Thông điệp yêu thương từ MẶT TRỜI TÂM THỨC

CÁC BẬC THẦY CHỨNG NGỘ CỦA THẾ KỶ 20 -21

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

XỨ SỞ GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Quảng cáo online

Chữ chạy

Chào mừng bạn đến với blog MẶT TRỜI TÂM THỨC Email : mattroitamthuc@yahoo.com - Phone 0903070348

Quảng cáo thay đổi

Truyện cười

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐANG ĐẾN VỚI PHÚT GIÂY HIỆN TẠI

Giây phút hiện tại

Sống trong giây phút hiện tại là một phép lạ. Phép lạ không phải là để đi trên mặt nước.
Phép lạ là đi trên trên hành tinh xanh xinh đẹp này trong trong giây phút hiện tại, biết trân quý sự bình an và vẻ đẹp có sẵn ngay bây giờ.

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Thân thể là linh hồn thấy được, còn linh hồn là thân thể không thấy được.




Thân thể là linh hồn thấy được, còn linh hồn là
thân thể không thấy được. Thân thể và linh hồn
là không phân chia ở đâu cả, chúng là các bộ
phận của nhau, chúng là các bộ phận của cùng một
toàn thể. Bạn phải chấp nhận thân thể, bạn phải yêu
mến thân thể, bạn phải kính trọng thân thể, bạn phải
biết ơn thân thể mình...

Thân thể là cơ chế phức tạp nhất trong sự tồn tại
- nó đơn giản là điều kì diệu!
Và người được ân huệ là những người ngạc nhiên
về điều đó.
Bắt đầu cảm thấy ngạc nhiên với thân thể riêng
của mình, bởi vì nó là gần với bạn nhất. Tự nhiên gần
gũi nhất đã tiếp cận tới bạn, sự tồn tại gần gũi nhất
đã tới với bạn, là qua thân thể. Trong thân thể bạn là
nước của đại dương, trong thân thể bạn là lửa của
các vì sao và mặt trời, trong thân thể bạn là không
khí, thân thể bạn được làm ra từ đất.
Thân thể bạn đại diện cho toàn thể sự tồn tại, tất
cả các yếu tố. Và đó thật là sự biến đổi làm sao! Sự
biến thái làm sao! Nhìn đất, và rồi nhìn vào thân thể
bạn, sự biến đổi làm sao, và bạn chưa bao giờ lấy làm
kinh ngạc về điều đó! Cát bụi đã trở thành thiêng
liêng - còn bí ẩn lớn lao nào hơn có thể có nữa đây?
Bạn còn chờ đợi phép màu nào lớn lao hơn nữa đây?
Và bạn thấy phép màu này đang xảy ra hàng ngày. Từ
bùn xuất hiện hoa sen... và từ cát bụi đã nảy sinh thân
thể tuyệt đẹp của chúng ta.
MỘT NỀN GIÁO DỤC MỚI TOÀN BỘ là cần
có trong thế giới này, nơi về nền tảng mọi người đều
được đưa vào im lặng của trái tim - nói cách khác, vào
thiền - và nơi mọi người phải được chuẩn bị để từ bi
với thân thể riêng của mình. Bởi vì chừng nào bạn
còn chưa từ bi với thân thể riêng của mình, bạn không
thể từ bi được với bất kì thân thể nào khác. Nó là một
cơ thể sống, và nó đã không làm hại gì bạn cả. Nó đã
liên tục phục vụ từ khi bạn được thụ thai và nó sẽ còn
phục vụ cho tới cái chết của bạn. Nó sẽ làm mọi điều
bạn muốn làm, ngay cả điều không thể được, và nó sẽ
không phải là không nghe lời bạn.
Không thể nào quan niệm nổi việc tạo ra một cơ
chế như vậy, biết nghe lời thế và trí huệ thế. Nếu bạn
trở nên nhận biết về tất cả các chức năng của thân thể
mình, bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn chưa bao giờ nghĩ về
điều thân thể mình đã từng làm. Nó kì diệu thế, bí ẩn
thế. Nhưng bạn lại chưa bao giờ nhìn vào nó cả. Bạn
chưa bao giờ bận tâm làm quen với thân thể riêng của
mình và bạn giả vờ yêu người khác sao? Bạn không

Thân thể là bí ẩn vĩ đại nhất trong toàn thể sự tồn
tại. Bí ẩn này cần được yêu, bí ẩn của nó và sự vận
hành của nó cần được truy tìm thân thiết.
Các tôn giáo không may đã tuyệt đối chống lại
thân thể. Nhưng điều đó cho manh mối, chỉ dẫn dứt
khoát rằng nếu một người biết được trí huệ của thân
thể và bí ẩn của thân thể, người đó sẽ không bao giờ
bận tâm tới tu sĩ hay về Thượng đế. Người đó sẽ tìm
thấy bí ẩn lớn lao nhất bên trong bản thân mình, và
bên trong bí ẩn của thân thể là chính điện thờ của tâm
thức bạn.
Một khi bạn đã trở nên nhận biết về tâm thức của
mình, về bản thể của mình, không có Thượng đế nào
trên bạn cả. Chỉ người như vậy mới có thể mang tính
kính trọng với người khác, với các sinh linh khác, bởi
vì tất cả họ đều bí ẩn như bản thân người đó - những
cách diễn đạt khác nhau, muôn mầu muôn vẻ, điều
làm cho cuộc sống thành phong phú. Và khi một
người đã tìm ra tâm thức bên trong, người đó đã tìm
ra chìa khoá cho điều tối thượng.
Bất kì giáo dục nào không dạy cho bạn yêu thân
thể mình, không dạy cho bạn từ bi với thân thể mình,
không dạy cho bạn cách đi vào trong bí ẩn của nó, sẽ
không có khả năng dạy cho bạn cách đi vào trong tâm
thức riêng của mình. Thân thể là cánh cửa - thân thể
là bàn đạp, và bất kì giáo dục nào không động chạm
tới chủ thể của thân thể và tâm thức đều không chỉ
không đầy đủ tuyệt đối, nó còn hoàn toàn có hại bởi
vì nó sẽ cứ mang tính phá huỷ. Chỉ có việc nở hoa của
tâm thức bên trong bạn mới ngăn cản bạn khỏi mang
tính phá huỷ. Và tâm thức đó cho bạn sự thôi thúc vô
cùng để sáng tạo - để sáng tạo cái đẹp hơn trong thế
giới này, để sáng tạo sự tiện nghi hơn trong thế giới
này.
Con người cần thân thể tốt hơn, thân thể mạnh
khoẻ hơn. Con người cần là sinh linh ý thức hơn, tỉnh
táo hơn. Con người cần đủ loại tiện nghi và xa hoa mà
cuộc sống sẵn sàng chuyển giao. Sự tồn tại sẵn sàng
cho bạn thiên đường ở đây bây giờ, nhưng bạn cứ trì
hoãn nó - nó bao giờ cũng sau cái chết.
Ở Sri Lanka một nhà huyền môn lớn sắp chết...
Ông ấy được hàng nghìn người tôn kính và họ đã tụ
tập quanh ông ấy. Ông ấy mở mắt ra: vài hơi thở nữa
sẽ đưa ông ấy sang bờ bên kia, và thế rồi ông ấy sẽ ra
đi, và ra đi mãi mãi. Mọi người đều nóng lòng nghe
lời nói cuối cùng của ông ấy.
Ông già này nói, "Ta đã từng dạy các ông trong cả
đời ta về phúc lạc, cực lạc, về thiền. Bây giờ ta sắp
sang bờ bên kia đây. Ta sẽ không còn sẵn đấy thêm
nữa. Các ông đã nghe ta, nhưng các ông chưa bao giờ
thực hành điều ta vẫn thường bảo các ông. Các ông
bao giờ cũng trì hoãn. Nhưng bây giờ chẳng có ích gì
mà trì hoãn cả, ta sắp đi đây. Có ai sẵn lòng đi cùng ta
không?"
Im lặng lớn trùm lên, đến cái kim rơi cũng nghe
thấy được. Mọi người nhìn nhau, cứ nghĩ “Có lẽ
người này, người đã là đệ tử bốn mươi năm... người
đó có thể sẵn sàng.” Nhưng người đó lại đang nhìn
vào người khác - chẳng ai đứng lên cả. Từ ngay sau
|
|
5 03/03/2010 - 1/ 3 6
phòng, một người giơ tay lên. Nhà huyền môn nghĩ,
"Ít nhất, một người đủ dũng cảm đây."
Nhưng người đó nói, "Xin cho tôi được làm rõ
chuyện với thầy vì sao tôi lại không đứng dậy, tôi chỉ
giơ tay lên thôi. Tôi muốn biết cách sang tới bờ bên
kia, bởi vì hôm nay tất nhiên tôi còn chưa sẵn sàng.
Có nhiều điều vẫn chưa hoàn thành: Khách tới thăm,
con trai nhỏ sắp xây dựng gia đình, và ngày này tôi
không thể đi được. Thầy nói từ bờ bên kia, thầy
không thể quay lại được, nhưng một ngày nào đó, một
ngày nào đó chắc chắn, tôi sẽ tới và gặp thầy. Nếu
thầy có thể giải thích cho chúng tôi thêm một lần nữa
- mặc dầu thầy đã từng giải thích trong suốt cả đời
thầy rồi, nói thêm một lần nữa - làm sao đạt tới bờ
bên kia? Nhưng xin lưu tâm rằng tôi không sẵn sàng
đi ngay bây giờ. Tôi chỉ muốn làm tươi lại kí ức của
mình để cho khi thời điểm đúng tới..."
Thời điểm đúng đó không bao giờ tới cả.
Đấy không phải là câu chuyện về người đáng
thương đó đâu, đây là câu chuyện của hàng triệu
người, của gần như mọi người. Họ tất cả đều chờ đợi
thời điểm đúng, chòm sao đúng... Ho đi xem bói, đi
tới người xem tay, hỏi những cách khác nhau về cái gì
sẽ xảy ra vào ngày mai.
Ngày mai chẳng bao giờ xảy ra cả - nó chưa bao
giờ xảy ra. Nó đơn giản là chiến lược trì hoãn ngu
xuẩn.
Cái xảy ra bao giờ cũng hôm nay.
Một loại giáo dục đúng sẽ dạy cho mọi người
sống ở đây bây giờ, tạo ra thiên đường của trái đất
này. Đừng đợi cái chết tới, và đừng khổ cho tới khi
cái chết chấm dứt khổ của bạn. Để cái chết thấy bạn
đang nhảy múa và vui vẻ và đằm thắm.
Một kinh nghiệm kì lạ là nếu một người có thể
sống cuộc sống của mình dường như người đó đã ở
trên thiên đường, cái chết không thể lấy được gì từ
kinh nghiệm của người đó. Cách tiếp cận của tôi là
dạy cho bạn đây là thiên đường, không có thiên
đường nào ở đâu khác cả, và cũng chẳng cần chuẩn bị
gì để hạnh phúc. Không kỉ luật nào là cần để yêu mến;
chỉ chút ít tỉnh táo, chỉ chút ít thức tỉnh, chút ít hiểu
biết thôi. Và nếu giáo dục không thể cho bạn chút ít
hiểu biết này, nó không phải là giáo dục.



Thân thể là linh hồn thấy được, còn linh hồn là
thân thể không thấy được. Thân thể và linh hồn
là không phân chia ở đâu cả, chúng là các bộ
phận của nhau, chúng là các bộ phận của cùng một
toàn thể. Bạn phải chấp nhận thân thể, bạn phải yêu
mến thân thể, bạn phải kính trọng thân thể, bạn phải
biết ơn thân thể mình...

Thân thể là cơ chế phức tạp nhất trong sự tồn tại
- nó đơn giản là điều kì diệu!
Và người được ân huệ là những người ngạc nhiên
về điều đó.
Bắt đầu cảm thấy ngạc nhiên với thân thể riêng
của mình, bởi vì nó là gần với bạn nhất. Tự nhiên gần
gũi nhất đã tiếp cận tới bạn, sự tồn tại gần gũi nhất
đã tới với bạn, là qua thân thể. Trong thân thể bạn là
nước của đại dương, trong thân thể bạn là lửa của
các vì sao và mặt trời, trong thân thể bạn là không
khí, thân thể bạn được làm ra từ đất.
Thân thể bạn đại diện cho toàn thể sự tồn tại, tất
cả các yếu tố. Và đó thật là sự biến đổi làm sao! Sự
biến thái làm sao! Nhìn đất, và rồi nhìn vào thân thể
bạn, sự biến đổi làm sao, và bạn chưa bao giờ lấy làm
kinh ngạc về điều đó! Cát bụi đã trở thành thiêng
liêng - còn bí ẩn lớn lao nào hơn có thể có nữa đây?
Bạn còn chờ đợi phép màu nào lớn lao hơn nữa đây?
Và bạn thấy phép màu này đang xảy ra hàng ngày. Từ
bùn xuất hiện hoa sen... và từ cát bụi đã nảy sinh thân
thể tuyệt đẹp của chúng ta.
MỘT NỀN GIÁO DỤC MỚI TOÀN BỘ là cần
có trong thế giới này, nơi về nền tảng mọi người đều
được đưa vào im lặng của trái tim - nói cách khác, vào
thiền - và nơi mọi người phải được chuẩn bị để từ bi
với thân thể riêng của mình. Bởi vì chừng nào bạn
còn chưa từ bi với thân thể riêng của mình, bạn không
thể từ bi được với bất kì thân thể nào khác. Nó là một
cơ thể sống, và nó đã không làm hại gì bạn cả. Nó đã
liên tục phục vụ từ khi bạn được thụ thai và nó sẽ còn
phục vụ cho tới cái chết của bạn. Nó sẽ làm mọi điều
bạn muốn làm, ngay cả điều không thể được, và nó sẽ
không phải là không nghe lời bạn.
Không thể nào quan niệm nổi việc tạo ra một cơ
chế như vậy, biết nghe lời thế và trí huệ thế. Nếu bạn
trở nên nhận biết về tất cả các chức năng của thân thể
mình, bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn chưa bao giờ nghĩ về
điều thân thể mình đã từng làm. Nó kì diệu thế, bí ẩn
thế. Nhưng bạn lại chưa bao giờ nhìn vào nó cả. Bạn
chưa bao giờ bận tâm làm quen với thân thể riêng của
mình và bạn giả vờ yêu người khác sao? Bạn không

Thân thể là bí ẩn vĩ đại nhất trong toàn thể sự tồn
tại. Bí ẩn này cần được yêu, bí ẩn của nó và sự vận
hành của nó cần được truy tìm thân thiết.
Các tôn giáo không may đã tuyệt đối chống lại
thân thể. Nhưng điều đó cho manh mối, chỉ dẫn dứt
khoát rằng nếu một người biết được trí huệ của thân
thể và bí ẩn của thân thể, người đó sẽ không bao giờ
bận tâm tới tu sĩ hay về Thượng đế. Người đó sẽ tìm
thấy bí ẩn lớn lao nhất bên trong bản thân mình, và
bên trong bí ẩn của thân thể là chính điện thờ của tâm
thức bạn.
Một khi bạn đã trở nên nhận biết về tâm thức của
mình, về bản thể của mình, không có Thượng đế nào
trên bạn cả. Chỉ người như vậy mới có thể mang tính
kính trọng với người khác, với các sinh linh khác, bởi
vì tất cả họ đều bí ẩn như bản thân người đó - những
cách diễn đạt khác nhau, muôn mầu muôn vẻ, điều
làm cho cuộc sống thành phong phú. Và khi một
người đã tìm ra tâm thức bên trong, người đó đã tìm
ra chìa khoá cho điều tối thượng.
Bất kì giáo dục nào không dạy cho bạn yêu thân
thể mình, không dạy cho bạn từ bi với thân thể mình,
không dạy cho bạn cách đi vào trong bí ẩn của nó, sẽ
không có khả năng dạy cho bạn cách đi vào trong tâm
thức riêng của mình. Thân thể là cánh cửa - thân thể
là bàn đạp, và bất kì giáo dục nào không động chạm
tới chủ thể của thân thể và tâm thức đều không chỉ
không đầy đủ tuyệt đối, nó còn hoàn toàn có hại bởi
vì nó sẽ cứ mang tính phá huỷ. Chỉ có việc nở hoa của
tâm thức bên trong bạn mới ngăn cản bạn khỏi mang
tính phá huỷ. Và tâm thức đó cho bạn sự thôi thúc vô
cùng để sáng tạo - để sáng tạo cái đẹp hơn trong thế
giới này, để sáng tạo sự tiện nghi hơn trong thế giới
này.
Con người cần thân thể tốt hơn, thân thể mạnh
khoẻ hơn. Con người cần là sinh linh ý thức hơn, tỉnh
táo hơn. Con người cần đủ loại tiện nghi và xa hoa mà
cuộc sống sẵn sàng chuyển giao. Sự tồn tại sẵn sàng
cho bạn thiên đường ở đây bây giờ, nhưng bạn cứ trì
hoãn nó - nó bao giờ cũng sau cái chết.
Ở Sri Lanka một nhà huyền môn lớn sắp chết...
Ông ấy được hàng nghìn người tôn kính và họ đã tụ
tập quanh ông ấy. Ông ấy mở mắt ra: vài hơi thở nữa
sẽ đưa ông ấy sang bờ bên kia, và thế rồi ông ấy sẽ ra
đi, và ra đi mãi mãi. Mọi người đều nóng lòng nghe
lời nói cuối cùng của ông ấy.
Ông già này nói, "Ta đã từng dạy các ông trong cả
đời ta về phúc lạc, cực lạc, về thiền. Bây giờ ta sắp
sang bờ bên kia đây. Ta sẽ không còn sẵn đấy thêm
nữa. Các ông đã nghe ta, nhưng các ông chưa bao giờ
thực hành điều ta vẫn thường bảo các ông. Các ông
bao giờ cũng trì hoãn. Nhưng bây giờ chẳng có ích gì
mà trì hoãn cả, ta sắp đi đây. Có ai sẵn lòng đi cùng ta
không?"
Im lặng lớn trùm lên, đến cái kim rơi cũng nghe
thấy được. Mọi người nhìn nhau, cứ nghĩ “Có lẽ
người này, người đã là đệ tử bốn mươi năm... người
đó có thể sẵn sàng.” Nhưng người đó lại đang nhìn
vào người khác - chẳng ai đứng lên cả. Từ ngay sau
|
|
5 03/03/2010 - 1/ 3 6
phòng, một người giơ tay lên. Nhà huyền môn nghĩ,
"Ít nhất, một người đủ dũng cảm đây."
Nhưng người đó nói, "Xin cho tôi được làm rõ
chuyện với thầy vì sao tôi lại không đứng dậy, tôi chỉ
giơ tay lên thôi. Tôi muốn biết cách sang tới bờ bên
kia, bởi vì hôm nay tất nhiên tôi còn chưa sẵn sàng.
Có nhiều điều vẫn chưa hoàn thành: Khách tới thăm,
con trai nhỏ sắp xây dựng gia đình, và ngày này tôi
không thể đi được. Thầy nói từ bờ bên kia, thầy
không thể quay lại được, nhưng một ngày nào đó, một
ngày nào đó chắc chắn, tôi sẽ tới và gặp thầy. Nếu
thầy có thể giải thích cho chúng tôi thêm một lần nữa
- mặc dầu thầy đã từng giải thích trong suốt cả đời
thầy rồi, nói thêm một lần nữa - làm sao đạt tới bờ
bên kia? Nhưng xin lưu tâm rằng tôi không sẵn sàng
đi ngay bây giờ. Tôi chỉ muốn làm tươi lại kí ức của
mình để cho khi thời điểm đúng tới..."
Thời điểm đúng đó không bao giờ tới cả.
Đấy không phải là câu chuyện về người đáng
thương đó đâu, đây là câu chuyện của hàng triệu
người, của gần như mọi người. Họ tất cả đều chờ đợi
thời điểm đúng, chòm sao đúng... Ho đi xem bói, đi
tới người xem tay, hỏi những cách khác nhau về cái gì
sẽ xảy ra vào ngày mai.
Ngày mai chẳng bao giờ xảy ra cả - nó chưa bao
giờ xảy ra. Nó đơn giản là chiến lược trì hoãn ngu
xuẩn.
Cái xảy ra bao giờ cũng hôm nay.
Một loại giáo dục đúng sẽ dạy cho mọi người
sống ở đây bây giờ, tạo ra thiên đường của trái đất
này. Đừng đợi cái chết tới, và đừng khổ cho tới khi
cái chết chấm dứt khổ của bạn. Để cái chết thấy bạn
đang nhảy múa và vui vẻ và đằm thắm.
Một kinh nghiệm kì lạ là nếu một người có thể
sống cuộc sống của mình dường như người đó đã ở
trên thiên đường, cái chết không thể lấy được gì từ
kinh nghiệm của người đó. Cách tiếp cận của tôi là
dạy cho bạn đây là thiên đường, không có thiên
đường nào ở đâu khác cả, và cũng chẳng cần chuẩn bị
gì để hạnh phúc. Không kỉ luật nào là cần để yêu mến;
chỉ chút ít tỉnh táo, chỉ chút ít thức tỉnh, chút ít hiểu
biết thôi. Và nếu giáo dục không thể cho bạn chút ít
hiểu biết này, nó không phải là giáo dục.

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Chúng ta trong cái đó!


Trong khoang tim, nằm bên trong thân thể, những kiếp
sống vĩnh hằng không sinh.
Đất là thân thể của nó, nó cư ngụ trong đất nhưng đất
không biết về nó.
Nước là thân thể của nó, nó cư ngụ trong nước nhưng
nước không biết về nó.
Ánh sáng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong ánh sáng
nhưng ánh sáng không biết về nó.
Không khí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong không khí
nhưng không khí không biết về nó.
Bầu trời là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bầu trời
nhưng bầu trời không biết về nó.
Tâm trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí nhưng
tâm trí không biết về nó.
Trí năng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong trí năng
nhưng trí năng không biết về nó.
Bản ngã là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bản ngã
nhưng bản ngã không biết về nó.
Tâm trí lí trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí
lí trí nhưng tâm trí lí trí không biết về nó.
Cái không biểu hiện là thân thể của nó, nó cư ngụ trong
cái không biểu hiện nhưng cái không biểu hiện không
biết về nó.
Cái không huỷ diệt được là thân thể của nó, nó cư ngụ
trong cái không huỷ diệt được nhưng cái không huỷ diệt
được không biết về nó.
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là một thượng đế
thiêng liêng Narayana - người nâng đỡ cho mọi con
người.
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Cá trong biển vẫn còn là kẻ xa lạ với biển cả, không phải
bởi vì biển xa với cá mà bởi vì biển quá gần. Bất kì cái gì ở
khoảng cách xa đều được thấy nhưng cái ở rất gần trở thành
vô hình với mắt. Không khó biết khoảng cách, khó biết cái ở
gần. Và không thể nào biết được rằng cái nào là cái gần nhất
của cái gần. Để cho điểu này được hiểu đúng đi, bởi vì nó là
cái gì đó phải được biết cho cuộc hành trình bên trong.
Mọi người hỏi tìm Thượng đế ở đâu. Họ hỏi, “Làm sao
chúng ta quên rằng cái nào đang bị che giấu bên trong? Làm
sao cái đã bị tách ra ở gần chúng ta hơn là nhịp tim chúng ta,
ở gần ta hơn nhịp thở của chúng ta? Làm sao cái đã bị quên
lãng là bản thân tôi?” Và câu hỏi của họ dường như là logic.
Dường như là điều họ đang hỏi có tính hợp lệ và rằng điều
đó không nên xảy ra giống thế này.
Nếu tôi không thể nào biết ngay cả cái đang bị giấu kín
trong tôi, nếu ngay cả điều đó tôi vẫn còn chưa biết, thế thì
chúng ta sẽ biết ai khác, chúng ta sẽ nhận ra ai khác? Khi
ngay cả điều gần gũi cũng còn trượt khỏi tay thì làm sao
chúng ta có thể đạt tới cái ở xa được? Và không phải nó chỉ
tới gần với chúng ta hôm nay; nó bao giờ cũng ở gần chúng
ta, từ thời vô tận. Thậm chí chúng ta chưa từng tách biệt hay
xa rời khỏi nó dù chỉ một khoảnh khắc. Dù chúng ta đi đâu
nó cũng đi cùng chúng ta; bất kì chỗ nào chúng ta đi, nó đều
đi cùng chúng ta. Nó du hành cùng chúng ta tới địa ngục
cũng như tới cõi trời; nó bên chúng ta trong tội lỗi cũng như
trong đức hạnh. Nói rằng nó bên ta cũng chưa đúng, vì ngay
cả ‘bên ta’ cũng vẫn còn có khoảng cách. Thực tại bản thể
chúng ta và bản thể của nó là một và cùng một thứ.
Nếu điều này đúng, thế thì chính phép màu lớn lao trên
thế gian là chúng ta đã đánh mất cái ta riêng của mình - điều
dường như là không thể có được. Làm sao người ta có thể
đánh mất cái ta riêng của mình được? Không thể đánh mất
được ngay cả cái bóng của mình, và chúng ta đã đánh mất
linh hồn mình. Làm sao điều này có thể được? Nhưng điều
này đã xảy ra. Cách thức việc mất này về cái ta xảy ra, đó là
tinh hoa của kinh này. Trước khi chúng ta đi vào trong kinh,
chúng ta cần hiểu những nền tảng cơ sở của nó.
Mắt có giới hạn về tầm nhìn, một miền. Nếu một vật bên
ngoài miền đó mắt không thể thấy được. Nếu một vật nằm
bên trong miền đó nhưng quá xa về cả hai phía, thế nữa mắt
cũng không thể thấy được nó. Mắt có miền nhìn. Một vật
được đưa tới quá gần mắt không thể được thấy và nếu nó bị
đem ra quá xa nó cũng không được nhìn thấy. Bên ngoài cả
hai phía của miền nhìn nào đó, mắt không thể thấy được, thế
thì chúng là mù. Bây giờ, bạn đang gần với bản thân bạn đến
mức bạn không chỉ gần với mắt mà bạn còn ở đằng sau
chúng - và đó là vấn đề.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Nếu bạn đang đứng
trước một tấm gương, ở một khoảng cách nào đó hình ảnh
bạn rất rõ. Nếu bạn đi quá xa khỏi gương, sẽ không có hình
ảnh nữa. Nếu bạn lại quá gần gương, gần đến mức bạn chạm
mắt vào nó, thế thì bạn không thể thấy được hình ảnh mình
chút nào. Nhưng ở đây tình huống là ở chỗ bạn đang đứng
đằng sau gương; do vậy không có khả năng có bất kì hình
ảnh nào của bạn trong gương - mắt ngay phía trước và bạn ở
sau chúng.
Mắt thấy cái ở trước chúng. Làm sao mắt thấy được cái ở
sau chúng được? Tai nghe thấy cái ở bên ngoài tai. Làm sao
tai nghe được cái ở bên trong tai? Mắt mở hướng ra ngoài,
tai cũng mở hướng ra ngoài. Tôi có thể chạm vào bạn, nhưng
làm sao tôi có thể chạm vào tôi được? Và cho dù tôi có khả
năng chạm vào thân thể tôi thì đấy cũng chỉ vì tôi không là
thân thể - thân thể nữa cũng là cái khác, do đó tôi mới có thể
chạm vào nó. Nhưng làm sao tôi có thể chạm tới một người
mà là tôi, một người đang chạm? Tôi có thể chạm vào bằng
cái gì?
Do đó tay chạm vào mọi thứ nhưng không thể chạm vào
bản thân chúng. Mắt nhìn mọi thứ nhưng không thể nhìn
được bản thân chúng. Đối với cái ta riêng của chúng ta,
chúng ta mù; không một giác quan nào mà chúng ta đã biết
có thể dùng được vào đây. Chừng nào một số giác quan khác
còn chưa khai mở - con mắt nào đó có thể nhìn vào bên
trong, nhìn ra đằng sau, theo chiều ngược lại, hay tai nào đó
có thể nghe được âm thanh bên trong - chừng ấy vẫn không có cách nào để
cho chúng ta có thể thấy và nghe và biết bản
thân mình. Cho đến khi điều đó xảy ra thì không có cách nào
chạm vào bản thân chúng ta. Cái ở gần bị bỏ lỡ; cái ở gần
nhất trong tất cả là không thể nào được biết. Đây là lí do tại
sao cá không có khả năng biết biển.
Điều thứ hai: cá được sinh ra trong biển, nó sống trong
biển; biển là thức ăn của nó, biển là nước uống của nó, biển
là cuộc sống của nó, biển là mọi thứ của nó. Thế rồi nó chết
và tan biến trong biển, nhưng nó không bao giờ có được cơ
hội để biết biển vì nó không có bất kì khoảng cách nào với
biển. Tuy nhiên, cá đi tới biết biển là gì nếu ai đó tới và vớt
nó ra khỏi biển. Đây là điều rất mâu thuẫn: cá đi tới biết biển
khi nó xa khỏi biển - khi nó đang giẫy dụa để sống còn trên
cát dưới cái nóng mặt trời, thế thì nó biết biển là gì. Để biết,
khoảng cách như thế là cần thiết.
Làm sao chúng ta có thể biết được cái một, cái đã tồn tại
ngay trước khi chúng ta được sinh ra và cái sẽ còn lại ngay
cả sau khi chúng ta chết? Làm sao chúng ta có thể biết cái
một trong đó chúng ta được sinh ra và trong đó chúng ta sẽ
tan biến đi? Để biết, phân cách nào đó là điều phải có. Đó là
lí do tại sao cá không biết tới biển; chỉ khi ai đó ném nó lên
bờ thì nó mới nhận ra được.
Con người đang trong khó khăn lớn hơn. Điều thiêng
liêng là đại dương bao quanh chúng ta. Nó không có bờ nơi
bạn có thể bị vứt lên, nơi bạn có thể bắt đầu quằn quại với
nỗi đau như con cá. Vấn đề sẽ rất dễ dàng nếu có một bờ như
thế, nhưng không có bờ như thế. Thượng đế là đại dương.
Đây là lí do tại sao những người đi tìm Thượng đế như bờ
không bao giờ có khả năng tìm được ngài. Bờ có sẵn chỉ đối
với những người đã sẵn sàng đắm chìm trong đại dương của
điều thiêng liêng.
Đơn thuần không có bờ nào cho nên không có cách nào
để tìm thấy nó. Làm sao có thể có được bờ? Mọi thứ khác
đều có thể có bờ; cái toàn thể không thể có bờ - vì cái gì đó
khác được cần tới để tạo nên bờ. Bờ sông được tạo nên từ cái
gì đó khác hơn sông. Bờ của biển được tạo nên từ cái gì đó
khác hơn biển. Nhưng không có gì khác hơn Thượng đế để
có thể tạo nên bờ.
Chính ý nghĩa của Thượng đế là ở chỗ không tồn tại cái
gì khác hơn nó. Thượng đế không có nghĩa là ai đó ngồi ở
đâu đó trên trời và cai quản thế giới từ đó. Không, đấy chỉ là
chuyện cho trẻ con. Điều được ngụ ý qua Thượng đế là ở chỗ
phần tử khác hơn Thượng đế là không tồn tại. Đây là định
nghĩa khoa học về Thượng đế.
Thượng đế có nghĩa là cái toàn thể, cái toàn bộ, mọi thứ -
bất kì cái gì đang có. Cái mà không thể có bờ, vì không còn
gì khác hơn để tạo nên bờ. Do đó Thượng đế là mọi nơi;
không có bờ. Người sẵn sàng chìm là được cứu. Người cố
gắng để được cứu, bị chìm.
Chúng ta ở trong nó. Chúng ta đang trong cái chúng ta
đang cố tìm ra.
Không cần phải cầu tới người chúng ta vẫn cầu, bởi vì
thậm chí không có lỗ hổng nào để người ta phải cầu. Đó là lí
do tại sao Kabir hỏi, “Thượng đế của ông có bị điếc không
mà ông phải kêu ajan to thế?” Thượng đế ở gần đến mức
thậm chí không cần phải cầu gọi ngài. Cho dù có im lặng bên
trong, điều đó nữa cũng sẽ được ngài nghe thấy - ngài ở gần
thế. Nếu bạn phải cầu người khác, bạn phải nói. Nhưng để
cầu bản thân mình, cần gì phải nói? Người ta có thể nghe
người khác chỉ khi lời nói được phát ra, nhưng ngay cả im
lặng của riêng người ta cũng được nghe thấy.
Ở gần thế là khó khăn. Để điều này được hiểu cho đúng: chúng ta đã bỏ lỡ
chân lí bởi vì chúng ta được sinh ra trong
nó. Thịt chúng ta, tuỷ chúng ta, xương chúng ta, toàn bộ thân
thể đều được làm từ nó. Nó là hơi thở của chúng ta, cuộc
sống chúng ta, mọi thứ. Theo nhiều cách thức, qua nhiều
cánh cửa, chúng ta là tổ hợp từ nó - chúng ta là trò chơi của
nó. Không có lỗ lổng chút nào, do đó không có kí ức; do đó
việc hồi tưởng về nó trở thành không thể được. Do đó chúng
ta thấy thế giới, nhưng chân lí không được thấy chút nào.
Thế giới là ở khoảng cách, có lỗ hổng giữa hai điều này; đó
là lí do tại sao đam mê về thế giới nảy sinh.
Nghĩa của đam mê là gì? Đam mê nghĩa là ý định khép
lại khoảng cách giữa bạn và đối thể mà từ đó bạn có cảm
giác về khoảng cách. Không có đam mê về Thượng đế bởi vì
không có khoảng cách giữa bạn và Thượng đế. Hay ngay cả
ai đó dường như đi tìm Thượng đế, đấy có vẻ là một đam mê
giả. Người đó dường như đi tìm cái gì đó khác nhân danh
Thượng đế. Người đó làm Thượng đế trở thành cái cớ nhưng
người đó muốn cái gì đó khác. Có thể người đó muốn quyền
lực, có thể người đó muốn danh vọng, của cải, địa vị hay cái
gì đó khác.
Một người bạn tới và bảo tôi, “Từ lúc tôi bắt đầu cuốn
hút bản thân mình vào kinh nghiệm thiền trong trại của thầy,
tôi đã được lợi nhiều lắm.”
Tôi hỏi, “Bạn được lợi gì?”
Anh ta trả lời, “Lợi ích tâm linh không có đâu nhưng lợi
ích tài chính bắt đầu!”


