết cái gì đang đợi. Khi tôi muốn làm cái gì
đó, tôi muốn làm ngay cái gì đó. Và thế là đủ! Tôi đã
sống cuộc sống của truỵ lạc, và tôi đã đơn giản làm
phí hoài bản thân mình. Nó đã mang tính tự tử. Bây
giờ tôi không thể trở về nhà được. Thầy chấp nhận tôi
đi."
Ngay cả các đệ tử của Phật cũng nói, "Sao thầy
không chấp nhận anh ta? Thầy chưa bao giờ nói
không với bất kì ai. Sao thầy ngần ngại?" Ananda nói,
"Sao thầy ngần ngại? Anh ta là một hoàng tử lớn, rất
nổi tiếng, và anh ta đã sẵn sàng. Anh ta đã sẵn sàng
buông xuôi toàn bộ."
Phật nói, "Ta ngần ngại bởi vì ta sợ rằng đây có
thể chính là cực đoan khác. Người này đã từng mê
đắm. Bây giờ người này có thể từ bỏ và chỉ đi sang
cực đoan kia - và từ bỏ là ở giữa."
Nhưng Srona cứ khăng khăng; anh ta không chịu
đi. Anh ta ngồi đó từ sáng tới tối. Anh ta là con người
kiểu đó. Phật càng nói không, anh ta càng trở nên nhất
quyết. Sáng hôm sau, Phật chấp nhận anh ta làm đệ
tử. Lời kinh này là về Srona.
Chuyện kể rằng khi Srona trở thành khất sĩ, thành
sư, lập tức anh ta chuyển sang cực đoan kia - cực
đoan mà Phật e ngại, e sợ. Khất sĩ, khất sĩ của Phật,
sư của ông ấy, thường ăn một bữa mỗi ngày; Srona sẽ
chỉ ăn hai bữa mỗi tuần. Các khất sĩ đi, từ thị trấn này
sang thị trấn khác; thế thì họ đi trên đường. Nhưng
Srona này không bao giờ đi trên đường. Anh ta đi
trong rừng, bị thương. Chân anh ta bắt đầu chảy máu;
có những vết thương. Khất sĩ của Phật là những người
rất yên bình, im lặng - bởi vì toàn thể giáo huấn là duy
trì ở giữa. Họ không bao giờ mê đắm và họ không bao
giờ khổ hạnh, nhưng Srona này đã trở thành nhà khổ
hạnh lớn. Khi mọi người ngồi dưới gốc cây, anh ta sẽ
đứng dưới mặt trời nóng. Anh ta có thân thể đẹp đẽ,
anh ta là một thanh niên đẹp trai. Anh ta trở nên sậm
da, đen cháy đi, và trong vòng vài tháng không thể nào nhận ra được anh ta. Khi mọi người từ kinh đô tới
họ đều ngạc nhiên; anh ta đã thay đổi nhiều thế. Anh
ta đã trở nên còm nhom và dặt dẹo, mắt anh ta đã mất
đi ánh rực rỡ, khuôn mặt anh ta đã mất đi mọi vẻ
duyên dáng; anh ta đã bắt đầu trở thành xấu xí. Và
anh ta bao giờ cũng bị ốm, bởi vì thân thể chấp nhận
giới hạn cho những điều nào đó. Nhưng anh ta không
lo nghĩ; thực tế, anh ta đã tận hưởng điều đó. Và tất cả
các sư đều bắt đầu cảm thấy rằng anh ta là linh hồn vĩ
đại nào đó. Mọi người bắt đầu cảm thấy rằng anh ta
cao siêu hơn họ. Bây giờ một bản ngã mới nảy sinh
trong Srona.
Lời kinh này là về Srona.
Một đêm một sư trích đọc lời kinh được lưu
truyền lại từ Kashyapabuddha. Âm thanh của ông
ta thê lương thế và giọng ông ta yếu ớt thế, cứ
dường như ông ta sắp chết.
Tất nhiên anh ta phải đã trở nên rất buồn, anh ta
phải đã trở nên rất sa sút và thất vọng, anh ta phải đã
mất mọi vui vẻ. Anh ta đã tự hành hạ mình. Anh ta
phải đã mang chút ít bạo ngược. Anh ta đã phá huỷ
bản thân mình và tận hưởng bạo hành. Anh ta phải đã
trở nên rất nghiêm chỉnh, mặt dài ra; anh ta phải đã
trở nên ốm yếu rất sâu sắc, mọi hoạt bát biến mất.
Anh ta đã không phải là việc nở hoa. Thực tế, cái cây
đang chết.
Anh ta đọc kinh này, vốn được Kashyapadbudha
cho. Khi bạn đọc kinh bạn phải đọc nó trong vui vẻ -
bằng không thì điều đó là vô nghĩa. Khi bạn cầu
nguyện, nếu bạn không thể cầu nguyện một cách vui
vẻ, điều đó là vô nghĩa - đừng phí thời gian của bạn.
Bởi vì lời cầu nguyện của bạn chẳng bao giờ đạt tới
Thượng đế chừng nào nó còn chưa cưỡi lên con ngựa
của vui vẻ. Chừng nào bạn còn chưa thể mở hội, lời
cầu nguyện của bạn chẳng bao giờ được nghe đâu.
Chỉ qua lễ hội mà nó mới đạt tới Thượng đế - bởi vì
Thượng đế chỉ hiểu một ngôn ngữ thôi, và đó là lễ
hội; không ngôn ngữ nào khác - ngài không hiểu tiếng
Anh đâu, ngài không hiểu tiếng Phạn đâu, ngài không
hiểu tiếng A rập đâu. Ngài chỉ hiểu một ngôn ngữ:
ngôn ngữ của hoa, ngôn ngữ của mây, ngôn ngữ của
công, ngôn ngữ của chim cu cu, ngôn ngữ của vui vẻ,
ngôn ngữ của mầu xanh lá cây, của dòng sông chảy ra
đại dương, của băng hà trườn xuống núi. Ngài biết
điệu vũ, ngài biết ca hát là gì. Lời là không có nghĩa,
chỉ âm nhạc thôi. Ngài hiểu âm thanh, ngài không
hiểu lời.
Ngôn ngữ do con người tạo ra, vui vẻ là từ
Thượng đế. Cho nên bất kì khi nào bạn thiền, bạn cầu
nguyện, bạn đọc kinh, làm điều đó trong vui vẻ. Bằng
không thì đừng làm điều đó. Không có nhu cầu bởi vì
điều đó là vô dụng. Bạn đang làm phí thời gian của
mình. Và bạn có thể làm ngài khó chịu, và ngài có thể
bực mình, và bạn có thể hối hận về sau. Ít nhất cũng
đừng làm khó chịu ngài.
Tôi đã nghe nói về một nhà huyền môn Sufi,
Hassan. Ông đã đi qua một tu viện, và một người
đang đọc Koran. Tiếng ông ta kinh thế, và ông ta đang
đọc nó một cách khủng khiếp, và ông ta buồn thế và
nghiêm chỉnh thế - cứ dường như mọi tiếng cười của ông ta đã khô héo cả. Tiếng ông ấy vang như tiếng
ma.
Hassan nói, "Ông đang làm gì vậy?"
Ông ta nói, "Lạy Trời, tôi đang đọc Koran đây."
Hassan nói, "Lạy Trời, ông thôi đi!"
Chừng nào bạn còn chưa làm điều đó trong vui
vẻ, xin đừng làm điều đó. Vì Trời, đừng bao giờ làm
điều đó. Làm kẻ vô thần và không tin vào Thượng đế
còn tốt hơn là làm cái gì đó trong nỗi buồn, thất vọng,
hơn là làm cái gì đó xấu xí và gọi nó là lời cầu
nguyện.
Nhưng bạn chỉ có thể làm điều bạn đang là. Vui
vẻ bạn không thể điều khiển được nó một cách bất
thần. Chừng nào nó còn chưa bật ra, chừng nào nó
còn chưa trào ra từ trong bản thể bạn, chừng nào nó
còn chưa chảy ra như sáp, bạn không thể điều khiển
được nó. Và đó không phải là vấn đề điều khiển
khuôn mặt bạn, bởi vì Thượng đế không nhìn vào mặt
bạn; Thượng đế đang nhìn vào tim bạn... cho nên bạn
không thể lừa dối được. Chừng nào vui vẻ còn chưa
có trong bản thể bạn, nó sẽ không đạt tới - lời cầu
nguyện của bạn sẽ không bao giờ được nghe.
Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh rằng nếu bạn có
thể nhảy múa và ca hát, điều đó sẽ có tác dụng.
Không có nhu cầu nói hẳn ra lời cầu nguyện của bạn:
để nó được thể hiện ra trong điệu vũ, để nó được thể
hiện ra trong việc hát. Không có nhu cầu. Bạn có thể
chơi ghi ta hay bạn có thể thổi sáo - điều đó sẽ có tác
dụng. Bạn đang dùng cái gì đó phổ quát.
Âm thanh của ông ta thê lương thế và giọng ông
ta yếu ớt thế, cứ dường như ông ta sắp chết.
Phật hỏi sư này, "Ông làm nghề gì trước khi ông
trở thành sư vô gia cư?" Sư này nói, "Tôi rất
thích chơi đàn ghi ta."
Phật nói, "Ông thấy đàn thế nào khi dây đàn quá
chùng?" Sư này nói, "Không âm thanh nào có thể
có được."
Khi dây quá chùng, không thể có âm thanh
được...
"Khi dây đàn quá căng thì thế nào?"
"Chúng đứt."
"Khi chúng không quá căng không quá chùng thì
thế nào?"
"Mọi nốt đều vang đúng âm thanh của nó."
Thế rồi Phật nói với sư này: Kỉ luật tôn giáo cũng
giống như chơi đàn ghi ta vậy. Khi tâm trí được điều
chỉnh đúng và chuyên tâm yên tĩnh, đạo là đạt tới
được.
Thực tế, khi tâm trí ở chính giữa, không chùng
quá không căng quá; cân bằng, yên tĩnh, tĩnh lặng,
không đi sang trái không đi sang phải; khi con lắc của
tâm trí đã dừng lại ở giữa, thời gian biến mất, đồng hồ
dừng lại. Trong chính khoảnh khắc đó Đạo là đạt tới
được. Thực tế, Đạo được đạt tới. Đây là cách thức: ở giữa là Đạo. Bạn đang bỏ lỡ Đạo bởi vì bạn không ở
giữa - và Đạo là ở giữa. Trong những tình huống cuộc
sống, trong mọi tình huống, người ta phải tỉnh táo
không đi tới cực đoan. Bằng không, đôi khi dây quá
chùng và âm nhạc không nảy sinh, và đôi khi chúng
quá căng và chúng đứt. Và thay vì âm nhạc họ tạo ra
tiếng ồn. Âm nhạc là có thể chỉ khi mọi sự ở chính
giữa. Có một điểm mà dây không căng không chùng.
Bạn phải đã thấy điều đó: bất kì khi nào nhạc sĩ
Ấn Độ chơi đàn, đầu tiên họ cố gắng đưa nhạc cụ về
điểm giữa. Người đánh trống sẽ đánh thử vào cặp
trống nhỏ và sẽ cảm xem liệu nó có ở giữa hay không;
bằng không người đó sẽ thắt chặt cái gì đó hay làm
chùng lỏng cái gì đó. Người chơi đàn veena sẽ thắt
chặt hay làm chùng dây đàn của mình.
Có lần chuyện xảy ra:
Một phó vương được ông tổng trấn Lucknow
mời, và để đón chào ông này, ông tổng trấn đã yêu
cầu các nhạc sĩ giỏi nhất của mình chơi cái gì đó
mừng ông phó vương. Và tất nhiên, cũng như điều đó
vẫn được thực hiện theo cách truyền thống, các nhạc
sĩ bắt đầu lên và hạ dây đàn của họ. Viên tổng trấn hỏi
viên phó vương, "Ông thích kiểu nhạc nào nhất?" Chỉ
để lịch sự ông này nói, "Đích xác nhạc đang được
chơi đấy" - chỉ để lịch sự mà thôi! Ông ấy có hiểu cái
gì đang diễn ra đâu. Và thế rồi, chỉ để lịch sự, viên
tổng trấn ra lệnh cho các nhạc sĩ tiếp tục. Trong ba
giờ họ đơn giản cứ tiếp tục thế.
Có một điểm mà dây không chùng không căng -
và chỉ thầy mới biết nó. Dễ dàng chơi ghi ta; khó đưa
ghi ta về việc điều chỉnh đó khi âm nhạc được sinh ra,
và được sinh ra một cách tự nhiên, sinh ra vô nỗ lực.
Người ta trở thành thầy hay nhà soạn nhạc đại tài khi
người đó có thể làm hài hoà nhạc cụ của mình. Chơi
nhạc không khó thế; điều chỉnh khó hơn - bởi vì để
điều chỉnh bạn phải học cái đích xác ở giữa. Bạn phải
rất tỉnh táo, rất nhạy cảm. Tai bạn phải rất, rất nhạy
cảm. Chỉ thế thì bạn mới có thể tìm được chỗ giữa ở
đâu.
Và Phật nói:
Kỉ luật tôn giáo cũng giống như chơi đàn ghi ta
vậy. Khi tâm trí được điều chỉnh đúng và chuyên
tâm yên tĩnh, đạo là đạt tới được; nhưng khi ông
quá sốt sắng hướng theo nó, thân thể ông trở nên
mệt mỏi; và khi thân thể ông mệt mỏi, tinh thần
ông trở nên mệt mỏi; khi tinh thần ông mệt mỏi, kỉ
luật của ông sẽ thả lỏng; và với việc thả lỏng kĩ
luật sẽ có nhiều điều xấu kéo theo. Do đó, bình
thản và thuần khiết, và đạo sẽ đạt được.