Rất tốt! Đâu cần hấp tấp về tâm linh? - nó có thể để hoãn
lại dịp khác. Lợi ích tiền bạc là nhu cầu tức khắc!
Chúng ta tìm kiếm cái gì đó trong khi chúng ta gọi nó là
cái gì đó khác. Bất kì ở đâu chúng ta đã đặt nhãn Thượng đế
lên, nếu chúng ta xé bỏ cái nhãn đó đi chúng ta sẽ thấy cái gì
đó khác ẩn bên dưới. Chúng ta muốn cái gì đó khác. Người
muốn cái gì đó khác nhân danh Thượng đế là người kém
trung thực hơn người công khai tìm kiếm hoan lạc trần thế.
Chí ít còn có trung thực, đích thực. Người này nói, “Tôi
muốn tiền bạc,” người kia nói, “Tôi muốn hoan lạc dục,” rồi
người khác lại nói, “Tôi muốn địa vị, tôi muốn đáp ứng bản
ngã,” và còn có người nói, “Tôi muốn Thượng đế,” nhưng
trong ham muốn này về Thượng đế còn có cả cảm giác của
người đó rằng một ngày nào đó người đó sẽ chứng tỏ cho thế
giới rằng Thượng đế nữa cũng là trong nắm tay người đó.
Do đó, quan sát người tìm kiếm Thượng đế một cách cẩn
thận vào. Nếu bản ngã của người đó tăng lên, hiểu rằng việc
tìm kiếm của người đó vì cái gì đó khác; nếu bản ngã của
người đó giảm đi, tan tành, biến mất thì việc tìm kiếm của
người đó mới thực sự là vì Thượng đế.
Tính tự phụ của sannyasin và cái gọi là các thánh nhân
của bạn được biết rõ; thậm chí tính tự phụ của chính khách
lớn cũng không có chỗ đứng nào so với nó. Ít nhất chính việc
tìm kiếm của chính khách là để dành cho cái tự phụ đó, cho
nên nó là thoả đáng; nó là một vấn đề dứt khoát, không có gì
giả trong đó cả. Trò vui về việc là cái gì đó đặc biệt là toàn
bộ trò chơi với họ. Nhưng với thánh nhân vấn đề lại khác.
Ông ta nói rằng ông ta đang tìm kiếm việc là cái không... và
thế rồi ông ta cứ trở thành cái gì đó. Nếu hai thánh nhân gặp
nhau, họ không thể được để ngồi cùng một bục bởi vì sẽ có
vấn đề ai ngồi đâu, cao hơn hay thấp hơn. Cho nên thông
thường các thánh nhân đơn thuần không gặp lẫn nhau, vì
nhiều vấn đề nảy sinh.
Có một người bạn hơi chút lập dị - lập dị theo nghĩa là
người đó cố gắng thu xếp cho các thánh nhân gặp lẫn nhau.
Một lần người đó bảo tôi rằng có những vấn đề lớn nổi lên
bề mặt. Ngay cả vấn đề như ai nên đưa tay ra trước để chào
đón cũng phát sinh. Một tình huống khó khăn. Ngay cả phàm
nhân cũng không có vẻ trần tục đến thế. Họ có thể không
muốn đón chào ai đó bằng việc chắp tay, vậy mà họ cứ làm
điều đó. Trong tâm trí, họ có thể nghĩ rằng giá mà người kia
chắp tay trước thì tốt hơn, nhưng họ che giấu cảm giác đó;
nó có vẻ không hào hiệp. Với một số thánh nhân điều ấy
dường như là không hào hiệp - những thánh nhân đó thậm
chí còn không đáp ứng với việc chào đón, họ đã dừng ngay
việc thu xếp gặp gỡ. Họ chỉ ban ân huệ.
Người bạn đó rất bận thu xếp cuộc gặp gỡ cho thánh
nhân nọ với thánh nhân kia. Thánh nhân kia nói, “Mọi thứ
khác đều tốt cả, nhưng nếu tôi không đón chào ông ta và ông
ta lập tức lại ban cho tôi ân huệ thì điều đó sẽ làm hỏng mọi
thứ.”
Tìm kiếm của chúng ta là về cái gì đó khác, nó chẳng
liên quan gì tới tôn giáo hay với điều thiêng liêng. Chúng ta
ham muốn cái gì đó khác, chúng ta yêu cầu điều gì đó khác,
nhưng chúng ta không trung thực và chúng ta che phủ bản
thân mình bằng những yêu sách khác. Làm sao việc tìm kiếm
Thượng đế bắt đầu được? - bởi vì không có khoảng cách.
Nếu có khoảng cách, đam mê nảy sinh. Nếu có khoảng cách,
người ta cảm thấy thích chạy. Nếu có khoảng cách, ham
muốn nảy sinh để thắng. Nếu có khó khăn, bản ngã trở nên
quan tâm tới thất bại, tới thắng lợi. Nhưng chừng nào có liên
quan tới Thượng đế, không có khoảng cách. Tình huống là ở
chỗ Thượng đế đã ở cùng chúng ta.
Khi Tensing và Hillary trèo lên đỉnh Everest, niềm vui
của họ là gì? Họ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại
đứng trên đỉnh núi cao nhất. Không có gì khác trên Everest.
Nhưng người đầu tiên trên đỉnh Everest! - lịch sử đã được
tạo ra; bản ngã tìm thấy sự quan trọng trong hành động này.
Bây giờ chừng nào còn Everest trên thế giới thì chừng ấy tên
của Hillary và Tensing không thể bị xoá đi.
Có biết bao cạnh tranh để lên tới mặt trăng cho mãi tới
gần đây. Điều rất thú vị là biết chúng ta đã để lại gì trên mặt
trăng. Những người đã lên đến mặt trăng đều là người Ki tô
giáo, nhưng họ không để lại bức tượng của Jesus ở đó, họ đã
để lại lá cờ Mĩ. Nghĩ mà xem: cờ là thực, Jesus không thực!
Ngay cả ý tưởng này cũng không thoáng qua tâm trí người
Mĩ để mang ít nhất một bức tượng nhỏ của Jesus. Họ đã
mang lá cờ! Lá cờ là bản ngã thực của con người. Và nếu tên
của Jesus đôi khi còn được nhớ tới, điều đó cũng có nghĩa là
một loại lá cờ, nó không có ý nghĩa gì khác. Khi đấy là vấn
đề chiến đấu, vấn đề giương cao lá cờ, vào thời đó Jesus,
Rama, Krishna, Phật đều được ghi nhớ; nhưng việc dùng họ
thì không nhiều hơn việc dùng lá cờ. Họ cũng là một lá cờ
trên bản ngã con người.
Trên mặt trăng chúng ta đã để lại sau các lá cờ. Con
người bận bịu ham muốn tìm ra cái gì đó mà chỉ người đó
mới có thể làm để cho bản ngã người đó thu được tầm quan
trọng. Nhưng nếu như bạn được sinh ra trên đỉnh Everest bạn
sẽ gặp khó khăn lớn vì còn đâu để kéo cờ nữa.
Con người được sinh ra trong Thượng đế; chỉ ngài hiện
hữu. Bạn đã ở đấy, bạn chưa bao giờ đi xa. Đó là mảnh đất
của bạn mà trên đó bạn đã đứng. Do đó, trong việc đạt tới
Thượng đế không có cơ hội cho bất kì bản ngã nào. Bản ngã
không được quan tâm tới trong điều đó. Thế thì làm sao khao
khát và ước ao nảy sinh được khi không có ham muốn về
Thượng đế?
Khao khát về điều thiêng liêng nảy sinh theo cách rất kì lạ. Hiểu điều
này cho đúng, bởi vì không có cách nào khác
hơn cách này. Khát khao về thế giới nảy sinh bởi vì khoảng
cách. Nếu khoảng cách là không thể vượt qua được, hấp dẫn
trở nên cực kì lớn. Và đây là lí do tại sao, trong thế giới, bất
kì khi nào mọi thứ được đạt tới mối quan tâm của người ta
đều mất đi, bởi vì khoảng cách đã bị vượt qua rồi. Bạn đã
ham muốn người đàn bà, bạn đã tìm thấy cô ta; bạn đã ham
muốn xây nhà, bạn đã xây nó; bạn đã ham muốn chóp vàng
trên nhà mình và bạn đặt nó ở đó - cái gì tiếp?
Cho nên bất kì cái gì được đạt tới, thế thì nó trở thành vô
giá trị vì nó đã tới gần bạn, nó không còn khoảng cách nữa.
Nếu nó ở xa và có khó khăn theo cách không ai đạt tới được
nó, chỉ thế thì bạn mới cảm thấy xúc động, thấy vui về nó.
Vui về giầu có không có trong bản thân sự giầu có, nó là
trong cái nghèo của nhiều người khác. Nếu mọi người đều
trở thành giầu, toàn bộ mọi sự bị hỏng. Đấy là vấn đề ở Mĩ:
vui của việc thành giầu đang trở nên ngày càng ít đi. Người
nghèo đang mặc cùng kiểu quần áo như người giầu, lái cùng
kiểu xe ô tô, sống trong những ngôi nhà tương tự. Không có
khác biệt cơ bản nhiều mấy giữa người giầu và người nghèo.
Cái vui của người giầu đang bị mất đi. Người giầu đang cảm
thấy bị bối rối do điều đó; họ đang tìm những trò mới mà chỉ
có họ mới có khả năng hưởng thú.
Chúng ta là trong Thượng đế, do đó không có việc cầu
gọi, không lời mời trong đó cho bản ngã; không có thách
thức, không có động cơ cho bản ngã. Vậy thì làm sao khát
khao về điều thiêng liêng có thể nảy sinh được? Khát khao
về những thứ trần thế nảy sinh là do khoảng cách của chúng
và do sự thách thức và mời gọi của chúng. Khát khao về
Thượng đế nảy sinh từ thất bại của những điều trần tục.
Để điều này được hiểu. Khi bạn chạy theo mọi hướng và
ở đâu cũng thất bại; khi bạn đã đạt được mọi thứ và tất cả
đều chứng tỏ vô giá trị; khi tìm kiếm của bạn về mọi thứ đã
hoàn thành, và với hoàn thành này nảy sinh tiêu cực, mọi thứ
trở thành con số không; chỉ thế thì mới nảy sinh khao khát về
Thượng đế. Mọi thứ dường như vàng từ nơi xa nhưng tất cả
chúng lại chứng tỏ là đống bùn khi chúng lọt vào tay bạn.
Khoảng cách càng xa, vàng càng nguyên chất. Khi nó bắt
đầu lại gần hơn, nó cũng bắt đầu trở nên kém nguyên chất đi.
Gần hơn nữa nó bắt đầu biến thành đất sét.
Có câu chuyện về vua Midas ở Hi lạp - có trào phúng lớn
trong đó. Midas được ân huệ có một quyền năng siêu nhiên;
món quà của thần là ở chỗ bất kì cái gì ông ta sờ vào đều trở
thành vàng. Tất cả chúng ta là điều ngược của Midas: bất kì
cái gì chúng ta mó tay vào đều trở thành đống bùn!
Nhưng điều đó rất thú vị... Ngay cả Midas cũng trong rắc
rối lớn - làm sao có thể có bất kì kết thúc nào cho rắc rối của
chúng ta? Bất kì cái gì Midas sờ vào đều trở thành vàng. Ông
ta chạm vào vợ, bà ấy trở thành vàng. Ông ta chạm vào thức
ăn, nó thành vàng. Ông ta cầm cốc nước, trước khi nó tới
môi ông ta, nó đã thành vàng. Midas đáng thương! Ông ta
trong khó khăn lớn. Bạn không thể nào làm dịu cơn khát của
mình bằng vàng được. Chúng ta có nói nhiều đến đâu về
“một thân thể tựa như vàng lấp lánh,” cũng không thành vấn
đề, không có sự thoả mãn nào nảy sinh từ thân thể như thế.
Người yêu có thể ca tụng thân thể của người mình yêu như
“một tấm thân vàng” đến đâu đi chăng nữa thì cũng không
thành vấn đề, người đó sẽ hiểu điều gì xảy ra nếu tấm thân
đó thực sự trở thành vàng. Người đó sẽ phải đập đầu mình
nếu như điều như thế xảy ra. Người đó sẽ cảm thấy rằng tấm
thân trước còn tốt hơn.
Cho nên Midas đã gặp khó khăn lớn. Ông ta đã bị vàng hấp dẫn bởi việc nói
chuyện với các nhà thơ. Bây giờ sao?
Mọi thứ đều thành vàng - vợ, nước, thức ăn! Mọi người bắt
đầu chạy trốn khỏi ông ta. Con riêng của ông ta cũng bắt đầu
giữ khoảng cách với ông ta - ai biết được khi nào ông ấy có
thể chạm phải bạn! Không bạn bè nào dám lại gần ông ta.
Midas trở nên rất đơn độc. Ông ta là vua, và ông ta trở nên
đơn độc. Các quan thượng thư sẽ không tới quá gần ông ta;
họ giữ một khoảng cách an toàn từ xa để cho họ có thể chạy
trốn nếu cần. Midas bắt đầu chết đói. Ông ta không thể ăn
thức ăn nào, ông ta không thể uống nước. Ông ta bắt đầu la
hét và kêu to, “Ôi, lạy trời, xin ngài rút lại món quà này đi!
Tốt hơn cả là con vẫn như trước! Ân huệ này đã thành tai
hoạ.”
Midas đã trong trạng thái đó - mọi thứ mà ông ta sờ tới
đều biến thành vàng. Hình dung xem hoàn cảnh của chúng ta
sẽ như thế nào nếu bất kì cái gì chúng ta động tới cũng đều
biến thành đống đất sét. Vợ dường như đẹp đẽ và như vàng
khi cô ấy ở xa xa; cái ngày hôn nhân xảy ra, cô ấy bắt đầu
biến thành đất đen. Trong bốn hay năm năm cô ấy trở thành
như bùn. Mọi thứ đều biến thành bùn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng mọi chạy đua đều trở thành vô
tích sự, bạn đi đến một cái dừng chết dí ngay nơi Thượng đế
hiện hữu. Cái ngày bạn đi tới biết rằng bạn đã không thu
được gì bởi việc chạy đua, bạn sẽ không chạy đua thêm nữa.
Và bởi vì bạn không chạy đua, bây giờ bạn thấy điều mà
trước đây không thấy được bởi vì chạy đua.
Khi tâm trí mê mải trong chạy đua, mọi thứ đã từng ở xa
đều được thấy. Khi chạy đua trở thành vô dụng, mắt trở lại
khung cảnh gần hơn. Và nếu chạy đua dừng lại toàn bộ, mắt
bắt đầu nhìn theo chiều ngược. Mãi cho đến nay chúng đã
chỉ nhìn bên ngoài, bây giờ chúng bắt đầu nhìn bên trong.
Gương thực hiện việc quay ngược lại. Thế thì bạn không tìm
thứ gì đáng nhìn trong thế giới nữa, hay đáng kiếm và đáng
tìm trong thế giới nữa. Bây giờ thế giới không còn là ham
muốn chút nào nữa. Đó là lí do tại sao Phật, Mahavira và
Upanishad đã đặt nhiều nhấn mạnh thế vào sự kiện là vô ham
muốn là cánh cửa.
Ham muốn là cánh cửa đi ra xa; vô ham muốn là cánh
cửa về lại gần.
Bây giờ chúng ta hiểu câu kinh này: “Bên trong thân thể
ẩn giấu cái không sinh và vĩnh hằng.”
Nó chưa bao giờ sinh ra, nó có đó mãi mãi. Cái vĩnh
hằng và không sinh đang ẩn bên trong thân thể nhưng thân
thể không biết về nó. Thân thể là một phần của đất; nó bị che
giấu bên trong đất nhưng đất không biết về nó. Trong kinh
này cùng điều đó được lặp lại từ những góc độ khác nhau.
Cái không sinh và vĩnh hằng bị ẩn giấu trong lửa, nhưng
lửa không biết nó. Nó được ẩn giấu ở mọi nơi, nhưng người
đứng sau cái bị che giấu không biết đến nó bởi vì người
đứng sau cái bị che giấu đang chạy đua bên ngoài. Bạn đã
bao giờ nhận ra điều này chưa? Nếu bạn có thể kinh nghiệm
được việc chạy đua bên trong của thân thể bạn, bạn sẽ đạt tới
samadhi. Bạn đã kinh nghiệm mỗi việc chạy đua bên ngoài
của thân thể - một thân thể đẹp được thấy và xúc động chạy
qua thân thể bạn; mọi tế bào thân thể bạn bắt đầu chạy đua
theo nó. Một đoá hoa đẹp được thấy và mắt bắt đầu chạy
đua. Một giai điệu du dương được nghe thấy và tai bắt đầu
chạy đua.
Thân thể bao giờ cũng chạy đua bên ngoài. Bạn đã bao
giờ kinh nghiệm thân thể chạy đua bên trong chưa? Không,
bạn chưa kinh nghiệm đâu. Thế thì làm sao thân thể đáng
thương này biết được ai đang ẩn náu bên trong? Nơi thân thể chưa bao giờ
đi, nơi thân thể chưa bao giờ ngó tới, chưa bao
giờ nghe thấy, chưa bao giờ thám hiểm... làm sao thân thể có
thể biết được cái gì có đó bên trong? Do đó thân thể vẫn còn
là kẻ xa lạ với người sở hữu thân thể đó. Tất cả chạy đua đều
hướng theo bên ngoài, do đó dốt nát tràn ngập bên trong.
Kinh này là việc lặp lại cho cùng một thứ nhưng từ những
cánh cửa khác nhau.
Cái ẩn kín bên trong không khí, không khí không biết.
Tâm trí không biết về người sở hữu thân thể đó. Bản ngã
không hay về người sở hữu thân thể đó. Tâm trí lí trí, cái bất
diệt, cái không biểu hiện - tất cả chúng đều không biết đến
người có thân thể chính là chúng và người ẩn kín bên trong
chúng. Ngay cả cái chết cũng vẫn còn không quen biết với
người có cái chết xảy ra. Phát biểu này có đôi chút kì lạ: cái
chết vẫn còn không quen biết với người chết. Không có gì
chết khi người ta chết cả.
Khi cái chết xảy ra, ai thực sự chết? Không ai cả. Thân
thể không chết, bởi vì nó bao giờ cũng chết rồi; không có
vấn đề về việc chết của nó. Người ẩn kín bên trong thân thể
là bất tử vĩnh viễn; không có vấn đề về việc chết của người
đó. Chỉ mối quan hệ tan vỡ. Trong cái chết mối quan hệ giữa
người chết và người bất tử tan vỡ. Nhưng bản thân cái chết,
cho dù sau khi tới gần đến thế, cũng vẫn còn không biết gì về
người bất tử.
Bao nhiêu lần chúng ta đã chết, vậy mà chúng ta vẫn
chưa đi tới biết người bất tử ở bên trong chúng ta. Chính tình
huống này có nghĩa là ngay cả trong khi tới gần chúng ta vẫn
không có khả năng nhìn vào trong; cái nhìn của chúng ta tiếp
tục hội tụ bản thân nó ra ngoài. Nhìn một người đang nằm
trên giường chết: người đó vẫn cứ nhìn ra ngoài. Thậm chí
bây giờ người đó không cảm thấy thích nhìn vào bên trong.
Cái chết đang kéo và lôi người đó khỏi thân thể, nhưng
người đó vẫn níu bám lấy thân thể - níu bám còn mạnh hơn,
mạnh hơn hẳn trước đó.
Đây là lí do tại sao người già trở nên xấu còn người trẻ
trông đẹp. Nếu chúng ta nhìn điều đó sâu sắc, lí do cho điều
này không phải là một mình thân thể. Người trẻ không níu
bám lấy thân thể, người đó vẫn còn tin tưởng vào nó. Người
già bắt đầu níu bám lấy thân thể; và bởi vì níu bám đó mà
mọi thứ xấu sinh ra. Người già bắt đầu sợ hãi: cái chết đến
đây... bây giờ cái chết tới... cái chết ở cạnh kề. Người già
càng sợ chết càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống. Và
người càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống, người đó càng
trở nên xấu hơn.
Trẻ con trông đáng yêu làm sao! Chúng đơn giản không
níu bám chút nào. Chúng không có ý tưởng rằng cái chết tồn
tại. Nhìn chim chóc và muông thú mà xem: chúng già đến
đâu chúng trông cũng vẫn thế. Tôi đang nói về những con
vật và những con chim còn chưa bị hư hỏng qua việc đồng
hành cùng con người. Con người chỉ làm hỏng mọi thứ. Cho
nên điều dường như rất lạ là trong rừng hoang chim chóc và
muông thú có vẻ không bị già đi. Kiểu tuổi già bắt giữ con
người dường như không bắt giữ chim chóc và muông thú.
Chúng vẫn còn giống như trẻ con. Theo một nghĩa sâu sắc
nào đó chúng không nhận biết chút nào rằng cái chết sẽ tới,
do đó không có níu bám vào thân thể.
Tính tươi tắn ở trẻ con bởi vì cuộc sống là tự nhiên,
không có sợ chết. Điều đó trở thành khó khăn cho tuổi già;
cái chết trở nên rõ ràng hơn. Cuộc sống là nỗ lực bây giờ,
người già sống bằng nỗ lực. Mọi li của cuộc hành trình
người đó đều ý thức tới cái chết bây giờ. Điều đó tạo ra bất
định; căng thẳng tăng lên bên trong người đó và lo âu cùng buồn khổ bắt
giữ người đó thường xuyên, và điều đó làm cho
tâm trí thành xấu.
Bản thân cái chết không đi tới biết người bất tử ẩn bên
trong thân thể. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ hiện
tượng nhìn vào trong chỉ xảy ra khi việc nhìn ra ngoài đã trở
thành vô tích sự và vô nghĩa. Để điều này được hiểu đúng.
Nó dường như đã trở thành vô nghĩa nhiều lần rồi, nhưng
vẫn chưa trở thành thực sự như vậy. Không phải là cái vô
nghĩa đó không bừng dậy trong bạn - nó có bừng dậy trong
bạn đấy. Bạn đã nghĩ về việc mua một chiếc xe rồi bạn mua
nó. Khi bạn chưa mua nó, bạn mơ về nó trong đêm. Vào cái
đêm trước hôm nó được giao cho bạn, thậm chí bạn còn
không ngủ được ngon - cả đêm ròng!
Ai đó đã viết về người bạn mình, người mua một chiếc
xe rất đẹp, chiếc Ferarri. Nó là chiếc xe rất đắt. Trong chính
ngày đầu tiên người đó đã lái nó, chiếc xe bị xước một chút
xíu.
Người bạn đó không còn là đứa trẻ nữa, ông ta đã năm
mươi tuổi; và ông ta cũng không phải là người thiếu học vấn,
ông ta là một giáo sư đại học - giáo sư triết học hẳn hoi.
Nhưng người ta đã thấy ông ấy khóc hôm đó, gục đầu vào
vai mẹ mình. Chỉ bởi vì chiếc Ferarri bị xước! Chiếc xe đắt
thế. Ông ta đã mơ ước biết bao về nó. Vết xước đó của chiếc
xe hẳn đã phải ăn sâu vào ông ta, vào chính linh hồn ông ta;
đấy là lí do tại sao ông ta khóc.
Khóc thì tất cả các bạn đều làm. Người đàn ông đó phải
là một người chân thật hơn. Trên con đường thoáng đãng,
gục đầu vào vai mẹ, ông ta bắt đầu khóc. Nhưng trạng thái
này kéo dài được bao lâu? Trong vài ngày chiếc Ferarri sẽ
trở nên cũ. Sau một hay hai tháng người này sẽ ngồi trong
cũng chiếc xe đó nhưng ông ta thậm chí sẽ không cảm thấy
mình đang ngồi trong chiếc xe nào nữa. Ông ta sẽ chán với
chiếc xe này - nhưng chưa chán với xe. Mơ ước về một chiếc
xe khác nào đó sẽ bắt giữ ông ta. Bây giờ ông ta có thể nghĩ
tới việc làm chủ chiếc Rolls Royce, hay chiếc xe khác nào
đó. Tâm trí sẽ chán với một người đàn bà hay một người đàn
ông, nhưng nó sẽ không chán với đàn bà như vậy hay đàn
ông như vậy.
Tất cả chúng ta đều thấy chán, nhưng cái chán của chúng
ta vẫn còn gắn với những thứ đặc biệt. Còn chính thực tại
của việc chán này không trở thành một phần của kinh
nghiệm của chúng ta. Khi chúng ta mệt mỏi về thứ này,
chúng ta chọn thứ khác cùng kiểu, và quá trình này cứ tiếp
tục mãi. Đây là khác biệt duy nhất giữa bạn và vị phật.
Bạn chán với một người đàn bà nhưng mối quan tâm của
bạn vẫn tiếp tục trong người đàn bà khác. Nếu bạn chán với
vợ mình, mối quan tâm của bạn tiếp tục ở vợ của ai đó khác.
Bất kì cái gì gần gũi và có sẵn đều trở thành vô dụng, nhưng
cái ở xa duy trì mối quan tâm của bạn. Cái ở xa đó rồi cũng
sẽ trở thành vô dụng vào ngày mai khi nó lại gần bạn. Nhưng
không thể nào mọi thứ đều có thể lại gần người ta được. Một
số thứ vẫn tiếp tục còn ở xa; do vậy mối quan tâm vẫn tiếp
diễn, ham muốn vẫn cứ chạy đua.
Chán một đàn bà, vị phật chán luôn với mọi đàn bà.
Sống trong một lâu đài, vị phật đã sống trong mọi lâu đài.
Với vị phật, chỉ một việc xảy ra là đủ. Đây là cách tiếp cận
khoa học. Nếu một giọt nước đã được biết, thế thì toàn bộ
biển cả đã được biết. Ông ấy sẽ là nhà khoa học điên khùng
nếu cứ tiếp tục kiểm thử mọi đại dương và nói, “Khi tôi hoàn
thành việc kiểm thử mọi giọt nước của mọi đại dương, tôi sẽ
tuyên bố rằng nước được tạo nên từ hidro và oxi.” Chúng ta
đang trong một loại điên khùng tương tự. Nhà khoa học kiểm thử một giọt
nước, phát hiện ra rằng nước được tạo nên từ
các nguyên tử hidro và oxi, và rằng H2O là phương trình cho
các thành tố của nước, và thế là vấn đề xong với ông ta. Mọi
nước trong mọi biển bây giờ đều được biết. Bất kì nơi đâu có
nước, ngay cả trên bất kì hành tinh khác nào - và các nhà
khoa học nói có ít nhất năm mươi ngàn trái đất tương tự như
trái đất của chúng ta - hay ở bất kì đâu trong vũ trụ, nó đều
được tạo nên từ việc bố trí của các nguyên tử: H2O.
Mọi nước được biết bằng việc biết một giọt nước.
Với việc hiểu mẫu hình và hành vi của một ham muốn,
người đó đi tới biết toàn thể bản chất của mọi ham muốn và
trở thành vị phật. Biết một ham muốn, người đó, người thấy
được cái vô tích sự của nó - cái phù phiếm phổ cập - và cái
thất bại không tránh khỏi của nó, ham muốn của người đó
đơn giản rụng đi. Ham muốn rụng đi tựa như cái nạng của
người què bất thần rơi xuống. Người đó đã bước đi với trợ
giúp của cái nạng; người đó đã không có chân để bước,
người đó đã có chân gỗ. Bỗng nhiên chiếc nạng rơi ra và
người què đổ sập xuống. Điều tương tự cũng xảy ra khi cái
nạng ham muốn rơi rụng đi. Không có chân thực để bước
trong cuộc sống trần gian; chúng là nhân tạo, cứng đơ, được
làm bằng những ham muốn. Ham muốn rơi đi chính là chiếc
nạng rơi đi, và người ta bỗng nhiên thấy bản thân mình ở đó
- từ nơi mà người đó chưa bao giờ đi, nơi người đó bao giờ
cũng ở đấy, trong bản tính thực của mình. Đó là Thượng đế,
đó là linh hồn.
Đoạn cuối của kinh giải thích điều này:
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là thiên thần
thiêng liêng Narayana
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Điều cuối cùng là kinh này. Cuộc chạy đua theo các ham
muốn là do sự kiện rằng mơ nào đó bao giờ cũng có vẻ gần
đạt tới hoàn thành ở đâu đó nơi xa xa. Người trong sa mạc
nhìn thấy một hồ nước gần chân trời, chạy lại lấy nước, và
khi tới đó phát hiện ra rằng không có nước, rằng không có gì
ngoài cát và cát. Nhưng rồi cái hồ lại xuất hiện đâu đó khác.
Điều này được gọi là ảo cảnh.
Khi tia sáng mặt trời trở nên nóng và được phản xạ trên
cát thì các tia sáng rung rinh tạo ra ảo cảnh về gợn sóng và
sóng. Gợn sóng và sóng lăn tăn cứ liên tục lan rộng, việc
phản xạ trải trên bề mặt xuất hiện. Nếu có cây cối gần đó, cả
cây đó cũng được phản xạ lên bề mặt đó, bề mặt có tác dụng
tựa như chiếc gương. Khi từ một khoảng cách xa bạn thấy
không chỉ có nước mà còn cả phản xạ của đám mây bay qua
in trên nước, làm sao bạn không tin được? Nếu có cả phản xạ
của đàn chim bay trên trời trong cái gọi là nước đó, và nếu
cây cối gần đó cũng được phản xạ vào trong nước, niềm tin
của bạn vào sự tồn tại của nước lại càng được xác nhận.


Không chỉ sóng nước được trông thấy, ngay cả những phản
xạ trong nước cũng được thấy. Nhưng khi bạn lại gần hơn,
phản xạ dừng xuất hiện, và khi tiến lại chỗ ấy bạn không tìm
thấy gì ngoài cát.
Adhyas, hay ảo tưởng, nghĩa là thấy cái không có đó.
Shankara yêu từ này lắm, và với Upanishad nó là chính nền
tảng. Adhyas nghĩa là phóng chiếu, thấy cái không có đó: cái
được thấy không thực có đó, bạn đang phóng chiếu nó từ bên
trong. Bạn là nguyên nhân của việc phóng chiếu.
Một khuôn mặt dường như đẹp với bạn: liệu cái đẹp đó
đang có đó hay bạn đang phóng chiếu về nó?... vì ngày mai
cũng cùng khuôn mặt đó lại có thể tỏ ra xấu với bạn. Có thể
nó đã không có vẻ đẹp với bạn ngày hôm qua. Hôm nay
bỗng nhiên con mắt thiêng liêng của bạn đã mở ra và khuôn
mặt này đã bắt đầu trông đẹp với bạn. Với bạn bè của bạn nó
vẫn trông không đẹp.
Người ta nói rằng Laila không đẹp, chỉ có Majnu mới
trông cô ấy là đẹp. Cả làng đều khó xử, và mọi người cố
gắng thuyết phục Majnu: “Cậu ngây thơ lắm. Có bao nhiêu
gái đẹp trong làng; cậu cứ bị ám ảnh không cần thiết với
Laila làm gì.” Majnu trả lời, “Nếu bác muốn thấy Laila, bác
phải có con mắt của Majnu.” Đây là adhyas, ảo tưởng. Vấn
đề không phải là Laila mà vấn đề là con mắt của Majnu. Vấn
đề không phải là cái được thấy mà vấn đề là người đang thấy
cô ấy. Cho nên Majnu nói, “Thấy bằng mắt tôi đây này, thế
thì bác sẽ có thể thấy được Laila.” Không hoài nghi gì rằng
dưới con mắt của Majnu thì cô ấy sẽ trông đẹp. Nếu như có
thể mượn được cặp mắt của Majnu thì Laila sẽ thành đẹp đối
với bạn như cô ấy đã đẹp đối với Majnu.
Mắt cũng có một kiểu kính. Mầu của kính phóng chiếu
lên vật được thấy. Tất cả các giác quan bạn đều đang phóng
chiếu. Bạn đang tạo ra một thế giới khắp quanh bạn. Tâm trí
bạn không chỉ là người nhận, nó là đấng sáng tạo nữa. Bạn
đang sáng tạo ra một thế giới quanh bạn - về cái đẹp, về
hương thơm, thế này, thế nọ.
Thế giới này không phải như bạn thấy nó. Nó tuỳ thuộc
vào bạn. Nếu bạn thay đổi, thế giới cũng thay đổi theo.
Thanh niên nhìn thấy thế giới này, người già thấy thế giới
khác, và trẻ con lại thấy thế giới khác nữa. Cái gì tạo ra khác
biệt này? Thế giới vẫn như vậy thôi. Nhưng trẻ con không có
cùng con mắt như thanh niên. Trẻ con vẫn còn quan tâm tới
việc nhặt đá và sỏi - chỉ mầu sắc của mọi thứ là đủ. Thanh
niên nói, “Vứt quách những thứ ấy đi! Có gì trong đó nào?
Chúng có giá trị gì nào?” Với thanh niên tiền bạc đã trở nên
giá trị. Người đó bắt đầu hiểu giá trị của tiền. Bây giờ nhặt
đá sỏi không có tác dụng. Bây giờ chẳng ích gì mà đuổi theo
bướm cả.
Trẻ con bắt bướm; bướm trông như cõi trời với chúng.
Thanh niên coi trẻ con là dốt nát, nhưng khi người này già đi,
các giác quan người đó cũng mệt mỏi; kinh nghiệm của
người đó chuyển thành chua chát và cay đắng và người đó
cảm thấy dường như mồm đầy một kiểu vô vị. Bây giờ ngay
cả thanh niên cũng dường như là giống trẻ con đối với người
này. Với người đó, thanh niên đang đuổi theo các loại bướm
bướm khác. Chỉ có loại bướm là thay đổi, nhưng không phải
là con bướm.
Người già cứ hay nói năng, giải thích, rằng đấy là bướm,
nhưng không thanh niên nào chịu nghe họ. Bản thân họ đã
không nghe bố họ và ông họ. Có lí do để không nghe, và đó
là việc họ có con mắt khác. Nếu thanh niên có đôi mắt của
người già, người đó sẽ thấy cùng một sự việc. Và nhớ lấy,
điều thú vị là ở chỗ nếu người già có thể có được đôi mắt của
thanh niên lần nữa, người đó sẽ quên mọi kinh nghiệm này.
Người đó sẽ quên mọi khôn ngoan mà người đó đang thể
hiện; thế giới một lần nữa lại sẽ trở thành đầy mầu sắc với
người đó.
Tôi đã từng nghe: một chánh án của Toà Thượng thẩm Mĩ đã tới Paris khi
ông ta còn trẻ và đã xây dựng gia đình.
Sau ba mươi năm, khi ông ấy đã già, và sau khi con ông ấy
cũng đã xây dựng gia đình và ghé thăm Paris, vị chánh án lại
trở lại Paris cùng với vợ. Tên ông ta là Peare. Ông ấy nhìn
Paris, và nói với vợ, “Đấy không còn là cùng Paris đó nữa.
Mầu sắc của nó đã phôi phai rồi. Cái đẹp là ở những ngày đó
khi chúng ta tới Paris lần đầu tiên. Mọi thứ đều không thể so
sánh được; Paris đã khác rồi!”
Vợ ông trả lời, “Xin lỗi ông, ông quên mất rồi. Lần đầu
tiên chúng ta tới thì Peare là con người khác; Paris vẫn thế.
Nếu ông có thể thấy được Paris bằng con mắt của thanh niên
thì nó vẫn thế. Làm sao Paris thay đổi được?” Mọi người
thay đổi và cái nhìn của họ thay đổi.
Nếu thế giới dường như bị thay đổi với thay đổi trong cái
nhìn của bạn, hiểu cho rõ rằng cái bạn đã thấy và đã nghĩ nó
chỉ là adhyas, ảo tưởng thôi. Nó đã được tạo ra bởi phóng
chiếu của bạn, nó không phải là thế giới như nó đang đấy.
Liệu có cách nào để thế giới được thấy không có phóng
chiếu của bạn không? Nếu có, chỉ có thế người ta mới thấy
được thế giới như nó đang đấy.
Phóng chiếu là ảo tưởng. Do đó, nhớ lấy, thấy không có
nghĩa là chỉ nhìn bằng mắt. Thấy nghĩa là trạng thái mà tất cả
những phóng chiếu của bạn đều dừng lại, khi bạn không có
quan điểm nào. Khi bạn không có con mắt cá nhân riêng để
áp đặt các điều kiện, khi bạn không có xúc động và ham
muốn phóng chiếu, thế thì việc thấy xảy ra.
Nhìn sa mạc khi bạn không khát: thế thì sa mạc không
thể lừa bạn. Lừa dối xảy ra bởi vì cơn khát. Bạn cần nước, và
khi bạn không có nước, ham muốn trở thành ngày một mạnh
hơn. Và khi ham muốn trở nên quá mạnh, tâm trí bạn phát rồ
và nó muốn tin ngay cả những cái mà thực tế không có đó.
Nhưng có một trạng thái mọi cái nhìn đều dừng và việc
thấy nảy sinh. Khi nào thì cái nhìn dừng lại? Cái nhìn dừng
lại chỉ khi mọi ham muốn dừng lại, bởi vì mọi cái nhìn đều là
trò chơi của ham muốn của bạn, sự mở rộng của các ham
muốn của bạn.
Kinh nói:
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Qua sự trung thành với Brahman - trung thành với cái ta.
Trung thành của chúng ta bao giờ cũng là với người
khác, với ai đó khác, không phải với cái ta riêng của chúng
ta. Chúng ta chạy theo những thứ khác, không hướng về
trung tâm riêng của mình. Chúng ta bao giờ cũng đi đâu đó
khác, né tránh người ở bên trong.
Trung thành với Brahman nghĩa là cuộc đua của các ham
muốn đã qua rồi, người ta đã đạt tới cái ta của mình. Người
ta phải đi tới chỗ không có tâm trí nữa, không giác quan,
không thân thể, nhưng chỉ còn tâm thức thuần khiết. Trong
việc được bắt rễ vào đó, mọi ảo tưởng đều lập tức tan tành;
thế thì không còn thế giới mà chỉ có Brahman, thực tại tuyệt
đối.
Khi tôi đang nói tiếng Hindu - nhiều người không hiểu
tiếng Hindu nhưng họ cũng có thể dùng được cơ hội này.
Những người không hiểu tiếng Hindu nên nhắm mắt lại và
lắng nghe chỉ âm thanh. Họ nên ngồi im lặng dường như trong thiền. Và
nhiều lần chân lí mà người ta không hiểu qua
lời người ta đi tới hiểu đơn thuần bởi việc lắng nghe âm
thanh.
Khi tôi nói tiếng Anh, những bạn không hiểu tiếng Anh
không nên nghĩ rằng điều này vô dụng cho họ. Họ nên nhắm
mắt lại và thiền theo âm thanh của lời tôi mà không dự định
hiểu ngôn ngữ. Không cần cố hiểu ngôn ngữ mà bạn không
biết. Ngồi im lặng, trở thành giống như người dốt nát, và
thiền về tác động của âm thanh. Chỉ lắng nghe. Lắng nghe đó
sẽ trở thành thiền và nó sẽ có ích lợi.
Vấn đề thực sự không phải là việc hiểu, mà là trở nên im
lặng. Nghe không phải là vấn đề, trở nên im lặng mới là vấn
đề. Biết bao nhiêu lần điều xảy ra là cái bạn đã hiểu trở thành
rào chắn, và điều tốt là lắng nghe cái gì đó bạn không hiểu
chút nào; thế thì suy nghĩ không thể can nhiễu được. Khi cái
gì đó không được hiểu, không có cách nào cho suy nghĩ
chuyển động; chúng đơn giản dừng lại.
Do đó, đôi khi lắng nghe tiếng gió xào xạc trong lùm
cây, nghe tiếng chim hót, tiếng nước chảy, còn tốt hơn là
lắng nghe người thấy và hiền nhân. Upanishad thực đang
tuôn chảy ở đó, nhưng bạn sẽ không hiểu chúng. Và nếu bạn
hiểu và bạn có thể lắng nghe, trí năng của bạn sẽ không mấy
chốc mà lắng xuống bởi vì nó không được cần nữa. Và khi
trí năng của bạn đã lặng yên, bạn được đưa lên chỗ bạn đang
tìm kiếm.

Trong khoang tim, nằm bên trong thân thể, những kiếp
sống vĩnh hằng không sinh.
Đất là thân thể của nó, nó cư ngụ trong đất nhưng đất
không biết về nó.
Nước là thân thể của nó, nó cư ngụ trong nước nhưng
nước không biết về nó.
Ánh sáng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong ánh sáng
nhưng ánh sáng không biết về nó.
Không khí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong không khí
nhưng không khí không biết về nó.
Bầu trời là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bầu trời
nhưng bầu trời không biết về nó.
Tâm trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí nhưng
tâm trí không biết về nó.
Trí năng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong trí năng
nhưng trí năng không biết về nó.
Bản ngã là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bản ngã
nhưng bản ngã không biết về nó.
Tâm trí lí trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí
lí trí nhưng tâm trí lí trí không biết về nó.
Cái không biểu hiện là thân thể của nó, nó cư ngụ trong
cái không biểu hiện nhưng cái không biểu hiện không
biết về nó.
Cái không huỷ diệt được là thân thể của nó, nó cư ngụ
trong cái không huỷ diệt được nhưng cái không huỷ diệt
được không biết về nó.
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là một thượng đế
thiêng liêng Narayana - người nâng đỡ cho mọi con
người.
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Cá trong biển vẫn còn là kẻ xa lạ với biển cả, không phải
bởi vì biển xa với cá mà bởi vì biển quá gần. Bất kì cái gì ở
khoảng cách xa đều được thấy nhưng cái ở rất gần trở thành
vô hình với mắt. Không khó biết khoảng cách, khó biết cái ở
gần. Và không thể nào biết được rằng cái nào là cái gần nhất
của cái gần. Để cho điểu này được hiểu đúng đi, bởi vì nó là
cái gì đó phải được biết cho cuộc hành trình bên trong.
Mọi người hỏi tìm Thượng đế ở đâu. Họ hỏi, “Làm sao
chúng ta quên rằng cái nào đang bị che giấu bên trong? Làm
sao cái đã bị tách ra ở gần chúng ta hơn là nhịp tim chúng ta,
ở gần ta hơn nhịp thở của chúng ta? Làm sao cái đã bị quên
lãng là bản thân tôi?” Và câu hỏi của họ dường như là logic.
Dường như là điều họ đang hỏi có tính hợp lệ và rằng điều
đó không nên xảy ra giống thế này.
Nếu tôi không thể nào biết ngay cả cái đang bị giấu kín
trong tôi, nếu ngay cả điều đó tôi vẫn còn chưa biết, thế thì
chúng ta sẽ biết ai khác, chúng ta sẽ nhận ra ai khác? Khi
ngay cả điều gần gũi cũng còn trượt khỏi tay thì làm sao
chúng ta có thể đạt tới cái ở xa được? Và không phải nó chỉ
tới gần với chúng ta hôm nay; nó bao giờ cũng ở gần chúng
ta, từ thời vô tận. Thậm chí chúng ta chưa từng tách biệt hay
xa rời khỏi nó dù chỉ một khoảnh khắc. Dù chúng ta đi đâu
nó cũng đi cùng chúng ta; bất kì chỗ nào chúng ta đi, nó đều
đi cùng chúng ta. Nó du hành cùng chúng ta tới địa ngục
cũng như tới cõi trời; nó bên chúng ta trong tội lỗi cũng như
trong đức hạnh. Nói rằng nó bên ta cũng chưa đúng, vì ngay
cả ‘bên ta’ cũng vẫn còn có khoảng cách. Thực tại bản thể
chúng ta và bản thể của nó là một và cùng một thứ.
Nếu điều này đúng, thế thì chính phép màu lớn lao trên
thế gian là chúng ta đã đánh mất cái ta riêng của mình - điều
dường như là không thể có được. Làm sao người ta có thể
đánh mất cái ta riêng của mình được? Không thể đánh mất
được ngay cả cái bóng của mình, và chúng ta đã đánh mất
linh hồn mình. Làm sao điều này có thể được? Nhưng điều
này đã xảy ra. Cách thức việc mất này về cái ta xảy ra, đó là
tinh hoa của kinh này. Trước khi chúng ta đi vào trong kinh,
chúng ta cần hiểu những nền tảng cơ sở của nó.
Mắt có giới hạn về tầm nhìn, một miền. Nếu một vật bên
ngoài miền đó mắt không thể thấy được. Nếu một vật nằm
bên trong miền đó nhưng quá xa về cả hai phía, thế nữa mắt
cũng không thể thấy được nó. Mắt có miền nhìn. Một vật
được đưa tới quá gần mắt không thể được thấy và nếu nó bị
đem ra quá xa nó cũng không được nhìn thấy. Bên ngoài cả
hai phía của miền nhìn nào đó, mắt không thể thấy được, thế
thì chúng là mù. Bây giờ, bạn đang gần với bản thân bạn đến
mức bạn không chỉ gần với mắt mà bạn còn ở đằng sau
chúng - và đó là vấn đề.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Nếu bạn đang đứng
trước một tấm gương, ở một khoảng cách nào đó hình ảnh
bạn rất rõ. Nếu bạn đi quá xa khỏi gương, sẽ không có hình
ảnh nữa. Nếu bạn lại quá gần gương, gần đến mức bạn chạm
mắt vào nó, thế thì bạn không thể thấy được hình ảnh mình
chút nào. Nhưng ở đây tình huống là ở chỗ bạn đang đứng
đằng sau gương; do vậy không có khả năng có bất kì hình
ảnh nào của bạn trong gương - mắt ngay phía trước và bạn ở
sau chúng.
Mắt thấy cái ở trước chúng. Làm sao mắt thấy được cái ở
sau chúng được? Tai nghe thấy cái ở bên ngoài tai. Làm sao
tai nghe được cái ở bên trong tai? Mắt mở hướng ra ngoài,
tai cũng mở hướng ra ngoài. Tôi có thể chạm vào bạn, nhưng
làm sao tôi có thể chạm vào tôi được? Và cho dù tôi có khả
năng chạm vào thân thể tôi thì đấy cũng chỉ vì tôi không là
thân thể - thân thể nữa cũng là cái khác, do đó tôi mới có thể
chạm vào nó. Nhưng làm sao tôi có thể chạm tới một người
mà là tôi, một người đang chạm? Tôi có thể chạm vào bằng
cái gì?
Do đó tay chạm vào mọi thứ nhưng không thể chạm vào
bản thân chúng. Mắt nhìn mọi thứ nhưng không thể nhìn
được bản thân chúng. Đối với cái ta riêng của chúng ta,
chúng ta mù; không một giác quan nào mà chúng ta đã biết
có thể dùng được vào đây. Chừng nào một số giác quan khác
còn chưa khai mở - con mắt nào đó có thể nhìn vào bên
trong, nhìn ra đằng sau, theo chiều ngược lại, hay tai nào đó
có thể nghe được âm thanh bên trong - chừng ấy vẫn không có cách nào để
cho chúng ta có thể thấy và nghe và biết bản
thân mình. Cho đến khi điều đó xảy ra thì không có cách nào
chạm vào bản thân chúng ta. Cái ở gần bị bỏ lỡ; cái ở gần
nhất trong tất cả là không thể nào được biết. Đây là lí do tại
sao cá không có khả năng biết biển.
Điều thứ hai: cá được sinh ra trong biển, nó sống trong
biển; biển là thức ăn của nó, biển là nước uống của nó, biển
là cuộc sống của nó, biển là mọi thứ của nó. Thế rồi nó chết
và tan biến trong biển, nhưng nó không bao giờ có được cơ
hội để biết biển vì nó không có bất kì khoảng cách nào với
biển. Tuy nhiên, cá đi tới biết biển là gì nếu ai đó tới và vớt
nó ra khỏi biển. Đây là điều rất mâu thuẫn: cá đi tới biết biển
khi nó xa khỏi biển - khi nó đang giẫy dụa để sống còn trên
cát dưới cái nóng mặt trời, thế thì nó biết biển là gì. Để biết,
khoảng cách như thế là cần thiết.
Làm sao chúng ta có thể biết được cái một, cái đã tồn tại
ngay trước khi chúng ta được sinh ra và cái sẽ còn lại ngay
cả sau khi chúng ta chết? Làm sao chúng ta có thể biết cái
một trong đó chúng ta được sinh ra và trong đó chúng ta sẽ
tan biến đi? Để biết, phân cách nào đó là điều phải có. Đó là
lí do tại sao cá không biết tới biển; chỉ khi ai đó ném nó lên
bờ thì nó mới nhận ra được.
Con người đang trong khó khăn lớn hơn. Điều thiêng
liêng là đại dương bao quanh chúng ta. Nó không có bờ nơi
bạn có thể bị vứt lên, nơi bạn có thể bắt đầu quằn quại với
nỗi đau như con cá. Vấn đề sẽ rất dễ dàng nếu có một bờ như
thế, nhưng không có bờ như thế. Thượng đế là đại dương.
Đây là lí do tại sao những người đi tìm Thượng đế như bờ
không bao giờ có khả năng tìm được ngài. Bờ có sẵn chỉ đối
với những người đã sẵn sàng đắm chìm trong đại dương của
điều thiêng liêng.
Đơn thuần không có bờ nào cho nên không có cách nào
để tìm thấy nó. Làm sao có thể có được bờ? Mọi thứ khác
đều có thể có bờ; cái toàn thể không thể có bờ - vì cái gì đó
khác được cần tới để tạo nên bờ. Bờ sông được tạo nên từ cái
gì đó khác hơn sông. Bờ của biển được tạo nên từ cái gì đó
khác hơn biển. Nhưng không có gì khác hơn Thượng đế để
có thể tạo nên bờ.
Chính ý nghĩa của Thượng đế là ở chỗ không tồn tại cái
gì khác hơn nó. Thượng đế không có nghĩa là ai đó ngồi ở
đâu đó trên trời và cai quản thế giới từ đó. Không, đấy chỉ là
chuyện cho trẻ con. Điều được ngụ ý qua Thượng đế là ở chỗ
phần tử khác hơn Thượng đế là không tồn tại. Đây là định
nghĩa khoa học về Thượng đế.
Thượng đế có nghĩa là cái toàn thể, cái toàn bộ, mọi thứ -
bất kì cái gì đang có. Cái mà không thể có bờ, vì không còn
gì khác hơn để tạo nên bờ. Do đó Thượng đế là mọi nơi;
không có bờ. Người sẵn sàng chìm là được cứu. Người cố
gắng để được cứu, bị chìm.
Chúng ta ở trong nó. Chúng ta đang trong cái chúng ta
đang cố tìm ra.
Không cần phải cầu tới người chúng ta vẫn cầu, bởi vì
thậm chí không có lỗ hổng nào để người ta phải cầu. Đó là lí
do tại sao Kabir hỏi, “Thượng đế của ông có bị điếc không
mà ông phải kêu ajan to thế?” Thượng đế ở gần đến mức
thậm chí không cần phải cầu gọi ngài. Cho dù có im lặng bên
trong, điều đó nữa cũng sẽ được ngài nghe thấy - ngài ở gần
thế. Nếu bạn phải cầu người khác, bạn phải nói. Nhưng để
cầu bản thân mình, cần gì phải nói? Người ta có thể nghe
người khác chỉ khi lời nói được phát ra, nhưng ngay cả im
lặng của riêng người ta cũng được nghe thấy.
Ở gần thế là khó khăn. Để điều này được hiểu cho đúng: chúng ta đã bỏ lỡ
chân lí bởi vì chúng ta được sinh ra trong
nó. Thịt chúng ta, tuỷ chúng ta, xương chúng ta, toàn bộ thân
thể đều được làm từ nó. Nó là hơi thở của chúng ta, cuộc
sống chúng ta, mọi thứ. Theo nhiều cách thức, qua nhiều
cánh cửa, chúng ta là tổ hợp từ nó - chúng ta là trò chơi của
nó. Không có lỗ lổng chút nào, do đó không có kí ức; do đó
việc hồi tưởng về nó trở thành không thể được. Do đó chúng
ta thấy thế giới, nhưng chân lí không được thấy chút nào.
Thế giới là ở khoảng cách, có lỗ hổng giữa hai điều này; đó
là lí do tại sao đam mê về thế giới nảy sinh.
Nghĩa của đam mê là gì? Đam mê nghĩa là ý định khép
lại khoảng cách giữa bạn và đối thể mà từ đó bạn có cảm
giác về khoảng cách. Không có đam mê về Thượng đế bởi vì
không có khoảng cách giữa bạn và Thượng đế. Hay ngay cả
ai đó dường như đi tìm Thượng đế, đấy có vẻ là một đam mê
giả. Người đó dường như đi tìm cái gì đó khác nhân danh
Thượng đế. Người đó làm Thượng đế trở thành cái cớ nhưng
người đó muốn cái gì đó khác. Có thể người đó muốn quyền
lực, có thể người đó muốn danh vọng, của cải, địa vị hay cái
gì đó khác.
Một người bạn tới và bảo tôi, “Từ lúc tôi bắt đầu cuốn
hút bản thân mình vào kinh nghiệm thiền trong trại của thầy,
tôi đã được lợi nhiều lắm.”
Tôi hỏi, “Bạn được lợi gì?”
Anh ta trả lời, “Lợi ích tâm linh không có đâu nhưng lợi
ích tài chính bắt đầu!”