Trong mọi tình huống cuộc sống, bạn phải ghi
nhớ điều đó. Lời kinh này là cực kì quan trọng - bởi vì
tâm trí có khuynh hướng đi vào cực đối lập. Và nếu
bạn đi sang cực đối lập bạn lại bỏ lỡ chỗ giữa, và bạn
lại xa với chỗ giữa như bạn đã xa trước đây. Ai đó là
người bản ngã - người đó trở thành người khiêm tốn.
Con người thực của nhận biết thì không bản ngã
không khiêm tốn. Người đó không biết ngôn ngữ của giữa là Đạo. Bạn đang bỏ lỡ Đạo bởi vì bạn không ở
giữa - và Đạo là ở giữa. Trong những tình huống cuộc
sống, trong mọi tình huống, người ta phải tỉnh táo
không đi tới cực đoan. Bằng không, đôi khi dây quá
chùng và âm nhạc không nảy sinh, và đôi khi chúng
quá căng và chúng đứt. Và thay vì âm nhạc họ tạo ra
tiếng ồn. Âm nhạc là có thể chỉ khi mọi sự ở chính
giữa. Có một điểm mà dây không căng không chùng.
Bạn phải đã thấy điều đó: bất kì khi nào nhạc sĩ
Ấn Độ chơi đàn, đầu tiên họ cố gắng đưa nhạc cụ về
điểm giữa. Người đánh trống sẽ đánh thử vào cặp
trống nhỏ và sẽ cảm xem liệu nó có ở giữa hay không;
bằng không người đó sẽ thắt chặt cái gì đó hay làm
chùng lỏng cái gì đó. Người chơi đàn veena sẽ thắt
chặt hay làm chùng dây đàn của mình.
Có lần chuyện xảy ra:
Một phó vương được ông tổng trấn Lucknow
mời, và để đón chào ông này, ông tổng trấn đã yêu
cầu các nhạc sĩ giỏi nhất của mình chơi cái gì đó
mừng ông phó vương. Và tất nhiên, cũng như điều đó
vẫn được thực hiện theo cách truyền thống, các nhạc
sĩ bắt đầu lên và hạ dây đàn của họ. Viên tổng trấn hỏi
viên phó vương, "Ông thích kiểu nhạc nào nhất?" Chỉ
để lịch sự ông này nói, "Đích xác nhạc đang được
chơi đấy" - chỉ để lịch sự mà thôi! Ông ấy có hiểu cái
gì đang diễn ra đâu. Và thế rồi, chỉ để lịch sự, viên
tổng trấn ra lệnh cho các nhạc sĩ tiếp tục. Trong ba
giờ họ đơn giản cứ tiếp tục thế.
Có một điểm mà dây không chùng không căng -
và chỉ thầy mới biết nó. Dễ dàng chơi ghi ta; khó đưa
ghi ta về việc điều chỉnh đó khi âm nhạc được sinh ra,
và được sinh ra một cách tự nhiên, sinh ra vô nỗ lực.
Người ta trở thành thầy hay nhà soạn nhạc đại tài khi
người đó có thể làm hài hoà nhạc cụ của mình. Chơi
nhạc không khó thế; điều chỉnh khó hơn - bởi vì để
điều chỉnh bạn phải học cái đích xác ở giữa. Bạn phải
rất tỉnh táo, rất nhạy cảm. Tai bạn phải rất, rất nhạy
cảm. Chỉ thế thì bạn mới có thể tìm được chỗ giữa ở
đâu.
Và Phật nói:
Kỉ luật tôn giáo cũng giống như chơi đàn ghi ta
vậy. Khi tâm trí được điều chỉnh đúng và chuyên
tâm yên tĩnh, đạo là đạt tới được; nhưng khi ông
quá sốt sắng hướng theo nó, thân thể ông trở nên
mệt mỏi; và khi thân thể ông mệt mỏi, tinh thần
ông trở nên mệt mỏi; khi tinh thần ông mệt mỏi, kỉ
luật của ông sẽ thả lỏng; và với việc thả lỏng kĩ
luật sẽ có nhiều điều xấu kéo theo. Do đó, bình
thản và thuần khiết, và đạo sẽ đạt được.
Trong mọi tình huống cuộc sống, bạn phải ghi
nhớ điều đó. Lời kinh này là cực kì quan trọng - bởi vì
tâm trí có khuynh hướng đi vào cực đối lập. Và nếu
bạn đi sang cực đối lập bạn lại bỏ lỡ chỗ giữa, và bạn
lại xa với chỗ giữa như bạn đã xa trước đây. Ai đó là
người bản ngã - người đó trở thành người khiêm tốn.
Con người thực của nhận biết thì không bản ngã
không khiêm tốn. Người đó không biết ngôn ngữ của khiêm tốn và bản ngã. Khiêm tốn là cái đối lập của
bản ngã. Nó không thực là đối lập; nó là cùng ngôn
ngữ. Khi bạn nói ai đó khiêm tốn, bạn ngụ ý cái gì?
Bạn nói rằng người đó không phải là người bản ngã -
điều đó nghĩa là từ đỉnh của bản ngã người đó đã đi
tới thung lũng của khiêm tốn. Nhưng nếu bạn bắt gặp
vị Phật bạn không thể nói ông ấy là người khiêm tốn
được, bạn không thể nói ông ấy là người bản ngã
được. Ông ấy đơn giản hiện hữu. Ông ấy đã không
vứt bỏ đỉnh cho tới thung lũng. Ông ấy đã chỉ đi tới
đất bằng. Đó là một trong những điều khó hiểu nhất.
Một Jesus là không khiêm tốn theo nghĩa như các
thánh khác khiêm tốn. Một Jesus không là người bản
ngã theo nghĩa mọi người là bản ngã. Ông ấy đơn
giản không biết bản ngã là gì và khiêm tốn là gì: ông
ấy đã vứt bỏ cái nhị nguyên đó. Ông ấy đơn giản hiện
hữu, và ông ấy đáp ứng từ hiện hữu của mình. Đôi khi
ông ấy sẽ có vẻ rất bản ngã với bạn; đó là diễn giải
của bạn. Đôi khi ông ấy có vẻ rất khiêm tốn với bạn;
điều đó nữa cũng là diễn giải của bạn.
Chẳng hạn: người Ki tô giáo sẽ nói về những câu
chuyện mà trong đó Jesus có vẻ rất khiêm tốn - rằng
ông ấy chạm và lau chân cho đệ tử của mình... khiêm
tốn thế. Nhưng họ tránh vài điều trong đó ông ấy
không có vẻ khiêm tốn vậy. Ông ấy đã đuổi những kẻ
cho vay lãi ra khỏi ngôi đền bằng roi trong tay. Bằng
cách nào đó, họ né tránh câu chuyện này - bởi vì ở đó
ông ấy đã chẳng khiêm tốn chút nào. Ông ấy đã trong
cơn cuồng nộ. Ông ấy đã là người nổi dậy, nhà cách
mạng.
Thực tế, ông ấy không khiêm tốn cũng chẳng bản
ngã.
Cùng điều này cũng đúng cho tất cả những người
đã đạt tới. Krishna đã làm việc như người đánh xe cho
Arjuna: đó là khiêm tốn của ông ấy. Người Hindu nói
về điều đó nhiều lắm "Khiêm tốn làm sao". Người
chống Hindu sẽ không nói về điều đó. Họ sẽ nói,
"Bản ngã làm sao. Ông ấy nói với Arjuna, 'Quên mọi
tôn giáo đi và tới dưới chân ta'. Bản ngã làm sao. Anh
còn có thể hỏi điều gì hơn nữa? Đây là đỉnh của bản
ngã." Nhưng thực tế ông ấy chẳng là cả hai. Nếu tình
huống đòi hỏi, ông ấy có thể trở thành người đánh xe
cho đệ tử riêng của mình. Ông ấy có thể dẫn ngựa ra
sông, tắm cho chúng, cọ rửa cho chúng, xoa bóp cho
chúng... ngựa là đệ tử của ông ấy. Và thế rồi trong
khoảnh khắc khác ông ấy có thể nói với Arjuna,
"Quên tất cả điều ta đã nói. Vứt bỏ mọi tôn giáo, vứt
bỏ mọi ý thức hệ. Tới dưới chân ta." Bây giờ, điều
này rất ngược đời.
Nhưng con người của nhận biết thực thì không
khiêm tốn không bản ngã. Với bất kì tình huống này,
người đó đều đáp ứng một cách toàn bộ.
Nhớ lấy, Phật nói: Bất kì khi nào ông đang ở giữa,
đấy là ông đang trên Đạo. Bất kì khi nào ông nghiêng
sang phải hay sang trái, ônh đang đi lạc lối.
'Giữ ở giữa' là điều ông ấy ngụ ý bởi việc bình
thản, bởi vì bất kì khi nào bạn nghiêng sang trái hay
sang phải, bạn đều trở nên bị kích động. Cho nên
đừng bao giờ là người cực tả và đừng bao giờ là
người cực hữu. Ở giữa và bạn sẽ không ở đâu cả, và bạn sẽ là không ai cả - bởi vì ở giữa, tất cả mọi kích
động đều mất. Người ta đơn giản bình thản.
Và đó là điều ông ấy ngụ ý bởi 'là thuần khiết'.
Khi bạn nghiêng sang trái, bên trái làm biến chất bạn.
Khi bạn nghiêng sang phải, bên phải làm biến chất
bạn. Khi bạn không nghiêng ngửa, khi bạn đơn giản ở
giữa, chẳng cái gì làm biến chất bạn. Bạn trở thành
không thể bị biến chất. Bạn là thuần khiết.
Do đó, bình thản và thuần khiết, và đạo sẽ đạt
được.
Tôi bảo bạn rằng đứa trẻ học 'của tôi', 'cho tôi',
'người', 'tôi'. Bây giờ, bạn có thể đi sang điều đối lập
và bạn có thể nói, "Cái không là của tôi." Và bạn có
thể nói rằng không có bản ngã trong bạn, và bạn
không sở hữu cái gì; 'cho tôi' không tồn tại, và bạn
cũng là một dạng thiêng liêng, một dạng của cái vô
hình dạng. Nhưng nếu đó chỉ là việc đi sang cực đoan
kia thế thì chẳng cái gì có được. Nếu đó là hiểu biết từ
chỗ giữa, thế thì cái gì đó là thu được. Nhưng từ chỗ
giữa bạn sẽ không nói, "Tôi không sở hữu cái gì” -
nhớ điều đó. Điều này là có thể chỉ nếu bạn vẫn nghĩ
rằng cái gì đó có thể được sở hữu. Một ngày nào đó
bạn nghĩ bạn có thể sở hữu, ngày khác bạn phủ nhận
và bạn nói, "Tôi không sở hữu gì cả. Tôi từ bỏ."
Nhưng trong từ bỏ của bạn có sở hữu rồi. Làm sao
bạn có thể từ bỏ thế giới nếu bạn không sở hữu nó?
Con người thực sự của hiểu biết không bao giờ từ
bỏ cái gì. Người đó đơn giản hiểu: "Chẳng có cái gì
để sở hữu, cho nên làm sao tôi có thể từ bỏ được?"
Người ta nói về một hoàng đế Nhật Bản là ông ấy
đã từ bỏ vương quốc của mình và đi tới một Thiền sư.
Ông ấy cúi lạy dưới chân thầy và nói cực kì khiêm
tốn, "Tôi đã từ bỏ vương quốc."
Thiền sư nói, "Thế thì tốt hơn cả là ông đi và sở
hữu nó lần nữa, giành lấy nó lần nữa đi. Tốt hơn cả là
ông đi đi."
Hoàng đế rất bối rối. Ông ấy nói, "Thầy ngụ ý gì?
Tôi đã thực sự từ bỏ nó."
Thầy nói, "Nếu ông đã thực sự từ bỏ nó, thế thì
làm sao ông có thể nói rằng ông đã từ bỏ nó? - bởi vì
từ bỏ thực chính là hiểu biết đơn giản rằng không cái
gì thuộc vào ông cả. Chẳng có gì để mà từ bỏ."
Từ bỏ là có thể chỉ nếu, ngay chỗ đầu tiên, bạn
chấp nhận rằng sở hữu là có thể. Không gắn bó là có
thể chỉ nếu, ngay chỗ đầu tiên, bạn chấp nhận rằng
gắn bó là có thể. Con người thực của hiểu biết đi tới
biết rằng gắn bó là không thể có. Gắn bó là giả. Sở
hữu là giả; điều đó là không thể được. Không thể nào
sở hữu được. Thế thì phỏng có ích gì mà từ bỏ?
Phỏng có ích gì mà trở thành không gắn bó? Gắn bó
đơn giản biến mất. Nếu gắn bó biến mất và không còn
gì đằng sau, thậm chí không có không gắn bó, ý tưởng
về không gắn bó, thế thì bạn là thuần khiết và bình
thản. Nếu gắn bó biến mất nhưng bây giờ nó được
thay thế bằng không gắn bó, bạn đã đi sang cực đoan
khác. Khi bạo hành biến mất, không phải là có không
bạo hành trong bạn đâu. Phỏng có ích gì mà không bạo hành? Bạo hành đã biến mất, và cả không bạo
hành cùng nó. Nhị nguyên đi đôi với nhau. Bây giờ
bỗng nhiên bạn bị bỏ lại một mình, thuần khiết. Nếu
bạn đi vào cái này, bạn đi vào cả cái kia nữa.
"Này, anh thanh niên, tôi hiểu anh muốn trở thành
con rể tôi," người bố nói với anh bạn trai của con gái
ông ta, Mulla Nasruddin.
"Không thưa bác, không đích xác vậy đâu,"
Nasruddin đáp. "Nhưng nếu cháu cưới con gái bác,
cháu thấy chẳng có cách nào cháu có thể thoát ra khỏi
điều đó."
Người này đã hỏi, "Này, anh thanh niên, tôi hiểu
anh muốn trở thành con rể tôi"; và Nasruddin nói,
"Không thưa bác, không đích xác vậy đâu. Nhưng nếu
cháu cưới con gái bác, cháu thấy chẳng có cách nào
cháu có thể thoát ra khỏi điều đó!"
Nếu bạn cưới con gái của ai đó bạn trở thành con
rể nữa, đồng thời. Không thể chọn riêng một trong hai
điều đó được; chúng đi cùng nhau. Thực tế gọi chúng
là hai là không đúng. Chúng là một hiện tượng nhưng
được nhìn từ hai phía.
Khi bạn trở nên bạo hành, không bạo hành bước
vào. Khi bạn trở thành không bạo hành, bạo hành đợi
đằng sau. Chúng đi cùng nhau. Mọi nhị nguyên đều đi
cùng nhau. Khi dục biến mất, vô dục cũng biến mất -
nhớ điều đó. Nếu bạn bắt đầu tuyên bố rằng bạn đã trở
nên vô dục thế thì hoạt động dục vẫn tồn tại, và bất kì
ngày nào nó đều có thể bùng nổ. Bạn đang ngồi trên
núi lửa. Khi dục đã mất đi thì nghĩa của vô dục là gì?
Thế thì nó đơn giản vô nghĩa, từ này là vô nghĩa. 'Vô
dục' có thể mang nghĩa chỉ trong tham chiếu tới dục.
Phật nói: Khi cả hai nhị nguyên đều mất đi, ông
đơn giản ở giữa - im lặng, bình thản, thuần khiết. Đạo
được đạt tới. Đạo là Trung Đạo.
Cuối cùng, để cho bạn bao giờ cũng nhớ tới nó,
để tôi cô đọng toàn thể vấn đề trong một câu: Bất kì
khi nào bạn mệt mỏi, nản chí, bị kết thúc với cái gì
đó, vẫn còn tỉnh táo đi - tâm trí sẽ có khuynh hướng đi
sang cái đối lập.
Khi dây quá chùng, tâm trí sẽ có khuynh hướng
làm chúng quá căng - và ở đó bạn lỡ. Và khi tâm trí
quá căng, sợi dây quá căng, một ngày nào đó bạn sẽ bị
mệt mỏi về điều đó nữa bởi vì âm nhạc sẽ không thoát
ra từ nó. Thế thì tâm trí sẽ có khuynh hướng lại làm
cho chúng chùng ra nữa.
Đây là cách cuộc sống cứ diễn ra... kiếp này tiếp
kiếp khác, bạn cứ chuyển từ cực này sang cực khác.
Bạn trở thành quả bóng - bị đá từ bên này sang bên
kia, bị đá từ bên kia sang bên này. Nếu bạn muốn
thoát ra khỏi trò chơi này, trò chơi luân hồi này, trò
chơi của thế giới này, thế thì ở vào giữa. Bất kì khi
nào một khoảnh khắc tới để quyết định, rất tỉnh táo;
đừng bao giờ đi sang cực đối lập kia. Nhớ vẫn còn ở
giữa.
Nếu bạn có thể học vẫn còn ở giữa thì bạn đã học
được tất cả mọi điều có đó để học, và tất cả mọi điều đáng học. Đạo của Phật được gọi là majjhim nikai,
'Trung Đạo'. Ông ấy là một trong những người tìm
kiếm xuyên thấu nhất về chân lí. Ông ấy đã làm cái gì
đó rất sâu sắc, đã khám phá ra cái gì đó mà bạn có thể
dùng được. Nó không phải là nghi lễ, nó không phải
là lời cầu nguyện. Nó là cái gì đó liên quan tới nhận
biết của bạn. Toàn thể lĩnh vực công trình của ông ấy
là nhận biết.
Cho nên vẫn còn ở giữa đi. Nếu bạn đã ăn quá
nhiều, đừng bắt đầu nhịn ăn. Điều đó rất đơn giản. Đó
là cách mọi người vẫn cứ làm. Tôi biết nhiều người:
hai hay ba tháng đầu họ sẽ nhịn ăn và ăn kiêng, và thế
rồi họ sẽ xô tới thức ăn. Và thế rồi họ sẽ trở nên bị ám
ảnh; trong hai hay ba tháng họ sẽ ăn quá nhiều. Lần
nữa, bất kì cái gì mà nhịn ăn đã có tác dụng cho thân
thể họ đều bị hoàn tác lại. Lần nữa họ sẵn sàng nhịn
ăn. Theo cách này họ cứ tiếp diễn - quả bóng bị đá từ
đây qua đó.
Thức ăn đúng, số lượng đúng, được ăn với nhận
biết, là đủ. Bạn không cần ăn quá nhiều, bạn không
cần nhịn.
Nhớ tới chỗ giữa và bạn bao giờ cũng đúng.
truyền lại từ Kashyapabuddha. Âm thanh của ông
ta thê lương thế và giọng ông ta yếu ớt thế, cứ
dường như ông ta sắp chết.
Phật hỏi sư này, "Ông làm nghề gì trước khi ông
trở thành sư vô gia cư?" Sư này nói, "Tôi rất
thích chơi đàn ghi ta."
Phật nói, "Ông thấy đàn thế nào khi dây đàn quá
chùng?" Sư này nói, "Không âm thanh nào có thể
có được."
"Khi dây đàn quá căng thì thế nào?"
"Chúng đứt."
"Khi chúng không quá căng không quá chùng thì
thế nào?" "Mọi nốt đều vang đúng âm thanh của
nó."
Thế rồi Phật nói với sư này: Kỉ luật tôn giáo cũng
giống như chơi đàn ghi ta vậy. Khi tâm trí được
điều chỉnh đúng và chuyên tâm yên tĩnh, đạo là
đạt tới được; nhưng khi ông quá sốt sắng hướng
theo nó, thân thể ông trở nên mệt mỏi; và khi thân
thể ông mệt mỏi, tinh thần ông trở nên mệt mỏi;
khi tinh thần ông mệt mỏi, kỉ luật của ông sẽ thả
lỏng; và với việc thả lỏng kĩ luật sẽ có nhiều điều
xấu kéo theo. Do đó, bình thản và thuần khiết, và
đạo sẽ đạt được.
Toàn thể khổ của con người là do xa khỏi trung
tâm của mình. Đây là điều chỉnh sai giữa trục và bánh
xe. Có việc điều chỉnh sai giữa bạn và thực tại, và
điều chỉnh sai đó tự biểu lộ nó theo cả nghìn lẻ một
cách. Bạn càng xa khỏi thực tại, bạn càng khổ hơn.
Địa ngục là điểm xa nhất với thực tại. Bạn càng gần
với thực tại, bạn càng gần với cõi trời. Khi không có
điều chỉnh sai giữa bạn và thực tại, bạn là bản thân
thiên đường.
Vấn đề không phải là đi bất kì đâu, vấn đề là làm
sao có được hài hoà với thực tại. Nó là việc khám phá
lại - bởi vì trong bụng mẹ từng đứa trẻ đều được định
tâm trong thực tại. Trong bụng mẹ từng đứa trẻ đều
phúc lạc sâu sắc. Tất nhiên nó không nhận biết về
điều đó, không biết gì về điều đó. Nó là một với phúc
lạc của nó tới mức không có người biết còn lại đằng
sau. Phúc lạc là bản thể của nó, và không có phân biệt
giữa người biết và cái được biết. Cho nên tất nhiên
đứa trẻ không nhận biết rằng nó là phúc lạc. Bạn trở
nên nhận biết chỉ khi bạn đã đánh mất cái gì đó.
"Con không biết hạnh phúc là gì chừng nào con còn
chưa lấy vợ - và thế thì lại quá trễ."
Nó là vậy đấy. Rất khó biết cái gì đó mà không
làm mất nó, bởi vì khi bạn không làm mất nó thì bạn
là một với nó một cách toàn bộ. Không có khoảnh
cách: người quan sát và vật được quan sát là một; cái
được biết và người biết là một. Mọi đứa trẻ đều trong
trạng thái phúc lạc sâu sắc.
Các nhà tâm lí cũng đồng ý với điều này. Họ nói
rằng toàn thể tìm kiếm tôn giáo đều không là gì ngoài
cách tìm lại bụng của người mẹ. Họ dùng điều đó như
việc phê phán tôn giáo, nhưng với tôi điều đó không
phải là phê phán chút nào. Nó đơn giản đúng. Vâng,
tìm kiếm tôn giáo lại là tìm kiếm bụng mẹ. Tìm kiếm
tôn giáo lại là tìm kiếm để làm cho toàn thể sự tồn tại
này là bụng mẹ.
Đứa trẻ là tuyệt đối trong hoà điệu với người mẹ.
Đứa trẻ chưa bao giờ ở ngoài hoà điệu với người mẹ.
Đứa trẻ không biết rằng nó là tách rời khỏi người mẹ.
Nếu người mẹ mạnh khoẻ đứa trẻ mạnh khoẻ; nếu
người mẹ ốm đứa trẻ ốm; nếu người mẹ buồn đứa trẻ
buồn; nếu người mẹ hạnh phúc đứa trẻ hạnh phúc;
nếu người mẹ nhảy múa đứa trẻ nhảy múa; nếu người
mẹ ngồi im lặng đứa trẻ im lặng. Đứa trẻ chưa có biên
giới riêng của nó. Đây là phúc lạc thuần khiết nhất,
nhưng nó phải bị mất đi.
Đứa trẻ được sinh ra, và bỗng nhiên nó bị ném ra
khỏi trung tâm. Bỗng nhiên nó bị nhổ bật rễ khỏi đất,
khỏi người mẹ. Nó mất cái neo cố định của mình và
nó không biết nó là ai. Không có nhu cầu biết điều đó
khi nó còn ở cùng người mẹ. Không có nhu cầu để
biết - nó là tất cả, và không có nhu cầu để biết, không
có phân biệt. Không có 'bạn', cho nên không có vấn
đề về 'tôi' Thực tại là không phân chia. Nó là advait,
advait thuần khiết, bất nhị thuần khiết.
Nhưng một khi đứa trẻ được sinh ra, dây rốn bị
cắt đi và nó bắt đầu thở theo cách riêng của nó, bỗng
nhiên toàn thể con người nó trở thành cuộc truy tìm
để biết mình là ai. Điều đó là tự nhiên. Bây giờ nó bắt
đầu trở nên nhận biết về các biên giới của mình - thân
thể nó, nhu cầu của nó. Lúc thì nó hạnh phúc, lúc thì
bất hạnh, lúc thì nó được đáp ứng, lúc thì không được
đáp ứng; lúc thì nó đói và khóc và không có dấu hiệu
gì về người mẹ ở đâu cả; lúc thì nó ở trên ngực mẹ, lại
tận hưởng việc là một với mẹ. Nhưng bây giờ có
nhiều tâm trạng và nhiều bầu khí hậu, và nó sẽ bắt
đầu, dần dần, cảm thấy tách biệt. Li dị đã xảy ra; hôn
nhân đã tan vỡ.
Nó đã tuyệt đối lấy mẹ nó; bây giờ nó bao giờ
cũng tách biệt. Và nó phải tìm ra nó là ai. Và cả đời
người ta cứ cố gắng để tìm ra mình là ai. Đây là câu
hỏi nền tảng nhất.
Đầu tiên đứa trẻ trở nên nhận biết về 'của tôi', thế
rồi về 'cho tôi', thế rồi về 'người', thế rồi về 'tôi'. Đây
là cách sự việc diễn ra. Đây chính xác là thủ tục, đích
xác theo thứ tự này. Trước hết nó trở nên nhận biết về
'của tôi'. Quan sát điều đó đi, bởi vì đây là việc xây
dựng của bạn, cấu trúc của bản ngã bạn. Đầu tiên đứa
trẻ trở nên nhận biết về 'của tôi' - đồ chơi này là của
tôi, người mẹ này là của tôi. Nó bắt đầu sở hữu.
Người sở hữu đi vào trước hết; tính sở hữu là rất cơ bản. Do đó mọi tôn giáo đều nói: Trở nên không sở
hữu - bởi vì với sở hữu địa ngục bắt đầu. Quan sát trẻ
nhỏ mà xem: rất ghen tị, sở hữu, từng đứa trẻ đều cố
gắng vồ lấy mọi thứ từ mọi người khác và cố gắng
bảo vệ đồ chơi riêng của mình. Và bạn sẽ thấy trẻ con
rất bạo hành, gần như dửng dưng với nhu cầu của
người khác. Nếu đứa trẻ đang chơi với đồ chơi của nó
và đứa trẻ khác tới bạn có thể thấy một Adolf Hitler,
một Genghis Khan, một Nadirshah. Nó sẽ bám lấy đồ
chơi của mình; nó sẵn sàng đánh, nó sẵn sàng đánh
nhau. Đó là vấn đề lãnh thổ, vấn đề chi phối. Tính sở
hữu đi vào trước hết; đó là phần cơ sở. Và đứa trẻ bắt
đầu nói, "Cái này là của con."
Bây giờ xem đấy - chẳng cái gì có thể là 'của tôi'
trong thực tại, trong chân lí. Chúng ta đến với đôi bàn
tay trắng, chúng ta đi với đôi bàn tay trắng. Toàn thể
câu chuyện này về 'của tôi' và 'của bạn' chỉ là mơ.
Nhưng một khi đứa trẻ nói, "Đây là của tôi," bây giờ
nó đang đi vào điều chỉnh sai với thực tại. Cho nên
bạn sẽ thấy rằng bạn càng có ý tưởng này về 'của tôi',
thì bạn sẽ càng khổ thêm, bạn sẽ càng khổ sở thêm.
Mọi nơi: "Nhà này là của tôi; người đàn bà này là của
tôi; người đàn ông này là của tôi," và mọi nơi bạn lập
tức tuyên bố và sở hữu... và khổ đi vào.
Hai người đang yêu nhau. Nếu đấy chỉ là lúc ban
đầu thì cái 'của tôi' còn chưa bắt đầu - bởi vì nếu 'của
tôi' mà chưa bắt đầu, thì tâm trí chưa bắt đầu. Một khi
'của tôi' bắt đầu, bản ngã đang trên đường rồi. Bản
ngã là cái 'của tôi' được kết tinh. Và một khi 'của tôi'
bắt đầu, thì tình yêu bị mất. Tình yêu là đẹp chỉ khi
không có 'của tôi'. Nhưng nó đi vào ngay lập tức, bởi
vì điều đó đã trở thành chính cấu trúc của chúng ta.