Rất tốt! Đâu cần hấp tấp về tâm linh? - nó có thể để hoãn
lại dịp khác. Lợi ích tiền bạc là nhu cầu tức khắc!
Chúng ta tìm kiếm cái gì đó trong khi chúng ta gọi nó là
cái gì đó khác. Bất kì ở đâu chúng ta đã đặt nhãn Thượng đế
lên, nếu chúng ta xé bỏ cái nhãn đó đi chúng ta sẽ thấy cái gì
đó khác ẩn bên dưới. Chúng ta muốn cái gì đó khác. Người
muốn cái gì đó khác nhân danh Thượng đế là người kém
trung thực hơn người công khai tìm kiếm hoan lạc trần thế.
Chí ít còn có trung thực, đích thực. Người này nói, “Tôi
muốn tiền bạc,” người kia nói, “Tôi muốn hoan lạc dục,” rồi
người khác lại nói, “Tôi muốn địa vị, tôi muốn đáp ứng bản
ngã,” và còn có người nói, “Tôi muốn Thượng đế,” nhưng
trong ham muốn này về Thượng đế còn có cả cảm giác của
người đó rằng một ngày nào đó người đó sẽ chứng tỏ cho thế
giới rằng Thượng đế nữa cũng là trong nắm tay người đó.
Do đó, quan sát người tìm kiếm Thượng đế một cách cẩn
thận vào. Nếu bản ngã của người đó tăng lên, hiểu rằng việc
tìm kiếm của người đó vì cái gì đó khác; nếu bản ngã của
người đó giảm đi, tan tành, biến mất thì việc tìm kiếm của
người đó mới thực sự là vì Thượng đế.
Tính tự phụ của sannyasin và cái gọi là các thánh nhân
của bạn được biết rõ; thậm chí tính tự phụ của chính khách
lớn cũng không có chỗ đứng nào so với nó. Ít nhất chính việc
tìm kiếm của chính khách là để dành cho cái tự phụ đó, cho
nên nó là thoả đáng; nó là một vấn đề dứt khoát, không có gì
giả trong đó cả. Trò vui về việc là cái gì đó đặc biệt là toàn
bộ trò chơi với họ. Nhưng với thánh nhân vấn đề lại khác.
Ông ta nói rằng ông ta đang tìm kiếm việc là cái không... và
thế rồi ông ta cứ trở thành cái gì đó. Nếu hai thánh nhân gặp
nhau, họ không thể được để ngồi cùng một bục bởi vì sẽ có
vấn đề ai ngồi đâu, cao hơn hay thấp hơn. Cho nên thông
thường các thánh nhân đơn thuần không gặp lẫn nhau, vì
nhiều vấn đề nảy sinh.
Có một người bạn hơi chút lập dị - lập dị theo nghĩa là
người đó cố gắng thu xếp cho các thánh nhân gặp lẫn nhau.
Một lần người đó bảo tôi rằng có những vấn đề lớn nổi lên
bề mặt. Ngay cả vấn đề như ai nên đưa tay ra trước để chào
đón cũng phát sinh. Một tình huống khó khăn. Ngay cả phàm
nhân cũng không có vẻ trần tục đến thế. Họ có thể không
muốn đón chào ai đó bằng việc chắp tay, vậy mà họ cứ làm
điều đó. Trong tâm trí, họ có thể nghĩ rằng giá mà người kia
chắp tay trước thì tốt hơn, nhưng họ che giấu cảm giác đó;
nó có vẻ không hào hiệp. Với một số thánh nhân điều ấy
dường như là không hào hiệp - những thánh nhân đó thậm
chí còn không đáp ứng với việc chào đón, họ đã dừng ngay
việc thu xếp gặp gỡ. Họ chỉ ban ân huệ.
Người bạn đó rất bận thu xếp cuộc gặp gỡ cho thánh
nhân nọ với thánh nhân kia. Thánh nhân kia nói, “Mọi thứ
khác đều tốt cả, nhưng nếu tôi không đón chào ông ta và ông
ta lập tức lại ban cho tôi ân huệ thì điều đó sẽ làm hỏng mọi
thứ.”
Tìm kiếm của chúng ta là về cái gì đó khác, nó chẳng
liên quan gì tới tôn giáo hay với điều thiêng liêng. Chúng ta
ham muốn cái gì đó khác, chúng ta yêu cầu điều gì đó khác,
nhưng chúng ta không trung thực và chúng ta che phủ bản
thân mình bằng những yêu sách khác. Làm sao việc tìm kiếm
Thượng đế bắt đầu được? - bởi vì không có khoảng cách.
Nếu có khoảng cách, đam mê nảy sinh. Nếu có khoảng cách,
người ta cảm thấy thích chạy. Nếu có khoảng cách, ham
muốn nảy sinh để thắng. Nếu có khó khăn, bản ngã trở nên
quan tâm tới thất bại, tới thắng lợi. Nhưng chừng nào có liên
quan tới Thượng đế, không có khoảng cách. Tình huống là ở
chỗ Thượng đế đã ở cùng chúng ta.
Khi Tensing và Hillary trèo lên đỉnh Everest, niềm vui
của họ là gì? Họ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại
đứng trên đỉnh núi cao nhất. Không có gì khác trên Everest.
Nhưng người đầu tiên trên đỉnh Everest! - lịch sử đã được
tạo ra; bản ngã tìm thấy sự quan trọng trong hành động này.
Bây giờ chừng nào còn Everest trên thế giới thì chừng ấy tên
của Hillary và Tensing không thể bị xoá đi.
Có biết bao cạnh tranh để lên tới mặt trăng cho mãi tới
gần đây. Điều rất thú vị là biết chúng ta đã để lại gì trên mặt
trăng. Những người đã lên đến mặt trăng đều là người Ki tô
giáo, nhưng họ không để lại bức tượng của Jesus ở đó, họ đã
để lại lá cờ Mĩ. Nghĩ mà xem: cờ là thực, Jesus không thực!
Ngay cả ý tưởng này cũng không thoáng qua tâm trí người
Mĩ để mang ít nhất một bức tượng nhỏ của Jesus. Họ đã
mang lá cờ! Lá cờ là bản ngã thực của con người. Và nếu tên
của Jesus đôi khi còn được nhớ tới, điều đó cũng có nghĩa là
một loại lá cờ, nó không có ý nghĩa gì khác. Khi đấy là vấn
đề chiến đấu, vấn đề giương cao lá cờ, vào thời đó Jesus,
Rama, Krishna, Phật đều được ghi nhớ; nhưng việc dùng họ
thì không nhiều hơn việc dùng lá cờ. Họ cũng là một lá cờ
trên bản ngã con người.
Trên mặt trăng chúng ta đã để lại sau các lá cờ. Con
người bận bịu ham muốn tìm ra cái gì đó mà chỉ người đó
mới có thể làm để cho bản ngã người đó thu được tầm quan
trọng. Nhưng nếu như bạn được sinh ra trên đỉnh Everest bạn
sẽ gặp khó khăn lớn vì còn đâu để kéo cờ nữa.
Con người được sinh ra trong Thượng đế; chỉ ngài hiện
hữu. Bạn đã ở đấy, bạn chưa bao giờ đi xa. Đó là mảnh đất
của bạn mà trên đó bạn đã đứng. Do đó, trong việc đạt tới
Thượng đế không có cơ hội cho bất kì bản ngã nào. Bản ngã
không được quan tâm tới trong điều đó. Thế thì làm sao khao
khát và ước ao nảy sinh được khi không có ham muốn về
Thượng đế?
Khao khát về điều thiêng liêng nảy sinh theo cách rất kì lạ. Hiểu điều
này cho đúng, bởi vì không có cách nào khác
hơn cách này. Khát khao về thế giới nảy sinh bởi vì khoảng
cách. Nếu khoảng cách là không thể vượt qua được, hấp dẫn
trở nên cực kì lớn. Và đây là lí do tại sao, trong thế giới, bất
kì khi nào mọi thứ được đạt tới mối quan tâm của người ta
đều mất đi, bởi vì khoảng cách đã bị vượt qua rồi. Bạn đã
ham muốn người đàn bà, bạn đã tìm thấy cô ta; bạn đã ham
muốn xây nhà, bạn đã xây nó; bạn đã ham muốn chóp vàng
trên nhà mình và bạn đặt nó ở đó - cái gì tiếp?
Cho nên bất kì cái gì được đạt tới, thế thì nó trở thành vô
giá trị vì nó đã tới gần bạn, nó không còn khoảng cách nữa.
Nếu nó ở xa và có khó khăn theo cách không ai đạt tới được
nó, chỉ thế thì bạn mới cảm thấy xúc động, thấy vui về nó.
Vui về giầu có không có trong bản thân sự giầu có, nó là
trong cái nghèo của nhiều người khác. Nếu mọi người đều
trở thành giầu, toàn bộ mọi sự bị hỏng. Đấy là vấn đề ở Mĩ:
vui của việc thành giầu đang trở nên ngày càng ít đi. Người
nghèo đang mặc cùng kiểu quần áo như người giầu, lái cùng
kiểu xe ô tô, sống trong những ngôi nhà tương tự. Không có
khác biệt cơ bản nhiều mấy giữa người giầu và người nghèo.
Cái vui của người giầu đang bị mất đi. Người giầu đang cảm
thấy bị bối rối do điều đó; họ đang tìm những trò mới mà chỉ
có họ mới có khả năng hưởng thú.
Chúng ta là trong Thượng đế, do đó không có việc cầu
gọi, không lời mời trong đó cho bản ngã; không có thách
thức, không có động cơ cho bản ngã. Vậy thì làm sao khát
khao về điều thiêng liêng có thể nảy sinh được? Khát khao
về những thứ trần thế nảy sinh là do khoảng cách của chúng
và do sự thách thức và mời gọi của chúng. Khát khao về
Thượng đế nảy sinh từ thất bại của những điều trần tục.
Để điều này được hiểu. Khi bạn chạy theo mọi hướng và
ở đâu cũng thất bại; khi bạn đã đạt được mọi thứ và tất cả
đều chứng tỏ vô giá trị; khi tìm kiếm của bạn về mọi thứ đã
hoàn thành, và với hoàn thành này nảy sinh tiêu cực, mọi thứ
trở thành con số không; chỉ thế thì mới nảy sinh khao khát về
Thượng đế. Mọi thứ dường như vàng từ nơi xa nhưng tất cả
chúng lại chứng tỏ là đống bùn khi chúng lọt vào tay bạn.
Khoảng cách càng xa, vàng càng nguyên chất. Khi nó bắt
đầu lại gần hơn, nó cũng bắt đầu trở nên kém nguyên chất đi.
Gần hơn nữa nó bắt đầu biến thành đất sét.
Có câu chuyện về vua Midas ở Hi lạp - có trào phúng lớn
trong đó. Midas được ân huệ có một quyền năng siêu nhiên;
món quà của thần là ở chỗ bất kì cái gì ông ta sờ vào đều trở
thành vàng. Tất cả chúng ta là điều ngược của Midas: bất kì
cái gì chúng ta mó tay vào đều trở thành đống bùn!
Nhưng điều đó rất thú vị... Ngay cả Midas cũng trong rắc
rối lớn - làm sao có thể có bất kì kết thúc nào cho rắc rối của
chúng ta? Bất kì cái gì Midas sờ vào đều trở thành vàng. Ông
ta chạm vào vợ, bà ấy trở thành vàng. Ông ta chạm vào thức
ăn, nó thành vàng. Ông ta cầm cốc nước, trước khi nó tới
môi ông ta, nó đã thành vàng. Midas đáng thương! Ông ta
trong khó khăn lớn. Bạn không thể nào làm dịu cơn khát của
mình bằng vàng được. Chúng ta có nói nhiều đến đâu về
“một thân thể tựa như vàng lấp lánh,” cũng không thành vấn
đề, không có sự thoả mãn nào nảy sinh từ thân thể như thế.
Người yêu có thể ca tụng thân thể của người mình yêu như
“một tấm thân vàng” đến đâu đi chăng nữa thì cũng không
thành vấn đề, người đó sẽ hiểu điều gì xảy ra nếu tấm thân
đó thực sự trở thành vàng. Người đó sẽ phải đập đầu mình
nếu như điều như thế xảy ra. Người đó sẽ cảm thấy rằng tấm
thân trước còn tốt hơn.
Cho nên Midas đã gặp khó khăn lớn. Ông ta đã bị vàng hấp dẫn bởi việc nói
chuyện với các nhà thơ. Bây giờ sao?
Mọi thứ đều thành vàng - vợ, nước, thức ăn! Mọi người bắt
đầu chạy trốn khỏi ông ta. Con riêng của ông ta cũng bắt đầu
giữ khoảng cách với ông ta - ai biết được khi nào ông ấy có
thể chạm phải bạn! Không bạn bè nào dám lại gần ông ta.
Midas trở nên rất đơn độc. Ông ta là vua, và ông ta trở nên
đơn độc. Các quan thượng thư sẽ không tới quá gần ông ta;
họ giữ một khoảng cách an toàn từ xa để cho họ có thể chạy
trốn nếu cần. Midas bắt đầu chết đói. Ông ta không thể ăn
thức ăn nào, ông ta không thể uống nước. Ông ta bắt đầu la
hét và kêu to, “Ôi, lạy trời, xin ngài rút lại món quà này đi!
Tốt hơn cả là con vẫn như trước! Ân huệ này đã thành tai
hoạ.”
Midas đã trong trạng thái đó - mọi thứ mà ông ta sờ tới
đều biến thành vàng. Hình dung xem hoàn cảnh của chúng ta
sẽ như thế nào nếu bất kì cái gì chúng ta động tới cũng đều
biến thành đống đất sét. Vợ dường như đẹp đẽ và như vàng
khi cô ấy ở xa xa; cái ngày hôn nhân xảy ra, cô ấy bắt đầu
biến thành đất đen. Trong bốn hay năm năm cô ấy trở thành
như bùn. Mọi thứ đều biến thành bùn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng mọi chạy đua đều trở thành vô
tích sự, bạn đi đến một cái dừng chết dí ngay nơi Thượng đế
hiện hữu. Cái ngày bạn đi tới biết rằng bạn đã không thu
được gì bởi việc chạy đua, bạn sẽ không chạy đua thêm nữa.
Và bởi vì bạn không chạy đua, bây giờ bạn thấy điều mà
trước đây không thấy được bởi vì chạy đua.
Khi tâm trí mê mải trong chạy đua, mọi thứ đã từng ở xa
đều được thấy. Khi chạy đua trở thành vô dụng, mắt trở lại
khung cảnh gần hơn. Và nếu chạy đua dừng lại toàn bộ, mắt
bắt đầu nhìn theo chiều ngược. Mãi cho đến nay chúng đã
chỉ nhìn bên ngoài, bây giờ chúng bắt đầu nhìn bên trong.
Gương thực hiện việc quay ngược lại. Thế thì bạn không tìm
thứ gì đáng nhìn trong thế giới nữa, hay đáng kiếm và đáng
tìm trong thế giới nữa. Bây giờ thế giới không còn là ham
muốn chút nào nữa. Đó là lí do tại sao Phật, Mahavira và
Upanishad đã đặt nhiều nhấn mạnh thế vào sự kiện là vô ham
muốn là cánh cửa.
Ham muốn là cánh cửa đi ra xa; vô ham muốn là cánh
cửa về lại gần.
Bây giờ chúng ta hiểu câu kinh này: “Bên trong thân thể
ẩn giấu cái không sinh và vĩnh hằng.”
Nó chưa bao giờ sinh ra, nó có đó mãi mãi. Cái vĩnh
hằng và không sinh đang ẩn bên trong thân thể nhưng thân
thể không biết về nó. Thân thể là một phần của đất; nó bị che
giấu bên trong đất nhưng đất không biết về nó. Trong kinh
này cùng điều đó được lặp lại từ những góc độ khác nhau.
Cái không sinh và vĩnh hằng bị ẩn giấu trong lửa, nhưng
lửa không biết nó. Nó được ẩn giấu ở mọi nơi, nhưng người
đứng sau cái bị che giấu không biết đến nó bởi vì người
đứng sau cái bị che giấu đang chạy đua bên ngoài. Bạn đã
bao giờ nhận ra điều này chưa? Nếu bạn có thể kinh nghiệm
được việc chạy đua bên trong của thân thể bạn, bạn sẽ đạt tới
samadhi. Bạn đã kinh nghiệm mỗi việc chạy đua bên ngoài
của thân thể - một thân thể đẹp được thấy và xúc động chạy
qua thân thể bạn; mọi tế bào thân thể bạn bắt đầu chạy đua
theo nó. Một đoá hoa đẹp được thấy và mắt bắt đầu chạy
đua. Một giai điệu du dương được nghe thấy và tai bắt đầu
chạy đua.
Thân thể bao giờ cũng chạy đua bên ngoài. Bạn đã bao
giờ kinh nghiệm thân thể chạy đua bên trong chưa? Không,
bạn chưa kinh nghiệm đâu. Thế thì làm sao thân thể đáng
thương này biết được ai đang ẩn náu bên trong? Nơi thân thể chưa bao giờ
đi, nơi thân thể chưa bao giờ ngó tới, chưa bao
giờ nghe thấy, chưa bao giờ thám hiểm... làm sao thân thể có
thể biết được cái gì có đó bên trong? Do đó thân thể vẫn còn
là kẻ xa lạ với người sở hữu thân thể đó. Tất cả chạy đua đều
hướng theo bên ngoài, do đó dốt nát tràn ngập bên trong.
Kinh này là việc lặp lại cho cùng một thứ nhưng từ những
cánh cửa khác nhau.
Cái ẩn kín bên trong không khí, không khí không biết.
Tâm trí không biết về người sở hữu thân thể đó. Bản ngã
không hay về người sở hữu thân thể đó. Tâm trí lí trí, cái bất
diệt, cái không biểu hiện - tất cả chúng đều không biết đến
người có thân thể chính là chúng và người ẩn kín bên trong
chúng. Ngay cả cái chết cũng vẫn còn không quen biết với
người có cái chết xảy ra. Phát biểu này có đôi chút kì lạ: cái
chết vẫn còn không quen biết với người chết. Không có gì
chết khi người ta chết cả.
Khi cái chết xảy ra, ai thực sự chết? Không ai cả. Thân
thể không chết, bởi vì nó bao giờ cũng chết rồi; không có
vấn đề về việc chết của nó. Người ẩn kín bên trong thân thể
là bất tử vĩnh viễn; không có vấn đề về việc chết của người
đó. Chỉ mối quan hệ tan vỡ. Trong cái chết mối quan hệ giữa
người chết và người bất tử tan vỡ. Nhưng bản thân cái chết,
cho dù sau khi tới gần đến thế, cũng vẫn còn không biết gì về
người bất tử.
Bao nhiêu lần chúng ta đã chết, vậy mà chúng ta vẫn
chưa đi tới biết người bất tử ở bên trong chúng ta. Chính tình
huống này có nghĩa là ngay cả trong khi tới gần chúng ta vẫn
không có khả năng nhìn vào trong; cái nhìn của chúng ta tiếp
tục hội tụ bản thân nó ra ngoài. Nhìn một người đang nằm
trên giường chết: người đó vẫn cứ nhìn ra ngoài. Thậm chí
bây giờ người đó không cảm thấy thích nhìn vào bên trong.
Cái chết đang kéo và lôi người đó khỏi thân thể, nhưng
người đó vẫn níu bám lấy thân thể - níu bám còn mạnh hơn,
mạnh hơn hẳn trước đó.
Đây là lí do tại sao người già trở nên xấu còn người trẻ
trông đẹp. Nếu chúng ta nhìn điều đó sâu sắc, lí do cho điều
này không phải là một mình thân thể. Người trẻ không níu
bám lấy thân thể, người đó vẫn còn tin tưởng vào nó. Người
già bắt đầu níu bám lấy thân thể; và bởi vì níu bám đó mà
mọi thứ xấu sinh ra. Người già bắt đầu sợ hãi: cái chết đến
đây... bây giờ cái chết tới... cái chết ở cạnh kề. Người già
càng sợ chết càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống. Và
người càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống, người đó càng
trở nên xấu hơn.
Trẻ con trông đáng yêu làm sao! Chúng đơn giản không
níu bám chút nào. Chúng không có ý tưởng rằng cái chết tồn
tại. Nhìn chim chóc và muông thú mà xem: chúng già đến
đâu chúng trông cũng vẫn thế. Tôi đang nói về những con
vật và những con chim còn chưa bị hư hỏng qua việc đồng
hành cùng con người. Con người chỉ làm hỏng mọi thứ. Cho
nên điều dường như rất lạ là trong rừng hoang chim chóc và
muông thú có vẻ không bị già đi. Kiểu tuổi già bắt giữ con
người dường như không bắt giữ chim chóc và muông thú.
Chúng vẫn còn giống như trẻ con. Theo một nghĩa sâu sắc
nào đó chúng không nhận biết chút nào rằng cái chết sẽ tới,
do đó không có níu bám vào thân thể.
Tính tươi tắn ở trẻ con bởi vì cuộc sống là tự nhiên,
không có sợ chết. Điều đó trở thành khó khăn cho tuổi già;
cái chết trở nên rõ ràng hơn. Cuộc sống là nỗ lực bây giờ,
người già sống bằng nỗ lực. Mọi li của cuộc hành trình
người đó đều ý thức tới cái chết bây giờ. Điều đó tạo ra bất
định; căng thẳng tăng lên bên trong người đó và lo âu cùng buồn khổ bắt
giữ người đó thường xuyên, và điều đó làm cho
tâm trí thành xấu.
Bản thân cái chết không đi tới biết người bất tử ẩn bên
trong thân thể. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ hiện
tượng nhìn vào trong chỉ xảy ra khi việc nhìn ra ngoài đã trở
thành vô tích sự và vô nghĩa. Để điều này được hiểu đúng.
Nó dường như đã trở thành vô nghĩa nhiều lần rồi, nhưng
vẫn chưa trở thành thực sự như vậy. Không phải là cái vô
nghĩa đó không bừng dậy trong bạn - nó có bừng dậy trong
bạn đấy. Bạn đã nghĩ về việc mua một chiếc xe rồi bạn mua
nó. Khi bạn chưa mua nó, bạn mơ về nó trong đêm. Vào cái
đêm trước hôm nó được giao cho bạn, thậm chí bạn còn
không ngủ được ngon - cả đêm ròng!
Ai đó đã viết về người bạn mình, người mua một chiếc
xe rất đẹp, chiếc Ferarri. Nó là chiếc xe rất đắt. Trong chính
ngày đầu tiên người đó đã lái nó, chiếc xe bị xước một chút
xíu.
Người bạn đó không còn là đứa trẻ nữa, ông ta đã năm
mươi tuổi; và ông ta cũng không phải là người thiếu học vấn,
ông ta là một giáo sư đại học - giáo sư triết học hẳn hoi.
Nhưng người ta đã thấy ông ấy khóc hôm đó, gục đầu vào
vai mẹ mình. Chỉ bởi vì chiếc Ferarri bị xước! Chiếc xe đắt
thế. Ông ta đã mơ ước biết bao về nó. Vết xước đó của chiếc
xe hẳn đã phải ăn sâu vào ông ta, vào chính linh hồn ông ta;
đấy là lí do tại sao ông ta khóc.
Khóc thì tất cả các bạn đều làm. Người đàn ông đó phải
là một người chân thật hơn. Trên con đường thoáng đãng,
gục đầu vào vai mẹ, ông ta bắt đầu khóc. Nhưng trạng thái
này kéo dài được bao lâu? Trong vài ngày chiếc Ferarri sẽ
trở nên cũ. Sau một hay hai tháng người này sẽ ngồi trong
cũng chiếc xe đó nhưng ông ta thậm chí sẽ không cảm thấy
mình đang ngồi trong chiếc xe nào nữa. Ông ta sẽ chán với
chiếc xe này - nhưng chưa chán với xe. Mơ ước về một chiếc
xe khác nào đó sẽ bắt giữ ông ta. Bây giờ ông ta có thể nghĩ
tới việc làm chủ chiếc Rolls Royce, hay chiếc xe khác nào
đó. Tâm trí sẽ chán với một người đàn bà hay một người đàn
ông, nhưng nó sẽ không chán với đàn bà như vậy hay đàn
ông như vậy.
Tất cả chúng ta đều thấy chán, nhưng cái chán của chúng
ta vẫn còn gắn với những thứ đặc biệt. Còn chính thực tại
của việc chán này không trở thành một phần của kinh
nghiệm của chúng ta. Khi chúng ta mệt mỏi về thứ này,
chúng ta chọn thứ khác cùng kiểu, và quá trình này cứ tiếp
tục mãi. Đây là khác biệt duy nhất giữa bạn và vị phật.
Bạn chán với một người đàn bà nhưng mối quan tâm của
bạn vẫn tiếp tục trong người đàn bà khác. Nếu bạn chán với
vợ mình, mối quan tâm của bạn tiếp tục ở vợ của ai đó khác.
Bất kì cái gì gần gũi và có sẵn đều trở thành vô dụng, nhưng
cái ở xa duy trì mối quan tâm của bạn. Cái ở xa đó rồi cũng
sẽ trở thành vô dụng vào ngày mai khi nó lại gần bạn. Nhưng
không thể nào mọi thứ đều có thể lại gần người ta được. Một
số thứ vẫn tiếp tục còn ở xa; do vậy mối quan tâm vẫn tiếp
diễn, ham muốn vẫn cứ chạy đua.
Chán một đàn bà, vị phật chán luôn với mọi đàn bà.
Sống trong một lâu đài, vị phật đã sống trong mọi lâu đài.
Với vị phật, chỉ một việc xảy ra là đủ. Đây là cách tiếp cận
khoa học. Nếu một giọt nước đã được biết, thế thì toàn bộ
biển cả đã được biết. Ông ấy sẽ là nhà khoa học điên khùng
nếu cứ tiếp tục kiểm thử mọi đại dương và nói, “Khi tôi hoàn
thành việc kiểm thử mọi giọt nước của mọi đại dương, tôi sẽ
tuyên bố rằng nước được tạo nên từ hidro và oxi.” Chúng ta
đang trong một loại điên khùng tương tự. Nhà khoa học kiểm thử một giọt
nước, phát hiện ra rằng nước được tạo nên từ
các nguyên tử hidro và oxi, và rằng H2O là phương trình cho
các thành tố của nước, và thế là vấn đề xong với ông ta. Mọi
nước trong mọi biển bây giờ đều được biết. Bất kì nơi đâu có
nước, ngay cả trên bất kì hành tinh khác nào - và các nhà
khoa học nói có ít nhất năm mươi ngàn trái đất tương tự như
trái đất của chúng ta - hay ở bất kì đâu trong vũ trụ, nó đều
được tạo nên từ việc bố trí của các nguyên tử: H2O.
Mọi nước được biết bằng việc biết một giọt nước.
Với việc hiểu mẫu hình và hành vi của một ham muốn,
người đó đi tới biết toàn thể bản chất của mọi ham muốn và
trở thành vị phật. Biết một ham muốn, người đó, người thấy
được cái vô tích sự của nó - cái phù phiếm phổ cập - và cái
thất bại không tránh khỏi của nó, ham muốn của người đó
đơn giản rụng đi. Ham muốn rụng đi tựa như cái nạng của
người què bất thần rơi xuống. Người đó đã bước đi với trợ
giúp của cái nạng; người đó đã không có chân để bước,
người đó đã có chân gỗ. Bỗng nhiên chiếc nạng rơi ra và
người què đổ sập xuống. Điều tương tự cũng xảy ra khi cái
nạng ham muốn rơi rụng đi. Không có chân thực để bước
trong cuộc sống trần gian; chúng là nhân tạo, cứng đơ, được
làm bằng những ham muốn. Ham muốn rơi đi chính là chiếc
nạng rơi đi, và người ta bỗng nhiên thấy bản thân mình ở đó
- từ nơi mà người đó chưa bao giờ đi, nơi người đó bao giờ
cũng ở đấy, trong bản tính thực của mình. Đó là Thượng đế,
đó là linh hồn.
Đoạn cuối của kinh giải thích điều này:
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là thiên thần
thiêng liêng Narayana
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Điều cuối cùng là kinh này. Cuộc chạy đua theo các ham
muốn là do sự kiện rằng mơ nào đó bao giờ cũng có vẻ gần
đạt tới hoàn thành ở đâu đó nơi xa xa. Người trong sa mạc
nhìn thấy một hồ nước gần chân trời, chạy lại lấy nước, và
khi tới đó phát hiện ra rằng không có nước, rằng không có gì
ngoài cát và cát. Nhưng rồi cái hồ lại xuất hiện đâu đó khác.
Điều này được gọi là ảo cảnh.
Khi tia sáng mặt trời trở nên nóng và được phản xạ trên
cát thì các tia sáng rung rinh tạo ra ảo cảnh về gợn sóng và
sóng. Gợn sóng và sóng lăn tăn cứ liên tục lan rộng, việc
phản xạ trải trên bề mặt xuất hiện. Nếu có cây cối gần đó, cả
cây đó cũng được phản xạ lên bề mặt đó, bề mặt có tác dụng
tựa như chiếc gương. Khi từ một khoảng cách xa bạn thấy
không chỉ có nước mà còn cả phản xạ của đám mây bay qua
in trên nước, làm sao bạn không tin được? Nếu có cả phản xạ
của đàn chim bay trên trời trong cái gọi là nước đó, và nếu
cây cối gần đó cũng được phản xạ vào trong nước, niềm tin
của bạn vào sự tồn tại của nước lại càng được xác nhận.


Không chỉ sóng nước được trông thấy, ngay cả những phản
xạ trong nước cũng được thấy. Nhưng khi bạn lại gần hơn,
phản xạ dừng xuất hiện, và khi tiến lại chỗ ấy bạn không tìm
thấy gì ngoài cát.
Adhyas, hay ảo tưởng, nghĩa là thấy cái không có đó.
Shankara yêu từ này lắm, và với Upanishad nó là chính nền
tảng. Adhyas nghĩa là phóng chiếu, thấy cái không có đó: cái
được thấy không thực có đó, bạn đang phóng chiếu nó từ bên
trong. Bạn là nguyên nhân của việc phóng chiếu.
Một khuôn mặt dường như đẹp với bạn: liệu cái đẹp đó
đang có đó hay bạn đang phóng chiếu về nó?... vì ngày mai
cũng cùng khuôn mặt đó lại có thể tỏ ra xấu với bạn. Có thể
nó đã không có vẻ đẹp với bạn ngày hôm qua. Hôm nay
bỗng nhiên con mắt thiêng liêng của bạn đã mở ra và khuôn
mặt này đã bắt đầu trông đẹp với bạn. Với bạn bè của bạn nó
vẫn trông không đẹp.
Người ta nói rằng Laila không đẹp, chỉ có Majnu mới
trông cô ấy là đẹp. Cả làng đều khó xử, và mọi người cố
gắng thuyết phục Majnu: “Cậu ngây thơ lắm. Có bao nhiêu
gái đẹp trong làng; cậu cứ bị ám ảnh không cần thiết với
Laila làm gì.” Majnu trả lời, “Nếu bác muốn thấy Laila, bác
phải có con mắt của Majnu.” Đây là adhyas, ảo tưởng. Vấn
đề không phải là Laila mà vấn đề là con mắt của Majnu. Vấn
đề không phải là cái được thấy mà vấn đề là người đang thấy
cô ấy. Cho nên Majnu nói, “Thấy bằng mắt tôi đây này, thế
thì bác sẽ có thể thấy được Laila.” Không hoài nghi gì rằng
dưới con mắt của Majnu thì cô ấy sẽ trông đẹp. Nếu như có
thể mượn được cặp mắt của Majnu thì Laila sẽ thành đẹp đối
với bạn như cô ấy đã đẹp đối với Majnu.
Mắt cũng có một kiểu kính. Mầu của kính phóng chiếu
lên vật được thấy. Tất cả các giác quan bạn đều đang phóng
chiếu. Bạn đang tạo ra một thế giới khắp quanh bạn. Tâm trí
bạn không chỉ là người nhận, nó là đấng sáng tạo nữa. Bạn
đang sáng tạo ra một thế giới quanh bạn - về cái đẹp, về
hương thơm, thế này, thế nọ.
Thế giới này không phải như bạn thấy nó. Nó tuỳ thuộc
vào bạn. Nếu bạn thay đổi, thế giới cũng thay đổi theo.
Thanh niên nhìn thấy thế giới này, người già thấy thế giới
khác, và trẻ con lại thấy thế giới khác nữa. Cái gì tạo ra khác
biệt này? Thế giới vẫn như vậy thôi. Nhưng trẻ con không có
cùng con mắt như thanh niên. Trẻ con vẫn còn quan tâm tới
việc nhặt đá và sỏi - chỉ mầu sắc của mọi thứ là đủ. Thanh
niên nói, “Vứt quách những thứ ấy đi! Có gì trong đó nào?
Chúng có giá trị gì nào?” Với thanh niên tiền bạc đã trở nên
giá trị. Người đó bắt đầu hiểu giá trị của tiền. Bây giờ nhặt
đá sỏi không có tác dụng. Bây giờ chẳng ích gì mà đuổi theo
bướm cả.
Trẻ con bắt bướm; bướm trông như cõi trời với chúng.
Thanh niên coi trẻ con là dốt nát, nhưng khi người này già đi,
các giác quan người đó cũng mệt mỏi; kinh nghiệm của
người đó chuyển thành chua chát và cay đắng và người đó
cảm thấy dường như mồm đầy một kiểu vô vị. Bây giờ ngay
cả thanh niên cũng dường như là giống trẻ con đối với người
này. Với người đó, thanh niên đang đuổi theo các loại bướm
bướm khác. Chỉ có loại bướm là thay đổi, nhưng không phải
là con bướm.
Người già cứ hay nói năng, giải thích, rằng đấy là bướm,
nhưng không thanh niên nào chịu nghe họ. Bản thân họ đã
không nghe bố họ và ông họ. Có lí do để không nghe, và đó
là việc họ có con mắt khác. Nếu thanh niên có đôi mắt của
người già, người đó sẽ thấy cùng một sự việc. Và nhớ lấy,
điều thú vị là ở chỗ nếu người già có thể có được đôi mắt của
thanh niên lần nữa, người đó sẽ quên mọi kinh nghiệm này.
Người đó sẽ quên mọi khôn ngoan mà người đó đang thể
hiện; thế giới một lần nữa lại sẽ trở thành đầy mầu sắc với
người đó.
Tôi đã từng nghe: một chánh án của Toà Thượng thẩm Mĩ đã tới Paris khi
ông ta còn trẻ và đã xây dựng gia đình.
Sau ba mươi năm, khi ông ấy đã già, và sau khi con ông ấy
cũng đã xây dựng gia đình và ghé thăm Paris, vị chánh án lại
trở lại Paris cùng với vợ. Tên ông ta là Peare. Ông ấy nhìn
Paris, và nói với vợ, “Đấy không còn là cùng Paris đó nữa.
Mầu sắc của nó đã phôi phai rồi. Cái đẹp là ở những ngày đó
khi chúng ta tới Paris lần đầu tiên. Mọi thứ đều không thể so
sánh được; Paris đã khác rồi!”
Vợ ông trả lời, “Xin lỗi ông, ông quên mất rồi. Lần đầu
tiên chúng ta tới thì Peare là con người khác; Paris vẫn thế.
Nếu ông có thể thấy được Paris bằng con mắt của thanh niên
thì nó vẫn thế. Làm sao Paris thay đổi được?” Mọi người
thay đổi và cái nhìn của họ thay đổi.
Nếu thế giới dường như bị thay đổi với thay đổi trong cái
nhìn của bạn, hiểu cho rõ rằng cái bạn đã thấy và đã nghĩ nó
chỉ là adhyas, ảo tưởng thôi. Nó đã được tạo ra bởi phóng
chiếu của bạn, nó không phải là thế giới như nó đang đấy.
Liệu có cách nào để thế giới được thấy không có phóng
chiếu của bạn không? Nếu có, chỉ có thế người ta mới thấy
được thế giới như nó đang đấy.
Phóng chiếu là ảo tưởng. Do đó, nhớ lấy, thấy không có
nghĩa là chỉ nhìn bằng mắt. Thấy nghĩa là trạng thái mà tất cả
những phóng chiếu của bạn đều dừng lại, khi bạn không có
quan điểm nào. Khi bạn không có con mắt cá nhân riêng để
áp đặt các điều kiện, khi bạn không có xúc động và ham
muốn phóng chiếu, thế thì việc thấy xảy ra.
Nhìn sa mạc khi bạn không khát: thế thì sa mạc không
thể lừa bạn. Lừa dối xảy ra bởi vì cơn khát. Bạn cần nước, và
khi bạn không có nước, ham muốn trở thành ngày một mạnh
hơn. Và khi ham muốn trở nên quá mạnh, tâm trí bạn phát rồ
và nó muốn tin ngay cả những cái mà thực tế không có đó.
Nhưng có một trạng thái mọi cái nhìn đều dừng và việc
thấy nảy sinh. Khi nào thì cái nhìn dừng lại? Cái nhìn dừng
lại chỉ khi mọi ham muốn dừng lại, bởi vì mọi cái nhìn đều là
trò chơi của ham muốn của bạn, sự mở rộng của các ham
muốn của bạn.
Kinh nói:
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối
Qua sự trung thành với Brahman - trung thành với cái ta.
Trung thành của chúng ta bao giờ cũng là với người
khác, với ai đó khác, không phải với cái ta riêng của chúng
ta. Chúng ta chạy theo những thứ khác, không hướng về
trung tâm riêng của mình. Chúng ta bao giờ cũng đi đâu đó
khác, né tránh người ở bên trong.
Trung thành với Brahman nghĩa là cuộc đua của các ham
muốn đã qua rồi, người ta đã đạt tới cái ta của mình. Người
ta phải đi tới chỗ không có tâm trí nữa, không giác quan,
không thân thể, nhưng chỉ còn tâm thức thuần khiết. Trong
việc được bắt rễ vào đó, mọi ảo tưởng đều lập tức tan tành;
thế thì không còn thế giới mà chỉ có Brahman, thực tại tuyệt
đối.
Khi tôi đang nói tiếng Hindu - nhiều người không hiểu
tiếng Hindu nhưng họ cũng có thể dùng được cơ hội này.
Những người không hiểu tiếng Hindu nên nhắm mắt lại và
lắng nghe chỉ âm thanh. Họ nên ngồi im lặng dường như trong thiền. Và
nhiều lần chân lí mà người ta không hiểu qua
lời người ta đi tới hiểu đơn thuần bởi việc lắng nghe âm
thanh.
Khi tôi nói tiếng Anh, những bạn không hiểu tiếng Anh
không nên nghĩ rằng điều này vô dụng cho họ. Họ nên nhắm
mắt lại và thiền theo âm thanh của lời tôi mà không dự định
hiểu ngôn ngữ. Không cần cố hiểu ngôn ngữ mà bạn không
biết. Ngồi im lặng, trở thành giống như người dốt nát, và
thiền về tác động của âm thanh. Chỉ lắng nghe. Lắng nghe đó
sẽ trở thành thiền và nó sẽ có ích lợi.
Vấn đề thực sự không phải là việc hiểu, mà là trở nên im
lặng. Nghe không phải là vấn đề, trở nên im lặng mới là vấn
đề. Biết bao nhiêu lần điều xảy ra là cái bạn đã hiểu trở thành
rào chắn, và điều tốt là lắng nghe cái gì đó bạn không hiểu
chút nào; thế thì suy nghĩ không thể can nhiễu được. Khi cái
gì đó không được hiểu, không có cách nào cho suy nghĩ
chuyển động; chúng đơn giản dừng lại.
Do đó, đôi khi lắng nghe tiếng gió xào xạc trong lùm
cây, nghe tiếng chim hót, tiếng nước chảy, còn tốt hơn là
lắng nghe người thấy và hiền nhân. Upanishad thực đang
tuôn chảy ở đó, nhưng bạn sẽ không hiểu chúng. Và nếu bạn
hiểu và bạn có thể lắng nghe, trí năng của bạn sẽ không mấy
chốc mà lắng xuống bởi vì nó không được cần nữa. Và khi
trí năng của bạn đã lặng yên, bạn được đưa lên chỗ bạn đang
tìm kiếm.

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Bài nói về Adhyatma Upanishad

Từ upanishad nghĩa là hạt mầm - hạt mầm của khoa học/
nghệ thuật phương Đông cổ đại về học quan sát tâm trí và
các quá trình của nó một cách thảnh thơi và không phán xét,
do vậy tạo khả năng cho người ta siêu việt lên trên cuộc sống
nô lệ vào các giác quan và tìm thấy cảm nhận và sáng tỏ của
tự nhận biết.
Trong mười bẩy bài nói này, Osho dùng trí huệ cổ đại
của Adhyatma Upanishad như bàn đạp cho thông điệp của
ông gửi tới nhân loại đang chuyển động ngày càng nhanh
hơn hướng tới người biết mọi điều, vào buổi bình minh của
thế kỉ hai mươi mốt. "...Lần đầu tiên Upanishad đã dùng
ngôn ngữ khoa học và đã gạt sang bên ngôn ngữ trung tâm
của con người."
Các bản kinh cổ thường được trình bày dưới dạng đối
thoại thầy-đệ tử. Adhyatma Upanishad thay đổi cách thức
này để cho bản thân đệ tử nói với mình về tự hiểu biết và làm
chi tiết cách hiểu của mình và các bước trên con đường tới
chứng ngộ.
Osho nói, theo cách nói của người tìm kiếm vô danh,
"Đây là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
là cuộc đọ sức trực tiếp với tâm linh. Không có học thuyết
trong nó; chỉ có kinh nghiệm của người đã được hoàn
thành... Trong nó không có thảo luận về cái được sinh ra từ
tò mò hay thóc mách, không; trong nó có những hướng dẫn
cho những người đầy khao khát giải thoát từ những người đã
đạt tới giải thoát..."
"Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn
đồng ý đặt cược tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng có thể trở thành kinh nghiệm của bạn. Kinh nghiệm
không thuộc vào bất kì ai; chúng đến với bất kì người nào
sẵn sàng đón nhận chúng. Không ai có độc quyền về chân lí;
bất kì người nào sẵn lòng tan biến đều kế thừa nó. Chân lí
thuộc về người biểu hiện sự sẵn sàng hỏi về nó - người mở
cánh cửa trái tim họ và mời đón nó...
"Tôi sẽ nói với bạn chỉ những điều tôi biết, bởi vì chỉ
trong việc nói đó mới có giá trị nào đó; bởi vì chỉ có những
điều tôi biết mới có thể, nếu bạn sẵn lòng, làm rung động trái
tim bạn qua tác động sống của nó."
Khi nào câu hỏi, "Phải có cái gì đó nhiều hơn thế này
chứ?" nảy sinh trong lòng bạn, bạn trở thành người tìm kiếm.
Cuốn sách này là câu chuyện về một trong những người tìm
kiếm như thế và con đường của người đó, rộn ràng với bài ca
trong tim và nhảy múa theo bản thể của người: "Tôi là cái tôi
đã từng tìm kiếm, tôi là điều tối thượng, điều thiêng liêng."
Điệu vũ này, bài ca này cũng là quyền tập ấm của bạn.
Ma Kamaal