Đó là nền tảng của chúng ta trong thế giới này. Chúng
ta được đặt cơ sở sai.
Tôi đã nghe...
Đứa trẻ chơi này mới sáu tuổi và nó đang chơi với
đứa con gái nhà bên cạnh mới năm tuổi.
"Chơi vật nhau không?" nó hỏi. Cô bé nói, "Tớ
không vật được. Tớ là con gái."
Nó tiếp tục, "Chơi bóng không?"
Cô bé đáp, "Tớ không chơi bóng được. Tớ là con
gái."
Cuối cùng nó nói, "Thôi được, đằng ấy có muốn
chơi nhà không?"
Cô bé nói, "Ô có chứ. Tớ sẽ là bố."
Từ chính lúc ban đầu, ai chi phối ai? ai sở hữu ai?
Do đó mọi tôn giáo - phương đông, phương tây - tất
cả các tôn giáo đã tồn tại trên trái đất đều nhấn mạnh
vào không sở hữu, không gắn bó - bởi vì điều đó sẽ
lấy đi chính đất bằng dưới chân bạn. Nếu bạn trở nên
không sở hữu thì bản ngã không thể tồn tại được. Nếu
bạn trở nên nhận biết về khiếm khuyết cơ sở này của
con người bạn, việc tuyên bố về 'của tôi' này, bạn sẽ
ngạc nhiên rằng mọi khổ của bạn có thể được vứt bỏ
đi bằng việc vứt bỏ mỗi từ này thôi. Đây không chỉ là
một từ, nó là toàn thể phong cách sống của bạn. Kiểu
sống sai dựa trên 'của tôi'; kiểu sống đúng không biết
tới 'của tôi', không biết tới 'của anh'.
cho bản thân mình tách rời khỏi cái toàn thể. Bây giờ
phân biệt này sẽ phát triển, và từng bước sẽ đem bạn
đi xa hơn.
Tôi đã nghe...
Một đứa bé đang ngồi cùng với gia đình; bố và
mẹ đang cãi nhau, như thông thường. Thế rồi bố trở
thành gần phát điên. Sợ mình có thể đánh người đàn
bà, hay sợ mình có thể làm điều gì đó sai, anh ta chạy
ra khỏi nhà.
Đứa bé vẫn quan sát. Nó nói, "Bố có quay về
không ạ?"
Mẹ nó nói, "Có chứ, trong mười lăm phút nữa bố
sẽ quay về."
Đứa bé nói, "Ôi trời! Con cứ tưởng được ăn món
tráng miệng của bố."
Một khi 'của tôi' đi vào thế thì bạn là kẻ cạnh
tranh với mọi người. Một khi 'của tôi' đi vào, cuộc
sống của bạn bây giờ sẽ là cuộc sống của cạnh tranh,
tranh đấu, xung đột, bạo hành, công kích.
Bước tiếp của 'của tôi' là 'tôi'. Khi bạn có cái gì đó
để tuyên bố như của mình, bỗng nhiên qua tuyên bố
đó phát sinh ý tưởng rằng bây giờ bạn là trung tâm
của các sở hữu của mình. Việc sở hữu trở thành lãnh
thổ của bạn, và qua những sở hữu đó nảy sinh ý tưởng
mới: 'tôi'.
Một khi bạn được đọng lại với cái 'tôi', bạn có thể
thấy rõ ràng rằng bạn có biên giới, và những người
ngoài biên giới này là 'người'. Người khác trở thành
rõ ràng; bây giờ mọi sự bắt đầu rời ra.
Vũ trụ là một, nó là một thể thống nhất. Không
cái gì bị phân chia. Mọi thứ đều được nối với mọi thứ
khác. Đó là tính nối vô cùng. Bạn được nối với đất,
bạn được nối với cây, bạn được nối với sao; sao được
nối với bạn, sao được nối với cây, với sông, với núi.
Mọi thứ đều được liên nối. Không cái gì tách rời;
không cái gì có thể phân tách. Phân tách là không thể
được.
Từng khoảnh khắc bạn đều thở - bạn thở vào, bạn
thở ra - liên tục có cây cầu với sự tồn tại. Bạn ăn, sự
tồn tại đi vào bạn; bạn bài tiết, nó trở thành phân - táo
trên cây sẽ trở thành một phần thân thể bạn ngày mai,
và phần nào đó của thân thể bạn sẽ ra đi và trở thành
phân, sẽ trở thành thức ăn cho cây cối... cho và nhận
liên tục. Không một khoảnh khắc nào nó dừng lại.
Khi nó dừng lại, bạn chết.
Chết là gì? - sự tách bạch là cái chết. Trong thống
nhất là sống, ngoài thống nhất là chết. Cho nên bạn
càng nghĩ, "Mình tách biệt," bạn càng kém nhạy cảm
hơn, chết nhiều hơn, kéo lê, đần độn. Bạn càng cảm
thấy mình được nối, toàn thể sự tồn tại này lại càng là
một phần của bạn và bạn là một phần của toàn thể sự
tồn tại này. Một khi bạn hiểu rằng chúng ta là thành
viên của nhau, thế thì bỗng nhiên tầm nhìn thay đổi.
Thế thì những cây này không còn xa lạ nữa; chúng
vẫn liên tục chuẩn bị thức ăn cho bạn. Khi bạn thở
vào bạn lấy ô xi vào, khi bạn thở ra bạn cho các bô nic; cây cối thở vào bằng các bô nic và thở ra ô xi - có
giao cảm liên tục. Chúng ta trong hoà điệu. Thực tại
là một thể thống nhất. Và với ý tưởng về 'tôi', 'người',
chúng ta đang rơi ra ngoài thực tại. Và một khi quan
niệm sai này lắng đọng ở bên trong, toàn thể phân
chia của bạn trở thành lộn ngược.
Tôi đã nghe...
Một thanh niên New York đến Texas lần đầu tiên.
Thấy một đàn trâu, anh ta hỏi người chủ chúng là gì.
"Chúng chỉ là lợn hoang," người chủ nói. "Mọi
thứ ở Texas đều to cả."
Chút ít sau vị khách lại thấy một đàn chim đại
bàng và hỏi chúng là gì.
"Chúng chỉ là chim sẻ thôi," người chủ nói. "Mọi
thứ đều to ở Texas."
Cuối đêm vị khách đi tìm nhà vệ sinh và rơi vào
trong bể bơi. "Lạy thánh Pete!" anh ta kêu lên "Không
ai kéo cái xối nước cả!"
Một khi bạn có quan niệm sai về sự vật, thế thì
quan niệm đó sẽ bóp méo mọi thứ. Nếu 'mọi thứ đều
to ở Texas', thế thì bể bơi phải là cái bệ xí! Điều đó là
tự nhiên - quan niệm sai này dẫn tới quan niệm sai
khác và quan niệm sai nhỏ dẫn tới quan niệm sai lớn
hơn. Nếu bạn lắng đọng với điều này, một ngày nào
đó bạn đơn giản không biết thực tại là gì. Bạn đơn
giản bị che phủ bởi quan niệm riêng của mình.
'Cho tôi', rồi 'người', và thế rồi như sự phản chiếu
nảy sinh 'tôi', 'tôi' là dạng tinh vi nhất, kết tinh nhất
của tính sở hữu. Một khi bạn đã thốt ra 'tôi', thì bạn đã
phạm vào điều báng bổ. Một khi bạn đã nói 'tôi', bạn
bị ngắt hoàn toàn khỏi sự tồn tại - không thực sự bị
ngắt, bằng không bạn sẽ chết. Nhưng trong ý tưởng
của mình thì bạn đã hoàn toàn bị ngắt khỏi thực tại.
Bây giờ bạn sẽ trong tranh đấu liên tục với thực tại.
Bạn sẽ tranh đấu với gốc rễ riêng của mình, bạn sẽ
tranh đấu với bản thân mình.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Là mẩu gỗ trôi giạt.
Bạn có thể là mẩu gỗ trôi giạt chỉ nếu bạn đã vứt bỏ ý
tưởng về tôi - bằng không bạn không thể là mẩu gỗ
trôi giạt được. Vật lộn sẽ dai dẳng. Đó là lí do tại sao
bạn thấy khó khi đi tới thiền. Nếu tôi nói ngồi im
lặng, bạn không thể làm được điều đó - điều đơn giản
thế. Người ta sẽ coi đó là điều đơn giản nhất; đáng ra
không cần phải dạy điều đó. Người ta phải đơn giản
ngồi và hiện hữu. Nhưng bạn không thể ngồi được bởi
vì cái 'tôi' không thể cho phép bạn có lấy một khoảnh
khắc thảnh thơi. Hễ một khoảnh khắc của thảnh thơi
mà được phép, bạn sẽ có khả năng thấy thực tại. Một
khi thực tại được biết tới, cái 'tôi' sẽ phải bị vứt bỏ.
Thế thì nó không thể còn dai dẳng được. Cho nên cái
'tôi' thậm chí không bao giờ cho phép bạn có ngày
nghỉ. Cho dù bạn đi lên núi, tới chỗ nghỉ mùa hè, cái
'tôi' vẫn không bao giờ cho phép bạn có ngày nghỉ kể
cả ở đó. Bạn mang radio đi, bạn mang ti vi đi; bạn
mang tất cả các vấn đề của mình và bạn vẫn còn bận
bịu. Tại đó, tại nơi nghỉ an dưỡng trên đồi núi, bạn đã
đi tới để thảnh thơi, nhưng bạn vẫn tiếp tục toàn thể hình mẫu của mình theo cùng cách. Bạn không thảnh
thơi.
Cái 'tôi' không thể thảnh thơi được. Nó tồn tại qua
căng thẳng. Nó sẽ tạo ra căng thẳng mới, nó sẽ tạo ra
lo nghĩ mới, nó sẽ thường xuyên chế tác ra vấn đề
mới, nó sẽ không cho phép bạn nghỉ ngơi gì. Cho dù
nghỉ ngơi lấy một phút và toàn thể ngôi nhà của cái
'tôi' bắt đầu sụp đổ - bởi vì thực tại đẹp thế và cái 'tôi'
xấu thế. Người ta liên tục tranh đấu theo cách của
mình một cách không cần thiết. Bạn đang tranh đấu vì
những thứ sắp xảy ra theo cách riêng của chúng. Bạn
đang tranh đấu một cách không cần thiết. Bạn đang
ham muốn những điều sẽ là của bạn nếu bạn không
ham muốn. Thực tế, bởi việc ham muốn bạn sẽ làm
mất chúng.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Nổi cùng với dòng
chảy. Cứ để nó đưa bạn ra đại dương.
'Của tôi', 'cho tôi', 'người', 'tôi' - đây là cái bẫy. Và
cái bẫy này tạo ra khổ, loạn thần kinh, điên khùng.
Bây giờ vấn đề là: đứa trẻ phải trải qua nó, bởi vì
nó không biết mình là ai và nó cần căn cước nào đó -
có thể là căn cước giả, nhưng điều đó còn tốt hơn là
không căn cước gì. Nó cần căn cước nào đó. Nó cần
biết đích xác nó là ai, cho nên một trung tâm giả được
tạo ra. Cái 'tôi' không phải là trung tâm thực của bạn.
Nó là trung tâm giả - tiện dụng, giả vờ, chỉ do bạn chế
tác ra. Nó chẳng liên quan gì tới trung tâm thực của
bạn. Trung tâm thực của bạn là trung tâm của tất cả.
Cái ta thực của bạn là cái ta của tất cả. Tại trung tâm
này, toàn thể sự tồn tại là một - cũng như tại trung tâm
của ánh sáng, mặt trời, mọi tia sáng đều là một.
Chúng càng đi xa, chúng càng xa lẫn nhau hơn.
Trung tâm thực của bạn không phải chỉ là trung
tâm của bạn thôi, nó là trung tâm của cái toàn thể.
Nhưng chúng ta đã tạo ra những trung tâm nhỏ của
riêng mình, tự chế tác, do bản thân chúng ta chế tạo
ra. Có nhu cầu... bởi vì đứa trẻ được sinh ra không có
biên giới nào, không có ý tưởng về mình là ai. Đó là
sự cần thiết sống còn. Làm sao nó sẽ tồn tại được? Nó
phải được cho một cái tên, nó phải được cho một ý
tưởng về nó là ai. Tất nhiên ý tưởng này tới từ bên
ngoài; ai đó nói bạn đẹp, ai đó nói bạn thông minh, ai
đó nói bạn sinh động thế. Bạn thu lấy những thứ mà
mọi người nói. Từ tất cả những điều mọi người nói về
bạn, bạn thu thập một hình ảnh nào đó. Bạn chưa bao
giờ nhìn vào bản thân mình, vào bạn là ai. Hình ảnh
này sẽ là giả - bởi vì không ai khác có thể biết được
bạn là ai, và không ai khác có thể nói bạn là ai. Thực
tại bên trong của bạn là không sẵn có cho bất kì ai
khác ngoại trừ bạn. Thực tại bên trong của bạn là
không thể xuyên thấu được với bất kì ai khác ngoại
trừ bạn. Chỉ bạn mới có thể ở đó.
Cái ngày bạn nhận ra rằng căn cước của mình là
giả, được gắn lại nhau; bạn đã thu thập ý kiến từ mọi
người...
Đôi khi bạn nghĩ, chỉ ngồi im lặng và nghĩ xem
mình là ai. Nhiều ý tưởng sẽ nảy sinh. Cứ quan sát
xem chúng tới từ đâu và bạn sẽ có khả năng tìm ra cội
nguồn. Cái gì đó tới từ mẹ bạn - nhiều đấy; quãng tám
mươi đến chín mươi phần trăm. Cái gì đó tới từ bố
bạn, cái gì đó tới từ thầy giáo phổ thông của bạn, cái gì đó tới từ bạn bè bạn, cái gì đó tới từ xã hội. Quan
sát xem: bạn sẽ có khả năng phân chia nó tới từ đâu.
Chẳng cái gì tới từ bạn cả, thậm chí không đến một
phần trăm tới từ bạn. Đây là kiểu căn cước gì mà
trong đó bạn đã không đóng góp gì cả thế? Và bạn là
người duy nhất có thể có đóng góp, thực tế, cho cả
một trăm phần trăm.
Cái ngày bạn hiểu ra điều này, tôn giáo trở thành
quan trọng. Cái ngày bạn nhận ra điều này bạn bắt
đầu tìm kiếm kĩ thuật nào đó, phương pháp nào đó để
đi vào trong bản thể mình; cách biết đích xác, thực sự,
mang tính tồn tại, bạn là ai. Không còn là tuyển tập
các hình ảnh từ bên ngoài, không yêu cầu người khác
để soi gương thực tại của bạn - mà đối diện trực tiếp
với nó, ngay lập tức; để đi vào trong bản tính của bạn,
để cảm thấy nó ở đó. Cần gì phải hỏi người nào? Và
bạn hỏi ai? Họ cũng dốt nát về bản thân họ như bạn
dốt nát về bản thân mình. Họ không biết tới bản thân
họ; làm sao họ có thể biết tới bạn được? Xem cách
mọi sự vận hành, cách mọi sự cứ vận hành, cách mọi
sự cứ xảy ra: giả dối này dẫn tới giả dối khác. Bạn
gần như bị lừa dối, bị lừa bịp. Bạn bị lừa gạt, và
những người đã lừa gạt bạn có thể đã làm điều đó một
cách vô tình. Họ có thể đã bị người khác lừa. Bố bạn,
mẹ bạn, thầy giáo của bạn, đã bị những người khác
lừa - bố họ, mẹ họ, thầy giáo họ. Và đến lượt mình họ
đã lừa bạn. Bạn có định làm cùng điều đó với con
mình nữa không?
Trong một thế giới tốt hơn, nơi mọi người thông
minh hơn, nhận biết hơn, họ sẽ dạy con họ rằng ý
tưởng về căn cước là giả tạo: "Nó là cần thiết, chúng
ta đem nó cho con, nhưng nó chỉ dùng cho thời bây
giờ thôi, trước khi bản thân con khám phá ra mình là
ai. Nó sẽ không phải là thực tại của con đâu. Và con
càng sớm tìm ra con là ai thì càng tốt. Con càng sớm
có thể vứt bỏ cái ý tưởng này đi, thì càng tốt - bởi vì
từ chính khoảnh khắc đó con sẽ thực sự được sinh ra,
và con sẽ thực sự là thực, đích thực. Con sẽ trở thành
cá nhân."
Các ý tưởng mà chúng ta thu thập từ người khác
cho chúng ta cá tính, còn hiểu biết mà chúng ta đi tới
biết từ bên trong cho chúng ta tính cá nhân. Cá tính là
giả, cá nhân là thực. Cá tính được vay mượn; thực tại,
tính cá nhân, cái đích thực của bạn, không bao giờ có
thể được vay mượn. Không ai có thể nói được bạn là
ai.
Thân thể bạn có thể được người khác nhìn thấy.
Họ có thể nói liệu thân thể bạn là đẹp hay không, và
điều đó nữa cũng còn tuỳ - bởi vì không có tiêu chuẩn
nào cho cái đẹp tồn tại. Điều đó tuỳ thuộc vào ý tưởng
của người ta, vào điều người ta coi là đẹp. Hai người
chẳng bao giờ đồng ý được. Điều đó gần giống như
'thích' và 'không thích'. Bạn có thể rơi vào tình yêu
với người đàn bà và bạn có thể nghĩ cô ấy là người
đàn bà đẹp nhất trên thế giới - và bạn của bạn có thể
cười bạn. Tôi không nói họ đúng, tôi không nói bạn
đúng. Tôi đơn giản nói rằng không có tiêu chuẩn. Bạn
có thể coi người đàn bà này là khủng khiếp và bạn của
bạn là điên, nhưng không có tiêu chuẩn. Không có
cách thức khách quan để biết ai đẹp, cái gì đẹp. Điều
đó tuỳ vào tâm trí bạn, sự huấn luyện của bạn.
Tôi đã nghe lỏm được...
nói, gần như bị quyến rũ, "Úi giời! hoàn hảo 250 nhân
210 nhân 400!"
Với voi, tất nhiên, đó là tỉ lệ đẹp - không phải cho
con người. Và cũng như bạn cười về tỉ lệ này, voi
cười về ý tưởng cái đẹp của bạn.
Thực tế ngay cả ý tưởng của một cá nhân về cái
đẹp cũng thay đổi. Thời thơ ấu bạn có các ý tưởng
khác về cái đẹp, thời thanh niên các ý tưởng khác,
trong tuổi già lại các ý tưởng khác. Và thế thì điều đó
tuỳ thuộc vào sự cần thiết của bạn, nhu cầu của bạn.
Tôi đã nghe...
Có một quảng cáo trong một tạp chí cho nông
dân. Người nông dân đã quảng cáo rằng anh ta muốn
gặp một đàn bà quãng ba mươi tuổi. Bản thân anh ta
bốn mươi mốt. Mục đích: hôn nhân. Nhưng một điều
kiện phải được đáp ứng: người đàn bà phải có máy
kéo, và cô ấy phải gửi bức ảnh của máy kéo đó!
Điều đó tuỳ thuộc vào nhu cầu của bạn, vào ý
tưởng của bạn, vào triết lí của bạn, tôn giáo, huấn
luyện, văn hoá. Ai đó có thể nói điều gì đó về thân thể
bạn; điều đó nữa cũng không khách quan. Ai đó có
thể nói điều gì đó về tâm trí bạn - thầy giáo có thể nói
bạn rất thông minh - nhưng điều đó nữa cũng còn tuỳ.
Bởi vì không có cách nào quyết định được ai là thông
minh. Chính ý tưởng về tỉ số thông minh, cách đo
thông minh, đã thất bại. Các nhà tâm lí đã tưởng rằng
họ có khả năng đo thông minh, nhưng điều đó đã thất
bại. Bây giờ nó lạc hậu rồi. Nó chẳng ngụ ý gì nhiều.
Ai thông minh? - đứa trẻ có khả năng toán học,
hay đứa trẻ rất có khả năng hội hoạ? Ai thông minh? -
đứa trẻ có thể làm thơ, hay đứa trẻ có thể làm động cơ
hay cái máy? Ai thông minh? Đơn giản không có cách
nào nói được cả. Tất nhiên, thông thường, nhà toán
học, nhà cơ khí, nhà công nghệ, sẽ được coi là thông
minh - bởi vì người đó có nhiều tiện ích hơn. Bức
tranh không có mấy tiện ích. Bài thơ không có giá trị
tồn tại; bạn không thể buôn bán nó được. Ở bãi chợ
không ai bận tâm tới nó. Nhưng nếu bạn có thể tạo ra
vật dụng, thiết bị máy móc, thì nhiều người sẽ quan
tâm tới nó. Nhưng làm sao để quyết định?
Trong xã hội khác... Chẳng hạn: ở Trung Quốc cổ
đại, ba nghìn năm trước, người có thể soạn thơ được
coi là thông minh hơn người có thể phát minh ra cái
máy - bởi vì xã hội đã tồn tại trên các nguyên tắc
khác. Lão Tử đã nói rằng máy móc là cách để lừa gạt
tự nhiên, để khai thác tự nhiên. Chúng mang tính công
kích. Con người không cần các thứ máy móc nào; thơ
ca, tranh vẽ, điêu khắc, âm nhạc còn có giá trị hơn.
Cho nên đứa trẻ là nhạc sĩ bẩm sinh được coi là thông
minh hơn nhà toán học - bởi vì bạn sẽ làm gì với nhà
toán học? Nó để dùng làm gì? Nhưng trong thế giới
hiện đại nhà toán học hữu dụng hơn, có nhiều tiện ích
hơn, có nhiều giá trị thị trường hơn.
Nhưng điều này sẽ không là như vậy được lâu
đâu. Chẳng chóng thì chầy, thậm chí trong thế kỉ này,
vài nước sẽ đi tới mức giầu có mà họ lại sẽ cần tới âm nhạc, thơ ca, điêu khắc. Mọi người sẽ thích nghe âm
nhạc vĩ đại, sẽ thích xem múa, sẽ thích đi vào các lĩnh
vực của cái đẹp, sẽ thích đi vào hoà điệu sâu sắc hơn
với thực tại. Ai sẽ bận tâm về nhà toán học, nhà công
nghệ, kĩ sư? Chẳng chóng thì chầy điều này sẽ thay
đổi. Điều đó phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội.
Mọi người có thể nói điều gì đó về thân thể bạn,
điều gì đó về tâm trí bạn, nhưng điều đó nữa cũng
chẳng có giá trị gì. Ai có thể nói điều gì về linh hồn
bạn? - ngay cả mẹ bạn người đã cho việc sinh thành ra
bạn cũng chẳng nói được, ngay cả bố bạn cũng chẳng
nói được.
Khi Phật trở nên chứng ngộ ông ấy trở về nhà.
Người bố đã rất giận, vậy cũng là tự nhiên. Rất khó
mà thoả mãn cho người bố, bởi vì bất kì điều gì bạn
làm cũng sẽ chống lại tham vọng của ông ấy. Rất khó
thoả mãn cho người bố. Nếu bạn không có cá tính
nào, nếu bạn không có tính cá nhân nào, nếu bạn
không có thông minh duy nhất nào, thì bạn đần độn.
Bạn có thể vâng lời, nhưng thế thì người bố lại không
được thoả mãn bởi vì đần độn của bạn, ngu xuẩn. Bạn
vâng lời, được; nhưng phỏng có ích gì cho việc bạn
vâng lời? Bạn chẳng có gì để cho cả. Nếu bạn thông
minh, duy nhất, có cái gì đó để cho, thế thì bạn không
thể vâng lời được. Thông minh bao giờ cũng mang
tính nổi dậy. Chỉ người đần độn và ngu xuẩn mới
vâng lời.
Trong thế giới ngày nay có nhiều nổi dậy thế chỉ
bởi vì đã có bùng nổ của thông minh. Từng thế hệ đều
thông minh hơn thế hệ trước, do đó mới nhiều nổi dậy
hơn, nhiều không vâng lời hơn, nhiều hỗn loạn hơn
trên thế giới. Bạn có thể quan sát điều đó trong con
bạn. Quan sát con bạn một cách không thiên vị. Bạn
có thông minh như vậy không khi bạn còn là đứa trẻ?
Bây giờ nhìn trẻ con; chúng thông minh thế. Bạn có
thể không thấy điều đó, bởi vì điêu đó gây tổn thương.
Bạn có thể không thấy điều đó, bạn có thể phủ nhận
điều đó, nhưng quan sát xem - và điều đó phải là như
vậy. Điều tự nhiên là tâm thức cứ tiến hoá. Cho nên
khi đứa trẻ thông minh, nó mang tính nổi dậy, và
người bố không được thoả mãn. Khi đứa trẻ vâng lời
nhưng nó không thông minh, thế nữa người bố cũng
không thoả mãn. Thật khó mà thoả mãn được người
bố.
Ngay cả Phật cũng không thể thoả mãn được cho
bố mình. Bố của Phật phải đã cho rằng ông ấy đã trở
thành kẻ hippie. Có thể thuật ngữ này hồi đó còn chưa
có, cho nên ông ấy phải đã nghĩ dưới một thuật ngữ
khác nào đó, nhưng đó đích xác là điều ông ấy nói với
Phật khi ông ấy về. Ông ấy rất bực mình, tức tối, và
ông ấy nói, "Con đã làm gì vậy? Con là con vua, và
con đi như kẻ ăn xin sao? Vứt ngay tất cả những cái
vô nghĩa này và trở về nhà. Ta là bố của con. Mặc dầu
con đã làm đau ta, và con đã là nỗi đau tới tận cổ ta,
dầu vậy trái tim ta vẫn là trái tim của người bố: ta có
thể tha thứ cho con. Cánh cửa của ta vẫn còn mở. Con
có thể tới."
Phật cười. Ông ấy nói, "Bệ hạ không biết ta chút
nào. Ta đã đi vào một vương quốc vĩ đại." Người bố,
tất nhiên, trở nên điên tiết hơn. Ông ta nói, "Chấm dứt
mọi điều này đi! Ta biết con rõ lắm. Ta đã cho sinh
thành ra con." Phật nói, "Chỗ đó bệ hạ lầm, chỗ đó bệ
hạ phạm lỗi. Bệ hạ đã sinh thành ra thân thể ta, nhưng không sinh ra ta; và bệ hạ chẳng biết ta chút nào. Cho
dù ta đang đứng trước bệ hạ, bệ hạ cũng không thấy
ta. Bệ hạ đầy những ý tưởng rằng bệ hạ là bố và ta là
con của bệ hạ. Ý tưởng đó đang vận hành tựa như rào
chắn. Nhìn vào ta đây! Người con đã rời bỏ ngôi nhà
của bệ hạ đã không quay lại. Người đó đã mất rồi,
người đó đã chết! Ta là một con người hoàn toàn mới.
Ta tới với một căn cước mới, ta tới với một hiểu biết
mới: ta tới như nhận biết. Ta đã đi như vô ý thức. Ta
đã đi như Gautam Siddhartha, con bệ hạ. Bây giờ ta
tới như Phật, như được chứng ngộ, vừa mới được
chứng ngộ. Ta đã đi với căn cước giả, bây giờ ta tới
với hiểu biết thực về ta là ai. Nhìn vào ta!"
Thực tế, không có cách nào để bất kì ai khác thấy
thực tại của bạn. Bạn phải tự mình đi vào trong nó.