Điều thiêng liêng là bạn
 

Triệu thỉnh
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
Om, an bình, an bình, an bình.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết. Tôi sẽ chỉ nói điều bạn cũng
có thể biết. Với biết tôi ngụ ý sống với nó. Người ta có thể
biết mặc dầu không sống nó, nhưng tri thức như thế là gánh
nặng; người ta có thể chìm vì nó, nhưng người ta không thể
được nó cứu. Biết cũng có thể là sống động nữa. Việc biết
như vậy đem lại cho chúng ta vô trọng lượng - nhẹ đến mức
chúng ta có thể bay trên trời. Chỉ khi việc biết trở thành sống
động, cánh phát triển, xiềng xích bung ra và cánh cửa tới
điều vô hạn trở nên rộng mở.
Nhưng việc biết là khó đấy; tích luỹ tri thức là dễ. Tâm
trí chọn cái dễ và tránh cái khó. Nhưng người tránh cái khó
sẽ lỡ luôn cả tôn giáo nữa. Người muốn tránh không chỉ cái
khó mà cả cái không thể nữa sẽ không bao giờ đến gần được
tôn giáo.
Tôn giáo chỉ dành cho những người sẵn sàng đi vào cái
không có thể. Tôn giáo dành cho những người liều lĩnh,
không dành cho các chủ hiệu. Tôn giáo không phải là giao
dịch kinh doanh cũng không là thoả hiệp. Tôn giáo là đặt
cược. Kẻ đánh bạc đặt cược của cải của mình; người tôn giáo
đặt cược chính bản thân mình bởi vì đó là của cải tối thượng.
Người không sẵn sàng đặt cược chính cuộc đời mình sẽ
không bao giờ có khả năng biết được bí ẩn giấu kín của cuộc
đời. Những bí mật đó không có sẵn với giá rẻ đâu. Tri thức
có sẵn với giá rẻ; tri thức đầy rẫy trong sách vở, trong kinh
sách, trong giáo dục, với các thầy giáo. Tri thức có sẵn gần
như cho không; bạn không phải trả gì để được nó. Trong tôn
giáo bạn phải trả nhiều lắm. Nói trả ‘nhiều lắm’ cũng chưa
đúng, bởi vì chỉ khi ai đó đặt cược mọi thứ thì cánh cửa tới
cuộc sống đó mới mở. Cánh cửa tới cuộc sống đó chỉ mở cho
những người đặt cược cuộc đời này. Đặt cược cuộc đời này là chìa khoá
duy nhất cho cánh cửa của cuộc đời đó. Nhưng
tri thức rất rẻ, cho nên tâm trí chọn cách dễ hơn và rẻ hơn.
Chúng ta học mọi thứ - từ ngữ, học thuyết - và nghĩ rằng
chúng ta biết. Tri thức như vậy chỉ là dốt nát nâng cao.
Người dốt nát ít nhất biết rằng người đó không biết; ít
nhất người đó cũng có chân lí tới chừng nấy. Nhưng người ta
không thể tìm được những người giả dối nhiều hơn những
người chúng ta gọi là thông thái. Họ thậm chí không biết
rằng họ không biết. Cái gì đó được nghe, cái gì đó được giao
cho trí nhớ đã lừa dối họ trong việc nghĩ họ cũng đã biết.
Tôi sẽ nói với bạn chỉ điều tôi biết, bởi vì chỉ trong việc
nói đó có giá trị nào đó; bởi vì chỉ điều mà tôi có thể biết,
nếu bạn sẵn lòng, mới làm rung động sợi dây trái tim bạn
cùng với tác động sống của nó.
Điều mà bản thân tôi không biết và điều chỉ sâu như lớp
da trong tôi, không thể đi sâu hơn chừng ấy vào bạn được.
Chỉ những cái đã đi sâu vào tim tôi mới có khả năng đó; nếu
bạn hợp tác, nó có thể đạt tới tim bạn. Ngay cả thế thì hợp
tác của bạn cũng là điều phải có, bởi vì nếu trái tim bạn đóng
kín, không có cách nào ép buộc chân lí vào trong đó. Và
cũng là tốt nó là như vậy, bởi vì nếu chân lí bị ép buộc lên
bạn, nó không thể trở thành tự do của bạn được, nó chỉ có thể
trở thành nô lệ của bạn. Mọi cưỡng bách đều trở thành nô lệ.
Cho nên trong thế giới này, mọi thứ đều có thể trao cho
bạn thông qua sức mạnh; chỉ chân lí là không thể được, bởi
vì chân lí chưa bao giờ trở thành nô lệ cả. Chính bản chất của
chân lí là tự do. Cho nên chân lí là cái duy nhất trong thế giới
này không ai có thể trao cho bạn bằng sức mạnh, cái không
ai có thể tống vào bạn, cái không thể choàng vào bạn từ bên
ngoài như quần áo; với cái đó điều tiên quyết là sự sẵn lòng,
cởi mở, dễ cảm nhận, mời chào, trái tim tràn đầy lòng biết ơn
của bạn. Nếu trái tim bạn trở thành tựa đất khô trước mùa
mưa khi nó khát nước, nứt nẻ dưới cái nóng mùa hè như
nung như nấu - dường như nó cong môi đây đó ngóng chờ
cơn mưa - thế thì chân lí đi vào bạn. Bằng không, chân lí
quay lưng ngay từ chính ngưỡng cửa của bạn. Nhiều lần nó
đã quay đi, trong nhiều, nhiều kiếp.
Bạn không phải là mới - không có gì mới trên thế gian
này cả; tất cả các bạn đều rất cổ. Bạn đã ngồi dưới chân Phật
và nghe ông ấy, bạn đã từng thấy Krishna, bạn cũng đã từng
vây quanh Jesus, nhưng dầu vậy bạn đã lỡ, bởi vì trái tim bạn
chưa bao giờ sẵn sàng. Các con sông của Phật và Mahavira
đã chảy qua bạn, nhưng bạn vẫn còn khát.
Ngày Phật sắp rời bỏ thân thể mình, Ananda đã khóc và
đấm ngực trong mối tuyệt vọng. Phật đã hỏi ông ta, “Sao ông
khóc? Ta đã gần ông đủ lâu rồi... bốn mươi năm! Và nếu
điều ấy thậm chí còn chưa xảy ra trong bốn mươi năm ấy thì
phỏng có ích gì mà khóc bây giờ? Và tại sao ông cảm thấy
phiền muộn đến thế về cái chết của ta?”
Ananda trả lời, “Tôi đau buồn quá bởi vì tôi không thể
nào đảm đương việc tan biến trong khi thầy còn ở đây. Nếu
như tôi đã tan biến thì thầy đã có thể bước vào tôi. Trong
suốt bốn mươi năm sông đã chảy qua bên tôi mà tôi vẫn còn
khát. Bây giờ tôi khóc bởi vì tôi không biết khi nào và đến
kiếp nào tôi mới có thể gặp lại được dòng sông này.”
Bạn đâu có mới. Bạn đã hoả táng các vị phật, bạn đã hoả
táng Mahavira - Jesus, Krishna và mọi người; bạn đang sống
sau khi hoả táng tất cả họ. Họ đã thua trận chiến với bạn.
Bạn rất cổ. Bạn đã từng ở đây từ khi có cuộc sống. Đó đã
từng là cuộc hành trình vô tận. Chúng ta đang lỡ ở đâu? Đấy
chỉ là vì bạn còn chưa mở, bạn đóng đấy thôi.
Tôi sẽ nói cho bạn chỉ những điều tôi đã biết. Nếu bạn có thể làm cho bản
thân mình cởi mở ra, bạn cũng sẽ biết điều
đó. Và không phải là có cái gì khó khăn ghê lắm trong đó.
Chỉ có mỗi một khó khăn thôi, và đó là bạn.
Một số người đi chỉ vì tò mò, hệt như trẻ nhỏ hỏi trong
khi chúng đang bước, “Tên của cây này là gì ạ?” Và nếu bạn
không trả lời, chúng lập tức quên ngay rằng chúng vừa hỏi
điều gì đó và chúng lại bắt đầu hỏi cái gì đó khác: “Tại sao
hòn đá này lại nằm đây thế nhỉ?” Chúng hỏi chỉ với mục
đích để hỏi chứ không phải để biết. Chúng không hỏi để biết,
chúng hỏi vì chúng không thể vẫn còn không hỏi.
Những người đang sống từ tò mò vẫn là trẻ con. Nếu bạn
hỏi, “Thượng đế là gì?” ngẫu nhiên hệt như đứa trẻ sẽ hỏi khi
thấy hiệu đồ chơi bên đường, “Đồ chơi này là gì?” bạn vẫn
còn là trẻ con. Và trẻ con có thể được tha thứ, nhưng bạn thì
không.
Tò mò sẽ không có có tác dụng. Tôn giáo không phải là
trò chơi trẻ con. Cho dù bạn có được trao cho câu trả lời, nó
cũng không phục vụ cho mục đích gì. Vui đùa của trẻ con là
trong việc hỏi. Nó có thể hỏi, đó là vui đùa của nó. Cho dù
bạn cho nó câu trả lời, nó cũng không quan tâm mấy đến câu
trả lời đó. Có vấn đề gì?
Các nhà tâm lí nói rằng khi trẻ con học nói, lần đầu tiên
chúng chỉ thực hành việc nói bằng cách hỏi, khi đứa trẻ lần
đầu tiên học đi, nó thử mọi lúc để đứng dậy và bước. Cho
nên trẻ con cứ lặp đi lặp lại cùng một câu bởi vì chúng đã thu
được kinh nghiệm mới, chiều hướng mới qua việc nói. Cho
nên trong chiều hướng mới đó chúng trôi nổi và diễn tập; đó
là lí do tại sao chúng cứ hỏi mọi thứ, chúng nói đủ mọi thứ.
Trong thế giới tôn giáo, nếu bạn cũng hỏi đủ mọi thứ,
nói đủ mọi thứ, nghĩ đủ mọi thứ mà không có ham muốn sâu
sắc nào để biết - chỉ từ tò mò - thế thì bạn sẽ vẫn hoả thiêu
nhiều vị phật; thế thì ai biết bao nhiêu vị phật nữa sẽ vẫn
phải làm việc vất vả về bạn?
Chân lí không quan hệ gì với tò mò cả.
Một số người tăng thêm chút ít tính tò mò và trở thành
hay hỏi. Cũng có một chút ít sâu sắc hơn trong hay hỏi,
nhưng chỉ chút xíu thêm thôi. Hay hỏi không phải là rất sâu
sắc, nó là nông, vì nó chỉ là trí năng. Trí năng hệt như bệnh
ghẻ lở: nếu gãi một chút, bạn cảm thấy dễ chịu. Cho nên trí
năng cứ tiếp tục gây ngứa: có Thượng đế không? Có linh hồn
không? Có cứu rỗi linh hồn không? Thiền là gì? - không phải
là bạn muốn làm việc đó. Thượng đế là gì? - không phải bạn
muốn biết về điều đó, nhưng chỉ để thảo luận, chỉ để nói
chuyện. Đấy là bài tập tâm trí, giải trí trí năng. Cho nên mọi
người chỉ nói lớn, họ chưa bao giờ đặt cược điều gì. Dù
Thượng đế có hay không, đấy không phải là mối quan tâm
thực sự của họ; và họ vẫn còn không biến đổi dù Thượng đế
có hay không.
Đây là điều rất hay: người này tin có Thượng đế, người
kia tin không có Thượng đế, và cuộc sống của cả hai là hệt
nhau. Nếu ai đó bị lăng mạ thì người tin vào có Thượng đế
cáu mà người tin vào không có Thượng đế cũng cáu. Đôi khi
điều xảy ra là người tin vào có Thượng đế cáu hơn. Người
tin không có Thượng đế, người đó có thể làm đến đâu với
bạn? Nhiều nhất người đó có thể lăng mạ bạn để đáp lại,
đánh bạn hay giết bạn. Nhưng người tin có Thượng đế có thể
tống cổ bạn cho chết dần mòn trong đau đớn của địa ngục.
Người đó có nhiều cách hơn để trở nên giận dữ.
Nếu việc tin vào Thượng đế hay không tin vào Thượng
đế không đem lại thay đổi gì trong cuộc sống người ta, điều
đó chỉ có nghĩa là nó không có quan hệ gì đến Thượng đế cả,
nó chỉ là nói chuyện trí năng thôi. Việc hay hỏi như thế làm cho con
người thành triết gia. Người đó liên tục suy ngẫm và
cân nhắc, người đó học kinh sách, tích luỹ quá nhiều học
thuyết, có khả năng nghĩ về mọi cái ủng hộ, cái chống đối,
tham dự tranh cãi, nhưng người đó chưa bao giờ sống cả.
Nếu bạn cũng chỉ toàn hay hỏi sẽ không có cuộc hành
trình nào cả. Người đầy câu hỏi là những người ngồi cạnh
cột cây số và hỏi, “Đích là gì? Đích còn bao xa nữa?” Họ
tiếp tục hỏi điều này nhưng họ không bao giờ đứng dậy và
bắt đầu bước.
Bạn biết nhiều thế! Cái gì có đó bị thiếu trong việc biết
của bạn? Bạn biết gần như mọi thứ - bất kì cái gì Phật biết
hay Mahavira hay Krishna biết, bạn cũng biết. Trong khi đọc
Gita, bạn không cảm thấy bạn biết tất cả những điều này
sao? Có đấy, bạn cũng biết, nhưng đây tất cả chỉ trong đầu
bạn. Hạt mầm còn chưa đạt tới tim bạn. Và những ý tưởng
này, chỉ trong tâm trí, giống như hạt mầm nằm trên đá. Hạt
mầm có đấy, nằm trên đá, nhưng nó không thể nảy mầm
được. Để nảy mầm, hạt mầm sẽ phải rơi ra khỏi tảng đá và
tìm tới đất. Và mặt đất cũng chưa phù hợp, vì còn cần cả hơi
nước ẩm nữa. Cho nên nó phải chui xuống dưới mặt đất tới
chỗ có nước, nơi có nước tinh tuý chảy qua.
Hạt mầm vẫn còn trong tâm trí tựa như hạt mầm nằm
trên đá. Chừng nào nó còn chưa rơi vào trong tim thì đất ướt
vẫn còn chưa có sẵn. Trong tim nước tinh tuý chảy, tình yêu
nào đó; có nước ở đó. Nếu hạt mầm rơi vào đó, nó sẽ nảy
mầm.
Người hay hỏi có rất nhiều điều bên trong họ; mọi thứ
đều có đấy, nhưng nó cũng tựa như hạt mầm nằm trên đá.
Đất không xa lắm, nhưng thậm chí cuộc hành trình nhỏ bé
này cũng lại là khó khăn lớn đối với họ. Họ không thích di
chuyển, cho nên hạt mầm vẫn còn trên tảng đá. Cuộc hành
trình nhỏ này sẽ phải được tiến hành - đó là việc hạt mầm rơi
ra khỏi đá để vào đất, tìm một chỗ trong đất, tìm ra một chút
ẩm ướt, và ẩn mình một chút bên trong đất.
Nhớ lấy, bất kì cái gì được sinh ra trong thế giới này đều
cần im lặng sâu sắc, cần tĩnh mịch và bóng tối. Những cái
được giữ trong tâm trí là cái được giữ nơi ánh sáng để mở.
Việc nảy mầm không thể có ở đó. Tim là mảnh đất ướt ẩn
bên trong bạn. Cái gì đó có thể nảy mầm ở đấy.
Do đó những người sống chỉ với việc hay hỏi trở thành
học giả và bác học; thông thái, nhưng không có gì nảy mầm
được bên trong họ cả - không sinh thành mới, không cuộc
sống mới, không hoa mới, không cái gì cả.
Có một chiều của việc tìm kiếm: chúng ta gọi nó là
mumuksha, khát khao sâu sắc về giải thoát. Tại đây không có
mối quan tâm về việc biết, mối quan tâm là về hiện hữu. Tại
đây không có mối quan tâm về hiểu biết, mối quan tâm là về
con người. Câu hỏi không phải là liệu có Thượng đế hay
không, câu hỏi là liệu tôi có thể là Thượng đế hay không. Có
thể có Thượng đế, nhưng nếu tôi không thể trở thành
Thượng đế thì phỏng có ích gì trong đó. Câu hỏi không phải
là liệu có giải thoát hay không, câu hỏi là liệu tôi có thể cũng
được giải thoát hay không. Nếu không có khả năng nào để
tôi trở nên được giải thoát thì cho dù có giải thoát ở đâu đó
nó cũng là vô nghĩa đối với tôi. Vấn đề không phải là liệu có
linh hồn bên trong hay không - có thể có, có thể không có -
vấn đề thực là liệu tôi có thể trở thành linh hồn hay không.
Mumuksha, khát khao về giải thoát, là tìm kiếm hiện
hữu. Và khi người ta muốn hiện hữu, người ta phải đặt cược
chính bản thân mình. Đây là lí do tại sao tôi nói tôn giáo là
chuyện của những kẻ liều lĩnh.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn đồng ý đặt cược
tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng đều trở thành của bạn. Kinh nghiệm không thuộc về bất
kì ai; bất kì ai sẵn sàng đón nhận chúng, chúng đến với người
đó. Không ai có bất kì quyền gì về chân lí, bất kì ai sẵn sàng
biến mất đều thừa kế nó. Chân lí thuộc về người biểu hiện sự
sẵn sàng hỏi đến nó - người mở cánh cửa trái tim mình và
mời gọi nó vào.
Đó là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
này là đương đầu trực tiếp với tâm linh. Không có siddhants,
học thuyết, trong nó; trong nó chỉ có kinh nghiệm của
siddhas, người đã được hoàn thành. Trong nó không có thảo
luận về điều được sinh ra từ tò mò hoặc hay hỏi, không;
trong nó có hướng dẫn cho những người tràn đầy khao khát
về giải thoát bởi những người đã đạt tới giải thoát.
Có một số người còn chưa đạt tới, họ chưa thể nào vứt
bỏ được việc thích thú hướng dẫn người khác. Cho sự hướng
dẫn là điều rất thích thú. Trên toàn thế giới, cái được đem
cho nhiều nhất là hướng dẫn và cái được nhận ít nhất cũng là
hướng dẫn. Mọi người đều cho, không ai nhận.
Bất kì khi nào bạn có cơ hội để nêu cho ai đó lời khuyên,
bạn đâu có để lỡ dịp đó. Không cần là bạn có khả năng đưa
ra lời khuyên này; không nhất thiết bất kì cái gì bạn nói cũng
là việc biết của bạn, nhưng khi nêu ra lời khuyên, cám dỗ của
niềm vui được làm thầy là rất khó vượt qua.
Niềm vui được làm thầy là gì? Bạn bỗng nhiên, chẳng
mất chi phí nào, ở phía cao hơn còn người kia thì ở phía thấp
hơn. Nếu ai đó tới bạn xin đồ tặng, bạn thấy khó khăn làm
sao khi phải cho đi một xu! Khó khăn là ở chỗ bạn phải cho
cái gì đó từ cái bạn có. Nhưng trong khi cho lời hướng dẫn
bạn đâu có khó khăn, bởi vì có khó khăn gì ở đó khi bạn đem
cho cái mà bạn không có? Bạn chả mất gì cả. Ngược lại, bạn
thu được cái gì đó: bạn thu được vui vẻ, bạn thu được việc
làm tăng bản ngã. Hôm nay bạn ở vị trí hướng dẫn, và người
kia ở đầu nhận. Bạn là ở trên đỉnh, người kia ở dưới.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng, trong Upanishad này,
không có vui thích của việc cho bất kì lời khuyên hay hướng
dẫn nào; thay vì thế có nỗi đau lớn, bởi vì điều mà người
thấy của Upanishad này đang cho, người đó cho sau khi biết
nó. Người đó chia sẻ cái gì đó rất thân thiết, rất bên trong.
Hướng dẫn là ngắn gọn nhưng sâu sắc. Cú đánh rất ít
nhưng chết người. Và, nếu bạn sẵn sàng, mũi tên sẽ xuyên
thẳng vào tim bạn và sẽ không để bạn sống nữa. Nó sẽ giết
chết bạn. Do đó, nhận biết và tỉnh táo đi, bởi vì chính việc
này là nguy hiểm. Bạn sẽ phải mất cái bạn nghĩ bạn đang là.
Trong nó, không có cách nào đạt tới mà không mất bản thân
bạn. Ở đây chỉ những người mất mới là người đạt tới.
Đấy cũng là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này.
Thực tế tôi có thể nói thẳng với bạn, không có lí do gì để
đem Upanishad vào - nhưng tôi sẽ dùng nó như cái cớ, chỗ
nấp. Nếu bạn bắn một mũi tên trực tiếp, người ta có thể
thoát; nhưng nếu ẩn sau Upanishad thì ít có cơ may bạn bắn
trượt. Tôi đã chọn Upanishad để cho bạn có thể không biết
rằng tôi đang nhắm thẳng vào bạn. Theo cách này cơ hội trốn
thoát bị tối thiểu hoá. Mọi thợ săn đều biết rằng việc đi săn
thuận lợi hơn nếu được thực hiện ở nơi có chỗ ẩn nấp.
Upanishad này là nơi ẩn nấp duy nhất.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi đã biết, nhưng thế thì không có
khác biệt giữa cái đó và Upanishad, vì bất kì cái gì người
thấy của Upanishad này đã từng nói, ông ta cũng đã biết nó.
Upanishad này là biểu hiện của những bí ẩn tinh tế nhất
về tâm linh. Nhưng nếu tôi cứ tiếp tục chỉ nói về Upanishad,
có nỗi sợ là việc nói chuyện vẫn đơn thuần là nói chuyện.
Cho nên nói chuyện sẽ chỉ là bối cảnh, và cùng với nó sẽ có
các thực nghiệm. Bất kì điều gì được nói ra, bất kì điều gì
người thấy đã thấy, hay bất kì điều gì tôi nói, và tôi đã thấy -
đều sẽ có những nỗ lực để làm quay mặt bạn ra, để nâng mắt
bạn lên hướng về điều đó. Nỗ lực nâng tầm mắt bạn lên
hướng về điều đó sẽ là điều chính; việc nói chuyện về
Upanishad sẽ chỉ để tạo ra nơi chốn. Những rung động như
vậy có thể được tạo ra khắp xung quanh bạn để cho bạn quên
mất thế kỉ hai mươi và hướng tới thế giới của người thấy của
Upanishad, sao cho thế giới này, cái đã trở thành mờ xỉn và
xấu xí đến thế, có thể biến mất đi và kí ức có thể nảy sinh về
những ngày mà người thấy này đã sống. Bầu không khí, nơi
chốn - Upanishad chỉ là để dành cho điều đó. Nhưng điều đó
vẫn chưa đủ; nó là cần, nhưng không đủ.
Cho nên bất kì điều gì tôi nói, nếu bạn chỉ dừng nghe về
nó tôi sẽ biết ngay bạn không nghe nó chút nào cả. Bất kì ai
không bắt đầu khởi hành cuộc hành trình sau khi nghe về
điều này, tôi đều tin là người đó đã không nghe. Nếu bạn
nghĩ bạn đã hiểu chỉ bởi việc nghe... đừng vội vã như thế!
Nếu có thể hiểu được điều gì đó chỉ bằng việc nghe, chúng ta
đã hiểu được từ lâu rồi. Nếu như có thể hiểu được điều gì đó
chỉ bằng việc nghe thì đã không thiếu những người hiểu
trong thế giới này và khó mà tìm thấy người dốt nát. Nhưng
như nó vậy, thế giới toàn những người dốt nát.
Không có gì được hiểu chỉ bằng việc nghe. Bằng việc
nghe chúng ta chỉ siết nắm tay giữ lấy lời. Không phải bởi
việc nghe mà bởi việc làm, người ta mới hiểu. Cho nên nghe
để tìm ra cách làm, không phải để hiểu. Nghe để làm, làm để
hiểu. Đừng đi tới kết luận rằng chỉ có bằng cáchg nghe bạn
đã hiểu; mối nối trung gian đó của việc làm là cần thiết.
Không có cách khác. Nhưng tâm trí chúng ta nói, “Tôi đã
nắm được điều ấy; bây giờ cần gì làm?”
Đích được đạt tới bằng việc đi tới chúng. Bạn có thể đã
hiểu mọi thứ, toàn bộ con đường của cuộc hành trình của bạn
có thể đã được bạn ghi nhớ, bạn có thể có bản đồ chi tiết
trong túi; dẫu thế, không đi không ai đã bao giờ tới được
đích của mình. Nhưng có thể mơ đã tới đích. Một người có
thể ngủ ngay đây và có thể mơ đã tới đâu đó... Tâm trí là
chuyên gia về mơ.
Đừng nghĩ rằng chỉ bạn mới thấy những giấc mơ như
vậy; ngay cả những người bạn gọi là rất thông minh cũng
vẫn cứ có những giấc mơ này. Các thánh nhân, các sư và
sannyasin - những người đã từng tìm kiếm nhiều năm trời -
vẫn còn chưa đến gần thêm cho dù một li tới bất kì đâu. Họ
vẫn còn chưa bắt đầu cuộc hành trình chút nào và họ đã tìm
kiếm trong nhiều năm ròng rã! Toàn bộ tìm kiếm của họ đã
là vòng tròn. Trong tâm trí vòng tròn đã được tạo ra - một
loại xoáy nước. Và trong xoáy nước đó họ cứ đi vòng tròn và
vòng tròn, và cuối cùng mọi thứ đều mất đi. Mọi Veda,
Upanishad, Koran, Kinh Thánh - mọi thứ đều mất đi, nhưng
thậm chí không có lấy một li chuyển động.
Chúng ta sẽ thảo luận về Upanishad không phải để làm
cho bạn hiểu về Upanishad mà để cho bạn trở thành
Upanishad. Nếu bằng việc nghe bạn ghi nhớ điều gì đó và
bắt đầu lặp lại nó, điều đó có nghĩa là tôi đã làm hại bạn; tôi
đã không chứng tỏ là người bạn của bạn. Việc lặp lại của bạn
về điều bạn đã nghe là không có giá trị gì. Khi tôi có thể thấy
rằng cùng một điều xảy ra cho bạn như đã xảy ra cho tôi,
rằng mắt bạn cũng mở ra, chỉ thế thì bạn mới trở thành
Upanishad.
Hiểu điều đó theo cách này: nhà thơ ca lên bài ca về đoá
hoa. Có thể có dịu ngọt lớn, có nhịp điệu và âm nhạc trong
bài ca này - bài ca có cái đẹp của riêng nó - nhưng dù bài ca có thể hát
về đoá hoa nhiều thế nào, vậy mà bài ca cũng vẫn
chỉ là bài ca, nó không thể là đoá hoa được, nó không phải là
hương hoa. Và nếu bạn được thoả mãn chỉ với bài ca đó, thế
thì bạn đã đi lạc lối.
Upanishad là bài ca về đoá hoa mà bạn chưa từng thấy.
Bài ca này thật kì diệu: ca sĩ đã thấy đoá hoa đó. Những
đừng thoả mãn với bài ca, bài ca không phải là hoa.
Đôi khi sự việc xảy ra là bạn cũng tới gần với hoa - chỉ
đôi khi thôi. Đôi khi bạn cũng có thoáng nhìn về hoa - ngẫu
nhiên, bất chợt - bởi vì hoa không xa lạ với bạn, nó chính là
bản tính của bạn. Nó rất gần bạn, chỉ ngay bên cạnh bạn. Đôi
khi nó chạm vào bạn, không đếm xỉa tới bạn. Đôi khi hoa
cho bạn thoáng nhìn, thoáng nhìn tựa ánh chớp loé. Trong
một khoảnh khắc nào đó nó bất ngờ lọt vào kinh nghiệm của
bạn: bạn cảm thấy rằng có cái gì đó nhiều hơn trong thế giới
này, rằng thế giới này, mà bạn đã biết, không phải là nó chút
nào. Trong thế giới cứng như đá này có cái gì đó khác không
phải là đá mà là hoa, sinh động và nở rộ. Và nếu bạn đã thấy
nó trong giấc mơ nào đó, hay tia chớp loé trong bóng tối của
đêm... Bạn thấy cái gì đó và nó biến mất đi - do vậy thỉnh
thoảng nó xuất hiện trong cuộc sống của bạn. Điều thường
hay xảy ra trong cuộc sống của nhà thơ, điều thường hay xảy
ra trong cuộc sống của hoạ sĩ, là thoáng nhìn về hoa tới gần
cạnh kề.
Vậy mà dù có gần tới đoá hoa, dù thoáng nhìn bạn đã có
lớn đến đâu, tính gần gũi này cũng vẫn là khoảng cách. Hoa
có tới gần bạn đến đâu đi chăng nữa cũng không thành vấn
đề, khoảng cách vẫn còn đó. Và ngay cả nếu tôi thực tế có
thể chạm tay vào đoá hoa, dầu vậy vẫn không chắc chắn rằng
kinh nghiệm tôi có là kinh nghiệm về hoa, bởi vì thông điệp
tới qua tay tôi. Tay có thể cho thông điệp sai. Không có gì
chắc chắn về việc tay tôi cho thông điệp đúng cả: không có lí
do nào để hoàn toàn tin cậy vào tay tôi được. Lại nữa, thông
điệp mà tay cho thường sẽ ít phần về hoa mà lại nhiều phần
về bản thân nó.
Nếu hoa được cảm thấy là lạnh, không nhất thiết là hoa
đang lạnh; có thể tay tôi đang sốt và đó là lí do tại sao hoa
được cảm thấy là lạnh. Thông điệp vậy là nhiều phần về tay
hơn, vì bất kì khi nào thông điệp tới qua trung gian thì nó
bao giờ cũng tương đối. Người ta không thể tuyệt đối chắc
chắn về nó được.
Tôi đã đọc hồi kí do Popov viết. Popov là người tìm
kiếm, một người tìm kiếm hăng hái. Cô ấy đã thực hành kỉ
luật tâm linh với Piotr Dimitrovich Ouspensky. Có lần cô
đang ngồi với Ouspensky, một quí ông tới và hỏi ông ấy liệu
có Thượng đế hay không. Ouspensky kêu lên, “Thượng đế?
Không, không có Thượng đế.” Ouspensky dừng lại một chút
rồi nói, “Nhưng tôi không thể nói với bảo đảm nào được, vì
bất kì điều gì tôi biết đều là thông qua trung gian. Đôi khi tôi
đã thấy qua mắt, nhưng mắt không thể được tin cậy. Đôi khi
tôi nghe qua tai, nhưng tai cũng có thể sai. Đôi khi tôi chạm
bằng tay, nhưng chạm cũng không thể nào tin cậy được. Tới
giờ tôi đã không thấy một cách trực tiếp, tôi chưa bao giờ
từng mặt đối mặt cả. Do đó tôi không thể nói với đảm bảo
nào. Bất kì điều gì tôi đã biết cho tới giờ đều không cho tôi
kinh nghiệm nào về Thượng đế. Nhưng điều ấy cũng không
chứng tỏ rằng không có Thượng đế, nó chỉ báo cho ông về
kinh nghiệm của tôi là gì. Cho nên tôi không thể nêu cho ông
bất kì đảm bảo nào rằng Thượng đế là không có. Nhưng
đừng vứt bỏ tìm kiếm của ông và tin tôi đi, ông cứ tiếp tục
tìm kiếm cho chính ông đi.”
Bất kì khi nào cái gì đó xảy ra qua trung gian cũng đều không đáng tin cậy
cả. Cho dù chúng ta có đến rất gần hoa,
đấy cũng vẫn chỉ là mắt thấy, tay sờ, và mũi thu lấy hương
thơm. Tất cả những cái này đều là kinh nghiệm qua giác
quan của chúng ta. Vậy nó là cái mà đôi khi nhà thơ tới gần
với đoá hoa tối thượng đến mức tiếng vọng của nó choàng
xuống đi vào trong bài ca của ông ta. Nhưng dầu vậy ông ta
không phải là Phật, không phải là Mahavira.
Phật là ai? Mahavira là ai? Phật là tâm thức đó, cái đã trở
thành bản thân đoá hoa đó; ngay cả khoảng cách chừng đó
đó, khoảng cách của việc thấy đoá hoa, cũng không tồn tại.
Tâm thức đã trở thành đoá hoa.
Chỉ trở thành đoá hoa người ta mới hiểu biết đầy đủ cái
gì có đó.
Đây là những phát biểu của người thấy của Upanishad.
Nó tựa như bài ca về đoá hoa nào đó. Tiếp tục rì rào về nó đi
- có rất nhiều vị ngọt ngào và mùi vị tuyệt vời trong đó,
nhưng nó không phải là đoá hoa, nó chỉ là bài ca. Nếu bạn
làm nỗ lực, đôi khi bạn sẽ thấy đoá hoa.
Mọi người đến tôi và nói, “Có ánh sáng lớn trong thiền,
nhưng tôi lại làm mất nó. Ánh sáng vô hạn có đấy, nhưng nó
lại biến mất đi. Có phúc lạc mênh mông, nhưng bây giờ nó đi
đâu rồi?” Bây giờ họ đi tìm nó lần nữa nhưng không thể tìm
thấy nó.
Thoáng nhìn nghĩa là bạn đã tới gần. Nhưng thoáng nhìn
nhất định sẽ bị mất. Nhiều nhất thiền có thể cho chỉ thoáng
nhìn. Nhưng đừng dừng ở đó; đừng bị mắc kẹt vào việc tìm
đi tìm lại cùng cái thoáng nhìn đó. Mục đích duy nhất của
thiền là ở chỗ người ta có được thoáng nhìn. Rồi người ta
phải tiến lên trước, đi vào samadhi, vào trong chứng ngộ, để
cho người ta trở thành chính đoá hoa.
Trong thiền là thoáng nhìn; samadhi là việc là chính nó.
Đừng dừng lại ở thoáng nhìn. Chúng rất đáng yêu: toàn
thế giới bắt đầu trông nhạt nhoà - chỉ một thoáng nhìn về đoá
hoa sống đó, việc nở hoa đó ở bên trong, và toàn bộ thế giới
trở thành vô vị và vô nghĩa. Nhưng thế rồi người nào đó nắm
bắt các thoáng nhìn và bắt đầu lặp lại chúng và nghĩ mọi sự
đã xảy ra. Không, chừng nào bản thân bạn còn chưa là điều
thiêng liêng, đừng tin rằng đó là Thượng đế.
Bạn có thể là nó, vì bạn đã là nó. Bạn chỉ phải cởi mở ra
một chút, để mở ra một chút. Bạn đang hiện diện tại đây và
bây giờ, chỉ đang ẩn nấp. Chỉ có vài tầng quần áo bao phủ
lấy bạn - và chúng nữa cũng rất mỏng - cho nên nếu bạn ham
muốn thế, bạn có thể vứt bỏ chúng ngay bây giờ, thoát khỏi
chúng và trở thành điều thiêng liêng. Nhưng níu bám của bạn
là rất mạnh; mặc dù quần áo mỏng, nắm giữ của bạn lại rất
chặt. Tại sao nắm giữ này mạnh đến thế? Nắm giữ mạnh đến
thế bởi vì chúng ta nghĩ rằng quần áo này là con người chúng
ta, rằng đây là chính chúng ta. Bên cạnh đó chúng ta không
biết gì về bất kì sự tồn tại nào khác.
Trong Upanishad này sẽ có các hướng dẫn về sự tồn tại
đó nằm ngoài những cái che phủ này. Và cùng với
Upanishad này chúng ta sẽ thiền, vậy chúng ta có thể thu
được thoáng nhìn. Và chúng ta sẽ hi vọng về samadhi, chứng
ngộ, để cho chúng ta trở thành không có nó thì cũng không
có mãn nguyện, không an bình và không chân lí.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện
gửi tới toàn thể vũ trụ.
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
và thầy con.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện này. Cuộc hành
trình tôn giáo bắt đầu với lời cầu nguyện. Nó phải là như
vậy. Lời cầu nguyện có nghĩa là tin cậy và hi vọng. Lời cầu
nguyện có nghĩa là tình cảm của chúng ta về việc là một với
toàn thể vũ trụ. Lời cầu nguyện nghĩa là, “Làm sao tôi có thể
xoay xở được một mình?”
Nếu như có khả năng một mình bạn có thể làm cho điều
này xảy ra, chắc nó đã xảy ra từ lâu rồi. Nhưng với bản thân
bạn thậm chí điều tầm thường cũng không thể được đạt tới.
Bạn đã ham muốn tiền bạc, bạn không thể nào đạt tới được
ngay cả điều đó. Bạn đã ước ao địa vị, bạn không thể xoay
xở được ngay cả với điều đó. Bạn có đủ loại ước muốn, lớn
có nhỏ có, nhưng không cái nào được hoàn thành. Một mình
bạn thậm chí không thể đảm đương được cả thế gian: cuộc
hành trình vĩ đại đi tìm chân lí này liệu có thể được riêng bản
thân bạn tiến hành không? Với riêng bản thân mình, bạn
thậm chí thất bại ngay trong thế gian.
Mọi người đều bị thất bại trong thế gian này. Ngay cả
những người dường như là chiến thắng cũng bị thất bại. Họ
chỉ dường như là chiến thắng với người khác; trong bản thân
mình họ bị thất bại hoàn toàn. Bạn với bản thân mình cũng
dường như bị thất bại, nhưng với người khác bạn dường như
chiến thắng. Có những người đằng sau bạn, người cảm thấy
rằng bạn đã đạt tới, rằng bạn đã thắng trong trận chiến thế
gian. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào trong con người, mọi
người đều thất bại.
Thế giới này là câu chuyện dài những thất bại. Ở đây
thắng lợi không xảy ra, ở đây thắng lợi không thể xảy ra
được; nó không phải là bản chất của thế giới. Thất bại là định
mệnh ở đây. Thất bại không phải của bất kì cá nhân nào,
không phải của bất kì người nào, nhưng định mệnh làm
người trong thế gian này là thất bại rồi. Bạn sẽ phải chấp
nhận thất bại ở đó. Không ai đã bao giờ thắng được ở đó.
Chúng ta không thể thắng trong thế giới này nơi mối
quan tâm duy nhất là với những điều nhỏ bé, nơi nó chỉ là
mơ - Shankara gọi nó là maya, ảo vọng. Khi mà chúng ta bị
thất bại ngay trong ảo vọng đó, trong việc xảy ra tựa mơ, thế
thì làm sao chúng ta có thể hi vọng chiến thắng theo cách
riêng của mình trong thế giới của chân lí?
Lời cầu nguyện nghĩa là nhận biết của người đã bị thất
bại trong thế gian. Khi thậm chí sau khi thử trong hết kiếp nọ
đến kiếp kia người đó đều bị thất bại trong những cái tầm
thường, người đó có thể thỉnh cầu khả năng nào ở thầy về
điều linh thiêng và điều tuyệt đối?
Do đó có lời cầu nguyện. Do đó người thấy đã khẩn cầu
toàn thể vũ trụ tới giúp người đó. Người đó đã khẩn cầu mặt
trời, người đó đã khẩn cầu Varuna. Tất cả những cái tên này
đều là biểu tượng của quyền năng của vũ trụ. Mặt trời được
khẩn cầu trước nhất bởi vì mặt trời là cuộc sống của chúng
ta. Không có mặt trời không có chúng ta. Bên trong chúng ta
đó là mặt trời sống, nóng bỏng. Nếu mặt trời tắt ở đằng kia,
chúng ta cũng tắt ở đây. Mặt trời là cuộc sống chúng ta, do đó ngài đã
được khẩn cầu tới.
Người thấy nói: Xin chào Vayu, thần không khí - Vayu
đã được đặc biệt chào mừng trong lời cầu nguyện này - vì
ngài là biểu hiện của Brahman. Điều này có hơi lạ một chút.
Nghĩ một chút mà xem. Điều này rất hay, bởi vì Vayu tuyệt
đối không biểu hiện; mọi thứ khác đều biểu hiện. Nếu như
người thấy đã nói với mặt trời, “Ngài là biểu hiện của
Brahman” - toả sáng, cháy bỏng, nóng rực, sống - điều đó
chắc có thể hiểu được. Nhưng người thấy đã không gọi mặt
trời là “biểu hiện của Brahman”; ông ta nói điều đó cho
Vayu, người chúng ta không thấy gì hết cả, người thực sự là
không biểu hiện.
Biểu hiện của Vayu ở đâu? Chúng ta chỉ suy diễn ra nó
là vậy, chúng ta chỉ cảm thấy rằng nó là vậy, nhưng nó
không thể thấy được. Nó sẵn có ở đâu để cho mắt thấy được?
Biểu hiện có nghĩa là cái có thể thấy được bằng mắt. Bây
giờ, Vayu không có sẵn chút nào cho mắt thấy. Đá, núi,
chúng tất cả là thấy được, nhưng Vayu thì không.
Nhưng người thấy nói: Hỡi Vayu, lời chào đặc biệt gửi
tới ngài, vì ngài là biểu hiện của Brahman. Ông ta nói như
vậy vì Vayu, không khí, là không thấy được nhưng vẫn có
đấy; là không thấy được bằng mắt, dầu vậy nó vẫn đang
chạm vào mắt từng khoảnh khắc - và cùng điều đó là tình
huống với chân lí tối thượng. Nó không thấy được nhưng nó
đang chạm vào chúng ta mọi khoảnh khắc.
Vayu là không thấy được bởi vì chúng ta không có mắt
để thấy nó. Vayu đơn giản có đó. Không có Vayu chúng ta
không thể tồn tại được. Vayu là trong hơi thở chúng ta, bảo
vệ chúng ta, và chính cuộc sống chúng ta phụ thuộc vào việc
hít vào thở ra nó. Cái gì đó gần gũi chúng ta thế, chính là
nhịp thở của ta, chúng ta không thể thấy được bởi vì mắt
chúng ta rất thô. Bất kì cái gì rất thô đó là cái ta thấy. Bất kì
cái gì tinh tế chúng ta đều không thể nào thấy được.
Vayu, không khí, là rất tinh tế. Nó hiện diện trước chúng
ta; nó ở bên trong và bên ngoài chúng ta. Nó hiện diện trong
từng tế bào của thân thể chúng ta, nhưng không thấy được.
Đó là lí do tại sao người ta nói: Ngài là biểu hiện của
Brahman - ngài hệt như Brahman.
Brahman hiện diện ở đây nhưng không thấy được. Và nó
đang hiện diện trong từng thớ thịt của chúng ta; thực tế, nó là
từng thớ thịt và vậy mà chúng ta không thấy dấu vết nào của
nó. Đó là lí do tại sao Vayu đã được chào - vì chúng ta biết
tới Vayu nhưng không biết tới Brahman. Sợi chỉ quan hệ đã
được thử lập, rằng Brahman là hệt như Vayu, không khí.
“Con sẽ gọi ngài là biểu hiện của Brahman,” người thấy
nói, “con cũng sẽ đặt tên ngài là chân lí và rit, luật, vì ngài
giống hệt như cái đang đó và không được biết đối với chúng
con; người là bản thân chúng con và vậy mà chúng con
không biết là ai; ai đang ở tại đây và bây giờ từ vĩnh hằng và
không được chúng con biết. Nhưng việc tìm kiếm này có thể
được hoàn thành, nếu tất cả các thần bảo vệ chúng con.”
Điều được ngụ ý bởi các thần là vô số các lực sống từ
vĩnh hằng. Và cuộc sống là mạng lưới mênh mông của vô số
lực. Sự tồn tại của bạn cũng là một mạng lưới mênh mông
của vô số sức mạnh này. Bên trong bạn gặp mặt trời, Varuna,
Indra, Vayu; Agni, lửa; Prithvi, đất; Akash, bầu trời - tất cả
chúng đều gặp nhau. Nếu chúng ta có thể biết một cá nhân
trong tính toàn bộ của người đó, chúng ta cũng biết đến cái
toàn thể của sự tồn tại dưới dạng hạt mầm. Mọi thứ đều có
đấy trong từng cá nhân, mọi thứ đều thống nhất trong người
đó, và trong sự gặp gỡ của chúng cá nhân tồn tại.
Cho nên lời cầu nguyện là cầu sự giúp đỡ từ tất cả những điều này. Nhưng
mặt trời có giúp không? Câu hỏi đó quả có
nảy sinh. Cho dù lời cầu nguyện được thực hiện, mặt trời có
giúp hay Vayu có giúp hay đất có giúp không? Vấn đề không
phải là sự giúp đỡ của đất hay của mặt trời, nhưng điều bạn
đã cầu nguyện - đó là sự giúp đỡ lớn nhất! Để điều này được
hiểu đúng.
Không mặt trời nào đến giúp bạn cả, nhưng bạn cầu
nguyện và điều đó sẽ ảnh hưởng tới bạn, không phải mặt
trời, bởi vì tâm trí cầu nguyện trở nên khiêm tốn, tâm trí cầu
nguyện trở nên không tự lực được, tâm trí cầu nguyện chấp
nhận sự kiện rằng một mình nó không thể hoàn thành được
bất kì cái gì; tâm trí cầu nguyện sẵn sàng tan biến và từ bỏ
bản ngã của nó và cảm thấy rằng nó có thể làm được việc đó.
Và những điều này đem lại kết quả. Toàn bộ kết quả của lời
cầu nguyện là vào bạn. Lời cầu nguyện không làm thay đổi
mặt trời, nhưng làm thay đổi bạn. Và khoảnh khắc bạn thay
đổi, bạn đi vào thế giới khác.
Thông thường, khi bạn cầu nguyện, bạn nghĩ rằng ai đó
sẽ làm điều gì đó cho bạn, và đó là lí do tại sao bạn cầu
nguyện. Không, lời cầu nguyện chỉ là phương tiện. Chắc
chắn bạn chắp tay trong lời cầu nguyện để hướng tới ai đó
khác, nhưng hậu quả của nó xảy ra bên trong bạn - trong
người đã chắp tay cầu nguyện.
Vậy có những khó khăn trong việc hiểu nó. Nếu bạn cầu
nguyện trong sự hiện diện của nhà khoa học, “Xin mặt trời
giúp con!” nhà khoa học sẽ nói, “Vô nghĩa làm sao! Làm sao
mặt trời lại có thể giúp anh được? Đã bao giờ mặt trời giúp
được người nào chưa?” Hay bạn cầu nguyện, “Cầu Indra
mưa xuống!” và người đó sẽ nói, “Anh có điên không đấy?
Đã bao giờ mưa rơi xuống bởi lời cầu nguyện chưa?” Nhà
khoa học cũng đúng.
Cả mặt trời lẫn mây lẫn gió đều không nghe bạn đâu.
Không ai nghe bạn cả. Nhưng sự kiện là bạn đã kêu cầu sẽ
làm biến đổi bạn. Bạn càng kêu cầu mãnh liệt càng tạo ra sự
mãnh liệt sâu sắc bên trong bạn. Nếu toàn thể con người bạn
kêu cầu, bạn sẽ trở thành người hoàn toàn khác.
Đây chính là điều lời cầu nguyện để làm gì.
Từ upanishad nghĩa là hạt mầm - hạt mầm của khoa học/
nghệ thuật phương Đông cổ đại về học quan sát tâm trí và
các quá trình của nó một cách thảnh thơi và không phán xét,
do vậy tạo khả năng cho người ta siêu việt lên trên cuộc sống
nô lệ vào các giác quan và tìm thấy cảm nhận và sáng tỏ của
tự nhận biết.
Trong mười bẩy bài nói này, Osho dùng trí huệ cổ đại
của Adhyatma Upanishad như bàn đạp cho thông điệp của
ông gửi tới nhân loại đang chuyển động ngày càng nhanh
hơn hướng tới người biết mọi điều, vào buổi bình minh của
thế kỉ hai mươi mốt. "...Lần đầu tiên Upanishad đã dùng
ngôn ngữ khoa học và đã gạt sang bên ngôn ngữ trung tâm
của con người."
Các bản kinh cổ thường được trình bày dưới dạng đối
thoại thầy-đệ tử. Adhyatma Upanishad thay đổi cách thức
này để cho bản thân đệ tử nói với mình về tự hiểu biết và làm
chi tiết cách hiểu của mình và các bước trên con đường tới
chứng ngộ.
Osho nói, theo cách nói của người tìm kiếm vô danh,
"Đây là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
là cuộc đọ sức trực tiếp với tâm linh. Không có học thuyết
trong nó; chỉ có kinh nghiệm của người đã được hoàn
thành... Trong nó không có thảo luận về cái được sinh ra từ
tò mò hay thóc mách, không; trong nó có những hướng dẫn
cho những người đầy khao khát giải thoát từ những người đã
đạt tới giải thoát..."
"Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn
đồng ý đặt cược tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng có thể trở thành kinh nghiệm của bạn. Kinh nghiệm
không thuộc vào bất kì ai; chúng đến với bất kì người nào
sẵn sàng đón nhận chúng. Không ai có độc quyền về chân lí;
bất kì người nào sẵn lòng tan biến đều kế thừa nó. Chân lí
thuộc về người biểu hiện sự sẵn sàng hỏi về nó - người mở
cánh cửa trái tim họ và mời đón nó...
"Tôi sẽ nói với bạn chỉ những điều tôi biết, bởi vì chỉ
trong việc nói đó mới có giá trị nào đó; bởi vì chỉ có những
điều tôi biết mới có thể, nếu bạn sẵn lòng, làm rung động trái
tim bạn qua tác động sống của nó."
Khi nào câu hỏi, "Phải có cái gì đó nhiều hơn thế này
chứ?" nảy sinh trong lòng bạn, bạn trở thành người tìm kiếm.
Cuốn sách này là câu chuyện về một trong những người tìm
kiếm như thế và con đường của người đó, rộn ràng với bài ca
trong tim và nhảy múa theo bản thể của người: "Tôi là cái tôi
đã từng tìm kiếm, tôi là điều tối thượng, điều thiêng liêng."
Điệu vũ này, bài ca này cũng là quyền tập ấm của bạn.
Ma Kamaal