Điều đó không thể được người phục vụ làm, bạn
không thể trả tiền cho ai đó để họ làm điều đó cho bạn
được.
Một thánh nhân Sufi vĩ đại được Caliph Omar
triệu tới để cầu nguyện trong triều đình ông ấy. Thánh
nhân tới, nhưng ông ấy nói, "Tôi không thể làm điều
đó được. Có vài điều bệ hạ phải làm cho chính mình.
Bệ hạ phải tự thở cho mình; không ai khác có thể làm
được điều đó. Bệ hạ phải tự làm tình với người đàn bà
của bệ hạ; không ai khác có thể làm điều đó cho bệ
hạ. Và bệ hạ phải cầu nguyện cho bản thân mình; tôi
không thể làm được điều đó. Rất tiếc." Ông ấy nói,
"Tôi có thể cầu nguyện, nhưng đó sẽ là lời cầu
nguyện cho bản thân tôi. Nó sẽ không dành cho bệ
hạ."
Ông ấy đã đem chân lí vĩ đại về nhà; có những
điều mà không ai có thể làm thay bạn được. Ít nhất
một điều mà không ai có thể làm cho bạn được - đó
là, cho bạn câu trả lời bạn là ai. Không, bạn phải đi,
bạn phải đào sâu vào bản thể riêng của mình. Tầng
tầng của căn cước, căn cước giả, phải bị phá vỡ.
Có nỗi sợ khi người ta đi vào trong bản thân
mình, bởi vì hỗn loạn bước vào. Bằng cách nào đó
bạn đã điều khiển với căn cước giả của mình. Bạn đã
lắng đọng với nó. Bạn biết tên mình là thế này thế nọ;
bạn có những tin tưởng nào đó, chứng chỉ, bằng cấp,
đại học, cao đẳng, danh vọng, tiền bạc, di sản. Bạn có
cách nào đó để xác định bản thân mình. Bạn có định
nghĩa nào đó, có tác dụng thế nào đó - nhưng nó có
tác dụng. Đi vào nghĩa là vứt bỏ cái định nghĩa có tác
dụng này... sẽ có hỗn loạn.
Trước khi bạn có thể đi tới trung tâm của mình,
bạn sẽ phải đi qua trạng thái rất hỗn loạn. Đó là lí do
tại sao có nỗi sợ. Không ai muốn đi vào trong cả. Mọi
người cứ dạy: Biết bản thân mình; chúng ta nghe,
nhưng chúng ta chẳng bao giờ nghe thấy cả. Chúng ta
chưa bao giờ bận tâm về điều đó. Có ý tưởng nào đó
trong tâm trí rằng hỗn loạn sẽ làm cho không rõ ràng
và bạn sẽ bị lạc trong nó, bạn sẽ bị nhấn chìm vào
trong nó. Bởi nỗi sợ hỗn loạn đó, chúng ta cứ níu bám
lấy bất kì cái gì từ bên ngoài. Nhưng điều này đang
làm phí hoài cuộc sống của bạn.
Cái ngày bạn trở nên đủ dũng cảm để đi vào trong
bản thể mình, bạn đã trở thành một sannyasin. Tính
chất sannyas nghĩa là: bây giờ bạn nắm lấy cuộc sống
của mình trong bàn tay mình. Bây giờ bạn đang cố gắng để sống cuộc sống của bạn một cách đích thực.
Bây giờ bạn không còn đóng vai diễn nữa. Bây giờ
bạn sẽ không cho phép bất kì ai khác viết câu chuyện
về cuộc đời bạn. Bây giờ bạn sẵn sàng trải ra cái mà
bạn bao giờ cũng mang như hạt mầm bên trong mình.
Hỗn loạn là vấn đề duy nhất; cho nên khi mọi người
trở nên mang tính tôn giáo họ bắt đầu tìm cách nào đó
để né tránh hỗn loạn. Điều đó phải được hiểu trước
khi bạn có thể đi vào trong lời kinh này.
Căn cước nào đó có đấy. Chẳng hạn: bạn giầu,
bạn có nhiều tiền - đó là căn cước của bạn. Khi một
người bắt đầu nghĩ, "Làm sao để biết bản thân mình?"
và khi người đó đi tới nghe chân lí luôn do các hiền
nhân giải thích: rằng 'của tôi', 'cho tôi', 'người', 'tôi',
đều phải bị loại bỏ, người đó nghĩ, "Được rồi, vậy
mình sẽ vứt bỏ tất cả mọi của cải của mình và mình sẽ
trở thành nghèo." Người đó vứt bỏ một căn cước - căn
cước của việc là nghèo - nhưng người đó đã đi sang
cực đoan khác. Để tránh một điều sai người đó đã đi
sang cái sai đối lập. Và đây là điều nền tảng: nếu bạn
đi ngược lại cái sai quá nhiều, bạn sẽ lại đi vào cái sai
khác. Cái sai này bị đối lập bởi điều khác không thể
nào được làm cho đúng; cái đối lập cũng sai. Chỉ ở
chính giữa, đâu đó đấy, mới là chân lí.
Khi bạn giầu bạn có một căn cước. Bạn vứt bỏ cái
đó, bạn trở thành nghèo, bạn trở thành người ăn xin;
bây giờ bạn có căn cước khác. Căn cước thứ nhất đã
được vay mượn từ xã hội, căn cước thứ hai cũng được
vay mượn từ xã hội. Bây giờ mọi người sẽ nói rằng
bạn đã từ bỏ thế giới, bạn là một sannyasin vĩ đại, bạn
đã vứt bỏ thế giới, bạn đơn giản là vĩ đại. Bạn đã vĩ
đại bởi vì bạn đã có tiền; bây giờ bạn vĩ đại bởi vì bạn
đã từ bỏ tiền - nhưng căn cước đang tới từ bên ngoài.
Ban đầu bạn đã giầu, bây giờ bạn nghèo; bây giờ
nghèo là giầu sang của bạn. Bạn đã có bản ngã, bạn
trở nên khiêm tốn; nhưng bây giờ khiêm tốn là bản
ngã của bạn.
Người ta có thể đi từ bệnh tật này sang bệnh tật
khác rất dễ dàng, cũng giống như con lắc có thể đung
đưa từ cực đoan này sang cực đoan khác.
Phật nói: Các cực đoan chính là cái sai. Là người
cực đoan là ở chỗ sai. Ở giữa, được cân bằng -
samyak - và đó là chỗ cái đúng. Ở chính giữa, đừng đi
từ cực này sang cực khác. Đó là điều mọi người đang
làm. Ai đó đang chạy theo đàn bà, thế rồi một ngày
nào đó anh ta quyết định điều đó là vô tích sự; anh ta
bắt đầu chạy xa khỏi đàn bà. Nhưng việc chạy vẫn
tiếp tục. Đầu tiên anh ta săn đuổi, bây giờ anh ta sợ
đàn bà nào đó có thể săn đuổi anh ta. Và đó là cách
điều đó xảy ra: nếu bạn săn đàn bà, cô ấy chạy. Nếu
bạn bắt đầu chạy khỏi cô ấy, cô ấy bắt đầu săn bạn.
Cuộc sống rất bí ẩn... nhưng việc chạy vẫn tiếp tục.
Nó là trò chơi. Người ta chỉ có thể là kẻ đi săn và
người ta phải là kẻ bị săn. Hoặc bạn là kẻ đi săn hoặc
đàn bà trở thành kẻ đi săn, nhưng trò chơi vẫn tiếp
tục.
Phật nói: Dừng ở giữa.
Lời kinh này là một phần của câu chuyện rất nổi
tiếng trong cuộc đời Phật. Câu chuyện này là về một
hoàng tử có tên Srona.
Srona là một hoàng tử rất giầu có, và anh ta đã
sống cuộc sống của một người siêu hưởng lạc: ăn, uống, vui vẻ. Anh ta đã sống thật sâu trong mê đắm.
Anh ta chưa bao giờ biết gì về kỉ luật, anh ta chưa bao
giờ nghe nói gì về nhận biết. Đàn bà, rượu - đó là tất
cả, đó là toàn thể cuộc đời anh ta... bị hàm chứa trong
hai từ: đàn bà và rượu. Cả ngày anh ta say sưa, và cả
đêm anh ta mê đắm trong hoạt động dục. Anh ta là gã
điên khùng. Nhưng dần dần điều cực đoan bắt đầu
làm anh ta mệt mỏi. Dần dần anh ta đã trở nên tỉnh táo
về điều anh ta đang làm cho cuộc sống của mình.
Khi bạn mê đắm quá nhiều, một ngày nào đó, nếu
bạn có chút ít thông minh, bạn bắt đầu cảm thấy toàn
thể cái vô tích sự của nó.
Một hôm khi Phật đi qua thị trấn của anh ta, anh
ta nghe nói về Phật. Anh ta đã từng suy nghĩ nhiều
ngày, "Phải có cách sống khác chứ, và phải có nhiều
điều để sống hơn là cách mình đang sống nó chứ."
Biết rằng Phật đã tới, anh ta tới để gặp ông ấy. Anh ta
là một người cực đoan. Thấy Phật - im lặng của ông
ấy, duyên dáng của ông ấy, an bình của ông ấy - anh
ta bị xúc động. Trái tim anh ta bị tràn ngập. Anh ta cúi
lạy Phật và anh ta nói, "Xin thầy cho tôi tính chất
sannyas ngay khoảnh khắc này!"
Phật nói, "Đợi đã. Đừng vội thế."
"Nhưng," anh ta nói, "tôi không thể đợi được. Tôi
không biết cái gì đang đợi. Khi tôi muốn làm cái gì
đó, tôi muốn làm ngay cái gì đó. Và thế là đủ! Tôi đã
sống cuộc sống của truỵ lạc, và tôi đã đơn giản làm
phí hoài bản thân mình. Nó đã mang tính tự tử. Bây
giờ tôi không thể trở về nhà được. Thầy chấp nhận tôi
đi."
Ngay cả các đệ tử của Phật cũng nói, "Sao thầy
không chấp nhận anh ta? Thầy chưa bao giờ nói
không với bất kì ai. Sao thầy ngần ngại?" Ananda nói,
"Sao thầy ngần ngại? Anh ta là một hoàng tử lớn, rất
nổi tiếng, và anh ta đã sẵn sàng. Anh ta đã sẵn sàng
buông xuôi toàn bộ."
Phật nói, "Ta ngần ngại bởi vì ta sợ rằng đây có
thể chính là cực đoan khác. Người này đã từng mê
đắm. Bây giờ người này có thể từ bỏ và chỉ đi sang
cực đoan kia - và từ bỏ là ở giữa."
Nhưng Srona cứ khăng khăng; anh ta không chịu
đi. Anh ta ngồi đó từ sáng tới tối. Anh ta là con người
kiểu đó. Phật càng nói không, anh ta càng trở nên nhất
quyết. Sáng hôm sau, Phật chấp nhận anh ta làm đệ
tử. Lời kinh này là về Srona.
Chuyện kể rằng khi Srona trở thành khất sĩ, thành
sư, lập tức anh ta chuyển sang cực đoan kia - cực
đoan mà Phật e ngại, e sợ. Khất sĩ, khất sĩ của Phật,
sư của ông ấy, thường ăn một bữa mỗi ngày; Srona sẽ
chỉ ăn hai bữa mỗi tuần. Các khất sĩ đi, từ thị trấn này
sang thị trấn khác; thế thì họ đi trên đường. Nhưng
Srona này không bao giờ đi trên đường. Anh ta đi
trong rừng, bị thương. Chân anh ta bắt đầu chảy máu;
có những vết thương. Khất sĩ của Phật là những người
rất yên bình, im lặng - bởi vì toàn thể giáo huấn là duy
trì ở giữa. Họ không bao giờ mê đắm và họ không bao
giờ khổ hạnh, nhưng Srona này đã trở thành nhà khổ
hạnh lớn. Khi mọi người ngồi dưới gốc cây, anh ta sẽ
đứng dưới mặt trời nóng. Anh ta có thân thể đẹp đẽ,
anh ta là một thanh niên đẹp trai. Anh ta trở nên sậm
da, đen cháy đi, và trong vòng vài tháng không thể nào nhận ra được anh ta. Khi mọi người từ kinh đô tới
họ đều ngạc nhiên; anh ta đã thay đổi nhiều thế. Anh
ta đã trở nên còm nhom và dặt dẹo, mắt anh ta đã mất
đi ánh rực rỡ, khuôn mặt anh ta đã mất đi mọi vẻ
duyên dáng; anh ta đã bắt đầu trở thành xấu xí. Và
anh ta bao giờ cũng bị ốm, bởi vì thân thể chấp nhận
giới hạn cho những điều nào đó. Nhưng anh ta không
lo nghĩ; thực tế, anh ta đã tận hưởng điều đó. Và tất cả
các sư đều bắt đầu cảm thấy rằng anh ta là linh hồn vĩ
đại nào đó. Mọi người bắt đầu cảm thấy rằng anh ta
cao siêu hơn họ. Bây giờ một bản ngã mới nảy sinh
trong Srona.
Lời kinh này là về Srona.
Một đêm một sư trích đọc lời kinh được lưu
truyền lại từ Kashyapabuddha. Âm thanh của ông
ta thê lương thế và giọng ông ta yếu ớt thế, cứ
dường như ông ta sắp chết.
Tất nhiên anh ta phải đã trở nên rất buồn, anh ta
phải đã trở nên rất sa sút và thất vọng, anh ta phải đã
mất mọi vui vẻ. Anh ta đã tự hành hạ mình. Anh ta
phải đã mang chút ít bạo ngược. Anh ta đã phá huỷ
bản thân mình và tận hưởng bạo hành. Anh ta phải đã
trở nên rất nghiêm chỉnh, mặt dài ra; anh ta phải đã
trở nên ốm yếu rất sâu sắc, mọi hoạt bát biến mất.
Anh ta đã không phải là việc nở hoa. Thực tế, cái cây
đang chết.