Điều thiêng liêng là bạn
 

Triệu thỉnh
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
Om, an bình, an bình, an bình.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết. Tôi sẽ chỉ nói điều bạn cũng
có thể biết. Với biết tôi ngụ ý sống với nó. Người ta có thể
biết mặc dầu không sống nó, nhưng tri thức như thế là gánh
nặng; người ta có thể chìm vì nó, nhưng người ta không thể
được nó cứu. Biết cũng có thể là sống động nữa. Việc biết
như vậy đem lại cho chúng ta vô trọng lượng - nhẹ đến mức
chúng ta có thể bay trên trời. Chỉ khi việc biết trở thành sống
động, cánh phát triển, xiềng xích bung ra và cánh cửa tới
điều vô hạn trở nên rộng mở.
Nhưng việc biết là khó đấy; tích luỹ tri thức là dễ. Tâm
trí chọn cái dễ và tránh cái khó. Nhưng người tránh cái khó
sẽ lỡ luôn cả tôn giáo nữa. Người muốn tránh không chỉ cái
khó mà cả cái không thể nữa sẽ không bao giờ đến gần được
tôn giáo.
Tôn giáo chỉ dành cho những người sẵn sàng đi vào cái
không có thể. Tôn giáo dành cho những người liều lĩnh,
không dành cho các chủ hiệu. Tôn giáo không phải là giao
dịch kinh doanh cũng không là thoả hiệp. Tôn giáo là đặt
cược. Kẻ đánh bạc đặt cược của cải của mình; người tôn giáo
đặt cược chính bản thân mình bởi vì đó là của cải tối thượng.
Người không sẵn sàng đặt cược chính cuộc đời mình sẽ
không bao giờ có khả năng biết được bí ẩn giấu kín của cuộc
đời. Những bí mật đó không có sẵn với giá rẻ đâu. Tri thức
có sẵn với giá rẻ; tri thức đầy rẫy trong sách vở, trong kinh
sách, trong giáo dục, với các thầy giáo. Tri thức có sẵn gần
như cho không; bạn không phải trả gì để được nó. Trong tôn
giáo bạn phải trả nhiều lắm. Nói trả ‘nhiều lắm’ cũng chưa
đúng, bởi vì chỉ khi ai đó đặt cược mọi thứ thì cánh cửa tới
cuộc sống đó mới mở. Cánh cửa tới cuộc sống đó chỉ mở cho
những người đặt cược cuộc đời này. Đặt cược cuộc đời này là chìa khoá
duy nhất cho cánh cửa của cuộc đời đó. Nhưng
tri thức rất rẻ, cho nên tâm trí chọn cách dễ hơn và rẻ hơn.
Chúng ta học mọi thứ - từ ngữ, học thuyết - và nghĩ rằng
chúng ta biết. Tri thức như vậy chỉ là dốt nát nâng cao.
Người dốt nát ít nhất biết rằng người đó không biết; ít
nhất người đó cũng có chân lí tới chừng nấy. Nhưng người ta
không thể tìm được những người giả dối nhiều hơn những
người chúng ta gọi là thông thái. Họ thậm chí không biết
rằng họ không biết. Cái gì đó được nghe, cái gì đó được giao
cho trí nhớ đã lừa dối họ trong việc nghĩ họ cũng đã biết.
Tôi sẽ nói với bạn chỉ điều tôi biết, bởi vì chỉ trong việc
nói đó có giá trị nào đó; bởi vì chỉ điều mà tôi có thể biết,
nếu bạn sẵn lòng, mới làm rung động sợi dây trái tim bạn
cùng với tác động sống của nó.
Điều mà bản thân tôi không biết và điều chỉ sâu như lớp
da trong tôi, không thể đi sâu hơn chừng ấy vào bạn được.
Chỉ những cái đã đi sâu vào tim tôi mới có khả năng đó; nếu
bạn hợp tác, nó có thể đạt tới tim bạn. Ngay cả thế thì hợp
tác của bạn cũng là điều phải có, bởi vì nếu trái tim bạn đóng
kín, không có cách nào ép buộc chân lí vào trong đó. Và
cũng là tốt nó là như vậy, bởi vì nếu chân lí bị ép buộc lên
bạn, nó không thể trở thành tự do của bạn được, nó chỉ có thể
trở thành nô lệ của bạn. Mọi cưỡng bách đều trở thành nô lệ.
Cho nên trong thế giới này, mọi thứ đều có thể trao cho
bạn thông qua sức mạnh; chỉ chân lí là không thể được, bởi
vì chân lí chưa bao giờ trở thành nô lệ cả. Chính bản chất của
chân lí là tự do. Cho nên chân lí là cái duy nhất trong thế giới
này không ai có thể trao cho bạn bằng sức mạnh, cái không
ai có thể tống vào bạn, cái không thể choàng vào bạn từ bên
ngoài như quần áo; với cái đó điều tiên quyết là sự sẵn lòng,
cởi mở, dễ cảm nhận, mời chào, trái tim tràn đầy lòng biết ơn
của bạn. Nếu trái tim bạn trở thành tựa đất khô trước mùa
mưa khi nó khát nước, nứt nẻ dưới cái nóng mùa hè như
nung như nấu - dường như nó cong môi đây đó ngóng chờ
cơn mưa - thế thì chân lí đi vào bạn. Bằng không, chân lí
quay lưng ngay từ chính ngưỡng cửa của bạn. Nhiều lần nó
đã quay đi, trong nhiều, nhiều kiếp.
Bạn không phải là mới - không có gì mới trên thế gian
này cả; tất cả các bạn đều rất cổ. Bạn đã ngồi dưới chân Phật
và nghe ông ấy, bạn đã từng thấy Krishna, bạn cũng đã từng
vây quanh Jesus, nhưng dầu vậy bạn đã lỡ, bởi vì trái tim bạn
chưa bao giờ sẵn sàng. Các con sông của Phật và Mahavira
đã chảy qua bạn, nhưng bạn vẫn còn khát.
Ngày Phật sắp rời bỏ thân thể mình, Ananda đã khóc và
đấm ngực trong mối tuyệt vọng. Phật đã hỏi ông ta, “Sao ông
khóc? Ta đã gần ông đủ lâu rồi... bốn mươi năm! Và nếu
điều ấy thậm chí còn chưa xảy ra trong bốn mươi năm ấy thì
phỏng có ích gì mà khóc bây giờ? Và tại sao ông cảm thấy
phiền muộn đến thế về cái chết của ta?”
Ananda trả lời, “Tôi đau buồn quá bởi vì tôi không thể
nào đảm đương việc tan biến trong khi thầy còn ở đây. Nếu
như tôi đã tan biến thì thầy đã có thể bước vào tôi. Trong
suốt bốn mươi năm sông đã chảy qua bên tôi mà tôi vẫn còn
khát. Bây giờ tôi khóc bởi vì tôi không biết khi nào và đến
kiếp nào tôi mới có thể gặp lại được dòng sông này.”
Bạn đâu có mới. Bạn đã hoả táng các vị phật, bạn đã hoả
táng Mahavira - Jesus, Krishna và mọi người; bạn đang sống
sau khi hoả táng tất cả họ. Họ đã thua trận chiến với bạn.
Bạn rất cổ. Bạn đã từng ở đây từ khi có cuộc sống. Đó đã
từng là cuộc hành trình vô tận. Chúng ta đang lỡ ở đâu? Đấy
chỉ là vì bạn còn chưa mở, bạn đóng đấy thôi.
Tôi sẽ nói cho bạn chỉ những điều tôi đã biết. Nếu bạn có thể làm cho bản
thân mình cởi mở ra, bạn cũng sẽ biết điều
đó. Và không phải là có cái gì khó khăn ghê lắm trong đó.
Chỉ có mỗi một khó khăn thôi, và đó là bạn.
Một số người đi chỉ vì tò mò, hệt như trẻ nhỏ hỏi trong
khi chúng đang bước, “Tên của cây này là gì ạ?” Và nếu bạn
không trả lời, chúng lập tức quên ngay rằng chúng vừa hỏi
điều gì đó và chúng lại bắt đầu hỏi cái gì đó khác: “Tại sao
hòn đá này lại nằm đây thế nhỉ?” Chúng hỏi chỉ với mục
đích để hỏi chứ không phải để biết. Chúng không hỏi để biết,
chúng hỏi vì chúng không thể vẫn còn không hỏi.
Những người đang sống từ tò mò vẫn là trẻ con. Nếu bạn
hỏi, “Thượng đế là gì?” ngẫu nhiên hệt như đứa trẻ sẽ hỏi khi
thấy hiệu đồ chơi bên đường, “Đồ chơi này là gì?” bạn vẫn
còn là trẻ con. Và trẻ con có thể được tha thứ, nhưng bạn thì
không.
Tò mò sẽ không có có tác dụng. Tôn giáo không phải là
trò chơi trẻ con. Cho dù bạn có được trao cho câu trả lời, nó
cũng không phục vụ cho mục đích gì. Vui đùa của trẻ con là
trong việc hỏi. Nó có thể hỏi, đó là vui đùa của nó. Cho dù
bạn cho nó câu trả lời, nó cũng không quan tâm mấy đến câu
trả lời đó. Có vấn đề gì?
Các nhà tâm lí nói rằng khi trẻ con học nói, lần đầu tiên
chúng chỉ thực hành việc nói bằng cách hỏi, khi đứa trẻ lần
đầu tiên học đi, nó thử mọi lúc để đứng dậy và bước. Cho
nên trẻ con cứ lặp đi lặp lại cùng một câu bởi vì chúng đã thu
được kinh nghiệm mới, chiều hướng mới qua việc nói. Cho
nên trong chiều hướng mới đó chúng trôi nổi và diễn tập; đó
là lí do tại sao chúng cứ hỏi mọi thứ, chúng nói đủ mọi thứ.
Trong thế giới tôn giáo, nếu bạn cũng hỏi đủ mọi thứ,
nói đủ mọi thứ, nghĩ đủ mọi thứ mà không có ham muốn sâu
sắc nào để biết - chỉ từ tò mò - thế thì bạn sẽ vẫn hoả thiêu
nhiều vị phật; thế thì ai biết bao nhiêu vị phật nữa sẽ vẫn
phải làm việc vất vả về bạn?
Chân lí không quan hệ gì với tò mò cả.
Một số người tăng thêm chút ít tính tò mò và trở thành
hay hỏi. Cũng có một chút ít sâu sắc hơn trong hay hỏi,
nhưng chỉ chút xíu thêm thôi. Hay hỏi không phải là rất sâu
sắc, nó là nông, vì nó chỉ là trí năng. Trí năng hệt như bệnh
ghẻ lở: nếu gãi một chút, bạn cảm thấy dễ chịu. Cho nên trí
năng cứ tiếp tục gây ngứa: có Thượng đế không? Có linh hồn
không? Có cứu rỗi linh hồn không? Thiền là gì? - không phải
là bạn muốn làm việc đó. Thượng đế là gì? - không phải bạn
muốn biết về điều đó, nhưng chỉ để thảo luận, chỉ để nói
chuyện. Đấy là bài tập tâm trí, giải trí trí năng. Cho nên mọi
người chỉ nói lớn, họ chưa bao giờ đặt cược điều gì. Dù
Thượng đế có hay không, đấy không phải là mối quan tâm
thực sự của họ; và họ vẫn còn không biến đổi dù Thượng đế
có hay không.
Đây là điều rất hay: người này tin có Thượng đế, người
kia tin không có Thượng đế, và cuộc sống của cả hai là hệt
nhau. Nếu ai đó bị lăng mạ thì người tin vào có Thượng đế
cáu mà người tin vào không có Thượng đế cũng cáu. Đôi khi
điều xảy ra là người tin vào có Thượng đế cáu hơn. Người
tin không có Thượng đế, người đó có thể làm đến đâu với
bạn? Nhiều nhất người đó có thể lăng mạ bạn để đáp lại,
đánh bạn hay giết bạn. Nhưng người tin có Thượng đế có thể
tống cổ bạn cho chết dần mòn trong đau đớn của địa ngục.
Người đó có nhiều cách hơn để trở nên giận dữ.
Nếu việc tin vào Thượng đế hay không tin vào Thượng
đế không đem lại thay đổi gì trong cuộc sống người ta, điều
đó chỉ có nghĩa là nó không có quan hệ gì đến Thượng đế cả,
nó chỉ là nói chuyện trí năng thôi. Việc hay hỏi như thế làm cho con
người thành triết gia. Người đó liên tục suy ngẫm và
cân nhắc, người đó học kinh sách, tích luỹ quá nhiều học
thuyết, có khả năng nghĩ về mọi cái ủng hộ, cái chống đối,
tham dự tranh cãi, nhưng người đó chưa bao giờ sống cả.
Nếu bạn cũng chỉ toàn hay hỏi sẽ không có cuộc hành
trình nào cả. Người đầy câu hỏi là những người ngồi cạnh
cột cây số và hỏi, “Đích là gì? Đích còn bao xa nữa?” Họ
tiếp tục hỏi điều này nhưng họ không bao giờ đứng dậy và
bắt đầu bước.
Bạn biết nhiều thế! Cái gì có đó bị thiếu trong việc biết
của bạn? Bạn biết gần như mọi thứ - bất kì cái gì Phật biết
hay Mahavira hay Krishna biết, bạn cũng biết. Trong khi đọc
Gita, bạn không cảm thấy bạn biết tất cả những điều này
sao? Có đấy, bạn cũng biết, nhưng đây tất cả chỉ trong đầu
bạn. Hạt mầm còn chưa đạt tới tim bạn. Và những ý tưởng
này, chỉ trong tâm trí, giống như hạt mầm nằm trên đá. Hạt
mầm có đấy, nằm trên đá, nhưng nó không thể nảy mầm
được. Để nảy mầm, hạt mầm sẽ phải rơi ra khỏi tảng đá và
tìm tới đất. Và mặt đất cũng chưa phù hợp, vì còn cần cả hơi
nước ẩm nữa. Cho nên nó phải chui xuống dưới mặt đất tới
chỗ có nước, nơi có nước tinh tuý chảy qua.
Hạt mầm vẫn còn trong tâm trí tựa như hạt mầm nằm
trên đá. Chừng nào nó còn chưa rơi vào trong tim thì đất ướt
vẫn còn chưa có sẵn. Trong tim nước tinh tuý chảy, tình yêu
nào đó; có nước ở đó. Nếu hạt mầm rơi vào đó, nó sẽ nảy
mầm.
Người hay hỏi có rất nhiều điều bên trong họ; mọi thứ
đều có đấy, nhưng nó cũng tựa như hạt mầm nằm trên đá.
Đất không xa lắm, nhưng thậm chí cuộc hành trình nhỏ bé
này cũng lại là khó khăn lớn đối với họ. Họ không thích di
chuyển, cho nên hạt mầm vẫn còn trên tảng đá. Cuộc hành
trình nhỏ này sẽ phải được tiến hành - đó là việc hạt mầm rơi
ra khỏi đá để vào đất, tìm một chỗ trong đất, tìm ra một chút
ẩm ướt, và ẩn mình một chút bên trong đất.
Nhớ lấy, bất kì cái gì được sinh ra trong thế giới này đều
cần im lặng sâu sắc, cần tĩnh mịch và bóng tối. Những cái
được giữ trong tâm trí là cái được giữ nơi ánh sáng để mở.
Việc nảy mầm không thể có ở đó. Tim là mảnh đất ướt ẩn
bên trong bạn. Cái gì đó có thể nảy mầm ở đấy.
Do đó những người sống chỉ với việc hay hỏi trở thành
học giả và bác học; thông thái, nhưng không có gì nảy mầm
được bên trong họ cả - không sinh thành mới, không cuộc
sống mới, không hoa mới, không cái gì cả.
Có một chiều của việc tìm kiếm: chúng ta gọi nó là
mumuksha, khát khao sâu sắc về giải thoát. Tại đây không có
mối quan tâm về việc biết, mối quan tâm là về hiện hữu. Tại
đây không có mối quan tâm về hiểu biết, mối quan tâm là về
con người. Câu hỏi không phải là liệu có Thượng đế hay
không, câu hỏi là liệu tôi có thể là Thượng đế hay không. Có
thể có Thượng đế, nhưng nếu tôi không thể trở thành
Thượng đế thì phỏng có ích gì trong đó. Câu hỏi không phải
là liệu có giải thoát hay không, câu hỏi là liệu tôi có thể cũng
được giải thoát hay không. Nếu không có khả năng nào để
tôi trở nên được giải thoát thì cho dù có giải thoát ở đâu đó
nó cũng là vô nghĩa đối với tôi. Vấn đề không phải là liệu có
linh hồn bên trong hay không - có thể có, có thể không có -
vấn đề thực là liệu tôi có thể trở thành linh hồn hay không.
Mumuksha, khát khao về giải thoát, là tìm kiếm hiện
hữu. Và khi người ta muốn hiện hữu, người ta phải đặt cược
chính bản thân mình. Đây là lí do tại sao tôi nói tôn giáo là
chuyện của những kẻ liều lĩnh.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn đồng ý đặt cược
tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng đều trở thành của bạn. Kinh nghiệm không thuộc về bất
kì ai; bất kì ai sẵn sàng đón nhận chúng, chúng đến với người
đó. Không ai có bất kì quyền gì về chân lí, bất kì ai sẵn sàng
biến mất đều thừa kế nó. Chân lí thuộc về người biểu hiện sự
sẵn sàng hỏi đến nó - người mở cánh cửa trái tim mình và
mời gọi nó vào.
Đó là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
này là đương đầu trực tiếp với tâm linh. Không có siddhants,
học thuyết, trong nó; trong nó chỉ có kinh nghiệm của
siddhas, người đã được hoàn thành. Trong nó không có thảo
luận về điều được sinh ra từ tò mò hoặc hay hỏi, không;
trong nó có hướng dẫn cho những người tràn đầy khao khát
về giải thoát bởi những người đã đạt tới giải thoát.
Có một số người còn chưa đạt tới, họ chưa thể nào vứt
bỏ được việc thích thú hướng dẫn người khác. Cho sự hướng
dẫn là điều rất thích thú. Trên toàn thế giới, cái được đem
cho nhiều nhất là hướng dẫn và cái được nhận ít nhất cũng là
hướng dẫn. Mọi người đều cho, không ai nhận.
Bất kì khi nào bạn có cơ hội để nêu cho ai đó lời khuyên,
bạn đâu có để lỡ dịp đó. Không cần là bạn có khả năng đưa
ra lời khuyên này; không nhất thiết bất kì cái gì bạn nói cũng
là việc biết của bạn, nhưng khi nêu ra lời khuyên, cám dỗ của
niềm vui được làm thầy là rất khó vượt qua.
Niềm vui được làm thầy là gì? Bạn bỗng nhiên, chẳng
mất chi phí nào, ở phía cao hơn còn người kia thì ở phía thấp
hơn. Nếu ai đó tới bạn xin đồ tặng, bạn thấy khó khăn làm
sao khi phải cho đi một xu! Khó khăn là ở chỗ bạn phải cho
cái gì đó từ cái bạn có. Nhưng trong khi cho lời hướng dẫn
bạn đâu có khó khăn, bởi vì có khó khăn gì ở đó khi bạn đem
cho cái mà bạn không có? Bạn chả mất gì cả. Ngược lại, bạn
thu được cái gì đó: bạn thu được vui vẻ, bạn thu được việc
làm tăng bản ngã. Hôm nay bạn ở vị trí hướng dẫn, và người
kia ở đầu nhận. Bạn là ở trên đỉnh, người kia ở dưới.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng, trong Upanishad này,
không có vui thích của việc cho bất kì lời khuyên hay hướng
dẫn nào; thay vì thế có nỗi đau lớn, bởi vì điều mà người
thấy của Upanishad này đang cho, người đó cho sau khi biết
nó. Người đó chia sẻ cái gì đó rất thân thiết, rất bên trong.
Hướng dẫn là ngắn gọn nhưng sâu sắc. Cú đánh rất ít
nhưng chết người. Và, nếu bạn sẵn sàng, mũi tên sẽ xuyên
thẳng vào tim bạn và sẽ không để bạn sống nữa. Nó sẽ giết
chết bạn. Do đó, nhận biết và tỉnh táo đi, bởi vì chính việc
này là nguy hiểm. Bạn sẽ phải mất cái bạn nghĩ bạn đang là.
Trong nó, không có cách nào đạt tới mà không mất bản thân
bạn. Ở đây chỉ những người mất mới là người đạt tới.
Đấy cũng là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này.
Thực tế tôi có thể nói thẳng với bạn, không có lí do gì để
đem Upanishad vào - nhưng tôi sẽ dùng nó như cái cớ, chỗ
nấp. Nếu bạn bắn một mũi tên trực tiếp, người ta có thể
thoát; nhưng nếu ẩn sau Upanishad thì ít có cơ may bạn bắn
trượt. Tôi đã chọn Upanishad để cho bạn có thể không biết
rằng tôi đang nhắm thẳng vào bạn. Theo cách này cơ hội trốn
thoát bị tối thiểu hoá. Mọi thợ săn đều biết rằng việc đi săn
thuận lợi hơn nếu được thực hiện ở nơi có chỗ ẩn nấp.
Upanishad này là nơi ẩn nấp duy nhất.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi đã biết, nhưng thế thì không có
khác biệt giữa cái đó và Upanishad, vì bất kì cái gì người
thấy của Upanishad này đã từng nói, ông ta cũng đã biết nó.
Upanishad này là biểu hiện của những bí ẩn tinh tế nhất
về tâm linh. Nhưng nếu tôi cứ tiếp tục chỉ nói về Upanishad,
có nỗi sợ là việc nói chuyện vẫn đơn thuần là nói chuyện.
Cho nên nói chuyện sẽ chỉ là bối cảnh, và cùng với nó sẽ có
các thực nghiệm. Bất kì điều gì được nói ra, bất kì điều gì
người thấy đã thấy, hay bất kì điều gì tôi nói, và tôi đã thấy -
đều sẽ có những nỗ lực để làm quay mặt bạn ra, để nâng mắt
bạn lên hướng về điều đó. Nỗ lực nâng tầm mắt bạn lên
hướng về điều đó sẽ là điều chính; việc nói chuyện về
Upanishad sẽ chỉ để tạo ra nơi chốn. Những rung động như
vậy có thể được tạo ra khắp xung quanh bạn để cho bạn quên
mất thế kỉ hai mươi và hướng tới thế giới của người thấy của
Upanishad, sao cho thế giới này, cái đã trở thành mờ xỉn và
xấu xí đến thế, có thể biến mất đi và kí ức có thể nảy sinh về
những ngày mà người thấy này đã sống. Bầu không khí, nơi
chốn - Upanishad chỉ là để dành cho điều đó. Nhưng điều đó
vẫn chưa đủ; nó là cần, nhưng không đủ.
Cho nên bất kì điều gì tôi nói, nếu bạn chỉ dừng nghe về
nó tôi sẽ biết ngay bạn không nghe nó chút nào cả. Bất kì ai
không bắt đầu khởi hành cuộc hành trình sau khi nghe về
điều này, tôi đều tin là người đó đã không nghe. Nếu bạn
nghĩ bạn đã hiểu chỉ bởi việc nghe... đừng vội vã như thế!
Nếu có thể hiểu được điều gì đó chỉ bằng việc nghe, chúng ta
đã hiểu được từ lâu rồi. Nếu như có thể hiểu được điều gì đó
chỉ bằng việc nghe thì đã không thiếu những người hiểu
trong thế giới này và khó mà tìm thấy người dốt nát. Nhưng
như nó vậy, thế giới toàn những người dốt nát.
Không có gì được hiểu chỉ bằng việc nghe. Bằng việc
nghe chúng ta chỉ siết nắm tay giữ lấy lời. Không phải bởi
việc nghe mà bởi việc làm, người ta mới hiểu. Cho nên nghe
để tìm ra cách làm, không phải để hiểu. Nghe để làm, làm để
hiểu. Đừng đi tới kết luận rằng chỉ có bằng cáchg nghe bạn
đã hiểu; mối nối trung gian đó của việc làm là cần thiết.
Không có cách khác. Nhưng tâm trí chúng ta nói, “Tôi đã
nắm được điều ấy; bây giờ cần gì làm?”
Đích được đạt tới bằng việc đi tới chúng. Bạn có thể đã
hiểu mọi thứ, toàn bộ con đường của cuộc hành trình của bạn
có thể đã được bạn ghi nhớ, bạn có thể có bản đồ chi tiết
trong túi; dẫu thế, không đi không ai đã bao giờ tới được
đích của mình. Nhưng có thể mơ đã tới đích. Một người có
thể ngủ ngay đây và có thể mơ đã tới đâu đó... Tâm trí là
chuyên gia về mơ.
Đừng nghĩ rằng chỉ bạn mới thấy những giấc mơ như
vậy; ngay cả những người bạn gọi là rất thông minh cũng
vẫn cứ có những giấc mơ này. Các thánh nhân, các sư và
sannyasin - những người đã từng tìm kiếm nhiều năm trời -
vẫn còn chưa đến gần thêm cho dù một li tới bất kì đâu. Họ
vẫn còn chưa bắt đầu cuộc hành trình chút nào và họ đã tìm
kiếm trong nhiều năm ròng rã! Toàn bộ tìm kiếm của họ đã
là vòng tròn. Trong tâm trí vòng tròn đã được tạo ra - một
loại xoáy nước. Và trong xoáy nước đó họ cứ đi vòng tròn và
vòng tròn, và cuối cùng mọi thứ đều mất đi. Mọi Veda,
Upanishad, Koran, Kinh Thánh - mọi thứ đều mất đi, nhưng
thậm chí không có lấy một li chuyển động.
Chúng ta sẽ thảo luận về Upanishad không phải để làm
cho bạn hiểu về Upanishad mà để cho bạn trở thành
Upanishad. Nếu bằng việc nghe bạn ghi nhớ điều gì đó và
bắt đầu lặp lại nó, điều đó có nghĩa là tôi đã làm hại bạn; tôi
đã không chứng tỏ là người bạn của bạn. Việc lặp lại của bạn
về điều bạn đã nghe là không có giá trị gì. Khi tôi có thể thấy
rằng cùng một điều xảy ra cho bạn như đã xảy ra cho tôi,
rằng mắt bạn cũng mở ra, chỉ thế thì bạn mới trở thành
Upanishad.
Hiểu điều đó theo cách này: nhà thơ ca lên bài ca về đoá
hoa. Có thể có dịu ngọt lớn, có nhịp điệu và âm nhạc trong
bài ca này - bài ca có cái đẹp của riêng nó - nhưng dù bài ca có thể hát
về đoá hoa nhiều thế nào, vậy mà bài ca cũng vẫn
chỉ là bài ca, nó không thể là đoá hoa được, nó không phải là
hương hoa. Và nếu bạn được thoả mãn chỉ với bài ca đó, thế
thì bạn đã đi lạc lối.
Upanishad là bài ca về đoá hoa mà bạn chưa từng thấy.
Bài ca này thật kì diệu: ca sĩ đã thấy đoá hoa đó. Những
đừng thoả mãn với bài ca, bài ca không phải là hoa.
Đôi khi sự việc xảy ra là bạn cũng tới gần với hoa - chỉ
đôi khi thôi. Đôi khi bạn cũng có thoáng nhìn về hoa - ngẫu
nhiên, bất chợt - bởi vì hoa không xa lạ với bạn, nó chính là
bản tính của bạn. Nó rất gần bạn, chỉ ngay bên cạnh bạn. Đôi
khi nó chạm vào bạn, không đếm xỉa tới bạn. Đôi khi hoa
cho bạn thoáng nhìn, thoáng nhìn tựa ánh chớp loé. Trong
một khoảnh khắc nào đó nó bất ngờ lọt vào kinh nghiệm của
bạn: bạn cảm thấy rằng có cái gì đó nhiều hơn trong thế giới
này, rằng thế giới này, mà bạn đã biết, không phải là nó chút
nào. Trong thế giới cứng như đá này có cái gì đó khác không
phải là đá mà là hoa, sinh động và nở rộ. Và nếu bạn đã thấy
nó trong giấc mơ nào đó, hay tia chớp loé trong bóng tối của
đêm... Bạn thấy cái gì đó và nó biến mất đi - do vậy thỉnh
thoảng nó xuất hiện trong cuộc sống của bạn. Điều thường
hay xảy ra trong cuộc sống của nhà thơ, điều thường hay xảy
ra trong cuộc sống của hoạ sĩ, là thoáng nhìn về hoa tới gần
cạnh kề.
Vậy mà dù có gần tới đoá hoa, dù thoáng nhìn bạn đã có
lớn đến đâu, tính gần gũi này cũng vẫn là khoảng cách. Hoa
có tới gần bạn đến đâu đi chăng nữa cũng không thành vấn
đề, khoảng cách vẫn còn đó. Và ngay cả nếu tôi thực tế có
thể chạm tay vào đoá hoa, dầu vậy vẫn không chắc chắn rằng
kinh nghiệm tôi có là kinh nghiệm về hoa, bởi vì thông điệp
tới qua tay tôi. Tay có thể cho thông điệp sai. Không có gì
chắc chắn về việc tay tôi cho thông điệp đúng cả: không có lí
do nào để hoàn toàn tin cậy vào tay tôi được. Lại nữa, thông
điệp mà tay cho thường sẽ ít phần về hoa mà lại nhiều phần
về bản thân nó.
Nếu hoa được cảm thấy là lạnh, không nhất thiết là hoa
đang lạnh; có thể tay tôi đang sốt và đó là lí do tại sao hoa
được cảm thấy là lạnh. Thông điệp vậy là nhiều phần về tay
hơn, vì bất kì khi nào thông điệp tới qua trung gian thì nó
bao giờ cũng tương đối. Người ta không thể tuyệt đối chắc
chắn về nó được.
Tôi đã đọc hồi kí do Popov viết. Popov là người tìm
kiếm, một người tìm kiếm hăng hái. Cô ấy đã thực hành kỉ
luật tâm linh với Piotr Dimitrovich Ouspensky. Có lần cô
đang ngồi với Ouspensky, một quí ông tới và hỏi ông ấy liệu
có Thượng đế hay không. Ouspensky kêu lên, “Thượng đế?
Không, không có Thượng đế.” Ouspensky dừng lại một chút
rồi nói, “Nhưng tôi không thể nói với bảo đảm nào được, vì
bất kì điều gì tôi biết đều là thông qua trung gian. Đôi khi tôi
đã thấy qua mắt, nhưng mắt không thể được tin cậy. Đôi khi
tôi nghe qua tai, nhưng tai cũng có thể sai. Đôi khi tôi chạm
bằng tay, nhưng chạm cũng không thể nào tin cậy được. Tới
giờ tôi đã không thấy một cách trực tiếp, tôi chưa bao giờ
từng mặt đối mặt cả. Do đó tôi không thể nói với đảm bảo
nào. Bất kì điều gì tôi đã biết cho tới giờ đều không cho tôi
kinh nghiệm nào về Thượng đế. Nhưng điều ấy cũng không
chứng tỏ rằng không có Thượng đế, nó chỉ báo cho ông về
kinh nghiệm của tôi là gì. Cho nên tôi không thể nêu cho ông
bất kì đảm bảo nào rằng Thượng đế là không có. Nhưng
đừng vứt bỏ tìm kiếm của ông và tin tôi đi, ông cứ tiếp tục
tìm kiếm cho chính ông đi.”
Bất kì khi nào cái gì đó xảy ra qua trung gian cũng đều không đáng tin cậy
cả. Cho dù chúng ta có đến rất gần hoa,
đấy cũng vẫn chỉ là mắt thấy, tay sờ, và mũi thu lấy hương
thơm. Tất cả những cái này đều là kinh nghiệm qua giác
quan của chúng ta. Vậy nó là cái mà đôi khi nhà thơ tới gần
với đoá hoa tối thượng đến mức tiếng vọng của nó choàng
xuống đi vào trong bài ca của ông ta. Nhưng dầu vậy ông ta
không phải là Phật, không phải là Mahavira.
Phật là ai? Mahavira là ai? Phật là tâm thức đó, cái đã trở
thành bản thân đoá hoa đó; ngay cả khoảng cách chừng đó
đó, khoảng cách của việc thấy đoá hoa, cũng không tồn tại.
Tâm thức đã trở thành đoá hoa.
Chỉ trở thành đoá hoa người ta mới hiểu biết đầy đủ cái
gì có đó.
Đây là những phát biểu của người thấy của Upanishad.
Nó tựa như bài ca về đoá hoa nào đó. Tiếp tục rì rào về nó đi
- có rất nhiều vị ngọt ngào và mùi vị tuyệt vời trong đó,
nhưng nó không phải là đoá hoa, nó chỉ là bài ca. Nếu bạn
làm nỗ lực, đôi khi bạn sẽ thấy đoá hoa.
Mọi người đến tôi và nói, “Có ánh sáng lớn trong thiền,
nhưng tôi lại làm mất nó. Ánh sáng vô hạn có đấy, nhưng nó
lại biến mất đi. Có phúc lạc mênh mông, nhưng bây giờ nó đi
đâu rồi?” Bây giờ họ đi tìm nó lần nữa nhưng không thể tìm
thấy nó.
Thoáng nhìn nghĩa là bạn đã tới gần. Nhưng thoáng nhìn
nhất định sẽ bị mất. Nhiều nhất thiền có thể cho chỉ thoáng
nhìn. Nhưng đừng dừng ở đó; đừng bị mắc kẹt vào việc tìm
đi tìm lại cùng cái thoáng nhìn đó. Mục đích duy nhất của
thiền là ở chỗ người ta có được thoáng nhìn. Rồi người ta
phải tiến lên trước, đi vào samadhi, vào trong chứng ngộ, để
cho người ta trở thành chính đoá hoa.
Trong thiền là thoáng nhìn; samadhi là việc là chính nó.
Đừng dừng lại ở thoáng nhìn. Chúng rất đáng yêu: toàn
thế giới bắt đầu trông nhạt nhoà - chỉ một thoáng nhìn về đoá
hoa sống đó, việc nở hoa đó ở bên trong, và toàn bộ thế giới
trở thành vô vị và vô nghĩa. Nhưng thế rồi người nào đó nắm
bắt các thoáng nhìn và bắt đầu lặp lại chúng và nghĩ mọi sự
đã xảy ra. Không, chừng nào bản thân bạn còn chưa là điều
thiêng liêng, đừng tin rằng đó là Thượng đế.
Bạn có thể là nó, vì bạn đã là nó. Bạn chỉ phải cởi mở ra
một chút, để mở ra một chút. Bạn đang hiện diện tại đây và
bây giờ, chỉ đang ẩn nấp. Chỉ có vài tầng quần áo bao phủ
lấy bạn - và chúng nữa cũng rất mỏng - cho nên nếu bạn ham
muốn thế, bạn có thể vứt bỏ chúng ngay bây giờ, thoát khỏi
chúng và trở thành điều thiêng liêng. Nhưng níu bám của bạn
là rất mạnh; mặc dù quần áo mỏng, nắm giữ của bạn lại rất
chặt. Tại sao nắm giữ này mạnh đến thế? Nắm giữ mạnh đến
thế bởi vì chúng ta nghĩ rằng quần áo này là con người chúng
ta, rằng đây là chính chúng ta. Bên cạnh đó chúng ta không
biết gì về bất kì sự tồn tại nào khác.
Trong Upanishad này sẽ có các hướng dẫn về sự tồn tại
đó nằm ngoài những cái che phủ này. Và cùng với
Upanishad này chúng ta sẽ thiền, vậy chúng ta có thể thu
được thoáng nhìn. Và chúng ta sẽ hi vọng về samadhi, chứng
ngộ, để cho chúng ta trở thành không có nó thì cũng không
có mãn nguyện, không an bình và không chân lí.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện
gửi tới toàn thể vũ trụ.
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
và thầy con.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện này. Cuộc hành
trình tôn giáo bắt đầu với lời cầu nguyện. Nó phải là như
vậy. Lời cầu nguyện có nghĩa là tin cậy và hi vọng. Lời cầu
nguyện có nghĩa là tình cảm của chúng ta về việc là một với
toàn thể vũ trụ. Lời cầu nguyện nghĩa là, “Làm sao tôi có thể
xoay xở được một mình?”
Nếu như có khả năng một mình bạn có thể làm cho điều
này xảy ra, chắc nó đã xảy ra từ lâu rồi. Nhưng với bản thân
bạn thậm chí điều tầm thường cũng không thể được đạt tới.
Bạn đã ham muốn tiền bạc, bạn không thể nào đạt tới được
ngay cả điều đó. Bạn đã ước ao địa vị, bạn không thể xoay
xở được ngay cả với điều đó. Bạn có đủ loại ước muốn, lớn
có nhỏ có, nhưng không cái nào được hoàn thành. Một mình
bạn thậm chí không thể đảm đương được cả thế gian: cuộc
hành trình vĩ đại đi tìm chân lí này liệu có thể được riêng bản
thân bạn tiến hành không? Với riêng bản thân mình, bạn
thậm chí thất bại ngay trong thế gian.
Mọi người đều bị thất bại trong thế gian này. Ngay cả
những người dường như là chiến thắng cũng bị thất bại. Họ
chỉ dường như là chiến thắng với người khác; trong bản thân
mình họ bị thất bại hoàn toàn. Bạn với bản thân mình cũng
dường như bị thất bại, nhưng với người khác bạn dường như
chiến thắng. Có những người đằng sau bạn, người cảm thấy
rằng bạn đã đạt tới, rằng bạn đã thắng trong trận chiến thế
gian. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào trong con người, mọi
người đều thất bại.
Thế giới này là câu chuyện dài những thất bại. Ở đây
thắng lợi không xảy ra, ở đây thắng lợi không thể xảy ra
được; nó không phải là bản chất của thế giới. Thất bại là định
mệnh ở đây. Thất bại không phải của bất kì cá nhân nào,
không phải của bất kì người nào, nhưng định mệnh làm
người trong thế gian này là thất bại rồi. Bạn sẽ phải chấp
nhận thất bại ở đó. Không ai đã bao giờ thắng được ở đó.
Chúng ta không thể thắng trong thế giới này nơi mối
quan tâm duy nhất là với những điều nhỏ bé, nơi nó chỉ là
mơ - Shankara gọi nó là maya, ảo vọng. Khi mà chúng ta bị
thất bại ngay trong ảo vọng đó, trong việc xảy ra tựa mơ, thế
thì làm sao chúng ta có thể hi vọng chiến thắng theo cách
riêng của mình trong thế giới của chân lí?
Lời cầu nguyện nghĩa là nhận biết của người đã bị thất
bại trong thế gian. Khi thậm chí sau khi thử trong hết kiếp nọ
đến kiếp kia người đó đều bị thất bại trong những cái tầm
thường, người đó có thể thỉnh cầu khả năng nào ở thầy về
điều linh thiêng và điều tuyệt đối?
Do đó có lời cầu nguyện. Do đó người thấy đã khẩn cầu
toàn thể vũ trụ tới giúp người đó. Người đó đã khẩn cầu mặt
trời, người đó đã khẩn cầu Varuna. Tất cả những cái tên này
đều là biểu tượng của quyền năng của vũ trụ. Mặt trời được
khẩn cầu trước nhất bởi vì mặt trời là cuộc sống của chúng
ta. Không có mặt trời không có chúng ta. Bên trong chúng ta
đó là mặt trời sống, nóng bỏng. Nếu mặt trời tắt ở đằng kia,
chúng ta cũng tắt ở đây. Mặt trời là cuộc sống chúng ta, do đó ngài đã
được khẩn cầu tới.
Người thấy nói: Xin chào Vayu, thần không khí - Vayu
đã được đặc biệt chào mừng trong lời cầu nguyện này - vì
ngài là biểu hiện của Brahman. Điều này có hơi lạ một chút.
Nghĩ một chút mà xem. Điều này rất hay, bởi vì Vayu tuyệt
đối không biểu hiện; mọi thứ khác đều biểu hiện. Nếu như
người thấy đã nói với mặt trời, “Ngài là biểu hiện của
Brahman” - toả sáng, cháy bỏng, nóng rực, sống - điều đó
chắc có thể hiểu được. Nhưng người thấy đã không gọi mặt
trời là “biểu hiện của Brahman”; ông ta nói điều đó cho
Vayu, người chúng ta không thấy gì hết cả, người thực sự là
không biểu hiện.
Biểu hiện của Vayu ở đâu? Chúng ta chỉ suy diễn ra nó
là vậy, chúng ta chỉ cảm thấy rằng nó là vậy, nhưng nó
không thể thấy được. Nó sẵn có ở đâu để cho mắt thấy được?
Biểu hiện có nghĩa là cái có thể thấy được bằng mắt. Bây
giờ, Vayu không có sẵn chút nào cho mắt thấy. Đá, núi,
chúng tất cả là thấy được, nhưng Vayu thì không.
Nhưng người thấy nói: Hỡi Vayu, lời chào đặc biệt gửi
tới ngài, vì ngài là biểu hiện của Brahman. Ông ta nói như
vậy vì Vayu, không khí, là không thấy được nhưng vẫn có
đấy; là không thấy được bằng mắt, dầu vậy nó vẫn đang
chạm vào mắt từng khoảnh khắc - và cùng điều đó là tình
huống với chân lí tối thượng. Nó không thấy được nhưng nó
đang chạm vào chúng ta mọi khoảnh khắc.
Vayu là không thấy được bởi vì chúng ta không có mắt
để thấy nó. Vayu đơn giản có đó. Không có Vayu chúng ta
không thể tồn tại được. Vayu là trong hơi thở chúng ta, bảo
vệ chúng ta, và chính cuộc sống chúng ta phụ thuộc vào việc
hít vào thở ra nó. Cái gì đó gần gũi chúng ta thế, chính là
nhịp thở của ta, chúng ta không thể thấy được bởi vì mắt
chúng ta rất thô. Bất kì cái gì rất thô đó là cái ta thấy. Bất kì
cái gì tinh tế chúng ta đều không thể nào thấy được.
Vayu, không khí, là rất tinh tế. Nó hiện diện trước chúng
ta; nó ở bên trong và bên ngoài chúng ta. Nó hiện diện trong
từng tế bào của thân thể chúng ta, nhưng không thấy được.
Đó là lí do tại sao người ta nói: Ngài là biểu hiện của
Brahman - ngài hệt như Brahman.
Brahman hiện diện ở đây nhưng không thấy được. Và nó
đang hiện diện trong từng thớ thịt của chúng ta; thực tế, nó là
từng thớ thịt và vậy mà chúng ta không thấy dấu vết nào của
nó. Đó là lí do tại sao Vayu đã được chào - vì chúng ta biết
tới Vayu nhưng không biết tới Brahman. Sợi chỉ quan hệ đã
được thử lập, rằng Brahman là hệt như Vayu, không khí.
“Con sẽ gọi ngài là biểu hiện của Brahman,” người thấy
nói, “con cũng sẽ đặt tên ngài là chân lí và rit, luật, vì ngài
giống hệt như cái đang đó và không được biết đối với chúng
con; người là bản thân chúng con và vậy mà chúng con
không biết là ai; ai đang ở tại đây và bây giờ từ vĩnh hằng và
không được chúng con biết. Nhưng việc tìm kiếm này có thể
được hoàn thành, nếu tất cả các thần bảo vệ chúng con.”
Điều được ngụ ý bởi các thần là vô số các lực sống từ
vĩnh hằng. Và cuộc sống là mạng lưới mênh mông của vô số
lực. Sự tồn tại của bạn cũng là một mạng lưới mênh mông
của vô số sức mạnh này. Bên trong bạn gặp mặt trời, Varuna,
Indra, Vayu; Agni, lửa; Prithvi, đất; Akash, bầu trời - tất cả
chúng đều gặp nhau. Nếu chúng ta có thể biết một cá nhân
trong tính toàn bộ của người đó, chúng ta cũng biết đến cái
toàn thể của sự tồn tại dưới dạng hạt mầm. Mọi thứ đều có
đấy trong từng cá nhân, mọi thứ đều thống nhất trong người
đó, và trong sự gặp gỡ của chúng cá nhân tồn tại.
Cho nên lời cầu nguyện là cầu sự giúp đỡ từ tất cả những điều này. Nhưng
mặt trời có giúp không? Câu hỏi đó quả có
nảy sinh. Cho dù lời cầu nguyện được thực hiện, mặt trời có
giúp hay Vayu có giúp hay đất có giúp không? Vấn đề không
phải là sự giúp đỡ của đất hay của mặt trời, nhưng điều bạn
đã cầu nguyện - đó là sự giúp đỡ lớn nhất! Để điều này được
hiểu đúng.
Không mặt trời nào đến giúp bạn cả, nhưng bạn cầu
nguyện và điều đó sẽ ảnh hưởng tới bạn, không phải mặt
trời, bởi vì tâm trí cầu nguyện trở nên khiêm tốn, tâm trí cầu
nguyện trở nên không tự lực được, tâm trí cầu nguyện chấp
nhận sự kiện rằng một mình nó không thể hoàn thành được
bất kì cái gì; tâm trí cầu nguyện sẵn sàng tan biến và từ bỏ
bản ngã của nó và cảm thấy rằng nó có thể làm được việc đó.
Và những điều này đem lại kết quả. Toàn bộ kết quả của lời
cầu nguyện là vào bạn. Lời cầu nguyện không làm thay đổi
mặt trời, nhưng làm thay đổi bạn. Và khoảnh khắc bạn thay
đổi, bạn đi vào thế giới khác.
Thông thường, khi bạn cầu nguyện, bạn nghĩ rằng ai đó
sẽ làm điều gì đó cho bạn, và đó là lí do tại sao bạn cầu
nguyện. Không, lời cầu nguyện chỉ là phương tiện. Chắc
chắn bạn chắp tay trong lời cầu nguyện để hướng tới ai đó
khác, nhưng hậu quả của nó xảy ra bên trong bạn - trong
người đã chắp tay cầu nguyện.
Vậy có những khó khăn trong việc hiểu nó. Nếu bạn cầu
nguyện trong sự hiện diện của nhà khoa học, “Xin mặt trời
giúp con!” nhà khoa học sẽ nói, “Vô nghĩa làm sao! Làm sao
mặt trời lại có thể giúp anh được? Đã bao giờ mặt trời giúp
được người nào chưa?” Hay bạn cầu nguyện, “Cầu Indra
mưa xuống!” và người đó sẽ nói, “Anh có điên không đấy?
Đã bao giờ mưa rơi xuống bởi lời cầu nguyện chưa?” Nhà
khoa học cũng đúng.
Cả mặt trời lẫn mây lẫn gió đều không nghe bạn đâu.
Không ai nghe bạn cả. Nhưng sự kiện là bạn đã kêu cầu sẽ
làm biến đổi bạn. Bạn càng kêu cầu mãnh liệt càng tạo ra sự
mãnh liệt sâu sắc bên trong bạn. Nếu toàn thể con người bạn
kêu cầu, bạn sẽ trở thành người hoàn toàn khác.
Đây chính là điều lời cầu nguyện để làm gì.

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

Con người là huyền thoại

Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Con người là điều huyền thoại, và là điều huyền thoại
nguy hiểm nhất, bởi vì nếu bạn tin rằng con người tồn tại thế
thì bạn không cố gắng để làm tiến hoá con người chút nào,
không có nhu cầu. Nếu bạn tin rằng mình đã là người rồi, thế
thì tất cả mọi trưởng thành đều chấm dứt.
Bạn vẫn chưa là con người, bạn mới chỉ có tiềm năng
cho điều đó thôi. Bạn có thể là con người, bạn có thể không,
bạn có thể bỏ lỡ. Nhớ lấy, điều đó có thể bị bỏ lỡ.
Con người còn chưa được sinh ra; là con người không
phải là sự kiện được cho sẵn, bạn không thể có được điều đó
bằng việc cho không. Đấy chỉ là một khả năng. Con người
tồn tại như hạt mầm, không như cây - còn chưa thành cây.
Con người còn chưa là thực tại, và khác biệt giữa tiềm năng
và thực tại là lớn lao.
Con người như người đó đang tồn tại chỉ là cái máy, vậy
mà con người vẫn làm việc, vậy mà con người vẫn thành
công trong thế giới này, vậy mà con người vẫn sống cái gọi
là cuộc sống và chết. Nhưng nhớ lấy, con người không tồn
tại. Chức năng của người đó là ở chức năng của cái máy,
người đó là người máy.
Con người là cái máy. Vâng, cái máy này có thể trưởng
thành trong nó mà nó có thể vượt ra ngoài cái máy. Cái máy này không phải là cái máy thường; nó có tiềm năng vô cùng
để vượt ra ngoài bản thân nó. Nó có thể tạo ra cái gì đó siêu
việt lên trên cấu trúc riêng của nó. Đôi khi nó đã tạo ra... một
Phật, một Christ, một Gurdjieff - đôi khi nó đã tạo ra con
người. Nhưng bạn đừng tin rằng mình đã là con người. Nếu
bạn tin, niềm tin của bạn sẽ mang tính tự sát - bởi vì một khi
chúng ta tin rằng điều gì đó đã có đó thế thì chúng ta chấm
dứt tìm kiếm nó, thế thì chúng ta chấm dứt tạo ra nó, thế thì
chúng ta chấm dứt phát hiện nó, thế thì chúng ta chấm dứt
tiến hoá nó.
Nghĩ xem: một người ốm, một người ốm nặng, nghĩ
mình mạnh khoẻ. Sao người đó phải tới bác sĩ? Sao người đó
phải uống thuốc? Sao người đó phải đi trị liệu? Sao người đó
sẵn lòng đi bệnh viện? Người đó tin mình mạnh khoẻ, người
đó có sức khoẻ hoàn hảo... và người đó đang chết! Niềm tin
của người đó sẽ giết chết người đó.
Đó là lí do tại sao tôi nói huyền thoại này là nguy hiểm,
huyền thoại nguy hiểm nhất mà các tu sĩ và chính khách đã
hư cấu ra: rằng con người đã có trên trái đất. Hàng triệu
người này trên trái đất chỉ là những khả năng, và không may
là đại đa số họ lại chưa bao giờ sẽ trở thành thực tại; không
may, nhiều người trong số họ sẽ chết như cái máy.
Tôi ngụ ý gì khi tôi nói con người là cái máy? Tôi ngụ ý
rằng con người sống từ quá khứ. Con người sống từ một cấu
trúc chết, con người sống từ thói quen, con người sống cuộc
sống thường lệ. Con người cứ đi cùng vòng tròn ấy, theo
cùng con đường mòn ấy, đi đi, đi lại. Bạn không thể thấy
được cái vòng luẩn quẩn trong cuộc sống của mình sao?
Cùng những điều ấy bạn đã làm mọi ngày: hi vọng, giận dữ,
ham muốn, tham vọng, nhục dục, tình dục, thất vọng, lại hi
vọng... cứ cái vòng tròn ấy chuyển động... Mỗi hi vọng lại
dẫn tới thất vọng, chưa bao giờ nó khác đi; và sau mỗi thất
vọng, một hi vọng mới, và cái vòng ấy lại bắt đầu chuyển
động.
Tại phương Đông chúng ta gọi nó là cái bánh xe của
luân hồi samsara. Nó là cái bánh xe, các nan hoa là như
nhau. Và bạn bị nó lừa đi lừa lại, bạn lại cứ hi vọng. Và bạn
biết mình đã hi vọng trước đây, bạn đã hi vọng cả triệu lần
rồi, mà chẳng cái gì xảy ra từ hi vọng đó. Chỉ bánh xe là cứ
chuyển, và cứ giết chết bạn, cứ phá huỷ cuộc sống của bạn.
Thời gian chạy khỏi tay bạn. Mỗi khoảnh khắc mất đi là mất
đi mãi mãi, và bạn cứ lặp lại cái cũ.
Đây là điều tôi muốn nói khi tôi nói con người là cái
máy. Tôi đồng ý với George Gurdjieff tuyệt đối; ông ấy hay
nói rằng bạn còn chưa có linh hồn. Ông ấy là người đầu tiên
nói điều đó một cách quyết liệt thế, rằng bạn còn chưa có
linh hồn. Vâng, linh hồn có thể được sinh ra trong bạn,
nhưng bạn sẽ phải trao việc sinh thành cho nó; bạn sẽ phải
trở nên có khả năng trao việc sinh cho nó.
Suốt hàng thế kỉ các tu sĩ đã bảo bạn rằng bạn đã có linh
hồn rồi, rằng bạn đã có con người đó. Điều đó không phải
như vậy; bạn chỉ mới có tiềm năng như vậy thôi. Thực tế bạn
có thể trở thành, nhưng huyền thoại này phải bị phá bỏ. Thấy
sự kiện của nó: bạn còn chưa là sinh linh có ý thức; và nếu
bạn không là sinh linh có ý thức, làm sao bạn có thể là con
người được?
Đâu là khác biệt giữa tảng đá và bạn? Đâu là khác biệt
giữa con vật và bạn? Đâu là khác biệt giữa cây và bạn? Khác
biệt là khác về ý thức. Nhưng bạn có bao nhiêu ý thức?... chỉ
mong manh đây đó. Chỉ đôi khi, trong những khoảnh khắc
hiếm hoi, bạn mới trở nên có ý thức; và điều đó chỉ trong vài giây rồi bạn lại rơi trở lại vào trong vô ý thức. Vâng, đôi khi
điều đó xảy ra, bởi vì nó là tiềm năng của bạn.
Đôi khi điều đó xảy ra mặc bạn... một hôm mặt trời lên
và bạn rơi vào hài hoà với sự tồn tại - rồi bỗng nhiên nó có
đó: cái đẹp của nó, phúc lành của nó, hương thơm của nó,
ánh sáng của nó. Bỗng nhiên nó có đó và bạn có hương vị
của cái đang có đó, cái có thể hiện hữu, cái hiện hữu. Nhưng
khoảnh khắc bạn trở nên tỉnh táo rằng nó có đó, nó đã trôi
qua rồi. Chỉ kí ức là còn lại. Chỉ hiếm khoảnh khắc: đôi khi
trong tình yêu, đôi khi ngắm trăng tròn, đôi khi mặt trời lên,
đôi khi ngồi trong hang núi im lặng, đôi khi nhìn vào đứa trẻ
đang chơi đùa, khúc khích; vâng, đôi khi trong âm nhạc...
Nhưng những khoảnh khắc này là hiếm hoi.
Nếu một người bình thường, cái gọi là con người, mà đạt
tới bẩy khoảnh khắc nhận biết trong toàn bộ cuộc sống của
mình, điều đó sẽ là quá nhiều. Hiếm lắm, rất hiếm hoi, chỉ
một tia sáng đi vào, và thế rồi nó lại đi mất. Còn bạn quay lại
với cuộc sống tầm thường của mình, đờ đẫn và chết. Và điều
này không chỉ vậy với người bình thường, nó là vậy với
những người được gọi là phi thường của bạn.
Mới hôm nọ tôi đã đọc về Carl Jung, một trong những
nhà tâm lí vĩ đại nhất của thời đại này... nhưng đôi khi người
ta tự hỏi liệu có nên gọi những người này là các nhà tâm lí
hay không. Ông ấy là con người rất bất an, hoàn toàn bất an.
Ông ấy không thể nào ngồi im lặng một khoảnh khắc; ông ấy
sẽ quay người, trở mình, ông ấy sẽ làm điều này điều khác.
Nếu không có gì để làm, ông ấy sẽ hút tẩu thuốc, và ông ấy
là người hút hết điếu nọ tới điếu kia. Thế rồi ông ấy bị đau
tim và các bác sĩ nói phải dừng việc hút thuốc, dừng hoàn
toàn. Bây giờ điều đó là rất khó. Ông ấy bắt đầu cảm thấy sự
bất an của mình quá nhiều, ông ấy bắt đầu cảm thấy phát
điên. Ông ấy sẽ đi lại trong trong phòng, ông ấy sẽ đi ra
ngoài, chẳng có lí do gì; ông ấy sẽ ngồi trong chiếc ghế này
ghế nọ. Và thế rồi ông ấy nhận ra sự kiện rằng cái tẩu đã rất,
rất có ích. Đấy là giải thoát, một loại giải thoát khỏi cái bất
an của mình. Cho nên ông ấy hỏi bác sĩ, "Tôi có thể ngậm
chiếc tẩu rỗng trong mồm được không? Điều đó có được
phép không?" - chiếc tẩu rỗng! "Điều đó sẽ có ích cho tôi."
Ông ấy được phép, và thế rồi trong hàng năm ông ấy
quen ngậm chiếc tẩu rỗng trong mồm, chỉ giả vờ rằng ông ấy
hút thuốc. Và thế rồi ông ấy nhìn vào cái tẩu, cầm cái tẩu
trong tay, chơi với cái tẩu. Và đây là về một nhà tâm lí vĩ đại
của thời đại này! Vô ý thức làm sao! Quá nhiều trong việc
ôm giữ thói quen đó, quá nhiều trong việc ôm giữ điều vô ý
thức! - điều đó có vẻ trẻ con. Và thế rồi chúng ta cứ tìm cách
hợp lí hoá; thế rồi chúng ta cứ giả vờ với chính mình, thế rồi
chúng ta cứ bảo vệ và phòng thủ cho mình nhưng tại sao
chúng ta làm điều này.
Vào độ tuổi bốn mươi lăm Carl Jung yêu một phụ nữ.
Ông ấy là một đàn ông đã có gia đình với bà vợ rất đáng yêu.
Chẳng có gì sai cả, nhưng điều đó phải đã là bất an. Chuyện
gần như bao giờ cũng xảy ra là gần độ tuổi bốn mươi lăm,
người ta bắt đầu cảm thấy rằng cả cuộc sống đã trôi qua. Cái
chết đang tới gần hơn, và bởi vì cái chết đang tới gần hơn,
nên hoặc bạn trở thành mang tính tâm linh hoặc bạn trở
thành mang tính dục nhiều hơn.
Đây là hai cách phòng thủ duy nhất: hoặc bạn quay sang
tìm kiếm chân lí, tìm kiếm cái vĩnh hằng không có cái chết,
hoặc bạn bắt đầu nhấn chìm mình vào trong những chuyện
tình ái tưởng tượng. Và đặc biệt là những người trí thức -
những người đã sống cả đời qua cái đầu - là nạn nhân nhiều
hơn vào độ tuổi bốn mươi lăm. Thế thì bản năng dục báo thù.