Anh ta đọc kinh này, vốn được Kashyapadbudha
cho. Khi bạn đọc kinh bạn phải đọc nó trong vui vẻ -
bằng không thì điều đó là vô nghĩa. Khi bạn cầu
nguyện, nếu bạn không thể cầu nguyện một cách vui
vẻ, điều đó là vô nghĩa - đừng phí thời gian của bạn.
Bởi vì lời cầu nguyện của bạn chẳng bao giờ đạt tới
Thượng đế chừng nào nó còn chưa cưỡi lên con ngựa
của vui vẻ. Chừng nào bạn còn chưa thể mở hội, lời
cầu nguyện của bạn chẳng bao giờ được nghe đâu.
Chỉ qua lễ hội mà nó mới đạt tới Thượng đế - bởi vì
Thượng đế chỉ hiểu một ngôn ngữ thôi, và đó là lễ
hội; không ngôn ngữ nào khác - ngài không hiểu tiếng
Anh đâu, ngài không hiểu tiếng Phạn đâu, ngài không
hiểu tiếng A rập đâu. Ngài chỉ hiểu một ngôn ngữ:
ngôn ngữ của hoa, ngôn ngữ của mây, ngôn ngữ của
công, ngôn ngữ của chim cu cu, ngôn ngữ của vui vẻ,
ngôn ngữ của mầu xanh lá cây, của dòng sông chảy ra
đại dương, của băng hà trườn xuống núi. Ngài biết
điệu vũ, ngài biết ca hát là gì. Lời là không có nghĩa,
chỉ âm nhạc thôi. Ngài hiểu âm thanh, ngài không
hiểu lời.
Ngôn ngữ do con người tạo ra, vui vẻ là từ
Thượng đế. Cho nên bất kì khi nào bạn thiền, bạn cầu
nguyện, bạn đọc kinh, làm điều đó trong vui vẻ. Bằng
không thì đừng làm điều đó. Không có nhu cầu bởi vì
điều đó là vô dụng. Bạn đang làm phí thời gian của
mình. Và bạn có thể làm ngài khó chịu, và ngài có thể
bực mình, và bạn có thể hối hận về sau. Ít nhất cũng
đừng làm khó chịu ngài.
Tôi đã nghe nói về một nhà huyền môn Sufi,
Hassan. Ông đã đi qua một tu viện, và một người
đang đọc Koran. Tiếng ông ta kinh thế, và ông ta đang
đọc nó một cách khủng khiếp, và ông ta buồn thế và
nghiêm chỉnh thế - cứ dường như mọi tiếng cười của ông ta đã khô héo cả. Tiếng ông ấy vang như tiếng
ma.
Hassan nói, "Ông đang làm gì vậy?"
Ông ta nói, "Lạy Trời, tôi đang đọc Koran đây."
Hassan nói, "Lạy Trời, ông thôi đi!"
Chừng nào bạn còn chưa làm điều đó trong vui
vẻ, xin đừng làm điều đó. Vì Trời, đừng bao giờ làm
điều đó. Làm kẻ vô thần và không tin vào Thượng đế
còn tốt hơn là làm cái gì đó trong nỗi buồn, thất vọng,
hơn là làm cái gì đó xấu xí và gọi nó là lời cầu
nguyện.
Nhưng bạn chỉ có thể làm điều bạn đang là. Vui
vẻ bạn không thể điều khiển được nó một cách bất
thần. Chừng nào nó còn chưa bật ra, chừng nào nó
còn chưa trào ra từ trong bản thể bạn, chừng nào nó
còn chưa chảy ra như sáp, bạn không thể điều khiển
được nó. Và đó không phải là vấn đề điều khiển
khuôn mặt bạn, bởi vì Thượng đế không nhìn vào mặt
bạn; Thượng đế đang nhìn vào tim bạn... cho nên bạn
không thể lừa dối được. Chừng nào vui vẻ còn chưa
có trong bản thể bạn, nó sẽ không đạt tới - lời cầu
nguyện của bạn sẽ không bao giờ được nghe.
Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh rằng nếu bạn có
thể nhảy múa và ca hát, điều đó sẽ có tác dụng.
Không có nhu cầu nói hẳn ra lời cầu nguyện của bạn:
để nó được thể hiện ra trong điệu vũ, để nó được thể
hiện ra trong việc hát. Không có nhu cầu. Bạn có thể
chơi ghi ta hay bạn có thể thổi sáo - điều đó sẽ có tác
dụng. Bạn đang dùng cái gì đó phổ quát.
Âm thanh của ông ta thê lương thế và giọng ông
ta yếu ớt thế, cứ dường như ông ta sắp chết.
Phật hỏi sư này, "Ông làm nghề gì trước khi ông
trở thành sư vô gia cư?" Sư này nói, "Tôi rất
thích chơi đàn ghi ta."
Phật nói, "Ông thấy đàn thế nào khi dây đàn quá
chùng?" Sư này nói, "Không âm thanh nào có thể
có được."
Khi dây quá chùng, không thể có âm thanh
được...
"Khi dây đàn quá căng thì thế nào?"
"Chúng đứt."
"Khi chúng không quá căng không quá chùng thì
thế nào?"
"Mọi nốt đều vang đúng âm thanh của nó."
Thế rồi Phật nói với sư này: Kỉ luật tôn giáo cũng
giống như chơi đàn ghi ta vậy. Khi tâm trí được điều
chỉnh đúng và chuyên tâm yên tĩnh, đạo là đạt tới
được.
Thực tế, khi tâm trí ở chính giữa, không chùng
quá không căng quá; cân bằng, yên tĩnh, tĩnh lặng,
không đi sang trái không đi sang phải; khi con lắc của
tâm trí đã dừng lại ở giữa, thời gian biến mất, đồng hồ
dừng lại. Trong chính khoảnh khắc đó Đạo là đạt tới
được. Thực tế, Đạo được đạt tới. Đây là cách thức: ở giữa là Đạo. Bạn đang bỏ lỡ Đạo bởi vì bạn không ở
giữa - và Đạo là ở giữa. Trong những tình huống cuộc
sống, trong mọi tình huống, người ta phải tỉnh táo
không đi tới cực đoan. Bằng không, đôi khi dây quá
chùng và âm nhạc không nảy sinh, và đôi khi chúng
quá căng và chúng đứt. Và thay vì âm nhạc họ tạo ra
tiếng ồn. Âm nhạc là có thể chỉ khi mọi sự ở chính
giữa. Có một điểm mà dây không căng không chùng.
Bạn phải đã thấy điều đó: bất kì khi nào nhạc sĩ
Ấn Độ chơi đàn, đầu tiên họ cố gắng đưa nhạc cụ về
điểm giữa. Người đánh trống sẽ đánh thử vào cặp
trống nhỏ và sẽ cảm xem liệu nó có ở giữa hay không;
bằng không người đó sẽ thắt chặt cái gì đó hay làm
chùng lỏng cái gì đó. Người chơi đàn veena sẽ thắt
chặt hay làm chùng dây đàn của mình.
Có lần chuyện xảy ra:
Một phó vương được ông tổng trấn Lucknow
mời, và để đón chào ông này, ông tổng trấn đã yêu
cầu các nhạc sĩ giỏi nhất của mình chơi cái gì đó
mừng ông phó vương. Và tất nhiên, cũng như điều đó
vẫn được thực hiện theo cách truyền thống, các nhạc
sĩ bắt đầu lên và hạ dây đàn của họ. Viên tổng trấn hỏi
viên phó vương, "Ông thích kiểu nhạc nào nhất?" Chỉ
để lịch sự ông này nói, "Đích xác nhạc đang được
chơi đấy" - chỉ để lịch sự mà thôi! Ông ấy có hiểu cái
gì đang diễn ra đâu. Và thế rồi, chỉ để lịch sự, viên
tổng trấn ra lệnh cho các nhạc sĩ tiếp tục. Trong ba
giờ họ đơn giản cứ tiếp tục thế.
Có một điểm mà dây không chùng không căng -
và chỉ thầy mới biết nó. Dễ dàng chơi ghi ta; khó đưa
ghi ta về việc điều chỉnh đó khi âm nhạc được sinh ra,
và được sinh ra một cách tự nhiên, sinh ra vô nỗ lực.
Người ta trở thành thầy hay nhà soạn nhạc đại tài khi
người đó có thể làm hài hoà nhạc cụ của mình. Chơi
nhạc không khó thế; điều chỉnh khó hơn - bởi vì để
điều chỉnh bạn phải học cái đích xác ở giữa. Bạn phải
rất tỉnh táo, rất nhạy cảm. Tai bạn phải rất, rất nhạy
cảm. Chỉ thế thì bạn mới có thể tìm được chỗ giữa ở
đâu.
Và Phật nói:
Kỉ luật tôn giáo cũng giống như chơi đàn ghi ta
vậy. Khi tâm trí được điều chỉnh đúng và chuyên
tâm yên tĩnh, đạo là đạt tới được; nhưng khi ông
quá sốt sắng hướng theo nó, thân thể ông trở nên
mệt mỏi; và khi thân thể ông mệt mỏi, tinh thần
ông trở nên mệt mỏi; khi tinh thần ông mệt mỏi, kỉ
luật của ông sẽ thả lỏng; và với việc thả lỏng kĩ
luật sẽ có nhiều điều xấu kéo theo. Do đó, bình
thản và thuần khiết, và đạo sẽ đạt được.
Trong mọi tình huống cuộc sống, bạn phải ghi
nhớ điều đó. Lời kinh này là cực kì quan trọng - bởi vì
tâm trí có khuynh hướng đi vào cực đối lập. Và nếu
bạn đi sang cực đối lập bạn lại bỏ lỡ chỗ giữa, và bạn
lại xa với chỗ giữa như bạn đã xa trước đây. Ai đó là
người bản ngã - người đó trở thành người khiêm tốn.
Con người thực của nhận biết thì không bản ngã
không khiêm tốn. Người đó không biết ngôn ngữ của giữa là Đạo. Bạn đang bỏ lỡ Đạo bởi vì bạn không ở
giữa - và Đạo là ở giữa. Trong những tình huống cuộc
sống, trong mọi tình huống, người ta phải tỉnh táo
không đi tới cực đoan. Bằng không, đôi khi dây quá
chùng và âm nhạc không nảy sinh, và đôi khi chúng
quá căng và chúng đứt. Và thay vì âm nhạc họ tạo ra
tiếng ồn. Âm nhạc là có thể chỉ khi mọi sự ở chính
giữa. Có một điểm mà dây không căng không chùng.
Bạn phải đã thấy điều đó: bất kì khi nào nhạc sĩ
Ấn Độ chơi đàn, đầu tiên họ cố gắng đưa nhạc cụ về
điểm giữa. Người đánh trống sẽ đánh thử vào cặp
trống nhỏ và sẽ cảm xem liệu nó có ở giữa hay không;
bằng không người đó sẽ thắt chặt cái gì đó hay làm
chùng lỏng cái gì đó. Người chơi đàn veena sẽ thắt
chặt hay làm chùng dây đàn của mình.
Có lần chuyện xảy ra:
Một phó vương được ông tổng trấn Lucknow
mời, và để đón chào ông này, ông tổng trấn đã yêu
cầu các nhạc sĩ giỏi nhất của mình chơi cái gì đó
mừng ông phó vương. Và tất nhiên, cũng như điều đó
vẫn được thực hiện theo cách truyền thống, các nhạc
sĩ bắt đầu lên và hạ dây đàn của họ. Viên tổng trấn hỏi
viên phó vương, "Ông thích kiểu nhạc nào nhất?" Chỉ
để lịch sự ông này nói, "Đích xác nhạc đang được
chơi đấy" - chỉ để lịch sự mà thôi! Ông ấy có hiểu cái
gì đang diễn ra đâu. Và thế rồi, chỉ để lịch sự, viên
tổng trấn ra lệnh cho các nhạc sĩ tiếp tục. Trong ba
giờ họ đơn giản cứ tiếp tục thế.
Có một điểm mà dây không chùng không căng -
và chỉ thầy mới biết nó. Dễ dàng chơi ghi ta; khó đưa
ghi ta về việc điều chỉnh đó khi âm nhạc được sinh ra,
và được sinh ra một cách tự nhiên, sinh ra vô nỗ lực.
Người ta trở thành thầy hay nhà soạn nhạc đại tài khi
người đó có thể làm hài hoà nhạc cụ của mình. Chơi
nhạc không khó thế; điều chỉnh khó hơn - bởi vì để
điều chỉnh bạn phải học cái đích xác ở giữa. Bạn phải
rất tỉnh táo, rất nhạy cảm. Tai bạn phải rất, rất nhạy
cảm. Chỉ thế thì bạn mới có thể tìm được chỗ giữa ở
đâu.
Và Phật nói:
Kỉ luật tôn giáo cũng giống như chơi đàn ghi ta
vậy. Khi tâm trí được điều chỉnh đúng và chuyên
tâm yên tĩnh, đạo là đạt tới được; nhưng khi ông
quá sốt sắng hướng theo nó, thân thể ông trở nên
mệt mỏi; và khi thân thể ông mệt mỏi, tinh thần
ông trở nên mệt mỏi; khi tinh thần ông mệt mỏi, kỉ
luật của ông sẽ thả lỏng; và với việc thả lỏng kĩ
luật sẽ có nhiều điều xấu kéo theo. Do đó, bình
thản và thuần khiết, và đạo sẽ đạt được.
Trong mọi tình huống cuộc sống, bạn phải ghi
nhớ điều đó. Lời kinh này là cực kì quan trọng - bởi vì
tâm trí có khuynh hướng đi vào cực đối lập. Và nếu
bạn đi sang cực đối lập bạn lại bỏ lỡ chỗ giữa, và bạn
lại xa với chỗ giữa như bạn đã xa trước đây. Ai đó là
người bản ngã - người đó trở thành người khiêm tốn.