Nó đã bị chối bỏ; bây giờ cái chết đang tới gần hơn và thế rồi
người ta chẳng bao giờ biết được liệu mình sẽ có lại ở đây
nữa hay không, liệu cuộc sống sẽ có đó hay không. Cái chết
đang tới đây còn bạn đã sống cuộc sống của cái đầu. Bản
năng dục bùng phát với sự báo thù.
Carl Gustav Jung yêu một phụ nữ trẻ. Bây giờ điều đó rất
phản lại danh tiếng của ông ấy. Bà vợ bị khuấy động, và bà
vợ đã yêu ông ấy cực kì và đã tin cậy vào ông ấy. Ông ấy
hợp lí hoá điều đó thật hay. Nhìn vào việc hợp lí hoá của ông
ấy - đó là cách con người vô ý thức cứ sống. Ông ấy sẽ làm
điều gì đó vô ý thức, thế rồi sẽ cố gắng hợp lí hoá nó và sẽ cố
gắng chứng minh rằng điều đó là không vô ý thức: "Tôi đang
làm điều đó rất có ý thức - trong thực tế, điều đó phải được
làm."
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy bỗng nhiên phát triển một lí
thuyết rằng có hai kiểu phụ nữ trên thế giới: một là kiểu
người mẹ, kiểu chăm sóc, kiểu vợ; và kiểu kia, kiểu tình
nhân, người yêu, người trở thành nguồn hứng khởi. Và đàn
ông cần cả hai - và đàn ông kiểu như Carl Gustav Jung chắc
chắn cần cả hai. Ông ấy cần hứng khởi nữa. Ông ấy cần một
phụ nữ chăm sóc; điều đó vợ ông ấy đang thực hiện - bà ấy
đáng yêu, thuộc kiểu người mẹ. Nhưng điều đó không đáp
ứng cho nhu cầu của ông ấy - ông ấy cần hứng khởi nữa, ông
ấy cần một phụ nữ lãng mạn nữa, một tình nhân người có thể
đưa ông ấy vào những giấc mơ sâu; đó là điều phải có với
ông ấy. Jung đã phát triển lí thuyết này... đây là hợp lí hoá.
Bây giờ ông ấy chẳng bao giờ phát triển phần kia của nó,
rằng đàn ông có hai kiểu. Đó là nơi bạn có thể tìm thấy rằng
đó là hợp lí hoá. Nếu đó là sáng suốt thực sự thế thì phần kia,
rằng đàn ông có hai kiểu, kiểu người bố và kiểu người yêu...
thế thì vợ của Jung cũng cần đến hai kiểu! Nếu Jung nghĩ
rằng ông ấy là kiểu người yêu, thế thì bà ấy cần kiểu người
bố; nếu Jung nghĩ ông ấy là kiểu người bố, thế thì bà ấy cần
kiểu người yêu. Nhưng điều đó ông ấy chưa bao giờ phát
triển cả. Đấy là cách bạn có thể thấy nó không phải là sáng
suốt; nó chỉ là một tâm trí thủ đoạn, hợp lí hoá.
Chúng ta cứ hợp lí hoá. Chúng là mọi việc một cách vô ý
thức, chúng ta làm chúng mà không biết tại sao chúng ta
đang làm chúng. Nhưng chúng ta không thể nào chấp nhận
sự kiện này: rất xấu hổ để chấp nhận rằng, "Tôi đã làm điều
gì đó mà tôi lại không nhận biết về điều đó và tôi không biết
tại sao." Nhận biết về việc hợp lí hoá này.
Và làm sao những người như vậy có thể làm lợi được
cho người khác? Chính sự kiện rất nổi tiếng là nhiều bệnh
nhân của Carl Jung đã tự tử. Tại sao? Họ đã tới để được giúp
đỡ, tại sao họ tự tử? Cái gì đó về cơ bản đã phải sai rồi. Việc
phân tích của ông ấy chỉ là điều tệ hại. Ông ấy là con người
rất kiêu ngạo, rất bản ngã, liên tục chỉ chực đánh nhau. Có
thể toàn bộ việc phân tâm của ông ấy đã được phát triển chỉ
vì kiêu ngạo của ông ấy chống lại Sigmund Freud. Có thể
đấy lại chỉ là hợp lí hoá, bởi vì bản thân ông ấy dường như
đang chịu cùng những vấn đề mà ông ấy nghĩ để giúp cho
người khác.
Jung bao giờ cũng rất sợ ma; ngay cả trong tuổi già của
mình ông ấy cũng sợ ma. Ông ấy đã không xuất bản cuốn
sách quan trọng nhất của mình trong khi còn sống bởi vì ông
ấy sợ rằng mọi người sẽ đi tới biết các sự kiện. Cho nên các
truyện kí của ông ấy được xuất bản, nhưng ông ấy đã phải
chắc chắn rằng chúng được xuất bản chỉ khi ông ấy chết. Bây
giờ đây là cái kiểu chân lí và đích thực gì? Ông ấy sợ bị phát
hiện ra là sai, hay trong cái sai, đến mức ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì sự kiện nào được tiết lộ về cuộc sống của
mình trong khi ông ấy còn sống.
Tôi đã đọc một giai thoại...
Một người tới một nhà tâm thần và bắt đầu bộc bạch
trước bác sĩ về lịch sử cuộc sống mình, bao quát các kinh
nghiệm thời niên thiếu của mình, cuộc sống tình cảm, thói
quen ăn uống, vấn đề nghề nghiệp, và đủ mọi thứ người đó
có thể nghĩ tới. "Được," bác sĩ nói, "với tôi dường như chẳng
có gì sai với ông cả. Ông dường như cũng lành mạnh như tôi
vậy."
"Nhưng bác sĩ này," bệnh nhân phản đối, một dấu hiệu
khiếp hãi len vào giọng người đó, "đấy là những con bướm
này. Tôi không thể nào chống lại được chúng. Chúng ở khắp
trên tôi."
"Lạy chúa," bác sĩ kêu lên, nhảy lùi lại, "Chớ có phẩy
chúng lên tôi đấy!"
Bệnh nhân và bác sĩ, tất cả đều trên cùng một thuyền.
Nhà phân tâm và người được phân tích không phải xa xôi gì.
Đấy là trò chơi. Có thể nhà phân tâm còn láu cá hơn, nhưng
không phải là ông ta biết thực tại, bởi vì để biết thực tại thì
bạn sẽ phải trở nên cực kì ý thức; không có cách khác. Vấn
đề không phải là suy nghĩ trí tuệ, điều đó chẳng liên can gì
tới việc triết lí của bạn cả. Để biết thực tại thì người ta phải
trưởng thành trong nhận biết.
Gurdjieff hay nói về tâm lí học tương lai. Ông ấy hay nói
rằng tâm lí học vẫn không tồn tại, bởi vì làm sao nó có thể
tồn tại được? Ngay cả con người cũng không tồn tại! Khi con
người không có đó, làm sao khoa học về con người có thể
tồn tại được? Ngay bây giờ bất kì cái gì tồn tại thì cũng
không phải là tâm lí học. Có thể nó là cái gì đó về cái máy là
con người.
Tâm lí học chỉ có thể tồn tại quanh vị phật. Với tâm thức,
Phật sống. Bạn có thể thấy tâm lí của ông ấy là gì, linh hồn
của ông ấy là gì. Người thường sống không có linh hồn.
Vâng, bạn có thể tìm thấy cái gì đó sai sót trong cái máy của
người đó, và cái sai đó có thể được chữa thành đúng. Điều
chúng ta biết như tâm lí học ngày nay chẳng là gì ngoài chủ
nghĩa hành vi. Và theo nghĩa đó thì Pavlov và Skinner còn
đúng hơn Freud và Jung, bởi vì họ nghĩ con người là máy.
Họ đúng về con người đang tồn tại, mặc dầu họ hoàn toàn
không đúng bởi vì họ nghĩ đây là mục đích, con người không
thể khác được. Đó là giới hạn của họ: họ nghĩ con người chỉ
là máy thôi. Họ là đúng khi có liên quan tới con người hiện
tại ngày nay - con người là máy - nhưng họ nghĩ rằng con
người không thể khác được. Tại đó họ sai. Nhưng Freud và
Jung và Adler còn sai hơn bởi vì họ nghĩ con người đã có
trên trái đất này; tất cả mọi điều bạn cần là nghiên cứu con
người và bạn sẽ biết. Nhưng con người không có đó. Đấy là
một hiện tượng rất vô ý thức.
Con người là huyền thoại. Bạn để điều đó là một trong
những sáng suốt cơ bản nhất. Nó sẽ giúp bạn thoát ra khỏi
dối trá, thoát ra khỏi lừa dối.
Mật tông là nỗ lực để làm cho bạn ý thức hơn. Chính từ
Mật tông (Tantra) có nghĩa là mở rộng của nhận biết. Nó bắt
nguồn từ gốc tiếng Phạn tan: tan có nghĩa là mở rộng. Mật
tông có nghĩa là sự mở rộng của tâm thức - và sự kiện cơ sở
và sự kiện nền tảng nhất cần được hiểu là ở chỗ bạn đang
ngủ say. Bạn phải được đánh thức dậy.
Mật tông tin vào các phương pháp trường phái: điều đó
cũng phải được hiểu. Theo nghĩa đó Gurdjieff là một trong những người mật tông vĩ đại nhất của thời đại này. Chẳng
hạn, nếu một người đang ngủ, có rất ít khả năng người đó có
thể trở nên thức tỉnh một mình. Nhìn vào điều đó theo cách
này: vào ngày đầu năm bạn nghĩ như bạn bao giờ cũng
nghĩ... và nhiều ngày đầu năm đã trôi qua, và bao giờ bạn
cũng đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ không bao giờ hút thuốc
lại nữa; và lần nữa năm mới lại tới và bạn bắt đầu nghĩ lần
này điều đó sắp xảy ra. Bạn đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ
không bao giờ hút thuốc, nhưng bạn không đi nói điều đó
cho người khác, bạn sợ việc nói. Nói điều đó cho người khác
là nguy hiểm bởi vì bạn biết mình, nhiều lần bạn đã phá bỏ
lời nguyện rồi; thế thì điều đó rất xấu hổ. Cho nên bạn giữ
điều đó cho mình. Bây giờ chỉ có một khả năng trong một
trăm khả năng là lời nguyện sẽ được giữ; chín mươi chín khả
năng là nó sẽ bị phá bỏ chẳng chóng thì chầy.
Bạn là người vô ý thức; lời nguyện của bạn chẳng có
nghĩa gì nhiều. Nhưng nếu bạn đi và bạn nói cho mọi người
trong thành phố - bạn bè, đồng nghiệp, con cái, vợ... bạn đi
và bảo với mọi người, "Tôi đã nguyện là tôi sẽ không hút
thuốc nữa," có nhiều khả năng, ít nhất là mười phần trăm,
rằng bạn sẽ không hút thuốc. Lần đầu chỉ có một phần trăm,
bây giờ có mười khả năng. Chín mươi phần trăm khả năng là
bạn sẽ hút thuốc, nhưng việc không hút thuốc có nền tảng
hơn, vững chắc hơn; từ một phần trăm nó đã lên tới mười
phần trăm. Nhưng nếu bạn tham gia vào một nhóm người
không hút thuốc, nếu bạn tham gia vào một đoàn thể những
người không hút thuốc, thế thì khả năng thậm chí còn nhiều
hơn: chín mươi chín phần trăm là khả năng bạn sẽ không hút
thuốc. Điều gì xảy ra?
Khi bạn một mình, bạn không có hỗ trợ nào từ bên ngoài
- bạn một mình, bạn có thể rơi vào giấc ngủ dễ dàng. Và
chẳng ai biết cả, cho nên bạn cũng không lo nghĩ. Khi tất cả
đều biết, việc biết của họ sẽ vận hành để giữ cho bạn tỉnh táo
hơn. Bây giờ bản ngã của bạn đang lâm nguy, kính trọng và
tôn trọng với bạn đang lâm nguy. Nhưng nếu bạn gia nhập
một đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì khả năng
còn nhiều hơn, bởi vì bạn sống qua thói quen. Ai đó rút bao
thuốc lá ra khỏi túi, và bỗng nhiên bạn bắt đầu nhìn vào túi
mình. Bạn chỉ như cái máy: ai đó hút thuốc và bạn bắt đầu
nghĩ hút thuốc cũng hay làm sao. Không ai hút thuốc, và bạn
trong đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì không
ai nhắc nhở bạn cả; và thói quen này dần dần sẽ biến mất, vì
không dùng tới. Nếu một thói quen không được dùng tới,
dần dần nó biến mất; nó có khuynh hướng trở nên chết, nó
mất níu bám vào bạn.
Mật tông nói: con người có thể trở nên thức tỉnh chỉ qua
phương pháp nhóm, qua trường phái. Đó là lí do tại sao tôi
nhấn mạnh nhiều vào tính chất sannyas. Một mình, bạn
không chống lại được cơ hội. Cùng nhau, có nhiều khả năng
hơn. Cũng dường như là có mười người bị lạc trong sa mạc
và rất nguy hiểm trong đêm: kẻ thù có thể giết họ, thú hoang
có thể giết họ, cướp có thể tới, kẻ giết người có thể thấy - rất
khó khăn. Bây giờ họ quyết định theo phương pháp nhóm,
họ nói: "Mỗi người sẽ thức trong một tiếng." Cho rằng từng
người sẽ vẫn còn thức tỉnh cả tám tiếng trong đêm là đòi hỏi
quá nhiều với người vô ý thức, nhưng từng người sẽ vẫn còn
thức tỉnh trong một tiếng. Và trước khi người đó bắt đầu rơi
vào giấc ngủ, người đó nên làm cho ai đó khác thức dậy, thế
thì có nhiều khả năng là ít nhất một người trong nhóm sẽ có
khả năng thức cả đêm.
Hay như Gurdjieff hay nói: Bạn đang trong tù và bạn
muốn thoát ra khỏi nhà tù. Một mình không mấy cơ may;
nhưng nếu tất cả các tù nhân trở thành một nhóm, thế thì có
nhiều cơ may hơn - họ có thể ném vào lính gác, họ có thể giết lính gác, họ có thể phá vỡ tường. Nếu tất cả các tù nhân
đều cùng nhau, thế thì có nhiều cơ may là họ có thể thoát tù,
được tự do.
Nhưng cơ may sẽ tăng lên thậm chí còn nhiều hơn nữa
nếu họ có tiếp xúc với vài người ở ngoài nhà tù, người đã tự
do. Đó là toàn bộ ý nghĩa của việc tìm ra thầy: tìm ra một ai
đó đã ở ngoài nhà tù. Người đó có thể là sự giúp đỡ vô biên,
bởi nhiều lí do. Người đó có thể cung cấp những điều cần
thiết, những điều sẽ cần cho bạn để thoát ra khỏi nhà tù;
người đó có thể gửi các dụng cụ, giũa, để cho bạn có thể phá
vỡ nhà tù. Người đó có thể quan sát từ bên ngoài và người đó
có thể thông báo cho bạn khi nào đổi gác; trong khoảng giữa
đó có khả năng để thoát ra. Người đó có thể thông báo cho
bạn khi nào lính gác ngủ say trong đêm. Người đó có thể thu
xếp để cho lính gác uống rượu say vào một đêm đặc biệt,
người đó có thể mời cai tù tới nhà mình dự tiệc; người đó có
thể làm cả nghìn lẻ một điều mà bạn không thể làm được từ
bên trong. Người đó có thể tìm ra sự hỗ trợ cho bạn từ bên
ngoài. Người đó có thể tạo ra bầu không khí để cho khi bạn
được thoát ra khỏi tù thì bạn sẽ được mọi người chấp nhận,
bạn sẽ có chỗ ở, được đón vào nhà. Nếu xã hội không sẵn
sàng chấp nhận bạn từ bên ngoài, có thể thoát khỏi giam cầm
nhưng xã hội sẽ tống bạn trở lại vào tay giới coi giữ nhà tù.
Tiếp xúc với ai đó đã thức tỉnh là một điều cần thiết. Và
ở cùng với những người mà tất cả họ đều nghĩ tới việc trở
nên thức tỉnh cũng là điều cần thiết. Đây là ý nghĩa của
phương pháp trường phái, phương pháp nhóm. Mật tông là
phương pháp nhóm. Nó nói: Ở cùng nhau, tìm ra tất cả các
khả năng. Cho nên nhiều người có thể ở cùng và họ có thể
chung năng lượng. Ai đó rất thông minh và ai đó rất đáng
yêu - cả hai đều một nửa, nhưng ở cùng nhau thì họ trở nên
thống nhất hơn, toàn thể hơn.
Đàn ông là một nửa, đàn bà là một nửa. Ngoại trừ Mật
tông, tất cả những người tìm kiếm đều cố gắng tìm kiếm mà
không có người khác. Đàn ông đã cố gắng một mình, đàn bà
đã cố gắng một mình. Mật tông nói: Sao không ở cùng nhau,
tay nắm tay nhau? đàn bà là một nửa, đàn ông là một nửa -
cùng nhau họ là một năng lượng lớn hơn, một năng lượng
toàn thể hơn, năng lượng lành mạnh hơn. Gắn lại với nhau!
Để âm và dương vận hành cùng nhau. Sẽ có nhiều khả năng
hơn để thoát ra khỏi nó.
Các phương pháp khác dùng tranh đấu và xung đột. Đàn
ông bắt đầu đánh nhau với đàn bà, bắt đầu trốn thoát khỏi
đàn bà; thay vì dùng khả năng của giúp đỡ thì người đó bắt
đầu nghĩ đàn bà như kẻ thù. Mật tông nói đây là điều cực kì
ngu xuẩn, bạn đang phí hoài năng lượng của mình một cách
không cần thiết để đánh nhau với đàn bà, bởi vì có những
điều lớn lao hơn cần phải được tranh đấu với! Tốt hơn cả là
cùng đi với đàn bà; để cho cô ấy giúp bạn, và bạn giúp cô ấy.
Đi cùng nhau như một đơn vị và các bạn có nhiều cơ may
hơn để chống lại bản tính vô ý thức.
Dùng mọi khả năng; chỉ thế thì mới có cơ may nào đó là
mà bạn có thể tiến hoá thành sinh linh có ý thức, bạn có thể
trở thành vị phật.
Bây giờ lời kinh... đây là lời kinh rất có ý nghĩa. Lời kinh
thứ nhất:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Điều đầu tiên: như tôi đã nói, con người là cái máy. Con
người sống theo thói quen, theo quá khứ, theo kí ức; con người sống từ tri thức mà mình đã biết, đã thu nhận từ trước.
Cho nên người đó cứ bỏ lỡ cái mới, còn chân lí thì bao giờ
cũng là cái mới. Người đó giống như ruồi thích mùi thịt ôi,
mùi hôi hám và hôi thối; hương thơm của gỗ đàn là hôi hám
với con ruồi. Ruồi có sắc thái kí ức nào đó, quá khứ nào đó;
nó bao giờ cũng nghĩ rằng mùi thối rữa của thịt là mùi thơm.
Đó là tri thức của nó, đó là thói quen của nó, đó là lệ thường
của nó - đó là quá khứ chết của nó. Bây giờ bỗng nhiên nó
bắt gặp gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương với
con ruồi cứ dường như là mùi rất hôi và thối.
Bạn đừng ngạc nhiên... đó là điều xảy ra cho bạn. Nếu
bạn đã sống quá nhiều trong thân thể, thế thì thậm chí có tới
gần hơn với người sống trong linh hồn, bạn vẫn cứ cảm thấy
cái gì đó sai. Tới với vị phật, bạn sẽ không cảm thấy hương
thơm; bạn thậm chí có thể bắt đầu cảm thấy mùi hôi. Cách
diễn giải của bạn... bằng không thì tại sao mọi người giết
chết Jesus? Jesus là gỗ đàn hương! và mọi người đơn giản đã
giết chết ông ấy. Tại sao mọi người lại đầu độc Socrates?
Socrates là gỗ đàn hương! Nhưng ruồi - chúng hiểu quá khứ
riêng của mình, chúng diễn giải theo quá khứ của chúng.
Một hôm tôi đọc thấy...
Một gái mãi dâm, gái mãi dâm nổi tiếng nhất của thành
Athens, có lần tới gặp Socrates. Và vài người đang ngồi đó,
chỉ vài người, cũng như ở đây có vài người ngồi, còn
Socrates đang nói với họ. Gái mãi dâm này nhìn quanh và
nói với Socrates, "Sao vậy? - một người vĩ đại như ông, và
lại chỉ ít người nghe ông thế? Tôi cứ nghĩ cả thành Athens
này phải ở đây cơ đấy! Mà tôi chẳng thấy người đáng kính
nhất, người đáng trọng nhất ở đây - các chính khách, các tu
sĩ, các nhà trí thức - tôi không thấy họ ở đây. Có vấn đề gì
vậy? Một ngày nào đó, Socrates, ông tới nhà tôi; ông sẽ thấy
họ đứng xếp hàng ở đó!"
Socrates nói, "Cô phải đấy - bởi vì cô có thể mua vui cho
đòi hỏi đại chúng. Tôi thì không. Tôi chỉ hấp dẫn có vài
người, vài người được chọn lọc. Những người khác không
thể cảm thấy hương thơm của tôi được, họ lẩn tránh! Cho dù
họ có tới với tôi, họ cũng chuồn thôi, họ sợ. Nó là một hương
thơm hoàn toàn khác," Socrates nói.
Gái mãi dâm này phải cực kì thông minh. Cô ta nhìn vào
trong mắt của Socrates, cúi mình xuống và nói, "Socrates,
xin hãy chấp nhận tôi làm một trong những người bạn của
ông," và chẳng bao giờ rời đi, trở thành một phần của nhóm
nhỏ đó.
Phải là một phụ nữ của nhận biết lớn lao... cho nên bỗng
nhiên có sự thay đổi, cô ấy đã hiểu điều đó ngay lập tức!
Nhưng Athens đã giết chết Socrates, họ đã không thích con
người này. Con người này có vẻ rất nguy hiểm. Có nhiều lời
buộc tội chống lại ông ấy. Một lời buộc tội là ông ấy phá huỷ
niềm tin của mọi người, ông ấy phá huỷ tâm trí thanh niên,
rằng ông ấy là vô chính phủ, rằng nếu ông ấy được phép
sống lâu thêm nữa thì xã hội sẽ bị mất gốc. Ông ấy là kẻ thù
nguy hiểm.
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy đã làm điều gì đó hoàn toàn
khác: ông ấy đã cố gắng tạo ra trạng thái vô trí. Nhưng mọi
người nghĩ, "Ông ta phá huỷ tâm trí mọi người." Họ cũng
phải, những con ruồi ấy. Vâng, thanh niên cực kì bị hấp dẫn
tới Socrates - bởi vì chỉ thanh niên mới có thể bị hấp dẫn tới
những điều như vậy. Chỉ thanh niên mới có dũng cảm đó.
Ngay cả người già tới tôi hay tới Socrates, họ cũng chỉ là
thanh niên; đó là lí do tại sao họ lại tới, bằng không thì họ
không thể tới được. Tâm trí già cỗi, mục nát không thể tới tôi được. Có thể thân thể là già, nhưng nếu một ông già tới tôi
hay một bà già, bà ấy chỉ tới bởi vì bà ấy vẫn có tính thanh
niên của linh hồn mình, bà ấy vẫn còn trẻ ở đâu đó; bà ấy
vẫn có khả năng hiểu cái mới, học cái mới. Họ nói bạn
không thể dạy một con chó già những trò mới... điều đó rất
khó; con chó già biết các trò cũ và nó cứ lặp lại chúng. Rất
khó dạy điều gì cho tâm trí cũ.
Và những điều này mới khác biệt triệt để thế, đối lập qua
đường kính với tất cả những điều mà đã từng được dạy cho
bạn, đến mức chừng nào một người còn chưa thực sự trẻ thì
người đó thậm chí không thể nào lắng nghe được. Cho nên
người trẻ bị hấp dẫn. Đó là dấu hiệu rằng cái gì đó của vĩnh
hằng, cái gì đó của tính trẻ vĩnh hằng của vũ trụ đang trào ra
qua Socrates.
Khi Jesus còn sống bạn sẽ thấy thanh niên theo ông ấy.
Bạn sẽ không thấy thanh niên tới gặp giáo hoàng; người già,
người sắp chết, người chết từ rất lâu, lâu rồi... họ tới gặp giáo
hoàng. Khi Shankaracharya nguyên thuỷ còn sống bạn sẽ tìm
thấy thanh niên tất cả quanh ông ấy. Nhưng với
shankaracharya của Puri thì chỉ các thân thể chết, các xác
chết lắng nghe. Những người sống đâu? - bạn không thể tìm
thấy họ được.
Bạn có thể đi và nhìn vào trong bất kì ngôi đền nào và
bạn sẽ thấy những bà già và ông già; thanh niên không có đó.
Trong thực tế, bất kì khi nào tôn giáo thực sự có đó, thanh
niên bị hấp dẫn; khi chân lí có đó, thanh niên bị hấp dẫn. Khi
chỉ có dối trá còn lại - học thuyết, giáo điều, tín điều - thế thì
người già tới. Khi thanh niên bị hấp dẫn, điều đó có nghĩa là
chân lí là trẻ và thanh niên bị hấp dẫn. Khi chân lí già, gần
chết, thế thì người gần chết bị hấp dẫn.
Người già bị hấp dẫn chỉ bởi vì sợ chết. Trong tuổi già
thậm chí kẻ vô thần cũng trở thành hữu thần... sợ hãi. Khi
thanh niên được hấp dẫn tới cái gì đó, đấy không phải bởi vì
sợ chết bởi vì người đó chưa biết gì về cái chết cả; đấy là vì
tình yêu cực kì với cuộc sống. Và đó là khác biệt giữa tôn
giáo thật và tôn giáo không thật. Tôn giáo không thật là
hướng cái sợ. Tôn giáo thật là hướng tình yêu.
Bạn phải đã nghe... trong mọi ngôn ngữ của thế giới cái
từ xấu xí đó tồn tại: Sợ thượng đế. Từ đó phải đã được đặt ra
bởi những người chết, đờ đẫn, người già. Sợ Thượng đế sao?
Làm sao người ta có thể sợ Thượng đế được? Và nếu bạn sợ
Thượng đế, làm sao bạn có thể yêu ngài được? Từ sợ, bạn có
thể chống lại Thượng đế, bởi vì ngài sẽ là kẻ thù của bạn;
làm sao bạn có thể yêu ngài được? Và nếu bạn yêu ngài, làm
sao bạn có thể sợ ngài được? Bạn có bao giờ sợ người bạn
yêu không? Bạn có bao giờ sợ mẹ mình nếu bạn yêu mẹ
không? Bạn có bao giờ sợ người đàn bà nếu bạn yêu người
đó không? Nếu bạn yêu, không có sợ; tình yêu xoá đi mọi sợ.
Yêu Thượng đế... lãng mạn trong tình yêu với Thượng đế...
cực lạc trong tình yêu với Thượng đế...
Nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ trung. Dù tâm
trí trẻ là ở trong thân thể trẻ hay trong thân thể già, điều đó
không liên quan - nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ
trung. Bây giờ Socrates bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp
dẫn thanh niên. Phật bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp dẫn
thanh niên. Nhưng bạn bao giờ cũng nhớ: bất kì khi nào một
tôn giáo được sinh ra, thanh niên cũng xô tới từ mọi góc trên
thế giới.
Họ phải là biểu tượng cho cái gì đó đã xảy ra. Khi người
già xô về cái gì đó, bạn có thể chắc chắn chẳng cái gì xảy ra ở đấy cả, đấy không phải là nơi hành động diễn ra! Nơi thanh
niên đi tới, đó là nơi hành động diễn ra. Nhưng:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Chân lí là điều không biết, bí ẩn. Bạn không thể tiếp cận
nó qua thói quen quá khứ của mình. Bạn có thể tiếp cận nó
chỉ khi bạn lột bỏ hết mọi thói quen.
Áo choàng của các linh mục Ki tô giáo được gọi là habit
- nó là việc dùng hay cho từ habit. Vâng, tôi nói, khi bạn trần
trụi với mọi thói quen (habit), trần trụi với mọi loại áo, mọi
trang phục đều bị vứt bỏ, bạn hành động không qua kí ức mà
qua nhận biết... Đây là hai chức năng khác nhau. Bạn hành
động qua kí ức, thế thì bạn không thấy cái đang đó; bạn cứ
thấy cái bạn đã thấy trước đây. Bạn cứ diễn giải hiện tại dưới
dạng của quá khứ, bạn cứ áp đặt điều gì đó không có đó; bạn
cứ thấy những thứ không có, và bạn cứ không thấy những cái
đang có. Kí ức phải bị gạt sang bên. Kí ức là tốt,dùng nó,
nhưng chân lí chưa bao giờ được biết tới qua kí ức cả. Làm
sao bạn có thể biết chân lí qua kí ức được? Bạn chưa bao giờ
biết tới chân lí trong quá khứ.
Chân lí là điều không biết. Chân lí là vị khách lạ. Bạn sẽ
phải gạt tất cả mọi kí ức sang bên; bạn sẽ phải nói với tâm
trí, "Im đi, để cho ta thấy mà không có mi! Để ta nhìn chỉ với
sự sáng tỏ, không với đôi mắt vẩn đục: không ý nghĩ, không
niềm tin, không kinh sách, không triết lí, không tôn giáo. Để
ta nhìn trực tiếp, ngay lập tức! Để ta nhìn ở đây bây giờ, để
ta nhìn vào trong cái đang đương đầu với ta." Chỉ thế thì bạn
mới hài hoà với bí ẩn của chân lí.
Và nhớ: chân lí chưa bao giờ trở thành kí ức cả. Ngay cả
khi bạn đã biết nó, nó cũng chẳng bao giờ trở thành kí ức.
Chân lí bao la thế, nó không thể nào bị hàm chứa bởi kí ức.
Và bất kì khi nào nó có đó, bạn sẽ biết nó, nó sẽ lại là mới.
Nó chưa bao giờ cũ cả, nó bao giờ cũng mới, nó bao giờ
cũng tươi mát. Đó là một trong những phẩm chất của nó,
rằng nó không bao giờ trở nên cũ đi. Nó bao giờ cũng trẻ
trung.
Cho nên nếu bạn muốn biết chân lí, Saraha nói với nhà
vua, "Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn biết chân lí của
điều đang xảy ra cho ta, xin bệ hạ gạt tâm trí mình sang bên.
Ta biết bệ hạ chỉ giống như ruồi; bệ hạ đã sống trong thân
thể và tâm trí, bệ hạ không biết gì bên ngoài chúng. Ta đang
đứng đây; ta ở ngoài cả hai. Và không có cách nào để giải
thích điều đó cho bệ hạ tương ứng theo tâm trí của bệ hạ;
không, điều đó không thể được giải thích. Nếu bệ hạ thực sự
muốn kinh nghiệm nó, bệ hạ có thể kinh nghiệm nó, nhưng
nó không thể nào được giải thích."
Thượng đế không thể nào được định nghĩa. Thượng đế
không thể nào được giải thích. Xin nhớ: chớ bao giờ giải
thích điều đó, bởi vì nếu bạn giải thích nó, bạn sẽ giải thích
nó xa xôi đi. Thượng đế không thể nào bị hàm chứa bởi bất
kì ý nghĩ nào. Nhưng Thượng đế có thể được sống, Thượng
đế có thể được yêu. Bạn có thể trở thành thượng đế! - đó là
điều có thể - nhưng tâm trí không thể nào chứa đựng được
Thượng đế. Tâm trí là cái bình chứa rất nhỏ, nó giống như
chiếc thìa trà vậy - và bạn muốn có Thái bình dương trong
chiếc thìa trà sao? Vâng, bạn có thể có chút ít nước mặn
trong chiếc thìa trà của mình, nhưng điều đó sẽ không cho ý
tưởng về Thái bình dương, về sự bao la. Bão tố sẽ không xảy
ra trong chiếc thìa trà của bạn, sóng lớn sẽ không phát sinh.
Vâng, vị nó thì giống thế, nhưng nó sẽ không là đại dương.

Saraha nói: Nếu bệ hạn muốn thấy ta, bệ hạ sẽ phải gạt
tâm trí mình sang bên. Bệ hạ có tâm trí của ruồi. Bệ hạ có
những thói quen nào đó về suy nghĩ, về cảm giác, bệ hạ có
thói quen sống nào đó. Bệ hạ đã sống một cuộc sống của
thân thể và tâm trí, và nhiều nhất bất kì cái gì bệ hạ đã biết
cho tới giờ đều chỉ do bệ hạ nghe thấy, bệ hạ đã đọc kinh
sách... Bản thân Saraha đã đọc kinh sách cho nhà vua trước
đây, anh ta biết điều đó rõ lắm. Anh ta biết điều nhà vua biết:
tri thức của anh ta chỉ là thông tin. Saraha nói: Điều đó đã
xảy ra cho ta! Nhưng để thấy điều đó bệ hạ sẽ cần phẩm chất
thấy khác.
Tâm trí không bao giờ gặp chân lí cả, không bao giờ
đương đầu với chân lí. Con đường của tâm trí và con đường
của chân lí là hoàn toàn tách rời. Nó là thực tại tách rời. Do
đó nhấn mạnh của mọi nhà huyền môn trên thế giới là đạt tới
trạng thái vô trí. Đó là điều thiền tất cả là gì: trạng thái vô trí,
trạng thái không suy nghĩ - vậy mà đầy nhận biết, chói sáng
với nhận biết. Khi không có một ý nghĩ, bầu trời của bạn
sạch mây, và thế thì mặt trời bừng sáng.
Thông thường chúng ta bị che phủ bởi nhiều ý nghĩ, ham
muốn, tham vọng, mơ mộng đến mức mặt trời không thể
chiếu sáng được. Nó bị che khuất đằng sau những đám mây
đem đó: ham muốn là đám mây, ý nghĩ là đám mây, tưởng
tượng là đám mây, và người ta cần được quang đãng để biết
cái đang đó.
Saraha nói:
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Luân hồi (samsara) có nghĩa là sống như thân thể, như
tâm trí, như bản ngã. Luân hồi nghĩa là sống hướng ngoại,
luân hồi nghĩa là sống với mọi vật. Luân hồi nghĩa là sống
với ý tưởng rằng tất cả đều là vật chất và chẳng có gì khác.
Luân hồi nghĩa là ba chất độc: sức mạnh, danh vọng, thế lực
- sống trong thế giới với ý tưởng có nhiều sức mạnh hơn,
nhiều danh vọng hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều thế lực
hơn...thế này và thế nọ; sống trong đồ vật và vì đồ vật. Đó là
ý nghĩa của từ luân hồi - thế giới.
Quan sát bản thân mình: bạn đã bao giờ sống với con
người hay bạn sống chỉ với đồ vật? Vợ bạn là người hay đồ
vật? Chồng bạn là người hay đồ vật? Bạn đối xử với chồng
mình như một con người, như một người có giá trị bản chất,
tuyệt vời, hay chỉ như một thứ tiện dụng, rằng anh ta là
người cung cấp bánh mì và bơ, hay rằng cô ta là người nội
trợ, chăm sóc con cái? Vợ bạn có là mục đích tự thân hay cô
ấy chỉ là một thứ tiện dụng, một món hàng để được dùng?
Đôi khi bạn dùng cô ấy về mặt dục, đôi khi bạn dùng cô ấy
theo cách khác - nhưng việc dùng người đó có nghĩa là người
đó là một vật với bạn, không phải là người.
Người không thể được dùng; chỉ vật mới có thể được
dùng. Người không thể bị mua bán; chỉ vật mới có thể được
mua bán. Người có giá trị vô cùng thế, thiêng liêng thế, nhân
phẩm thế - làm sao bạn có thể dùng một người được? Vâng,
người đó có thể cho tình yêu của mình, nhưng bạn không thể
dùng được. Và bạn phải biết ơn. Bạn đã bao giờ cám ơn vợ
mình chưa? Bạn đã bao giờ cám ơn bố bạn, mẹ bạn chưa?
Bạn đã bao giờ cám ơn bạn bè mình chưa? Đôi khi bạn cám
ơn người lạ nhưng chẳng bao giờ cám ơn những người của
riêng mình, bởi vì bạn coi họ như có sẵn.
Sống với đồ vật là sống trong luân hồi.
Sống với người là sống trong niết bàn. 

Và một khi bạn bắt đầu sống với người, mọi đồ vật biến
mất. Thông thường ngay cả người cũng bị thu về đồ vật, còn
khi người bắt đầu trở nên thiền thì ngay cả đồ vật cũng bắt
đầu trở thành người; ngay cả cây cối cũng trở thành người,
tảng đá cũng trở thành người. Mọi thứ dần dần bắt đầu có
nhân tính, bởi vì Thượng đế lan toả khắp mọi sự tồn tại.
Saraha nói: Tâu bệ hạ, bệ hạ đã sống trong luân hồi và bệ
hạ không thể hiểu được con đường của niết bàn. Nếu bệ hạ
thực sự muốn hiểu nó, bệ hạ sẽ phải sống nó, không có cách
khác. Để biết, bệ hạ sẽ phải nếm trải cái gì đó của nó. Và ta ở
đây, đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu giải thích!
Niết bàn đang đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu các
lí thuyết. Không chỉ điều đó - bệ hạ phải hoàn toàn mù quáng
- bệ hạ đã tới để thuyết phục ta quay lại với luân hồi của bệ
hạ! Ruồi đang thuyết phục ta rời bỏ rừng đàn hương cùng
hương thơm của nó để lấy mùi ôi thiu của thịt.
"Bệ hạ có điên không đấy?" Saraha nói với nhà vua. "Để
ta thuyết phục bệ hạ tới thế giới của ta thay vì bệ hạ thuyết
phục ta tới thế giới của bệ hạ. Ta đã biết thế giới của bệ hạ
và ta đã biết thực tại mới này nữa; ta có thể so sánh được. Bệ
hạ chỉ biết mỗi thế giới của mình; bệ hạ không biết thực tại
của ta, bệ hạ không thể so sánh được."
Khi vị phật nói thế giới này là ảo tưởng, thiền về điều đó,
bởi vì ông ấy đã biết thế giới này nữa. Khi người vô thần nào
đó, người duy vật, người cộng sản nào đó nói rằng thế giới
của niết bàn chỉ là ảo tưởng, không cần phải bận bâm về điều
đó chút nào, bởi vì người đó vẫn còn chưa biết nó. Người đó
chỉ biết thế giới này; bạn không thể tin cậy vào câu trả lời
của người đó về thế giới khác được. Người đó chưa bao giờ
thiền, người đó chưa bao giờ đi vào trong nó.
Nhìn vào nó đi: nhìn vào tất cả những người đã thiền,
không nhìn vào chỉ một người đã chối bỏ thực tại bên trong.
Không vào chỉ một người! Không một ngoại lệ nào, tất cả
các thiền nhân đều đã trở thành nhà huyền môn. Những
người còn chưa thiền, họ chỉ biết tới thế giới của ruồi và thế
giới của mùi hôi hám và hôi thối của thịt ôi. Họ sống trong
thế giới mục nát của đồ vật, nhưng họ chỉ biết điều đó, và
chắc chắn phát biểu của họ không thể nào tin cậy được. Một
Phật có thể được tin cậy, một Christ có thể được tin cậy, một
Mahavira có thể được tin cậy; họ đã biết cả hai. Họ đã biết
cái thấp hơn và cái cao hơn, và bởi việc biết cái cao hơn mà
họ nói điều gì đó về cái thấp hơn phải được thiền. Bạn đừng
bác bỏ thẳng thừng.
Chẳng hạn: Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, họ chưa
bao giờ thiền cả, và họ nói không có Thượng đế. Bây giờ
điều đó cũng gần như là một người chưa bao giờ tới phòng
thí nghiệm của nhà khoa học và nói điều gì đó về khoa học.
Một người chưa bao giờ đi vào phòng thí nghiệm và nói rằng
lí thuyết tương đối chỉ là vật thờ mù quáng, điều đó không
thể tin được. Bạn phải tới phòng thí nghiệm, bạn phải đi vào
trong toán học cao cấp, bạn phải chứng minh nó! Chỉ bởi vì
bạn không thể hiểu nó nên bạn không thể được phép chối bỏ
nó.
Có rất ít người hiểu lí thuyết tương đối. Người ta nói
rằng khi Einstein còn sống chỉ có mười hai người đang sống
hiểu lí thuyết của ông ấy, trên khắp thế giới. Và có vài người
nghĩ rằng đấy là điều phóng đại, số đó là không đúng: thậm
chí mười hai người cũng không có đó để mà hiểu đúng lí
thuyết của ông ấy. Nhưng bởi vì điều đó bạn không thể nói
nó là không đúng; bạn không thể bỏ phiếu về nó, bạn không
thể làm thất bại nó qua bầu cử. Bạn sẽ phải đi qua cùng
những quá trình đó.

Bây giờ Marx nói không có Thượng đế chỉ đơn giản là
một phát biểu ngu xuẩn... Chưa bao giờ thiền, chưa bao giờ
suy tư, chưa bao giờ cầu nguyện - phát biểu của ông ấy
chẳng liên can gì. Những người đã thiền, những người đã
đào sâu chút ít vào trong bản thể mình, họ đều đi tới cùng
chân lí.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Saraha đang nói: Bệ hạ vứt bỏ niết bàn và bệ hạ cứ chạy
xô theo ảo tưởng. Bệ hạ đã tới thuyết phục ta, thưa bệ hạ?
Xin nhìn ta đây, ta cực lạc làm sao! Nhìn ta đây; ta không
phải là cùng con người đã rời bỏ triều đình của bệ hạ, ta là
một người hoàn toàn khác.
Anh ta đang cố gắng đưa nhận biết của nhà vua về
khoảnh khắc hiện tại, và anh ta đã thành công. Anh ta phải
đã là một con người của sự hiện diện vĩ đại. Anh ta kéo nhà
vua ra khỏi thế giới của ruồi nhặng, ra khỏi thế giới của thịt
ôi. Anh ta kéo nhà vua tới thế giới của gỗ đàn hương và
hương thơm của nó.
Lời kinh thứ hai:
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Anh ta nói: Nhìn đây! Một con bò đã bước qua, và còn
dấu chân trên đất, và dấu chân này ngập đầy nước, nước
mưa. Nó sẽ có đó bao lâu? Chẳng chóng thì chầy nước sẽ
bay hơi, và dấu chân bò đầy nước sẽ không còn đó chút nào
nữa. Nhưng đại dương bao giờ cũng hiện hữu. Mặc dầu nước
trong dấu chân bò cũng là từ đại dương, cái gì đó vẫn khác.
Đại dương bao giờ cũng còn lại, không hề tăng, không
hề giảm. Những đám mây lớn nảy sinh ra từ nó, nó chưa bao
giờ giảm. Những dòng sông lớn đổ nước vào nó, nó chưa
bao giờ tăng. Nó bao giờ cũng còn như cũ. Nhưng dấu chân
nhỏ này của con bò thì đầy nước bây giờ đấy; trong vài giờ
hay vài ngày nó sẽ biến mất, nó sẽ khô đi. Bộ óc của tâm trí
con người cũng vậy: nó chỉ là một dấu chân bò, một thứ nhỏ
bé thế. Chỉ chút ít nước có đó - đừng tin cậy vào nó nhiều, nó
đang khô di rồi, nó sẽ biến mất. Bộ óc là thứ rất nhỏ bé...
đừng nghĩ rằng bạn có thể chứa vũ trụ này trong bộ óc. Và
nó chỉ có thể là tạm thời, nó chẳng thể nào là vĩnh hằng
được.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Bạn đang giữ cái gì trong bộ óc nhỏ bé của mình? Nội
dung của nó là gì? Ham muốn, mơ mộng, tham vọng, ý nghĩ,
tưởng tượng, ý chí, xúc động - đây là những vật bạn đang giữ
như nội dung. Chúng tất cả sẽ khô đi, mọi nội dung sẽ khô
đi. Cho nên thay đổi nhấn mạnh từ những nội dung đó và
đừng nhìn vào nội dung đó. Bầu trời đầy mây, đừng nhìn vào
mây, nhìn vào bầu trời. Đừng nhìn vào cái có trong đầu bạn,
cái có trong tâm trí bạn; chỉ nhìn vào tâm thức bạn. Xúc
động có đó, giận dữ có đó, tình yêu có đó, tham lam có đó,
sợ có đó, ghen có đó - đây là nội dung. Chỉ ngay sau chúng
là bầu trời vô hạn của tâm thức. 

Người sống qua nội dung thì sống cuộc sống của cái
máy. Còn người bắt đầu thay đổi nhấn mạnh của mình từ nội
dung sang bình chứa thì bắt đầu sống cuộc sống của nhận
biết, của phật tính.
Và Saraha nói: Tâu bệ hạ, những nội dung này mà bệ hạ
có trong tâm trí sẽ sớm khô di. Bệ hạ nhìn vào dấu chân bò
kia! Đầu bệ hạ không lớn hơn cái đó, bộ óc không lớn hơn
cái đó. Nhưng tâm thức bệ hạ là vô hạn.
Bây giờ điều này phải được hiểu: xúc động là trong đầu
bạn, nhưng tâm thức không trong đầu bạn. Trong thực tế đầu
bạn là trong tâm thức bạn! Tâm thức là bao la, vô hạn. Xúc
động, ham muốn, tham vọng là trong đầu bạn; chúng sẽ khô
đi. Nhưng ngay cả khi đầu bạn đã hoàn toàn bị vứt bỏ và
biến mất vào trong đất, tâm thức bạn sẽ không biến mất. Bạn
không chứa tâm thức trong mình; tâm thức chứa bạn, nó lớn
hơn bạn.
Có những người hỏi... đôi khi ai đó tới tôi và hỏi: "Linh
hồn ở đâu trong thân thể con người? Trong tim? trong rốn?
Trong đầu? Linh hồn ở đâu?" Họ nghĩ họ đang hỏi một câu
hỏi rất thích đáng. Nó chẳng ở đâu trong thân thể cả: thân thể
bạn là ở trong linh hồn. Linh hồn là hiện tượng lớn hơn thân
thể bạn, linh hồn bao quanh bạn.
Và linh hồn bạn và linh hồn tôi là không khác nhau!
Chúng ta sống trong sự tồn tại, chúng ta sống trong một đại
dương linh hồn. Một linh hồn bao quanh chúng ta, bên trong
và bên ngoài. Nó tất cả là một năng lượng; tôi không có linh
hồn khác và bạn không có linh hồn khác. Chúng ta có các
thân thể khác nhau. Điều đó gần giống như điện chạy trong
bóng đèn và chạy trong radio và chạy trong ti vi và làm quạt
quay, và làm cả nghìn lẻ một thứ. Quạt là khác với bóng đèn,
nhưng điện làm chúng chạy là như nhau.
Chúng ta là một năng lượng. Cách diễn đạt của chúng ta
là khác nhau, nhưng thực tại của chúng ta là một. Nếu bạn
nhìn vào nội dung, nếu tôi nhìn vào nội dung, thế thì giấc mơ
của tôi chắc chắn là khác với giấc mơ của bạn. Chúng ta
không thể có chung giấc mơ. Tôi có tham vọng của tôi, bạn
có tham vọng của bạn. Và không chỉ chúng ta không thể có
chung giấc mơ: giấc mơ của chúng ta còn xung đột nhau.
Tham vọng của tôi là ngược lại tham vọng của bạn; tham
vọng của bạn chống lại tham vọng của tôi. Nhưng nếu chúng
ta quên đi nội dung và chỉ nhìn vào tâm thức, tâm thức thuần
khiết, bầu trời không mây, thế thì 'bạn' ở đâu và 'tôi' ở đâu?
Chúng ta là một.
Trong khoảnh khắc đó có sự thống nhất. Và trong
khoảnh khắc đó có tâm thức vũ trụ.
Mọi tâm thức đều là vũ trụ. Vô thức là riêng tư, tâm thức
là vũ trụ. Cái ngày bạn thực sự trở thành một con người, bạn
là con người vũ trụ. Đó là ý nghĩa của 'christ': con người vũ
trụ, con của Thượng đế. Đó là ý nghĩa của 'phật': con người
vũ trụ đi tới nhận biết toàn bộ và tuyệt đối.
Con người như cái máy lại khác... điều này cần được
hiểu. Nếu bạn có vấn đề ở thận, tôi không có; nếu tôi bị đau
đầu, bạn không đau đầu; cho dù bạn yêu tôi thì bạn cũng
không thể chia sẻ đau đầu được. Cho dù tôi yêu bạn nhưng
tôi vẫn không thể có cái đau của bạn được. Nhưng nếu hai
chúng ta ngồi cùng nhau và thiền và một khoảnh khắc tới khi
tôi không có nội dung trong tâm trí mình và bạn cũng không
có nội dung nào trong tâm trí bạn, chúng ta sẽ không là hai.
Các thiền nhân bắt đầu như sự tách biệt, nhưng cuối cùng
như một.
Nếu các bạn tất cả ngồi trong thiền ở đây, lắng nghe tôi,
thế thì các bạn không là nhiều, thế thì các bạn là một. Thế thì các bạn không chỉ là một: người nói và người nghe không
tách biệt, thế thì chúng ta được bắc cầu với nhau. Hai mươi
thiền nhân trong một phòng thiền, khi họ đi tới việc thiền
thực, không còn là hai mươi nữa: chỉ có một phẩm chất thiền
trong phòng.
Có một câu chuyện...
Vài người tới gặp Phật. Ananda đang ngồi canh ở ngoài
phòng, nhưng những người này lấy quá nhiều thời gian đến
mức Ananda trở nên lo nghĩ. Nhiều lần ông ấy nhìn vào,
nhưng họ vẫn tiếp tục và cứ tiếp tục, tiếp tục... Thế rồi ông
ấy đi vào trong phòng để xem điều gì xảy ra. Và tại đó ông
ấy chẳng thấy ai cả, chỉ Phật ngồi. Cho nên ông ấy hỏi Phật,
"Những anh chàng kia đi đâu cả rồi?" Và không có cửa
khác... mà tôi lại đang ngồi ngay cái cửa duy nhất, cho nên
họ đã đi đâu rồi?"
Và Phật nói, "Họ đang thiền."
Đấy là một câu chuyện hay. Tất cả họ đều rơi vào trong
thiền, còn Ananda đã không thể nào thấy được họ bởi vì ông
ấy vẫn không phải là thiền nhân. Ông ấy không thể nào thấy
được hiện tượng mới này, sự dịch chuyển hoàn toàn của
năng lượng. Họ đã không có đó, bởi vì họ đã không như thân
thể họ ở đó, họ đã không như tâm trí họ ở đó. Những bản ngã
này đã tan biến. Ananda chỉ có thể thấy điều ông ấy có thể
thấy. Một thực tại đã xảy ra.
Một vị vua lớn có lần tới gặp Phật. Tể tướng của ông ấy
khuyên ông ấy tới, nhưng ông ấy là con người rất đa nghi,
như các chính khách và vua thì thường vậy, rất đa nghi. Ông
ấy đã không muốn tới ngay chỗ đầu tiên... Chỉ bởi lí do
chính trị mà ông ấy tới để gặp Phật bởi vì trong thủ đô tin
đồn đang lan truyền rằng ông ấy chống lại Phật; còn mọi
người lại ủng hộ Phật, cho nên ông ấy trở nên sợ hãi, điều đó
không ngoại giao. Cho nên ông ấy tới cùng tể tướng của
mình.
Khi ông ấy tới khu rừng nhỏ nơi Phật đang ngồi cùng với
mười nghìn sư của mình, ông ấy bắt đầu trở nên rất sợ hãi.
Ông ấy tuốt kiếm ra và ông ấy nói với tể tướng, "Có chuyện
gì vậy? - bởi vì khanh nói mười nghìn người đang ở đó, và
chúng ta tới gần thế mà chẳng có tiếng động nào cả! Liệu có
mưu đồ gì không?"
Tể tướng cười và nói, "Bệ hạ không biết người của Phật.
Cất kiếm đi! Bệ hạ cứ tới đi - không có mưu đồ hay cái gì cả.
Bệ hạ không cần phải sợ, họ không định giết bệ hạ. Bệ hạ
không biết người của Phật."
Nhưng rất đa nghi, vẫn lăm lăm cây kiếm trong tay, nhà
vua đi vào trong khu rừng. Ông ta sửng sốt. Ông ta không
thể nào tin được có mười nghìn người đang ngồi dưới gốc
cây một cách im lặng, dường như không có ai cả. Ông ta hỏi
Phật, "Đây là phép màu! - mười nghìn người... ngay cả mười
người cùng nhau cũng tạo ra nhiều ồn ào thế! Những người
này làm gì vậy? Điều gì đã xảy ra cho những người này, cái
gì đã đi sai sao? Họ vẫn còn sống chứ? - họ trông như tượng
cả! Và họ đang ngồi đây làm gì vậy? Họ phải làm cái gì
chứ!"
Còn Phật nói, "Họ đang làm cái gì đó, nhưng điều đó
chẳng liên quan gì tới bên ngoài cả. Họ đang làm điều gì đó
trong thế giới bên trong của mình. Họ không trong thân thể
mình, họ trong bản thể mình, tại chính cốt lõi. Và đây không
phải là mười nghìn người ngay lúc này, họ tất cả đều là một
phần của một tâm thức." 

Lời kinh thứ ba:
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Thái độ Mật tông cơ bản là: Bản năng dục có thể được
biến đổi thành cái siêu phàm, vật chất có thể được biến đổi
thành tâm trí, vô thức có thể được biến đổi thành tâm thức.
Vật lí hiện đại nói vật chất có thể được biến đổi thành
năng lượng, năng lượng có thể được biến đổi thành vật chất.
Trong thực tế chúng không phải là hai mà là cùng một năng
lượng vận hành như hai dạng. Mật tông nói dục có thể được
biến đổi thành samadhi - cùng cách tiếp cận ấy, rất cơ bản và
cơ sở. Cái thấp hơn có thể được biến đổi thành cái cao hơn,
bởi vì cái thấp hơn và cao hơn được nối với nhau; nó là chiếc
thang. Chúng không bao giờ tách rời, không ở đâu tách rời,
không có lỗ hổng giữa chúng. Bạn có thể đi từ thấp lên cao,
bạn có thể đi từ cao xuống thấp.
Và cái thang đó là điều con người là gì. Con người có thể
tồn tại ở bậc thang thấp nhất; đó là quyết định của người đó.
Con người có thể đi lên, người đó có thể tồn tại ở bậc thang
cao nhất. Người đó có thể tồn tại như con vật hoặc người đó
có thể tồn tại như vị phật: cả hai đều là các bậc thang của
người đó, bậc thấp nhất và cao nhất. Và con người là chiếc
thang: người đó có thể rơi vào trong vô thức sâu và trở thành
tảng đá, và người đó có thể vươn lên tâm thức tuyệt đối, và
có thể trở thành thượng đế. Nhưng chúng không tách biệt, đó
là cái đẹp của Mật tông.
Mật tông không mang tính phân chia, Mật tông là tôn
giáo duy nhất không tinh thần phân liệt. Mật tông là tôn giáo
duy nhất thực sự lành mạnh, tôn giáo lành mạnh nhất, bởi vì
nó không phân chia. Nếu bạn phân chia, bạn tạo ra chia chẻ.
Nếu bạn bảo mọi người rằng thân thể là xấu, rằng thân thể là
kẻ thù, rằng thân thể phải bị lên án, rằng thân thể đang phục
vụ quỉ, thế thì bạn đang tạo ra chia chẻ trong con người, thế
thì con người trở nên sợ thân thể. Và thế thì dần dần sẽ tạo ra
cái hố sâu không thể bắc cầu qua được và con người bị kéo
vào hai phần, con người bị giằng xé theo hai hướng đối lập.
Thân thể kéo thân thể thành hai, tâm trí cố gắng kéo tâm trí
thành hai; có xung đột và lẫn lộn.
Mật tông nói bạn là một, không cần phải có bất kì lẫn lộn
gì. Bạn có thể được hợp nhất lại trong một thực tại. Không
cần phải có bất kì xung đột nào, không cần phải bị xé ra,
không cần phải mất trí. Bạn có thể yêu tất cả những cái đang
có sẵn, và bạn có thể làm tiến hoá nó - với tình yêu sâu sắc,
sự chăm nom, tính sáng tạo, nó có thể được tiến hoá. Thân
thể không phải là kẻ thù của linh hồn bạn, thân thể chỉ là bao
gươm của thanh gươm của bạn. Thân thể chỉ là ngôi đền, nó
là chỗ trú ngụ của bạn. Nó không phải là kẻ thù, nó là bạn
của bạn.
Mật tông vứt bỏ mọi loại bạo hành, không chỉ bạo hành
với người khác mà bạo hành với chính mình. Mật tông nói:
Yêu thực tại trong tính toàn bộ của nó. Vâng, nhiều điều có
thể được tiến hoá, nhưng mọi tiến hoá đều là thông qua tình
yêu. Và không cần đánh nhau.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên… 

Bạn không thể uống nước biển mặn đựơc, nó mặn thế;
nó toàn là muối. Bạn sẽ chết nếu bạn uống nước biển. Nhưng
khi một đám mây tới và rút nước từ biển, nó biến thành ngọt,
và thế thì bạn có thể uống được nó.
Saraha nói: Samadhi giống như đám mây, năng lượng
thiền giống như đám mây, cái biến bản năng dục của bạn
thành những thực tại cao hơn, cái biến sự tồn tại vật lí của
bạn thành sự tôn tại phi vật lí, cái biến vị mặn chát, kinh
nghiệm đắng cay về thế giới thành đường ngọt, kinh nghiệm
tựa nước cam lồ về niết bàn. Bản thân luân hồi trở thành niết
bàn nếu bạn có thể tạo ra đám mây làm biến đổi nó. Đám
mây đó Phật thực tế đã gọi là dharmamegha samadhi,
samadhi của đám mây của luật nền tảng – dharmamegha
samadhi.
Bạn có thể tạo ra được đám mây đó. Đám mây đó được
tạo ra bằng thiền. Bạn thiền mãnh liệt, vứt bỏ các ý nghĩ, vứt
bỏ các ham muốn, tham vọng… dần dần tâm thức bạn là
ngọn lửa bùng cháy - đám mây đó có đó. Bây giờ bạn có thể
biến đổi bất kì cái gì qua ngọn lửa đó; ngọn lửa đó làm
chuyển hoá, ngọn lửa đó là giả kim thuật. Qua thiền cái thấp
hơn trở thành cái cao hơn, sắt cơ sở hơn biến thành vàng.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Hai điều: thứ nhất, người ta phải tạo ra đám mây thiền
trong bản thể của mình; và điều thứ hai là từ bi - người làm
việc vì người khác. Phật nhấn mạnh vào hai điều: thiền và từ
bi, pragyan và karuna. Ông ấy nói rằng đôi khi chuyện xảy
ra là một thiền nhân có thể trở thành ích kỉ quá nhiều; thế
nữa điều gì đó sẽ thành chua ra. Thiền, vui sướng, nhưng
chia sẻ vui sướng đó, chia sẻ nó đi. Đừng tích trữ nó, bởi vì
một khi bạn bắt đầu tích trữ, bản ngã bắt đầu nảy sinh. Đừng
bao giờ tích trữ cái gì. Khoảnh khắc bạn được nó, đem cho
nó đi, và bạn sẽ được ngày càng nhiều hơn. Bạn càng cho đi
nhiều, bạn lại càng nhận được nhiều. Thế thì mọi thứ trở
thành cam lồ. Mọi thứ là cam lồ; chúng ta chỉ phải biết cách
biến đổi nó, chúng ta phải biết thuật giả kim.
Câu kinh cuối:
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Không thể tả được... Saraha nói: Đừng hỏi ta nó là gì -
điều đó là không thể tả được, điều đó không thể nói ra được.
Điều đó không thể được diễn tả, không ngôn ngữ nào hiện có
mà có thể diễn tả được nó. Nhưng nó có thể được kinh
nghiệm. Nhìn mãn nguyện của ta đây! Nhìn xem ta đã trở
nên được thoả mãn thế nào! Bệ hạ đã biết ta từ trước nữa, ta
đã bất an làm sao, không thoả mãn với mọi thứ làm sao. Và
tất cả đều có sẵn; ta là ái khanh của bệ hạ, tất cả mọi thứ đều
sẵn cho ta, vậy mà ta vẫn không thoả mãn. Bây giờ, bệ hạ
nhìn xem! Ta đang đứng trong bãi hoả thiêu, thậm chí không
có một mái lều trên đầu! Và ta không sống với vua và hoàng
hậu, ta đang sống với người đàn bà rèn tên này. Nhưng nhìn vào mắt ta… ta mãn nguyện làm sao. Bệ hạ không thể thấy
được cái gì đó không diễn tả nổi đã xảy ra đó sao? Bệ hạ
không thể cảm thấy rung động của ta sao? Bệ hạ đờ đẫn và
chết đến mức bệ hạ phải cần lời giải thích sao?
Nếu mà không thể tả được, chẳng bao giờ người ta lại
không được thoả mãn cả...
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Đó là tiêu chuẩn duy nhất cho liệu một người đã đạt tới
chân lí hay chưa: người đó sẽ không bao giờ không thoả
mãn, mãn nguyện của người đó là tuyệt đối. Bạn không thể
lôi người đó ra khỏi mãn nguyện của mình được, bạn không
thể làm cho người đó không bằng lòng; bất kì điều gì xảy ra,
người đó vẫn vậy, hài lòng. Thành công hay thất bại, sống
hay chết, bạn hay không bạn, người yêu hay không người
yêu, không có khác biệt. Yên bình của người đó, tĩnh lặng
của người đó là hoàn toàn tuyệt đối. Người đó được định
tâm… Nếu không thể nói ra được, đừng bao giờ là người
không thoả mãn.
Nếu điều không thể nào được nói ra lại xảy ra, thế thì chỉ
có một cách để biết nó, và cách đó là thấy mãn nguyện.
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Và ta biết, anh ta nói: Bệ hạ không thể hình dung ra được
điều đã xảy ra cho ta. Làm sao bệ hạ có thể hình dung ra
được? Bởi vì bệ hạ chưa từng biết tới điều đó. Tưởng tượng
bao giờ cũng lặp lại cùng điều bệ hạ đã biết.
Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc; bạn đã biết từng chút
và từng mẩu của nó. Bạn có thể tưởng tượng bất hạnh; bạn
đã biết nó, nhiều về nó. Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc
cho dù bạn đang không biết hạnh phúc. Bạn có thể tưởng
tượng nó như cái ngược lại với bất hạnh. Nhưng làm sao bạn
có thể tưởng tượng được phúc lạc? Bạn không biết nó. Và
chẳng có gì mâu thuẫn nó cả, nó là không nhị nguyên. Điều
đó là không thể tưởng tượng nổi.
Cho nên Saraha nói: Ta có thể hiểu được... bệ hạ không
thể tưởng tượng ra điều đó được, nhưng ta không nói tưởng
tượng nó. Nhìn đây! Nó đang hiện diện ở đây và bây giờ. Và
nếu bệ hạ không thể tưởng tượng ra nó, điều đó nữa cũng là
một trong những tiêu chuẩn của chân lí: chân lí không thể
nào được tưởng tượng ra. Nó có thể được thấy, nhưng không
được tưởng tượng. Bệ hạ có thể có linh ảnh về nó, nhưng bệ
hạ không thể mơ về nó được. Và đó là khác biệt giữa giấc
mơ và linh ảnh.
Giấc mơ là của bạn. Linh ảnh không phải là của bạn.
Christ thấy Thượng đế, và kinh sách nói ông ấy thấy linh
ảnh. Bây giờ nhà phân tâm sẽ nói đấy chỉ là giấc mơ; ông ấy
không biết khác biệt giữa giấc mơ và linh ảnh. Giấc mơ là
của bạn: bạn đã tưởng tượng, bạn đã tạo ra nó, nó bao giờ
cũng là phóng tác của bạn. Linh ảnh là cái gì đó xuất phát từ
trời xanh mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới, thậm chí bạn cũng
chưa bao giờ nghĩ tới một phần của nó. Nó hoàn toàn mới
thế… thế thì nó là linh ảnh. Nếu không thể nào tưởng tượng
ra nổi, nó phải là bản thân phúc lạc...
Nhìn vào tôi - bạn không thể hình dung ra được điều đã
xảy ra. Bạn không thể thấy được nó sao? Bạn có mắt để thấy
- nhìn, quan sát, cầm tay tôi! Lại gần tôi hơn, mong manh
với tôi, để cho rung động của tôi có thể làm rung động bản thể bạn, và điều không thể tưởng tượng nổi và không thể nói
được có thể được kinh nghiệm.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ…
Và Saraha nói: Ta biết.... Anh ta phải đã thấy nhà vua có
chút ít sợ hãi. Tôi thấy điều đó hàng ngày. Mọi người tới tôi
và tôi thấy họ run rẩy, sợ hãi, hoảng hốt, kinh hoàng, và họ
nói, "Chúng tôi sợ lắm, Osho." Tôi biết! Saraha phải đã thấy
nhà vua đang run rẩy sâu bên trong… có thể không ở bên
ngoài. Ông ta là một vị vua lớn, ông ta phải là người rất kỉ
luật, ông ta phải đã đứng thẳng - nhưng sâu bên dưới ông ta
phải đã sợ hãi.
Điều đó bao giờ cũng xảy ra khi bạn ở gần một người
như Saraha, hay người như Phật, bạn nhất định sợ. Mới đêm
hôm nọ một thanh niên tới và anh ta nói, "Nhưng sao tôi sợ
thầy? Thầy đã chẳng làm điều gì sai với tôi cả - sao tôi sợ
thầy? Chắc chắn tôi yêu thầy, nhưng sao tôi lại sợ thầy?"
Điều đó là tự nhiên. Khi bạn tới gần vực thẳm, bạn trông
đợi điều gì? - bạn sẽ sợ. Có mọi khả năng bạn có thể rơi vào
trong nó và sẽ không thể nào khôi phục lại mình nữa; điều đó
sẽ là không thể khôi phục lại được, không thể phục hồi được.
Bạn sẽ mất đi hoàn toàn, toàn bộ vào trong nó. Bạn sẽ không
có khả năng kéo lại. Sợ là tự nhiên.
Saraha nói: Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm
nổ… Anh ta nói: ta giống như đám mây và bệ hạ sợ hãi bởi
vì tiếng sấm, vì sét. Nhưng nhớ lấy. Mùa màng chín rộ khi từ
đám mây đó đổ mưa xuống. Nếu bệ hạ cho phép ta mưa lên
bệ hạ, hạt mầm sẽ mọc, tâu bệ hạ, và con người vẫn ẩn kín
đằng sau bệ hạ, vẫn còn chưa được sinh ra, sẽ được sinh ra.
Bệ hạ sẽ có khả năng chín, chín muồi, bệ hạ sẽ có khả năng
nở hoa. Ta mời bệ hạ, Saraha nói, với một mùa màng bội
thu… mùa màng của tâm thức, mùa màng của nhận biết.
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Con người là điều huyền thoại, và là điều huyền thoại
nguy hiểm nhất, bởi vì nếu bạn tin rằng con người tồn tại thế
thì bạn không cố gắng để làm tiến hoá con người chút nào,
không có nhu cầu. Nếu bạn tin rằng mình đã là người rồi, thế
thì tất cả mọi trưởng thành đều chấm dứt.
Bạn vẫn chưa là con người, bạn mới chỉ có tiềm năng
cho điều đó thôi. Bạn có thể là con người, bạn có thể không,
bạn có thể bỏ lỡ. Nhớ lấy, điều đó có thể bị bỏ lỡ.
Con người còn chưa được sinh ra; là con người không
phải là sự kiện được cho sẵn, bạn không thể có được điều đó
bằng việc cho không. Đấy chỉ là một khả năng. Con người
tồn tại như hạt mầm, không như cây - còn chưa thành cây.
Con người còn chưa là thực tại, và khác biệt giữa tiềm năng
và thực tại là lớn lao.
Con người như người đó đang tồn tại chỉ là cái máy, vậy
mà con người vẫn làm việc, vậy mà con người vẫn thành
công trong thế giới này, vậy mà con người vẫn sống cái gọi
là cuộc sống và chết. Nhưng nhớ lấy, con người không tồn
tại. Chức năng của người đó là ở chức năng của cái máy,
người đó là người máy.
Con người là cái máy. Vâng, cái máy này có thể trưởng
thành trong nó mà nó có thể vượt ra ngoài cái máy. Cái máy này không phải là cái máy thường; nó có tiềm năng vô cùng
để vượt ra ngoài bản thân nó. Nó có thể tạo ra cái gì đó siêu
việt lên trên cấu trúc riêng của nó. Đôi khi nó đã tạo ra... một
Phật, một Christ, một Gurdjieff - đôi khi nó đã tạo ra con
người. Nhưng bạn đừng tin rằng mình đã là con người. Nếu
bạn tin, niềm tin của bạn sẽ mang tính tự sát - bởi vì một khi
chúng ta tin rằng điều gì đó đã có đó thế thì chúng ta chấm
dứt tìm kiếm nó, thế thì chúng ta chấm dứt tạo ra nó, thế thì
chúng ta chấm dứt phát hiện nó, thế thì chúng ta chấm dứt
tiến hoá nó.
Nghĩ xem: một người ốm, một người ốm nặng, nghĩ
mình mạnh khoẻ. Sao người đó phải tới bác sĩ? Sao người đó
phải uống thuốc? Sao người đó phải đi trị liệu? Sao người đó
sẵn lòng đi bệnh viện? Người đó tin mình mạnh khoẻ, người
đó có sức khoẻ hoàn hảo... và người đó đang chết! Niềm tin
của người đó sẽ giết chết người đó.
Đó là lí do tại sao tôi nói huyền thoại này là nguy hiểm,
huyền thoại nguy hiểm nhất mà các tu sĩ và chính khách đã
hư cấu ra: rằng con người đã có trên trái đất. Hàng triệu
người này trên trái đất chỉ là những khả năng, và không may
là đại đa số họ lại chưa bao giờ sẽ trở thành thực tại; không
may, nhiều người trong số họ sẽ chết như cái máy.
Tôi ngụ ý gì khi tôi nói con người là cái máy? Tôi ngụ ý
rằng con người sống từ quá khứ. Con người sống từ một cấu
trúc chết, con người sống từ thói quen, con người sống cuộc
sống thường lệ. Con người cứ đi cùng vòng tròn ấy, theo
cùng con đường mòn ấy, đi đi, đi lại. Bạn không thể thấy
được cái vòng luẩn quẩn trong cuộc sống của mình sao?
Cùng những điều ấy bạn đã làm mọi ngày: hi vọng, giận dữ,
ham muốn, tham vọng, nhục dục, tình dục, thất vọng, lại hi
vọng... cứ cái vòng tròn ấy chuyển động... Mỗi hi vọng lại
dẫn tới thất vọng, chưa bao giờ nó khác đi; và sau mỗi thất
vọng, một hi vọng mới, và cái vòng ấy lại bắt đầu chuyển
động.
Tại phương Đông chúng ta gọi nó là cái bánh xe của
luân hồi samsara. Nó là cái bánh xe, các nan hoa là như
nhau. Và bạn bị nó lừa đi lừa lại, bạn lại cứ hi vọng. Và bạn
biết mình đã hi vọng trước đây, bạn đã hi vọng cả triệu lần
rồi, mà chẳng cái gì xảy ra từ hi vọng đó. Chỉ bánh xe là cứ
chuyển, và cứ giết chết bạn, cứ phá huỷ cuộc sống của bạn.
Thời gian chạy khỏi tay bạn. Mỗi khoảnh khắc mất đi là mất
đi mãi mãi, và bạn cứ lặp lại cái cũ.
Đây là điều tôi muốn nói khi tôi nói con người là cái
máy. Tôi đồng ý với George Gurdjieff tuyệt đối; ông ấy hay
nói rằng bạn còn chưa có linh hồn. Ông ấy là người đầu tiên
nói điều đó một cách quyết liệt thế, rằng bạn còn chưa có
linh hồn. Vâng, linh hồn có thể được sinh ra trong bạn,
nhưng bạn sẽ phải trao việc sinh thành cho nó; bạn sẽ phải
trở nên có khả năng trao việc sinh cho nó.
Suốt hàng thế kỉ các tu sĩ đã bảo bạn rằng bạn đã có linh
hồn rồi, rằng bạn đã có con người đó. Điều đó không phải
như vậy; bạn chỉ mới có tiềm năng như vậy thôi. Thực tế bạn
có thể trở thành, nhưng huyền thoại này phải bị phá bỏ. Thấy
sự kiện của nó: bạn còn chưa là sinh linh có ý thức; và nếu
bạn không là sinh linh có ý thức, làm sao bạn có thể là con
người được?
Đâu là khác biệt giữa tảng đá và bạn? Đâu là khác biệt
giữa con vật và bạn? Đâu là khác biệt giữa cây và bạn? Khác
biệt là khác về ý thức. Nhưng bạn có bao nhiêu ý thức?... chỉ
mong manh đây đó. Chỉ đôi khi, trong những khoảnh khắc
hiếm hoi, bạn mới trở nên có ý thức; và điều đó chỉ trong vài giây rồi bạn lại rơi trở lại vào trong vô ý thức. Vâng, đôi khi
điều đó xảy ra, bởi vì nó là tiềm năng của bạn.
Đôi khi điều đó xảy ra mặc bạn... một hôm mặt trời lên
và bạn rơi vào hài hoà với sự tồn tại - rồi bỗng nhiên nó có
đó: cái đẹp của nó, phúc lành của nó, hương thơm của nó,
ánh sáng của nó. Bỗng nhiên nó có đó và bạn có hương vị
của cái đang có đó, cái có thể hiện hữu, cái hiện hữu. Nhưng
khoảnh khắc bạn trở nên tỉnh táo rằng nó có đó, nó đã trôi
qua rồi. Chỉ kí ức là còn lại. Chỉ hiếm khoảnh khắc: đôi khi
trong tình yêu, đôi khi ngắm trăng tròn, đôi khi mặt trời lên,
đôi khi ngồi trong hang núi im lặng, đôi khi nhìn vào đứa trẻ
đang chơi đùa, khúc khích; vâng, đôi khi trong âm nhạc...
Nhưng những khoảnh khắc này là hiếm hoi.
Nếu một người bình thường, cái gọi là con người, mà đạt
tới bẩy khoảnh khắc nhận biết trong toàn bộ cuộc sống của
mình, điều đó sẽ là quá nhiều. Hiếm lắm, rất hiếm hoi, chỉ
một tia sáng đi vào, và thế rồi nó lại đi mất. Còn bạn quay lại
với cuộc sống tầm thường của mình, đờ đẫn và chết. Và điều
này không chỉ vậy với người bình thường, nó là vậy với
những người được gọi là phi thường của bạn.
Mới hôm nọ tôi đã đọc về Carl Jung, một trong những
nhà tâm lí vĩ đại nhất của thời đại này... nhưng đôi khi người
ta tự hỏi liệu có nên gọi những người này là các nhà tâm lí
hay không. Ông ấy là con người rất bất an, hoàn toàn bất an.
Ông ấy không thể nào ngồi im lặng một khoảnh khắc; ông ấy
sẽ quay người, trở mình, ông ấy sẽ làm điều này điều khác.
Nếu không có gì để làm, ông ấy sẽ hút tẩu thuốc, và ông ấy
là người hút hết điếu nọ tới điếu kia. Thế rồi ông ấy bị đau
tim và các bác sĩ nói phải dừng việc hút thuốc, dừng hoàn
toàn. Bây giờ điều đó là rất khó. Ông ấy bắt đầu cảm thấy sự
bất an của mình quá nhiều, ông ấy bắt đầu cảm thấy phát
điên. Ông ấy sẽ đi lại trong trong phòng, ông ấy sẽ đi ra
ngoài, chẳng có lí do gì; ông ấy sẽ ngồi trong chiếc ghế này
ghế nọ. Và thế rồi ông ấy nhận ra sự kiện rằng cái tẩu đã rất,
rất có ích. Đấy là giải thoát, một loại giải thoát khỏi cái bất
an của mình. Cho nên ông ấy hỏi bác sĩ, "Tôi có thể ngậm
chiếc tẩu rỗng trong mồm được không? Điều đó có được
phép không?" - chiếc tẩu rỗng! "Điều đó sẽ có ích cho tôi."
Ông ấy được phép, và thế rồi trong hàng năm ông ấy
quen ngậm chiếc tẩu rỗng trong mồm, chỉ giả vờ rằng ông ấy
hút thuốc. Và thế rồi ông ấy nhìn vào cái tẩu, cầm cái tẩu
trong tay, chơi với cái tẩu. Và đây là về một nhà tâm lí vĩ đại
của thời đại này! Vô ý thức làm sao! Quá nhiều trong việc
ôm giữ thói quen đó, quá nhiều trong việc ôm giữ điều vô ý
thức! - điều đó có vẻ trẻ con. Và thế rồi chúng ta cứ tìm cách
hợp lí hoá; thế rồi chúng ta cứ giả vờ với chính mình, thế rồi
chúng ta cứ bảo vệ và phòng thủ cho mình nhưng tại sao
chúng ta làm điều này.
Vào độ tuổi bốn mươi lăm Carl Jung yêu một phụ nữ.
Ông ấy là một đàn ông đã có gia đình với bà vợ rất đáng yêu.
Chẳng có gì sai cả, nhưng điều đó phải đã là bất an. Chuyện
gần như bao giờ cũng xảy ra là gần độ tuổi bốn mươi lăm,
người ta bắt đầu cảm thấy rằng cả cuộc sống đã trôi qua. Cái
chết đang tới gần hơn, và bởi vì cái chết đang tới gần hơn,
nên hoặc bạn trở thành mang tính tâm linh hoặc bạn trở
thành mang tính dục nhiều hơn.
Đây là hai cách phòng thủ duy nhất: hoặc bạn quay sang
tìm kiếm chân lí, tìm kiếm cái vĩnh hằng không có cái chết,
hoặc bạn bắt đầu nhấn chìm mình vào trong những chuyện
tình ái tưởng tượng. Và đặc biệt là những người trí thức -
những người đã sống cả đời qua cái đầu - là nạn nhân nhiều
hơn vào độ tuổi bốn mươi lăm. Thế thì bản năng dục báo thù.

Nó đã bị chối bỏ; bây giờ cái chết đang tới gần hơn và thế rồi
người ta chẳng bao giờ biết được liệu mình sẽ có lại ở đây
nữa hay không, liệu cuộc sống sẽ có đó hay không. Cái chết
đang tới đây còn bạn đã sống cuộc sống của cái đầu. Bản
năng dục bùng phát với sự báo thù.
Carl Gustav Jung yêu một phụ nữ trẻ. Bây giờ điều đó rất
phản lại danh tiếng của ông ấy. Bà vợ bị khuấy động, và bà
vợ đã yêu ông ấy cực kì và đã tin cậy vào ông ấy. Ông ấy
hợp lí hoá điều đó thật hay. Nhìn vào việc hợp lí hoá của ông
ấy - đó là cách con người vô ý thức cứ sống. Ông ấy sẽ làm
điều gì đó vô ý thức, thế rồi sẽ cố gắng hợp lí hoá nó và sẽ cố
gắng chứng minh rằng điều đó là không vô ý thức: "Tôi đang
làm điều đó rất có ý thức - trong thực tế, điều đó phải được
làm."
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy bỗng nhiên phát triển một lí
thuyết rằng có hai kiểu phụ nữ trên thế giới: một là kiểu
người mẹ, kiểu chăm sóc, kiểu vợ; và kiểu kia, kiểu tình
nhân, người yêu, người trở thành nguồn hứng khởi. Và đàn
ông cần cả hai - và đàn ông kiểu như Carl Gustav Jung chắc
chắn cần cả hai. Ông ấy cần hứng khởi nữa. Ông ấy cần một
phụ nữ chăm sóc; điều đó vợ ông ấy đang thực hiện - bà ấy
đáng yêu, thuộc kiểu người mẹ. Nhưng điều đó không đáp
ứng cho nhu cầu của ông ấy - ông ấy cần hứng khởi nữa, ông
ấy cần một phụ nữ lãng mạn nữa, một tình nhân người có thể
đưa ông ấy vào những giấc mơ sâu; đó là điều phải có với
ông ấy. Jung đã phát triển lí thuyết này... đây là hợp lí hoá.
Bây giờ ông ấy chẳng bao giờ phát triển phần kia của nó,
rằng đàn ông có hai kiểu. Đó là nơi bạn có thể tìm thấy rằng
đó là hợp lí hoá. Nếu đó là sáng suốt thực sự thế thì phần kia,
rằng đàn ông có hai kiểu, kiểu người bố và kiểu người yêu...
thế thì vợ của Jung cũng cần đến hai kiểu! Nếu Jung nghĩ
rằng ông ấy là kiểu người yêu, thế thì bà ấy cần kiểu người
bố; nếu Jung nghĩ ông ấy là kiểu người bố, thế thì bà ấy cần
kiểu người yêu. Nhưng điều đó ông ấy chưa bao giờ phát
triển cả. Đấy là cách bạn có thể thấy nó không phải là sáng
suốt; nó chỉ là một tâm trí thủ đoạn, hợp lí hoá.
Chúng ta cứ hợp lí hoá. Chúng là mọi việc một cách vô ý
thức, chúng ta làm chúng mà không biết tại sao chúng ta
đang làm chúng. Nhưng chúng ta không thể nào chấp nhận
sự kiện này: rất xấu hổ để chấp nhận rằng, "Tôi đã làm điều
gì đó mà tôi lại không nhận biết về điều đó và tôi không biết
tại sao." Nhận biết về việc hợp lí hoá này.
Và làm sao những người như vậy có thể làm lợi được
cho người khác? Chính sự kiện rất nổi tiếng là nhiều bệnh
nhân của Carl Jung đã tự tử. Tại sao? Họ đã tới để được giúp
đỡ, tại sao họ tự tử? Cái gì đó về cơ bản đã phải sai rồi. Việc
phân tích của ông ấy chỉ là điều tệ hại. Ông ấy là con người
rất kiêu ngạo, rất bản ngã, liên tục chỉ chực đánh nhau. Có
thể toàn bộ việc phân tâm của ông ấy đã được phát triển chỉ
vì kiêu ngạo của ông ấy chống lại Sigmund Freud. Có thể
đấy lại chỉ là hợp lí hoá, bởi vì bản thân ông ấy dường như
đang chịu cùng những vấn đề mà ông ấy nghĩ để giúp cho
người khác.
Jung bao giờ cũng rất sợ ma; ngay cả trong tuổi già của
mình ông ấy cũng sợ ma. Ông ấy đã không xuất bản cuốn
sách quan trọng nhất của mình trong khi còn sống bởi vì ông
ấy sợ rằng mọi người sẽ đi tới biết các sự kiện. Cho nên các
truyện kí của ông ấy được xuất bản, nhưng ông ấy đã phải
chắc chắn rằng chúng được xuất bản chỉ khi ông ấy chết. Bây
giờ đây là cái kiểu chân lí và đích thực gì? Ông ấy sợ bị phát
hiện ra là sai, hay trong cái sai, đến mức ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì sự kiện nào được tiết lộ về cuộc sống của
mình trong khi ông ấy còn sống.
Tôi đã đọc một giai thoại...
Một người tới một nhà tâm thần và bắt đầu bộc bạch
trước bác sĩ về lịch sử cuộc sống mình, bao quát các kinh
nghiệm thời niên thiếu của mình, cuộc sống tình cảm, thói
quen ăn uống, vấn đề nghề nghiệp, và đủ mọi thứ người đó
có thể nghĩ tới. "Được," bác sĩ nói, "với tôi dường như chẳng
có gì sai với ông cả. Ông dường như cũng lành mạnh như tôi
vậy."
"Nhưng bác sĩ này," bệnh nhân phản đối, một dấu hiệu
khiếp hãi len vào giọng người đó, "đấy là những con bướm
này. Tôi không thể nào chống lại được chúng. Chúng ở khắp
trên tôi."
"Lạy chúa," bác sĩ kêu lên, nhảy lùi lại, "Chớ có phẩy
chúng lên tôi đấy!"
Bệnh nhân và bác sĩ, tất cả đều trên cùng một thuyền.
Nhà phân tâm và người được phân tích không phải xa xôi gì.
Đấy là trò chơi. Có thể nhà phân tâm còn láu cá hơn, nhưng
không phải là ông ta biết thực tại, bởi vì để biết thực tại thì
bạn sẽ phải trở nên cực kì ý thức; không có cách khác. Vấn
đề không phải là suy nghĩ trí tuệ, điều đó chẳng liên can gì
tới việc triết lí của bạn cả. Để biết thực tại thì người ta phải
trưởng thành trong nhận biết.
Gurdjieff hay nói về tâm lí học tương lai. Ông ấy hay nói
rằng tâm lí học vẫn không tồn tại, bởi vì làm sao nó có thể
tồn tại được? Ngay cả con người cũng không tồn tại! Khi con
người không có đó, làm sao khoa học về con người có thể
tồn tại được? Ngay bây giờ bất kì cái gì tồn tại thì cũng
không phải là tâm lí học. Có thể nó là cái gì đó về cái máy là
con người.
Tâm lí học chỉ có thể tồn tại quanh vị phật. Với tâm thức,
Phật sống. Bạn có thể thấy tâm lí của ông ấy là gì, linh hồn
của ông ấy là gì. Người thường sống không có linh hồn.
Vâng, bạn có thể tìm thấy cái gì đó sai sót trong cái máy của
người đó, và cái sai đó có thể được chữa thành đúng. Điều
chúng ta biết như tâm lí học ngày nay chẳng là gì ngoài chủ
nghĩa hành vi. Và theo nghĩa đó thì Pavlov và Skinner còn
đúng hơn Freud và Jung, bởi vì họ nghĩ con người là máy.
Họ đúng về con người đang tồn tại, mặc dầu họ hoàn toàn
không đúng bởi vì họ nghĩ đây là mục đích, con người không
thể khác được. Đó là giới hạn của họ: họ nghĩ con người chỉ
là máy thôi. Họ là đúng khi có liên quan tới con người hiện
tại ngày nay - con người là máy - nhưng họ nghĩ rằng con
người không thể khác được. Tại đó họ sai. Nhưng Freud và
Jung và Adler còn sai hơn bởi vì họ nghĩ con người đã có
trên trái đất này; tất cả mọi điều bạn cần là nghiên cứu con
người và bạn sẽ biết. Nhưng con người không có đó. Đấy là
một hiện tượng rất vô ý thức.
Con người là huyền thoại. Bạn để điều đó là một trong
những sáng suốt cơ bản nhất. Nó sẽ giúp bạn thoát ra khỏi
dối trá, thoát ra khỏi lừa dối.
Mật tông là nỗ lực để làm cho bạn ý thức hơn. Chính từ
Mật tông (Tantra) có nghĩa là mở rộng của nhận biết. Nó bắt
nguồn từ gốc tiếng Phạn tan: tan có nghĩa là mở rộng. Mật
tông có nghĩa là sự mở rộng của tâm thức - và sự kiện cơ sở
và sự kiện nền tảng nhất cần được hiểu là ở chỗ bạn đang
ngủ say. Bạn phải được đánh thức dậy.
Mật tông tin vào các phương pháp trường phái: điều đó
cũng phải được hiểu. Theo nghĩa đó Gurdjieff là một trong những người mật tông vĩ đại nhất của thời đại này. Chẳng
hạn, nếu một người đang ngủ, có rất ít khả năng người đó có
thể trở nên thức tỉnh một mình. Nhìn vào điều đó theo cách
này: vào ngày đầu năm bạn nghĩ như bạn bao giờ cũng
nghĩ... và nhiều ngày đầu năm đã trôi qua, và bao giờ bạn
cũng đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ không bao giờ hút thuốc
lại nữa; và lần nữa năm mới lại tới và bạn bắt đầu nghĩ lần
này điều đó sắp xảy ra. Bạn đưa ra lời nguyện rằng bạn sẽ
không bao giờ hút thuốc, nhưng bạn không đi nói điều đó
cho người khác, bạn sợ việc nói. Nói điều đó cho người khác
là nguy hiểm bởi vì bạn biết mình, nhiều lần bạn đã phá bỏ
lời nguyện rồi; thế thì điều đó rất xấu hổ. Cho nên bạn giữ
điều đó cho mình. Bây giờ chỉ có một khả năng trong một
trăm khả năng là lời nguyện sẽ được giữ; chín mươi chín khả
năng là nó sẽ bị phá bỏ chẳng chóng thì chầy.
Bạn là người vô ý thức; lời nguyện của bạn chẳng có
nghĩa gì nhiều. Nhưng nếu bạn đi và bạn nói cho mọi người
trong thành phố - bạn bè, đồng nghiệp, con cái, vợ... bạn đi
và bảo với mọi người, "Tôi đã nguyện là tôi sẽ không hút
thuốc nữa," có nhiều khả năng, ít nhất là mười phần trăm,
rằng bạn sẽ không hút thuốc. Lần đầu chỉ có một phần trăm,
bây giờ có mười khả năng. Chín mươi phần trăm khả năng là
bạn sẽ hút thuốc, nhưng việc không hút thuốc có nền tảng
hơn, vững chắc hơn; từ một phần trăm nó đã lên tới mười
phần trăm. Nhưng nếu bạn tham gia vào một nhóm người
không hút thuốc, nếu bạn tham gia vào một đoàn thể những
người không hút thuốc, thế thì khả năng thậm chí còn nhiều
hơn: chín mươi chín phần trăm là khả năng bạn sẽ không hút
thuốc. Điều gì xảy ra?
Khi bạn một mình, bạn không có hỗ trợ nào từ bên ngoài
- bạn một mình, bạn có thể rơi vào giấc ngủ dễ dàng. Và
chẳng ai biết cả, cho nên bạn cũng không lo nghĩ. Khi tất cả
đều biết, việc biết của họ sẽ vận hành để giữ cho bạn tỉnh táo
hơn. Bây giờ bản ngã của bạn đang lâm nguy, kính trọng và
tôn trọng với bạn đang lâm nguy. Nhưng nếu bạn gia nhập
một đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì khả năng
còn nhiều hơn, bởi vì bạn sống qua thói quen. Ai đó rút bao
thuốc lá ra khỏi túi, và bỗng nhiên bạn bắt đầu nhìn vào túi
mình. Bạn chỉ như cái máy: ai đó hút thuốc và bạn bắt đầu
nghĩ hút thuốc cũng hay làm sao. Không ai hút thuốc, và bạn
trong đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì không
ai nhắc nhở bạn cả; và thói quen này dần dần sẽ biến mất, vì
không dùng tới. Nếu một thói quen không được dùng tới,
dần dần nó biến mất; nó có khuynh hướng trở nên chết, nó
mất níu bám vào bạn.
Mật tông nói: con người có thể trở nên thức tỉnh chỉ qua
phương pháp nhóm, qua trường phái. Đó là lí do tại sao tôi
nhấn mạnh nhiều vào tính chất sannyas. Một mình, bạn
không chống lại được cơ hội. Cùng nhau, có nhiều khả năng
hơn. Cũng dường như là có mười người bị lạc trong sa mạc
và rất nguy hiểm trong đêm: kẻ thù có thể giết họ, thú hoang
có thể giết họ, cướp có thể tới, kẻ giết người có thể thấy - rất
khó khăn. Bây giờ họ quyết định theo phương pháp nhóm,
họ nói: "Mỗi người sẽ thức trong một tiếng." Cho rằng từng
người sẽ vẫn còn thức tỉnh cả tám tiếng trong đêm là đòi hỏi
quá nhiều với người vô ý thức, nhưng từng người sẽ vẫn còn
thức tỉnh trong một tiếng. Và trước khi người đó bắt đầu rơi
vào giấc ngủ, người đó nên làm cho ai đó khác thức dậy, thế
thì có nhiều khả năng là ít nhất một người trong nhóm sẽ có
khả năng thức cả đêm.
Hay như Gurdjieff hay nói: Bạn đang trong tù và bạn
muốn thoát ra khỏi nhà tù. Một mình không mấy cơ may;
nhưng nếu tất cả các tù nhân trở thành một nhóm, thế thì có
nhiều cơ may hơn - họ có thể ném vào lính gác, họ có thể giết lính gác, họ có thể phá vỡ tường. Nếu tất cả các tù nhân
đều cùng nhau, thế thì có nhiều cơ may là họ có thể thoát tù,
được tự do.
Nhưng cơ may sẽ tăng lên thậm chí còn nhiều hơn nữa
nếu họ có tiếp xúc với vài người ở ngoài nhà tù, người đã tự
do. Đó là toàn bộ ý nghĩa của việc tìm ra thầy: tìm ra một ai
đó đã ở ngoài nhà tù. Người đó có thể là sự giúp đỡ vô biên,
bởi nhiều lí do. Người đó có thể cung cấp những điều cần
thiết, những điều sẽ cần cho bạn để thoát ra khỏi nhà tù;
người đó có thể gửi các dụng cụ, giũa, để cho bạn có thể phá
vỡ nhà tù. Người đó có thể quan sát từ bên ngoài và người đó
có thể thông báo cho bạn khi nào đổi gác; trong khoảng giữa
đó có khả năng để thoát ra. Người đó có thể thông báo cho
bạn khi nào lính gác ngủ say trong đêm. Người đó có thể thu
xếp để cho lính gác uống rượu say vào một đêm đặc biệt,
người đó có thể mời cai tù tới nhà mình dự tiệc; người đó có
thể làm cả nghìn lẻ một điều mà bạn không thể làm được từ
bên trong. Người đó có thể tìm ra sự hỗ trợ cho bạn từ bên
ngoài. Người đó có thể tạo ra bầu không khí để cho khi bạn
được thoát ra khỏi tù thì bạn sẽ được mọi người chấp nhận,
bạn sẽ có chỗ ở, được đón vào nhà. Nếu xã hội không sẵn
sàng chấp nhận bạn từ bên ngoài, có thể thoát khỏi giam cầm
nhưng xã hội sẽ tống bạn trở lại vào tay giới coi giữ nhà tù.
Tiếp xúc với ai đó đã thức tỉnh là một điều cần thiết. Và
ở cùng với những người mà tất cả họ đều nghĩ tới việc trở
nên thức tỉnh cũng là điều cần thiết. Đây là ý nghĩa của
phương pháp trường phái, phương pháp nhóm. Mật tông là
phương pháp nhóm. Nó nói: Ở cùng nhau, tìm ra tất cả các
khả năng. Cho nên nhiều người có thể ở cùng và họ có thể
chung năng lượng. Ai đó rất thông minh và ai đó rất đáng
yêu - cả hai đều một nửa, nhưng ở cùng nhau thì họ trở nên
thống nhất hơn, toàn thể hơn.
Đàn ông là một nửa, đàn bà là một nửa. Ngoại trừ Mật
tông, tất cả những người tìm kiếm đều cố gắng tìm kiếm mà
không có người khác. Đàn ông đã cố gắng một mình, đàn bà
đã cố gắng một mình. Mật tông nói: Sao không ở cùng nhau,
tay nắm tay nhau? đàn bà là một nửa, đàn ông là một nửa -
cùng nhau họ là một năng lượng lớn hơn, một năng lượng
toàn thể hơn, năng lượng lành mạnh hơn. Gắn lại với nhau!
Để âm và dương vận hành cùng nhau. Sẽ có nhiều khả năng
hơn để thoát ra khỏi nó.
Các phương pháp khác dùng tranh đấu và xung đột. Đàn
ông bắt đầu đánh nhau với đàn bà, bắt đầu trốn thoát khỏi
đàn bà; thay vì dùng khả năng của giúp đỡ thì người đó bắt
đầu nghĩ đàn bà như kẻ thù. Mật tông nói đây là điều cực kì
ngu xuẩn, bạn đang phí hoài năng lượng của mình một cách
không cần thiết để đánh nhau với đàn bà, bởi vì có những
điều lớn lao hơn cần phải được tranh đấu với! Tốt hơn cả là
cùng đi với đàn bà; để cho cô ấy giúp bạn, và bạn giúp cô ấy.
Đi cùng nhau như một đơn vị và các bạn có nhiều cơ may
hơn để chống lại bản tính vô ý thức.
Dùng mọi khả năng; chỉ thế thì mới có cơ may nào đó là
mà bạn có thể tiến hoá thành sinh linh có ý thức, bạn có thể
trở thành vị phật.
Bây giờ lời kinh... đây là lời kinh rất có ý nghĩa. Lời kinh
thứ nhất:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Điều đầu tiên: như tôi đã nói, con người là cái máy. Con
người sống theo thói quen, theo quá khứ, theo kí ức; con người sống từ tri thức mà mình đã biết, đã thu nhận từ trước.
Cho nên người đó cứ bỏ lỡ cái mới, còn chân lí thì bao giờ
cũng là cái mới. Người đó giống như ruồi thích mùi thịt ôi,
mùi hôi hám và hôi thối; hương thơm của gỗ đàn là hôi hám
với con ruồi. Ruồi có sắc thái kí ức nào đó, quá khứ nào đó;
nó bao giờ cũng nghĩ rằng mùi thối rữa của thịt là mùi thơm.
Đó là tri thức của nó, đó là thói quen của nó, đó là lệ thường
của nó - đó là quá khứ chết của nó. Bây giờ bỗng nhiên nó
bắt gặp gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương với
con ruồi cứ dường như là mùi rất hôi và thối.
Bạn đừng ngạc nhiên... đó là điều xảy ra cho bạn. Nếu
bạn đã sống quá nhiều trong thân thể, thế thì thậm chí có tới
gần hơn với người sống trong linh hồn, bạn vẫn cứ cảm thấy
cái gì đó sai. Tới với vị phật, bạn sẽ không cảm thấy hương
thơm; bạn thậm chí có thể bắt đầu cảm thấy mùi hôi. Cách
diễn giải của bạn... bằng không thì tại sao mọi người giết
chết Jesus? Jesus là gỗ đàn hương! và mọi người đơn giản đã
giết chết ông ấy. Tại sao mọi người lại đầu độc Socrates?
Socrates là gỗ đàn hương! Nhưng ruồi - chúng hiểu quá khứ
riêng của mình, chúng diễn giải theo quá khứ của chúng.
Một hôm tôi đọc thấy...
Một gái mãi dâm, gái mãi dâm nổi tiếng nhất của thành
Athens, có lần tới gặp Socrates. Và vài người đang ngồi đó,
chỉ vài người, cũng như ở đây có vài người ngồi, còn
Socrates đang nói với họ. Gái mãi dâm này nhìn quanh và
nói với Socrates, "Sao vậy? - một người vĩ đại như ông, và
lại chỉ ít người nghe ông thế? Tôi cứ nghĩ cả thành Athens
này phải ở đây cơ đấy! Mà tôi chẳng thấy người đáng kính
nhất, người đáng trọng nhất ở đây - các chính khách, các tu
sĩ, các nhà trí thức - tôi không thấy họ ở đây. Có vấn đề gì
vậy? Một ngày nào đó, Socrates, ông tới nhà tôi; ông sẽ thấy
họ đứng xếp hàng ở đó!"
Socrates nói, "Cô phải đấy - bởi vì cô có thể mua vui cho
đòi hỏi đại chúng. Tôi thì không. Tôi chỉ hấp dẫn có vài
người, vài người được chọn lọc. Những người khác không
thể cảm thấy hương thơm của tôi được, họ lẩn tránh! Cho dù
họ có tới với tôi, họ cũng chuồn thôi, họ sợ. Nó là một hương
thơm hoàn toàn khác," Socrates nói.
Gái mãi dâm này phải cực kì thông minh. Cô ta nhìn vào
trong mắt của Socrates, cúi mình xuống và nói, "Socrates,
xin hãy chấp nhận tôi làm một trong những người bạn của
ông," và chẳng bao giờ rời đi, trở thành một phần của nhóm
nhỏ đó.
Phải là một phụ nữ của nhận biết lớn lao... cho nên bỗng
nhiên có sự thay đổi, cô ấy đã hiểu điều đó ngay lập tức!
Nhưng Athens đã giết chết Socrates, họ đã không thích con
người này. Con người này có vẻ rất nguy hiểm. Có nhiều lời
buộc tội chống lại ông ấy. Một lời buộc tội là ông ấy phá huỷ
niềm tin của mọi người, ông ấy phá huỷ tâm trí thanh niên,
rằng ông ấy là vô chính phủ, rằng nếu ông ấy được phép
sống lâu thêm nữa thì xã hội sẽ bị mất gốc. Ông ấy là kẻ thù
nguy hiểm.
Ông ấy đã làm gì? Ông ấy đã làm điều gì đó hoàn toàn
khác: ông ấy đã cố gắng tạo ra trạng thái vô trí. Nhưng mọi
người nghĩ, "Ông ta phá huỷ tâm trí mọi người." Họ cũng
phải, những con ruồi ấy. Vâng, thanh niên cực kì bị hấp dẫn
tới Socrates - bởi vì chỉ thanh niên mới có thể bị hấp dẫn tới
những điều như vậy. Chỉ thanh niên mới có dũng cảm đó.
Ngay cả người già tới tôi hay tới Socrates, họ cũng chỉ là
thanh niên; đó là lí do tại sao họ lại tới, bằng không thì họ
không thể tới được. Tâm trí già cỗi, mục nát không thể tới tôi được. Có thể thân thể là già, nhưng nếu một ông già tới tôi
hay một bà già, bà ấy chỉ tới bởi vì bà ấy vẫn có tính thanh
niên của linh hồn mình, bà ấy vẫn còn trẻ ở đâu đó; bà ấy
vẫn có khả năng hiểu cái mới, học cái mới. Họ nói bạn
không thể dạy một con chó già những trò mới... điều đó rất
khó; con chó già biết các trò cũ và nó cứ lặp lại chúng. Rất
khó dạy điều gì cho tâm trí cũ.
Và những điều này mới khác biệt triệt để thế, đối lập qua
đường kính với tất cả những điều mà đã từng được dạy cho
bạn, đến mức chừng nào một người còn chưa thực sự trẻ thì
người đó thậm chí không thể nào lắng nghe được. Cho nên
người trẻ bị hấp dẫn. Đó là dấu hiệu rằng cái gì đó của vĩnh
hằng, cái gì đó của tính trẻ vĩnh hằng của vũ trụ đang trào ra
qua Socrates.
Khi Jesus còn sống bạn sẽ thấy thanh niên theo ông ấy.
Bạn sẽ không thấy thanh niên tới gặp giáo hoàng; người già,
người sắp chết, người chết từ rất lâu, lâu rồi... họ tới gặp giáo
hoàng. Khi Shankaracharya nguyên thuỷ còn sống bạn sẽ tìm
thấy thanh niên tất cả quanh ông ấy. Nhưng với
shankaracharya của Puri thì chỉ các thân thể chết, các xác
chết lắng nghe. Những người sống đâu? - bạn không thể tìm
thấy họ được.
Bạn có thể đi và nhìn vào trong bất kì ngôi đền nào và
bạn sẽ thấy những bà già và ông già; thanh niên không có đó.
Trong thực tế, bất kì khi nào tôn giáo thực sự có đó, thanh
niên bị hấp dẫn; khi chân lí có đó, thanh niên bị hấp dẫn. Khi
chỉ có dối trá còn lại - học thuyết, giáo điều, tín điều - thế thì
người già tới. Khi thanh niên bị hấp dẫn, điều đó có nghĩa là
chân lí là trẻ và thanh niên bị hấp dẫn. Khi chân lí già, gần
chết, thế thì người gần chết bị hấp dẫn.
Người già bị hấp dẫn chỉ bởi vì sợ chết. Trong tuổi già
thậm chí kẻ vô thần cũng trở thành hữu thần... sợ hãi. Khi
thanh niên được hấp dẫn tới cái gì đó, đấy không phải bởi vì
sợ chết bởi vì người đó chưa biết gì về cái chết cả; đấy là vì
tình yêu cực kì với cuộc sống. Và đó là khác biệt giữa tôn
giáo thật và tôn giáo không thật. Tôn giáo không thật là
hướng cái sợ. Tôn giáo thật là hướng tình yêu.
Bạn phải đã nghe... trong mọi ngôn ngữ của thế giới cái
từ xấu xí đó tồn tại: Sợ thượng đế. Từ đó phải đã được đặt ra
bởi những người chết, đờ đẫn, người già. Sợ Thượng đế sao?
Làm sao người ta có thể sợ Thượng đế được? Và nếu bạn sợ
Thượng đế, làm sao bạn có thể yêu ngài được? Từ sợ, bạn có
thể chống lại Thượng đế, bởi vì ngài sẽ là kẻ thù của bạn;
làm sao bạn có thể yêu ngài được? Và nếu bạn yêu ngài, làm
sao bạn có thể sợ ngài được? Bạn có bao giờ sợ người bạn
yêu không? Bạn có bao giờ sợ mẹ mình nếu bạn yêu mẹ
không? Bạn có bao giờ sợ người đàn bà nếu bạn yêu người
đó không? Nếu bạn yêu, không có sợ; tình yêu xoá đi mọi sợ.
Yêu Thượng đế... lãng mạn trong tình yêu với Thượng đế...
cực lạc trong tình yêu với Thượng đế...
Nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ trung. Dù tâm
trí trẻ là ở trong thân thể trẻ hay trong thân thể già, điều đó
không liên quan - nhưng điều đó là có thể chỉ cho tâm trí trẻ
trung. Bây giờ Socrates bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp
dẫn thanh niên. Phật bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp dẫn
thanh niên. Nhưng bạn bao giờ cũng nhớ: bất kì khi nào một
tôn giáo được sinh ra, thanh niên cũng xô tới từ mọi góc trên
thế giới.
Họ phải là biểu tượng cho cái gì đó đã xảy ra. Khi người
già xô về cái gì đó, bạn có thể chắc chắn chẳng cái gì xảy ra ở đấy cả, đấy không phải là nơi hành động diễn ra! Nơi thanh
niên đi tới, đó là nơi hành động diễn ra. Nhưng:
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Chân lí là điều không biết, bí ẩn. Bạn không thể tiếp cận
nó qua thói quen quá khứ của mình. Bạn có thể tiếp cận nó
chỉ khi bạn lột bỏ hết mọi thói quen.
Áo choàng của các linh mục Ki tô giáo được gọi là habit
- nó là việc dùng hay cho từ habit. Vâng, tôi nói, khi bạn trần
trụi với mọi thói quen (habit), trần trụi với mọi loại áo, mọi
trang phục đều bị vứt bỏ, bạn hành động không qua kí ức mà
qua nhận biết... Đây là hai chức năng khác nhau. Bạn hành
động qua kí ức, thế thì bạn không thấy cái đang đó; bạn cứ
thấy cái bạn đã thấy trước đây. Bạn cứ diễn giải hiện tại dưới
dạng của quá khứ, bạn cứ áp đặt điều gì đó không có đó; bạn
cứ thấy những thứ không có, và bạn cứ không thấy những cái
đang có. Kí ức phải bị gạt sang bên. Kí ức là tốt,dùng nó,
nhưng chân lí chưa bao giờ được biết tới qua kí ức cả. Làm
sao bạn có thể biết chân lí qua kí ức được? Bạn chưa bao giờ
biết tới chân lí trong quá khứ.
Chân lí là điều không biết. Chân lí là vị khách lạ. Bạn sẽ
phải gạt tất cả mọi kí ức sang bên; bạn sẽ phải nói với tâm
trí, "Im đi, để cho ta thấy mà không có mi! Để ta nhìn chỉ với
sự sáng tỏ, không với đôi mắt vẩn đục: không ý nghĩ, không
niềm tin, không kinh sách, không triết lí, không tôn giáo. Để
ta nhìn trực tiếp, ngay lập tức! Để ta nhìn ở đây bây giờ, để
ta nhìn vào trong cái đang đương đầu với ta." Chỉ thế thì bạn
mới hài hoà với bí ẩn của chân lí.
Và nhớ: chân lí chưa bao giờ trở thành kí ức cả. Ngay cả
khi bạn đã biết nó, nó cũng chẳng bao giờ trở thành kí ức.
Chân lí bao la thế, nó không thể nào bị hàm chứa bởi kí ức.
Và bất kì khi nào nó có đó, bạn sẽ biết nó, nó sẽ lại là mới.
Nó chưa bao giờ cũ cả, nó bao giờ cũng mới, nó bao giờ
cũng tươi mát. Đó là một trong những phẩm chất của nó,
rằng nó không bao giờ trở nên cũ đi. Nó bao giờ cũng trẻ
trung.
Cho nên nếu bạn muốn biết chân lí, Saraha nói với nhà
vua, "Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn biết chân lí của
điều đang xảy ra cho ta, xin bệ hạ gạt tâm trí mình sang bên.
Ta biết bệ hạ chỉ giống như ruồi; bệ hạ đã sống trong thân
thể và tâm trí, bệ hạ không biết gì bên ngoài chúng. Ta đang
đứng đây; ta ở ngoài cả hai. Và không có cách nào để giải
thích điều đó cho bệ hạ tương ứng theo tâm trí của bệ hạ;
không, điều đó không thể được giải thích. Nếu bệ hạ thực sự
muốn kinh nghiệm nó, bệ hạ có thể kinh nghiệm nó, nhưng
nó không thể nào được giải thích."
Thượng đế không thể nào được định nghĩa. Thượng đế
không thể nào được giải thích. Xin nhớ: chớ bao giờ giải
thích điều đó, bởi vì nếu bạn giải thích nó, bạn sẽ giải thích
nó xa xôi đi. Thượng đế không thể nào bị hàm chứa bởi bất
kì ý nghĩ nào. Nhưng Thượng đế có thể được sống, Thượng
đế có thể được yêu. Bạn có thể trở thành thượng đế! - đó là
điều có thể - nhưng tâm trí không thể nào chứa đựng được
Thượng đế. Tâm trí là cái bình chứa rất nhỏ, nó giống như
chiếc thìa trà vậy - và bạn muốn có Thái bình dương trong
chiếc thìa trà sao? Vâng, bạn có thể có chút ít nước mặn
trong chiếc thìa trà của mình, nhưng điều đó sẽ không cho ý
tưởng về Thái bình dương, về sự bao la. Bão tố sẽ không xảy
ra trong chiếc thìa trà của bạn, sóng lớn sẽ không phát sinh.
Vâng, vị nó thì giống thế, nhưng nó sẽ không là đại dương.

Saraha nói: Nếu bệ hạn muốn thấy ta, bệ hạ sẽ phải gạt
tâm trí mình sang bên. Bệ hạ có tâm trí của ruồi. Bệ hạ có
những thói quen nào đó về suy nghĩ, về cảm giác, bệ hạ có
thói quen sống nào đó. Bệ hạ đã sống một cuộc sống của
thân thể và tâm trí, và nhiều nhất bất kì cái gì bệ hạ đã biết
cho tới giờ đều chỉ do bệ hạ nghe thấy, bệ hạ đã đọc kinh
sách... Bản thân Saraha đã đọc kinh sách cho nhà vua trước
đây, anh ta biết điều đó rõ lắm. Anh ta biết điều nhà vua biết:
tri thức của anh ta chỉ là thông tin. Saraha nói: Điều đó đã
xảy ra cho ta! Nhưng để thấy điều đó bệ hạ sẽ cần phẩm chất
thấy khác.
Tâm trí không bao giờ gặp chân lí cả, không bao giờ
đương đầu với chân lí. Con đường của tâm trí và con đường
của chân lí là hoàn toàn tách rời. Nó là thực tại tách rời. Do
đó nhấn mạnh của mọi nhà huyền môn trên thế giới là đạt tới
trạng thái vô trí. Đó là điều thiền tất cả là gì: trạng thái vô trí,
trạng thái không suy nghĩ - vậy mà đầy nhận biết, chói sáng
với nhận biết. Khi không có một ý nghĩ, bầu trời của bạn
sạch mây, và thế thì mặt trời bừng sáng.
Thông thường chúng ta bị che phủ bởi nhiều ý nghĩ, ham
muốn, tham vọng, mơ mộng đến mức mặt trời không thể
chiếu sáng được. Nó bị che khuất đằng sau những đám mây
đem đó: ham muốn là đám mây, ý nghĩ là đám mây, tưởng
tượng là đám mây, và người ta cần được quang đãng để biết
cái đang đó.
Saraha nói:
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Luân hồi (samsara) có nghĩa là sống như thân thể, như
tâm trí, như bản ngã. Luân hồi nghĩa là sống hướng ngoại,
luân hồi nghĩa là sống với mọi vật. Luân hồi nghĩa là sống
với ý tưởng rằng tất cả đều là vật chất và chẳng có gì khác.
Luân hồi nghĩa là ba chất độc: sức mạnh, danh vọng, thế lực
- sống trong thế giới với ý tưởng có nhiều sức mạnh hơn,
nhiều danh vọng hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều thế lực
hơn...thế này và thế nọ; sống trong đồ vật và vì đồ vật. Đó là
ý nghĩa của từ luân hồi - thế giới.
Quan sát bản thân mình: bạn đã bao giờ sống với con
người hay bạn sống chỉ với đồ vật? Vợ bạn là người hay đồ
vật? Chồng bạn là người hay đồ vật? Bạn đối xử với chồng
mình như một con người, như một người có giá trị bản chất,
tuyệt vời, hay chỉ như một thứ tiện dụng, rằng anh ta là
người cung cấp bánh mì và bơ, hay rằng cô ta là người nội
trợ, chăm sóc con cái? Vợ bạn có là mục đích tự thân hay cô
ấy chỉ là một thứ tiện dụng, một món hàng để được dùng?
Đôi khi bạn dùng cô ấy về mặt dục, đôi khi bạn dùng cô ấy
theo cách khác - nhưng việc dùng người đó có nghĩa là người
đó là một vật với bạn, không phải là người.
Người không thể được dùng; chỉ vật mới có thể được
dùng. Người không thể bị mua bán; chỉ vật mới có thể được
mua bán. Người có giá trị vô cùng thế, thiêng liêng thế, nhân
phẩm thế - làm sao bạn có thể dùng một người được? Vâng,
người đó có thể cho tình yêu của mình, nhưng bạn không thể
dùng được. Và bạn phải biết ơn. Bạn đã bao giờ cám ơn vợ
mình chưa? Bạn đã bao giờ cám ơn bố bạn, mẹ bạn chưa?
Bạn đã bao giờ cám ơn bạn bè mình chưa? Đôi khi bạn cám
ơn người lạ nhưng chẳng bao giờ cám ơn những người của
riêng mình, bởi vì bạn coi họ như có sẵn.
Sống với đồ vật là sống trong luân hồi.
Sống với người là sống trong niết bàn. 

Và một khi bạn bắt đầu sống với người, mọi đồ vật biến
mất. Thông thường ngay cả người cũng bị thu về đồ vật, còn
khi người bắt đầu trở nên thiền thì ngay cả đồ vật cũng bắt
đầu trở thành người; ngay cả cây cối cũng trở thành người,
tảng đá cũng trở thành người. Mọi thứ dần dần bắt đầu có
nhân tính, bởi vì Thượng đế lan toả khắp mọi sự tồn tại.
Saraha nói: Tâu bệ hạ, bệ hạ đã sống trong luân hồi và bệ
hạ không thể hiểu được con đường của niết bàn. Nếu bệ hạ
thực sự muốn hiểu nó, bệ hạ sẽ phải sống nó, không có cách
khác. Để biết, bệ hạ sẽ phải nếm trải cái gì đó của nó. Và ta ở
đây, đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu giải thích!
Niết bàn đang đứng trước bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu các
lí thuyết. Không chỉ điều đó - bệ hạ phải hoàn toàn mù quáng
- bệ hạ đã tới để thuyết phục ta quay lại với luân hồi của bệ
hạ! Ruồi đang thuyết phục ta rời bỏ rừng đàn hương cùng
hương thơm của nó để lấy mùi ôi thiu của thịt.
"Bệ hạ có điên không đấy?" Saraha nói với nhà vua. "Để
ta thuyết phục bệ hạ tới thế giới của ta thay vì bệ hạ thuyết
phục ta tới thế giới của bệ hạ. Ta đã biết thế giới của bệ hạ
và ta đã biết thực tại mới này nữa; ta có thể so sánh được. Bệ
hạ chỉ biết mỗi thế giới của mình; bệ hạ không biết thực tại
của ta, bệ hạ không thể so sánh được."
Khi vị phật nói thế giới này là ảo tưởng, thiền về điều đó,
bởi vì ông ấy đã biết thế giới này nữa. Khi người vô thần nào
đó, người duy vật, người cộng sản nào đó nói rằng thế giới
của niết bàn chỉ là ảo tưởng, không cần phải bận bâm về điều
đó chút nào, bởi vì người đó vẫn còn chưa biết nó. Người đó
chỉ biết thế giới này; bạn không thể tin cậy vào câu trả lời
của người đó về thế giới khác được. Người đó chưa bao giờ
thiền, người đó chưa bao giờ đi vào trong nó.
Nhìn vào nó đi: nhìn vào tất cả những người đã thiền,
không nhìn vào chỉ một người đã chối bỏ thực tại bên trong.
Không vào chỉ một người! Không một ngoại lệ nào, tất cả
các thiền nhân đều đã trở thành nhà huyền môn. Những
người còn chưa thiền, họ chỉ biết tới thế giới của ruồi và thế
giới của mùi hôi hám và hôi thối của thịt ôi. Họ sống trong
thế giới mục nát của đồ vật, nhưng họ chỉ biết điều đó, và
chắc chắn phát biểu của họ không thể nào tin cậy được. Một
Phật có thể được tin cậy, một Christ có thể được tin cậy, một
Mahavira có thể được tin cậy; họ đã biết cả hai. Họ đã biết
cái thấp hơn và cái cao hơn, và bởi việc biết cái cao hơn mà
họ nói điều gì đó về cái thấp hơn phải được thiền. Bạn đừng
bác bỏ thẳng thừng.
Chẳng hạn: Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, họ chưa
bao giờ thiền cả, và họ nói không có Thượng đế. Bây giờ
điều đó cũng gần như là một người chưa bao giờ tới phòng
thí nghiệm của nhà khoa học và nói điều gì đó về khoa học.
Một người chưa bao giờ đi vào phòng thí nghiệm và nói rằng
lí thuyết tương đối chỉ là vật thờ mù quáng, điều đó không
thể tin được. Bạn phải tới phòng thí nghiệm, bạn phải đi vào
trong toán học cao cấp, bạn phải chứng minh nó! Chỉ bởi vì
bạn không thể hiểu nó nên bạn không thể được phép chối bỏ
nó.
Có rất ít người hiểu lí thuyết tương đối. Người ta nói
rằng khi Einstein còn sống chỉ có mười hai người đang sống
hiểu lí thuyết của ông ấy, trên khắp thế giới. Và có vài người
nghĩ rằng đấy là điều phóng đại, số đó là không đúng: thậm
chí mười hai người cũng không có đó để mà hiểu đúng lí
thuyết của ông ấy. Nhưng bởi vì điều đó bạn không thể nói
nó là không đúng; bạn không thể bỏ phiếu về nó, bạn không
thể làm thất bại nó qua bầu cử. Bạn sẽ phải đi qua cùng
những quá trình đó.

Bây giờ Marx nói không có Thượng đế chỉ đơn giản là
một phát biểu ngu xuẩn... Chưa bao giờ thiền, chưa bao giờ
suy tư, chưa bao giờ cầu nguyện - phát biểu của ông ấy
chẳng liên can gì. Những người đã thiền, những người đã
đào sâu chút ít vào trong bản thể mình, họ đều đi tới cùng
chân lí.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Saraha đang nói: Bệ hạ vứt bỏ niết bàn và bệ hạ cứ chạy
xô theo ảo tưởng. Bệ hạ đã tới thuyết phục ta, thưa bệ hạ?
Xin nhìn ta đây, ta cực lạc làm sao! Nhìn ta đây; ta không
phải là cùng con người đã rời bỏ triều đình của bệ hạ, ta là
một người hoàn toàn khác.
Anh ta đang cố gắng đưa nhận biết của nhà vua về
khoảnh khắc hiện tại, và anh ta đã thành công. Anh ta phải
đã là một con người của sự hiện diện vĩ đại. Anh ta kéo nhà
vua ra khỏi thế giới của ruồi nhặng, ra khỏi thế giới của thịt
ôi. Anh ta kéo nhà vua tới thế giới của gỗ đàn hương và
hương thơm của nó.
Lời kinh thứ hai:
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Anh ta nói: Nhìn đây! Một con bò đã bước qua, và còn
dấu chân trên đất, và dấu chân này ngập đầy nước, nước
mưa. Nó sẽ có đó bao lâu? Chẳng chóng thì chầy nước sẽ
bay hơi, và dấu chân bò đầy nước sẽ không còn đó chút nào
nữa. Nhưng đại dương bao giờ cũng hiện hữu. Mặc dầu nước
trong dấu chân bò cũng là từ đại dương, cái gì đó vẫn khác.
Đại dương bao giờ cũng còn lại, không hề tăng, không
hề giảm. Những đám mây lớn nảy sinh ra từ nó, nó chưa bao
giờ giảm. Những dòng sông lớn đổ nước vào nó, nó chưa
bao giờ tăng. Nó bao giờ cũng còn như cũ. Nhưng dấu chân
nhỏ này của con bò thì đầy nước bây giờ đấy; trong vài giờ
hay vài ngày nó sẽ biến mất, nó sẽ khô đi. Bộ óc của tâm trí
con người cũng vậy: nó chỉ là một dấu chân bò, một thứ nhỏ
bé thế. Chỉ chút ít nước có đó - đừng tin cậy vào nó nhiều, nó
đang khô di rồi, nó sẽ biến mất. Bộ óc là thứ rất nhỏ bé...
đừng nghĩ rằng bạn có thể chứa vũ trụ này trong bộ óc. Và
nó chỉ có thể là tạm thời, nó chẳng thể nào là vĩnh hằng
được.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Bạn đang giữ cái gì trong bộ óc nhỏ bé của mình? Nội
dung của nó là gì? Ham muốn, mơ mộng, tham vọng, ý nghĩ,
tưởng tượng, ý chí, xúc động - đây là những vật bạn đang giữ
như nội dung. Chúng tất cả sẽ khô đi, mọi nội dung sẽ khô
đi. Cho nên thay đổi nhấn mạnh từ những nội dung đó và
đừng nhìn vào nội dung đó. Bầu trời đầy mây, đừng nhìn vào
mây, nhìn vào bầu trời. Đừng nhìn vào cái có trong đầu bạn,
cái có trong tâm trí bạn; chỉ nhìn vào tâm thức bạn. Xúc
động có đó, giận dữ có đó, tình yêu có đó, tham lam có đó,
sợ có đó, ghen có đó - đây là nội dung. Chỉ ngay sau chúng
là bầu trời vô hạn của tâm thức. 

Người sống qua nội dung thì sống cuộc sống của cái
máy. Còn người bắt đầu thay đổi nhấn mạnh của mình từ nội
dung sang bình chứa thì bắt đầu sống cuộc sống của nhận
biết, của phật tính.
Và Saraha nói: Tâu bệ hạ, những nội dung này mà bệ hạ
có trong tâm trí sẽ sớm khô di. Bệ hạ nhìn vào dấu chân bò
kia! Đầu bệ hạ không lớn hơn cái đó, bộ óc không lớn hơn
cái đó. Nhưng tâm thức bệ hạ là vô hạn.
Bây giờ điều này phải được hiểu: xúc động là trong đầu
bạn, nhưng tâm thức không trong đầu bạn. Trong thực tế đầu
bạn là trong tâm thức bạn! Tâm thức là bao la, vô hạn. Xúc
động, ham muốn, tham vọng là trong đầu bạn; chúng sẽ khô
đi. Nhưng ngay cả khi đầu bạn đã hoàn toàn bị vứt bỏ và
biến mất vào trong đất, tâm thức bạn sẽ không biến mất. Bạn
không chứa tâm thức trong mình; tâm thức chứa bạn, nó lớn
hơn bạn.
Có những người hỏi... đôi khi ai đó tới tôi và hỏi: "Linh
hồn ở đâu trong thân thể con người? Trong tim? trong rốn?
Trong đầu? Linh hồn ở đâu?" Họ nghĩ họ đang hỏi một câu
hỏi rất thích đáng. Nó chẳng ở đâu trong thân thể cả: thân thể
bạn là ở trong linh hồn. Linh hồn là hiện tượng lớn hơn thân
thể bạn, linh hồn bao quanh bạn.
Và linh hồn bạn và linh hồn tôi là không khác nhau!
Chúng ta sống trong sự tồn tại, chúng ta sống trong một đại
dương linh hồn. Một linh hồn bao quanh chúng ta, bên trong
và bên ngoài. Nó tất cả là một năng lượng; tôi không có linh
hồn khác và bạn không có linh hồn khác. Chúng ta có các
thân thể khác nhau. Điều đó gần giống như điện chạy trong
bóng đèn và chạy trong radio và chạy trong ti vi và làm quạt
quay, và làm cả nghìn lẻ một thứ. Quạt là khác với bóng đèn,
nhưng điện làm chúng chạy là như nhau.
Chúng ta là một năng lượng. Cách diễn đạt của chúng ta
là khác nhau, nhưng thực tại của chúng ta là một. Nếu bạn
nhìn vào nội dung, nếu tôi nhìn vào nội dung, thế thì giấc mơ
của tôi chắc chắn là khác với giấc mơ của bạn. Chúng ta
không thể có chung giấc mơ. Tôi có tham vọng của tôi, bạn
có tham vọng của bạn. Và không chỉ chúng ta không thể có
chung giấc mơ: giấc mơ của chúng ta còn xung đột nhau.
Tham vọng của tôi là ngược lại tham vọng của bạn; tham
vọng của bạn chống lại tham vọng của tôi. Nhưng nếu chúng
ta quên đi nội dung và chỉ nhìn vào tâm thức, tâm thức thuần
khiết, bầu trời không mây, thế thì 'bạn' ở đâu và 'tôi' ở đâu?
Chúng ta là một.
Trong khoảnh khắc đó có sự thống nhất. Và trong
khoảnh khắc đó có tâm thức vũ trụ.
Mọi tâm thức đều là vũ trụ. Vô thức là riêng tư, tâm thức
là vũ trụ. Cái ngày bạn thực sự trở thành một con người, bạn
là con người vũ trụ. Đó là ý nghĩa của 'christ': con người vũ
trụ, con của Thượng đế. Đó là ý nghĩa của 'phật': con người
vũ trụ đi tới nhận biết toàn bộ và tuyệt đối.
Con người như cái máy lại khác... điều này cần được
hiểu. Nếu bạn có vấn đề ở thận, tôi không có; nếu tôi bị đau
đầu, bạn không đau đầu; cho dù bạn yêu tôi thì bạn cũng
không thể chia sẻ đau đầu được. Cho dù tôi yêu bạn nhưng
tôi vẫn không thể có cái đau của bạn được. Nhưng nếu hai
chúng ta ngồi cùng nhau và thiền và một khoảnh khắc tới khi
tôi không có nội dung trong tâm trí mình và bạn cũng không
có nội dung nào trong tâm trí bạn, chúng ta sẽ không là hai.
Các thiền nhân bắt đầu như sự tách biệt, nhưng cuối cùng
như một.
Nếu các bạn tất cả ngồi trong thiền ở đây, lắng nghe tôi,
thế thì các bạn không là nhiều, thế thì các bạn là một. Thế thì các bạn không chỉ là một: người nói và người nghe không
tách biệt, thế thì chúng ta được bắc cầu với nhau. Hai mươi
thiền nhân trong một phòng thiền, khi họ đi tới việc thiền
thực, không còn là hai mươi nữa: chỉ có một phẩm chất thiền
trong phòng.
Có một câu chuyện...
Vài người tới gặp Phật. Ananda đang ngồi canh ở ngoài
phòng, nhưng những người này lấy quá nhiều thời gian đến
mức Ananda trở nên lo nghĩ. Nhiều lần ông ấy nhìn vào,
nhưng họ vẫn tiếp tục và cứ tiếp tục, tiếp tục... Thế rồi ông
ấy đi vào trong phòng để xem điều gì xảy ra. Và tại đó ông
ấy chẳng thấy ai cả, chỉ Phật ngồi. Cho nên ông ấy hỏi Phật,
"Những anh chàng kia đi đâu cả rồi?" Và không có cửa
khác... mà tôi lại đang ngồi ngay cái cửa duy nhất, cho nên
họ đã đi đâu rồi?"
Và Phật nói, "Họ đang thiền."
Đấy là một câu chuyện hay. Tất cả họ đều rơi vào trong
thiền, còn Ananda đã không thể nào thấy được họ bởi vì ông
ấy vẫn không phải là thiền nhân. Ông ấy không thể nào thấy
được hiện tượng mới này, sự dịch chuyển hoàn toàn của
năng lượng. Họ đã không có đó, bởi vì họ đã không như thân
thể họ ở đó, họ đã không như tâm trí họ ở đó. Những bản ngã
này đã tan biến. Ananda chỉ có thể thấy điều ông ấy có thể
thấy. Một thực tại đã xảy ra.
Một vị vua lớn có lần tới gặp Phật. Tể tướng của ông ấy
khuyên ông ấy tới, nhưng ông ấy là con người rất đa nghi,
như các chính khách và vua thì thường vậy, rất đa nghi. Ông
ấy đã không muốn tới ngay chỗ đầu tiên... Chỉ bởi lí do
chính trị mà ông ấy tới để gặp Phật bởi vì trong thủ đô tin
đồn đang lan truyền rằng ông ấy chống lại Phật; còn mọi
người lại ủng hộ Phật, cho nên ông ấy trở nên sợ hãi, điều đó
không ngoại giao. Cho nên ông ấy tới cùng tể tướng của
mình.
Khi ông ấy tới khu rừng nhỏ nơi Phật đang ngồi cùng với
mười nghìn sư của mình, ông ấy bắt đầu trở nên rất sợ hãi.
Ông ấy tuốt kiếm ra và ông ấy nói với tể tướng, "Có chuyện
gì vậy? - bởi vì khanh nói mười nghìn người đang ở đó, và
chúng ta tới gần thế mà chẳng có tiếng động nào cả! Liệu có
mưu đồ gì không?"
Tể tướng cười và nói, "Bệ hạ không biết người của Phật.
Cất kiếm đi! Bệ hạ cứ tới đi - không có mưu đồ hay cái gì cả.
Bệ hạ không cần phải sợ, họ không định giết bệ hạ. Bệ hạ
không biết người của Phật."
Nhưng rất đa nghi, vẫn lăm lăm cây kiếm trong tay, nhà
vua đi vào trong khu rừng. Ông ta sửng sốt. Ông ta không
thể nào tin được có mười nghìn người đang ngồi dưới gốc
cây một cách im lặng, dường như không có ai cả. Ông ta hỏi
Phật, "Đây là phép màu! - mười nghìn người... ngay cả mười
người cùng nhau cũng tạo ra nhiều ồn ào thế! Những người
này làm gì vậy? Điều gì đã xảy ra cho những người này, cái
gì đã đi sai sao? Họ vẫn còn sống chứ? - họ trông như tượng
cả! Và họ đang ngồi đây làm gì vậy? Họ phải làm cái gì
chứ!"
Còn Phật nói, "Họ đang làm cái gì đó, nhưng điều đó
chẳng liên quan gì tới bên ngoài cả. Họ đang làm điều gì đó
trong thế giới bên trong của mình. Họ không trong thân thể
mình, họ trong bản thể mình, tại chính cốt lõi. Và đây không
phải là mười nghìn người ngay lúc này, họ tất cả đều là một
phần của một tâm thức." 

Lời kinh thứ ba:
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Thái độ Mật tông cơ bản là: Bản năng dục có thể được
biến đổi thành cái siêu phàm, vật chất có thể được biến đổi
thành tâm trí, vô thức có thể được biến đổi thành tâm thức.
Vật lí hiện đại nói vật chất có thể được biến đổi thành
năng lượng, năng lượng có thể được biến đổi thành vật chất.
Trong thực tế chúng không phải là hai mà là cùng một năng
lượng vận hành như hai dạng. Mật tông nói dục có thể được
biến đổi thành samadhi - cùng cách tiếp cận ấy, rất cơ bản và
cơ sở. Cái thấp hơn có thể được biến đổi thành cái cao hơn,
bởi vì cái thấp hơn và cao hơn được nối với nhau; nó là chiếc
thang. Chúng không bao giờ tách rời, không ở đâu tách rời,
không có lỗ hổng giữa chúng. Bạn có thể đi từ thấp lên cao,
bạn có thể đi từ cao xuống thấp.
Và cái thang đó là điều con người là gì. Con người có thể
tồn tại ở bậc thang thấp nhất; đó là quyết định của người đó.
Con người có thể đi lên, người đó có thể tồn tại ở bậc thang
cao nhất. Người đó có thể tồn tại như con vật hoặc người đó
có thể tồn tại như vị phật: cả hai đều là các bậc thang của
người đó, bậc thấp nhất và cao nhất. Và con người là chiếc
thang: người đó có thể rơi vào trong vô thức sâu và trở thành
tảng đá, và người đó có thể vươn lên tâm thức tuyệt đối, và
có thể trở thành thượng đế. Nhưng chúng không tách biệt, đó
là cái đẹp của Mật tông.
Mật tông không mang tính phân chia, Mật tông là tôn
giáo duy nhất không tinh thần phân liệt. Mật tông là tôn giáo
duy nhất thực sự lành mạnh, tôn giáo lành mạnh nhất, bởi vì
nó không phân chia. Nếu bạn phân chia, bạn tạo ra chia chẻ.
Nếu bạn bảo mọi người rằng thân thể là xấu, rằng thân thể là
kẻ thù, rằng thân thể phải bị lên án, rằng thân thể đang phục
vụ quỉ, thế thì bạn đang tạo ra chia chẻ trong con người, thế
thì con người trở nên sợ thân thể. Và thế thì dần dần sẽ tạo ra
cái hố sâu không thể bắc cầu qua được và con người bị kéo
vào hai phần, con người bị giằng xé theo hai hướng đối lập.
Thân thể kéo thân thể thành hai, tâm trí cố gắng kéo tâm trí
thành hai; có xung đột và lẫn lộn.
Mật tông nói bạn là một, không cần phải có bất kì lẫn lộn
gì. Bạn có thể được hợp nhất lại trong một thực tại. Không
cần phải có bất kì xung đột nào, không cần phải bị xé ra,
không cần phải mất trí. Bạn có thể yêu tất cả những cái đang
có sẵn, và bạn có thể làm tiến hoá nó - với tình yêu sâu sắc,
sự chăm nom, tính sáng tạo, nó có thể được tiến hoá. Thân
thể không phải là kẻ thù của linh hồn bạn, thân thể chỉ là bao
gươm của thanh gươm của bạn. Thân thể chỉ là ngôi đền, nó
là chỗ trú ngụ của bạn. Nó không phải là kẻ thù, nó là bạn
của bạn.
Mật tông vứt bỏ mọi loại bạo hành, không chỉ bạo hành
với người khác mà bạo hành với chính mình. Mật tông nói:
Yêu thực tại trong tính toàn bộ của nó. Vâng, nhiều điều có
thể được tiến hoá, nhưng mọi tiến hoá đều là thông qua tình
yêu. Và không cần đánh nhau.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên… 

Bạn không thể uống nước biển mặn đựơc, nó mặn thế;
nó toàn là muối. Bạn sẽ chết nếu bạn uống nước biển. Nhưng
khi một đám mây tới và rút nước từ biển, nó biến thành ngọt,
và thế thì bạn có thể uống được nó.
Saraha nói: Samadhi giống như đám mây, năng lượng
thiền giống như đám mây, cái biến bản năng dục của bạn
thành những thực tại cao hơn, cái biến sự tồn tại vật lí của
bạn thành sự tôn tại phi vật lí, cái biến vị mặn chát, kinh
nghiệm đắng cay về thế giới thành đường ngọt, kinh nghiệm
tựa nước cam lồ về niết bàn. Bản thân luân hồi trở thành niết
bàn nếu bạn có thể tạo ra đám mây làm biến đổi nó. Đám
mây đó Phật thực tế đã gọi là dharmamegha samadhi,
samadhi của đám mây của luật nền tảng – dharmamegha
samadhi.
Bạn có thể tạo ra được đám mây đó. Đám mây đó được
tạo ra bằng thiền. Bạn thiền mãnh liệt, vứt bỏ các ý nghĩ, vứt
bỏ các ham muốn, tham vọng… dần dần tâm thức bạn là
ngọn lửa bùng cháy - đám mây đó có đó. Bây giờ bạn có thể
biến đổi bất kì cái gì qua ngọn lửa đó; ngọn lửa đó làm
chuyển hoá, ngọn lửa đó là giả kim thuật. Qua thiền cái thấp
hơn trở thành cái cao hơn, sắt cơ sở hơn biến thành vàng.
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc,
làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Hai điều: thứ nhất, người ta phải tạo ra đám mây thiền
trong bản thể của mình; và điều thứ hai là từ bi - người làm
việc vì người khác. Phật nhấn mạnh vào hai điều: thiền và từ
bi, pragyan và karuna. Ông ấy nói rằng đôi khi chuyện xảy
ra là một thiền nhân có thể trở thành ích kỉ quá nhiều; thế
nữa điều gì đó sẽ thành chua ra. Thiền, vui sướng, nhưng
chia sẻ vui sướng đó, chia sẻ nó đi. Đừng tích trữ nó, bởi vì
một khi bạn bắt đầu tích trữ, bản ngã bắt đầu nảy sinh. Đừng
bao giờ tích trữ cái gì. Khoảnh khắc bạn được nó, đem cho
nó đi, và bạn sẽ được ngày càng nhiều hơn. Bạn càng cho đi
nhiều, bạn lại càng nhận được nhiều. Thế thì mọi thứ trở
thành cam lồ. Mọi thứ là cam lồ; chúng ta chỉ phải biết cách
biến đổi nó, chúng ta phải biết thuật giả kim.
Câu kinh cuối:
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Không thể tả được... Saraha nói: Đừng hỏi ta nó là gì -
điều đó là không thể tả được, điều đó không thể nói ra được.
Điều đó không thể được diễn tả, không ngôn ngữ nào hiện có
mà có thể diễn tả được nó. Nhưng nó có thể được kinh
nghiệm. Nhìn mãn nguyện của ta đây! Nhìn xem ta đã trở
nên được thoả mãn thế nào! Bệ hạ đã biết ta từ trước nữa, ta
đã bất an làm sao, không thoả mãn với mọi thứ làm sao. Và
tất cả đều có sẵn; ta là ái khanh của bệ hạ, tất cả mọi thứ đều
sẵn cho ta, vậy mà ta vẫn không thoả mãn. Bây giờ, bệ hạ
nhìn xem! Ta đang đứng trong bãi hoả thiêu, thậm chí không
có một mái lều trên đầu! Và ta không sống với vua và hoàng
hậu, ta đang sống với người đàn bà rèn tên này. Nhưng nhìn vào mắt ta… ta mãn nguyện làm sao. Bệ hạ không thể thấy
được cái gì đó không diễn tả nổi đã xảy ra đó sao? Bệ hạ
không thể cảm thấy rung động của ta sao? Bệ hạ đờ đẫn và
chết đến mức bệ hạ phải cần lời giải thích sao?
Nếu mà không thể tả được, chẳng bao giờ người ta lại
không được thoả mãn cả...
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Đó là tiêu chuẩn duy nhất cho liệu một người đã đạt tới
chân lí hay chưa: người đó sẽ không bao giờ không thoả
mãn, mãn nguyện của người đó là tuyệt đối. Bạn không thể
lôi người đó ra khỏi mãn nguyện của mình được, bạn không
thể làm cho người đó không bằng lòng; bất kì điều gì xảy ra,
người đó vẫn vậy, hài lòng. Thành công hay thất bại, sống
hay chết, bạn hay không bạn, người yêu hay không người
yêu, không có khác biệt. Yên bình của người đó, tĩnh lặng
của người đó là hoàn toàn tuyệt đối. Người đó được định
tâm… Nếu không thể nói ra được, đừng bao giờ là người
không thoả mãn.
Nếu điều không thể nào được nói ra lại xảy ra, thế thì chỉ
có một cách để biết nó, và cách đó là thấy mãn nguyện.
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Và ta biết, anh ta nói: Bệ hạ không thể hình dung ra được
điều đã xảy ra cho ta. Làm sao bệ hạ có thể hình dung ra
được? Bởi vì bệ hạ chưa từng biết tới điều đó. Tưởng tượng
bao giờ cũng lặp lại cùng điều bệ hạ đã biết.
Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc; bạn đã biết từng chút
và từng mẩu của nó. Bạn có thể tưởng tượng bất hạnh; bạn
đã biết nó, nhiều về nó. Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc
cho dù bạn đang không biết hạnh phúc. Bạn có thể tưởng
tượng nó như cái ngược lại với bất hạnh. Nhưng làm sao bạn
có thể tưởng tượng được phúc lạc? Bạn không biết nó. Và
chẳng có gì mâu thuẫn nó cả, nó là không nhị nguyên. Điều
đó là không thể tưởng tượng nổi.
Cho nên Saraha nói: Ta có thể hiểu được... bệ hạ không
thể tưởng tượng ra điều đó được, nhưng ta không nói tưởng
tượng nó. Nhìn đây! Nó đang hiện diện ở đây và bây giờ. Và
nếu bệ hạ không thể tưởng tượng ra nó, điều đó nữa cũng là
một trong những tiêu chuẩn của chân lí: chân lí không thể
nào được tưởng tượng ra. Nó có thể được thấy, nhưng không
được tưởng tượng. Bệ hạ có thể có linh ảnh về nó, nhưng bệ
hạ không thể mơ về nó được. Và đó là khác biệt giữa giấc
mơ và linh ảnh.
Giấc mơ là của bạn. Linh ảnh không phải là của bạn.
Christ thấy Thượng đế, và kinh sách nói ông ấy thấy linh
ảnh. Bây giờ nhà phân tâm sẽ nói đấy chỉ là giấc mơ; ông ấy
không biết khác biệt giữa giấc mơ và linh ảnh. Giấc mơ là
của bạn: bạn đã tưởng tượng, bạn đã tạo ra nó, nó bao giờ
cũng là phóng tác của bạn. Linh ảnh là cái gì đó xuất phát từ
trời xanh mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới, thậm chí bạn cũng
chưa bao giờ nghĩ tới một phần của nó. Nó hoàn toàn mới
thế… thế thì nó là linh ảnh. Nếu không thể nào tưởng tượng
ra nổi, nó phải là bản thân phúc lạc...
Nhìn vào tôi - bạn không thể hình dung ra được điều đã
xảy ra. Bạn không thể thấy được nó sao? Bạn có mắt để thấy
- nhìn, quan sát, cầm tay tôi! Lại gần tôi hơn, mong manh
với tôi, để cho rung động của tôi có thể làm rung động bản thể bạn, và điều không thể tưởng tượng nổi và không thể nói
được có thể được kinh nghiệm.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ…
Và Saraha nói: Ta biết.... Anh ta phải đã thấy nhà vua có
chút ít sợ hãi. Tôi thấy điều đó hàng ngày. Mọi người tới tôi
và tôi thấy họ run rẩy, sợ hãi, hoảng hốt, kinh hoàng, và họ
nói, "Chúng tôi sợ lắm, Osho." Tôi biết! Saraha phải đã thấy
nhà vua đang run rẩy sâu bên trong… có thể không ở bên
ngoài. Ông ta là một vị vua lớn, ông ta phải là người rất kỉ
luật, ông ta phải đã đứng thẳng - nhưng sâu bên dưới ông ta
phải đã sợ hãi.
Điều đó bao giờ cũng xảy ra khi bạn ở gần một người
như Saraha, hay người như Phật, bạn nhất định sợ. Mới đêm
hôm nọ một thanh niên tới và anh ta nói, "Nhưng sao tôi sợ
thầy? Thầy đã chẳng làm điều gì sai với tôi cả - sao tôi sợ
thầy? Chắc chắn tôi yêu thầy, nhưng sao tôi lại sợ thầy?"
Điều đó là tự nhiên. Khi bạn tới gần vực thẳm, bạn trông
đợi điều gì? - bạn sẽ sợ. Có mọi khả năng bạn có thể rơi vào
trong nó và sẽ không thể nào khôi phục lại mình nữa; điều đó
sẽ là không thể khôi phục lại được, không thể phục hồi được.
Bạn sẽ mất đi hoàn toàn, toàn bộ vào trong nó. Bạn sẽ không
có khả năng kéo lại. Sợ là tự nhiên.
Saraha nói: Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm
nổ… Anh ta nói: ta giống như đám mây và bệ hạ sợ hãi bởi
vì tiếng sấm, vì sét. Nhưng nhớ lấy. Mùa màng chín rộ khi từ
đám mây đó đổ mưa xuống. Nếu bệ hạ cho phép ta mưa lên
bệ hạ, hạt mầm sẽ mọc, tâu bệ hạ, và con người vẫn ẩn kín
đằng sau bệ hạ, vẫn còn chưa được sinh ra, sẽ được sinh ra.
Bệ hạ sẽ có khả năng chín, chín muồi, bệ hạ sẽ có khả năng
nở hoa. Ta mời bệ hạ, Saraha nói, với một mùa màng bội
thu… mùa màng của tâm thức, mùa màng của nhận biết.

HÃY TÌM LẠI CHÍNH MÌNH BẰNG SỰ THỨC TÌNH MỤC ĐÍCH SỐNG

Nhân loại đã thực sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức , một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ , so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây , dù cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là sự phản ánh nhạt nhòa ? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ và trở nên giống như những tinh thể pha lê trong suốt để ánh sang nhận thức xuyên qua dễ dàng ?

Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất , thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng ?

Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người .Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật , chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại . Họ là những vị Thầy tiên phong , rất hiếm hoi và quý giá vô cùng . Tuy vậy , một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời điểm đó được , nên thông điệp của họ bị bóp méo đi rất nhiều . Ngoại trừ ở một số ít người , tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều

Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa ? tại sao lúc này mới thật là thời cơ ? Ban có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này ? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trổi dậy ?

Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập trong cuốn sách này . Quan trọng hơn , quyển sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa , xuất phát từ một nhận thức mới đầy tính nổi dậy . Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng , nhưng đó cũng là thứ yếu . Chính những tấm bảng chỉ đường giúp bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái thức tỉnh . Trong lúc đọc quyển sách này , một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn

Mục đích chính của quyển sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn , hay cố thuyết phục bạn về một điều gì đó , mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức , tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu

Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách này là “thú vị” . Vì “thú vị” có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài , tìm vui với những ý nghĩ , và khái niệm ở trong đầu bạn để tu duy rằng mình đồng ý hay không đồng ý với cuốn sách .

Vì cuốn sách này được viết cho bạn , do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn , hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn . Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sang để tỉnh thức

Tuy nhiên khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể , giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác . Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức nghĩa là gì , thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều vể nghĩa của từ ấy , hãy cứ tiếp tục đọc và trong bạn có sự tỉnh thức , thì bạn sẽ hiểu “ tỉnh thức “ có nghĩa là gì

Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại ; và để cho quá trình này được bắt đầu ,bạn chỉ cần trải qua trạng thái thức tỉnh – dù chỉ tong môt thoáng chốc

Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái thức tỉnh đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này . Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi , nhưng bây giờ họ mới nhận ra .

Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn

Trong khi ở những người khác , là khi họ tiếp xúc với những bậc Thầy hay những giáo lý về tâm linh , hay do đọc cuốn “ Sức mạnh của Hiện tại “ hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác . Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy . Tuy nhiên , một khi sự thức tỉnh đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức

Điều căn bản nhất của quá trình thức tỉnh là :

Nhận ra sự mê mờ đang tồn tại trong bạn

Nhận diện bản ngã của bạn khi nó đang nói , đang nghĩ , đang làm một việc nào đó

Nhận ra thói quen suy nghĩ đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống , kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh

Đó là lý do tôi viết quyển sách này : để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể . Điều này có ý nghĩa quan trọng , vì hai lý do chính .

Trước hết , nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã , bạn sẽ không nhận diện được nó , và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng hóa mình với bản ngã , tức là vô tình bạn để cho bản ngã chứ ngự lấy bạn , mạo danh là bạn

Thứ hai , tự than việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được diễn ra . Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình , thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể diễn ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy , đó cũng chính là tỉnh thức .

như ta không thể đấu tranh lại bong tối , hay chống đối lại sự mê mờ . Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này

Và bạn chính là Ánh sang đó

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ Blog