Con người thực của nhận biết thì không bản ngã
không khiêm tốn. Người đó không biết ngôn ngữ của khiêm tốn và bản ngã. Khiêm tốn là cái đối lập của
bản ngã. Nó không thực là đối lập; nó là cùng ngôn
ngữ. Khi bạn nói ai đó khiêm tốn, bạn ngụ ý cái gì?
Bạn nói rằng người đó không phải là người bản ngã -
điều đó nghĩa là từ đỉnh của bản ngã người đó đã đi
tới thung lũng của khiêm tốn. Nhưng nếu bạn bắt gặp
vị Phật bạn không thể nói ông ấy là người khiêm tốn
được, bạn không thể nói ông ấy là người bản ngã
được. Ông ấy đơn giản hiện hữu. Ông ấy đã không
vứt bỏ đỉnh cho tới thung lũng. Ông ấy đã chỉ đi tới
đất bằng. Đó là một trong những điều khó hiểu nhất.
Một Jesus là không khiêm tốn theo nghĩa như các
thánh khác khiêm tốn. Một Jesus không là người bản
ngã theo nghĩa mọi người là bản ngã. Ông ấy đơn
giản không biết bản ngã là gì và khiêm tốn là gì: ông
ấy đã vứt bỏ cái nhị nguyên đó. Ông ấy đơn giản hiện
hữu, và ông ấy đáp ứng từ hiện hữu của mình. Đôi khi
ông ấy sẽ có vẻ rất bản ngã với bạn; đó là diễn giải
của bạn. Đôi khi ông ấy có vẻ rất khiêm tốn với bạn;
điều đó nữa cũng là diễn giải của bạn.
Chẳng hạn: người Ki tô giáo sẽ nói về những câu
chuyện mà trong đó Jesus có vẻ rất khiêm tốn - rằng
ông ấy chạm và lau chân cho đệ tử của mình... khiêm
tốn thế. Nhưng họ tránh vài điều trong đó ông ấy
không có vẻ khiêm tốn vậy. Ông ấy đã đuổi những kẻ
cho vay lãi ra khỏi ngôi đền bằng roi trong tay. Bằng
cách nào đó, họ né tránh câu chuyện này - bởi vì ở đó
ông ấy đã chẳng khiêm tốn chút nào. Ông ấy đã trong
cơn cuồng nộ. Ông ấy đã là người nổi dậy, nhà cách
mạng.
Thực tế, ông ấy không khiêm tốn cũng chẳng bản
ngã.
Cùng điều này cũng đúng cho tất cả những người
đã đạt tới. Krishna đã làm việc như người đánh xe cho
Arjuna: đó là khiêm tốn của ông ấy. Người Hindu nói
về điều đó nhiều lắm "Khiêm tốn làm sao". Người
chống Hindu sẽ không nói về điều đó. Họ sẽ nói,
"Bản ngã làm sao. Ông ấy nói với Arjuna, 'Quên mọi
tôn giáo đi và tới dưới chân ta'. Bản ngã làm sao. Anh
còn có thể hỏi điều gì hơn nữa? Đây là đỉnh của bản
ngã." Nhưng thực tế ông ấy chẳng là cả hai. Nếu tình
huống đòi hỏi, ông ấy có thể trở thành người đánh xe
cho đệ tử riêng của mình. Ông ấy có thể dẫn ngựa ra
sông, tắm cho chúng, cọ rửa cho chúng, xoa bóp cho
chúng... ngựa là đệ tử của ông ấy. Và thế rồi trong
khoảnh khắc khác ông ấy có thể nói với Arjuna,
"Quên tất cả điều ta đã nói. Vứt bỏ mọi tôn giáo, vứt
bỏ mọi ý thức hệ. Tới dưới chân ta." Bây giờ, điều
này rất ngược đời.
Nhưng con người của nhận biết thực thì không
khiêm tốn không bản ngã. Với bất kì tình huống này,
người đó đều đáp ứng một cách toàn bộ.
Nhớ lấy, Phật nói: Bất kì khi nào ông đang ở giữa,
đấy là ông đang trên Đạo. Bất kì khi nào ông nghiêng
sang phải hay sang trái, ônh đang đi lạc lối.
'Giữ ở giữa' là điều ông ấy ngụ ý bởi việc bình
thản, bởi vì bất kì khi nào bạn nghiêng sang trái hay
sang phải, bạn đều trở nên bị kích động. Cho nên
đừng bao giờ là người cực tả và đừng bao giờ là
người cực hữu. Ở giữa và bạn sẽ không ở đâu cả, và bạn sẽ là không ai cả - bởi vì ở giữa, tất cả mọi kích
động đều mất. Người ta đơn giản bình thản.
Và đó là điều ông ấy ngụ ý bởi 'là thuần khiết'.
Khi bạn nghiêng sang trái, bên trái làm biến chất bạn.
Khi bạn nghiêng sang phải, bên phải làm biến chất
bạn. Khi bạn không nghiêng ngửa, khi bạn đơn giản ở
giữa, chẳng cái gì làm biến chất bạn. Bạn trở thành
không thể bị biến chất. Bạn là thuần khiết.
Do đó, bình thản và thuần khiết, và đạo sẽ đạt
được.
Tôi bảo bạn rằng đứa trẻ học 'của tôi', 'cho tôi',
'người', 'tôi'. Bây giờ, bạn có thể đi sang điều đối lập
và bạn có thể nói, "Cái không là của tôi." Và bạn có
thể nói rằng không có bản ngã trong bạn, và bạn
không sở hữu cái gì; 'cho tôi' không tồn tại, và bạn
cũng là một dạng thiêng liêng, một dạng của cái vô
hình dạng. Nhưng nếu đó chỉ là việc đi sang cực đoan
kia thế thì chẳng cái gì có được. Nếu đó là hiểu biết từ
chỗ giữa, thế thì cái gì đó là thu được. Nhưng từ chỗ
giữa bạn sẽ không nói, "Tôi không sở hữu cái gì” -
nhớ điều đó. Điều này là có thể chỉ nếu bạn vẫn nghĩ
rằng cái gì đó có thể được sở hữu. Một ngày nào đó
bạn nghĩ bạn có thể sở hữu, ngày khác bạn phủ nhận
và bạn nói, "Tôi không sở hữu gì cả. Tôi từ bỏ."
Nhưng trong từ bỏ của bạn có sở hữu rồi. Làm sao
bạn có thể từ bỏ thế giới nếu bạn không sở hữu nó?
Con người thực sự của hiểu biết không bao giờ từ
bỏ cái gì. Người đó đơn giản hiểu: "Chẳng có cái gì
để sở hữu, cho nên làm sao tôi có thể từ bỏ được?"
Người ta nói về một hoàng đế Nhật Bản là ông ấy
đã từ bỏ vương quốc của mình và đi tới một Thiền sư.
Ông ấy cúi lạy dưới chân thầy và nói cực kì khiêm
tốn, "Tôi đã từ bỏ vương quốc."
Thiền sư nói, "Thế thì tốt hơn cả là ông đi và sở
hữu nó lần nữa, giành lấy nó lần nữa đi. Tốt hơn cả là
ông đi đi."
Hoàng đế rất bối rối. Ông ấy nói, "Thầy ngụ ý gì?
Tôi đã thực sự từ bỏ nó."
Thầy nói, "Nếu ông đã thực sự từ bỏ nó, thế thì
làm sao ông có thể nói rằng ông đã từ bỏ nó? - bởi vì
từ bỏ thực chính là hiểu biết đơn giản rằng không cái
gì thuộc vào ông cả. Chẳng có gì để mà từ bỏ."
Từ bỏ là có thể chỉ nếu, ngay chỗ đầu tiên, bạn
chấp nhận rằng sở hữu là có thể. Không gắn bó là có
thể chỉ nếu, ngay chỗ đầu tiên, bạn chấp nhận rằng
gắn bó là có thể. Con người thực của hiểu biết đi tới
biết rằng gắn bó là không thể có. Gắn bó là giả. Sở
hữu là giả; điều đó là không thể được. Không thể nào
sở hữu được. Thế thì phỏng có ích gì mà từ bỏ?
Phỏng có ích gì mà trở thành không gắn bó? Gắn bó
đơn giản biến mất. Nếu gắn bó biến mất và không còn
gì đằng sau, thậm chí không có không gắn bó, ý tưởng
về không gắn bó, thế thì bạn là thuần khiết và bình
thản. Nếu gắn bó biến mất nhưng bây giờ nó được
thay thế bằng không gắn bó, bạn đã đi sang cực đoan
khác. Khi bạo hành biến mất, không phải là có không
bạo hành trong bạn đâu. Phỏng có ích gì mà không bạo hành? Bạo hành đã biến mất, và cả không bạo
hành cùng nó. Nhị nguyên đi đôi với nhau. Bây giờ
bỗng nhiên bạn bị bỏ lại một mình, thuần khiết. Nếu
bạn đi vào cái này, bạn đi vào cả cái kia nữa.
"Này, anh thanh niên, tôi hiểu anh muốn trở thành
con rể tôi," người bố nói với anh bạn trai của con gái
ông ta, Mulla Nasruddin.
"Không thưa bác, không đích xác vậy đâu,"
Nasruddin đáp. "Nhưng nếu cháu cưới con gái bác,
cháu thấy chẳng có cách nào cháu có thể thoát ra khỏi
điều đó."
Người này đã hỏi, "Này, anh thanh niên, tôi hiểu
anh muốn trở thành con rể tôi"; và Nasruddin nói,
"Không thưa bác, không đích xác vậy đâu. Nhưng nếu
cháu cưới con gái bác, cháu thấy chẳng có cách nào
cháu có thể thoát ra khỏi điều đó!"
Nếu bạn cưới con gái của ai đó bạn trở thành con
rể nữa, đồng thời. Không thể chọn riêng một trong hai
điều đó được; chúng đi cùng nhau. Thực tế gọi chúng
là hai là không đúng. Chúng là một hiện tượng nhưng
được nhìn từ hai phía.
Khi bạn trở nên bạo hành, không bạo hành bước
vào. Khi bạn trở thành không bạo hành, bạo hành đợi
đằng sau. Chúng đi cùng nhau. Mọi nhị nguyên đều đi
cùng nhau. Khi dục biến mất, vô dục cũng biến mất -
nhớ điều đó. Nếu bạn bắt đầu tuyên bố rằng bạn đã trở
nên vô dục thế thì hoạt động dục vẫn tồn tại, và bất kì
ngày nào nó đều có thể bùng nổ. Bạn đang ngồi trên
núi lửa. Khi dục đã mất đi thì nghĩa của vô dục là gì?
Thế thì nó đơn giản vô nghĩa, từ này là vô nghĩa. 'Vô
dục' có thể mang nghĩa chỉ trong tham chiếu tới dục.
Phật nói: Khi cả hai nhị nguyên đều mất đi, ông
đơn giản ở giữa - im lặng, bình thản, thuần khiết. Đạo
được đạt tới. Đạo là Trung Đạo.
Cuối cùng, để cho bạn bao giờ cũng nhớ tới nó,
để tôi cô đọng toàn thể vấn đề trong một câu: Bất kì
khi nào bạn mệt mỏi, nản chí, bị kết thúc với cái gì
đó, vẫn còn tỉnh táo đi - tâm trí sẽ có khuynh hướng đi
sang cái đối lập.
Khi dây quá chùng, tâm trí sẽ có khuynh hướng
làm chúng quá căng - và ở đó bạn lỡ. Và khi tâm trí
quá căng, sợi dây quá căng, một ngày nào đó bạn sẽ bị
mệt mỏi về điều đó nữa bởi vì âm nhạc sẽ không thoát
ra từ nó. Thế thì tâm trí sẽ có khuynh hướng lại làm
cho chúng chùng ra nữa.
Đây là cách cuộc sống cứ diễn ra... kiếp này tiếp
kiếp khác, bạn cứ chuyển từ cực này sang cực khác.
Bạn trở thành quả bóng - bị đá từ bên này sang bên
kia, bị đá từ bên kia sang bên này. Nếu bạn muốn
thoát ra khỏi trò chơi này, trò chơi luân hồi này, trò
chơi của thế giới này, thế thì ở vào giữa. Bất kì khi
nào một khoảnh khắc tới để quyết định, rất tỉnh táo;
đừng bao giờ đi sang cực đối lập kia. Nhớ vẫn còn ở
giữa.
Nếu bạn có thể học vẫn còn ở giữa thì bạn đã học
được tất cả mọi điều có đó để học, và tất cả mọi điều đáng học. Đạo của Phật được gọi là majjhim nikai,
'Trung Đạo'. Ông ấy là một trong những người tìm
kiếm xuyên thấu nhất về chân lí. Ông ấy đã làm cái gì
đó rất sâu sắc, đã khám phá ra cái gì đó mà bạn có thể
dùng được. Nó không phải là nghi lễ, nó không phải
là lời cầu nguyện. Nó là cái gì đó liên quan tới nhận
biết của bạn. Toàn thể lĩnh vực công trình của ông ấy
là nhận biết.
Cho nên vẫn còn ở giữa đi. Nếu bạn đã ăn quá
nhiều, đừng bắt đầu nhịn ăn. Điều đó rất đơn giản. Đó
là cách mọi người vẫn cứ làm. Tôi biết nhiều người:
hai hay ba tháng đầu họ sẽ nhịn ăn và ăn kiêng, và thế
rồi họ sẽ xô tới thức ăn. Và thế rồi họ sẽ trở nên bị ám
ảnh; trong hai hay ba tháng họ sẽ ăn quá nhiều. Lần
nữa, bất kì cái gì mà nhịn ăn đã có tác dụng cho thân
thể họ đều bị hoàn tác lại. Lần nữa họ sẵn sàng nhịn
ăn. Theo cách này họ cứ tiếp diễn - quả bóng bị đá từ
đây qua đó.
Thức ăn đúng, số lượng đúng, được ăn với nhận
biết, là đủ. Bạn không cần ăn quá nhiều, bạn không
cần nhịn.
Nhớ tới chỗ giữa và bạn bao giờ cũng đúng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét